THƯƠNG NHỚ
ĐỒNG QUÊ
*
![]() |
(Tác giả Nguyễn Huy Thiệp) |
Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên
ở làng quê. Ði trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên
đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Ðông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy
phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.
Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị
Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.
Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường
mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương
nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa.
Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu
tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lắp ra đa với máy
thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng
bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: “Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là
người”. Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi
chỉ có hai chú cháu với nhau: “Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có
các thánh nhân, có yêu quái”. Nhà chú Phụng toàn phụ nữ: mẹ vợ, vợ, bốn đứa con
gáị Chú Phụng đùa: “Chú đẹp giai nhất nhà”.
Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ
đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quì
dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quì. Ông giáo Quì có nhiều sách.
Mọi người vẫn bảo ông là “đồ gàn”, lại bảo ông là “lão dê già”, “Quì dê”. Ông
giáo Quì có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung,
vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia
là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quì lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn
gì.
Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả
sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt,
đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi
ướt đầm hai bên vạt áo.
Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa
uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ
tôi không ăn được thịt mỡ.
Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên
ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt.
Ðường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi
đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi: “Anh
Nhâm!”. Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau
yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi: “Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội”.
Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay.
Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai
chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên
đã có lần về thăm quê.
Tôi cầm bức điện đọc: “Cô Lưu cho người ra
ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày…”. Tôi hỏi cái Mị: “Chiều nay à?”. Cái Mị gật
đầu.
Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc
nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi: “Nhâm giúp dì ra
đón em Quyên nhé”. Tôi bảo: “Nhà cháu đang gặt”. Dì Lưu bảo: “Ðể đấy đã. Gặt ở
khoảnh nào?”. Tôi bảo: “Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng”.
Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ
tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó
hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo: “Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái
lồng lấy ổi”. Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lồng hơi giống hom giỏ, có
hàm răng mở ra. Tôi bảo: “Em kiếm nứa đi”. Cái Mị bảo: “Em có rồi. Mai anh làm
nhé”. Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo: “Mai đấy”.
Tôi bảo: “Ừ”. Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú
Phụng đọc tờ điện báo nói: “Sao lại bưu cục S.N.N? Thế là nghĩa lý gì?”. Mẹ tôi
bảo: “Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc”. Tôi
bảo cái Mị: “Em về đi. Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn”.
Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần
trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát
chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái.
Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Ðất trên mặt ruộng ẩm ướt.
Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách.
Ðến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra
chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị
Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về
dãy núi xa phía vòng cung Ðông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng
hỏi: “Mày về luôn chứ?”. Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai
chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa
rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000
bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà.
Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng
mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ.
Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà
muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không
mệt tôi đánh thông đấu gạo.
Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy
chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc
màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo: “Cháu cầm lấy ít
tiền”. Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn
cân thóc. Dì Lưu hỏi: “Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?”. Tôi gật đầu, thực ra
tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.
Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám
chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này.
Con đường đất men theo rìa làng, qua đình
làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện ly. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ
của tôi mông lung.
Tôi
nghĩ
Tôi
nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất
lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi
nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô
nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những
số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao
tháng ngày trôi đi
Bao
kiếp người trôi đi
Sự
khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai
nhặt cho tôi buổi sáng mai này
Nhặt
được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi
Nhặt
được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi
Nhặt
được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi
Và
nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê
Tôi
rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ
Tìm
cách săn đuổi cho nó vào chuồng
Và tôi
hú gọi trên cánh đồng lòng
Tru
lên như con sói hoang
Tôi
gắng gặt một lượm sống
Bó
buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi hú
gọi trên cánh đồng người
Tôi
nhặt những ánh mắt đời
Hòng
dõi theo ánh mắt tôi
Dõi
vào cõi ý thức
Cõi ý
thức mênh mông xa vời
Dầu
tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi.
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã
cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở
băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi: “Người
đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em?”.
Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quần áo, giầy dép, đường
sữa, thuốc lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược.
Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.
Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng.
Có ai nói to: “Tàu về”. Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên: “Tàu về”.
Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng.
Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng
rao hàng chen nhau: “Nước đây! Ai bánh nào! Ai nước nào! Ai bánh nào! Ai nước
nào!”.
Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên
tàu ra đứng ngồi ngổn ngang ở ngay bậc cửa. Ðây là ga lẻ. Ðồng quê tôi vô danh.
Nơi tôi đứng đây vô danh.
Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng
soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người
buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn
dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người
này. Ðấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên.
Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo
kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.
Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra
tôi ngay. Quyên bảo: “Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?”. Tôi
bảo: “Vâng”. Quyên cười: “Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh tên gì?”.
Tôi bảo: “Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng”. Quyên hỏi: “Thế anh có họ hàng gì
với tôi không?”. Tôi bảo: “Không”. Quyên gật đầu: “Tốt. Cô Lưu thuê anh à?”.
Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta
cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.
Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi
nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì
có nghĩa.
Quyên hỏi: “Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi
sào bao nhiêu thóc? Ðược bao nhiêu tiền?”. Tôi bảo: “Mỗi sào được hơn ba nồi,
khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư”. Quyên nhẩm: “Hai mươi triệu tấn thóc
cho sáu mươi triệu người”. Tôi bảo: “Có ai chỉ nghĩ đến ăn”.
Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào.
Tôi chào lại. Sư Thiều bảo: “Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu”. Tôi
bảo: “Ðể lúc nào qua chùa con xin”. Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quì bảo: “Ðấy là
thú của kẻ biết đời”. Sư Thiều bảo: “Có lấy ít sen về cắm lọ không?”. Ðầm sen
của chùa mùa này nhiều hoa.
Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc
thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo: “Tôi muốn đi
thuyền”. Tôi gọi sư Thiều.
Sư Thiều ghé thuyền vào.
Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên
trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra.
Sư Thiều bảo: “Chìu người lụy ta”. Tôi
cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng.
Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không.
Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư
Thiều hỏi: “Ngon không?”. Quyên bảo: “Ngon”.
Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào.
Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.
Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi
về sư Thiều.
Chuyện sư Thiều
Sư Thiều mồ côi cha mẹ. Năm 15 tuổi có người
trông thấy tướng lạ bảo: “Nên xuất gia, trong trần gian không có chỗ chứa cậu”.
Sư Thiều nghe lời, đi du phương nhiều nơi, tìm hiểu qua nhiều bậc thiện tri
thức nhưng chẳng ngộ. Sư Thiều nói: “Nay Phật ở nơi không có Phật”. Lại nói:
“Ðạo
không tâm hợp người
Người
không tâm hợp đạo”
Sư Thiều tìm thấy một nền chùa cũ bèn phát
công đức, tìm cách tu dựng lại, không hiểu sao gọi là “Bạch xỉ tự” (Chùa trắng
răng). Sư Thiều hay đọc thơ, có câu:
“Cô
luân độc chiêu giang sơn tịnh
Tự
tiếu nhất thinh thiên địa kinh”
Nghĩa là:
“Một
vầng riêng chiếu non sông lặng
Chợt
cười một tiếng đất trời kinh”
Lại có câu:
“Lộ
phùng kiếm khách tu trình kiếm
Bất
thị thi nhân mạc hiến thi”
Nghĩa là:
“Gặp
tay kiếm khách nên trình kiếm
Chẳng
phải nhà thơ chớ hiến thơ”
Sư Thiều bảo: “Phật dạy con người tu một
cách thực tế, tìm lại bản lai diện mục của mình, Phật quá thực tế nên không
phải ai cũng hiểu”.
Tôi và Quyên về nhà. Dì Lưu nước mắt lã
chã gọi: “Cháu! Cháu ơi!”. Quyên ngồi bên giường bảo: “Bố mẹ cháu nhớ ngày giỗ
ông nhưng bận không về được, bảo gửi cho cô chú ít tiền”. Dì Lưu bảo: “Cô chú
không cần tiền, chỉ cần tình cảm”. Quyên lấy ở túi ra năm triệu đồng đưa cho dì
Lưu. Quyên bảo: “Chị cho Mị cái áo”. Cái Mị cười bẽn lẽn bảo: “Em cám ơn chị”.
Tôi bảo dì Lưu: “Cháu về đây”. Tôi nhét trả dì Lưu hai nghìn đồng xuống gối rồi
về.
Ở nhà đang tuốt lúa. Chị Ngữ hỏi: “Con bé
Quyên có xinh không?”. Tôi bảo: “Xinh”.
Ăn cơm tối xong thì tối mịt. Trời đổ mưa
rào. Sấm sét nổ vang trời. Cả nhà tôi lục đục chuyển thóc ra khỏi chỗ dột. Xong
mọi việc thì đồng hồ đã 11 giờ khuya. Trời vẫn mưa. Tôi bỗng thấy bồn chồn
trong dạ, không ngồi yên được. Tôi bảo mẹ tôi: “Con muốn ra đồng bắt ếch. Mưa
này có nhiều ếch”. Mẹ tôi bảo: “Con không sợ sấm sét ư con?”. Tôi cười. Mẹ tôi
chẳng hiểu nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã
nặc nô, cười như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như
thế.
Bài Hát Phụ Ðồng Bắt Ếch
Hồn ếch ta đã về đây
Phải nằm khô cạn, ta nay lên bờ
Ở bờ những hốc cùng hang
Chăn chiếu chẳng có trăm đường xót xa
Lạy trời cho đến tháng ba
Ðược trận mưa lớn ta ra ngồi ngoài
Ngồi ngoài rộng rãi thảnh thơi
Phòng khi mưa nắng ngồi ngoài kiếm ăn
Trước kia ta vẫn tu thân
Ta tu chẳng được thì thân ta hèn
Ta gặp thằng bé đen đen
Nó đứng nó nhìn nó chẳng nói chi
Ta gặp thằng bé đen sì
Tay thì cái giỏ tay thì cần câu
Nó có chiếc nón đôị đầu
Khăn vuông chít tóc ra màu xinh thay
Nó có cái quạt cầm tay
Nó có ống nứa bỏ đầy ngoé con
Nócó chiếc cán thon thon
Nó có sợi chỉ son son dài dài
Ếch tôi mới ngồi bờ khoai
Nó giật một cái đã sai quai hàm
Mẹ ơi lấy thuốc cho con
Lấy những lá ớt cùng là xương sông
Ếch tôi ở tận hang cùng
Bên bờ rau muống phía trong bè dừa
Thằng Măng là con chú Tre
Nó bắt tôi về làm tội lột da
Thằng Hành cho chí thằng Hoa
Nắm muối cho vào cay hỡi đắng cay
Bụt ơi bụt hiện xuống đây
Lượm oan hồn ếch đón bay về trời
Trăm năm lẫn lộn khóc cười
Kiến ếch kiếp người cay hỡi đắng cay…
Ðồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng
ễnh ương rất vang, rất to. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mưa.
Mưa miên man.
Tôi cầm đèn pin, chân xéo bừa lên các chân
rạ ẩm ướt. Ếch có nhiều, đờ đẫn dưới ánh đèn, chỉ cần bắt vào rọ. Sấm sét nổ
vang trời. Chớp loé sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió ào ào, nghe như có
muôn vàn cánh chim bay đang vỗ trên đầu. Một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn
thân khiến tôi bủn rủn. Tôi rõ ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh
qua, đang chuyển vận mãnh liệt trên đầu. Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng
hoàng, thổn thức. Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt bên trên tôi kia, đang
chuyển vận rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo
dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng
số phận. Ðiều ấy khiến tôi an lòng.
Tôi đã đúng
Tôi an lòng bởi sự lựa chọn hình thức biểu đạt này
Hình thức khó khăn, tầm thường, vô nghĩa, phù phiếm
Ðể sáng danh giá trị thiện tri thức
Trên cánh đồng hoang này
Cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ
Ai đấy?
Ai cất lên tiếng sáo nỉ non trong đêm
Và những anh linh nào, những hồn ma nào quờ quạng
Tiếng thở nào rất khẽ
Nụ cười nào rất khẽ
Cất lên ghê rợn từ hàm răng trắng
Những tiếng thì thầm nào
Những lời rên rỉ côn trùng, không nghĩa lý gì
Chỉ riêng tiếng sáo mục đồng nhỏ nhoi, phiêu bồng
Ði hoang trên cánh đồng lòng
Ði hoang trên cánh đồng người
Kẻ tha nhân nào sống sót
Gã tri âm nào lắng nghe
Cội rễ nào gọi về
Rung tiếng tơ đồng
Ðêm vô minh nay còn ai thức chong
Ai rảo bảo phiêu du trên đồng
Trong cõi trần ai mênh mông?
Mưa ngớt dần. Tôi đi qua khoảnh ruộng này,
khoảnh ruộng khác. Bọn ếch cũng biến đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con
nhái bén phóng vào theo rạch nước. Thấp thoáng chân trời phía vòng cung Ðông
Sơn ánh lửa le lói. Tôi cảm giác thấy mình lạc hướng. Tôi không biết bây giờ là
mấy giờ nhưng bỗng nhiên nghe thấy tiếng gà kêu. Tiếng gà kêu khắc khoải, chẳng
trình tự gì, khi đổ hồi, khi tiếng một. Tôi đi lúc lâu chẳng thấy có con ếch
nào, bỗng nhiên nhận ra mình đã lạc đến tận rạch sông Cấm lúc nào không biết.
Trên trời, đơn độc một vì sao Mai. Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa
làng. Không khí rất sạch. Làng quê quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh
hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết.
Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà
nhỏ nép ven đường. Phên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy
trông trước trông sau rồi vụt chạy nhanh vút sau bụi duối. Trộm chăng? Tôi định
kêu lên thì nhận ra chú Phụng. Một lát, Thím Nhung mở cửa bước ra, vẻ bình
thản, mặc bộ váy ngủ phong phanh. Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối,
xinh đẹp.
Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Ðến chỗ
rẽ, chú Phụng ngoái lại thấy tôị Chú Phụng hỏi: “Ếch có nhiều không?”. Tôi
không trả lờị Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn: “Mày sao thế?”. Tôi bỗng
thấy buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho chú Phụng, cho ông giáo
Quì. Tôi buồn cho tôi.
Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà.
Hóa ra cũng chỉ có khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo: “Chẳng bõ. Thế mà cũng
đi suốt đêm”. Mẹ tôi cười: “Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật”. Cái Minh sửa
soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng xanh, aó trắng, đây là bộ
diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hội hè. Cái Minh ghé tai tôi bảo: “Em biết
anh đi đâu rồi, nhưng em không nói. Không phải anh đi bắt ếch”. Cái Minh cười.
Tôi nhìn vào mắt nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau tôi đã phải khóc
nó. Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Ðến lúc ấy, lúc nó
chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho xong hết thảy mọi điều.
Mẹ tôi bảo: “Con mang mấy con ếch sang cho
nhà bác giáo Quì nhắm rượu”. Tôi bảo: “Vâng”. Nói xong đi tắm.
Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng giỡ lạc. Ðấy
cũng là công việc của tôi buổi sáng.
Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quì. Qua
nhà dì Lưu thấy Quyên gọi: “Anh gì ơi”. Tôi bảo: “Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu
rồi?”. Quyên bảo: “Mị đến trường. Anh đi đâu cho tôi đi với”.
Chúng tôi đến nhà ông giáo Quì.
Chuyện ông giáo Quỳ
Ông giáo Quỳ dạy cấp một, tính thương
người, hay đọc sách từ nhỏ. Lớn lên, cha mẹ đi hỏi vợ cho, ông giáo Quì bảo: “Cô
đừng lấy tôi rồi khổ một đời”. Người kia bảo: “Khổ cũng lấy”. Ông giáo Quỳ bảo:
“Lấy tôi thì đừng sợ nghèo là một, đừng sợ nhục là hai, đừng ghen tuông là ba,
phải trọng liêm sỉ là bốn”. Người kia bảo: “Biết trọng liêm sỉ thì ba việc
trước là thường”. Hai vợ chồng lấy nhau ăn ở tâm đắc. Ông giáo Quỳ về sau bị
đuổi việc vì dạy trẻ con không chịu dạy theo sách giáo khoa, cứ tục ngữ ca dao
mà dạy. Một lần đi chấm thi ở Hải Phòng, thấy cô gái giang hồ đang bụng mang dạ
chửa không có nơi sinh nở thì đưa về làm vợ hai, vợ cả cũng chẳng nói gì, còn
cấp tiền cho để làm nhà riêng. Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với nhiều
người, ông giáo Quỳ cũng mặc, chỉ bảo: “Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền, không
có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế nào chứ đừng ngủ không”. Cả làng cười,
ông giáo Quỳ cũng mặc. Ông giáo Quỳ hay uống rượu, rượu vào thơ ra, có nhiều
bài nghe cũng được.
Ông giáo Quỳ ở nhà một mình, nằm võng đọc
sách. Tôi và Quyên chào. Ông giáo Quỳ vội nhỏm dậy pha nước. Chúng tôi ngồi ở
chõng tre dưới dàn thiên lý. Ông giáo hỏi Quyên: “Cô học đại học bên Mỹ thì lợi
cho ai?”. Quyên bảo: “Lợi cho cháu, cho gia đình, cho đất nước”. Ông giáo Quỳ
cười: “Ðừng nghĩ đến lợi, nghĩ đến lợi nhọc mình”.
Chúng tôi ngồi ăn khoai sọ chấm muối vừng.
Ông giáo Quỳ cầm quyển sách nhét xuống chiếu. Quyên bảo: “Bác làm thế nát mất
sách còn gì?”. Ông giáo Quỳ cười: “Nát thì thôi. Ðọc sách để có tri thức. Có
tri thức để sống đời mình có nghĩa”.
Nắng lọc qua dàn hoa rải những vệt nắng
trên đất. Cả ông giáo Quỳ, cả Quyên, cả tôi đều cùng im lặng. Tôi muốn ra đồng.
Quyên bảo: “Tôi về lần này, rất muốn có một ấn tượng đúng về đồng quê. Anh đi
đâu cho tôi đi với”. Tôi lưỡng lự. Ông giáo Quỳ cười: “Cô ấy là đàn bà, sao lại
chối từ đàn bà được?”.
Chúng tôi chào ông Quỳ rồi ra đồng. Quyên
bảo: “Cánh đồng rộng quá… Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không?”.
Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi
Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng
Ðứng bên ni đồng mênh mông bát ngát
Ðứng bên tê đồng bát ngát mênh mông.
Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh tôi
Mẹ đã buộc cuống rốn tôi bằng sợi chỉ
Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước
Tôi biết khóc cũng vô ích vì tất cả phải chờ đợi
Phải chờ đợi từ tháng giêng đến tháng chạp
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà
Tôi đi qua rất nhiều bờ ngang, bờ dọc lầm lạc
Ði qua rất nhiều gian khó, thô tục
Tôi phải gieo trồng, gặt hái trên cánh đồng này
Phải thuộc tên nhiều loại sâu bọ
Còn cánh đồng thì khi mưa, khi nắng
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Rồi ngày kia
(Cái ngày xung tháng hạn)
Có một người đàn bà đến làm cho tôi đau
Nàng dạy tôi thói bạc tình
Bằng cách phản bội tôi như có thể phản bội một người thường
Tôi lẳng lặng chôn nỗi căm ghét cuối cánh đồng.
Trong mạch đất hiểm có hình lưỡi kiếm
Những bông hoa mơ ước héo trên tay
Công việc trở nên nặng nề hơn trước
Tôi bán những sản vật làm ra với giá rẻ như bèo
Ðã có những mùa thu hoạch lớn
Tôi cũng đã phá sản đôi lần
Khi chiều xuống, hoàng hôn tĩnh lặng
Tôi không kịp xem những vết sẹo trên người
Chỉ biết rằng tôi đã mang thương tích
Ðêm
Những vì sao thắp nến trên bầu trời
Tôi đắp tấm vải liệm sực mùi đồng nội lên người
Khi ấy, bạn ơi, bạn trẻ ơi
Bạn hiểu cho tôi
Tôi đã gắng làm cho cánh đồng phì nhiêu.
Tôi dẫn Quyên đi qua cánh đồng màu. Quyên
hỏi: “Giá nông phẩm quê anh năm nay tăng giảm thế nào?”. Tôi bảo: “Tăng 0,4%”.
Quyên bảo: “Chết thật! Thế mà hàng công nghiệp tăng 2,2%. Thế giá phân bón thế
nào?”. Tôi bảo: “Ðạm tăng 1,6%, lân tăng 1,4%”. Quyên hỏi: “Quê anh có dùng
điện không?”. Tôi bảo: “Không”. Quyên bảo: “Giá điện tăng 2,2%”. Khoảng 10 giờ
sáng là khoảng thời gian đông người trên đồng, có nhiều phụ nữ, trẻ em. Họ là
nguồn lao động chính. Ðàn ông quê tôi phiêu lưu, lại nhiều ảo tưởng, họ ôm ấp
ước mơ làm giàu nên hay bỏ ra ngoài thành phố tìm việc, đi buôn bán. Cũng có
người lặn lội vào tận miền trong đào vàng, đào hồng ngọc. Giàu có chẳng thấy
đâu nhưng khi về làng, tính tình họ đổi khác, họ trở nên những con thú dữ độc.
Chú Phụng là người như vậy.
Chuyện chú Phụng
Nguyễn Viết Phụng, nhà nghèo, học hết cấp
hai thì thôi học. Phụng làm nhiều nghề: thợ cày, thợ xây, thợ mộc, đánh xe bò…
Năm 20 tuổi Phụng đi bộ đội. Ba năm sau về làng lấy vợ. Vợ hơn Phụng bốn tuổi,
đẻ liền ba năm bốn đứa con gái (lần thứ ba vợ đẻ sinh đôi). Phụng quyết chí làm
giàu, bán đồ đạc ở nhà lấy hai đồng cân vàng giắt lưng vào miền trong đào vàng.
Bặt đi hơn năm chẳng có tin tức gì, một hôm lù lù trở về, người ngợm gầy như
xác ve, mặt phù như cái lệnh. Phụng nằm liệt giường, vợ tần tảo thuốc thang nửa
năm trời, nhà nghèo lại nghèo thêm. Sau trận ốm, Phụng tính nết đổi khác, có
lần chém người bị thương, dân làng ai cũng sợ. Cũng có khi Phụng bỗng khóc hu
hu, cứ chắp tay lạy vợ lạy con. Về sau may bố mẹ vợ chuyển ra thành phố với người
con trai ở nước ngoài về, cho không ngôi nhà với ba sào vườn nên đời thay đổi.
Vợ Phụng là người tháo vát, chăn nuôi giỏi, lại có nghề làm đậu phụ. Bốn đứa
con gái đứa nào cũng chịu khó giúp mẹ. Phụng ở nhà, dọn cho mình một mình một
buồng, cấm vợ con vào. Thỉnh thoảng, Phụng vẫn đi lại với thím Nhung và mấy bà
góa nạ dòng. Vợ con Phụng hỏi: “Sao anh cứ xa lánh chúng tôi?”. Phụng bảo: “Báu
gì mà ở gần tao. Thịt của tao rất độc. Cắn vào tao là cắn phải bả chó. Tao
thương mẹ con mày, muốn cho mẹ con mày trong sạch đấy thôi”.
Tôi và Quyên đi qua đấu đất giữa đồng. Ở
dưới đấu đất, những bụi thầu dầu, rau dền gai mọc đầy. Có cả những cây ngô đồng
hoa đỏ lá xanh. Quyên hỏi: “Sao gọi là đấu đất?”. Tôi bảo: “Ngày xưa, vua Ba
Vành đào nơi này để đong quân như ta đong thóc”. Quyên hỏi: “Khoảng bao nhiêu
người?”. Tôi bảo: “Hai mươi người một ngũ, hai trăm người một cơ”. Tôi và Quyên
đến khoảnh ruộng mẹ tôi và chị Ngữ đang dỡ lạc. Nước xâm xấp luống, nhấc cây
lạc lên là bật gốc. Quyên sắn quần, cũng lội xuống bứt lạc. Quyên bảo: “Nhàn
thật”. Mẹ tôi bảo: “Cô ơi, đấy là cô mới chỉ cưỡi ngựa xem hoa đấy thôi. Cô thử
tính xem từ khi hạt lạc gieo xuống luống này, đến khi kết hạt mẹ con tôi vất vả
lấm láp thế nào!”. Chị Ngữ ví von: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt
đắng cay muôn phần”.
Tôi đạp phải ổ dế. Lấy cuốc bới ra, hàng
nghìn con dế đất béo núc ních bò nhung nhúc. Mẹ tôi, chị Ngữ bỏ dỡ lạc bắt dế.
Mẹ tôi xuýt xoa: “Ôi chao, phúc đức đầy nhà rồi các con ơi!”. Chị Ngữ mừng: “Cái
nhà ta rồi giàu nhất làng!”.
Khoảng gần trưa, thấy ở đường Năm có đám
đông kêu la khóc lóc đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh
gọi tôi: “Nhâm ơi Nhâm”. Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi
mặt tái đi, tay giơ trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi: “Nhâm ơi Nhâm. Sao em
Minh con máu me đầy người thế này?”. Chị Ngữ lay lay mẹ tôi: “U ơi u, sao u nói
gở thế?”.
Có mấy người từ đám đông trên đường Năm
bỗng chạy tách ra, băng qua đồng. Có ai gào to thảm thiết: “Bà Hùng ơi (Hùng là
tên bố tôi) mau ra mà nhận xác con đây này”. Anh Ngọc tóc dựng ngược, cái anh
nhà thơ mà tôi đã gặp ở ga chiều qua, chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi,
tôi nghe loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh em tôi và cái Mị con dì Lưu đèo
nhau đi học về, qua ngã ba thì bị chiếc ôtô chở cột điện cán chết.
Mẹ tôi lăn lộn giữa ruộng lạc đang dỡ nham
nhở. Những con dế đất bay nhanh, bay một quãng lại bò, lại rúc đầu xuống bùn.
Chị Ngữ đứng lặng, mắt ngơ ngẩn thất thần nhìn về dãy núi xa phía vòng cung
Ðông Sơn, tựa như không hiểu sao bỗng dưng trời cao phũ phàng đến thế.
Anh Ngọc, tôi và Quyên chạy ra đường. Nước
mắt tôi giàn giụa. Cái Minh mới 13 tuổi. Cái Mị mới 13 tuổi. Tôi còn chưa kịp
làm cho cái Mị cái lồng lấy ổi. Còn cái Minh em tôi, con bé rất thảo, nó suốt
đời mặc quần áo vá, nó bao giờ cũng dành cho tôi những quà ngon nhất.
Chiếc xe tải chở ba cây cột điện đổ
nghiêng ở bên vệ đường. Người ta dùng kích để nâng bánh xe, tìm cách kéo xác
cái Minh và cái Mị ra. Cái Minh nằm nghiêng, cái Mị nằm sấp, đè lên nhau. Chiếc
xe đạp rúm ró bên cạnh.
Tôi đưa tay lên miệng để bịt âm thanh thổn
thức trong cổ cứ thấy bật ra. Tôi thương các em tôi quá. Rất đông những con
ruồi bu quanh hai lỗ mũi cái Minh, cái Mị. Anh Ngọc nhà thơ không biết lấy ở
đâu ra nắm hương cứ huơ huơ trước mặt hai đứa, khói hương quẩn lại một chỗ
không bay lên được. Tôi sẽ không kể gì về cái chết của cái Minh, cái Mị nữa.
Chiều hôm ấy phải làm đám ma cho hai em tôi. Cũng giống như mọi đám ma ở làng,
ở đấy có rất nhiều nước mắt, nhiều lời than vãn. Tôi và một thanh niên trong
làng cáng dì Lưu ra tận ngoài đồng rồi lại cáng về. Quyên cũng đi theo. Anh
Ngọc có làm bài thơ về sự việc này. Tôi không hiểu sao anh làm thơ được ở trong
hoàn cảnh nhẫn tâm như thế.
Bài thơ “Ðám Ma Trinh Nữ Trên Ðồng” của nhà thơ Bùi Văn Ngọc
Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Cái chết trắng, cái chết trắng xoá
Những con bướm trắng, những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng.
Ơi hời, tôi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Tôi đào huyệt, dài một mét tám, ngang bảy mươi phân
Tôi đào huyệt, sâu một mét rưỡi
Ơi hời, tôi chôn vào đây tinh thần sơ nguyên
Ơi hời, này là vật hiến tế cho đất đai
Trinh nữ vẹn tuyền, cái chết trắng xóa
Những con bướm trắng, những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng
Ơi hời, tôi lót vào ngực bài thơ trắng tinh
Bẻ một cành xanh mà che mắt nhìn
Gió phơ phất, hồn bay phơ phất
Hồn bay lên, trên cánh đồng người
Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Trong ngày như thế, trong một ngày dưng
Trong ngày như thế, trong một ngày thường
Ơi hời, tôi đi lẫn trong đám đông, trong số đông,
trong lòng người, trong nỗi đau thương, trong thê lương…
Chiều hôm sau tôi đưa Quyên ra ga. Dì Lưu
nói mãi nhưng Quyên cứ nằng nặc đòi về. Chúng tôi đi theo con đường đất men bên
rìa làng qua đầm sen rồi dọc bờ mương ngược về huyện lỵ. Qua đầm sen chúng tôi
ngồi nghĩ. Quyên bảo: “Tôi ở đây ba ngày mà sao dài quá”.
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Vẫn chỉ có
khoảng hơn chục người đứng ở sân ga đợi tàu. Vẳng lại tiếng cát-xét nhà nào
đang mở. Tàu vào ga. Hành khách lần lượt lên tàu. Mấy thầy cô giáo cấp ba
trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Một thanh niên đeo kính trắng, tay
xách va li. Hai cặp vợ chồng già. Quyên.
Quyên bảo: “Anh gì ơi! Tôi đi nhé! Cám ơn
anh đã đi tiễn tôi”.
Tôi đứng ở sân ga rất lâu. Tàu đi khuất.
Tôi linh cảm thấy không bao giờ còn gặp Quyên nữa.
Tôi qua cửa soát vé về làng. Nhìn phía
trước chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng, xa mờ là vòng cung Ðông Sơn. Ở
đấy tôi có rất nhiều thương nhớ.
Ngày mai trời nắng hay mưa? Thực ra bây
giờ với tôi, trời nắng hay mưa thảy đều vô nghĩa. Tôi là Nhâm. Ngày mai tôi 17
tuổi. Có phải đấy là tuổi đẹp nhất đời người ta không?
*
NGUYỄN
HUY THIỆP
Địa chỉ: 71 ngõ 77, phố Bùi Xương Trạch,
quận
Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét