(Nguồn ảnh: internet) |
SÁT THỦ THƠ TRẦN THANH DŨNG
VÀ THI TẬP 6/8
*
(Tác giả Mạc Phong Tuyền) |
“Tôi sẽ hủy diệt thơ Trần Thanh Dũng” - Tôi đã nói với ông ấy như
vậy. Tất nhiên đó không phải là lời nói chơi, và đoán định trước, khi thực hiện
điều ấy quá ư dễ dàng. Bởi thơ và tâm hồn Trần Thanh Dũng - tức Dũng Pin, vốn đã
là bình địa, là bãi chiến trường găm đầy vết đạn bom, chứng tích cho cuộc chiến
giữa hai phe đối địch, mà một bên là yêu thương, phía còn lại là hận thù. Cuộc
chiến nổ ra tự thân trong cùng một con người, không nhằm tiễu trừ nhau, mà cùng
gióng lên tiếng nói của chính nghĩa.
Ồ! Vậy thì có khó
gì khi hủy diệt một nơi vốn dĩ đã là bình địa?
1) Trần Thanh Dũng
yêu mà như chưa yêu, thương mà như chưa thương, bởi “yêu thương mà chưa từng”
có nghĩa là cảm xúc chưa va vào hạt bụi, và tâm hồn chưa lẫn những đục/ trong,
có được tiền tố đó, người ta mới vô điều kiện gạt bỏ đi những truy cầu lộc lợi
khi đến với yêu thương, khi đến với bất kỳ ai, như thế, ta gọi bằng hai từ
trinh nguyên.
Vậy nên, tình yêu
của Dũng Pin được thể nghiệm trong thơ nghe có vẻ loáng thoáng nhờ nhạt thiếu
điểm nhấn. Nhưng không! Nó được phát triển theo cấp độ, có khởi đầu từ tình yêu
lứa đôi, thành tình yêu gia đình, gắn liền với quê hương, dân tộc. Có biểu
trạng mộc mạc, thanh sạch, và đượm đà, vậy thôi:
“Trăng lèn nụ, gió
lèn môi
Áo the dát mỏng
xuống đời hanh hao”
------
“Tôi lòn tay qua áo
em
Cơn mê vừa kịp ướt
mèm mộng đây”
Chỉ thế, cũng đủ để
người thưởng thụ bắt gặp nhà thơ hoang hoải buồn vì tình:
“Nằm nghe xao xác
bên trời
Cành thu một chiếc
rụng rồi, hôm qua
Mảnh tình ai có
thiết tha
Mảnh đời ai tụ dưới
tà áo ai”
Nỗi niềm đó đến vì
điều gì vậy? Tất nhiên rồi, từ một người thôn nữ đã biền biệt không còn đoái
tưởng về mối tình quê:
“Bỏ mùa đi, biết
sao tìm
Bến quê đợi bóng
đồi sim tím tàn
Cái ao rêu bỏ cổng
làng
Tiếng chuông đổ
xuống tan hoang bóng mình”
Một chuỗi thuật
nhân hóa, đã thổi linh hồn người thấm vào vật vô tri, vừa tạo nên độc đáo trong
phép tu từ, vừa hoán vị chủ thể đề cập một cách tinh tế, lại vừa là sự đặc tả,
tựa hồ bức vẽ “sống động” không gian u trầm cảnh trí, qua đó tạo nên hiệu ứng
cảnh tình, là niềm nỗi man mác của nhân vật trữ tình và của người thưởng thụ.
Nó dễ hiểu như thể: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” trích Kiều - Nguyễn
Du.
Hoặc là cũng có khi
Trần Thanh Dũng chơi với ngôn từ, nhưng cái chơi ấy vẫn thể hiện được vẻ đẹp
của sự cô đơn trong tâm hồn người nghệ sĩ:
“Gió về đợi tiếng
lá khua
trăng chênh chếch
bóng xuống mùa cầm hơi
thò tay sửa phía
bời bời
nghe răng rắc tiếng
buồn rơi ngang hồn”
Hay: “Bữa em về tựa
hạt sương
Vỡ ra trong nắng vô
thường thiếu anh”
Và đây nữa:
“Đám lá thiết tha
nói gió
Tháp cổ thở mùi xám
rêu
người đi chạm sầu
ngoái lại
lục bình khơi mảnh
trăng xiêu”
Tôi đã không muốn
bàn thêm về ý nghĩa biểu đạt hay kỹ năng xử lý ngôn từ trong khổ thơ vừa trích
dẫn, bởi lẽ với cảm xúc, thi ảnh, cùng với ý tưởng … đã gieo vào thơ bằng hệ
thống ngôn từ được sắp đặt có cấu trúc chặt chẽ lại giàu tính giai điệu. Đã quá
dễ, quá đủ để người thưởng lãm nhận ra cái nghệ của người viết. Có phải vậy
không nhỉ?
Có lần tôi đã muốn
hỏi tác giả: Trần Thanh Dũng này! Chẳng nhẽ ông không có nổi cho mình một tình
yêu ấm áp, một câu thơ ấm áp ư? Nhưng tôi cần gì ông trả lời:
“Chồng nghĩa vợ/
vốn chùng chình
Mỏng/ dai như sợi
tóc in đậm đời”
-----
“Bánh chưng mà gói
lá dong
người khôn gói cái
lòng vòng thủy chung
Vụng dây mơ rễ má
chùng
lựa nồi mà úp cái
vung cho bền”
Đấy! Cái hay của
thơ nhiều lúc cũng chỉ cần được thể hiện qua khuôn ý mộc mạc, giản dị, ấy thế
mà ta thấy lóe sáng trong đó sự khắc ghi, vừa như răn mình, lại cũng răn người...
những đaọ đức chân nhân.
Người đọc có lẽ sẽ
còn cảm thấy thích thú hơn khi khai khám trong không gian thi tập 6/8 của Trần
Thanh Dũng âm hưởng trẻ trung hiện đại, được thể hiện qua cái ngông của thơ tân
hình thức, ở dạng thể này Dũng Pin cũng tạo nên cho mình dấu ấn, và thành tựu
đáng ghi nhận, lại không sa vào sự lố lăng kệch kỡm, mà đặc biệt vẫn liên kết
được với cảm xúc thật thà của trái tim:
“Anh! Cho em hôn
anh nụ
hôn cuối cùng trước
khi mụ già đời
em ụp xuống, trước
khi xuôi
tay về với mông
lung. Rồi cũng không biết ai có trở lại không
(hay biệt tích) thế
cũng không chừng. Anh
nhỉ! Tuổi già đấy,
còn anh?
Mùa cúc trắng có
làm xanh giấc mơ...”
Đó là tâm sự, tựa
hồ lời dặn dò giã biệt của người vợ dịu hiền trước lúc “đi xa”, dành cho người
chồng khi cả hai mái đầu đều đã ngả bạc, không khỏi làm cho người đọc xúc động
đến nao lòng.
Ta lại bắt gặp
trong bộn bề con chữ một Trần Thanh Dũng tình cảm thiêng liêng đối với mẹ cha,
đó là giọt nước mắt tưởng niệm đau đáu xót xa, dành cho người thân sinh ra bản
thân mình:
“Cha tôi đi lính Cụ
Hồ
không hình/ bóng,
đến nấm mồ cũng không
tấm bằng tổ quốc
ghi công
mấy dòng chữ/ phơi/
giữa lòng ruột gan”
Thêm vào đó là nỗi
nhớ, ước mơ được trở về đằm mình trong tuổi thơ, mới đó mà đã dằng dặc xa xôi:
“Cho tôi vay ít
mênh mông
treo lên đầu sợi
nhớ, hòng, mùa thu
về thay cánh cò lời
ru
của bà, của mẹ đã
mùa xa, cho tôi
vay một ít nắng
vàng tươi
hong chiếc lá bên
thềm người đang may
áo và xin cho tôi
vay
một chiều mưa bão
để ngày cuối cùng
chiếc lá rụng trước
cơn dông”
Qủa nhiên tác giả
đã phân phối thi ý thanh thoát, khoáng đãng, nghe nhẹ nhàng như chiếc lá vàng
trôi qua song cửa, nhưng đã thật sự tạo ra sức nặng ám ảnh trong tâm thức người
đọc. Thật tài hoa!
Qua quá trình khảo
sát để viết bài khai lộ cho tập thơ 6/8 của Trần Thanh Dũng. Tôi phát hiện một
trong những dấu hiệu nhận diện ra thơ ông, là chất liệu thổ ngữ địa phương,
được khéo léo ráp ghép vào những vị trí đắc địa, tạo nên phong vị khu biệt,
sáng tạo nhưng lại tỏa ra được thứ ánh sáng chân thành của tình người, tình
quê:
“Tép mồng quẫy đục
dại khôn
Về quê dặm lại khúc
hồn rỗng quên”
----
“Biết, giờ này, ở
mép sông
Có con còng gió
vểnh lòng đợi mưa”
Cũng có lúc, Dũng
Pin cảm thấy lạc lõng, trăn trở khi chứng kiến những hình ảnh gần gũi bình dị
(biểu trưng cho “giá trị quê hương thuần Việt”), đang ngày càng mai một giữa
cuộc sống kim tiền, hiện đại hóa, đô thị hóa:
“Tôi đang thở giữa
cánh đồng
Đất khô nứt nẻ
người không bóng người
Họ bỏ đồng ruộng
lâu rồi
Bỏ vuông tôm chết
cá ôi giữa làng
Bỏ chòi nắng đổ
chang chang
Bỏ quê lên phố cơ
hàn mưu sinh”
Vậy đấy! Cho nên
giữa một Trần Thanh Dũng yêu tha thiết bằng bản lĩnh của người đàn ông lăng
trải giàu thực nghiệm, với một Dũng Pin gạt bỏ mọi truy cầu để sẵn sàng yêu vô
điều kiện bằng một tấm lòng trinh, có khác gì nhau đâu khi cả hai đều cấu thành
nên vẻ đẹp điệu đàng của tình yêu?
2. Trần Thanh Dũng
là bức phù điêu với những đường nét chạm khắc cũ kĩ được phủ lên lớp bụi hận
thù, thứ hận thù dành cho những điều ám muội, những giá trị đạo đức băng họai,
những thế lực nhân danh công lý lòe bịp cướp đoạt quyền bản thể của con người.
Bằng sự tự thức của
người cầm bút chuyên nghiệp, ông nhận ra giá trị của văn chương, của lao động
tác tạo nghệ thuật ngôn từ, không thể nào được đong đếm bởi hai chữ kim tiền,
như đầy rẫy "nhà" vin vào đó làm kim chỉ nam, làm chiếc phao cứu
cánh, để sáng tác. Để rồi vỗ ngực xưng tụng nhau thứ gọi là sự “cống hiến”. Nếu
không phải là kim tiền thì giá trị của văn chương được định giá bằng gì? Chỉ có
thể bằng sự lan tỏa nghệ thuật làm thức tỉnh lương tri con người:
“Bao giờ cho tới
Hung Nô
Văn chương tậu
ruộng mua nhà đổi trâu”
Hay: Trên đỉnh đầu
mười ngón tay
con chữ bị chốc
rượu/ say múa điệu
valse/ theo hợp âm
vi diệu
của đồng tiền sấp/
ngửa/ chịu/ về thôi.
Vì vậy mà ông kịch
trần phê phán:
“Tổ tiên sư bọn bút
bồi
Bọn đầu hói, bọn no
xôi chán chè
Bồi ở thị, bồi ở
quê
Bọn tham nhũng bọn
như hề chét trây
Bọn mua quan bọn
bán thầy
“Cuốc tổ không bằng
đổ ngài” Âu châu”
Thế có nghĩa là
người ta đang mường tượng ra cụ Nguyễn Công Trứ – người ngông nghênh chơi thơ
trào phúng, lấy mo cau bịt đít bò. Thế cũng có nghĩa người ta dần nhận ra hình
diện của một Trần Thanh Dũng xù xì, gai góc, lấy tổ tiên bọn bút bồi, quan
tham, quan nhiễu... dìm dưới bùn đen. Có vẻ như hơi ngoa ngắt, nhưng ngoa ngắt
trong văn chương được đặt đúng nơi đúng chỗ, cũng thú vị với người quan chiêm.
như việc giữa cuộc sống hiện thời, cuộc sống mà người ta luôn trưng ra cái mác
văn minh để gắn lên muôn trùng giả dối, để giấu mình trong sự đạo mạo quá thể,
thì chúng ta lại được ngắm nghía một ả nữ Hà Đông khi xưa, thường hay trùm áo
cánh thâm, vận váy đụp, tóc vấn khăn mỏ quạ, chống nạnh, vuốt mép, lanh lảnh
chửi nổ bong bóng mũi, cái gã đàn ông nào đó “Mắt cụp mắt xòe, có tròng như đui
hay sao mà đi đứng va vào người bà mày vậy?”
Sướng! Là sướng quá
đi thôi!
Trần Thanh Dũng
cũng là kẻ ranh mãnh khi viết về loài ruồi:
“Bầy ruồi đậu xuống
nhân gian
Cỗ, bê bết máu lố
lăng mắt người
râu ria miệng mũi
no mồi
chém chí chóe/
loạn/ vãn hồi hoan ca
Bao giờ hết đày đọa
nhau
Loai ruồi thoát
kiếp qua cầu nên ngoan
Lại tranh ăn/ lại
gieo oan
Lại mưu nghiệp lớn
lại hàng lợi danh”
Thì chắc chắn là
ông viết về bầy ruồi, chứ có ai cãi nó không phải là ẩn dụ cho một bầy người
nào đó đâu? Bầy ruồi hóa kiếp đi rồi, lại mọc lên bầy khác, cứ vậy mà thôi! Ý
thể là ông Dũng Pin muốn nhắn thế!
Lại nữa, tư tưởng
đó còn được đẩy lên đến đỉnh điểm:
“Tôi lục tìm trong
bãi rác
cuộc đời bóng dáng
có “tạc vào thế
kỷ”. Lời nhăng/
cuội nào kể
cũng hoa mỹ đặng
đặt/ để/ lấp/ liếm
trọi trơn nỗi buồn/
thảm/ điếm
tợ bó hoa có lưỡi
liềm...”
-----
“Thờ cha kính mẹ
kêu phiền
thờ tư tưởng đến độ
ghiền tụng ca
hát/ múa/ sắm/
diễn/ viết/ ca
toàn xu nịnh tán
sắt ra thành vàng
cái ung tư tưởng đã
lòn di căn”
Vậy thì ở đây ta
nhận ra điều gì? Chẳng phải là Dũng Pin đã tổng phối lại những thói “diễn xuất”
đội lốt đạo đức, đang lừa phỉnh nhau, đang tiễn nhau cùng chung về với cõi
chết, mà kẻ này cứ cố mong muốn, cứ cố để mình là kẻ nghệ sĩ diễn xuất tốt hơn,
ngược lại thì kẻ kia cũng chẳng mong mình là kẻ đạo diễn tồi.
Vậy nhé! Trần Thanh
Dũng, tôi muốn người ta ghi nhận ông không chỉ là kẻ sĩ đau cho những giá trị
nhân bản suy đồi, mà còn muốn mọi kẻ biết tới ông là con người bình dân như bao
con người bình dân khác, đã “xót xa như rụng bàn tay” khi chứng kiến cái chết
của tự nhiên, của rừng của biển - cái nôi nuôi dưỡng sự sống con người:
“Máu trăng chảy ướt
Quảng Bình
Loang hồn viá cá
chênh vênh bọt bèo
Thu đã tàn thu.
Trăng treo
Cây khô chết đứng
lưng đèo Hải Vân”
-----
“Heo may gió đụng
mặt trời
Tiếng ai oán cứ
rụng rời vàng/ thau”
Và cả “cái chết
được sinh ra” từ bi kịch của chiến tranh:
“Dù chính nghĩa hay
chính tà
Chiến tranh tợ chảo
thịt da nấu người
Nấu anh em, nấu
loài người...”
Nhưng tôi lại cũng
muốn người ta tin rằng Dũng Pin đủ sự ấm áp, và đức tin hướng thiện dẫu trong
ông cháy ngùn ngụt ngọn lửa hận thù:
“Lần tràng hạt giữ
đức tin
Mong cơn đau sớm
biến hình phôi pha
Ngó vào tâm/ A Di
Đà
Tiếng chuông tư lự
bôn ba thoảng về”
3. Đặc điểm trung
tạo nên tính khu biệt trong thi tập 6/8 nói riêng và xuyên suốt thơ của Trần
Thanh Dũng nói chung là mang âm hưởng của khuynh hướng Hiện thực huyền ảo, có
sự phối trộn yếu tố hiện sinh và siêu thực. Ở đó, sự khác lạ trong ý tưởng, sự
nhuần nhuyễn của phép dụng ngôn, đã kiến thiết lên những tác phẩm đặc sắc, có
không gian cảm xúc và tư tưởng đủ rộng, đủ dầy, để phổ dụng trên tất cả các chủ
đề thơ, các loại hình thử nghiệm. Thơ 6/8 của Trần Thanh Dũng có vẻ như không
được chú mục đến thuộc tính nhịp điệu uyển chuyển mượt mềm - đặc trưng của thể
lục bát, tựa hồ dòng chảy thơ ông là con sông khúc khủy trúc trắc bị chèn ngang
những gò đống, quanh co trôi trên núi đồi. Đọc (ăn) nhanh dễ hóc, nhưng chậm
chậm thưởng thức sẽ có được phong vị đậm đà khó phai. Đặc biệt, tôi nhấn mạnh,
ở thể thơ 6/8 nói riêng, cũng như tổng quan các thể loại thơ viết theo lề luật,
việc phá luật cần có sự cẩn tắc, người viết chỉ thực hiện điều đó và được ghi
nhận điều đó khi sự thành công về giá trị tư tưởng biểu đạt phải vượt qua
khoảng cách rất lớn cái mất mát đến từ thất luật, thất vần, tức là khi ấy, sự
phá luật lại trở thành nghệ thuật – ta thấy điều đó trong thơ Dũng Pin – người
mà, nếu như tôi có được đặc quyền biên tập định san văn học sử đất Sóc Trăng,
thì chắc chắn ở thời kỳ đương đại, sẽ dành một phần trang trọng để lưu lại dòng
chữ mang tên ông.
Tổng luận thì Dũng
Pin đã được nạp đầy năng lượng để trở thành một tên sát thủ, vãi ra những loạt
đạn mật ngôn, tiễu trừ đi vô vàn điều ám muội, những băng hoại nhân cách, những
thế lực thủ hiểm núp danh chân lý.. với muôn hình vạn trạng còn xếp thành tầng
vỉa tồn tại trong cuộc sống này. Và đó cũng là công cuộc tiến tới thanh lọc thế
giới tâm hồn bằng thơ. Cũng chắc chắn một điều khi ai đó đọc hết bài dẫn nhập
này, sẽ nhủ thầm với chính mình rằng kẻ viết bài tiểu luận đó là một nhà phê
bình thiển cận và ngạo ngược. Nhưng không! Tôi không phải là nhà phê bình văn học,
mà chỉ là kẻ lữ hành có đam mê bóc rỡ lớp vỏ của ngôn từ, để thưởng ngoạn, để
thấy trong đó sự phát sáng lân tinh của một thứ mang tên là sự huyền nhiệm,
nghe có vẻ dung tục, dung tục như cái cách mà chàng trai xứ Mán, Mèo tốc chiếc
váy thổ cẩm sặc sỡ sắc màu của cô sơn nữ bản, ở chợ tình Khâu Vai.
Mời thư giãn với nhạc phẩm THƯ TÌNH CUỐI MÙA THU
của Phan Huỳnh Điểu, qua tiếng hát Bảo Yến:
*
MẠC PHONG TUYỀN
Địa chỉ: Hà Lâm, Hà Trung, Thanh Hóa
Email: macphongtuyen@gmail.com
Điện thoại: 096.480.78.95
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 20.06.2018.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét