Khi nói Huế rặt, tôi muốn kể chuyện chỉ có Huế mới có, không lẫn vào
đâu được...
(Tác giả Võ Hương An) |
-
Ui chao! Nước chè chi của mệ vừa nguội ngắt
vừa trong như nước đái bà chúa, ri .
Bà tôi trả lời:
-
Cái con ni ăn nói vô duyên ỏm. Dễ chi có nước
đái bà chúa cho mi uống. Sáng ni mụ Lời bán trầu chè chưa đi ngang đây thì lấy
mô ra chè tươi để nấu, mà chê nguội với nóng.
Ngoài Huế ra, có lẽ không có một địa phương nào khác có lối diễn tả
độc đáo
và buồn cười như vậy. Vừa thanh vừa tục. Bình dân và quí tộc có mặt đề huề. Để
chỉ độ loãng tối đa của một nồi chè tươi hay một ấm trà đến lúc không còn nhận
ra màu sắc hay hương vị thường có của nó nữa, người ta đã mượn đến cái trong
trẻo của nước đái bà công chúa cho dễ gây ấn tượng khi so sánh. Trong trí óc
chất phát của người bình dân xứ Huế thời xưa, thuở vàng son cung đình còn rực
rỡ, có lẽ cái gì thuộc về vua chúa cũng có phẩm chất tuyệt hảo. Thế nên đã là
công chúa lá ngọc cành vàng thì không những đương nhiên nàng phải có cái nhan
sắc tuyệt mỹ như tiên nga gíang thế, mà đến cái chất thải kia của nàng cũng
trong trẻo khác thường và không có cái mùi vị ô uế khó ngửi như của đám tiện
dân, nên rất đáng đem ra làm mẫu mực để so sánh ! Quả là một ý nghĩ ngộ nghĩnh
hiếm có và rất…tiếu lâm.
Ngựa Thượng Tứ
Giữa trưa, đang thiêm thiếp trên chiếc võng gai mắc dưới hai gốc vú sữa im
mát, tôi bỗng giật mình vì tiếng bà Cửu Thí cạnh nhà:
-
Lài ơi, Lài! Lài ơi, Lài!
Không có tiếng chị Lài trả lời.
-
Đứa mô chạy qua nhà bà Mới kêu con Lài về đây
tau biểu. Con ni ngày càng hư. Hở ra là chạy rong như ngựa Thượng Tứ,
không lo ở nhà trông coi nhà cửa chi hết. Không biết nhà bà Mới có làm chay hát
bội chi không mà trưa mô cũng qua tụ tập
Lại ngựa Thượng Tứ. Trong mười cửa ra vào Kinh thành Huế, có lẽ cửa Đông
Nam với cái tên thông tục Thượng Tứ là quen thuộc với mọi người hơn cả, kể cả
những người ngoại tỉnh đã có lần đến Huế. Người ta hầu như đã quên cái tên
chính thức Đông Nam
dù ba chữ Đông Nam Môn được khắc trên một cái bảng vôi lớn gắn trên vòm cửa vẫn
còn đó. Người ta chỉ biết có Thượng Tứ vì hồi xa xưa, khi triều Nguyễn còn làm
chủ đất nước, đã có một đơn vị kỵ binh tinh nhuệ, mang tên Thượng Tứ, đóng ngay
bên trong cửa. Có lẽ những con ngựa Thượng Tứ thường xuất hiện trước mắt người
dân qua những lần thao diễn, tập luyện hay tuần phòng với tiếng vó ngựa dập
dồn, tiếng hí dài náo động, những bóng ngựa thoáng hiện thoáng mất, rậm rật trên
đường, những mùa ngựa cái động đực bày ra những cảnh khó coi trên những
bãi cỏ ven đường v.v. đã gây ấn tượng về một cái gì thường xuyên động chuyển,
ồn ào, không chịu ở yên, có khi lộ liễu lăng loàn khó coi, không đáng có nơi
chỗ đông người v.v. Ấn tượng đó được liên hệ với trường hợp những cô gái thiếu
nết na dịu dàng, không thích không khí gia đình mà chỉ muốn rong chơi chòm xóm,
tụ tập, lân la. Tiến xa hơn nữa, đó là hình ảnh của những phụ nữ trắc nết, lăng
nhăng trong vấn đề quan hệ trai gái.
Con gái Huế mà bị xếp vào loại ngựa Thượng Tứ thì thiệt là hết mê...
Đưa con vô Nội
Trường đến chơi , hỏi mượn một cuốn sách hay mà tôi vừa kiếm được. Tôi bảo
đã cho Bình, bạn chung của hai đứa, mượn hôm kia rồi. Trường thở dài chép
miệng:
-
Mi đưa cho thằng nớ mượn cũng cầm bằng
như đưa con vô Nội. Chắc tau không có hy vọng chi đọc được.
Bình có tật chóng quên. Mượn cái gì của ai thường để lạc mất hoặc để lâu
ngày rồi quên trả, coi như của... mình. Bạn bè thường cho rằng đưa cho Bình
mượn cái gì có nghĩa là sẽ mất luôn, rất ít hy vọng vật hoàn cố chủ. Trường thở
dài là vì thế. Nhưng sao lại đưa con vô Nội?
Dưới ảnh hưởng của Nho giáo và trong chế độ quân chủ, việc trai năm thê bảy
thiếp là điều xã hội và luật pháp chấp nhận như một đặc quyền của nam giới. Đám
đàn ông dân dã mà còn được như thế, nói gì đến đấng quân vương. Cung A-Phòng
của vua Tần Thủy Hoàng đã nổi tiếng trong lịch sử, văn học và truyền thuyết với
số lượng cung nữ lên đến hàng nghìn. Các vua Nhà Nguyễn tuy không bằng các vua
Trung Quóc về số người đẹp trong hậu cung, nhưng vẫn có hàng chục bà phục vụ
bên mình, ngoài các bà vợ chính thức. Việc một người đẹp nào đó do một cơ may
hy hữu được lọt vào mắt xanh của vua để rồi một bước nhảy lên ngôi vị cao sang
mà cô gái nào cũng mơ ước – như trường hợp của bà Nguyên phi Ỷ-Lan, vợ vua Lý
Thánh Tông, vốn là một thôn nữ làng Thổ Lỗi tỉnh Bắc Ninh – là điều thường có
nhiều trong chuyện cổ tích hơn trong thực tế. Thực tế phũ phàng hơn nhiều. Vì
vậy , khi có lệnh truyền tuyển chọn các thiếu nữ xuân thì đẹp người đẹp nết để
đưa vào cung cấm, các bậc cha mẹ có con gái xinh đẹp trong lứa tuổi mười tám
đôi mươi phải một phen mất ăn mất ngủ. Có người sẽ hỏi: bộ có con gái được
tuyển làm cung phi không phải là một niềm hãnh diện, một diễm phúc hay sao mà
lại âu lo lắm chuyện?
Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều đã trả lời cho câu hỏi đó. May mắn
được nhà vua sủng ái và có một địa vị xứng đáng trong cung cấm để làm vẻ vang
cho cha mẹ, làng nước, là điều khó khăn cũng như trúng số độc đắc vậy.
Điều chắc chắn là một khi đã được đưa về kinh đô, nhập vào Đại Nội, thường
được gọi tắt là Nội, trong khu vực cung cấm thuộc Tử Cấm Thành, thì người con
gái vinh hạnh bất đắc dĩ đó cũng như Kinh Kha thuở nào bên sông Dịch chuẩn bị
sang đất Tần: tráng sĩ và giai nhân đều một đi không trở lại!
Dù cuộc sống về sau có thể huy hoàng hay chỉ âm thầm trong bóng tối cung
đình, số phận của người con gái tiến cung coi như đã chôn chặt sau mấy vòng
thành quách. Cha mẹ cầm bằng như đã mất con. Khi vua băng hà, thân phận của các
cung nữ hoàn toàn tùy thuộc vào lòng tốt của vua mới. Một số may mắn có thể
được trả về nguyên quán để làm lại cuộc đời. còn đa số được đưa đến sống tại
khu vực lăng tẩm của vị vua vừa qua đời để tiếp tục hầu hạ khói hương cho đến
khi chính họ được hương khói.
Đưa con vô Nội có nghĩa là sẽ mất con, chẳng khác gì vật sở hữu của
mình đưa cho người khác mượn rồi bị mất hẳn. Đúng là một lối ví von không giống
ai, một đặc sản của người dân sống gần gũi chốn cung đình.
Đẽ ông Bộ cho làng nhờ
Lại nhớ môt buổi trưa nọ, mẹ tôi đi chợ về, đang chuẩn bị bữa cơm trưa thì
tiếng bà Cửu hàng xóm đã hỏi vọng sang:
-
O (cô) đi chợ về rồi à? Răng đó? Con cá hanh
khi hồi ngon như rứa, mà cô có mua được không?
-
Không. Con mẹ đó nói thách thấu trời, ai mua
cho nổi. Họa là mua ăn để đẽ ông Bộ cho làng nhờ thì tui cũng mua
đó.
Với cái tuổi “Đệ Nhị chuyên khoa” hồi đó (lớp 11), tôi tạm hiểu rằng mẹ tôi
muốn nói đó là một cuộc đầu tư không đáng, nhưng tôi không thể hiểu ông Bộ là
ai mà làng lại có thể nhờ vã được. Tôi có hỏi nhưng mẹ tôi không cắt nghĩa được
ngọn ngành, chỉ nói vắn tắt rằng ông Bộ là ông Giám, lớn rồi biết.
Bên trong Kinh thành Huế có một khu vực rộng lớn thâm nghiêm, kín cổng cao
tường. Đó là Hoàng thành, tức Đại Nội, gọi tắt là Nội. Đại Nội có nhiều khu vực
khác nhau, trong đó quan yếu hơn cả là Tử Cấm thành. Đây chính là nơi các vua
Nhà Nguyễn điều khiển guồng máy cai trị từ ải Nam Quan ở cực Bắc cho đến mũi Cà
Mau ở cực Nam .
Đây cũng là nơi vua ăn ngủ, giải trí, sống đời sống gia đình, như mọi con người
khác. Tử Cấm thành có nhiều lâu đài, cung điện, mang nhiều tên gọi khác nhau,
là nơi vua và bầu đoàn thê tử cư trú. Do ảnh hưởng của sử Tàu, khi nói đến tam
cung lục viện người ta thường nghĩ rằng đó là chốn hậu cung của vua, bao gồm
các bà vợ chính thức và đám vợ lẽ nàng hầu , thường được gọi là cung phi mỹ nữ.
Điều này có thể đúng với Tàu và một số triều đại khác của Việt Nam, còn theo
chỗ chúng tôi biết, khi đề cập đến Nhà Nguyễn, nhất là từ đời Minh Mạng đến
Khải Định, mấy chữ tam cung lục viện nên được hiểu chính xác hơn một chút.
Vua làm việc tại điện Cần Chánh hay điện Văn Minh, và ăn ở tại điện
Càn Thành, còn chánh phi thì ở tại cung Khôn Thái. Các thứ phi thì ở điện Trinh
Minh, các cung tần thì chia nhau ở trong 6 viện (lục viện) là Thuận Huy, Đoan
Huy, Đoan Thuận, Đoan Hòa, Đoan Trang và Đoan Trường. Sát về phía Tây của Tử
Cấm thành có hai cung quan trọng khác dành cho các bậc bề trên của vua. Đó là
cung Diên Thọ, dành cho bà nội vua (Thái hoàng thái hậu) và cung Trường Sanh
dành cho mẹ vua (Thái hậu).
Vậy thì tam cung lục viện của Nhà Nguyễn bao gồm thế giới đàn bà sau lưng
vua, gồm cả thế hệ trên trước lẫn phi tần cung nữ. Thế giới này là cung cấm,
hiểu theo nghĩa đen, vì ngoài vua ra, cấm không có một bóng dáng đàn ông nào
được lai vãng. Để lửa gần rơm thế nào rồi cũng có ngày sinh chuyện, nên phải
nghiêm cấm như thế cho đúng phép tắc lễ nghi, và … an toàn! Tuy nhiên, cung cấm
cũng có lúc cần đến người có sức khỏe, cần người làm con thoi liên lạc giữa vua
và hậu cung, nghĩa là cần người có sức khỏe phục vụ mà vẫn bảo đảm đươc sự an
toàn như ý muốn của vua. Đó là các thái giám, thường được gọi là các ông giám.
Về mặt sinh lý, thái giám là người thuộc loại không rõ ràng về mặt
giới tính (á nam ái nữ) do bẩm sinh (ông bộ nắp), hoặc do người nam tự nguyện
hũy bộ phận sinh dục để được làm giám (giám thiến, giám lặt), suốt đời phục vụ
trong cung cấm, vừa có địa vị, bổng lộc, gần gũi vua chúa, lại khỏi nắng mưa
vất vả ngoài đời.
Ngay cả với phương tiện giải phẩu tiến bộ như ngày nay, vừa an toàn vừa
không đau đớn, liệu có đấng nam nhi nào dám hy sinh “của quí” để mưu cầu một
địa vị nào đó chăng? Thời xưa, có triều đại đã dùng biện pháp cắt bỏ bộ phận
sinh dục nam như một nhục hình dành cho trọng tội. Vậy nên số người vì miếng
cơm manh áo mà tự nguyện làm giám hẳn là rất hiếm hoi, trong khi đó nhu cầu
cung cấm đòi hỏi phải có đầy đủ nhân lực kế thừa liên tục. Thế nên chỉ còn
trông cậy vào hạng giám . . . trời cho (bẩm sinh).
Đã gọi rằng của trời cho thì hẳn không phải dễ kiếm. Vua biết rõ sự chênh
lệch về cung cầu này nên đã ban hành một qui chế đặc biệt cho giám bẩm sinh.
Theo đó, hễ làng xã nào trong nước có gia đình sinh con ái nam ái nữ thì phải
báo ngay lên huyện để huyện khám xét. Sau khi xác minh được tình trạng đặc biệt
của hài nhi, huyện sẽ theo hệ thống hành chánh để báo lên phủ, rồi lên tỉnh.
Tỉnh sẽ báo về Bộ Lễ, là cơ quan trung ương đặc trách về giáo dục và nghi lễ
của triều đình. Lý lịch đứa bé như thế đã được “đăng ký” và từ đó nhà nước sẽ
chu cấp để nuôi dưỡng.
Cha mẹ đứa bé, vì có công sinh con hữu ích cho vua, nên được miễn sưu dịch
và thuế đinh, lại còn được cấp công điền công thổ để cày cấy nuôi con. Làng sở
tại, nơi có đứa bé sinh ra, cũng được hưởng chút thơm lây, ấy là làng được miễn
sưu thuế trong một số năm nào đó, chưa kể có thể có những đặc ân bất thường
khác, tùy dịp và tùy lòng tốt của vua. Có đứa bé mang khuyết tật bẩm sinh nào
lại có thể mang vinh dự và lợi lộc về cho cha mẹ và làng nước như vậy chăng? Có
đứa bé nào mới sinh ra mà đã trờ thành người của vua như vậy chăng? Quả là hiếm
hoi quí báu!
Vậy thì để tỏ lòng biết ơn (người đã mang lại ân huệ) và kính trọng (người
của vua), làng không gọi đứa bé kia là thằng này thằng nọ nữa, mà gọi
là ông Bộ. Rõ ràng là đẻ ông Bộ thì làng được nhờ. Tôi chưa được xem tài
liệu hay nghe người nào khác giải thích về nguồn gốc và ý nghĩa của chữ “Bộ”
này. Thiết nghĩ đứa bé do Bộ Lễ quản lý, là người của Bộ, của vua, nên được gọi
là ông Bộ chăng?
Đến năm ông Bộ được 12 tuổi, Bộ Lễ yêu cầu tỉnh sở tại lập thủ tục đưa đứa
bé về Kinh. Cũng như số phận của người con gái vô Nội, ông Bộ cũng một đi không
trở lại. Cuộc chia tay này thường là một vĩnh biệt. Theo hệ thống giao thông
cung trạm, ông Bộ được hộ tống về Huế, trình diện Bộ Lễ. Tại đây, sau khi được
kiểm tra lần cuối về tình trạng giới tính (giám thật hay giám giả), nếu được
chấp thuận, đứa bé được chuyển vào cung cấm. Một thái giám giàu kinh nghiệm sẽ
được giao làm người đỡ đầu, có nhiệm vụ rèn cặp ông Bộ công việc sẽ
đảm đương, cùng những lễ nghi cung cách chốn cung đình để khi trưởng thành có
thể nối nghiệp đàn cha đàn anh.
Trong lịch sử Việt Nam ,
có lẽ thời vua Lê chúa Trịnh là thời hoàng kim của các thái giám. Sử cho biết
rằng quan chế thời ấy được tổ chức thành ba ban thay vì hai ban như các triều
đại khác. Đó là ban quan Văn, ban quan Võ và ban Thái giám. Thái giám thời ấy
được dự vào việc cai trị chứ không phải quanh quẩn trong cung cấm. Có nhiều
thái giám được phong tới tước Hầu và rất có thế lực trong triều đình .
Đời Nhà Nguyễn, thái giám có cuộc đời khiêm tốn hơn. Tuy họ cũng làm quan - vì họ cũng có đẳng cấp và bổng lộc - nhưng chỉ có mỗi một quyền, đó là quyền được
phục vụ hoàng gia trong cung cấm cho đến mãn đời. Do vị trí đăc biệt ở trong
cung nên thái giám được coi là hạng người có ưu thế biết rõ chuyện thâm cung bí
sử hơn bất cứ ai khác. Tiếc thay, cho đến nay họ không để lại cho hậu thế một
tiết lộ nào về những bí mật ấy.
Trong quan niệm của Nho giáo, bất hiếu là một tôi nặng, trong đó nặng nhất
là không có con trai để nối dõi tông đường (bất hiếu hữu tam, vô tự vi đại). Dĩ
nhiên luân lý của xã hội xưa không lấy đó làm điều để trách cứ mấy ông thái
giám.
Tuy nhiên, lúc đến cái tuổi trăng tà bóng xế, ngó quanh ngó quẩn không thấy
ai ở bên mình, chạnh nghĩ tới cảnh hương tàn bàn lạnh khi nằm xuống, các thái
giám không khỏi buồn tủi.
Chính vì cảm thông điều này và để cho các thái giám có nơi nương tựa phần
hồn sau khi chết nên chùa Từ Hiếu được vua ban sắc chỉ thành lập. Hầu hết các
thái giám đều được ký tự ở đó. Ngày trước, chùa Từ Hiếu được xem là một ngôi
chùa giàu ở Huế. Gọi rằng giàu là vì người ta thấy chùa có nhiều ruộng đất làm
hoa lợi, do các thái giám mua cúng vào chùa để được hưởng hương khói, kinh kệ
về sau .
Ở góc đường Đoàn Thị Điểm và Hòa Bình (Đặng Thái Thân ngày nay) trong Thành
Nội, ngay góc Đông Bắc của Đại Nội, có một ngôi nhà cổ nằm cô độc sát bờ hồ, ít
ai để ý. Đó là Bình An Đường của ngày xưa, nằm trong danh sách quần thể kiến
trúc của kinh đô.
Như cái tên gọi của nó - nhà bình an - ngôi nhà này chính là trạm điều dưỡng của cung nữ và thái giám. Khi cung
nữ hay thái giám bị bịnh nặng, họ được đưa ra điều trị và an dưỡng tại đây, vừa
tránh được lây lan vừa tiện cho thân nhân ở lại chăm sóc thuốc men, cơm cháo.
Vạn nhất, nếu không qua khỏi thì cũng tiện cho thân nhân lo việc ma chay. Nếu
cung nữ hay thái giám chẳng may bị bạo bệnh, chết đột ngột ở trong cung, họ sẽ
lâm vào cảnh khá tủi thân, ấy là xác của họ sẽ được bó chiếu, rồi người ta sẽ
dùng dây đưa lên mặt hoàng thành phía Bắc, gần cửa Hòa Bình, để đưa ra ngoài
cho thân nhân nhận về lo ma chay. Theo qui định thời đó, người không thuộc về
hoàng gia mà chết trong cung cấm thì không được đưa xác ra ngoài qua các cửa
hoàng thành. Xác của cung nữ hay thái giám phải “leo thành” là vậy.
Chế độ quân chủ cuối cùng của Việt Nam chấm dứt vào tháng 8 năm 1945.
Tính ra mới tròm trèm 50 năm, thời gian quá ngắn để một vật dụng trở thành món
đồ cổ. Vậy mà những cái Huế rặt vừa nói xem ra đã trở thành đồ cổ mất rồi. Ngay
trên đất quê hương những lối nói như thế cũng không còn thông dụng trong thế hệ
trẻ nữa, nói chi ở xứ người.
Mời thư giãn với nhạc phẩm MƯA TRÊN PHỐ HUẾ
của Minh Kỳ, qua tiếng hát Bảo Yến:
*.
VÕ HƯƠNG
AN
(tên thật: Võ Văn Dật)
Quê quán: Thành Nội Huế (Kinh thành Huế).
Cư trú tại: San Jose, Hoa Kỳ.
Email: huonganvo@yahoo.com
.
............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 16.12.2015.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét