MỜI ĐỌC:

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

CHỬ VĂN LONG: CHÊNH VÊNH GIỮA MỘNG VÀ ĐỜI - Tác giả: Nguyễn Thiết (Hà Nội)

(Làng Vạn Phúc - Nguồn ảnh: Internet) 
CHỬ VĂN LONG:
CHÊNH VÊNH GIỮA MỘNG VÀ ĐỜI
................................................................
Hình ảnh mỗi khi tôi nhớ về anh thường là những lúc cùng bạn bầu trò chuyện đông tây trời bể gì chăng nữa, chẳng chóng thì chầy, anh đưa được mọi người về với chủ đề thơ ca. Anh có thể ngồi với tôi, với anh, với chị hàng giờ chỉ để nói về thơ một cách say sưa và rồi những say sưa ấy lây lan sang mình lúc nào đấy không hay.
Anh là nhà thơ Chử Văn Long, sinh ngày 12 tháng 10 năm 1942 ở
(Tác giả Nguyễn Thiết)
làng Vạn Phúc - Thanh Trì ngoại thành Hà Nội. Một làng quê vùng bờ bãi sông Hồng, phong cảnh sông nước còn thoáng đãng mộng mơ… Tuổi nhỏ học trường quê. Năm 1963 tốt nghiệp Trung cao cơ điện rồi xung phong đi xây dựng kinh tế lâm nghiệp Quảng Ninh. Cũng từ đây anh bắt đầu làm thơ. Gần chục năm ở vùng than đã cho anh suy ngẫm: “Mười năm sống ở đây hòn than cho tôi nếp nghĩ / Để toả sáng phút giây phải triệu năm trong lòng đất âm thầm…” (Thị xã bên bờ vịnh đẹp). Anh viết về những người công nhân địa chất: “Ước gì mỗi con người, mỗi phần nhỏ nhất ở con người / Nghiền không nát cứ lành nguyên bản chất / Như giọt thuỷ ngân này lấp lánh gương soi!”. Mười năm qua vút, thơ đã cho anh niềm vui hai lần nhận giải những cuộc thi thơ đề tài lâm nghiệp. Đồng thời mười năm ấy cuộc sống bần bách của gia đình đông con, mẹ già một vai vợ gồng gánh ở một vùng quê thiên tai, lụt ngập thường xuyên cũng đánh thức anh khỏi cơn mơ giữa mộng và đời. Anh làm đơn trình bày khó khăn xin về gần gia đình để cùng vợ nuôi mẹ già con dại. Ba lần bẩy lượt bị từ chối. Ông Trưởng ty Lâm nghiệp đã nói: “Cho anh về Hà Nội viết văn, mai sau ai bổ óc anh ra mà rửa!”. Đến bây giờ anh vẫn không hiểu câu nói ấy là sao. Rất may, nhờ anh Xuân Diệu thân ông Nguyễn Tạo - Tổng cục trưởng đã ký đơn cho chuyển. Đến khi đem giấy tờ về Hà Nội, mới vỡ lẽ lương anh vẫn 85% tốt nghiệp ban đầu, không đủ mức quy định nhập về chính quê mình! Không có hộ tịch, không có tem phiếu. Bè bạn như Nguyên Mạnh Tuấn, Trần Nhuận Minh đã giúp đỡ từng cân tem gạo để sống. Phải nửa năm sau mới có hộ khẩu chính thức để đi làm. Chuyện dở cười dở khóc làm vậy đã cho anh thêm góc nhìn cuộc sống: “Có một thời người ta nói / Trái đất hết buồn / Con người không còn bi kịch nữa! / Tôi đã thật lòng tin / Niềm tin trắng trong như lụa / Tôi đem may áo hạnh phúc cho mình / Qua tấm áo suốt một đời gìn giữ / Mới hay rằng hạnh phúc quá mong manh” (Không đề).
Lần thay đổi công việc từ vùng rừng núi Đông Bắc trở về Hà Nội ấy đã làm nên bước ngoặt cho đời thơ anh sau này. Một cuộc đối mặt hàng ngày với đói no cơm áo diễn ra quyết liệt. Ba năm liền làm quản đốc cơ khi ở xí nghiệp gạch ngói Văn Điển anh thầm hứa với mình “Cắt đứt với thơ”, không đọc sách báo, không cầm bút viết một câu. Trớ trêu thay, nơi làm việc của anh lại kề sát nghĩa trang thành phố, chỉ cách nhau có một bức tường gạch thấp. Một chút khói hương bay sang đã chạnh lòng. Huống hồ lúc nào cũng nghe văng vẳng tiếng khóc nỉ non, tiếng kèn ma réo rắt đến quặn xé… Một lần không chịu nổi anh đã ghi lại cảm xúc: “Xí nghiệp tôi ở bên nghĩa trang / Bên kia bức tường là thế giới của những người đã chết / Cây phi lao xẫm biếc / Thường kéo đàn trước những ngày mưa…” (Xí nghiệp bên nghĩa trang); rồi đem dán lên tờ báo tường của đoàn thanh niên xí nghiệp. Thế là thành chuyện. Ông giám đốc tìm gặp: “Anh viết những câu thơ buồn vậy, ai còn dám về đây đẩy gạch, ra lò?”. Hôm sau Chử Văn Long phải lên nhà thơ Ngô Quân Miện phụ trách báo Chính nghĩa xin in bài thơ mang về mới yên. Đời có lúc tựa vòng dây vô hình vừa gỡ ra lại buộc. Chỉ mấy tháng sau do xí nghiệp làm ăn khó khăn, lương công nhân mấy tháng chưa được trả. Có anh bạn công nhân cùng phân xưởng, quê ở Thái Bình rủ về quê chữa máy cày, bơm nước kiếm gạo. Anh rủ thêm tất cả bốn người cùng đi. Sau hơn bốn ngày đã chữa được năm cụm bơm nước cho chạy thử. Lúc bà con xã viên ra xem dòng nước reo vui cũng là lúc công an đến yêu cầu xuất trình giấy phép hành nghề không có, thế là tất cả bị bắt về Ty công an Thái Bình về tội công nhân nhà nước đi làm ngoài. Như có trời đất phù hộ, trong bọc quần áo Chử Văn Long lại đem theo quyển Tạp chí Văn nghệ Quân đội có in bài thơ của anh viết sau lớp học Quảng Bá (Khoá VI của Hội Nhà văn). Anh trình bày. Là người làm thơ, từ lâu nghe tin vùng dâu tằm Thuận Vi nổi tiếng miền Bắc, nên cùng anh em về quê bạn chữa giúp máy móc, vừa định thăm quan đất Thuận Vi… Chắc người nghe thấy có lý có tình nên anh chỉ phải ngồi nhà đá hơn tuần lễ để biết mùi vị rồi được tha. Chỉ tội mấy người bạn cùng đi, có người phải giam tới ba tháng rưỡi.
Sau đận này anh nghĩ cái nghề cơ khí đã làm cho mình buồn vậy, nên chuyển sang nghề nghiệp khác. Vừa lúc ấy có người giới thiệu Hội Văn nghệ Hà Nội đang cần người làm biên tập tạp chí (Tiền thân báo Người Hà Nội bây giờ). Thuở ấy người viết nghiệp dư về làm báo, một cơ quan Văn nghệ là một điều vui mừng lớn lắm!
Sáng ngày 17 tháng 2 âm lịch (năm 1979) anh đến xí nghiệp gạch, đang làm giấy tờ, quyết định chuyển sang Hội văn nghệ thì đứa cháu ngoại hộc tốc đến tìm: “Cậu ơi! Bà ở nhà đang hấp hối chờ cậu về!”. Ba chân bốn cẳng đạp hơn chục cây số về đến nhà nhìn được mẹ, cũng là lúc mẹ anh nhìn lại con nhưng không còn nói được câu nào! Kỷ niệm đầu tiên bước về cơ quan văn chương buồn vậy. Buổi đến nhận việc đầu tiên lòng còn nặng trĩu nỗi đau. Con đường từ nhà lên Hồ Gươm đi làm phải xa gấp đôi mọi ngày. Cái xe đạp rong rơ như răng ông lão. Sáng vội vàng mấy bát cơm độn khoai sắn. chưa ấm dạ bằng nước. Năm giờ chiều mới từ cơ quan ngược về hơn hai chục cây số. Thì giờ đâu kiếm sống thêm để cùng vợ toan lo cả một gia đinh chín miệng ăn, con cái ngày lớn hơn cần phải chi tiêu? Nhưng cái gánh nặng lo toan không dừng ở đấy. Hơn một năm sau, vào chiều 30 Tết đi làm về đến thị trấn Văn Điển, người em rể đã đứng đón bên đường báo tin: “Em vừa đưa chị lên viện cấp cứu. Đêm ấy khi khắp nơi chờ đón giao thừa, anh ngồi nhìn từng nhịp thở của vợ qua chiếc ống chụp ô xi mà cầu trời phật độ trì… Rồi hơn ba năm đưa vợ qua khắp các bệnh viện Hà Nội chạy chữa. Từ một phụ nữ tươi xinh chỉ còn như chiếc lá héo trở về tựa vịn chồng con. Ngoài mọi công việc kiếm sống, anh kiêm cả nội trợ áo cơm, xếp hàng mua từng cân muối yến gạo. Một hôm vào chợ Đông Xuân, mang theo phiếu vải của cả gia đình chín người, định mua về may áo các con mặc Tết. Mải nhìn ngó màu sắc các tấm vải khi quay lại thì chiếc túi bã mía treo ghi đông xe đã bị kẻ cắp lấy mất lúc nào. Bàng hoàng anh nghĩ, cả nhà năm nay ở trần. Bủn rủn đến muốn khụy xuống nhưng khi tỉnh lại, dắt xe ra về anh đã ghi được câu thơ: “Giật mình nhìn xuống tay xe đạp / Túi thơ không cánh đã bay rồi”. Cái chất hài hài trong thơ anh hễ có dịp lại phát lộ: Như hàng ngày đi làm gặp những chiếc xe tang ngược xuôi đi về anh đã viết bài thơ: “Hà Nội lấy Văn Điển lập nghĩa trang / Người Hà Nội từ lâu kiêng nói - Về Văn Điển / Tôi hàng ngày hai lần đạp xe đi về qua đất chết / Có lẽ mình “bất tử” cũng nên”. Năm thống nhất đất nước (1975), thơ ca dang bừng bừng khí thế ngợi ca, anh đã có những câu phập phồng “Sao tim tôi lại gióng còi báo động / Khi từ lâu mặt đất đã báo yên”. Khi viết về những người nông dân quê mình: “Tôi sống giữa những người chân đất / Những người của nắng mưa thấm đẫm vui buồn / Cả khi có dép rồi họ vẫn thích đi chân đất / Chân đất đã quen, chân đất tự do hơn” (Tôi sống giữa những người chân đất).
Chặng này anh như chú ngựa được đóng ách chặt vào cỗ xe cuộc sống, lên ngược, xuống xuôi, chạy ngang, chạy dọc. Có lúc đến cơ quan, giả vờ có mặt, để lại chiếc mũ với túi tài liệu, ra bến xe Long Biên, giong tận thị xã Tuyên Quang. Anh phụ xe cùng quê đã mua hộ mấy bao sắn, vài chục bưởi, chở về Hà Nội chỉ việc khuân xuống, nơi bán, giá mua, cũng đã được bạn lo giúp cả rồi. Với ruộng đất hợp tác chia cho vợ con ở nhà, hai tay cày cuốc thực thụ. Mùa rau cỏ, có ngày hàng trăm gánh nước tưới rau. Phần rau nhập cho hợp tác xã ăn gạo còn thừa thì đi bán. Sắm vai anh xe thồ lên phố đi giong mua bán biết thêm bao nhiêu vẻ sống ở đời. người quê lên chợ thành phố không có chỗ cho ngồi. Đi bán giong bị công an đuổi… Cả ngày xe rau đã héo tưởng phải đỏ đi, bỗng gặp chiếc xe quân sự đi ngang, gọi với, dỡ bán được cả xe, mà giá cả lại còn hên!... Nhưng lạ lắm, sau những việc làm cực nhọc bở hơi đuối sức là vậy, chỉ cần được phút tựa chiếc sọt thồ vào gốc cây, ngồi bệt xuống vệ cỏ bên đường, lấy tay áo quệt qua những giọt mồ hôi trên mặt rồi nhờ ngọn gió mát dịu thổi qua, nhọc nhằn bỗng như tan biến, thế là từ đâu những hình ảnh thương yêu quấn quýt lại ào về đằm thắm tươi trong. Anh càng thấy thương vợ những năm một mình gánh vác: “Thương em suốt đời vẫn thấy mình thương em chưa đủ”. Anh như phát hiện lại giá trị tốt đẹp ở người vợ yêu của mình: “Em là ngọc quý giữa lòng tay”. Ngôi nhà tre lá đơn sơ với mảnh vườn được anh tu tạo, trồng tỉa hoa lá ngút xanh, vừa để có rau quả con ăn, vừa để có bóng mát cho vợ vào ra được ngắm nhìn những tháng ngày đau yếu. Quang cảnh ấy vào thơ: “Tôi có một khu vườn đẹp lắm / Bốn mùa hoa và cả bốn mùa hương / Chim trời đến chuyền cành cho khách ngắm / Hương theo chân bịn rịn cả thôi đường / Vườn càng đẹp khi em ra dạo gót / Chùm hoa buông chạm mái tóc đen huyền / Đôi bướm trắng bỗng từ đâu vỗ cánh / Dưới vòm cây mơ mộng thần tiên!” (Vườn mộng). Như thể lâu đài hạnh phúc! Từ hạnh phúc nhỏ bé riêng mình anh nhìn ra nỗi buồn rộng lớn: “Thế giới như thể bàn cờ / Bày ra, dập, xoá / Những bàn tay đeo găng trắng muốt chơi cờ trên số phận nhân dân” (Thế giới). Anh khái quát về nỗi đau bản chất của chiến tranh: “Mùa xuân về trên mộ hai người lính / một phía bên kia, một phía bên này / những ngọn cỏ gà bò lan chầm chậm / Như những bàn tay tìm gặp bàn tay…” (Mùa xuân về trên mộ hai người lính). Xuyên suốt thơ anh chặng này chứa đựng một nỗi niềm tha thiết nhắn gửi: “Anh hát em nghe khúc hát đồng quê / Cho lắng lại buồn vui muôn thuở / Cho mẹ thương con, cho chồng thương vợ / Người không thương nhau có rất ít ở trên đời” (Khúc hát đồng quê). Có thể nói chặng đường hơn mười năm này là quãng đời gian nan cực nhọc nhất của anh, cũng cho anh gặt hái nhiều mơ mộng: Hai lần tặng thưởng thơ Hà Nội, giải nhì cuộc thi báo Văn Nghệ (bài “Người gánh rơm vào thành phố”). In được ba tập thơ chưa phải bỏ tiền. Được đi học Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I, nhưng học được 3 tháng vì chuyện buồn cơ quan nên thôi. Cuối năm 1980 Hội văn nghệ cử đi sưu tầm ca dao ngoại thành, thấy câu nào hay đã được nhà văn Vũ Ngọc Phan in trong “Ca dao tục ngữ dân ca Việt Nam”, anh đành viết 1000 câu về nộp, lại được nhà văn Tô Hoài khen trước Đại Hội Văn nghệ Hà Nội năm ấy, về công đã sưu tầm. Bên cạnh niềm vui còn những nỗi buồn. Buồn có lí vì cơm áo vợ con đã đành, lại còn những nỗi buồn vô lí như đời thủ trưởng nào cũng nghỉ chơi xơi nước dăm tháng, có lúc một năm. Có lần đã có quyết định giảm biên chế mà chẳng có lí do gì chính đáng. Việc chưa xong, ông thủ trưởng mới về lại ở lại làm. Có lần trò chuyện, nhớ lại, anh bảo vui buồn đời nào chẳng có, tất cả qua đi. Chỉ nỗi buồn trời đất bắt con người phải chịu mới thật buồn thôi. Đến khi vợ anh qua đời (tháng 2 năm 1999), làm anh hoàn toàn gục ngã. Ngày hè đổ lửa, mồ hôi đầm áo mà anh thấy rét, phải mặc bốn năm chiếc áo. Chiếc khăn len quấn cổ không rời. Vất vưởng hàng tháng mới đi làm được. Hôm từ báo Người Hà Nội trở về giữa trưa, đường không bóng người, không va vấp gì mà đổ xe, ngã gãy tay bó bột, phải ngồi nhà ôm tay suốt hai tháng trời. Giữa lúc ấy quyển “Cảm nhận thi ca” của tác giả Trần Văn Lý Nhà xuất bản Văn học in ra, xếp Chử Văn Long vào một trong năm ngôi sao thơ ca thế kỷ XX, coi tập thơ “Ru những trăm năm” của anh là tập thơ hay nhất từ năm 1975 đến 2000. Đánh giá anh là người đầu tiên bắc được chiếc cầu giữa thơ phương Đông uyển chuyển sương khói và thơ phương Tây dồn nén, ấn tượng… Thế là nhiều nhà thơ bùng lên giận dữ chửi rủa tác giả thậm tệ đòi thu hồi sách không được, quay sang viết bài in báo hài hước Chử Văn Long nhiều nơi. Ngồi nhà nghe chuyện thêm buồn. Mãi khi tay lành, anh phải viết lá thư ngỏ in Phụ san Văn nghệ Quân đội với nội dung: Vợ tôi vừa mất, tôi đã viết và in cả một tập thơ khóc vợ đặt trên bàn thờ thắp hương nàng, tâm trạng buồn nản đến tận cùng: “Anh còn sống trên đời làm gì nhỉ / Không còn em tất cả đã là không”. Tôi còn cần gì nữa danh vị ở đời. Các nhà thơ hãy nhìn trước, nhìn sau, bên phải, bên trái làm gì có ghế nhà thơ lớn mà tôi ngồi mất… Chuyện mới yên.
Những ngày tiếp theo lòng dạ vẫn khôn nguôi. Một hôm bất ngờ người đưa thư đem đến lá thư của người con gái không quen mãi tận miền Trung. Trong thư chị tự giới thiệu mình là hội viên Hội văn nghệ Hà Tĩnh. Sau khi đọc được tập thơ “Ru những trăm năm”của anh, cảm động viết lá thư này muốn được anh giúp đỡ thêm kinh nghiệm, sách báo nghề Văn. Khi biết tin vợ anh mất, chị viết tiếp lá thư chia buồn, động viên: “Ở thế giới bên kia nếu biết được anh buồn đau gục ngã chắc chị ấy cũng không vui…”. Rồi bạn bè vun vén cho hai người cô đơn nên tựa đỡ vào nhau mà sống. Mấy năm sau “Đám cưới thơ” được tổ chức. Đám cưới thật giản dị. Anh viết bài thơ, tưởng tượng ngày cưới của mình không chỉ có hai người, mà còn có “Con tàu lăn bánh song song / Dòng xe nườm nượp lượn vòng vào ra / Ruộng đồng trải thảm cài hoa / Núi cao khép cửa mây xa buông rèm/ Anh làm đám cưới với em/ Đắm say mơ mộng thần tiên giữa đời…”. Thấy chuyện cảm động mà vui, nhà thơ Bế Kiến Quốc, Tổng biên tập cho in nguyên khuôn khổ tấm thiếp lên báo “Người Hà Nội” còn tặng 200 tờ báo để anh chị đi biếu người thân bạn bè. Lần nữa thơ lại hồi sinh đời cầm bút Chử Văn Long. Hoàn cảnh hai anh chị tuy đã hơn mười năm gắn bó vẫn phải hai nơi cách xa nhau hơn 300 cây số đi về. Nhớ nhung khắc khoải lại thành ngọn lửa sưởi ấm cho những dòng thơ hai người viết cho nhau: “Anh nhớ lắm ngôi nhà xinh nhỏ bé / Cánh cửa sổ khép hờ đón ánh trăng nghiêng / Em như mạch giếng khơi ắp đầy thương nhớ / Cho anh xa thêm thấm ngọt ưu phiền”.
Nhìn lại đời thơ Chử Văn Long thấy như anh sinh ra để hát về những buồn vui thắc thỏm đời thường, những nổi chìm phận số, để vươn lên khát vọng làm người. Anh đã tạo ra được nét đẹp riêng về tài sử dụng ngôn từ chính xác mà uyển chuyển… Câu chữ tưởng như chơi chơi mà để lại ấn tượng khó mờ. Hiện đại nằm ngay trong nét dung dị ở cả nội dung lẫn hình thức. Tình đời, tình người là lẽ sống cho thơ anh. Ở bất cứ thể thơ nào, lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, hay tự do… khi đọc, ta bị cuốn hút bởi vần điệu trong hồn, không còn để ý đến vần điệu thật câu thơ ấy nữa, bởi trong đó chứa đựng cái hơi thở phập phồng cuộc sống quanh ta. Thấy được điều này mới cảm nhận được hết chất thi sĩ trong thơ và cả những trang văn của anh chênh vênh giữa mộng và đời.
*.
NGUYỄN THIẾT
Địa chỉ: 10 Nguyễn Khắc Nhu, phường Trúc Bạch
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 097.607.64.17

.













       ........................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Nhà thơ Chử Văn Long gửi qua email haivc08@gmail.com ngày 28.12.2015
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.    
.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét