- Nhạc sĩ Văn Cao - |
VĂN CAO -
MỘT THIÊN TÀI BỊ LƯU ĐẦY
- “Trong âm nhạc,
Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa
bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc
của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ
chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư....”
- Trịnh Công Sơn -
Năm
2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao - người
đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn: Hội họa, thi ca và âm
nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật: Hội họa, âm nhạc và thi
ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.
Không đợi khi xuân đến, tết về
như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ: “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết cuối tháng 12-1975, hoàn
thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976. (Xin quý bạn đọc vào công cụ tìm kiếm: www.google.com , rồi đánh tên bản nhạc để có thể nghe rất nhiều ca sĩ hàng
đầu hát bài: “Mùa xuân đầu tiên” này).
Đây là bài hát có
số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát
mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa: Vui ít, buồn nhiều, mừng
ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng
khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều,
cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum
họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…
Hầu như tất cả các trạng thái
tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này: Ai vui
hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên
thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang
đồng cảm cùng mình…
Nghe đi nghe lại bản nhạc này,
ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn
ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “Mùa
xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.
Riêng lời bài hát đã là một bài
thơ hay:
“Rồi dặt dìu mùa
xuân theo én về
Mùa bình thường mùa
vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy
đang đến đầu tiên
Với khói bay trên
sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho
bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa
xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn
con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy
đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai
anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây
như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê
hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong
tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết
quê người
Từ đây người biết
thương người
Từ đây người biết
yêu người .
Giờ dặt dìu mùa
xuân theo én về
Mùa bình thường,
mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên
sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi
hôm nay mênh mông.”
Rất nhiều chim én, nhiều nắng
gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng sao
hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm
không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng
thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê
hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao
nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết: “một trưa nắng
thôi hôm nay mênh mông”:
Nhật mộ hương quan
hà xứ thị,
Yên ba giang thượng
sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối,
tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa,
sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con
nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não
nùng Văn Cao nay: “Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse bằng
nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của
ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một
vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự
dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ….
Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về? Chừng như
gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật miếng ăn chưa
từng thấy chim én báo xuân? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội
không còn ai biết thương người? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên
chính quê hương mình? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách
mạng, không còn ai biết yêu con người? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã
quên mình còn nước mắt? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng
mùa xuân?
Và chừng như lâu lắm rồi Văn
Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào
hàng kiệt tác? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, (thuê căn gác chật hẹp
cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc? Chừng như đôi
tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính
trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng
hòa (Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca (kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm)?
Và chừng như toàn bộ vết thương
cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ
xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt
mở miệng ca hát: “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng như nỗi niềm ngày 30
tháng 04 năm 1975: “Có một triệu người
Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” (lời ông cựu thủ
tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao?
Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước
mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà
quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy
sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế?
Có lẽ, chính vì những điều trên
mà kiệt tác “Mùa xuân đầu tiên”
của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước tết Bính Thìn: 01-
01 - 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm
(1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh
thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất (1995) 05 năm, “Mùa
xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà
thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra
đời của bài hát này:
“Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm
và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị
nữa... Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn
biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng...”
Tôi còn lưu giữ
được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói.
Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm
thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc
Việt Nam.
Những ngày tháng
sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng
sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu
tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ
này vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn Cao đã sáng tác
xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.”
(trích bài “Văn Cao với ca khúc
“Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180)
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài
hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga,
phát trên Đài phát thanh Matxcova :
“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm
1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút
cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông
đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao
lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.”
Qua tiết lộ trên của anh Văn
Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt
một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “bị vỗ vai” hỏi tên
tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì? Người viết bài này sau năm
1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại:
“Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil Gheorghiu (1916-1992) mang
ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu? Bèn
bảo: Đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à? Người “vỗ
vai” hất đầu cộc lộc: “Vào đi”.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như
một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân
kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn
- Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “bố có
được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu”.
Chúng ta lại được nghe người
con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời
của “Mùa xuân đầu tiên”:
“Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ
trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu
rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng
bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano - đối diện với chiếc đivăng tôi đang
ngủ.
Một giai điệu khe
khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi
đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi
một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày
kỷ niệm 30 năm Tiến
quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng
hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.
Bài hát đã được báo
Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay
sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ
Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng
mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát
thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.
Như mọi lần, trong
suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói
chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi
lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát
lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.”
Nhà thơ NGHIÊM BẰNG THU HÀ ghi
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác
phẩm “Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường
Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh cho
gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “Nhân Văn - Giai Phẩm”.
Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là
trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng.
Với tất cả tội trạng tày trời
do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn
to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang (cùng bị án 15 năm tù
giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ án chống
đảng “Nhân văn - giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là
tác giả Quốc ca.
Ngay sau vụ “Nhân Văn”, nhà
nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài
quốc ca, thay bài “Tiến quân ca”
của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi
quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc
dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào
được chọn (vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao.
Nếu không có bài quốc ca che
chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng,
nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng (với các ca khúc bất diệt: “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”,
“Thiên Thai”…) trong một Văn
Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu:
“Thề ăn gan uống máu quân thù” … “ đường ta đi xây xác quân thù”…đến cùng tận
khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng
lục số 7165 của tổ chức (do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức
Phin (bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép: - Tao
bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái
đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào
thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát…
Sau này, cả cuộc đời còn lại,
Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự
sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những
giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”… nữa; vì
ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương
tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của mình mà vẫn
vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối!
Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy
(bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội là Cung Đình Vạn và Võ Văn Cẩm (không
biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân
Huyến - một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù?).
Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều mình
tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam
lỏng trong án tù thả rông: “Nhân văn - Giai phẩm”…
Có lần, Văn Cao kể cho người
viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắn tôm,
với bạn tâm giao: Nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng…) rằng: “Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng
tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên
Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp
chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy,
nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng (bà
Nghiêm Thúy Băng - phu nhân nhạc sĩ) còng
lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn
mà trở về nuôi con…”…
Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn
Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp: “Thảm
nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là
anh em (cùng bị đi đày lao động) lại
tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn,
đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một
mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì …”…
Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết
thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ
kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm
rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã
hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “tù tại
ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng?
Dồn nén khát vọng tự do mấy
chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân
mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn
nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt
một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt
yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn thành giai điệu Văn
Cao “Mùa xuân đầu tiên” chăng?
Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo
vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp
nắng gió mênh mông…?
Xin xem thêm tài liệu tổng kết
vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm” của đại tá công an A25 Thái Kế Toại đã in công
khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm
dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào.
Qua lời tự thú của vị đại tá
công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội
“Nhân Văn - Giai Phẩm” bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê
hương mình của Văn Cao và các bạn hữu “Nhân Văn - Giai Phẩm” của ông hầu như đã
bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”,
bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với
những kẻ thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo
sau năm 1975…
Không thấu hiểu hoàn cảnh sống
bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao
suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa
tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe với khói trên sông, với tiếng gà
trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “Mùa xuân đầu tiên” này…
Chính nỗi đau buồn kia đã đẩy
Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng
nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có
nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để
tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng
mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt
nữa làm ông co cẳng ù té chạy…
Suốt một đời Văn Cao không chạy
thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ
lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại như
con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn
hối cải về tội chống đảng của mình.
Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu
đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần tiên
sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể trong những ca khúc
tiền chiến tuyệt tác? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang
thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “Buồn tàn thu”:
Buồn Tàn Thu
Ai lướt đi ngoài
sương gió, Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước
chân chàng, Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo
lá vàng. Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi còn
biết em nhớ mong, Tình xưa còn đó xa xôi lòng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa
duyên Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng
người, Chàng ngày nào tìm đến? Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng
qua dần, mùa thu chết bao lần. Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá
vàng.
“Buồn tàn thu” một nỗi buồn
đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu
“em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền
Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “Chinh
phụ ngâm” Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “Cung
oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát “người lên ngựa, kẻ
chia bào” của “bụi hồng dặm cuốn chinh an”…
Cái buồn của con người gặp cái
buồn của trời đất, rất “mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16
tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc
diều của của nghệ thuật muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào mùa thu
một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử trong
giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh
hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu…
Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng
mạn tận cùng qua “Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương
quốc Cái - Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi
dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở
ban đầu trong năm kiệt tác vô song: “Buồn
tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân” (lời Phạm Duy) “Trương Chi” và “Thiên Thai”…
Dường như năm bản nhạc lãng mạn
trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để
được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất
tử với thương yêu ? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái - Đẹp ban sơ được hát lên
cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách
mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt
thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say
của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con
người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng?
Chừng như Văn Cao đã ngầm ký
gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí,
huyền nhiệm: “Thiên thai” và “Trương Chi”, vừa mang phong cách cao
sang, nền nã, cổ điển của nghệ thuật Apollon - thần ánh sáng và thi ca, vừa
mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos - thần rượu
nho ( theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche)?
Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi,
đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “Thiên Thai”. Cuộc
nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba
chàng: Người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao:
Tiếng ai hát chiều
nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày
xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên,
kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn
xao xuyến
Phím tơ lưu luyến,
mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến
như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung
cánh đào rơi
Nao nao bầu sương
khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa
chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa
lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo
khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào
Nguyên
Thiên Thai chốn đây
Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng
ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em
xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường
này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm
nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng
mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu
trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui
ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn
khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh
trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em
ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng
ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa
đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước
Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn
ca bao năm
Nhớ quê chiều nào
xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước
Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào
Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà
trăng lên
Tiếng ca còn rền
trên cõi tiên
Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn
đã nhập “Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn
mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó
là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột
cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới
khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác… do con đò của
tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.
Những giai điệu thần tiên mê ly
hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu - Nguyễn - Văn
vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa,
lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức…
Văn Cao hóa thân vào bi kịch
nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn
Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du
dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình
có thể nổi da gà:
Một chiều xưa trăng
nước chưa thành thơ
Trầm trầm không
gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may
hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca
thu tới bao giờ.
Lòng chiều bơ vơ
lúc thu vừa sang,
Chập chùng đêm
khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi
trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song
the hé đợi đàn.
Tây hiên Mỵ Nương
khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng
con đò trôi
Giai nhân cười nép
trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn
xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ
ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa
sông vắng.
Gió đưa câu ca về
đâu?
Nhìn xuống đáy nước
sông sâu.
Thuyền anh đã chìm
đâu!
Từng khúc nhạc xa
vời
Trong đêm khuya dìu
dặt tiếng tơ rơi.
Sương
thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa
mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang
đầu tha thiết,
Nghe sông than mối
tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi
về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa
thu.
Ngoài song mưa rơi
trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức
nở và than,
Trầm vút tiếng gió
mưa
Cùng với tiếng nước
róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng
theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức
nở và than,
Cùng với tiếng gió
vương,
Nhìn thấy ngấn nước
lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò ơi! Đêm nay dòng
sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới
trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván
thuyền,
Ta ca trái đất còn
riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh
nghèo quên nhau,
Đôi
lứa bên giang đầu.
Người ra đi với
cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền
Trương Chi?
Bi kịch Trương Chi chính là bi
kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời
đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ
thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn Văn
Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca?
Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong
gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân
hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn
Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc
hôm nay.
Thương thay chàng Trương Chi
Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người, cho
tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu: “Hỡi xuân hồng ta
muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân
Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời .
Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ
Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát
như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi chính
trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương - Thời đại phụ tình, hớp
hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ: “Trường ca Sông Lô”, trong “Tiến quân ca”, trong “Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt
chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác
chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng (ở tù tại gia mà phải
thuê a ?)…
Trương Chi đã yêu, đã chết cho
mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá
quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao
không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng
linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón
nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm
nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế
được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng
Trương Chi - Văn Cao:
“Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin
nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi /
khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp
đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ (nhạc sĩ - chua thêm TMH) đến nữa …”
(bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền bối Văn Cao ơi!
Âm nhạc sang trọng bậc nhất
nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang
đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một
cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi
chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi
thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông:
ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc.
Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng,
cao cả này mà thôi .,.
Mời thư giãn với nhạc phẩm MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN
của Văn Cao qua tiếng hát Thanh Thúy:
*
TRẦN MẠNH HẢO
Địa chỉ: Số nhà 220/22
phố Hồ Văn Huê,
quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn
Email:
hungdimy@yahoo.com
.
...................................................................................................................
- Cập nhật từ email ngocthai1948@gmail.com gửi ngày 10.10.2015.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Kiêt tác về con người kiệt tác
Trả lờiXóaKính chào Nhà Thơ, Nhà Phê Bình ÂM Nhạc Trần Mạnh Hảo . Chúc Ông Luôn Khỏe & Viết Khỏe !
Trả lờiXóacảm ơn anh Khải. Hôm trước tôi có chuyển cho anh một bài, anh có mở ra xem được không
Trả lờiXóaCháu cảm ơn bác TMH và anh ĐXX chia sẻ bài viết đầy trang trọng và chu đáo. Qua bài viết giúp thế hệ "sinh sau đẻ muộn", hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Tài hoa, Vĩ đại Văn Cao, tác giả của Quốc ca VN, cháu thiệt sự rất xúc động và nghẹn ngào khi đọc bài viết ạ.
Trả lờiXóaTác giả bài viết rất dũng cảm và chủ trang web cũng rất dũng cảm!
Trả lờiXóaCám ơn!