(Nguồn ảnh: Internet) |
Tìm hiểu về
NGUYÊN LÝ CỦA
NGŨ HÀNH
(Trích từ TỬ VI KIẾN GIẢI của
Đặng Xuân Xuyến ; Thanh Hóa ; 2009)
*
(Tác giả Đặng Xuân Xuyến) |
Tìm hiểu về văn hóa dân
gian, nhất là khi tiếp cận với văn hóa tín ngưỡng như Tử Vi, Tử Bình… mà không
hiểu rõ về nguyên lý của Ngũ hành thì quả thật sẽ rất khó khăn cho người nghiên
cứu. Sự rối rắm, phức tạp về quan niệm tương sinh - tương khắc - tương hòa và
nhất là nguyên tắc chế hóa của ngũ hành rất dễ đưa người đọc rơi vào sự hỗn
độn, lầm tưởng, dễ đưa ra những kết luận sai lệch, kiểu như thầy bói xem voi
trong truyện tiếu lâm Việt Nam.
Nói đến Ngũ hành là nói
đến sự tồn tại của 5 hành có đặc tính rất riêng và hoàn toàn có tính khác biệt
là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Đấy chính là năm trạng thái được hàm chứa
trong vũ trụ và con người. Nhưng ngay trong cùng một hành, sự khác biệt vẫn có
và sự khác biệt đó lại là căn bản để khẳng định tính riêng biệt của 2 hoặc 3
hành đó. Chẳng hạn: Âm Thổ - Dương Thổ, Âm Kim - Dương Kim, Âm Thuỷ -
Dương Thuỷ ...
Thuyết Âm - Dương Ngũ
hành xuất hiện đầu tiên từ thời Trung Hoa cổ đại trong Kinh dịch của Khổng Tử.
Trong đó:
- Âm: Tượng trưng cho mặt trăng (ban
đêm), cho giống cái, bao hàm sự tối tăm, nguội lạnh, sự bất động, sự mềm nhão.
- Dương: Tượng trưng cho mặt trời
(ban ngày), cho giống đực, bao hàm sự sinh động, cứng cáp, sự mạnh mẽ, ấm nóng.
Còn Ngũ hành được ứng
với thiên nhiên, sắc màu và đặc tính của con người. Cụ thể:
- Kim: Tượng trưng cho
mùa thu, cho màu trắng và cho phương Tây. Kim ứng với đức tính NGHĨA của con
người: Tượng trưng cho người sống có nghĩa có tình, luôn thích ứng với những
phép tắc của thiên nhiên và công lý, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng giữ
được bản chất tốt đẹp của một con người chính nhân quân tử.
- Mộc: Tượng trưng cho
mùa xuân, cho màu xanh và phương Đông. Mộc ứng với đức tính NHÂN của con người:
Tượng trưng cho người thanh tịnh, ung dung tự tại, không cạnh tranh mà luôn bao
dung với mọi người, con người hiền hoà như cây cỏ.
- Thủy: Tượng trưng cho
mùa đông, cho màu đen và phương Bắc. Thủy ứng với đức tính TRÍ của con người:
Tượng trưng cho người có trí tuệ, không có điều gì là không thấu đáo, cũng như
nước thì không có vật ngăn cản nào mà không thể tràn qua.
- Hoả: Tượng trưng cho
mùa hạ, cho màu đỏ và cho phương Nam . Hoả ứng với đức tính LỄ của
con người: Tượng trưng cho người sống có lễ, có khuôn phép, tạo nên sự tôn
trọng, tôn kính.
-Thổ: Tượng trưng cho đất, cho màu
vàng và cho trung tâm. Thổ ứng với đức tính TÍN của con người: Tượng trưng cho
con người luôn giữ chữ tín, cũng như thổ thì không bao giờ dịch chuyển vậy.
Trong khuôn khổ bài viết
này, chúng tôi xin mạo muội trình bày một số điểm cần lưu ý về mối quan hệ
tương sinh - tương khắc - tương hòa và nguyên tắc chế hóa của Ngũ hành. Hy vọng
có thể giúp bạn đọc giảm bớt khó khăn khi lần đầu tìm hiểu, tiếp cận với nguyên
lý của Ngũ hành.
A. TìM HIỂU VỀ
ngũ
hành tương sinh
Khi nghe nói Ngũ hành tương sinh, ví dụ như Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc,
Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim thì hiểu nôm na là hành này bồi đắp,
nuôi dưỡng cho hành kia được lớn mạnh và phát triển. Chẳng hạn hành Kim nuôi
dưỡng và bồi đắp cho hành Thủy lớn mạnh và phát triển, hành Thổ nuôi dưỡng và
bồi đắp cho hành Kim lớn mạnh và phát triển...
Quan hệ tương sinh của Ngũ hành được mô tả theo sơ đồ sau:
Giải thích về ý nghĩa của Ngũ hành tương sinh, có thể hiểu đơn giản như
sau:
- Mộc
sinh Hỏa: Mộc là cây cối, có Hỏa ẩn phục bên trong, xuyên thủng Mộc sẽ sinh ra
Hỏa. Vì thế mới nói Mộc sinh Hỏa.
- Hỏa
sinh Thổ: Hỏa đốt cháy cây cối thành tro, tức là Thổ. Vì thế mới nói Hỏa sinh
Thổ.
- Thổ
sinh Kim: Kim bị vùi lấp trong đất đá nên có Thổ tất có Kim. Vì thế mới nói Thổ
sinh Kim.
- Kim
sinh Thủy: Khí của Kim chảy ngầm trong núi, hoặc nhiệt độ làm kim loại nóng
chảy. Vì thế mới nói Kim sinh Thủy.
- Thủy
sinh Mộc: Nhờ có nước mà cây cối sinh trưởng được nên mới nói Thủy sinh Mộc.
Khi tìm hiểu về nguyên lý của Ngũ hành, cũng cần lưu ý một điều: Không phải
cứ tương sinh là được tốt, mà phải hiểu Ngũ hành tương sinh được coi như là tốt
giữa hai hành đó với nhau.
Trong mối quan hệ tương sinh đó sẽ có hai tình trạng sinh xuất và sinh nhập
chứ không thể cùng tình trạng là sinh xuất hay sinh nhập. Có nghĩa, sự tương
sinh chỉ có tính chất một chiều.
Chẳng hạn: Kim sinh Thủy chứ Thủy không sinh Kim, Thổ sinh Kim chứ
Kim không sinh Thổ.
Cũng có quan điểm cho rằng, sự tương sinh sẽ diễn ra hai chiều. Chẳng hạn:
Mộc sinh Hỏa và Hỏa cũng có thể sinh Mộc. Quan điểm này được lập luận: Thủy
sinh Mộc bởi nước đã giúp đất bớt khô, làm cho cây cối sinh trưởng tốt, còn Hỏa
làm cho trời nóng, cây cối khỏi cóng rét nên cũng có thể nói Hỏa sinh ra Mộc.
Quan điểm này không thực tế bởi cách lập luận như thế thật hết sức miên man,
khiên cưỡng nên không thuyết phục.
Quan hệ sinh một chiều sẽ dẫn đến có sự khác biệt giữa hai hành trong mối
tương sinh đó. Cái này sinh cho cái kia thì đó là sự sinh xuất, có nghĩa tình
trạng sinh xuất sẽ thể hiện sự thua thiệt, vất vả để phù trợ cho cái được sinh
(tình trạng sinh nhập). Cái này được
sinh do cái kia sẽ được lợi, được phù trợ do cái kia đem lại. Hiểu nôm na, đơn
giản: hành sinh xuất là cha mẹ, hành được sinh là con cái. Vì cha mẹ sinh ra
con cái nên hết lòng vì con cái, bồi đắp và nuôi dưỡng cho con cái phát triển,
còn con cái, được cha mẹ sinh thành, dưỡng dục nên người, sau này sẽ báo đền ơn
nghĩa của cha mẹ, tuy nhiên, sự báo đáp đó không thể ngang bằng với công lao
trời biển của bố mẹ.
So sánh như vậy để bạn đọc dễ hình dung về mối quan hệ Ngũ hành tương sinh,
dễ đưa ra lời kết luận khi nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là trong văn hóa
tín ngưỡng như Tử vi, Lý số...
Trong quan hệ vợ chồng, sự tương sinh giữa hai bản mệnh là rất cần thiết vì
có sự tương sinh thì vợ chồng mới yêu thương, hòa thuận, mới cùng nhau vun đắp
cuộc sống gia đình được viên mãn. Tuy nhiên, bản mệnh của người vợ phải ở tình
trạng sinh xuất cho bản mệnh của người chồng thì sự tương sinh ấy mới thật sự
là tốt đẹp, hoàn mỹ. Sự sinh xuất đó sẽ giúp người chồng gặp nhiều may mắn, con
đường công danh, sự nghiệp của người chồng sẽ ít gặp những trắc trở, hoặc nếu
có gặp thì sẽ dễ dàng vượt qua. Trường hợp này, dân gian gọi là người có số
vượng phu ích tử. Ngược lại, bản mệnh người vợ được sinh nhập từ bản mệnh của
người chồng thì người vợ sẽ được người chồng yêu thương, chở che, bao bọc. Vì ở
tình trạng sinh xuất nên người chồng không nhận được sự giúp đỡ của vợ, dù chỉ
là “nhờ lộc tuổi của vợ” ... Dù sao, bản mệnh của hai vợ chồng rất cần có sự
tương sinh về ngũ hành để cuộc sống gia đình được hạnh phúc.
Vì có tính chất Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành nên khi nói đến tương sinh,
cần chú ý đến nguyên tắc về Âm - Dương của 2 hành tương sinh đó. Sự tương sinh
chỉ sảy ra khi hai hành đó có tính chất Âm (-), Dương (+) khác nhau, ví
dụ:
Âm Kim sinh Dương Thuỷ
Dương Thổ sinh Âm Kim
chứ nhất quyết không có chuyện:
Âm Kim sinh Âm Thuỷ
Dương Thổ sinh Dương Kim
Có quan điểm cho rằng: Sự tương sinh chỉ sảy ra một chiều, theo hướng khí
Âm (-) sinh khí Dương (+), chứ không thể khí Dương (+) sinh khí Âm (-). Chẳng
hạn: cùng là Thổ và Kim nhưng chỉ có Âm Thổ sinh Dương Kim, chứ Dương Thổ không
sinh được Âm Kim. Quan điểm này không chấp nhận được vì đã hiểu không đúng về
nguyên lý Âm Dương trong dịch lý. Cổ nhân nói: Trong Âm có Dương và trong Dương
có Âm, Âm cực sinh Dương và Dương cực sinh Âm. Ví dụ: Không khí là Dương, nước
là Âm. Trong không khí (Dương) có hơi nước (Âm) và trong
nước (Âm) có bọt khí (Dương).
Dịch lý cho rằng: Âm Dương thuận lý (tức là khí Âm (-) và khí Dương
(+) dung nạp, hòa hợp nhau) để biến sinh ra vạn vật, con người. Triết lý
Âm - Dương khẳng định: Âm và Dương là hai thực thể ngoại tại, tự thân chuyển
hóa lẫn nhau. Ví dụ: Không khí khi gặp lạnh sẽ tạo thành mưa, nước khi gặp nóng
sẽ bốc hơi tạo thành khí; hoặc hết ngày thì đến đêm, hết mưa thì sẽ nắng.... Vì
thế, quan điểm cho rằng chỉ có khí Âm (-) mới sinh được khí Dương (+) còn khí
Dương (+) không thể sinh được khí Âm (-) là hiểu sai về thuyết Âm Dương Ngũ
hành.
Bên cạnh việc căn cứ vào Âm Dương của Ngũ hành, cần phải cân nhắc, xem xét
đến yếu tố thứ 3 là bản chất lý tính của Ngũ hành (tức nạp âm thủ tượng, còn gọi nạp âm ngũ hành) của các hành đó
để đưa ra kết luận: Thực chất mối quan hệ tương sinh của các hành đó như thế
nào? Không thể cứ thấy đặc tính Ngũ hành tương sinh là khẳng định luôn các hành
đó tương sinh, cũng không thể chỉ thấy thuận lý Âm (-) Dương (+) thì cho rằng
như thế là được.
Biết rằng Thủy sinh Mộc nhưng phải biết đó là Thủy gì, Mộc gì ... chứ không
thể cứ thấy Thủy với Mộc là khẳng định đó là tương sinh. Phải biết bản chất lý
tính của các hành đó là gì để căn cứ mà luận giải. Chẳng hạn Bình Địa Mộc (Mậu Tuất - Kỷ Hợi: Cây đất bằng) rất
cần có Thiên Hà Thủy (Bính Ngọ - Đinh
Mùi: nước mưa trên trời) tưới xuống để tốt tươi, lớn mạnh, ngược lại,
nếu Bình Địa Mộc gặp Đại Hải Thủy (Nhâm
Tuất - Quý Hợi: Nước biển rộng) thì cây non mới đâm cành trổ lá làm
sao mà tồn tại nổi.
Tương tự như vậy, khi nói Hỏa sinh Thổ cũng không thể hiểu Hỏa nào cũng
sinh được Thổ, ví dụ, Thiên Thượng Hỏa (Mậu
Ngọ - Kỷ Mùi: Lửa trên trời) không sinh được Bích Thượng Thổ (Canh Tý - Tân Sửu: Đất trên vách) mà
còn làm cho Bích Thượng Thổ bị hủy diệt.
Ngay cả khi bản chất lý tính của Ngũ hành được tương sinh nhưng chắc chắn
sẽ có ý kiến khác nhau, thậm chí còn trái ngược. Chẳng hạn, lấy tuổi Mậu Tuất
với tuổi Bính Ngọ làm ví dụ.
- Ý kiến thứ nhất cho rằng rất đẹp vì được tương sinh hai cấp độ (đặc
tính và lý tính).
- Ý kiến thứ hai cho rằng không được đẹp lắm vì không thuận lý Âm Dương.
- Ý kiến thứ ba cho rằng bình thường, vì Ngũ hành từ khí mà ra nên Âm (-)
Dương (+) là quan trọng. Dù được tương sinh ở 2 cấp độ nhưng sự nghịch lý Âm
(-) Dương (+), coi như vứt bỏ.
Đây chính là sự phức tạp của thuyết Âm Dương Ngũ hành, làm cho người mới
tìm hiểu, tiếp cận với Lý số học sẽ như lạc vào một trận đồ bát quái, khó tìm
được đường ra.
Như vậy, mối quan hệ tương sinh của Ngũ hành không đơn giản như cách hiểu
nôm na theo sơ đồ tương sinh đã nêu ở trang trước, mà khá phức tạp. Cũng lưu ý
rằng, khi tìm hiểu về Ngũ hành tương sinh, bạn đọc nhất định phải chú ý đến 3
yếu tố sau:
1. - Đặc tính của Ngũ hành và tình trạng sinh xuất - sinh nhập.
2. - Tính chất Âm - Dương của Ngũ hành.
3. - Bản chất lý tính của Ngũ hành (còn gọi là nạp âm Ngũ hành).
Trong dân gian, có quan điểm cho rằng chỉ cần yếu tố thứ (3) là đủ, không
cần thiết phải thêm 2 yếu tố (1) và (2), vì như thế chỉ thêm phức tạp, rối rắm.
Nhưng cũng có quan điểm lại chú trọng tới yếu tố (1) và (2), bỏ qua hoàn toàn
yếu tố nạp âm của Ngũ hành vì cho rằng như thế chỉ tăng thêm sự rối ren không
cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, sự kết hợp cả 3 yếu tố là điều cần
thiết, không nên coi nhẹ bất kỳ yếu tố nào.
Chúng ta đều biết nạp âm Ngũ hành là sự phân chia ra 30 hành chi tiết của 5
hành cơ bản, để giải thích những sự phức tạp của quá trình sinh - khắc một cách
hợp lý hơn khi áp dụng năm sinh để dự báo sự xung - hợp của tính tình con
người.
Chúng tôi nghĩ rằng: Trong các trường hợp, khi bản chất lý tính của ngũ
hành được xác định rõ ràng (nạp âm ngũ hành), thì sự kết hợp cả 3 yếu tố
để luận giải sẽ tăng thêm độ chính xác, tin cậy của lời giải đoán, nhưng trong
các trường hợp khác, khi lý tính của ngũ hành không thể xác định thì việc cân
nhắc 2 yếu tố (1) và (2) là điều tiên quyết. Chẳng hạn, khi luận giải về giá
trị của các sao trong lá số tử vi, người luận giải đương nhiên phải căn cứ vào
đặc tính ngũ hành của các sao và vị trí Âm Dương của các sao để đưa ra lời kết
luận. Trong những trường hợp như vậy, chỉ chú trọng tới yếu tố thứ 3 sẽ làm cho
người đoán giải hoàn toàn rơi vào bế tắc.
Chúng tôi đưa ra nguyên tắc hội tụ 3 yếu tố trên để bạn đọc linh hoạt trong
từng trường hợp. Chúng tôi cũng sẽ không đề cập lại vấn đề này khi bàn về Ngũ
hành tương khắc, tương hòa hay quy luật chế hóa của Âm Dương ngũ hành ở những
trang sau.
B. TìM HIỂU VỀ
ngũ
hành tương khắc
Nói đến Ngũ hành tương khắc là nói đến sự xung khắc giữa các hành với nhau,
hay gọi đúng tên bản chất của sự tương khắc là hành này khống chế và làm cho
hành kia bị suy yếu, hủy diệt.
Nếu Ngũ hành tương sinh được hiểu là sự nuôi dưỡng, bồi đắp của hành này
cho hành kia phát triển và lớn mạnh, được coi như là tốt giữa 2 hành đó, thì
Ngũ hành tương khắc lại được coi là xấu giữa 2 hành. Ví dụ: Kim khắc Mộc, có
nghĩa Kim khống chế, làm cho Mộc bị suy yếu, hủy diệt; Thủy khắc Hỏa, Thổ khắc
Thủy ... cũng tương tự như vậy.
Vậy Ngũ hành tương khắc có nghĩa như thế nào? Hiểu đơn giản, có quy luật
tương khắc vì:
1. Mộc
khắc Thổ: Cây cối cắm rễ vào đất, hút chất màu mỡ của đất, làm khô nẻ đất đá
nên mới nói Mộc khắc Thổ.
2. Thổ
khắc Thủy: Đất hút cạn nước, hoặc ngăn chặn dòng chảy của nước nên nói Thổ khắc
Thủy.
3. Thủy
khắc Hỏa: Nước dập tắt lửa hoặc làm suy yếu cường độ của lửa nên mới nói Thủy
khắc Hỏa.
4. Hỏa
khắc Kim: Lửa nóng làm cho kim loại biến dạng, suy yếu, hoặc tan chảy nên mới
nói Hỏa khắc Kim.
5. Kim
khắc Mộc: Kim loại làm đổ cây cối, chế tác cây cối thành vật dụng nên mới nói
Kim khắc Mộc.
Quan hệ tương khắc của Ngũ hành được mô tả theo sơ đồ sau:
Không giống như Ngũ hành tương sinh, cơ bản như là tốt cho cả 2 hành vì không
có sự khắc, đặc biệt tốt cho hành được sinh (tình trạng sinh nhập) và tốt ít, hoặc không xấu cho hành bị
sinh (tình trạng sinh xuất). Trong
mối quan hệ tương khắc của Ngũ hành thì dù khắc xuất hay khắc nhập đều xấu, sự
xấu ít hay xấu nhiều, phụ thuộc vào hành đó ở trong tình trạng khắc xuất hay bị
khắc nhập.
Khắc xuất hiểu nôm na là mình khống chế được người khác, làm cho người đó
bị suy yếu, hủy diệt. Còn khắc nhập là mình là người yếu thế, bị người khác
khống chế, làm cho mình bị suy sụp, hủy diệt. Dù ở tình trạng khắc xuất thì sự
hao tổn, suy kiệt vẫn sảy ra. Ví dụ, muốn dập tắt được lửa buộc phải tiêu hao
lượng nước nhất định, muốn ngăn được nước buộc phải có lượng đất đủ để đắp đập,
ngăn bờ, thấm hút... Như vậy, dù ở tình trạng khắc xuất hay khắc nhập thì sự
suy yếu cho bản thân vẫn sảy ra, đặc biệt là xấu nhất khi ở tình trạng khắc
nhập, vì đó là tình trạng bị đối phương làm cho suy yếu, rất dễ dẫn đến bị huỷ
diệt.
Vì Ngũ hành được biến sinh từ 2 khí Âm - Dương nên khi tìm hiểu về Ngũ hành
tương khắc, nguyên tắc chú ý đến tính Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành không thể
bỏ qua.
Chúng ta đều biết, hai hành có cùng Âm (-) hoặc cùng Dương (+) thì sẽ không
sinh cũng như không khắc vì hai hành này có tính đối kháng, sẽ đẩy nhau ra xa,
mỗi hành lại ở một vị trí nên không thể có chuyện sinh, khắc.
Ví vụ: Dương Thổ không sinh Dương Mộc
Âm Kim không khắc Âm Mộc
Mối tương quan sinh - khắc của Ngũ hành được hiểu như vậy nên trong khoa Tử
vi mới có sự lưu ý đặc biệt:
4 cung Thìn - Tuất - Sửu - Mùi đều thuộc Thổ và chia ra 2 cặp cùng khí
Dương (+) là Thìn - Tuất và cùng khí Âm (-) là Sửu - Mùi. Nên sẽ không có sự
đối kháng giữa Thìn và Tuất, Sửu và Mùi như các cặp còn lại như: Tý - Ngọ, Mão
- Dậu, Tỵ - Hợi, Dần - Thân.
Tại sao vậy? Vì Thìn - Tuất đều là Dương Thổ, Sửu - Mùi đều là Âm Thổ nên
không có sự đối kháng. Nhưng các cặp còn lại Tý (Dương Thủy) - Ngọ (Dương Hỏa),
Mão (Âm Mộc) - Dậu (Âm Kim), Tỵ (Âm Hỏa) - Hợi (Âm Thủy) và Dần
(Dương Mộc) - Thân (Dương Kim). Tuy các cặp này đều cùng thể chất khí
(cùng Âm hoặc cùng Dương) nhưng đặc tính của hành lại khắc nhau nên mới có
sự đối kháng (Thủy >< Hỏa, Kim >< Mộc) như vậy.
Trong mối quan hệ vợ chồng, nếu tuổi vợ và chồng ở thế tương khắc thì
trường hợp tuổi chồng khắc tuổi vợ còn khả dĩ chấp nhận phần nào, nhưng nếu tuổi
vợ lại khắc tuổi chồng (ví dụ tuổi vợ là Bính Thìn khắc tuổi chồng là Bính
Ngọ) thì quả thật trường hợp này đúng là “nghi bại nghi vong” - Người vợ
sẽ đem lại những bất hạnh, đắng cay cho người chồng. Đây là điều tối kỵ trong
việc kết duyên đôi lứa theo thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Nghiên cứu về sự tương khắc của Ngũ hành, thì nguyên tắc căn cứ vào Ngũ
hành của nạp âm thủ tựơng nhất quyết phải được chú trọng. Đây là yếu tố quan
trọng để lý giải tại sao tương sinh mà lại không tương sinh, tương khắc mà thực
chất lại không tương khắc.
Chẳng hạn, tuổi Bính Ngọ và Bính Thìn
Xét về đặc tính của Ngũ hành thì tuổi Bính Ngọ có bản mệnh là Thủy, còn
tuổi Bính Thìn có bản mệnh là Thổ, sẽ xung khắc vì: Thổ làm cho Thủy (Thổ khắc
Thủy) bị hao kiệt, suy yếu, thậm chí bị hủy diệt. Xét đến âm dương của nạp
âm ngũ hành thì Bính Thìn là dương Thổ, Bính Ngọ là dương Thủy, thì hai tuổi
này cũng sẽ không có sự tương khắc mà chỉ đối kháng nhau, đẩy nhau ra xa và
không thể có sự hủy diệt nhau vì đều là Dương (+), nhưng nếu xét về bản chất lý
tính (nạp âm Ngũ hành) thì Sa Trung Thổ (đất bồi bờ biển, còn gọi đất
trong cát) không thể làm hại được Thiên Hà Thủy (nước sông trên trời,
còn gọi nước trời mưa) vì các loại Thổ (đất) không thể hút được nước trên
trời, ngược lại còn bị nước sông trời (nếu nhiều) sẽ làm cho tan rã, hư hại.
Như vậy, tuổi Bính Thìn và Bính Ngọ về cơ bản không có sự xung khắc gay
gắt, không dẫn đến cảnh “hủy diệt” lẫn nhau, nhưng vì đều là khí dương (+) nên
sẽ không hợp nhau, không làm tốt cho nhau mà luôn đẩy nhau ra xa, cản trở nhau
trong mọi công việc.
Lưu ý: Đây là xét về Âm Dương Ngũ hành thì là vậy nhưng không thể cứ
là nữ Mệnh Bính Thìn (Thổ) và nam Mệnh Bính Ngọ (Thủy) sẽ đều như vậy. Sự gia
giảm về hệ quả của sự kết hợp vợ chồng phần lớn phụ thuộc vào lá số của mỗi
người trong mỗi cặp vợ chồng, vì thế mới có sự khác biệt khi so sánh hạnh phúc
giữa các cặp vợ chồng có bản Mệnh giống nhau. Tuy nhiên, tất cả các cặp vợ
chồng trong trường hợp này đều gặp trục trặc, không ít thì nhiều trong cuộc
sống lứa đôi, chứ không thể thuận hòa như những cặp vợ chồng các tuổi khác
được.
Hay như tuổi Nhâm Tuất, Quý Hợi có bản mệnh là Đại Hải Thủy (nước biển
rộng mênh mông), đặt cạnh Thiên Thượng Hỏa (nạp âm thủ tượng của tuổi Mậu
Ngọ, Kỷ Mùi) thì lại tốt bởi Đại Hải Thủy dung nạp tất cả nước sông ngòi
đổ xuống nên rất cần có Thiên Thượng Hỏa chiếu xuống làm thành cách thủy
bổ dương quang. Như vậy, trong trường hợp này tưởng như khắc mà lại không xung
khắc.
Luận bàn về Ngũ hành tương khắc, cổ nhân có 3 cách như sau:
Cách 1: Lấy đặc tính Ngũ hành và Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
Cách 2: Lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản (nạp âm Ngũ hành).
Cách 3: Kết hợp cả 2 cách trên.
Theo kinh nghiệm, chúng tôi chọn cách 3 làm cơ sở cho việc luận giải. Thực
tế, sự tương sinh - tương khắc - tương hòa của Ngũ hành không đơn giản. Để lý
giải được mối quan hệ tương sinh - tương khắc - tương hòa nào đó, nếu chỉ lấy
đặc tính của Ngũ hành và Âm - Dương Ngũ hành làm căn bản sẽ dễ dẫn đến kết luận
phiếm diện. Nếu chỉ lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản sẽ có nhiều trường hợp
người đoán giải đành chịu bó tay. Vì vậy, khi xét về Âm Dương Ngũ hành bạn đọc
nên lưu ý nguyên tắc:
- Lấy đặc tính của Ngũ hành làm căn bản.
- Lấy Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
- Lấy lý tính của nạp âm Ngũ hành làm căn bản.
Cần lưu ý, khi luận giải về tương sinh - tương khắc - tương hòa hoặc quy
luật chế hóa của Ngũ hành, người đoán giải phải phải linh hoạt, không được tuân
thủ một cách máy móc, tùy theo từng trường hợp, mà có sự linh hoạt, không vì
quá coi trọng một yếu tố nào mà đưa ra lời kết luận phiến diện, dẫn đến lời
luận giải thiếu chính xác, thậm chí còn bế tắc.
C. TìM HIỂU VỀ
ngũ
hành tương hòa
Nói đến quy luật tương
khắc là nói đến sự khống chế của hành này tới hành kia, làm cho hành bị khống
chế sẽ suy yếu, bị huỷ diệt. Còn nói đến quy luật tương hòa của Ngũ hành là nói
đến sự hòa hợp vì cùng tính chất của 2, 3 hoặc 4 hành. Ví dụ: Thổ hòa Thổ, Kim
hòa Kim, Thủy hòa Thủy, Mộc hòa Mộc, Hỏa hòa Hỏa.
Chữ tương ở đây có nghĩa
chỉ sự liên quan giữa Ngũ hành. Chữ hòa ở đây có nghĩa là chỉ sự thích hợp để
duy trì và tồn tại. Chính vì có sự hòa hợp về đặc tính đó nên quy luật tương
hòa được xem như là tốt cho các hành đó.
Cũng như quy luật Ngũ
hành tương sinh - Ngũ hành tương khắc, ở quy luật Ngũ hành tương hòa này, người
nghiên cứu không thể bỏ qua quy luật Âm - Dương của Ngũ hành.
Tính chất trong Âm (-)
có Dương (+), trong Dương (+) có Âm (-), Âm (-) cực sinh Dương (+), Dương (+)
cực sinh Âm (-) của dịch lý nên khi 2 hành tương hòa, nếu có một Âm (-) và một
Dương (+) thì sự phù hợp và phù trợ nhau sẽ rất đắc lực.
Ví dụ: Dương Thổ và Âm
Thổ, Dương Thủy và Âm Thủy, Dương Hỏa và Âm Hỏa, Dương Kim và Âm Kim, Dương Mộc
và Âm Mộc.
Nhưng, nếu 2 hành tương
hòa đó cùng khí Âm (-) hoặc cùng khí Dương (+) thì sự hòa hợp đó trở thành vô
nghĩa. Ví dụ: Dương Thổ và Dương Thổ, Âm Thủy và Âm Thủy, Dương Mộc và Dương
Mộc... Trong trường hợp này, sự tương hòa về đặc tính của các hành đó không tốt
mà cũng không xấu.
Khi tìm hiểu về nguyên
lý Ngũ hành tương hòa, bạn đọc cũng không thể bỏ qua yếu tố nạp âm Ngũ hành, để
hiểu rõ thực ra sự tương hòa đó có tồn tại hay không?
Khi nhắc đến quy luật
tương hòa của Ngũ hành, tại sao lại có câu: Lưỡng Hỏa thì Hỏa diệt, lưỡng Thủy
thì Thủy kiệt ... ?
Đây chính là sự phức tạp
nhưng khá tinh tế và linh hoạt của cổ nhân khi lấy Âm Dương Ngũ hành làm căn
bản cho sự vận động không ngừng của vũ trụ. Rõ ràng sự đồng tính chất của Ngũ
hành, chưa hẳn đã là điều tốt đẹp mà còn phụ thuộc vào sự hòa hợp, thuận lý Âm
Dương của Ngũ hành, tức lý tính của Ngũ hành. Đây cũng chính là nguyên tắc
bất di bất dịch khi tìm hiểu về nguyên lý chuyển dịch của Ngũ hành.
Lấy 2 tuổi có bản mệnh
là Đại Hải Thủy với Giản Hạ Thủy làm ví dụ.
Đại Hải Thủy có nghĩa là
nước biển rộng mênh mông, là nơi dung nạp mọi nguồn nước từ sông, suối đổ về.
Trong khi Giản Hạ Thủy chỉ là nước dưới khe suối, như vậy, sự kết hợp giữa 2
hành Thủy này tưởng rằng được tương hòa nhưng thực chất là gần như tương khắc,
bởi Đại Hải Thủy đã hút hết nước của Giản Hạ Thủy, làm cho Giản Hạ Thủy bị suy
yếu, thậm chí bị cạn kiệt.
Hay như Sơn Hạ Hỏa là
lửa chân núi rất sợ Tính Lịch Hỏa (lửa sấm sét) vì nếu có sự kết hợp
giữa 2 loại Hỏa này thì Sơn Hạ Hỏa sẽ bị Tính Lịch Hỏa tiêu diệt ánh sáng. Đây
chính là ví dụ của cách “lưỡng Hỏa thì Hỏa diệt”.
Tóm lại, khi tìm hiểu về
Ngũ hành tương hòa, người đọc nhất thiết cũng phải tuân thủ nguyên tắc 3 yếu tố:
- Lấy đặc tính của Ngũ
hành làm căn bản.
- Lấy Âm Dương của Ngũ
hành làm căn bản.
- Lấy lý tính của Ngũ
hành làm căn bản.
Cả 3 yếu tố trên đều
phải được cân nhắc và chú trọng như nhau, không coi nhẹ bất cứ yếu tố nào, cho
dù yếu tố thứ 3 có thể coi là yếu tố quan trọng, có giá trị gần như quyết định
nguyên lý tương sinh - tương khắc và tương hòa của Ngũ hành trong khá nhiều
trường hợp. Tuy nhiên, tùy theo từng trường hợp, người luận giải phải uyển
chuyển, linh hoạt để có lời kết luận xác đáng.
D. SỰ
CHẾ HÓA
của
ngũ hành
Ngũ hành không chỉ có
tương sinh - tương khắc - tương hòa mà còn bổ trợ, khống chế lẫn nhau. Sự mâu
thuẫn này thể hiện rõ trong quy luật chế hóa của Ngũ hành. Sự sinh - khắc qua
lại của Ngũ hành chắc chắn sẽ đưa đến một mê hồn trận cho người giải đoán. Đây
là sự phức tạp cố hữu, không thể giản lược, làm cho việc dự đoán (nhất là
trong Tử vi) càng trở nên phức tạp.
Giữa các Ngũ hành, dù
mối quan hệ tương sinh hay tương khắc thì mối quan hệ đó đều có hai mặt. Sự ảnh
hưởng qua lại giữa các hành với nhau trong cùng mối quan hệ (tương sinh
hay tương khắc) đã duy trì cho sự cân bằng và điều hòa của sự vật trong
quá trình phát triển và biến hóa. Đây chính là quy luật chế hóa của Ngũ hành.
Quy luật chế hóa của ngũ
hành được cổ nhân lý giải như sau:
1. Sự chế hóa của hành Kim:
Kim vượng gặp Hỏa mới
thành vật hữu ích.
Kim sinh được Thủy nhưng
Thủy nhiều tất Kim sẽ bị chìm.
Kim khắc được Mộc nhưng
Mộc cứng thì Kim tất bị sứt mẻ.
Kim nhờ Thổ sinh nhưng
Thổ nhiều thì Kim tất bị vùi lấp.
2. Sự chế hóa của hành Thuỷ:
Thủy sinh được Mộc nhưng
Mộc nhiều thì Thủy tất bị yếu đi.
Thủy vượng gặp Thổ mới
biến thành sông ngòi, ao hồ, đại dưong.
Thủy khắc Hỏa nhưng Hỏa
nhiều thì Thủy bị cạn khô.
Thủy nhờ Kim sinh nhưng
Kim nhiều tất Thủy sẽ bị vẩn đục.
3. Sự chế hóa của hành Mộc:
Mộc vượng gặp Kim mới
thành vật hữu ích.
Mộc nhờ Thủy sinh nhưng
Thủy nhiều thì Mộc bị dạt trôi.
Mộc sinh được Hỏa nhưng
Hỏa nhiều thì Mộc tất bị đốt cháy.
Mộc khắc được Thổ nhưng
Thổ cứng thì Mộc tất bị gãy đổ
4. Sự chế hóa của hành Hỏa:
Hỏa vượng gặp Thủy mới
thành sức mạnh.
Hỏa khắc được Kim nhưng
Kim nhiều thì tất Hỏa sẽ bị tắt.
Hỏa nhờ Mộc sinh nhưng
Mộc nhiều thì Hỏa tất bị yêú đi.
Hỏa sinh được Thổ nhưng
Thổ nhiều thì Hỏa tất bị u ám.
5. Sự chế hóa của hành Thổ:
Thổ vượng gặp Mộc thì
thành hanh thông.
Thổ được Hỏa sinh nhưng
Hỏa nhiều thì Thổ sẽ bị đốt cháy.
Thổ khắc Thủy
nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị cuốn trôi.
Thổ sinh được Kim nhưng
Kim nhiều thì Thổ tất thành ít.
Mối quan hệ khắc chế của
các hành cũng không khác gì một mê hồn trận, khiến người tiếp cận lần đầu với
thuyết Âm Dương Ngũ hành trở nên lúng túng, võ đoan
Bên cạnh việc căn cứ vào
đặc tính của Ngũ hành để hiểu được quy luật chế hóa của Ngũ hành trong các mối
quan hệ tương sinh - tương khắc - tương hòa, người luận giải cần kết hợp với
nạp âm Ngũ hành để lời giải đoán tăng độ chính xác .
Để thuận tiện cho việc
tra cứu của bạn đọc, chúng tôi giới thiệu dưới đây bảng mệnh của đời người
trong Lục thập hoa giáp.
E. QUAN HỆ GIỮA
ngũ
hành với con người
Vốn có thể chất, lại sinh khắc chế hóa lẫn nhau, tạo nên sự suy hủy và phát
triển nên nói tới Ngũ hành là nói đến cách hành xử của con người thế tục, nói
tới 2 khí Âm (-) và Dương (+) là nói tới hành xử của con người thoát
tục.
Chính vì lẽ đó mà cổ nhân đã căn cứ vào Âm Dương, Ngũ hành để “tiên liệu”
diện mạo, vóc dáng và bản tính của con người. Chẳng hạn, trong tướng thuật, cổ
nhân quan niệm: Hai mặt Âm, Dương kết hợp với nhau thành một thể
thống nhất không thể tách rời. Trong Âm có Dương và trong Dương cũng có
Âm. Ví dụ:
- Đàn ông là Dương, đàn bà là Âm.
- Xương là Dương, còn thịt là Âm.
- Mặt phía bên trái là Dương, mặt phía bên phải là Âm; nửa mặt bên trên là
Dương, nửa mặt phía dưới là Âm; phần lồi của khuôn mặt là Dương, còn phần lõm
là Âm.
- Thân trước là Dương, thân sau là Âm; mặt trái là Dương mặt phải là Âm.
* Các dạng của Âm và Dương:
- Dương hòa: Đó là tình trạng người có Dương mạnh mẽ
nhưng được tiết chế đúng mức. Dương hòa được biểu hiện với các đặc điểm như:
- Đầu tròn, có góc cạnh (mắt dài, có tụ thần), mặt hơi vuông, trán có xương
tròn nổi rõ và đỉnh đầu bằng phẳng. Sắc diện hài hòa, đi đứng oai nghiêm, tự
nhiên. Nói năng có ngữ điệu phù hợp với câu chuyện. Có tính quyết đoán và tư
tưởng khoáng đạt.
- Lông mày xếch, cao, có hình chữ nhân, sợi lông mày hướng lên phía trên.
Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không lộ liễu, sơn căn nổi cao gần như ăn thẳng lên ấn
đường.
- Kháng Dương: Ngược lại với Dương hòa, Kháng Dương là
người có tính Dương quá mạnh nhưng lại không có sự tiết chế đúng mức. Kháng
Dương được biểu hiện với các đặc điểm như sau:
- Đầu tròn, đỉnh đầu nhọn, mắt lồi, tia mắt sáng, lông mày ngắn, cong và
mọc lên trên, tai nhọn và dựng đứng. Tiếng nói lớn và giọng điệu thô
kệch, khàn rè. Ngũ nhạc nổi tròn và đầu có dạng tròn nhỏ.
- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục. Tính tình thô lỗ, nóng nảy,
không nghĩ trước nghĩ sau.
- Âm thuận: Người có tính Âm rõ ràng nhưng không
quá uỷ mị, hèn yếu, được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu tròn, ấn đường bằng phẳng và rộng. Lông mày hơi cong, mắt dài, mặt
hơi vuông, nhưng nét tròn vẫn là cơ bản. Ngũ nhạc có dáng hình tròn nhưng không
nổi bật.
- Tiếng nói nhỏ, từ tốn, ngữ điệu vừa phải và âm thanh trong trẻo, rõ ràng.
Sắc diện hoà nhã, cách cư xử khéo léo, ôn hoà...
- Cô Âm: Người tính Âm thuần tuý, không có tính
Dương. Người Cô Âm được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu và mặt có hình vuông hoặc thiên lệch về hình vuông; Đầu lớn mà khuôn
mặt lại quá nhỏ, nếu nhìn chính diện khuôn mặt thì thấy bằng phẳng, nhưng khi
nhìn nghiêng lại thấy phần giữa lõm xuống. Sắc diện lúc nào trông cũng u uất.
- Lông mày đậm, ngắn, thô và mọc lan rộng xuống tận bờ mắt; mắt sâu; tóc ít
trong khi râu ria thì quá rậm rạp.
- Giọng điệu chậm rãi mà lại có xen kẽ những âm thanh chói tai hoặc nói
nhanh mà lại bị đứt đoạn. Cư xử luôn thể hiện cho người khác thấy sự tính toán,
vụ lợi ở trong đó.
- Âm thác: Người có tính Âm nhưng lại có pha trộn
quá nhiều tính Dương, làm cho Âm tính bị suy yếu. Người Âm thác được biểu hiện
bằng những đặc điểm sau:
- Đầu vuông, mặt tròn, trung nhạc nổi lên cao trong khi 4 nhạc trũng xuống.
- Người nhiều thịt xương nhỏ; lông mày rậm lan xuống tận bờ mắt; chân tóc
mọc thấp xuống trán; Đàn ông có nhiều râu ria và giọng nói khô khan. Nếu là nữ
giới thì có cử chỉ, hành động mạnh bạo như nam giới.
- Dương sai: Người có tính Dương quá yếu và bị tính
Âm lấn át, được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu to, mắt nhỏ; phía trước lớn, phía sau nhỏ. Trung nhạc trũng xuống
trong khi những nhạc khác lại nẩy nở, cao ráo.
- Người nhiều xương ít thịt; mặt lộ mà không có lông mày; Người to mà giọng
thì nhỏ.
- Mắt to, sắc mặt ảm đạm; thân hình cứng cỏi, nam tính mà bước đi lại ẻo lả
như con gái.
Đó là nhân dạng con người theo Âm - Dương, còn Ngũ hành thì sao?
Cổ nhân chia ra làm năm loại nhân dạng người theo Kim - Mộc - Thủy - Hỏa -
Thổ. Tất nhiên, chúng ta không thể tin vào những điều “tiên liệu” này, bởi sự
phi lý khi cổ nhân đưa ra khái quát về diện mạo, tính cách, nghề nghiệp, bệnh
tật ... của nhân loại “gói ghém” qua 5 mẫu người. Dù sao, khi tìm hiểu về
nguyên lý Âm Dương Ngũ hành của văn hóa dân gian, chúng ta cũng nên tìm hiểu
qua về vấn đề này.
Vậy cổ nhân quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa Ngũ hành với con
người? Qua Ngũ hành, nhân loại có hình dáng, tính tình, sức khỏe và cuộc sống
ra sao? Chúng tôi xin lược soạn để bạn đọc tham khảo.
1. Người thuộc Mộc:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Mộc có nước da hơi xanh, hai bàn tay
dày, ngón tay ngón chân dài, mũi dài, thân mình cao vừa phải và hơi gầy; chân
mày thưa, râu cũng thưa; cằm vuông, miệng vuông; môi hơi dày, răng bằng và hai
răng cửa hơi lớn; đi đứng nhanh nhẹn, cử chỉ lanh lẹ, tiếng nói đều đều nhưng
âm lượng hơi cao. Nhìn chung, người thuộc Mộc ít gặp những bất trắc lớn trong
cuộc đời, dẫu sống trong cảnh nghèo đói vẫn được yên ổn.
Người Mộc vượng thường có tầm vóc cao, tay chân dài, khoé miệng tươi, sắc
mặt sáng, da trắng đẹp. Là người thanh cao, khảng khái, có lòng bác ái. Tuy
nhiên, nếu Mộc quá vượng thường hay mắc bệnh về gan, mật, thần kinh hoặc xương
khớp.
Người Mộc suy thì tóc thưa, vóc người gầy, tính cách hẹp hòi, đố kỵ, bất
nhân, bất nghĩa. Nếu người Mộc quá suy thì cũng hay mắc các bệnh như người Mộc
quá vượng, nhưng thường dễ mắc các bệnh về gan, mật hơn người Mộc quá vượng.
Người mà Mộc khí tử tuyệt thì lông mày không ngay ngắn, cổ dài, yết hầu lộ,
da thịt kém tươi, tính cách biển lận, hay lừa dối.
Nhìn chung, người thuộc Mộc hợp với phương Đông, làm về các nghề mộc, giấy,
trồng hoa, cây giống, hương liệu, đồ tế lễ hoặc kinh doanh về các nghề trên thì
thường dễ dàng, may mắn.
2. Người thuộc Hỏa:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Hỏa có nước da vàng, râu vàng, mũi
lộ; lông mày thưa, ngực nổi, bàn tay nhọn, trán dô; môi cong, răng lộ và nhỏ
nhọn; đầu bằng và đỉnh đầu bằng; tay chân gầy khẳng, gân guốc; điệu bộ nhanh
nhẹn; tai nhọn, tròng mắt khô; lưỡng quyền cao và tiếng nói mau.
Người mà Hỏa vượng thì đầu nhỏ, chân dài, mày rậm, tai nhỏ, vóc người trên
nhọn dưới nở, tinh thần hoạt bát, tính nóng gấp nhưng lễ độ với mọi người. Tuy
nhiên, nếu người Hỏa quá vượng thì dễ mắc các bệnh về hệ tiêu hoá, tuần hoà,
hoặc bệnh phần mặt, răng, lưỡi.
Người mà Hỏa suy thì dáng người góc nhọn, tướng gầy, da vàng, nói
năng ề à, dối trá, bản tính cay độc, làm việc thường chỉ nhiệt tình, hăng hái
được lúc đầu, sau đó bỏ bê, có đầu mà không có cuối. Người Hỏa quá suy, cũng
thường dễ mắc các bệnh như người Hoả quá vượng, tuy nhiên, dễ mắc những bệnh
liên quan tới hệ tiêu hoá hơn.
Nhìn chung, người thuộc Hỏa hợp với phương Nam . Thích hợp với các nghề có liên
quan tới văn hóa, nghệ thuật hoặc công việc kinh doanh những mặt hàng đó, chẳng
hạn như ánh sáng, cắt tóc, thực phẩm, giáo viên, xuất bản, văn phòng phẩm...
3. Người thuộc Thổ:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Thổ có nước da hơi vàng đen, bụng
tròn lớn, lưng rộng, rốn sâu, cổ ngắn, mắt dài, bàn chân nhiều thịt, chân mày
rậm; tướng thịt nhiều nhưng không quá béo; đầu vuông, mũi cao dày, cằm hơi
vuông và hơi triều lên; răng nhọn, tay nhọn, lưỡng quyền cao; đi đứng vững
vàng, tiếng nói trầm có âm hậu.
Người mà Thổ vượng thì thắt lưng tròn, mũi nở, lông mày thanh tú, mắt đẹp,
nói năng lưu loát và tiếng nói âm vang. Người thổ vượng thường là người độ
lượng, trung tín, chân thành và hành động rất chắc chắn, có kết quả. Người mà
Thổ quá vượng, quá mạnh thì đầu óc cứng nhắc, chậm hiểu biết, tính tình hướng
nội, sống trầm lặng và khá bảo thủ. Tuy nhiên, nếu người thuộc Thổ mà quá vượng
thì thường hay mắc các bệnh về lá lách, dạ dày, hoặc vùng bụng, lưng, ngực,
phổi...
Người mà Thổ suy, thể khí không đủ nên sắc mặt thường ủ rũ, mặt mỏng, mũi
ngắn, lòng dạ độc ác, là kẻ vô tình, bất tài. Người mà Thổ quá suy cũng thường
hay mắc các bệnh về lá lách, dạ dày, hoặc vùng bụng, lưng, ngực, phổi như người
Thổ quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Thổ hợp với vùng giữa hoặc có thể thích ứng với tất
cả các phương. Người thuộc Thổ về nghê nghiệp cũng có thể thích hợp với nhiều
ngành, nhiều nghề của tất cả những người thuộc hành khác. Tuy nhiên, người
thuộc Thổ thường không được nổi trội thật đặc biệt trong nghề nghiệp như những
người thuộc hành khác.
4. Người thuộc Kim:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Kim có nước da trắng hồng, đầu, trán
và gương mặt cân đối, tai trắng, răng trắng; môi và lưỡi đỏ, cằm vuông, nhân
trung sâu; tóc thưa, sợi nhỏ và xanh mướt; tay tròn trịa, hai bàn chân không
khuyết, da lưng bàn tay đầy đặn, cứng dẽ; lưng tròn, bụng tròn, rốn sâu, tiếng
nói thanh tao.
Nhìn chung người thuộc Kim có số phận khá tốt, dù có đang gặp cảnh cơ hàn
vẫn tin tưởng vào một tương lai sáng lạn.
Người mà thuộc Kim thịnh là người có vóc dáng không gầy, cũng không béo,
mắt sâu, lông mày cao, da trắng và đẹp, tác phong quyết đoán, trọng nghĩa khinh
tài, giàu lòng tự trọng.
Người mà Kim quá vượng thường là kẻ hữu dũng vô mưu nhưng lại tham lam, bất
nhân bất nghĩa. Người mà Kim quá vượng thường dễ mắc các bệnh về đại tràng,
phổi, gan, trĩ, vùng rốn hoặc các bệnh về da, mũi, khí quản...
Người mà Kim suy thì vóc dáng gầy, nhỏ, tư cách vô tình, có khi nham hiểm,
tham dâm, háo sát. Đặc biệt, đây là mẫu người tham lam vô bờ bến và biển lận.
Người mà Kim quá suy cũng dễ mắc những bệnh như người thuộc Kim quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Kim hợp với phương Tây, có thể theo nghề kinh doanh
hoặc các nghề có liên quan tới kim loại, có tính cứng rắn, quyết đoán, võ
thuật, giám định, khai thác...
5. Người thuộc Thuỷ:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Thủy có nước da ngăm ngăm đen, hơi
béo, thịt nhiều; bụng tròn, chân mày rậm; miệng rộng, ngón tay mập tròn; thần
mắt lộ; bàn tay bàn chân lớn nhưng trông không thô kệch; đi đứng chậm chạp và
ăn uống cũng chậm chạp; tính ý giản dị và tiếng nói hơi khàn. Nhìn chung người
thuộc Thủy mà hợp tướng như vậy là rất tốt, trước khổ sau sướng, con cái
an hòa, gia đình hưng vượng.
Người mà Thủy vượng có sắc mặt hơi đen, nói năng nhỏ nhẹ, rành mạch,
túc trí đa mưu, giàu lòng bác ái và trí tuệ thông minh, học nhanh hơn người.
Người mà Thủy quá vượng là người tính hay cáu gắt, hay cãi cọ, tính tình
thay đổi thất thường. Những người mà Thủy quá vượng thường dễ mắc các bệnh về
thận, bàng quang, bắp đùi, chân, đầu, gan, tiết niệu, thắt lưng, tử cung, âm
hộ...
Người mà Thủy suy là người có vóc dáng thấp bé, tính tình bất nhất, thay
đổi thất thường, tính nhát gan, không có mưu mẹo, hành động cũng bất nhất,
không có thứ tự. Người mà Thủy quá suy cũng dễ mắc những bệnh như người
thuộc Thủy quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Thủy hợp với phương Bắc. Và có thể thích hợp với
khá nhiều nghề, đặc biệt là những ngành nghề liên quan tới chất lỏng, như: dầu
khí, rượu, nước....
Không chỉ dùng Âm Dương - Ngũ hành để miêu tả hình dáng, tính cách và số
phận của con người, tín ngưỡng dân gian cũng rất coi trọng việc áp dụng Âm
Dương - Ngũ hành trong cuộc sống, chẳng hạn như: chọn ngày, giờ cho các công
việc, chọn người xông đất ngày đầu năm, chọn người cộng sự, giúp việc .....
Theo tác giả Hoàng Tuấn (Cuốn: NGUYÊN LÝ CHỌN NGÀY THEO LỊCH CAN CHI,
trang 216, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2005) thì: Khi có việc cần kíp
cần phải tiến hành một việc nào đó, không thể trì hoãn mà gặp ngày giờ xấu, ta
có thể dùng các phép “hóa giải” sau đây:
1. Dùng
cơ chế “Chế sát”: Tức dùng “tương khắc” của Ngũ hành để chế sát. Ví
dụ: Ngày “hung” thuộc Thủy thì dùng giờ Thổ để hóa giải (Thổ khắc Thủy);
ngày “hung” thuộc Hỏa thì dùng giờ Thủy để hóa giải (Thuỷ khắc
Hỏa); ngày “hung” thuộc Mộc thì dùng giờ Kim để chế sát (Kim khắc
Mộc)..v.v....
2. Dùng
cơ chế “Hóa Sinh”: Tức dùng “tương sinh” của Ngũ hành để hóa giải. Ví
dụ: Ngày “hung” thuộc Kim thì dùng Thổ để hóa giải (Thổ sinh
Kim); ngày “hung” thuộc Thủy thì dùng giờ Kim để hóa giải (Kim sinh
Thủy); ngày “hung” thuộc Hỏa thì dùng giờ Mộc để hóa giải (Mộc snh
Hỏa)...
3. Dùng
cơ chế “Tị hòa”: Tức dùng “tỵ hòa” của Ngũ hành để hóa giải. Ví dụ:
Ngày “hung” thuộc Âm Mộc thì dùng giờ Dương Mộc để hóa giải; ngày “hung” thuộc
Âm Kim thì dùng giờ Dương Kim để hóa giải.....
4. Thay
đổi người chủ trì: Có thể tìm người khác trong gia đình hay họ hàng,
bè bạn hợp với tuổi tác, ngày giờ tiến hành công việc để thay Mệnh chủ trong
công việc đang làm. Tất nhiên, người được “mượn tuổi” phải có Mệnh tương sinh
với ngày, giờ được chọn để khởi đầu cho công việc.
Trong bốn phép “Hóa giải” mà Tiến sỹ Hoàng Tuấn đưa ra, theo thiển nghĩ của
chúng tôi, khi công việc cần kíp không thể trì hoãn, bạn đọc có thể dùng cơ chế
“Chế sát” là tốt nhất để hóa giải sự hung - sát của ngày xấu. Còn nếu không
chọn được giờ khắc với ngày xấu, lúc bấy giờ ta mới dùng cơ chế “Hóa Sinh”, sau
cùng mới đến dùng người khác thay Mệnh chủ trong công việc hoặc dùng cơ chế “Tị
hòa” để hóa giải.
Người Việt Nam cũng
rất chú trọng việc chọn người xông đất (nhà) đầu năm. Người ta thực hiện theo
nguyên tắc: chọn mệnh sinh, kỵ mệnh khắc. Nhưng trong “tương sinh” Ngũ
hành ấy, người ta thường chọn thế sinh nhập, nghĩa là mệnh mình được mệnh khách
sinh. Ví dụ: Chủ nhà mệnh Thủy thì người xông nhà phải là
mệnh Kim để Kim sinh Thủy; chủ nhà
mệnh Kim thì người xông nhà phải có mệnh là Thổ để Kim được Thổ sinh;
chủ nhà mệnh Hỏa thì chọn người xông nhà có bản mệnh
là Mộc để Hỏa được Mộc sinh... Tất nhiên, việc
chọn người dù ở thế sinh nhập vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắc: Âm - Dương,
chứ không thể cùng Âm hoặc cùng Dương. Chẳng hạn, người chủ mệnh là Âm Kim sẽ
chọn người có mệnh là Dương Thổ đến xông nhà, như vậy mới hoàn mỹ...
Người xưa quan niệm, người xông nhà có bản mệnh sinh cho bản mệnh của gia
chủ thì cả năm mới, gia chủ sẽ được phát tài, phát lộc, gặp nhiều may mắn. Nếu
trong trường hợp không chọn được người có bản mệnh sinh cho bản mệnh của mình
thì người ta thường chọn người ở thế tương hòa. Trường hợp vẫn chưa chọn được
tuổi của người xông nhà ở thế tương hòa thì bấy giờ người ta mới chọn ở thế
sinh xuất, có nghĩa là bản mệnh của mình sinh cho bản mệnh của người xông nhà.
Ví dụ: Chủ nhà mệnh Thủy, người xông nhà là mệnh Mộc; chủ nhà
mệnh Kim, người xông nhà mệnh Thủy; chủ nhà mệnh Thổ,
người xông nhà mệnh Kim; chủ nhà mệnh Hỏa, người xông nhà
mệnh Thổ... Tuy năm mới có vất vả, lận đận vì bản mệnh của mình bị
“hao mòn” do sinh xuất cho bản mệnh của người xông nhà nhưng công việc làm ăn
vẫn được ổn định, hạnh phúc cũng được vẹn toàn.
Còn với mối quan hệ “tương khắc” của Ngũ hành thì sao? Tại sao người xưa
lại kiêng kỵ chọn người xông nhà có bản mệnh tương khắc với bản mệnh của mình?
Theo lý giải của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì dù ở thế “khắc xuất” hay “khắc
nhập” sẽ đều bất lợi cho gia chủ: Cả năm làm ăn không được xuôi chèo mát mái,
hay gặp những chuyện rủi ro, hạnh phúc gia đạo không được vẹn toàn...
Với việc chọn người xông nhà, mở hàng đầu năm, dân gian thường chỉ chú
trọng tới sự sinh - khắc về đặc tính và Âm Dương của Ngũ hành làm căn bản,
nhưng trong một số công việc quan trọng như kết hợp làm ăn, cưới vợ gả chồng
thì dân gian lại chú trọng thêm yếu tố lý tính của Ngũ hành.
G.
ỨNG DỤNG
ngũ
hành trong tử vi
Khi coi lá số, người luận giải bao giờ cũng ngó qua mối tương quan giữa
hành của bản Mệnh với hành của Cục, sao và cung an Mệnh theo quy luật sinh khắc
của Ngũ hành để tìm nhanh nét phác thảo chính của cuộc đời đưong số. Càng hội
tụ nhiều sự sinh nhập cho bản Mệnh thì lá số đó càng đẹp, đương số càng chiếm
được nhiều lợi điểm về sự may mắn, lộc tài... Ngược lại, hành bản Mệnh càng
chịu nhiều sự khắc nhập từ Cục, sao và cung an Mệnh thì lá số đó càng xấu, càng
kém may mắn và bất hạnh.
Khi xét về tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục, sao và cung
an Mệnh, người coi số thường chỉ chú trọng tới Cục, sao và cung an Mệnh xem
sinh - khắc thế nào với hành của bản Mệnh, nhưng có người cẩn thận hơn còn xét
cả mối tương quan giữa sao và cung an Mệnh cũng trong mối tương quan ngũ hành
để chi tiết hơn hiệu lực của các tinh đẩu ảnh hưởng tới đương số như thế nào.
Việc xét tương quan Ngũ hành của bản Mệnh với Cục, sao và cung an Mệnh được
tuân thủ theo 5 nguyên tắc sau:
A. NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT:
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét về tương quan giữa
hành khí của sao và hành bản Mệnh.
Hành sao
sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành sao bị hao tổn, bị chiết giảm mà ảnh hưởng xấu
tốt của sao bị yếu đi nên Mệnh được hưng vượng lên, nghiã là sao làm lợi cho
Mệnh cho dù đó là cát tinh hay hung tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến
lợi ích trọn vẹn cho Mệnh nhưng nếu cát tinh lạc hãm thì Mệnh tuy cũng hưởng
lợi nhưng không được toàn vẹn vì sao bị hãm địa. Nếu là hung tinh sáng sủa thì
các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh lên và nếu hung
tinh lạc hãm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên ảnh hưởng
xấu của nó không thể tác họa mạnh tới Mệnh, trong khi bản Mệnh lại được hưng
thịnh vì đã được sao phù sinh.
Hành sao
đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này cả hai đều được hưng vượng lên. Mọi
ảnh hưởng tốt hay xấu của sao dù là cát tinh hay hung tinh lên Mệnh vẫn phát
huy mạnh mẽ ảnh hưởng của chúng, tuy nhiên bản Mệnh mang những đặc tính của sao
nên sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chỉ huy được sao một cách trọn vẹn vì
thế hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, do đó hành sao đồng hành với bản
Mệnh thì tốt nhất.
Hành
Mệnh sinh hành sao: Trường hợp này hành khí của sao được hưng thịnh
lên, trong khi bản Mệnh bị hao tổn. Vì hành khí của sao hưng thịnh lên nên cho
dù cát tinh có sáng sủa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn làm cho Mệnh
bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Tệ hại nhất là khi hung tinh lạc
hãm sẽ gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó phát huy ảnh
hưởng.
Hành sao
khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành khí của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó
tay không hoạt động được còn bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều, có nghiã
là sao hoàn toàn chủ động gây nhiều điều bất lợi cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh
miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng không đem lại điều gì tốt
lành cho bản Mệnh thậm chí còn làm cho Mệnh bị mệt mỏi, tuy nhiên vì là cát
tinh nên cũng đỡ lo ngại. Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh,
nhất là khi hung tinh hãm địa thì tính chất xấu của nó càng làm cho bản Mệnh
thêm bất lợi, nguy hại.
Hành
Mệnh khắc hành sao: Trường hợp này hành sao bị tổn hại, suy yếu nên
cường độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh bị giam
cầm bó tay không hoạt động được, nghiã là sao đó không thuộc về mình và bản
Mệnh không chỉ huy được sao. Dù là cát tinh sáng sủa hay lạc hãm thì Mệnh cũng
chịu ảnh hưởng không nhiều tính chất tốt (nếu sáng sủa) hay xấu (nếu lạc hãm)
của sao. Hung tinh đắc địa hay hãm địa cũng vậy, do hành Mệnh khắc hành sao làm
cho hành khí của sao bị suy yếu đi nhiều nên ảnh hưởng tính chất xấu tốt của
sao lên Mệnh không còn là bao trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt động
được nên trường hợp này cũng không tốt cho bản Mệnh.
B. NGUYÊN TẮC THỨ HAI:
Xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để xét đoán Mệnh thịnh hay suy
Hành
cung sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh nhờ được hành cung
sinh xuất nên bản Mệnh thêm vững chắc, hưng thịnh. Đây là trường hợp tốt nhất
khi xét mối tương quan giữa hành Mệnh và hành cung.
Hành
cung đồng hành cùng hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bình hòa
với hành cung nên cả 2 đều hưng thịnh nên không xấu. Vì không có sự sinh - khắc
giữa hành bản Mệnh và hành cung nên mối tương quan này không thật tốt, cũng
không thật xấu mà chỉ ở mức bình thường. Tuy nhiên, sự bình hòa về hành cũng
thêm một lợi điểm cho lá số nếu so với 3 trường hợp dưới đây.
Hành
cung khắc hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị hành cung khống
chế, làm suy tổn sinh khí nên xấu nhất. Trong trường hợp này, bản Mệnh luôn bị
mỏi mệt, nguy hại và bất lợi nên rất cần có sự phù trợ của các sao để quân bình
sự bất lợi cho lá số.
Hành
Mệnh khắc hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh tuy khắc xuất hành
cung nhưng bản Mệnh cũng không được lợi ích gì, vì để làm suy yếu hành cung thì
hành bản Mệnh phải tổn hao nguyên khí nên bản Mệnh bị giam cầm, bó tay không
hoạt động được. Trường hợp này tuy không phải xấu nhất nhưng cũng là điểm bất
lợi cho lá số khi xét về tương quan giữa hành bản Mệnh với hành cung.
Hành
Mệnh sinh hành cung: Trường hợp này hành bản Mệnh sinh xuất cho hành
cung nên hành khí của cung được hưng vượng lên, tốt thêm lên nhưng
bản Mệnh lại bị tiết khí, hao tán vì thế nên xấu. Đây cũng là điểm bất lợi cho
lá số, rất cần có sự phù trợ của các sao để quân bình lại sự bất lợi cho lá số.
C. NGUYÊN TẮC THỨ BA:
Xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh với hành bản
Mệnh.
Tam hợp
cung Mệnh sinh hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hưng thịnh nên
tốt nhất.
Tam hợp
cung Mệnh hòa hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh và hành của Tam
hợp cung Mệnh bình hoà, cả 2 đều được hưng thịnh lên, không có sinh - khắc nên
tốt. Tuy nhiên vì bình hòa nên mức độ tốt thua kém trường hợp Tam hợp cung Mệnh
sinh hành bản Mệnh.
Tam hợp
cung Mệnh khác hành Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị suy tổn nhiều, bị
chết nên xấu nhất.
Mệnh
khắc hành Tam hợp cung Mệnh: Hành bản Mệnh tuy khắc thắng (khắc xuất) nhưng cũng
chẳng được lợi ích gì vì bản Mệnh bị bó tay, không hoạt động được nên xấu.
Mệnh
sinh hành Tam hợp cung Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán,
suy kiệt nên xấu nhì.
D. NGUYÊN TẮC THỨ TƯ:
Xét tương quan giữa hành cung với hành sao. Nguyên tắc này tương đối không
quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút ít.
Hành
cung sinh hành sao: Trường hợp này đẹp nhất vì sao được cung phù trợ,
nuôi dưỡng, bồi đắp nên hành khí của sao được hưng thịnh.
Hành
cung đồng hành với hành sao: Trường hợp này bình thường, không xấu, không tốt vì
hành của cung bình hòa với hành của sao nên hành khí của sao không thay đổi.
Hành sao
sinh hành cung: Trường hợp này xấu vì hành sao sinh xuất cho hành cung nên bị hao
tổn, tiết khí mà yếu đi.
Hành sao
khắc hành cung: Trường hợp này cũng xấu bởi hành sao tuy khắc thắng hành cung nhưng
không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được.
Hành
cung khắc hành sao: Trường hợp này xấu nhất vì hành sao bị khắc nhập
nên thiệt hại nhiều nhất, những ý nghĩa tốt đẹp của sao đã bị khắc chế mà kém
đi về hiệu lực.
E. NGUYÊN TẮC THỨ NĂM:
Xét tương quan giữa hành của bản Mệnh với hành của Cục.
Hành Cục
tương đồng với hành bản Mệnh: Trường hợp này cả hai hành không có sự
sinh - khắc nên cả 2 đều được hưng vượng lên nên tốt.
Hành Cục
sinh hành bản Mệnh: Trường hợp này hành bản Mệnh được hành Cục phù trợ,
bồi đắp, nuôi duỡng vì thế mà được hưng thịnh nên tốt. Đây là trường hợp tốt
nhất khi xét về tương quan liên hệ giữa hành bản Mệnh với hành Cục.
Hành bản
Mệnh sinh hành Cục: Trường hợp này xấu vì hành Mệnh bị suy yếu do sinh
xuất cho hành Cục, trong khi hành Cục được hưng thịnh (nhờ được hưởng sinh
nhập) nên không tốt cho bản Mệnh.
Hành bản
Mệnh khắc hành Cục: Trường hợp này cũng không đẹp vì hành của bản Mệnh
tuy khắc xuất hành Cục nên cũng bị hao tổn hành khí vì thế mà bản Mệnh bị giam
cầm, bó tay không hoạt động được. Dẫu vậy, trường hợp này cũng không có hại, mà
chỉ ở mức trung bình.
Hành Cục
khắc hành bản Mệnh: Trường hợp này xấu nhất trong mối quan hệ giữa hành
Cục và hành Mệnh. Ở đây, hành khí của bản Mệnh bị suy thoái do chịu sự khắc
nhập từ hành Cục.
Mối tương quan ngũ hành của bản Mệnh với Cục, sao và cung an Mệnh được giản
tiện bằng những bảng dưới đây.
Lưu ý: Các ký hiệu được dùng trong Bảng tương
quan về ngũ hành như sau:
=> là sinh, = là bình hòa,
# là khắc
Nếu cung Mệnh có 2 chính tinh đồng cung, thì chỉ cần nắm vững quy tắc sau:
Nếu bản Mệnh được phù sinh bởi 2 chính tinh là tốt nhất; nếu bị khắc cả 2
cấp là xấu nhất. Bản Mệnh được sao nào sinh thì thịnh về sao đó, bị khắc sao
nào thì xấu về phía sao đó. Chỉ nên chú ý đến hệ cấp sinh, khắc thứ 2 giữa
chính tinh với bản Mệnh. Sự phân biệt thêm hệ thứ nhất làm phức tạp sự đánh
giá. Trên thực tế, nếu có sự sai biệt giữa 2 trường hợp, điều đó không mấy quan
trọng ở cấp thứ nhất.
Nếu cung Mệnh vô chính diệu, thì chỉ cần: Hành cung Mệnh phù sinh cho bản
Mệnh thì tốt, trái lại, nếu khắc với bản Mệnh thì xấu.
Nếu cung Thân có 2 chính tinh đồng cung, thì chỉ cần nắm vững quy tắc sau:
Nếu Cục được phù sinh bởi 2 chính tinh là tốt nhât; nếu bị khắc cả 2 cấp là
xấu nhất. Cục được sao nào sinh thì thịnh về sao đó, bị khắc sao nào thì xấu về
phía sao đó. Chỉ nên chú ý đến hệ cấp sinh, khắc thứ 2 giữa chính tinh của Thân
và Cục. Sự phân biệt thêm hệ thứ nhất làm phức tạp sự đánh giá. Trên thực tế,
nếu có sự sai biệt giữa 2 trường hợp, điều đó không mấy quan trong ở cấp thứ
nhất… Như vậy, khi xem hậu vận con người, cần xét cẩn trọng cung Thân với Cục,
lấy đó làm cơ sở chính để đưa ra lời luận giải.
.
Lời kết:
Như vậy, nguyên lý của Ngũ hành thật phức tạp, đòi hỏi người tìm hiểu về
văn hóa dân gian phải nắm chắc những kiến thức cơ bản nhưng cũng đặc biệt linh
động của Ngũ hành để vận dụng luận giải trong tùy từng trường hợp.
Khi viết về vấn đề này, chúng tôi đã cố gắng tìm đọc thật nhiều tài liệu để
thể hiện sự sinh động và thật rõ ràng, đầy đủ về nguyên lý của Ngũ hành - cơ sở
để lý giải mọi hiện tượng về con người và vũ trụ của người xưa - nhưng thật
tiếc, nội dung tài liệu tham khảo (viết về nguyên lý Âm Dương - Ngũ hành) không
nhiều mà trình độ, sự hiểu biết của chúng tôi còn nhiều hạn chế, vì thế, bài
viết chắc hẳn sẽ còn nhiều thiếu sót, khiên cưỡng.
Tìm hiểu về văn hóa tín ngưỡng trong dân gian, nhất là về thuyết Âm Dương -
Ngũ hành trong những điều kiện (chủ quan và khách quan) còn nhiều hạn chế như
vậy nên việc làm này của chúng tôi thực không khác gì “ếch ngồi đáy giếng”
nhưng vì muốn bạn đọc lần đầu tiếp cận với thuật ngữ Âm Dương - Ngũ hành sẽ bớt
bỡ ngỡ, khó khăn nên chúng tôi mạo muội viết TÌM HIỂU VỀ NGUYÊN LÝ CỦA NGŨ
HÀNH, vì thế, chúng tôi mong nhận được sự lượng thứ và lời tham gia góp ý của
bạn đọc về những hạn chế, sai sót của bài viết, để nếu có điều kiện, khi viết
lại phần này, chúng tôi sẽ chỉnh sửa để nội dung bài viết sẽ thể hiện được đúng
với tinh thần của thuyết Âm Dương - Ngũ hành.
*.
Hà Nội, xuân năm Bính Tuất (2006)
ĐặNG XUÂN
XUYẾN
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Nhờ thầy xem giúp gia đình
Trả lờiXóaTôi sinh 1975
Vợ sinh 1979
Có 4 con trai:
1. Sinh năm 2001
2. 2003
3. 2007
4. 2013
Kính mong thầy xem giúp gia cảnh, trân trọng Cảm ơn thầy!
Nếu nói âm dương ngũ hành theo ý tác giả thì không thể có các cặp tam hợp ví dụ như Dần Ngọ Tuất được vì cả 3 địa chi này đều thuộc khí Dương (mặc dù có tương sinh theo đặc tính của ngũ hành). Mong tác giả giải đáp thắc mắc của tôi. Cảm ơn nhiều.
Trả lờiXóa