7
GIẤC MỘNG CỦA
TÔN
GIẢ A NAN
*
![]() |
(Tác giả Nguyễn Toàn Thắng) |
Lý giả về 7 giấc mộng của Tôn Giả A Nan có ngụ ý gì? Tỳ
Kheo Thích Chúc Xuân giải thích như sau:
Ngài A Nan là đệ nhất đa văn, đại đệ tử của Phật Thích Ca
Mâu Ni trong 27 năm. Một hôm, Phật ở tại giảng đường nơi thành Xá Vệ của
Vua Ba Tư Nặc, A Nan đứng hầu, trên mặt lộ vẻ buồn lo. Phật hỏi vì sao ra như
vậy? A Nan mới thưa rằng trong một đêm, Tôn giả nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ
quái khiến lòng hoang mang lo sợ. Phật liền hỏi:
- Ông nằm mộng thấy bảy việc gì?
- Bạch Thế Tôn:
1. Giấc mộng thứ nhất, con thấy trong vũng
nước, tự nhiên lửa phựt cháy ngập trời.
2. Giấc mộng thứ hai, con thấy mặt trời, mặt trăng
lặn mất và tinh tú cũng lặn mất.
3. Giấc mộng thứ ba, con thấy Tỳ kheo xuất gia lại ở
trong hầm bất tịnh, còn hàng cư sĩ tại gia leo lên đầu Tỳ kheo đi ra.
4. Giấc mộng thứ tư, con thấy bầy heo đến ủi rừng
Chiên Đàn.
5. Giấc mộng thứ năm, con thấy đầu đội núi Tu Di mà
không có cảm giác nặng.
6. Giấc mộng thứ sáu, con thấy con voi lớn bỏ con
voi nhỏ.
7. Giấc mộng thứ bảy, con thấy các thứ hoa đẹp rải
tung trên đầu của sư tử chúa, lại thấy bảy sợi lông và con sư tử ấy đang nằm
chết ở dưới đất. Tất cả loài cầm thú thấy thế nên kinh hoàng sợ hãi, sau thấy
trùng trong thân sư tử chui ra rồi lại ăn thịt nó.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan đem những điềm mộng này đến hỏi
Phật. Đức Thế Tôn đang thuyết pháp ở giảng đường Phổ Hội. Ngài nói pháp về Tứ
đế: Khổ – Tập – Diệt – Đạo cho Vua Ba Tư Nặc nghe. Vì trông thấy trên mặt A Nan
hiện ra vẻ buồn lo sầu khổ không thể nói, nên Phật bảo ông: “Những điềm mộng mà
ông đã thấy đều là điềm ứng hiện của năm trược đời ác ở mai sau, không có gì
tổn hại đến ông đâu! Thế thì tại sao ông phải lo buồn?”.
Đức Phật mỉm cười nhân hậu và giải thích:
- Này A Nan! Bậc Thánh vốn không nói chuyện mộng mị.
Nhưng mộng của ông quả thật kỳ quái.
1. Thấy trong vũng nước có lửa bốc cháy ngập trời là
ứng điềm các Tỳ kheo đời sau này tâm lành dần dần trở nên ít ỏi, ác nghịch
mỗi lúc một lẫy lừng, lại còn giết hại lẫn nhau, thật không thể nói hết!
2. Mộng thấy mặt trời, mặt trăng và tinh tú lặn mất
là ứng điềm sau khi Phật nhập Niết Bàn thì tất cả các hàng Thanh Văn cũng nhập
Niết Bàn theo Phật, không trụ lại nơi đời. Thật là con mắt của chúng sanh diệt
mất.Để chánh pháp không bị lu mờ, Tăng đoàn sẽ yêu cầu ông tuyên dương chánh
pháp.
3. Mộng thấy Tỳ kheo xuất gia lại ở trong hầm bất
tịnh, còn hàng cư sĩ tại gia leo trên đầu của Tỳ kheo mà đi ra là ứng điềm sau
này các Thầy Tỳ kheo sẽ ôm lòng tật đố đến nỗi giết hại lẫn nhau, lại bị đạo sĩ
chém đầu. Hàng bạch y thấy thế can ngăn trách móc, nhưng Tỳ kheo không chịu
nghe theo. Vì thế, sau khi chết, tỳ kheo bị đọa vào địa ngục chịu khổ. Còn hàng
cư sĩ vì tinh tấn tu hành nên sau khi chết được sanh lên cõi Trời hưởng thụ quả
vui.
4. Mộng thấy bầy heo đến ủi rừng Chiên Đàn là ứng
điềm đời sau này, hàng cư sĩ tại gia vào chùa tháp phỉ báng chư Tăng,vạch tìm
chỗ hay dở của họ, lại còn phá tháp hại Tăng.
5. Mộng thấy đầu đội núi Tu Di nhưng không có cảm
giác nặng là ứng điềm sau khi Phật Niết Bàn, A Nan sẽ làm Thầy của 1000 vị A La
Hán, nói lại kinh điển không quên một câu. Người được giác ngộ cũng nhiều nên A
Nan không có cảm giác nặng.
6. Mộng thấy con voi lớn bỏ con voi nhỏ là ứng điềm
đời sau này, bọn tà kiến dữ mạnh làm hoại nát Phật pháp. Những người có đức
hạnh đều ẩn cư, không xuất hiện.
7. Mộng thấy sư tử chúa chết là ứng điềm sau khi
Phật Niết Bàn 1470 năm, trong thân tâm của những đệ tử vì tu hành đức hạnh nên
tất cả các ác ma đều không nhiễu loạn được. Còn bảy sợi lông là ứng việc sau
700 năm vậy!
Bảy giấc mơ của Tôn giả A Nan cũng chính là lời dự ngôn
cho Phật giáo trong thời mạt Pháp. Có nhiều Tăng Ni, mang danh là ‘đệ tử Phật’
nhưng không còn tuân thủ giới luật, không theo lời dạy của Phật, cũng
không còn chân chính thực tu. Họ coi thường giới luật, chạy theo danh lợi,
khiến giáo pháp của Phật bị hủy hoại từ bên trong.
Đó là tiếng chuông cảnh tỉnh mọi người rằng Phật Pháp SUY
VI không phải do ngoại đạo hay do mạt pháp mà là do Tăng-Ni, Phật tử “MẠT TÂM”.
Thực trạng Tăng lữ phá Giới, tà dâm – lợi dưỡng, buôn Kinh bán Phật, lạm dụng
Phật Pháp làm kế sinh nhai… diễn ra nhan nhãn khắp nơi; còn Phật tử thì thiếu
Chánh Kiến – Chánh Tín, thường hay mê tín cầu xin, lại nhẹ dạ – cả tin – thần
thánh hóa tu sĩ xuất gia đến nỗi mù quáng mà không phân biệt tỏ tường bậc Chơn
tu với Tà sư – giả tu, vô tình tiếp tay nuôi dưỡng cho Tà hạnh và Ma sự ngày
càng phát triển ở chốn Phật môn…, tất cả tạo thành PHÁP NẠN vô cùng nhức nhối
hiện nay, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hình ảnh cao quý – giải thoát vốn có của
Đạo Phật trong mắt mọi người, từ đó thiêu rụi tín tâm, duyên lành hướng về Tam
Bảo, phát tâm Bồ-Đề của biết bao người muốn hướng về Phật tu hành giác ngộ.
Đạo Phật chỉ nhìn vào nhân tâm chứ không nhìn vào hình
thức, khoác áo Thầy tu mà chẳng chân tu thì cũng chỉ là một người bình thường
mà thôi. Cũng giống như trong Lục Tổ Đàn Kinh đã viết: “Thánh nhân
cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm”, nghĩa là: Bậc Thánh nhân
cầu tâm chẳng cầu Phật, kẻ ngu muội chỉ cầu Phật chẳng cầu tâm…
Người thời nay học sai, hiểu sai và thực hành sai giáo
pháp của Phật, cũng như học nhiều mà không thực hành chỉ nói suông nên không đủ
đạo lực để cứu lấy chính mình và phá trừ ngoại đạo tà kiến, nên mới khiến cho
quần chúng, Phật tử sanh nghi ngờ nơi Tam Bảo, mới dễ bị ngoại đạo thuyết phục
bằng nhiều cách như tiền tài danh lợi, chạy theo tà kiến si mê lầm lạc trái
nhân trái quả của họ. Thật đáng buồn thay!
Do vậy bổn phận của người đệ tử Phật là phải học cho kỹ
về lời dạy của Đức Phật, chư Tổ giác ngộ đi trước, và thiện tri thức cùng minh
Sư trong hiện tại, và y như pháp mà thực hành. Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai
cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên
con đường thật tu, thật ngộ của Phật. Có như vậy thì đức hạnh của mỗi người tự
lan tỏa và chan hòa khắp muôn phương, chúng sanh đều được nương nhờ lợi lạc,
vững tâm, chánh tín, và thành kính đối với Tam Bảo, làm đẹp cho đời cho đạo
trong hiện tại và mãi tận đời vị lai.
Muốn cùng nhau lăn chuyển bánh xe chánh pháp của Phật,
người đệ tử Phật phải có Tu Đức, nghĩa là mỗi người Phật tử bất luận tại gia
hay xuất gia đều phải có sự thực hành và áp dụng Phật Pháp vào đời sống hằng
ngày, hơn là tin và nói suông. Xuất gia thì nỗ lực học đạo tham thiền, tầm cầu
minh Sư khai mở đạo nhãn, nhiếp tâm nơi chỗ một niệm chưa sanh, quyết làm tròn
chí nguyện xuất gia ban đầu, tức thượng cầu giác ngộ, dưới hóa độ chúng sanh
(Thượng Cầu Hạ Hóa), lấy giác ngộ giải thoát làm mục tiêu và sự nghiệp duy nhứt
của đời mình (Duy Tuệ Thị Nghiệp). Tại gia thì chăm lo việc làm tròn bổn phận
cho gia đình, xã hội, và bổn phận của người Phật tử tức là một đời Quy y Tam
Bảo: Phật, Pháp, Tăng, quyết chẳng theo Thầy tà bạn ác, bỏ ác làm lành giữ tâm
trong sạch, thân cận chư Tăng để học hỏi và trợ giúp các Ngài tu đạo, hoằng
pháp, lợi sinh. Mỗi bên ai nấy đều tròn bổn phận tu đức, hỗ trợ lẫn nhau cùng
nhau lan tỏa giới đức, thì mùi hương của đức hạnh tự tỏa khắp muôn phương,
những ngọn đèn trí tuệ tự sẽ thắp sáng khắp những nẻo đường đen tối, khiến chúng
sanh có chỗ nương về, và rồi chính họ cũng tự thắp sáng ngọn đèn trí tuệ của
chính họ, được an vui giải thoát thật sự.
Tất cả những gì Đức Phật để lại, đó chỉ là những hình
thức giáo dục, nhằm giáo dục cho một đối tượng nào đó, không phải là ‘chân lý’.
Nhưng ngang qua những hình thái giáo dục này, sẽ cho chúng ta một đạo lý. Cái
đạo lý đó là chân lý, là cái ‘bất biến’ là tinh thần giáo dục của Đức Phật. Đó
là lý do tại sao trong ‘Kinh Thiện Pháp’. Đức Phật yêu cầu một người xuất gia
phải hoàn thiện 7 điều kiện cần thiết này, hay nói đúng hơn một người xuất gia
muốn thành tựu mục đích ‘Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sinh’ thì phải thành
tựu (1) biết pháp, (2) biết nghĩa, (3) biết thời, (4) biết tiết độ, (5) biết
mình, (6) biết chúng hội và (7) biết sự hơn kém của người. Nó là điều kiện cơ
bản cho việc tự lợi và lợi tha, là bổn phận và trách nhiệm của người xuất gia.
Thiết nghĩ người tu Phật chúng ta, tại gia cũng như xuất
gia, hãy nghiêm trì Giới luật, sống đời phạm hạnh – thiểu dục tri túc, an bần
thủ đạo, tinh tấn dụng công (niệm Phật, tham thiền, trì chú), tu hành miên mật,
đừng giải đãi – hý luận – buông lung – lười biếng; hãy thắp lên tinh thần
Bi-Trí-Dũng để gạn đục khơi trong, hồi Tà hiển Chánh, thanh trừng bọn Tà sư –
giả tu, trả lại sự tôn nghiêm cao quý nơi Tam Bảo cho thập phương chúng sanh
tìm về nương tựa tu hành, như lời Phật dạy năm xưa: “Sau khi Ta nhập diệt, các
con hãy lấy Giới luật làm Thầy, tự đốt đuốc Trí huệ mà đi, nương theo Diệu Pháp
Như Lai mà tu hành, tự giác – giác tha – giác hạnh viên mãn. Các con, những đệ
tử của Ta, hãy cùng nhau Hộ trì Phật Pháp, đừng để đoạn diệt”. Làm được vậy tức
đã góp phần CHẤN HƯNG – HỘ TRÌ Phật Pháp, không phụ ƠN PHẬT, không hổ thẹn là
CON PHẬT.
Mong sao những ai đang lầm đường lạc lối sớm tỉnh giác mà
sám hối, ăn năn, điều phục thân tâm tu hành chơn chánh!
Mong sao tất cả chúng ta hãy chân thật tự xét lại mình,
với sự tu hành và bổn phận của một người CON PHẬT đối với Đạo Pháp, đã làm tròn
và xứng đáng với CHƯ PHẬT hay chưa?…
*.
NGUYỄN TOÀN THẮNG giới thiệu
Địa chỉ: thôn Tống Vũ, xã Vũ Chính,
thành phố Thái Bình
Email: nguyentoanthang77@gmail.com
.
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 28.06.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét