MỜI ĐỌC:

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2019

CA KHÚC Ở MIỀN NAM 1954 ĐẾN 1975 - Tác giả: Lê Thiên Minh Khoa (Vũng Tàu)

(Nhạc trẻ Miền Nam trước năm 1975 ; Nguồn ảnh: internet)
CA KHÚC Ở MIỀN NAM
1954 ĐẾN 1975
*
(Tác giả Lê Thiên Minh Khoa)
NHẠC DU CA 1966-1975
Trong giai đoạn 1954-1975, ở Miền Nam, sáng tác ca khúc tân nhạc rất đa dạng và phong phú với nhiều dòng nhạc, nhiều phong trào ca nhạc trong một vườn hoa âm nhạc nhiều hương sắc. Ngoài hai dòng nhạc phản chiến và nhạc tâm lý chiến mà trang Đặng Xuân Xuyến đã giới thiệu và nhiều dòng nhạc khác như: nhạc Thánh ca Công giáo, Tin lành, nhạc đạo Phật giáo, nhạc thiếu nhi, nhạc sinh hoạt cộng đồng…, ở Miền Nam thưở ấy còn có bốn dòng nhạc chính được phổ biến rộng rãi nữa: tình khúc, nhạc vàng, nhạc trẻ và du ca.

TÌNH KHÚC 1954-1975 
Ở Miền Nam từ 1954-1975, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa thu, mưa, sương, đêm khuya... để nói lên tình cảm của mình, những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn, ca từ lãng mạn vẫn là ngôn ngữ văn hóa nhưng mới mẻ hơn, trẻ trung hơn và sống động hơn, với nhiều cung bậc tình cảm hơn, khoắc khoải, nồng nàn, sâu lắng, say mê, man mác, hoài nhớ, tiếc thương... thường theo các thể điệu Slow Rock, Slow, Valse, Ballad, Boston… Gần với nhạc tiền chiến hơn, cung điệu cũng trau chuốt, nhưng khác nhạc tiền chiến là thường ít chậm hơn, biểu hiện tâm trạng cá nhân không có không gian cụ thể và có tính hiện đại hơn, và cũng xa rời nhạc cổ điển hơn so với nhạc tiền chiến, tình ca 1954-1975 là dòng nhạc được giới trí thức, trung lưu và sinh viên, học sinh (SVHS) ở miền Nam thưở ấy yêu thích.
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác đều đặn những ca khúc có giá trị nghệ thuật: Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa thu chết, Nghìn trùng xa cách, Nha Trang ngày về…, còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng: Lê Uyên Phương, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công SơnHoàng Nguyên, Nguyễn Ánh 9, Khánh Băng, Thanh Bình, Thanh Trang, Nguyễn Phú Yên, Trần Trịnh, Nguyễn Văn ĐôngPhạm Trọng Cầu, Từ Công Phụng, Văn Phụng, Trần Quang Lộc, Vũ Thành An, Lê Hựu Hà, Cung Tiến, Lê Trọng Nguyễn, Phạm Mạnh Cương, Đức Huy, Phạm Đình Chương, Quốc Dũng, Hoàng Trọng, Nguyễn Hữu Thiết, Vũ Đức Sao Biển, v.v…
Không thể kể hết những tình khúc nổi tiếng đương thời:  Các Bài không tên của Vũ Thành An; Tình lỡ, Đừng đến rồi đi, Tiếc một người của Thanh Bình; Thuyền em đi trong đêm, Ngàn năm vẫn lạ, Tiếng chim rừng hát mừng sông núi, Cô giáo trẻ trên bản làng xa của Nguyễn Phú Yên; Chiều nay không có em, Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Dấu tình sầu, Bản tình cuối của Ngô Thụy Miên;  Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta, Uống nước bên bờ suối, Cho lần cuối của Lê Uyên - Phương; Phiên khúc mùa đông, Huyền thoại người con gái của Lê Hựu Hà; Suối lệ xanh của Phạm Mạnh Cương; Bây giờ tháng mấy, Lời cuối, Giọt lệ cho ngàn sau, Mắt lệ cho người, Tuổi xa người, Bài cho em của Từ Công Phụng; Nụ cười thơ ngây, Nếu một ngày, Vọng ngày xanh của Khánh Băng…. Đặc biệt là Vọng ngày xanh viết năm 1956 được nhiều ca sĩ nổi tiếng đương thời  như Minh TrangLệ Thu, Thái Thanh... trình bày, trong đó thành công hơn cả phải kể đến danh ca Thái Thanh. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác quyền Thế giới mời gia nhập…  
Nhiều tình khúc nổi tiếng khác rất được ưa chuộng vào thời gian này như Thanh Trang với Huyền, Tình khúc mùa đông, Duyên thề; Hoàng Nguyên với Cho người tình lỡ; Tà áo tím; Quốc  Dũng với Đường xưa, Cơn gió thoảng; Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi, xin chào mi; Văn Phụng với Yêu, Tình, Suối tóc, Tôi đi giữa hoàng hôn; Vũ Đức Sao Biển với Thu hát cho người; Y Vân với Buồn, Ngăn cách, Ảo ảnh, Những bước chân âm thầm; Đức Huy với Bay đi cánh chim biển, Cơn mưa phùn; Anh Bằng với Nỗi lòng người  đi; Nguyễn Hiền với Mái tóc dạ hương; Đan Thọ với Chiều tím; Trần Trịnh với Lệ đá; Tuấn Khanh với Hoa xoan bên thềm cũ, Chiếc lá cuối cùng; Nguyễn Văn Đông với Hải ngoại thương ca. Phạm Trọng Cầu khi du  học ở nhạc viện  Paris (Conser - vatoire Supérieur de Musique de Paris) cũng đã viết Mùa thu không trở lại để đời…
Hoàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango: Ngỡ ngàng, Lạnh lùng, Tiễn bước sang ngang…,  đặc biệt bài Ngàn thu áo tím (lời Vĩnh Phúc) điệu valse luôn được công chúng trước nay ưa thích.    
Cung Tiến nối tiếp dòng nhạc lãng mạn tiền chiến với những tình khúc bất tử: Hương xưa, Hương xuân, Mùa hoa nở, Đêm hoa đăng, Mắt biếc (khác bài Mắt biếc của Ngô Thụy Miên)…
Đặc biệt, Nguyễn Hữu Thiết với  những tình khúc đậm đà màu sắc âm nhạc dân gian, dân tộc, như:  Giọt mưa chiều hay nước mắt em, Lời nguyền cho một tình yêu, Chỉ có tình yêu, Cánh hoa xuân, Mưa chiều nhớ nhau, Hoa nhớ thương ai,… 
Phạm Duy, Trần Quang Lộc, Phạm Đình Chương, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Trần Trịnh, Cung Tiến, Ngô Thụy Miên… có nhiều tình khúc phổ thơ nổi tiếng. Với Phạm Duy là: Còn chút gì để nhớ (thơ Vũ Hữu Định), Ngậm ngùi (thơ Huy Cận), Áo anh sứt chỉ đường tà (thơ Hữu Loan), Tiếng sáo Thiên thai (1959 - thơ Thế Lữ), Tiễn em, Mùa thu Paris (thơ Cung Trầm Tưởng), Tỳ bà (thơ Bích Khê), Vần thơ sầu rụng (thơ Lưu Trọng Lư), Tình cầm (thơ Hoàng Cầm); Em hiền như masoeur, Thà như giọt mưa, Hai năm tình lận đận (thơ Nguyễn Tất Nhiên), Ngày xưa Hoàng Thị, Đưa em tìm động hoa vàng (thơ Phạm Thiên Thư), Chuyện tình buồn và 12 tháng anh đi (thơ Phạm Văn Bình), Màu thời gian (1971- thơ Đoàn Phú Tứ)… Với Trần Quang Lộc là: Về đây nghe em (thơ A Khuê), Em theo đoàn lưu dân (thơ Phạm Hòa Việt), Có phải em mùa thu Hà Nội (thơ Tô Như Châu)… Phạm Đình Chương là: Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng)… Vũ Thành An là Em đến thăm anh đêm 30 và Tình khúc thứ nhất (thơ Nguyễn Đình Toàn)… Từ Công Phụng là Trên ngọn tình sầu (thơ Du Tử Lê)… Trần Trịnh là Lệ đá (thơ Hà Huyền Chi), Chiếc lá cuối cùng (thơ Théophile Gauthier)… Cung Tiến là: Đôi bờ (thơ Quang Dũng), Hoàng Hạc lâu (thơ Thôi  Hiệu - Vũ Hoàng  Chương dịch), Kẻ ở (Mai chị về - thơ Nguyễn Đình Tiên), Khói hồ bay (thơ Nguyễn Tường Giang), Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu), Thuở làm thơ yêu em (thơ Trần Dạ Từ), Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư) và ba bài: Vang vang trời vào xuân, Đêm, Lệ đá xanh đều phổ thơ Thanh Tâm Tuyền…Và Ngô Thụy Miên là Tình khúc buồn (thơ Phạm Duy Quang) và nhiều ca khúc phổ từ  các bài thơ nổi tiếng của Nguyên Sa: Áo Lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em, Tình khúc tháng sáu, Tuổi 13…
Nổi bật nhất là Trịnh Công Sơn với hàng loạt tình ca muôn thuở như: Tình nhớ, Tình xa, Phôi pha, Diễm xưa, Nhìn những mùa thu đi, Hạ trắng, Biển nhớ, Cát bụi, Như cánh vạc bay, Còn tuổi nào cho em, Tuổi đá buồn, Chiều một mình qua phố...            
Các danh ca hát  tình khúc giai đoạn này có: Khánh Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan, Hoàng Oanh, cặp đôi Ngọc  Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết…  
Tuy chỉ có 20 năm, nhưng giai đoạn này tại miền Nam đã  hình thành một số lượng tình khúc khổng lồ, trong đó có nhiều bản nhạc nổi tiếng, được yêu thích và lưu truyền qua nhiều thế hệ.                                  

2.   NHẠC VÀNG 1954-1975
Là dòng nhạc trữ tình bình dân, hình thành ở Miền Nam từ sau 1954 với các bài hát được viết trên những giai điệu đơn giản, chậm buồn đều đều, mang âm hưởng dân ca, nhẹ nhàng của boléro, rumba, ballade, slow rock…, phổ biến nhất là bolero  được hát bằng giọng thứ quãng âm trung hoặc trầm chậm, ca từ bình dị, dễ nghe, dễ hiểu, chất chứa nỗi niềm của một con người bình thường, nên dòng nhạc này đã thu hút một số lượng lớn khán giả bình dân… 
Ba đề tài chủ yếu  phổ biến của “nhạc vàng” là: Tình - Lính và Quê hương, sắc thái tình cảm thường là buồn thương... và thường có giọng điệu tự sự, kể chuyện như các ca khúc:  Hàn Mặc Tử (Trần Thiện Thanh), Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh), Chuyện tình Lan và Điệp (Lê DinhMinh Kỳ và Anh Bằng)… 
Ở miền Nam, nơi khai sinh và nuôi dưỡng dòng nhạc này, có khi người ta dùng từ “nhạc sến”, hoặc tế nhị hơn thì gọi là “nhạc trữ tình bình dân” để chỉ dòng nhạc này. Nhưng thực ra ở VN, vùng kháng chiến  từ đầu thập niên 1950 đã du nhập khái niệm "nhạc  vàng" từ Trung Hoa  dịch  từ "huangse yinyue" (hoàng sắc âm nhạc) là nhạc tình thời thượng lúc đó đang phổ biến ở Thượng Hải.
Có lẽ người viết ca khúc đầu tiên theo điệu bolero là Lê Trọng Nguyễn, Lam Phương rồi Trúc Phương. Lam Phương sáng tác Chiều thu ấy  từ 1952, lúc mới 15 tuổi, nhưng đến năm 1954 ông mới nổi danh với hai bài Kiếp nghèo và Chuyến đò vĩ tuyến. Sau đó, trong hơn 2 thập niên, ông viết gần 200 bài hát trữ tình được công chúng Miền Nam yêu thích như: Thành phố buồn,  Nhạc rừng khuya,  Nắng đẹp miền Nam, Bài Tango cho em,  Tình bơ vơ, Duyên kiếp, Tình chết theo mùa đông, Tình cố đô, Tình đau, Tình đầu muôn thuở, Tình đẹp như mơ, Tình mẹ, Tình người viễn xứ, Tình nghĩa đôi mình chỉ thế thôi, Tình như mây khói, Tình vẫn chưa yên, Tình thiên thu…
Còn Lê Trọng Nguyễn thành công ngay từ ca khúc bolero đầu tiên là Nắng chiều cũng viết năm 1952, là một bản nhạc boléro “kinh điển”, được viết với cung trưởng trẻ trung, buồn mà không bi lụy, rất hiếm gặp trong thời kỳ đầu của dòng nhạc boléro và cả sau này. Nắng chiều còn được biết đến ở Hồng KôngĐài Loan và Nhật Bản. Ông sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều có giá trị nghệ thuật cao, giai điệu và ca từ trau chuốt, hình ảnh đẹp như tranh: Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên thềm, Sóng Đà Giang, Sao đêm… thường được xếp vào dòng nhạc tình khúc.
Trúc Phương cũng được biết đến trễ hơn, với hai sáng tác đầu tay là Tình thương mái lá và Tình thắm duyên quê viết năm 1957, kế đến là Chiều làng em (1958) và Đò chiều (1959)... đều được nhiều người thích. Bản nhạc nổi tiếng nhất của ông là Tàu đêm năm cũ  viết vào đầu thập niên 1960,  Sau đó, là khoảng 70 ca khúc được phổ biến rộng rãi: Nửa đêm ngoài phố, Buồn trong kỷ niệm, Thói đời, Hai lối mộng, Kẻ ở miền xa, Đêm gác trọ, Đêm tâm sự, Đêm trên vùng đất lạ, Đêm Việt Nam, Đôi mắt người xưa, Đường chiều cao nguyên, Hai chuyến tàu đêm, Hình bóng cũ…
Còn Hoàng Thi Thơ, người được xem là “khơi dòng Việt hóa bolero”, sau Gạo trắng trăng thanh (1954), tiếp tục viết nhiều tình ca quê hương nổi tiếng như Đường xưa lối cũ (1955), Duyên quê, Ai nhớ chăng ai, Trăng rụng xuống cầu (1956)… Sau đó, dưới nhiều bút danh như: Hoàng Thi Thơ, Tôn Nữ Trà Mi, Tôn Nữ Diễm Hồng, Bích Khê, Triệu Phong, Tố Tâm…, ông viết rất nhiều bản nhạc vàng và tình khúc đậm chất dân ca rất được phổ biến và ưa chuộng.
Nhưng người quảng bá tích cực nhất cho dòng nhạc này là nhạc sĩ Phó Quốc Lân, tác giả các ca khúc: Xuân ly hương, Hương lúa miền Nam, Mong ngày anh về, Vui khúc tương phùng... Năm 1955, ông tái lập ban nhạc Lửa Hồng và sau  đó    cho ra mắt ban Nhạc Vàng thuộc đài phát thanh rồi đài truyền hình Sài Gòn  để trình tấu định kỳ. Ngoài ra, các nhạc sĩ như  Anh Bằng lập ra các hãng Hương Giang, Dạ Lan; Ngọc Chánh lập ra hãng Shotguns để phát hành băng và đĩa nhạc với nhãn hiệu "nhạc vàng”.
Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương phẩm - mệnh danh là nhạc vàng  - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi choai choai, với em gái hậu phương và  lính đa tình, tuy không được coi trọng nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến".
Ngoài các tên tuổi trên, nhạc sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc này là: Trần Thiện Thanh, Châu Kỳ, Duy Khánh, Anh Chương, Đỗ Lễ, Hoài LinhHoài AnPhạm Thế MỹMạnh PhátLê DinhMinh Kỳ, Anh Bằng, Hàn Châu, Y Vân,  Vinh Sử, Thanh SơnAnh Việt ThuAnh Việt Thanh, Trịnh Lâm Ngân (bút hiệu ghép của Trần Trịnh, Lâm Đệ, Nhật Ngân), v.v...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng: Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh, Anh Chương, Anh Bằng, Nhật Trường, Trung ChỉnhGiang TửMinh HiếuTrúc Mai, Hà Thanh, Ngọc MinhPhương Dung, Anh KhoaPhương Hồng QuếSơn CaBăng Châu, Thái Châu, Nhật Trường (tức NS Trần Thiện Thanh)... Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Hai dòng nhạc trữ tình - tình khúc và nhạc vàng 1954-1975 “đối cực” về thính giả, nhưng có khi “đồng nhất” về tác giả. Một số NS chuyên sáng tác nhạc vàng nhưng cũng có những ca khúc của họ được xếp vào tình khúc, như một số bài hát của các NS Hoàng Thi Thơ, Y Vân, Nguyễn Văn ĐôngPhạm Thế Mỹ, Song  Ngọc, Lam Phương, Anh Bằng,... Ngược lại, một số NS trước đã nổi tiếng với tình khúc lại thành công trong nhiều bản nhạc vàng. Như Phạm Mạnh Cương của tình ca Thu ca (1953) bất hủ, sau nầy viết nhiều bản nhạc vàng được yêu thích: Tình mùa phượng thắm (1961), Tháng bảy mưa ngâu (1964)… Hoặc Trần Trịnh của tình khúc Lệ đá nổi tiếng đã viết nhạc vàng cùng Nhật Ngân trong bút hiệu chung Trịnh Lâm Ngân được phổ biến rộng rãi: Mùa xuân của mẹ, Xuân này con không về…      
Đề tài nhạc vàng sẽ trở lại nhiều lần trong chuyên đề này ở các giai đoạn âm nhạc khác, do sự tồn tại lâu dài của nó trong tầng lớp công chúng bình dân nhiều thế hệ.

NHẠC TRẺ 1960-1975 
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu thâm nhập thị trường miền Nam. Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ (còn gọi là nhạc xanh) trở thành một hiện tượng của âm nhạc Việt Nam, đó là dòng “ âm nhạc trẻ trung, tươi mới, tự do”,  "trẻ" cả về âm nhạc, nhạc sĩ (trừ Phạm Duy), nghệ sĩ biểu diễn lẫn công chúng. Thực tế, nhạc trẻ bao gồm âm nhạc từ loại pop/rock nhẹ nhàng của Bread và The Carpenters, cho đến những bài hát yéyé của Pháp, và rock nặng (heavy rock) của Mỹ. Gọi là nhạc trẻ cũng để phân biệt với  nhạc tiền chiến, nhạc vàng, tình khúc..., dù rằng nhiều bản nhạc trẻ của Phạm Duy, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang, Khánh Băng... cũng được xếp vào dòng tình khúc, được cả giới trẻ lẫn giới trung lưu, trí thức ở Miền Nam thuở ấy say mê.
Bắt đầu là nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ  đặt lời Việt rất thành công và có những ca khúc để đời. Mở đầu cho trào lưu “Việt hóa” các ca khúc Âu - Mỹ thời ấy có thể nói đến nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, ông đã chuyển soạn lời Việt cho các ca khúc được nhiều người yêu mến như: Búp bê không tình yêu (Poupée de cire, poupée de son), Gõ cửa ba tiếng (Knock three times), Chuyện phim buồn (Sad movies), Lãng du (L’Avventura), Anh thì không (Toi jamais), v.v... Sau đó nhiều nhạc sĩ khác, nhiều ban nhạc, cũng đã soạn lời Việt cho nhiều ca khúc ngoại quốc khác: Phạm Duy, Quốc Dũng, Trường Hải, Jo Marcel, Kỳ Phát, Lữ Liên, Khúc Lan, Nam Lộc, Nguyễn Duy Biên, Tùng Giang, trong đó có cả nhà báo Trường Kỳ (cột chèo với Vũ Xuân Hùng), v.v...  
Nhạc sĩ Nam Lộc "Việt hóa" nhiều bản nhạc ngoại quốc thịnh hành đương thời bằng cách đặt lời tiếng Việt: Trưng Vương khung cửa mùa thu (Tell laura i love her), Mây lang thang (The cowboy's work is never done), Dĩ vãng buồn (I’ll never fall in love again), Tình ca cho em (Good bye to love), Như mùa thu lá bay (Ben), Chỉ là giấc mơ qua (Yellow Bird), Một thời để yêu (Les amoureux qui passent), Phút bên em (L’Amour avec toi), v.v...                                        
Thành công hơn cả là Phạm Duy, với đa phần là nhạc Pháp, với giọng hát bằng song ngữ điêu luyện của ca sĩ Thanh Lan, đã gây được ảnh hưởng khá mạnh mẽ trong giới trẻ: Khi xưa ta bé (Bang bang), Tình cho không biếu không (L'amour c'es pour rien), Hỡi người tình lara (Dr. Zhivago), Chuyện tình (Love story), Người yêu nếu ra đi (If you go away), Cuộc tình tàn (Je sais), Himalaya, Ngày tân hôn (The wedding), Em đẹp nhất ðêm nay (La plus belle pour aller danser), Những nụ tình xanh (Tous les garcons et toutes les filles), Viễn du trong tưởng tượng (En partant), Trong nắng trong gió (Dans le soleil et dans le vent), Nắng đã tắt (Il est mort le soleil), Ôi giàn thiên lý đã xa (Chèvrefeuille que tu es loin), Tình yêu mùa đông (J'aime bien l'hiver), Chàng (Lui), Nàng (Elle etait belle), Chỉ cần một giọt lệ (Rien qu'une larme), Tiễn em nơi phi trường (Adieu jolie candy), Gọi tên người yêu (Aline), v.v…   
Sau đó, không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự sáng tác các bản nhạc trẻ với tiết điệu nhanh và lạ, lời ca dễ hiểu, gần gũi. Những người đầu tiên có thể kể tới là Phạm Duy, Khánh Băng, sau đó là các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Lê Hựu Hà, Tùng Giang, Nguyễn Trung Cang, Ngọc Chánh, Jo Marcel,  Trường Kỳ, v.v …
Từ giữa thập niên 60, nhiều ban nhạc trẻ được thành lập, như Les Fanatics của Công Thành, Spotlights của Tuấn Ngọc, Les Vampires của Đức Huy, và nhạc sĩ  Lê Hựu Hà với nhiều ban nhạc trẻ nổi tiếng: Hải Âu (1965), Phượng Hoàng (cộng tác với nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và ca sĩ Evis Phương - 1970) và sau đó là Mây Trắng. Ông còn viết nhiều ca khúc nhạc trẻ rất được ưa chuộng như: Tôi muốn, Lời người điên, Hãy nhìn xuống chân, Bài ca tuổi trẻ, Yêu người yêu đời, Hãy ngước mặt nhìn đời, Đôi khi ta muốn khóc...
Nhưng trước đó, khoảng năm 1962, Khánh Băng đã viết rất nhiều ca khúc có tiết tấu nhanh, sôi động, gần như thể loại nhạc kích động sau nầy, được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt Nam: Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi..., đặc biệt bài Sầu đông  có thêm lời tiếng Pháp và tiếng Anh, trong đó lời tiếng Pháp do chính ông viết.
Tới năm 1971, Đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa Lư do Trường Kỳ, Tùng GiangNam Lộc đứng ra chủ trì và sự hợp tác của nhạc sĩ Phạm Duy, với gần 20 ban nhạc quốc tế của Mỹ, Phillippines và Việt Nam tham gia. Sự thành công của đại hội nhạc trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ.                      
Tiếp theo đó nhiều đại nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại Thảo Cầm Viên với trên 20.000 khán giả. Năm 1973, Phạm Duy, Ngọc Chánh và Thanh Lan đi dự Đại hội âm nhạc quốc tế tại Tokyo, tại đây bản nhạc trẻ Tuổi biết buồn của Phạm Duy được lọt vào chung kết.
Thuộc thế hệ nhạc sĩ đi trước từ rất lâu, nhưng Phạm Duy vẫn được coi là người đứng đầu và có những đóng góp lớn cho phong trào nhạc trẻ với những sáng tác nhạc trẻ Việt và đặc biệt ca khúc nhạc ngoại lời Việt của ông được cho là nhiều nhất và thành công nhất thời bấy giờ.
Có người cũng xếp "Kích động nhạc” vào dòng nhạc trẻ, nhưng thực chất 2 dòng nhạc nầy hoàn toàn khác nhau: "Kích động nhạc"  là loại nhạc "giật gân", sôi động  như twist hay rock and roll thường viết về đề tài người lính Việt Nam Cộng hòa, gần với nhạc tâm lý chiến hơn, chứ không “vô tư” như nhạc trẻ  mà hai ca sĩ nổi tiềng trở thành cặp bài trùng của loại nhạc kích động nầy là Hùng Cường - Mai Lệ Huyền.

NHẠC DU CA 1966 - 1975
Nhạc du ca trong phong trào Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ sống động, thức tỉnh và mới lạ.
Phong trào Du ca ra đời năm 1966 do hai nhạc sĩ Nguyễn Đức QuangĐinh Gia Lập thành lập, có khởi nguồn là một ban nhạc sinh viên lúc bắt đầu hình thành chỉ có năm người: Nguyễn Đức Quang, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn và Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái Lĩnh), sau đó có thêm ca sĩ Phương Oanh và lấy tên chính thức là Ban Trầm Ca, rồi cùng nhạc sĩ Phạm Duy lưu diễn nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam. Phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên, học sinh. Tôn chỉ của Phong trào là: "Dùng tiếng hát chung của cộng đồng để tô điểm cho nền văn nghệ dân tộc một màu xanh đầy hy vọng, đưa mỗi người đến gần nhau hơn để cùng lo xây đắp một quê hương tươi sáng". 
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều nhạc sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử  Thiêng, Anh Việt Thu, Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng, Phạm Duy, Ngô Mạnh Thu, Giang Châu, Trần Đình Quân, Lý Văn Chương, Lê Quang Dũng, Nguyễn Văn Phiên, Võ Thị Xuân Đào, Fa Thăng, Trần Trọng Thào, Hoàng Kim Châu, Nguyễn Quốc Văn, Bùi Công Thuấn, Trần Quang Lộc, Mai Thái Lĩnh… Trong đó, ba nhạc sĩ tiêu biểu nhất cho phong trào Du ca Việt Nam với nhiều ca khúc được phổ biến rộng khắp là: Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào, Nguyễn Quyết Thắng và Bùi Công Thuấn. 
Những ca khúc trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi thanh niên hãy tự hào dân tộc, tin tưởng và hy vọng vào tương lai. Những loại nhạc mà phong trào du ca thường sử dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận  thức ca, Sử ca, Dân ca, những bài hát phản ánh thân phận quê hương và ca ngợi tình yêu con người, quê hương.
Nhiều bài hát của Du ca đã trở nên quen thuộc, được hát phổ biến, thậm chí  trở thành bài ca sinh hoạt trong học đường và các đoàn thể thanh thiếu niên bấy giờ, như: Hướng đạo Việt Nam, CPS, Thanh sinh công, Thanh niên Phụng sự Xã hội Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Thanh niên Caritas, Thanh niên Hồng thập tự, Thiếu nhi thánh thể, Gia đình Phật tử… Có thể kể ra những bài ca tiêu biểu có tác động lớn đối với lớp trẻ bấy giờ, ngoài những ca khúc của Nguyễn Đức Quang, người sáng lập phong trào: Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy; Đêm hồi động, Ta biết gì trên quê hương, Câu hát tình quê, Hát gọi mặt trời lên, Lãng du ca của Trần Quang Lộc; Anh sẽ về (thơ Khê Kinh Kha) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Đến với quê hương tôi, Những bước chân đi tới, Tình ca quê hương, Mãi mãi bên nhau của Bùi Công Thuấn; Nước Việt Nam, Ta hát vang của Ngô Mạnh Thu; Chiều trên quê hương, Tuổi trẻ chúng tôi của Giang Châu; Hòa bình ơi! Hòa bình ơi! của Trầm Tử  Thiêng; Đứa học trò trở về, Lặng im, Nằm vắt tay lên trán, Gọi tên đất Mẹ, Quê hương tôi của Nguyễn Quyết Thắng, v.v...
Trước năm 1975, phong trào Du ca có tác dụng sâu mạnh  đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như: Du ca Con Sáo Huế, Áo Nâu, Lòng Mẹ, Trùng Dương, Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông, Hồ Gươm, Sông Hậu, Vượt Sóng, Giao Chỉ, Đà Nẵng, Kiên Giang, Sông Phố,  Mùa Xuân, Đồng Vọng, Phù Sa,  Ca đoàn Trùng Dương, Trung Ương, Đuốc Việt, Tình Người, v.v... Họ trình diễn ở khắp nơi ở miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn thể bạn… Khởi động phong trào hát cộng đồng, hát chung khắp mọi nơi, sau này được lan truyền sang nhiều địa hạt và nhiều giới khác, kể cả tôn giáo.
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: “Tuyển tập Du ca 1, 2 và 3”, “Những bài ca khai phá”, “Ta đi trên dòng lịch sử”, “Những điều trông thấy”, “Hát từ tim - hát bằng hơi thở”, “Những khuôn mặt Du ca”, “Hát cho những người sống sót”, “Anh hùng ca”, “Sinh hoạt ca”… Đặc biệt, hai tập ca khúc của người đứng đầu phong trào, NS Nguyễn Đức Quang để lại dấu ấn không phai mờ trong nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam từ đó đến nay. Tập “Trầm Ca” gồm 10 ca khúc cho thanh niên và thời cuộc, những thao thức lớn nhất về con người, đất nước có các bài hát tiêu biểu: Nỗi buồn nhược tiểu, Người anh Vĩnh Bình, Tiếng hát tự do, Chiều qua Tuy Hòa, Việt Nam quê hương ngạo nghễ… Tập “Những bài ca khai phá” gồm trên 40 ca khúc sinh hoạt đặc biệt cho đoàn thể, sinh viên, học sinh dùng trong các buổi họp mặt công tác xã hội, các hoạt động đám đông, là tiếng kêu gọi tuổi trẻ đến với nhau cùng vun đắp niềm tin và xây dựng quê hương, đất nước: Không phải là lúc, Về với mẹ cha, Dưới ánh mặt trời, Chuyện quê ta, Hy vọng đã vươn lên, Xin chọn nơi này làm quê hương (thơ Nguyễn Ngọc Thạch),…

-----------
(Trích trong “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC  VIỆT NAM” - 
nghiên cứu, phê bình - Lê Thiên Minh Khoa, xuất bản năm 2018).

*
Mời thư giãn với nhạc phẩm THÀNH PHỐ BUỒN
của Lam Phương, qua tiếng hát Chế Linh:
*.
LÊ THIÊN MINH KHOA
Địa chỉ: 117, Cách Mạng Tháng 8, phường Long Hương,
thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa  - Vũng Tàu.
Email: lethienminhkhoabr@gmail.com
Điện thoại: 0908.274.494





…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 26.12.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.    

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét