(Nhà thơ Thế Lộc ngoài cùng bìa phải) |
ĐỌC “UỐNG RƯỢU GẠO
NHỚ TRƯƠNG PHI” - THƠ THẾ LỘC
*
*
UỐNG RƯỢU GẠO NHỚ
TRƯƠNG PHI
Vác xà mâu đứng giữa cầu
Hét to một tiếng mắt râu trợn
trừng
Mấy mươi năm ông lẩy lừng
Chỉ trong gan tấc ông thành
thiên thu
Tôi từ binh lửa mịt mù
Cũng giống ông chỉ ở tù mấy năm
Còn ông thì đã yên nằm
Cỏ xanh mộ chí trăm năm vĩnh
hằng
Tôi với ông chưa hề quen
Nhưng khi uống rượu không ngăn
nỗi lòng
Cuộc cờ hưng phế, suy vong
Kiếm cung bỏ dở tấm lòng mang
theo
Tử như ông, thân nhẹ hều
Sống như tôi, thân tựa bèo trôi
sông
Nhìn trời chớp bể mưa đông
Chạnh thương cho mẹ chữ tòng
theo cha.
*.
THẾ LỘC
THẾ LỘC
(Tác giả Châu Thạch) |
LỜI
BÌNH:
Đa số người Việt ta, dầu có chữ hay không có
chữ, chẳng mấy ai không biết Trương Phi. Bởi Trương phi là một trong những danh
tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc bên Tàu, được truyền tụng và được yêu mến, có
ảnh hưởng sâu đậm trong dân gian. Trong tiêu thuyết Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của
La Quán Trung, nhân vật Trương Phi cùng Lưu Bị và Quan Vũ kết nghĩa huynh đệ,
bái trời đất tại vườn đào. Trương Phi là em út trong ba người.
Đọc bài thơ “Uống Rượu Gạo Nhớ Trương Phi”
của Thế Lộc không ai không biết nhà thơ mượn nhân vật Trương phi để gởi tâm sự
của mình vào đó. Cái chữ “rượu gạo” cũng đã mang một hàm ý sâu xa rồi.
Ngày xưa Trương Phi uống rượu gì ta không
biết, thế nhưng cũng dễ đoán được. Vì một người uống rượu như lưu linh, lại là
một võ tướng ngoài sa trường thì không có mỹ tửu đâu đủ để uống cho say túy
lúy, trừ ra là rượu gạo. “Rượu gạo” cũng mang tính dân tộc. Những anh hùng
trong lịch sử nước ta, như Quang Trung chẳng hạn, cũng xuất thân từ giai cấp
nông dân, mặc áo vãi, uống rượu gạo mà phất ngọn cờ đào làm nên lich sử vẽ vang
cho đất nước. Ngày nay, Thế Lộc dùng hai chữ “rượu gạo” trong thơ, một phần tỏ
cái hào khí của mình cũng giống như người xưa vậy, một phần tỏ cái thân phận
thường dân của mình trong cuộc sống thời nay, là cái thời mà bậc quyền thế,
giới giàu sang chỉ uống toàn rượu ngoại đắt tiền.
Vào đề nhà thơ đã dựng lại một bức tranh thật
hào hùng của người mãnh tướng năm xưa:
Vác xà mâu đứng giữa cầu
Hét to một tiếng mắt râu trợn trừng
Truyện xưa viết rằng: Trương Phi là người
khẳng khái, bộc trực, rất nóng nảy. Trương Phi có võ nghệ siêu phàm, vô cùng
dũng cảm. Trương Phi xử dụng vũ khí là một cây bát xà mâu dài 1, 8 trượng, cưởi
tuấn mã màu đen chân trắng. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Một lần,
trên cầu Trường Bản, Trương phi đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà
lui binh. Khi ấy Trương Phi chỉ có vài mươi kỵ sĩ, còn Tào Tháo thì có trăm vạn
hùng binh. Trong trận ấy Hạ Hầu Kiệt, một viên quan hầu Tào Tháo phải vỡ mật,
chết đi vì hoảng sợ khi nghe tiếng hét của Trương Phi.
Nhà thơ Thế Lộc nhắc lại chuyện nầy để làm
gì? Tác giả muốn dựng lại hình ảnh của chính mình đã có một thời như thế. Tất
nhiên, để anh hùng như Trương Phi thì ngàn năm mới có một người. Thế nhưng, bất
cứ người lính chiến nào, ở trong thời đại nào,
ở trong quân ngũ nào, nếu không là kẻ khiếp nhược thì cái tinh thân
Trương Phi vẫn có luôn trong dòng máu nóng. Thế Lộc dựng hình ảnh Trương Phi
đứng trên cầu Trương Bản năm xưa để tưởng nhớ lại chính mình, còn tưởng nhớ đến
một lớp người đã khoác áo chiến binh, mang một bầu máu nóng, thẳng thắng, bộc
trực, gan dạ và oai hùng trong thời binh lửa.
Thế rồi tiếp bốn câu thơ sau, Thế Lộc đem
mình ra so sánh với Trương Phi:
Mấy mươi năm ông lẩy lừng
Chỉ trong gan tấc ông thành thiên thu
Tôi từ binh lửa mịt mù
Cũng
giống ông chỉ ở tù mấy năm
Như trên đã nói, Trương Phi là người rất nóng
nảy. Cũng bởi tính nóng nảy đó, ông đã chuốc họa vào thân. Do nôn nóng việc báo
thù cho Quan Vũ, người anh kết nghĩa vườn đào của Trương Phi bị Đông Ngô hại
chết mà ông đánh đập quân sĩ, làm cho khiếp đảm những người dưới trướng. Một
đêm, uống rượu ngủ say, Trương Phi bị
Trương Đạt và Phạm Cương, vì lo sợ Trương Phi sẽ chém đầu bởi không làm
tròn phận sự mà Trương Phi giao phó, đã âm thầm sát hại, dùng dao đâm ông chết.
Cái chết của Trương Phi thật là bi đát, bởi không chết trên sa trường, không da
ngựa bọc thây, là điều hảnh diện của võ tướng, của mọi người chiến binh gan dạ.
Khi nhà thơ Thế Lộc nói “Cũng như ông” tức là
tác giả tự cho mình tuy không chết, tuy chỉ ở tù mấy năm nhưng nỗi đau có khi,
còn nhiều hơn Trương Phi thuở xưa nữa, vì không chết trên sa trường, không
poncho bọc thây, không thỏa lòng chỉ vì xuôi tay theo định mệnh an bài. Thật
thế, làm thân trai mang bầu máu nóng, kẻ ra đi vì lý tưởng non sông, người ra
đi vì lý tưởng của riêng mình, chẳng một ai muốn mình buông vũ khi để vào tù.
Thà chết quách như Trương Phi, không chịu khổ lụy tiếp theo, để “huy hoàng rồi
vụt tắt / Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. Thế Lộc đã nhấn mạnh điều đó
trong hai câu thơ sau, hai câu thơ tuy không nói rõ, nhưng như có một chút gì
ganh tỵ với Trương Phi, như cho rằng
Trương Phi đã thỏa lòng vì đã ngàn năm yên giấc:
Còn ông thì đã yên nằm
Cỏ xanh mộ chí trăm năm vĩnh hằng
Thế rồi khi rượu đã say, nhà thơ không nói
mình rơi lệ, nhưng ta biết lòng nhà thơ rơi lệ:
Tôi với ông chưa hề quen
Nhưng khi uống rượu không ngăn nỗi lòng
Cuộc cờ hưng phế, suy vong
Kiếm cung bỏ dở tấm lòng mang theo
Cuộc cờ thì có hưng có phế có suy vong là lẽ
thường tình, nhưng thương cho người “kiếm cung bỏ dở” phải chịu bao điều đắng
cay.
Từ sự cảm kích một danh tướng thưở xa xưa,
nhà thơ đã chạnh lòng khi nhớ đến mình cũng đã từng mang ít hay nhiều hào khí
như hào khí của Trương Phi. Bốn câu thơ cho ta tưởng tượng một cuộc đổi dời như
nương dâu hóa biển và biết bao thân phận như bọt bèo trôi theo dòng lũ. Bốn câu
thơ cũng gợi cho ta những tâm sự buồn thê thiết khi ai đó phải nhìn tận vào
lòng mình để thấy “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch
dương”.
Thế rồi bằng một sự so sánh, Thế Lộc đã đánh
giá sự chết của Trương Phi và sự sống của mình rất khác nhau:
Tử như ông, thân nhẹ hều
Sống như tôi, thân tựa bèo trôi sông
Vâng đúng thế, chết đi thì “nhẹ hều” còn sống thì phải mang nặng bao điều của
cuộc sống. Điều đó là sự thật, và là sự thật đau lòng cho hàng triệu chiến binh
đã buông tay súng vì bất đắc dĩ trước đây. Không cần phải kể lể, không càn phải
thống kê, ai cũng biết rằng những người chiến binh đó khó mà vươn lên giữa đời
như một thân cây tươi tốt vì được bón
hoa màu. Họ dầu ở đâu, thân cũng chỉ như “cánh bèo trôi” trên dòng sông đầy
gềnh đầy thác!
Cuối cùng nhà thơ tỉnh người trong cơn say
rượu gạo. Tỉnh người để thấy bão bùng nổi lên bốn phương, để nhớ người mẹ thân
yêu mà mình hằng xa cách:
Nhìn trời chớp bể mưa đông
Chạnh thương cho mẹ chữ tòng theo cha.
“Lòng
mẹ bao la như biển thái bình”. Đối với tác giả, cha là cuôc sống hiện tại, mẹ
là của cái thời thanh xuân, còn trai trẻ. Mấy ai mà quên được thời trai trẻ của
mình, nhất là cái thời ấy, anh ta được vẩy vùng như hình ảnh của danh tướng
Trương Phi. Hai câu thơ cuối như một lời nhắn gởi thân yêu về qua khứ, cũng như
một lời từ biệt quá khứ không hẹn ngày tái ngộ.
Ngày mẹ lấy chồng. phải từ bỏ một thời con
gái, lìa bỏ cha mẹ anh em để tòng phu. Sự phân cách đó, không chỉ buồn một lúc
cho người ra đi, mà ngược lại nó tồn tại hòai trong ký ức mỗi khi tưởng lại
giây phút chia lìa. Thế Lộc dùng hình ảnh người mẹ ra đi, như một ẩn dụ để gián
tiếp bày tỏ nỗi niềm sâu kín trong tận con tim. Tiếng kêu ấy như dòng nước mắt
nuốt vào, hóa thành nỗi đau tinh thần, trở thành nan y trong suốt cả cuộc đời
còn lại.
“Uống
Rượu Gạo Nhớ Trương Phi” là một bài thơ bi hùng. Đọc bài thơ đó ta thấy hùng
khí hiển hiện trong thơ, qua hình ảnh Trương Phi. Cũng qua hình ảnh Trương Phi
tác giả phát họa được hình ảnh của chính mình một thời trai trẻ. Bài thơ có sự
than thở tưởng như bi nhưng sự bi đó cũng nằm trong sự hào hùng, kể cả khi
“kiếm cung bỏ dở” trong cuộc “hưng phế, suy vong”.
Đọc thơ, dầu người lớn tuổi đã trải qua chinh
chiến hay người nhỏ tuổi ở thế hệ hòa bình, vẫn thấy cái tinh thần quật cường
trong tâm hồn người chiến sĩ, dẫu họ thành hay bại trong cuộc cờ thế sự. Tuy họ
sống âm thâm, nỗi lòng của họ mang theo cùng sự lãng mạn với chất Người hảo hán
mà cha ông họ, thời đại họ đã giáo dục họ không bao giờ thay đổi ./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm TÚY CA
của Châu Kỳ, qua tiếng hát Đan Nguyên:
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 21.12.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét