(Nguồn ảnh: Internet) |
Chuyện
kể về Kinh
BÁO
ĐÁP CHA MẸ
- Tác giả:
Khuyết Danh -
Các bạn trẻ thân mến! Chúng ta
đều biết rằng hiếu thuận vốn là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc
ta. Các bạn biết không, về phương diện tôn giáo, đạo Phật cũng rất chú trọng
đến đạo hiếu.
Qua nhiều sách vở được lưu hành
rộng rãi xưa nay, chúng ta thường thấy có nhiều vị tu sĩ rời xa gia đình và
thành thị náo nhiệt để vào tận rừng cao núi hiểm tu hành. Có lẽ do đây mà mọi
người thường có sự ngộ nhận rằng: Những tu sĩ Phật giáo đều đã dứt bỏ mọi tình
cảm. Nhưng thực tế không phải vậy!
Hôm nay, chúng tôi xin gửi đến
các bạn một câu chuyện xưa để giúp các bạn có thể hiểu được Phật giáo quan niệm
như thế nào về chữ hiếu.
Cử chỉ lạ lùng của đức Phật
khiến các vị đệ tử quanh Ngài đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc và hoài nghi. Các
thầy không thể hiểu được vì sao đức Thế Tôn lại bái lạy đống xương một cách
thành kính như vậy.
Khi ấy, thầy A-nan là
thị giả của đức Phật, liền quì xuống thành kính thưa hỏi:
Sau khi nghe thầy A-nan
thưa hỏi, đức Phật dịu dàng đáp:
- “A-nan! Lời ông hỏi
rất phải. Các ông tuy đều là đệ tử của ta, theo ta xuất gia
tu học đã lâu, nhưng còn có nhiều việc các
ông có thể chưa biết hết. Mặc dầu đây chỉ là một đống xương khô, song biết đâu
đó lại chẳng phải là di hài của ông bà cha mẹ trong nhiều đời nhiều kiếp của
ta? Các ông hãy nói xem, có đạo đức luân lý nào cấm con cái không được lạy cha
mẹ đâu? Vì lẽ thiêng liêng cao cả ấy nên ta mới thành kính lạy đống xương này.”
Đức Phật lại dạy tiếp:
- “A-nan! Bây giờ ông
hãy thử chia đống xương này ra làm hai phần đi! Nên nhớ, xương người nam thì
màu trắng và nặng, còn xương người nữ thì đen và nhẹ.”
Nghe lời dạy của đức Phật, thầy
A-nan cảm thấy phân vân, liền chắp tay thưa hỏi:
- “Bạch Thế Tôn! Việc này con
thấy khó hiểu quá! Khi con người còn sống, nhờ vào cách ăn mặc, đi đứng mà
chúng ta có thể phân biệt được là nam hay nữ. Chứ khi chết rồi, ai cũng thành một
đống xương trắng như nhau, làm sao chúng con biết trong đống xương này đâu là
xương người nam, đâu là xương người nữ?”
Lúc đó, đức Phật dạy thầy A-nan:
- “Được rồi! Như Lai sẽ nói cho
thầy biết vậy! Người đàn ông khi còn sống thường có nhiều điều kiện sinh hoạt
tốt hơn, được vào chùa nghe giảng kinh, luật, tôn kính Tam bảo
và thường niệm Phật. Vì trong đời sống
không phải cạn kiệt khí lực nên sau khi mất xương của người đàn ông thường có
màu trắng và nặng. Còn người đàn bà phần nhiều ít có điều kiện học hành, tri
thức kém cỏi, không được giữ những cương vị tốt đẹp trong xã hội.
Vả lại, người phụ nữ phải trải qua việc
sinh nở, nuôi dưỡng con cái vô cùng khó nhọc. Khi nuôi con thì mẹ phải mất đi
nhiều sữa. Mà sữa từ đâu ra? Sữa được tạo ra từ chính máu huyết của người mẹ.
Nên mẹ mất nhiều sữa để nuôi con thì cũng có nghĩa là hao tổn không biết bao
nhiêu máu huyết của mình. Người mẹ phải lao nhọc như vậy nên thân thể gầy mòn
tiều tụy. Vì khí lực phải cạn kiệt như thế, nên sau khi chết xương người đàn bà
thường có màu đen và nhẹ.”
Sau khi nghe đức Phật giảng
giải, thầy A-nan mới hiểu được sự vĩ đại và vất vả bấy lâu của cha mẹ.
Thầy tự thấy mình chưa làm tròn đạo hiếu với cha mẹ nên âu sầu rơi lệ.
Các bạn trẻ thân mến! Mặc dầu
những khó khăn vất vả của cha mẹ trong suốt thời gian nuôi dưỡng chúng ta khôn
lớn là hết sức rõ ràng, cụ thể, nhưng phần lớn chúng ta lại không mấy khi lưu
tâm đến! Chúng ta thường xem đó như việc tất nhiên phải vậy, nên không chịu để
tâm suy xét, chiêm nghiệm để thấu hiểu được sự khổ nhọc mà cha mẹ đã nhiều năm
gánh chịu vì ta. Chỉ đến khi chúng ta thực sự khôn lớn, tự lập một gia đình
riêng của mình và cũng đi vào con đường khó khăn vất vả của việc nuôi dưỡng con
cái, lúc ấy chúng ta thường mới nhận biết được công ơn trời biển của mẹ cha.
Nhưng than ôi! Đợi đến khi ấy thì mọi việc thường đã quá muộn màng! Vào lúc đó,
có khi cha mẹ đã không còn nữa!
Tôn giả A-nan liền cung
kính thưa với đức Phật:
- “Bạch đức Thế Tôn! Ân đức cha
mẹ cao cả và sâu dày như vậy, hàng đệ tử chúng con phải làm thế nào mới báo đáp
được?”
Đức Phật dạy A-nan:
- “Cha mẹ nuôi dưỡng con cái là
một việc rất gian khổ. Nay các ông có lòng hiếu thảo muốn báo đáp công ơn ấy
thì nên lắng lòng nghe những lời Như Lai sắp chỉ dạy sau đây.
“Này A-nan! Người mẹ
mang thai trải qua mười tháng dài, có thể nói là nếm đủ không biết bao nhiêu
cay đắng khổ cực. Tháng đầu tiên lúc mới mang thai, mầm sống trong bụng mẹ chỉ
giống như hạt sương đọng trên ngọn cỏ, mong manh và có thể tan mất bất cứ lúc
nào. Đến tháng thứ hai, mầm sống ấy chỉ như váng sữa đặc, cũng rất mềm yếu.
“Đến tháng thứ ba, thai nhi
giống như cục huyết lớn đông đặc. Tròn bốn tháng, cái thai mới có chút hình
dạng con người. Các bộ phận chủ yếu như đầu, tay, chân được hình thành khi đủ
năm tháng.
“Đến tháng thứ sáu, thai nhi
tiếp tục xuất hiện mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng... và bắt đầu có cảm giác.
“Đến tháng thứ bảy, xương cốt
và gân trong toàn thân thai nhi lần lượt hình thành, và trên lớp da xuất hiện
vô số lỗ chân lông.
“Tháng thứ tám, các bộ phận
quan trọng của thai nhi phát triển gần như hoàn thiện. Đồng thời chín lỗ trên
thân: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, hậu môn và đường tiểu tiện cũng được
thành hình.
“Kể từ tháng thứ chín trở về
sau, thai nhi bắt đầu biết dùng hai tay hai chân đấm đá, khiến người mẹ ăn ngủ
không yên. Từ khi thọ thai cho đến lúc cất tiếng khóc chào đời, thai nhi hoàn
toàn nhờ vào việc hấp thụ máu huyết của người mẹ được chuyển thành chất dinh
dưỡng để duy trì sự sống. Khi gần đủ mười tháng, các bộ phận của hài nhi đều
được hoàn chỉnh và đợi ngày ra đời.
Các bạn trẻ thân mến! Khoa học
ngày nay đã có nhiều tiến bộ cho phép chúng ta quan sát và hiểu được cụ thể
từng giai đoạn phát triển của thai nhi trong bụng mẹ, thậm chí có thể ghi lại
được cả bằng hình ảnh. Tuy nhiên, việc thai nhi phát triển như thế nào thật ra
không phải điều mà mỗi chúng ta cần quan tâm. Điều quan trọng nhất chúng ta cần
hiểu được ở đây là nỗi khó nhọc mà người mẹ phải trải qua trong suốt quãng thời
gian ấy, cả về mặt tâm lý cũng như vật lý, nhất là đối với những người mẹ trẻ
lần đầu mang thai. Thử tưởng tượng xem, từ một người phụ nữ lúc nào cũng ưa
thích vẻ đẹp, luôn muốn được xuất hiện một cách thướt tha kiều diễm trước mặt
mọi người, nay bỗng nhiên trở thành nặng nề thô kệch, mang thân hình xấu xí
không cân đối, lại đi đứng khó khăn, chậm chạp... Những thay đổi này chắc chắn
sẽ làm cho người mẹ trẻ phải cảm thấy rất khó chấp nhận, thậm chí có thể trở
nên e dè, xấu hổ với người khác. Tuy nhiên, với tình mẫu tử phát sinh cùng lúc
với sự hình thành của thai nhi trong bụng mẹ, thì tất cả những điều đó bỗng trở
nên không còn đáng kể nữa. Người mẹ khi ấy lúc nào cũng chỉ còn biết nghĩ đến
con, lo lắng cho con, thương yêu nựng nịu con, cho dù lúc ấy con chỉ mới là một
bào thai nhỏ bé!
“Đến kỳ sinh nở, cơ thể người
mẹ lại mất rất nhiều máu. Nếu sinh dễ, đứa bé cuộn tròn tay chân thì mọi chuyện
thuận lợi và giảm bớt sự đau đớn cho sản phụ. Nếu sinh khó, nhất là khi thai
nhi có tư thế trái ngược với bình thường thì khi sinh ra người mẹ sẽ phải chịu
sự đau đớn không thể tưởng tượng nổi. Nghiêm trọng hơn, bởi người mẹ mất quá
nhiều máu nên có thể nguy hiểm cả đến tính mạng.
Nói đến sự nguy hiểm của người
mẹ khi sinh nở thì tất cả những người lớn tuổi đều hiểu được, nhưng với các bạn
trẻ chúng ta thì có vẻ như ít có ai lưu tâm đến! Các bạn chỉ thấy việc sinh con
như một việc rất thông thường, chẳng qua chỉ đến bệnh viện nằm vài ba hôm rồi
trở về nhà với em bé, có gì là nguy hiểm đâu? Nhưng các bạn ơi! Sự thật không
phải như vậy! Cho dù trong những trường hợp sinh nở dễ dàng thì chúng ta luôn
thấy như chẳng có gì đáng nói, nhưng sự thật là bất cứ lần sinh nở nào của một
người mẹ cũng luôn ngấm ngầm ẩn chứa rất nhiều nguy cơ đe dọa đến tính mạng.
Chẳng thế mà người xưa đã có câu tục ngữ để nói về việc sinh nở khó khăn và
nguy hiểm của người đàn bà:
Đàn ông đi biển có đôi,
Đàn bà đi biển mồ côi một mình.
Vâng, quả thật là như thế!
Trong cơn sóng gió hiểm nguy và cực kỳ đau đớn của sự sinh nở, không một ai có
thể chống chèo, chia sẻ cùng người mẹ! Chỉ có tình mẫu tử là nguồn động lực duy
nhất để giúp mẹ vượt qua trùng khơi nguy hiểm đó!
“Vì vậy, con cái đừng bao giờ
quên sự khổ nhọc mà mẹ phải chịu đựng khi sinh ra mình. Nếu không ghi nhớ điều
này thì chẳng khác gì loài cầm thú!
“Sau khi trải qua bao đau đớn
vất vả như đã nói, cuối cùng người mẹ mới sinh được con ra. Nếu nói chi tiết
hơn thì công ơn của mẹ đối với chúng ta có ít nhất là mười điều. Mười điều ấy
là những điều nào?
“Công ơn thứ nhất là giữ gìn
mạng sống cho thai nhi. Thân người khó được, chúng ta không dễ gì có được thân
này khi lưu chuyển trong luân hồi.
Vì có duyên phận với cha mẹ đời này nên
chúng ta mới có thể nương vào thai mẹ để đến với cõi đời. Nhưng để có thân ta,
mẹ phải đổi lấy bằng biết bao sự khổ nhọc!
“Thời gian mang thai cũng là
lúc vất vả của mẹ. Vì quan tâm lo lắng cho sinh mạng quý báu nhỏ bé đang mang
trong mình nên làm việc gì mẹ cũng phải hết sức cẩn thận, chậm rãi. Việc ăn
uống cũng phải kiêng dè, thận trọng vì sợ ảnh hưởng không tốt đến thai nhi.
Những y phục tốt đẹp mà mẹ ưa thích nay cũng không thể mặc được, vì thân thể
mang thai trở nên thô kệch, xấu xí. Mọi cử chỉ, việc làm trong ngày, cho đến
những sự đi, đứng, nằm, ngồi đều trở thành khó khăn, bất tiện. Nếu gặp phải
những thai nhi thường hay cựa quậy, thúc đạp thì lại càng khổ sở không sao nói
hết!
“Ân đức thứ hai là người mẹ
phải chịu đau đớn cùng cực khi sanh nở. Sanh con là một việc rất khổ nhọc, đau
đớn và nguy hiểm. Rất nhiều người mẹ vì sự sinh nở gặp khó khăn trở ngại mà
phải mất cả mạng sống. Dù biết như vậy, nhưng người mẹ vẫn bất chấp sự an nguy
của bản thân, chỉ luôn lo lắng con mình sinh ra có được bình an, thuận lợi hay
không mà thôi.
Các bạn trẻ thân mến! Không
biết là có bao giờ các bạn đã từng nghĩ đến những mối hiểm nguy đe dọa mạng
sống của người mẹ khi sinh con hay chưa? Đó là một điều hoàn toàn có thật. Vì
thế, nếu bạn chưa từng nghĩ đến thì sau khi đọc qua những dòng này, bạn hãy thử
tìm hiểu xem đó là những mối nguy hiểm như thế nào. Chắc chắn sau khi biết được
rồi, bạn sẽ thấy là lâu nay mình chưa thực sự hiểu hết về mẹ, và giờ đây sẽ
càng kính yêu mẹ mình nhiều hơn nữa!
“Ân đức thứ ba là mặc dầu vì
con mẹ phải chịu mọi đau đớn, nhưng đến khi vừa sinh con xong mẹ lại có thể
quên hết khổ nhọc.
Các bạn thân mến! Điều quan tâm
nhất của người mẹ chính là sức khoẻ của đứa con vừa sinh ra. Cho nên, dù trong
khoảnh khắc phải trải qua muôn ngàn lần đau xé ruột, bất kể sự mệt mỏi đến mức
nào, câu hỏi đầu tiên của mẹ bao giờ cũng là: “Con tôi có bình an, có được mạnh
khỏe hay không?” Thật cảm động biết bao phải không các bạn?
“Ân đức thứ tư của cha mẹ là
luôn tự chọn lấy phần cay đắng, khó nhọc, nhường phần ngon ngọt, dễ dàng cho
con. Sự chăm sóc của cha mẹ đối với con cái vô cùng chu đáo, bất kể ngày đêm.
Vì muốn con được hạnh phúc vui vẻ, cho dù bản thân phải chịu bao sự lao lực khổ
nhọc, cha mẹ cũng không hề cau mày nhăn mặt. Ân nghĩa sâu nặng của cha mẹ đối
với con cái thật không thể nào nói hết!
“Ân đức thứ năm là luôn nhường
cho con chỗ nằm ấm áp, khô ráo, còn mẹ thì không nề hà phải co ro nơi giá lạnh.
Các bạn ơi! Mẹ hiền lúc nào
cũng săn sóc con rất kỹ lưỡng. Ban đêm, khi con nhỏ tiểu tiện ướt cả mền chiếu,
mẹ vội vã bồng con đến chỗ khô ráo, rồi tự mình phải nằm ở nơi ẩm ướt, hôi hám
mà không một lời than vãn. Chỉ cần lo cho con ngủ ngon giấc, thân mẹ dù chịu
rét lạnh cũng không phiền hà.
“Ân đức thứ sáu là cha mẹ vất
vả nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái.
Tình thương của mẹ như mặt đất
bao la sinh ra mọi vật; sự yêu mến của cha tựa bầu trời mênh mông, bao trùm khắp
muôn loài. Mà bất luận là trời hay đất, tình thương của cha mẹ luôn là tình yêu
không phân biệt. Chỉ cần là con của mình sinh ra thì dù có xấu xí thế nào cha
mẹ cũng không bao giờ ghét bỏ. Dầu cho con có bị tay chân khiếm khuyết, tàn
tật, cha mẹ cũng không chán ghét, trái lại càng quan tâm thương yêu hơn nữa.
Cha mẹ luôn xem con là vật báu quý nhất mà mình đã rứt ruột sinh ra!
Các bạn thân mến! Mỗi khi chúng
ta tiếp xúc với ai đó trong đời, ta luôn có những ấn tượng khác nhau. Có những
người khiến ta quý mến, kính trọng ngay khi mới gặp; có những người lại làm ta
bực tức, chán ghét... Những ấn tượng khác nhau đó đều do ngoại hình và cung
cách ứng xử của người khác mang lại cho ta. Nhưng điều kỳ lạ nhất là đối với
cha mẹ thì mọi sự xấu xí, bất toàn hay ngang bướng của con cái đều không bao
giờ làm cho cha mẹ ghét bỏ. Chỉ có yêu thương và yêu thương mà thôi! Trong lòng
cha mẹ chẳng bao giờ có sự chán ghét con mình, cho dù đó có là một đứa con hư
đốn hoặc xấu xí đến mức nào đi chăng nữa!
“Thâm ân thứ bảy là dọn rửa đồ
phóng uế của con mà không sợ nhơ nhớp, lấm bẩn.
Bất chấp có khi da dẻ bị lạnh
cóng nứt nẻ, mẹ vẫn không phiền hà khi chăm sóc cho con. Dù trước đây người mẹ
có là cành vàng lá ngọc, mỹ miều xinh đẹp đến đâu, nhưng qua một thời gian lao
lực vì con thì vẻ đẹp như hoa ấy cũng bắt đầu trở nên già nua, tàn tạ. Đôi tay
ngọc ngà cũng vì những việc nấu nướng, giặt giũ mà trở thành khô cứng, sù sì.
Mẹ tội nghiệp và đáng kính biết bao! Mẹ vì con hy sinh cả tuổi thanh xuân quý
giá của mình, để rồi chỉ đổi lấy sự tiều tụy, mệt mỏi.
“Ân đức thứ tám là mỗi khi con
đi xa, mẹ ở nhà luôn tựa cửa ngóng chờ, nỗi nhớ con nhạt nhòa trong dòng nước
mắt.
Tiễn biệt người thân về cõi
thiên thu khiến con người phải đau thương, buồn nhớ. Nhưng người mẹ còn đau
buồn nhớ mong gấp bội khi đứa con yêu quí của mình rời xa gia đình. Dù con xa
nhà để học tập hay làm việc, cha mẹ cũng đều sớm nhớ tối mong, luôn cầu nguyện
cho con luôn được bình an khỏe mạnh. Tâm hồn mẹ như treo lơ lửng giữa không
trung, chẳng giây phút nào được yên dạ. Nếu bất hạnh gặp đứa con hư hỏng bỏ nhà
ra đi mà không tin tức thư từ gì về, thì cha mẹ chỉ còn biết ngày đêm đổ lệ chờ
con!
Vì muốn cho con có điều kiện
sống sung túc, cha mẹ không từ bất cứ việc gì. Đôi lúc vì muốn kiếm thêm ít
tiền để con được ăn mặc đẹp, được theo kịp chúng bạn mà cha mẹ phải vất vả làm
việc suốt cả ngày đêm. Nếu con bị bệnh, cha mẹ lại ngày đêm khấn vái nguyện
cầu, mong sao có thể thay con chịu đựng mọi sự đau đớn.
“Thâm ân thứ mười là tình
thương cha mẹ dành cho con không bao giờ vơi cạn.
Sự thương yêu của cha mẹ đối
với con cái nói không thể hết, tả không thể cùng. Như mặt trời, mặt trăng luôn
soi sáng khắp nhân gian, tấm lòng cha mẹ cũng luôn hướng về con cái như vậy.
Trong mắt mẹ hiền, con mãi mãi là đứa con nhỏ bé của mẹ, dẫu con tuổi đã tám
mươi, nhưng trong đôi mắt người mẹ già hơn trăm tuổi vẫn cứ đinh ninh xem con
là đứa con bé bỏng. Nếu hỏi tình thương của cha mẹ đối với con cái đến bao giờ
mới dứt, thì có lẽ chỉ là khi cha mẹ rời khỏi cõi đời này!
Đức Phật lại dạy tiếp:
– “Công ơn cha mẹ lớn lao là
thế, nhưng ta thấy trong thế gian này có rất nhiều kẻ vong ân bội nghĩa, bất
hiếu ngỗ nghịch, không biết hiếu dưỡng cha mẹ. Đó là một sự thật đau lòng.
“Các thầy phải hiểu rằng, mẹ
mang thai mười tháng như mang một vật nặng trong bụng, ăn không ngon, ngủ không
yên, nếm trải đủ mọi sự vất vả khổ nhọc. Đến ngày gần sinh, mẹ lại nơm nớp lo
sợ những tình huống xảy ra ngoài ý muốn. Như loài heo dê khi bị chọc huyết, máu
chảy ra lênh láng khắp mặt đất, người mẹ cũng phải chịu sự đau đớn giày vò như
vậy mới sinh được con ra.
Tuy phải mang nặng đẻ đau vì
con nhưng mẹ không vì thế mà oán trách, lại dành cho con tình thương bao la bất
tận. Sau khi con chào đời, mẹ chẳng nề hà mệt nhọc, bồng ẵm trên tay, ôm ấp
trong lòng, dọn rửa phẩn uế để giữ cho con luôn sạch sẽ.
Gặp lúc con tiểu đêm ướt cả
giường chiếu, mẹ vội bế con đến chỗ khô ráo, còn mình thì nằm nơi ướt lạnh.
Suốt ba năm dài bế bồng bú mớm, người mẹ nào rồi cũng phải thân mòn sức kiệt.
Cha mẹ bỏ ra biết bao tâm huyết
để dạy dỗ con thơ ngay từ những bước chân đầu tiên chập chững, cho đến lúc biết
đọc biết viết, rồi dạy con hiểu lễ nghĩa, biết liêm sỉ. Cho đến lớn khôn, vì lo
việc dựng vợ gả chồng, gầy dựng sự nghiệp cho con mà cha mẹ lại phải vất vả
ngược xuôi, xoay xở tiền bạc, nhưng chẳng mong gì sự đền đáp về sau.
Khi con bị bệnh thì cha mẹ đêm
ngày cũng không yên dạ, chạy chữa khắp nơi, bất kể hao tốn bao nhiêu cũng không
nề. Cha mẹ sớm hôm một nắng hai sương lo lắng cho con như thế, cũng chỉ mong
con mau được khôn lớn, thành người hữu ích. Nhưng nào hay vừa được lớn khôn,
rất nhiều người không những không giữ được sự lễ phép mà còn nặng lời lớn tiếng
với cha mẹ. Lại khi cùng với anh, chị, em ngồi lại bàn bạc thì một lời cũng
không hòa thuận, va chạm đến là sừng sộ, cãi vã... Dù anh em, chú bác có khuyên
răn cách mấy cũng chẳng ăn năn sửa đổi. Một người đánh đập, chửi mắng anh em
ruột thịt mà không chút đoái hoài tình máu mủ, thì dù có học hành đến đâu cũng
chẳng khác nào kẻ không biết lễ nghĩa, không có lòng hổ thẹn!
Lúc đi lúc về không thưa trình
cha mẹ, nói năng vô lễ, cử chỉ ngạo mạn... Dù song thân hết lời dạy bảo, cô dì,
chú bác cạn lẽ khuyên răn nhưng vẫn không đoái hoài đến. Bởi do tuổi nhỏ không
biết gì lại được người lớn che chở, nuông chiều, lâu ngày chày tháng thành thói
quen nên không còn coi ai ra gì cả. Đến khi lớn lên, tính tình càng thay đổi
càng tỏ ra ngang ngược. Làm chuyện lầm lỗi đã không tự hối cải, ngược lại còn
sanh lòng oán giận, đụng đến là bỏ nhà ra đi. Phiêu bạt chốn giang hồ, kết giao
với những kẻ lọc lừa, gian trá, rồi dần dần cho những việc xấu xa là lối sống
mới, là đương nhiên như vậy!
Lại có những kẻ sau khi bỏ nhà
ra đi bị kẻ xấu dụ dỗ nên lưu lạc đến xứ người. Cũng có người vì đi đây đó tìm
kế sinh nhai hoặc do công việc mà phải lìa xa quê hương. Đến khi tuổi tác đã
lớn, không đợi sự ưng thuận của cha mẹ mà tự động cưới vợ, lấy chồng, sanh con
đẻ cái. Lúc thì vướng chuyện này, khi thì mắc việc nọ, dần dà lâu ngày chẳng
còn muốn trở về quê nhà nữa.
“Lại có một số người bất hạnh
gặp phải những kẻ xấu khi lưu lạc xứ người, nếu bản thân không cẩn thận thì
thường bị hãm hại, rồi chôn vùi cuộc đời trong chốn lao ngục.
Cũng có người bị cái nghèo và
bệnh tật bức bách, đến nỗi lâm vào cảnh khốn cùng kiệt quệ, đã không được mọi
người quan tâm giúp đỡ, trái lại còn bị ruồng rẫy. Thậm chí có lúc bệnh chết
ngoài đường không ngưòi chôn cất. Từ đó, xương trắng phơi sương, hồn ma vất
vưởng nơi đất khách quê người, chẳng bao giờ còn có cơ hội gặp lại người thân.
“Than ôi! Thật uổng phí cho
thâm ân nuôi dưỡng và biết bao kỳ vọng thiết tha của cha mẹ!
“Nhưng đáng thương hơn cả là
tấm lòng cha mẹ, ở nơi quê nhà chẳng hề hay biết gì! Vì quá thương con nên cứ
ngày ngày mong ngóng, tin chắc rồi con sẽ trở về. Do nhớ mong nên chẳng còn
lòng dạ nào để làm lụng, ngủ nghỉ. Đôi mắt cũng mờ dần theo giọt lệ mỏi mòn
thương nhớ. Hoặc giả vì buồn thương quá độ mà thành bệnh, có khi phải ôm buồn
tủi xuống tận suối vàng! Dù hình hài đã mất, thần hồn về nơi âm cảnh, nhưng
tình thương của cha mẹ đối với con cái cũng không bao giờ nguôi ngoai!”
Các bạn thân mến! Các bạn có
biết không, những đứa con bất hiếu như thế, tuy có thể không thấy vướng bận gì
khi lìa đời nơi xứ người, nhưng cái chết ấy có làm vơi được sự hoài vọng ngày
ngày của cha mẹ ở quê nhà hay không?
Từ lúc con ra đi, cha mẹ có
giây phút nào là không mong ngóng, nhớ thương con?
“Lại có những đứa con không lo
học hành, suốt ngày tụ tập kết thành bè đảng với lũ bạn xấu, giong ruổi khắp
nơi, quậy phá và làm những chuyện bại hoại đạo đức, để rồi không chỉ gây liên
lụy cho người trong nhà mà còn khiến cho cha mẹ phải buồn tủi, thất vọng.
Những đứa con ấy, ra đi từ lúc
mặt trời mọc đến chạng vạng tối mới về nhà, chẳng quan tâm gì đến cha mẹ ở nhà
có cảm thấy lạc lỏng hiu quạnh, có cần người giúp đỡ chăm sóc hay không. Đến
khi tuổi càng cao, cha mẹ lại chịu nhiều tủi nhục trước sự cười chê của ngưòi
đời vì sự bất hiếu, hư đốn của con cái.
“Cũng có những người con chỉ
còn cha hoặc mẹ, lẽ ra phải hết lòng hiếu thuận, chăm nom, nhưng lại không làm
được như vậy.
Chúng ta thường thấy những đứa
con này bỏ mặc cha mẹ hiu quạnh, cô đơn, héo hon trong căn nhà trống vắng trơ
trọi, giống như người khách lạ ở trong nhà trọ, dù có bị đói rách hay không
cũng chẳng ai hay biết!
Những người cha mẹ gặp phải
tình cảnh này cũng chỉ biết đêm đêm âm thầm rơi lệ than thở mà thôi!
Ngoài ra, chúng ta còn thấy có
những người vì muốn làm hài lòng vợ con nên đối với vợ con thì bảo sao làm vậy,
lại cung ứng tiền của, áo cơm cho vợ con hưởng thụ, không những không chút than
vãn mà cũng chẳng dè dặt. Nhưng đối với lời dạy của cha mẹ thì lại bỏ hết ngoài
tai, cũng không có chút lòng tôn kính!
“Lại có những người con gái
trước khi chưa lấy chồng thì hiếu thảo với cha mẹ, nhưng sau khi lấy chồng rồi
thì lại bất hiếu.
Cha mẹ có nói đến vài câu không
vui liền sanh lòng hờn dỗi, còn chồng mình đánh đập chửi mắng lại cam tâm chịu
đựng! Sau khi có chồng thì xem mọi việc bên chồng là hơn hết, còn đối với cha
mẹ đã sinh ra mình thì lần lần nguội lạnh, cách xa!
“Lại có những đứa con gái bất
hiếu, sau khi lên xe hoa về nhà chồng rồi thì hiếm khi thấy về thăm cha mẹ, mà
cũng chẳng còn lòng thương kính cha mẹ!
Thư từ không viết, điện tín
cũng không! Thương cho bậc làm cha làm mẹ, bởi thương con lấy chồng xa nhà mà
phải cơm canh không ngon, ngủ chẳng trọn giấc. Như người miệng lưỡi khô khan,
khao khát uống được giọt nước mát ngọt, tình thương của cha mẹ đối với con cái
cũng giống như vậy, không có giây phút nào không nhớ mong con!
“Công ơn cha mẹ như núi cao
biển rộng, còn tội bất hiếu với cha mẹ thì dù nói thế nào cũng không hết được.”
Sau khi nghe Đức Phật giải
thích rõ công ơn cao cả của cha mẹ, các thầy đều cảm thấy vô cùng đau xót. Mọi
người quỳ xuống ngậm ngùi rơi lệ, thành tâm bày tỏ lòng ăn năn sám hối đối với
những việc bất hiếu trước đây của mình. Các thầy đều hiểu rõ, công ơn cha mẹ
thật sâu dày như núi cao, biển rộng!
Lúc ấy, các vị đệ tử bạch Đức
Phật rằng:
- “Xin đức Thế Tôn rủ lòng
thương xót! Xin Người hãy cứu lấy đàn con ngu dại, cho chúng con có cơ hội
chuộc lại lỗi lầm. Xin chỉ bày cho chúng con biết cách nào để báo đáp thâm ân
cao cả của cha mẹ.”
“Nếu có người bất hạnh sanh vào
thời mất mùa đói kém, vì không muốn song thân bị đói khát nên cắt xẻo da thịt
của chính mình để phụng dưỡng cha mẹ. Việc làm như thế so với ân đức của cha mẹ
chẳng qua cũng chỉ nhỏ nhoi như một hạt bụi mà thôi. Dầu da thịt toàn thân đều
cắt xẻo ra hết cũng không báo đáp được thâm ân của cha mẹ.
“Giả sử có người vì cha mẹ mà
dùng dao sắc nhọn móc lấy hai mắt mình, dâng cúng chư Phật và Bồ Tát, hy vọng
có thể lấy công đức của việc này để hồi hướng, cầu nguyện cho cha mẹ được sống
lâu, mạnh khỏe. Tấm lòng hiếu thảo như vậy thật lớn lao, nhưng cũng không đủ để
báo đáp được thâm ân sâu dày của cha mẹ trong muôn một.
“Hoặc giả có người vì cha mẹ
đốt thân cúng dường Phật và Bồ Tát, mong lấy công đức này hồi hướng nguyện cầu
cho cha mẹ được an vui, sống lâu. Lòng hiếu thảo ấy cũng chưa đủ để báo đáp
được thâm ân của cha mẹ trong muôn một.
“Nếu có người vì cha mẹ mà dùng
dao moi lấy tim gan, dù máu tuôn khắp đất cũng không sợ đau đớn. Lòng hiếu thảo
như vậy vẫn chưa đủ để báo đáp được ân đức cao cả của cha mẹ trong muôn một.
“Giả sử có người vì cha mẹ mà
cam tâm chịu đau đớn cắt xẻo, để cho trăm ngàn mũi dao nhọn đâm xuyên qua thân.
Lòng hiếu thảo như vậy cũng chưa đủ để báo đáp công ơn cha mẹ trong muôn một.
“Ví như có người vì cha mẹ mà
có thể chịu đau đớn khi gân, xương, máu, tủy bị đứt rời tuôn chảy... Nhưng như
vậy cũng chưa đủ để báo đáp được công ơn cha mẹ trong muôn một.
“Hoặc như có người vì cha mẹ mà
nguyện nuốt hết các hòn sắt nóng, dù thân thể bị thiêu cháy, đau đớn thế nào
cũng xin chịu hết. Nhưng việc làm như thế cũng không đủ để báo đáp được thâm ân
của cha mẹ.”
Các bạn trẻ thân mến! Những ví
dụ được nêu ra ở đây là muốn chỉ rõ ra rằng, cho dù con cái có thật tâm làm
được những việc khó làm, chịu đựng hết thảy những điều rất khó chịu đựng, để
mong báo đáp công ơn cha mẹ, thì điều đó cũng chỉ có được một phần kết quả rất
hạn chế. Huống chi những người suốt đời không hề nghĩ đến việc báo đáp công ơn
cha mẹ? Sở dĩ như thế là vì những việc làm vừa kể trên dẫu có khó khăn và thể
hiện sự thành tâm của con trẻ, nhưng cũng chỉ báo đáp được phần nào sự lao nhọc
của cha mẹ mà thôi, chưa thể so sánh được với tình thương bao la không bờ bến
mà cha mẹ đã luôn dành cho con tự thuở lọt lòng. Vì thế, cách duy nhất để báo
đáp công ơn cha mẹ là phải cố gắng tu dưỡng để trở thành người tốt, và khuyên
dạy, chỉ bảo cho nhiều người khác cũng đều trở thành người tốt như mình. Nhờ
công đức đó, may ra mới có thể đáp đền được công ơn cha mẹ.
Lúc ấy, sau khi nghe Đức Phật
nói về ân đức sâu dày không thể kể xiết của cha mẹ, các thầy đều gục đầu khóc
nức nở, cảm thấy đau đớn như có hàng ngàn mũi dao đâm xé trong tâm mình. Nhưng
các thầy đều không biết phải báo đáp công ơn cha mẹ như thế nào, nên cùng nhau
bạch Phật:
- “Bạch đức Thế Tôn! Bây giờ
chúng con mới biết mình là những đứa con bất hiếu, nhưng chúng con biết làm thế
nào đây, thưa Thế Tôn?”
Đức Phật thấy các đệ tử đều có
lòng hổ thẹn, bèn dạy rằng:
“Nếu có thể vì song thân làm
được các việc trên, thì đó đích thực là người con hiếu thảo. Bằng chẳng được
như vậy lại gây thêm nhiều điều ác thì nhất định sẽ rơi vào địa ngục ngay sau
khi chết.”
Cách báo đáp công ơn cha mẹ như
thế này mới thật là trọn vẹn, vì không chỉ giúp cha mẹ đỡ phần lao nhọc mà còn
mở ra con đường tu tập thoát khỏi sinh tử luân hồi. Vì thế, việc sao chép
truyền bá kinh điển là rất quan trọng, có thể giúp cho nhiều được có được sự
hiểu biết chân chánh để làm theo; và sự phát tâm hồi hướng sẽ giúp cho mọi việc
làm phước thiện đều trở nên có ý nghĩa sâu xa, chính đáng hơn. Như vậy, chẳng những
có thể báo đáp được công ơn cha mẹ, mà tự thân mình cũng vĩnh viễn được thoát
khỏi việc tái sinh trong các đường ác: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Rồi Đức Phật dạy tiếp:
- “Những người con bất hiếu,
sau khi chết sẽ đến chịu tội ở ngục Vô gián.
Trong ngục này, bốn phía đều là tường
đồng vách sắt, bên trên giăng đầy lưới sắt, dưới lại có một lớp sắt dày nóng
đỏ. Ngọn lửa từ các phía cháy phủ lại, trên không có thêm những luồng sấm chớp
ngoằn ngoèo. Nước đồng sôi và nước sắt nóng thay nhau rót xối xả lên người phạm
nhân, khiến họ đau đớn đến hồn xiêu phách tán. Thêm vào đó, chó đồng rắn sắt
hung dữ đến giằng xé cắn nuốt người có tội, nên họ không bị phanh thây cũng bị
thiêu nướng. Nỗi khổ nói không bao giờ hết!
“Lại có loại địa ngục trên
không trung giáo mác không ngớt lao xuống đâm chém người có tội, khắp nơi rền
vang tiếng kim khí, cả bầu trời toàn là rừng kiếm, xe đao, do các mũi kiếm nhọn
tạo thành. Tất cả tội nhân đều bị treo ngược lơ lửng giữa không trung nên không
ai không bị đao kiếm đâm chém. Những phạm nhân chịu hình phạt khổ đau cùng cực
như vậy đều là do đã làm những việc ác độc và bất hiếu với cha mẹ.
“Ngoài ra, sau khi chịu xong
hình phạt ở địa ngục này, phạm nhân lại bị đưa vào chịu tội ở một địa ngục
khác. Ví dụ như có địa ngục trên đầu tội nhân phải đội chậu lửa cháy hừng hực,
hoặc có bánh xe sắt nghiền đi nghiền lại trên thân tội nhân khiến ruột gan
xương thịt của họ bị nghiền nát, đau đớn muôn phần.
Các bạn trẻ thân mến! Nói đến
địa ngục thì trong kinh Phật dạy rằng đó chính là sự chiêu cảm bởi các nghiệp
ác mà chúng sinh đã làm. Vì nghiệp ác có vô số hình thức khác nhau, nên địa
ngục cũng có vô số cách hành hình, thọ khổ khác nhau. Những gì được mô tả trên
đây cũng chỉ là một phần tiêu biểu mà thôi, không thể nào nói hết được những
đau đớn khổ sở mà người tạo nghiệp ác phải lãnh chịu. Vì thế, trong kinh Phật
có dạy rằng, cách tốt nhất để tránh được những khổ đau trong địa ngục là đừng
bao giờ làm các điều ác. Bởi vậy, tuy Phật thuyết dạy rất nhiều kinh điển,
nhưng trong kinh Đại Bát Niết-bàn có kệ tóm lại lời Phật dạy như sau:
Không làm các việc ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
Đức Phật lại dạy thêm:
- “Cách tốt nhất để báo đáp
công ơn cha mẹ không gì bằng việc góp sức sao chép hoặc in ấn và phổ biến rộng
rãi kinh này. Nếu in ra được một quyển tức là đã gieo nhân duyên gặp được một
vị Phật cho cha mẹ và chính mình. Nếu in được mười quyển thì về sau có thể gặp
được mười vị Phật. Từ đó mà suy ra, nếu in ra được trăm cuốn, ngàn cuốn thì sẽ
có công đức được gặp trăm ngàn vị Phật.
Sau khi nghe Đức Phật giảng
giải về những tội lỗi nặng nề cùng báo ứng của những người con bất hiếu, tất cả
các thầy tỳ-kheo đều thành tâm sám hối và phát nguyện rằng:
- “Từ nay mãi mãi về sau, cho
dù thịt nát xương tan chúng con cũng nguyện một lòng vâng theo lời dạy của đức
Thế Tôn, không dám sai phạm.
“Cho dù có người dùng móc nhọn
kéo lưỡi chúng con ra, rồi dùng cày sắt cày bừa trên đó như cày ruộng đất, làm
cho máu chảy thành dòng, hoặc dùng bất cứ một thủ đoạn đáng sợ nào để đe dọa
chúng con phải thay đổi lời nguyện hôm nay, thì chúng con thà chịu đau đớn chứ
quyết không bao giờ làm trái lời Phật dạy.”
Các bạn trẻ thân mến! Việc giữ
giới là cực kỳ quan trọng. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn có dạy các thầy tỳ-kheo
rằng: “Sau khi ta nhập diệt, các ông cần phải lấy giới luật làm thầy.” Giữ theo
giới luật cũng chính là ghi nhớ và làm đúng theo lời Phật dạy. Vì thế mà ở đây
các thầy tỳ-kheo đã phát nguyện kiên cố, quyết tâm làm đúng theo lời Phật dạy,
cho dù có phải hy sinh tính mạng cũng không làm sai. Còn các bạn thì sao? Nếu
đã hiểu được những lời Phật dạy là chân lý phù hợp với đời sống chân chánh, bạn
có quyết tâm làm theo hay không? Bạn có tự hứa sẽ trở thành một người con hiếu
thảo, nguyện báo đáp công ơn cha mẹ hay không?
Sau đó, tôn giả A-nan từ
chỗ ngồi đứng dậy, cung kính bạch Phật:
- “Bạch đức Thế Tôn, chúng con
phải gọi tên kinh này là gì để tiện việc giữ gìn và làm theo?”
Lúc ấy, Đức Phật dạy các vị tỳ-kheo
rằng:
- “Kinh này nên đặt tên là kinh
‘Báo đáp công ơn cha mẹ’. Mọi người hãy ghi nhớ và y theo đó thực hành cho
tốt!”
Sau khi nghe lời Phật dạy, các
thầy tỳ-kheo đều tỉnh ngộ và cảm thấy rất vui mừng, trong lòng ngập tràn
niềm hân hoan, nguyện đời đờỉ kiếp kiếp vâng theo lời Phật và mãi mãi không
quên sự hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ.
Sau đó, mọi người cung kính
đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra, pháp hội đến đây kết thúc.
*.
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới
thiệu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét