MỜI ĐỌC:

Thứ Sáu, 29 tháng 1, 2016

ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY: VIẾT Ở ĐỀN THỜ TRẠNG TRÌNH - Tác giả: Vũ Bình Lục (Hà Nội)

(Nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Ngoan)
ĐẾN VỚI BÀI THƠ HAY:
VIẾT Ở ĐỀN THỜ TRẠNG TRÌNH
*
VIẾT Ở ĐÊN THỜ TRẠNG TRÌNH

Người ơi! Con cúi lạy Người
Khói hương lãng đãng trắng trời Trung Am
Cho con ý ngọc lời vàng
Câu thơ san sẻ ngổn ngang khóc cười...
Phận con hóa đá lâu rồi
Mây trôi bèo dạt bên trời dở dang
Trên đầu đội mấy vòng tang
Sợi dọc thương mẹ, sợi ngang nhớ chồng
Cò gầy còn có bến sông
Con đi mót tép phố đông không bờ
Đàn con ngơ ngác bơ vơ
Nuôi con héo xác, ẵm thơ rạc hồn
Cò gầy biết tránh bão giông
Con như cỏ dại giữa đồng tả tơi
Xin người chữ vãi chữ rơi
Nỗi đau dìm xuống, nụ cười vớt lên
Cho con chân cứng đá mềm
Để con chèo lái vén đêm sang ngày
Phận con sung chát gừng cay
Câu thơ lam lũ heo may thổi tràn
Sân đền rụng kín lá vàng
Cây hương lặng lẽ thở than nỗi gi?
*
Tháng 10 năm 2005
NGUYỄN THỊ THÚY NGOAN
LỜI BÌNH:
(Tác giả Vũ Bình Lục)
Trạng Trình là ai vậy? Đó chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng (xưa là huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương). Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng nguyên ở đời Mạc Đăng Doanh, làm quan cho nhà Mạc 8 năm, đến chức Thượng thư bộ Lại, rồi cáo quan về nhà dạy học. Trước đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhà Mạc ban tước Trình Tuyền Hầu, đến khi về hưu lại ban thêm tước Trình Quốc Công, nên dân gian quen gọi là Trạng Trình. Ngài dựng TRUNG TÂN QUÁN để giao du với các văn nhân tài tử và chính khách trong thiên hạ, trở thành một nhân vật lịch sử và văn hóa lỗi lạc. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là danh nhân văn hóa lớn nhất thế kỷ 16 ở nước ta. 
Nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Ngoan cùng quê Vĩnh Bảo với cụ Trạng Trình. Chị thường về thăm nhà, rồi sang thắp nhang bên đền thờ Trạng Trình, trước là để tưởng nhớ một nhà văn hóa lớn của quê mình, sau nữa là để cầu xin cụ Trạng che chở cho mình trong cuộc đời chìm nổi lênh đênh bé mọn của kẻ hậu sinh. Bài thơ VIẾT Ở ĐỀN THỜ TRẠNG TRÌNH, có lý do riêng như vậy đấy!...
Người ơi con cúi lạy Người
Khói hương lãng đãng trắng trời Trung Am
Cho con ý ngọc lời vàng
Câu thơ san sẻ ngổn ngang khóc cười...
Đấy là những câu thơ mở đầu, khái quát cái tâm thành của kẻ đến sau, với anh linh của Tuyết Giang Phu Tử. Cụ Trạng là bậc thầy của rất nhiều danh sĩ trong khắp thiên hạ, cũng là bậc “sư biểu” của muôn đời. Ngài đã bay lên mây trắng, hóa thành mây trắng, nhưng anh linh Ngài dường như vẫn đang quanh quẩn đâu đây trong “khói hương trắng trời Trung Am”, để cháu con từ khắp nơi về thành kính dâng hương trước anh linh Ngài, để tưởng nhớ, để suy tư về cõi người dâu bể, để cầu xin Ngài cảm thấu và chia sớt nỗi niềm... Thi nhân Thúy Ngoan thầm thì thổn thức kể lể với tiền nhân những điều gì vậy? 
Phận con hóa đá lâu rồi
Mây trôi bèo dạt bên trời dở dang
Trên đầu đội mấy vòng tang
Sợi dọc thương mẹ, sợi ngang nhớ chồng
Đấy! Mới chỉ nghe qua vài tiếng, cũng đã thấy rõ hình tượng nhân vật trữ tình chủ thể. Một người đàn bà đa đoan phận bạc, chìm nổi, “mây trôi bèo dạt”, suốt đời xót thương người mẹ tảo tần của mình đã về với đất. Thêm nữa, cũng đã từ lâu lắm rồi, người chồng yêu quý của chị đã bỏ mẹ con chị mà ra đi mãi mãi. Cho nên, đau thương này lại còn chồng chất lên nỗi đau khác. Mái tóc trên đầu đã ngổn ngang sợi nhớ sợi thương, tưởng như tấm thân mỏng manh của người đàn bà góa bụa, bộn bề trong nỗi cô đơn sâu thẳm không thể nào chịu nổi. Tác giả phải tự dằn lòng mà tự thú với tiền nhân, rằng “Phận con hóa đá lâu rồi”, chỉ còn lại một kiếp sống thừa, vương vãi ở cái thế gian nổi chìm dâu bể này thôi. Như thế, dường như cảm thấy vẫn chưa là đủ, tác giả còn kể lể thêm với tiền nhân về nỗi đọa đày, khó nhọc trong cái lưới đời giăng mắc như một định mệnh nghiệt ngã không sao gỡ ra được, rằng:
Cò gầy còn có bến sông
Con đi mót tép phố đông không bờ
Đàn con ngơ ngác bơ vơ
Nuôi con héo xác, ẵm thơ rạc hồn
Ví thân phận lẻ loi cô độc của mình như thân phận con cò mót tép bên bờ sông vắng, cũng không phải là mới là lạ, nhưng “con đi mót tép phố đông không bờ” thì lại là một so sánh hợp lý và sáng tạo, nó có thể tạo ra vô số những liên tưởng mới, mở thêm nghĩa mới cho hình ảnh thơ. Người mẹ trẻ góa chồng, phải bươn bả vật lộn với cuộc đời, để nuôi cái xác thân vốn đã gày rạc của mình, lại còn phải chăm lo bú mớm cho đàn con đang còn trứng nước, đã là một sự khốn khổ lắm rồi. Điều này, tuy vậy, vẫn chưa phải là thật hiếm ở đời. Nhưng mà “nuôi con héo xác, ẵm thơ rạc hồn” thì lại là một nỗi riêng tư chồng chất. Một duyên mà ba bốn cái nợ đời đè lên như thế, vừa “nuôi” vừa bế “ẵm” vất vả như thế, chả trách sao mà thân xác và hồn vía người đàn bà “Mười ba bến nước” cũng phải “héo” đi, cũng phải “rạc” đi, chứ còn sao nữa! 
Kể lể như thế, giãi bày như thế, tưởng đã là đầy đủ lắm rồi, nhưng người đàn bà góa bụa đeo đẳng bế ẵm cả nghiệp thơ, vẫn chưa thôi nức nở. Nàng còn tiếp tục giãi bày thêm nữa về cái thân phận “con cò lặn lội bờ sông” của mình. Rằng con cò gầy kia, dẫu cho có bão có giông chăng nữa, thì nó vẫn còn “biết tránh bão giông”, còn có khả năng tự vệ, chứ còn như phận con thì chả khác gì “cỏ dại giữa đồng tả tơi”, sức nào mà chịu cho thấu hở trời! Thế nên, con phải cầu xin Ngài, cho con một chút chữ nghĩa, hay là ít ra cũng nhặt nhạnh được dăm ba “chữ vãi chữ rơi” của Ngài. Để làm gì vậy? Thì đây:
Xin Người chữ vãi chữ rơi
Nỗi đau dìm xuống, nụ cười vớt lên!
Hóa ra, chữ nghĩa đôi khi cũng có thể giúp con người, cứu rỗi con người những khi hoạn nạn, những khi bế tắc cùng đường. Hơn thế, nó còn có thể giúp con người biết tự dìm đi nỗi đau riêng, để hồ hởi, tin tưởng mà đứng lên tự cứu lấy mình, để được tiếp tục sống và hy vọng. Quả là hai câu thơ vào loại đặc sắc, thi sĩ phải có tài mới viết được. Câu “Nỗi đau dìm xuống, nụ cười vớt lên” đối ý, đối lời, tạo ra vẻ đẹp riêng cân đối, toát lên ý chí và nghị lực thật đáng quý! Thúy Ngoan đã sáng tạo được hai câu thơ rất có thần thái, giàu nội hàm mĩ cảm. Nếu không phải là người trong cuộc, nếu không từng trải qua thân phận “sung chát gừng cay” dầu dãi với đời, sao có thể viết được những câu thơ gan ruột cháy lòng như thế? 
Hai câu thơ cuối bài, nữ sĩ lại trở về vi cõi thực, sau những miên man giãi bày dường như bất tận về thân phận:
Sân đền rụng kín lá vàng
Cây hương lặng lẽ thở than nỗi gì?
Thực và ảo, cõi lòng và cõi tâm linh huyền bí như hòa lẫn vào nhau, tình thơ, ý thơ như không thể nào đứt đoạn. Cái hay của VIẾT Ở ĐỀN THỜ TRẠNG TRÌNH của Nguyễn Thị Thúy Ngoan, trước hết là ở chỗ tình điệu chân thành, tha thiết và nồng ấm hơi người, nồng ấm tình đời trong cảm thức sâu thẳm. Thơ vắt ra từ nỗi đau đời, từ hồn vía thi nhân, tự thân nó đã tạo ra sức truyền cảm lớn với đồng loại. Và nếu như có thêm sự sáng tạo của tài hoa, tất sẽ có một tuyệt phẩm để lại cho đời, chẳng phải vậy hay sao?...


          
Mời thư giãn với nhạc phẩm TRÊN ĐỈNH PHÙ VÂN
của Phó Đức Phương, qua tiếng hát Mỹ Linh:
           
*
Hà Nội, tháng 11 năm 2015
VŨ BÌNH LỤC
Địa chỉ: thôn Ngọc Chi, xã Vĩnh Ngọc
huyện Đông Anh, tỉnh Hà Nội.
Email: vubinhluc184@gmail.com
Điện thoại: 097.366.05.79
.
                                            .
.



…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: ngocthai1948@gmail.com gửi ngày 13.01.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét