(Nguồn ảnh: Quang Toàn) |
ĐỌC “VÀNG THU TA RỤNG...”
VÀNG THU TA RỤNG
...
Quên choàng y áo chân tu
Qua sông để rớt kinh thư thuở
nào
Đọa làm kiếp lá hanh hao
Vàng thu ta rụng xanh xao nỗi
buồn
Áo đời hai mảnh vá suông
Sợi khâu tang hải sợi luồn bể
dâu
Bàn chân giẫm nát đêm nhàu
Thái hư xẻ nửa trăng đầu khuyết
hao
Hành châu nghịch thủy về đâu
Sóng tràng giang nhuộm trắng
màu biệt ly
Đò chưa qua buổi xuân thì
Sông trăng dường đã già đi
nhánh buồn
Ta ngồi chải tóc hoàng hôn
Sợi dài thế kỷ mót bòn yêu
thương
Đò mai rẽ bến Tiêu Tương
Khóc ròng con nước nguyên sương
quê nhà
Buồn vui túy ngọa giang hà
Vàng thu ta rụng cội tà huy xưa
*.
THỤY SƠN
THỤY SƠN
LỜI
BÌNH:
(Tác giả Châu Thạch) |
Đọc cái đầu đề “Vàng Thu Ta Rụng…” chắc
không ai hiểu gì. Đọc qua khổ một của bài thơ thì hiện lên trong mắt ta cả nỗi
sầu hanh hao từ tiền kiếp. Lá cũng có linh hồn và lá trong thơ là hóa thân của
một vị chân tu bị đọa từ kiếp trước bởi sơ hở trên con đường tu tập:
Quên choàng y áo
chân tu
Qua sông để rớt
kinh thư thuở nào
Đọa làm kiếp lá
hanh hao
Vàng thu ta rụng
xanh xao nỗi buồn
Cả một câu chuyện về luân hồi được kể lại
trong bốn câu thơ. Một câu chuyện hoàn toàn hư cấu nhưng là một câu chuyện
tưởng tượng độc đáo.
Chiếc lá vàng rơi mùa thu là quả của nhân.
Cái nhân đẹp thì cái quả cũng đẹp. Nhân là vị chân tu thanh tịnh thì quả là
chiếc lá vô tư trên cây. Nhân “quên
choàng y áo” nên hậu quả của một sự vô tình đó là “để rớt kinh thư”. Rớt kinh thư trở thành tội để luân hồi kiếp sau
thành chiếc lá.
Áo của tu sĩ màu vàng thì quả cũng nhập xác
vào chiếc lá màu vàng để “vàng thu ta
rụng”.
Tác giả đã hòa nhập triết thuyết Phật giáo
vào thơ, dùng hình ảnh thanh thoát, câu từ thi vị để diễn đạt cái nghiệp lực mà
dầu một vị chân tu cũng phải nhận lảnh.
Đọc thơ ta để ý đến chữ “ta” mà tác giả đã dùng. “Ta” chính là mình, là tác giả. Nếu không là sự cảm biết bản thân trong quá khứ thì cũng là một cảm ứng giữa kiếp trước và kiếp nầy trong hồn thơ tác giả.
Đọc thơ ta để ý đến chữ “ta” mà tác giả đã dùng. “Ta” chính là mình, là tác giả. Nếu không là sự cảm biết bản thân trong quá khứ thì cũng là một cảm ứng giữa kiếp trước và kiếp nầy trong hồn thơ tác giả.
Chữ “ta” làm cho tác giả nhập vào sự kiện,
làm cho chuyện kể trở nên thực và làm cho người đọc cảm nhận gần gủi với câu
chuyện hoàn toàn hư cấu mà tác giả nghĩ ra.
Nhà sư trong thơ “Đọa làm kiếp lá hanh hao”cũng đẹp tuyệt vời. Ngài không sa vào dục
vọng trần gian, ngài chỉ lảng quên “choàng
y áo” khiến sinh hệ luy mất kinh thư, từ đó sự đọa thành chiếc lá vàng của
ngài cũng đẹp như chiếc lá thu bay vậy.
Qua khổ thơ thứ hai, rõ ràng tác giả hóa thân
mình vào nhà sư, hóa thân mình vào chiếc lá, với những trăn trở của mình trong
kiếp nhân sinh:
Áo đời hai mãnh vá
suông
Sợi khâu tang hải
sợi luồn bể dâu
Bàn chân giẫm nát
đêm nhàu
Thái hư xẻ nửa
trăng đầu khuyết hao
Hai câu thơ đầu, tác giả lấy ý từ thành ngữ “Tang điền biến vi thương hải và ngược lại”
(ruộng dâu biến thành biển xanh và ngược lại) nhưng hay và lạ ở chổ, nhà thơ đã
đem hai sự kiện lớn lao làm thành một chiếc áo của đời mình.
Hình ảnh trong thơ diễn đạt sống động chiếc
áo “tang thương” là hai mảnh của kiếp người với tất cả nghĩa vô thường của nó.
Hai câu thơ kế tiếp diễn tả hình ảnh kiếp
người trong đêm tối mông lung. “Thái hư” là “khoảng trống không vô định”. Trong
khoảng trống không vô định đó, con người dẫm nát bóng đêm để đi tìm chân lý.
Thế nhưng chỉ thấy “nửa trăng đầu khuyết
hao”nghĩa là chẳng thấy vầng trăng tròn bao giờ, hay là chân lý chưa hề
hiện ra trọn vẹn. Chân lý chỉ thấy từ xa như thấy nửa vầng trăng.
Khổ thơ nầy hoàn toàn là miêu tả cái “khổ đế” của Phật giáo, nhưng diễn đạt bằng ngôn ngữ
của thơ, hình tượng nỗi đau bằng hai mãnh áo, hình tượng sự mê muội bằng đêm
thâu và hình tượng sự trôi lăn vạn kiếp lạc bước trong vô định để nhìn thấy
chân lý như nửa vầng trăng, không trọn vẹn bao giờ . Bốn câu thơ bi quan, mô tả
đời người trong hố thẳm tội lỗi, muôn kiếp mịt mờ trong bóng tối hư vô.
Khổ thơ thứ ba nhà thơ diễn đạt sự đấu tranh
nhọc nhằn, sự tìm kiếm trong vô vọng, cùng sự phôi pha của một kiếp nhân sinh:
Hành châu nghịch
thủy về đâu
Sóng tràng giang
nhuộm trắng màu biệt ly
Đò chưa qua buổi
xuân thì
Sông trăng dường đã
già đi nhánh buồn
“Hành
châu nghich thủy” có nghĩa là đi ngược dòng nước. Người xưa có câu “Nghich thủy hành châu bất tiến bất thoái”
nghĩa là đi ngược dòng nước thì tới cũng không được mà lui cũng không được. Câu
thơ đầu chỉ sự nan giải của một kiếp người, mắc kẹt giữa dòng đời như chiếc
thuyền đi ngược dòng sông. Câu thứ hai mô tả dòng đời đầy sự biệt ly buồn ảm
đạm.
Qua hai câu thơ sau “Đò đưa qua buổi xuân thì/ Sông trăng dường đã già đi nhánh buồn” nhà thơ đã nhìn vào đời bằng con mắt tâm lý
của mình. Tất nhiên tuổi con sông phải già nhưng người qua sông lại thấy nó già
hơn cái già của nó, giống như người đã ngao ngán cuộc đời vì thấy cuộc đời
nhiêu khê và cằn cổi khi mình đang ở tuổi xuân thì.
Rồi thì bởi cái nhìn tâm lý, thấy đời già
trước tuổi thọ của mình, nhà thơ mang tâm trạng bi quan yếm thế, ngồi thở than
bên dòng sông định mệnh:
Ta ngồi chải tóc
hoàng hôn
Sợi dài thế kỷ mót
bòn yêu thương
Đò mai rẽ bến tiêu
tương
Khóc ròng con nước
nguyên sương quê nhà
Bến Tiêu Tương là bến ở sông Tiêu Tương, nơi
đây có chuyện tình Trương Chi - Mỵ Nương. Mỵ Nương rơi lệ xuống chén ngọc làm bằng quả tim anh lái đò có
tiếng hát làm lung linh trăng vàng. Trương Chi, người đã chết xuống tuyền đài
với tình yêu say đắm nàng vĩnh viễn. Trái tim chàng chỉ tan ra trong giọt nước
mắt của nàng. Nhà thơ Thụy Sơn đã hư cấu mình ngồi chải tóc ở đó suốt trăm năm
để nhìn con nước quê nhà khóc ròng cho mối tình bất diệt.
Thật ra tác giả chỉ mượn chuyện tình trên bến
Tiêu Tương để nói về tất cả nhưng ngăn trở của cuộc đời. Sự chải tóc là hình
ảnh của sự đợi chờ. Hoàng hôn chỉ thời gian đã qua, thời cơ của mình đã hết.
Bốn câu thơ dùng những bức tranh tuyệt đẹp, lung linh để ta thán những nghịch
cảnh mà đời đem đến. Đoạn phim trên bến Tiêu Tương, một người ngồi chải tóc,
nhỏ lệ trên dòng sông sự tích đẹp làm sao, khiến cho người đọc thơ cảm nhận như
mình ngồi ở chốn “nguyên sương” của thời xa xưa vậy.
Thụy Sơn dùng hai cầu thơ kết có hào khí ngất
trời. Không phải hào khí của người chiến binh trong bài thơ “Khúc
hát Lương Châu” của Vương Hoán có hai câu thơ “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu/ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”
mà khác nhiều hơn với ý thơ này:
Buồn vui túy ngọa
giang hà
Vàng thu ta rụng
cội tà huy xưa
Hai câu thơ của Vương Hoán được Trần Trọng
San dịch là “Sa trường say ngủ ai cười/
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu”. Thụy sơn cũng dùng hai chữ “túy ngọa” là say nằm, nhưng không “túy ngọa sa trường” mà “Túy ngọa giang hà” là say nằm trên sông
nước. Giang hà trong bài thơ “Vàng Thu Ta Rụng…” của Thụy Sơn như
trên ta biết không phải là sông nước của mặt đất nầy, mà đó là dòng sông của
định mệnh, là dòng quay của bánh xe luân hồi chuyển tiếp đời người kiếp nầy qua
kiếp khác. Trên dòng sông đó có một người chân tu vì phạm lỗi phải đọa vào cuộc
đời vàng như chiếc lá thu rơi. Vị chân tu buồn, túy ngọa trên dòng sông định
mệnh ấy để rồi, cũng rụng như chiếc lá vàng rơi dưới cội cây trong một chiều
nào đo, như những chiều năm xưa của kiếp trước.
Nhà thơ Lê Giao Văn đã bình luận bài thơ nầy
như sau: “Bài thơ cổ điển mà hồn cốt rất
tân thời”. Tôi nghĩ một nhận xét như thể đã nói đủ bài thơ nầy rồi. Cái hay
của bài thơ nầy thật ra chỉ dùng chữ để gợi ý mà thôi. Người đọc, qua trình độ
hiểu biết Phật pháp, qua tâm hồn nghệ sĩ và qua sự thẩm thấu văn chương nhiều
hay ít mà thưởng thức bài thơ, cảm nhận được những gì chất chứa trong thơ càng
sâu thì càng thú vị. Với tôi, tôi đọc thấy nó hay ngay tự ban đầu, suy nghiệm
nó hơi lâu, nhưng càng lâu thì càng yêu mến nó, một bài thơ không dễ có ai
làm!!!
Mời thư giãn với nhạc phẩm XIN LÀM NGƯỜI HÁT RONG
của Trần Long Ẩn, qua tiếng hát Phương Thanh:
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 14.08.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét