(Nguồn ảnh: Interent) |
MẪU NGƯỜI MỆNH
VÔ CHÍNH DIỆU
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh.
Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định
dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc
tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh,
Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có
những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là
Mệnh Vô Chính Diệu.
Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu
trời không có trăng sao cho nên Mệnh Vô Chính Diệu phải mượn chính tinh ở cung
đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh Vô Chính Diệu chỉ
chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung
xung chiếu mà thôi. Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài
trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc ngoài xã hội của mỗi
người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì
đặc tính đầu tiên của người Vô Chính Diệu là tính uyển chuyển, dễ thích nghi
với hoàn cảnh. Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người Vô
Chính Diệu thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì
tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì
cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất
khách quê người, và tuổi đời không được thọ. Một đặc điểm quan trọng khác mà
người Vô Chính Diệu phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như
đoàn quân không có tướng cho nên người Vô Chính Diệu khi ra đời dù là làm công
hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như
chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ
sở thương mại.
Người Vô Chính Diệu chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau
lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công
việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại,
nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân
mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành. Người Vô Chính Diệu
tánh tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công
việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với
họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry
Kissinger ngày nay. Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người Vô Chính Diệu.
Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác,
còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà
họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoản tiền vận của
cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
Người Vô Chính Diệu thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt
đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung
thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc
tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt
đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi
hơn và nhiều may mắn hơn. Là mẫu người có tài, có trí họ có thể đạt được những
công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ
nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh” Cho nên
người Vô Chính Diệu ít ai có được tuổi thọ cao.
Muốn hóa giải vấn đề này, người Vô Chính Diệu phải làm con nuôi của người
khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất
khách quê người. Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người Vô
Chính Diệu vẫn được hai cách tốt: 1. Mệnh Vô Chính Diệu có Tuần, Triệt, Thiên
Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu
sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị không, tam
không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì
sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.” Có nghĩa là hung tinh đắc địa
thì phát nhanh như sấm chớp.
Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất
của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng
Võ mà thôi. Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng
ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị không thì cũng bình
thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là
con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được tròn vẹn. Cách tốt nhất là
đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa
các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt,
trường hợp nào xấu. Trường hợp đắc tam không: Mệnh Vô Chính Diệu có một sao
không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất.
Có câu: “Mệnh Vô Chính Diệu đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ” Cách này rất
ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho
nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát. Trường hợp kiến tam không:
Mệnh Vô Chính Diệu có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc
Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung
tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh
sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ. Trường
hợp ngộ tam không: Mệnh Vô Chính Diệu có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa
thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào
Mệnh.
Cách này là “Mệnh Vô Chính Diệu ngộ tam không phi yểu tắc bần” có nghĩa là
gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với
hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán. 2. Mệnh Vô Chính Diệu được hai
sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như
một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu
vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là “Mênh Vô Chính Diệu
Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở
Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không” Điều đó xét ra không cần
thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát
Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh. Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ
Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu.
Mệnh Vô Chính Diệu an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh)
và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về
Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện” Người đắc
cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương
mà thôi. Vì Mệnh Vô Chính Diệu, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư
trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông
là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi
trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình
nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh Vô Chính Diệu, chiu dưới chỉ 1 người
mà trên muôn vạn người. Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy
ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một
vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh Vô Chính
Diệu.
Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút
quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã
làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành. Đó là đặc tính
đáng chú ý của người có Mệnh Vô Chính Diệu: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho
chính bản thân mình thì khó. Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là
vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng
giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân
của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn
của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông
ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh Vô Chính Diệu?
Xin mượn lời khái quát của tác giả Đặng Xuân Xuyến về Mẫu Người Vô Chính
Diệu, để kết thúc bài viết này:
“Mấy lưu ý về người Mệnh Vô Chính
Diệu:
- Lúc còn nhỏ thường vất vả, lận đận, hoặc
hay đau yếu, khó nuôi. Lớn lên, giảm thiểu được bệnh tật, tai họa do nhạy bén hoặc
linh cảm được được sự việc sắp xảy ra. Nếu là con trưởng thì không sống gần cha
mẹ, nếu gần cha mẹ thì dễ chết non hoặc nghèo hèn.
- Thường là con vợ hai, vợ lẽ hoặc nàng hầu.
(Điều này người viết thấy không mấy đúng nhưng vì sách Tử Vi nói vậy nên cứ
liệt kê.)
- Cuộc sống trôi nổi, cho dù đắc cách thì
cũng hoặc phú quý chỉ một thời, hoặc đáng hưởng phú quí thì lại chết.
- Làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không
bền. Vì thế, nên hoạt động trong bóng tối hoặc ẩn danh là tốt nhất.
- Không có lập trường vững vàng, tư tưởng
không ổn định (trừ một số trường hợp đặc biệt đã nêu ở phần A) nhưng dễ thích
ứng với hoàn cảnh.
- Nữ Mệnh Vô Chính Diệu thì đỡ xấu
hơn Nam Mệnh Vô Chính Diệu
- Mệnh Vô Chính Diệu thì cần Hỏa mệnh và
Kim mệnh vì Mệnh Vô Chính Diệu như nhà không nóc, cần bản mệnh có
hành khí mạnh mẽ cứng cỏi làm nồng cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc thì
không tốt.
- Mệnh Vô Chính Diệu Đắc Tam Không thì khi
đương số sinh ra, bố mẹ thường hoặc sẽ phát đạt hoặc bị khủng hoảng, tai nạn
trong một thời gian. Và cuộc đời đương số bao giờ cũng có sự thay đổi bất ngờ.
- Mệnh Vô Chính Diệu có hung tinh độc thủ thì
cần đồng hành với bản Mệnh mới là thật tốt.
- Mệnh Vô Chính Diệu mà không có Tuần, Triệt
án ngữ, lại có sao Thiên Không thủ, gọi là cách ngộ Không, là người quyền biến
khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm cực khổ. Nếu thêm các sao Không khác hội
chiếu thì càng xấu, cuộc đời hoặc thăng trầm cực khổ hoặc sẽ bị chết yểu. Nếu
lại có hung tinh lạc hãm, khác với hành của bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm
hơn.
- Mệnh Vô Chính Diệu có tam không (Thiên
không, Địa không, Địa kiếp), được nhiều cát tinh hội họp, lại có các vận liên
tiếp tốt đẹp thì đương số thường được sung sướng từ bé nhưng dễ bị yểu tử.
- Mệnh Vô Chính Diệu nếu có sao Thiên Tướng,
Tướng Quân... đóng mà gặp Tuần Triệt án ngữ thì dễ đưa đến tai họa bất ngờ cho
đương số.
- Mệnh vô chính diệu mà cung Tử cũng vô chính
diệu thì cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con cái.”
(Xem
thêm:
*
Hưng Yên, ngày 21/06/2016
ĐÀO ANH DŨNG (Tổng hợp)
Địa chỉ: Thị tứ Phùng Hưng,
xã Phùng Hưng,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Email: anhdungdao131@yahoo.com.vn
........................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 23.06.2016
- Bài viết không thể hiện quan điểm của Trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét