CUỘC ĐỜI VÀ SỐ PHẬN
Tác giả: Nguyễn Phúc
Vĩnh Tường
ĐỜI NGƯỜI 12 BẾN NƯỚC
THÂN CƯ BẾN NÀO
*
Khi nói đến Dịch Lý, Tử Vi, Phong
Thủy và Tướng Mệnh thì hầu hết người Á Đông chúng ta ai cũng công nhận đó là
những khoa học huyền bí rất có giá trị của người Trung Hoa từ hơn bốn ngàn năm
về trước. Nói là có giá trị vì những khoa học này tuy gọi là huyền bí nhưng lại
rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong
những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi
đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà
chúng ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta
buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu.
Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản
thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi
còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy,
những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm
lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm.
Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết
bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt
tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu
chuyện mà có thể tránh được cái ân hận "lầm người" như chúng ta
thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta
biết mình, biết người một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến
tổng quát cả một đời người...
Những khoa học huyền bí nêu trên tuy
có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa
Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ
phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số là con người, và cuộc đời của chúng
ta, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà
các khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một đời người.
Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là
biểu tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung
Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình
Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử
Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức,
cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung
Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi,
Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi
nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một người sinh ra đời
vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời của người này đã được an bài từ
giây phút đó.
Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời
người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái
của bến mà thuyền đời mình đã buông neo.
Khi nói khoa Tử Vi chia cuộc sống
của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực
này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi
diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có
một vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị
trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng
vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung
Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh
quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi
phối bởi số mệnh của mình (Thân cư Mệnh hay còn gọi là Thân Mệnh đồng cung),
khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Thân cư Thiên Di), bởi công danh sự
nghiệp (Thân cư Quan Lộc hay Thân cư Tài Lộc), bởi vợ chồng (Thân cư Phu Thê)
và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Thân
cư Phúc Đức), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử Tức), anh chị em (Huynh Đệ)
hoặc bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô Bộc)...
Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng,
trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng
nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh
giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến
đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn
lại hay còn gọi là hậu vận.
Bởi sự quan trọng của cung Thân như
vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: "Thân cư cung nào
thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người
đó". Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ ở vào 1 trong 6 cung chính và
Thân an theo giờ sinh, cho nên những người sinh vào giờ Tý hay giờ Ngọ thì Thân
đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, những người
sinh vào giờ Sửu hay giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, những người sinh vào giờ Dần
hay giờ Thân thì Thân cư Quan Lộc, những người sinh vào giờ Mão hay giờ Dậu thì
Thân cư Thiên Di, những người sinh vào giờ Thìn hay giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc
và những người sinh vào giờ Tỵ hay giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê.
Từ ý nghĩa căn bản đó của khoa Tử
Vi, khi biết một người sinh vào giờ nào, chúng ta có thể phác họa được một nét
tổng quát về cuộc đời của người này sẽ như thế nào, và đó chính là một trong những
sự kỳ diệu của khoa Tử Vi Đẩu Số, một trong những khoa học huyền bí của người
Trung Hoa đã có từ hơn bốn ngàn năm trước. Và kỳ sau, chúng ta sẽ nói về những
nét đặc điểm và ý nghĩa về cuộc đời của những người có số Thân cư Mệnh, hay còn
gọi là mẫu người Thân Mệnh Đồng Cung, tức là những người sinh vào giờ Tí, giờ
theo đồng hồ là từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng, hay những người sinh vào giờ Ngọ,
từ 11 giờ sáng đến 1 giờ chiều.
MẪU NGƯỜI
“MỆNH
THÂN ĐỒNG CUNG”
*
Nếu khoa Phong Thủy chia căn nhà ra
làm 8 cung và mỗi cung là lãnh vực trong đời sống con người, và cũng là biểu
tượng của mỗi thành viên trong gia đình, thì khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cùng một
quan niệm như vậy. Khoa Tử Vi còn chi tiết hơn chia lá số ra thành 12 cung và
mỗi cung cũng là một nét sinh hoạt, là một khoản thời gian nào đó của một đời
người. Như chúng ta đã nói ở chương trước, 12 cung của khoa Tử Vi theo thứ tự
gồm có Mệnh, Phụ Mẫu, Phúc Đức, Điền Trạch, Quan Lộc, Nô Bộc, Thiên Di, Tật
Ách, Tài Lộc, Tử Tức, Phu Thê, và Huynh Đệ. Nhưng thực tế một lá số không chỉ
có 12 cung mà còn có một cung thu 13 gọi là cung Thân. Đặc biệt cung Thân không
đóng riêng rẽ ở một vị trí nào trên lá số mà nó luôn luôn đóng chung với 1
trong sáu cường cung là Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di hoặc Phu Thê.
Trong 13 cung, cung Mệnh và cung
Thân là quan trọng nhất. Đầu tiên là cung Mệnh. Khi nói về chữ "mệnh"
chúng ta thấy nó mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Cái ý nghĩa thứ nhất của chữ
mệnh đó chính là bản thân của đương số. Xung quanh cuộc đời của cá nhân đương
số còn có cha mẹ (Phụ Mẫu), anh em (Huynh Đệ) vợ chồng (Phu Thê) con cái (Tử
Tức) rồi tới bạn bè đồng nghiệp, thuộc hạ (Nô Bộc) và cả cái xã hội mà đương số
phải đương đầu va chạm hằng ngày (Thiên Di)
Ý nghĩa thứ hai của chữ
"mệnh" là Thiên Mệnh, là số trời, là cái quan niệm mỗi người sinh ra
vào giờ nào, ngày nào, tháng nào, năm nào thì cuộc đời đã được an bài sắp đặt
sẳn rồi. Bởi vậy Mệnh được xem như nền móng của một căn nhà. Nếu nền móng không
vững chắc, kiên cố thì những gì xây dựng trên đó cũng không thể nào tồn tại lâu
dài được. Đó là trường hợp của những người có các cung chính như Quan Lộc, Tài
Bạch, Diền Trạch v.v... tốt đẹp, sáng sủa, nhưng Mệnh yếu thì tiền tài, danh
vọng, của cải cũng chỉ như cái bóng to lớn trên tường mà thôi.
Tuy nhiên, dù là môn khoa học huyền
bí nhưng ngoài quan niệm chủ yếu "Thiên Mệnh" khoa Tử Vi không quên
một yếu tố thứ hai sẽ dự phần vào đời người, đó là quan niện "nhân
định" Vì thế Tử Vi Đẩu Số mới có một cung di động gọi là cung Thân, là
cung quan trọng thứ nhì trong một lá số.
Khoa Tử Vi cho rằng cung Mệnh là căn
bản của một đời người. Nhưng cung Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ nhất vào giai đoạn của
một đời người hay gọi là "tiền vận". Tiền vận là khoản thời gian từ
lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi. Nhưng có người tính tiền vận theo Cục. Ví
dụ:
Thủy Nhị Cục thì tiền vận từ 1 đến
32 tuổi
Mộc Tam Cục thì tiền vận từ 1 đến 33
tuổi
Kim Tứ Cục.................1 đến 34
tuổi
Thổ Ngủ Cục ..................1 đến
35 tuổi
Hỏa Lục Cục..................1 đến
36 tuổi
Chúng ta thấy quan niệm này của Tử
Vi rất hợp lý vì con người từ lúc sinh ra cho đến khoản 30 tuổi hầu như sống
dưới mái ấm của gia đình, bên cạnh tình thương yêu của cha mẹ, và sự dùm bọc
của anh em. Mãi cho đến khi 30 tuổi trở lên là lứa tuổi trung bình cho hầu hết
mọi người để tự lập thân, bước chân vào bương trải với đời. Đó là lúc ứng vào
cung Thân của lá số.
Sau tiền vận thì cung Thân ảnh hưởng
mạnh mẽ vào khoản thời gian còn lại của cuộc đời, nó bao gồm cả trung vận và
hậu vận của mỗi người. Bởi vậy khi nói đến sự quan trọng của cung Mệnh và Thân,
chúng ta thấy có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất chú trọng cung
Thân hơn cung Mệnh và luận cứ của quan điểm này là trong khỏan tiền vận chúng
ta thường sống dưới mái ấm gia đình, trong vòng tay che chở của cha mẹ cho nên
nếu cung Mệnh có tốt thì cũng chưa làm nên cơm cháo gì được. Ngược lại nếu cung
Thân tốt thì sẽ hữu hiệu hơn cho cái tuổi "tam thập nhị lập" tức là
tuổi bắt đầu lăn lộn vào đời lập nghiệp cho nên rất cần có một cung Thân tốt
đẹp.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng, cuộc
đời như một cái cây mà Mệnh là gốc rễ, Thân là những nhánh cây, cành lá. Nếu
gốc rễ không vững chắc thì cành lá cũng khó mà xanh tươi, đơm hoa kết qủa được.
Người viết đồng tình với quan điểm này. Mệnh ảnh hưởng mạnh mẽ ở tiền vận nhưng
vẫn luôn là căn cơ, cốt lỏi là nền tảng của một đời người. Và khi nói về cung
Thân, chúng ta phải nhớ một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là khi cung Thân
đóng chung với cung nào thì những ý nghĩa tốt xấu của cung ấy sẽ là những nét
chính yếu trong cuộc đời của ngưòi ấy. Như vậy thì người có Thân cư Mệnh là mẫu
người như thế nào?
Sắc nét đặc biệt đầu tiên của người
này là lòng tin vào thiên mệnh rất mạnh. Vì như chúng ta đã nói ở trên, cái ý
nghĩa đầu tiên của chữ Mệnh là ý trời = mọi việc đều do Trời định, là định
mệnh. Mẫu người này ít tin vào quan niệm "Nhân định thắng thiên" cho
nên khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, trắc trở họ thường nhắm mắt buông tay mặt
cho số phận xoay vần vì thuyền đời của họ đã lỡ neo vào bến Mệnh rồi, chỉ còn
biết trong nhờ đục chịu mà thôi.
Một đặc điểm thứ hai đáng kể của
người Thân Mệnh đồng cung là không có những khúc quanh cũng như những biến đổi
lớn lao nào trong suốt cuộc đời của họ. Như đã bàn ở trên, Mệnh ảnh hưởng mạnh
vào tiền vận. Thân ảnh hưởng mạnh vào trung vận và hậu vận. Bởi vậy khi Thân và
Mệnh đồng cung thì Mệnh và Thân đều ảnh hưởng chung vào cả cuộc đời từ lúc sinh
ra cho đến lúc lìa đời. Có nghĩa là nếu đương số giàu có thì suốt đời giàu có,
nếu nghèo thì sẽ nghèo suốt đời chứ không giống như những người khác chẳng hạn
nếu cung Mệnh xấu thì tiền vận có thể cực khổ nhưng cuộc đời về sau có thể thay
đổi khá hơn nếu cung Thân tốt đẹp hơn cung Mệnh. Hay ngược lại nếu cung Mệnh
tốt đẹp thì cuộc đời của đương số có thể sung sướng từ lúc lọt lòng mẹ cho đến
tuổi lập thân. Rồi sau đó có thể đổi đời, trở nên vất vả, cực khổ nếu cung Thân
xấu hơn cung Mệnh.
Và điểm đặc biệt cuối cùng là có
người cho rằng nếu Mệnh Thân đồng cung tại tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và hai
cung Tí Ngọ thì đó là những vị trí không tốt cho người Mệnh Thân đồng cung.
Tóm lại, cuộc đời của những người
Thân Mệnh đồng cung là một con đường tương đối bằng phẳng. Dù đường đời của họ
có đầy hoa lá hay chỉ toàn sỏi đá, chông gai thì cũng không có những khúc quanh
đột ngột, hay những biến động lớn làm thay đổi cả cuộc đời.
MẪU NGƯỜI
“THÂN
CƯ PHÚC ĐỨC”
*
Những người sinh vào giờ Sửu (1am
đến 3am) và những người sinh vào giờ Mùi (1pm đến 3pm) đều có số Thân cư Phúc
Đức. Trước khi nói đến những nét đặc biệt của mẫu người này chúng ta hãy bàn
qua vài ý nghĩa căn bản của cung Phúc Đức. Trong những chương trước chúng ta có
nhắc đến một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là nếu Thân cư vào cung nào thì
cung đó trở thành lãnh vực chính yếu trong cuộc sống của đương số. Bởi vậy, ý
nghĩa đơn giản đầu tiên của cung Phúc Đức là nói về phước đức của đương số có
được là do chính bản thân tạo dựng nên hay là do thụ hưởng từ ông bà, cha mẹ,
hay của giòng họ nói chung. Cho nên, từ quan niệm đó, khoa Tử Vi xem cung Phúc
Đức như nền tảng của một lá số. Nó có thể cứu giải hay làm chiết giảm đi độ số
tốt xấu của cung Mệnh hay của một đại hạn, tiểu hạn v.v...Nói một cách khác,
cung Phúc Đức cũng như gốc rễ của một cái cây, nếu gốc rễ tốt thì cho dù một
vài nhánh cây hư hỏng thì cây cũng có thể ra hoa, kết trái. Nếu gốc rễ đã bị
úng thối thì cành cây bên trên dù có xanh tươi thì cũng chẳng được là bao lâu.
Cũng có thể đơm hoa kết qủa những cũng không thể tồn tại lâu dài được.
Từ đó chúng ta có một quan điểm đặc
biệt đầu tiên của người Thân cư Phúc Đức. Cuộc đời của họ sướng hay khổ, thành
hay bại không hoàn toàn do chính khả năng của họ mà phần nào do những trợ lực
khác như được người nâng đở, hay thường gặp những vận hội may mắn nào đó. Điều
này dễ nhìn thấy ở các lá số Thân cư Phúc Đức mà cung Phúc Đức lại được mọi
điều tốt đẹp thì cuộc dời của những người này thường gặp được những may mắn kỳ
lạ, giúp họ thành công dễ dàng, hoặc họ có thể vượt qua những hoàn cảnh khó
khăn, tai nạn mà không ai có thể ngờ được. Ngược lại, chúng ta cũng thấy có
những người Thân cư Phúc Đức nhưng cung Phúc Đức lại xấu xa mờ ám, cho dù các
cung chính yếu Mệnh, Tài, Quan...đều tốt đẹp nhưng chắc chắn cuộc đời của họ
vẫn gặp nhiều cảnh thăng trầm.
Như vậy, phải chăng đối với người Á
Đông chúng ta thì Phúc Đức là một yếu tố siêu hình đã ảnh hưởng phần nào trong
cuộc sống của một đời người?
Một quan niệm khác của khoa Tử Vi
đối với cung Phúc Đức là cung này biểu tượng cho cả một giòng họ. Qua cung Phúc
Đức mà chúng ta có thể nhìn thấy một cách đại cương về giòng họ của đương sự.
Như vậy, những người có Thân cư Phúc Đức thì đặc điểm thứ hai chính là sự liên
hệ chặc chẽ của cá nhân đương số với giòng họ của mình. Tùy theo sự tốt hay xấu
và ý nghĩa của cung Phúc Đức. Có người tuy khả năng, tài đức không có gì đáng
nói cả nhưng vẫn có địa vị chức tước hay bổng lộc nhờ vào sự nâng đở của bà
con. Ngược lại, cũng có người được may mắn, có công danh sự nghiệp, giàu sang
phú quý, cũng vì cái tình gia tộc mạnh mẽ, họ phải vươn dài cánh tay đễ cưu
mang cho cả giòng họ. Đó là trường hợp mà ông bà chúng ta thường nói: "Một
người làm quan, cả họ được nhờ."
Và một điểm đặc biệt sau cùng của
mẫu người này là những gì tốt xấu của cung Phúc Đức sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ sau
khoản tiền vận, nghĩa là thời điểm đương số thực sự lăn lộn vào đời. Cung đối
diện Phúc Đức là Tài Lộc, và đó cũng là cung đầu tiên chịu ảnh hưởng nặng nề
những sự tốt, xấu của cung Phúc Đức. Cho nên người Thân cư Phúc Đức sẽ có những
thay đổi khá rõ rệt trong khoản thời gian lập thân. Cuộc sống của họ có thể
sung sướng hơn nếu cung Phúc Đức tốt đẹp, hoặc cực khổ hơn nếu cung Phúc xấu,
nhất là trên vấn đề tiền bạc.
Tóm lại, mẫu người Thân cư Phúc Đức
là những người có tinh thần gia đình, gia tộc rất mạnh. Họ thích cuộc sống đại
gia đình và giữ được những liên hệ mật thiết với tất cả bà con trong giòng họ
dù gần hay xa.Đây là mẫu người rất nặng tình quê hương. Họ thường lớn lên và
sống suốt đời tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình chứ không muốn ly hương hay
sống rời xa giòng họ của mình.
Đi xa hơn, cung Phúc Đức trên một lá
số cũng tương tự như lãnh vực âm trạch của khoa Phong Thủy, tức là chuyên về mộ
phần. Qua cung Phúc Đức, chúng ta có thể nhìn thấy những nét tổng thể về mộ
phần của một giòng họ, như mộ phần của một người nào phát, mộ phần của ngườ nào
hư, hoặc có thể biết được mộ phần của người nào đó trong giòng họ đã kết phát
và đang đặc biệt phò trợ cho đương số.
MẪU NGƯỜI
“THÂN
CƯ QUAN LỘC”
*
Những người sinh vào giờ Dần (3am
tới 5am) hoặc vào giờ Thân (3pm tới 5pm) là những người có số Thân cư Quan Lộc.
Như chúng ta đã biết, cung Quan Lộc trong lá số của mỗi người biểu hiện con đường
công danh và sự nghiệp của người đó. Hai chữ "Công Danh" và "Sự
Nghiệp" nghe có vẽ rộng lớn và mơ hồ qúa. Nếu nói một cách gần gũi và rõ
ràng hơn thì cung Quan Lộc diễn tả nghề nghiệp của một người và có thể chỉ rõ
một ngành nghề nào đó như y khoa, điện tử, giáo sư, cảnh sát, quân nhân, ngân
hàng, ngoại giao, văn học, nghệ thuật, kinh doanh thương mại v.v... Cung Quan
Lộc cũng nói lên sự thành bại trong nghề nghiệp của một người.
Như chúng ta đã nói trước đây, Thân
cư cung nào thì cung đó sẽ trở thành lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc
đời của người ấy. Do đó, người Thân cư Quan Lộc ngay từ khi còn trong trường
học, họ đã có những ý tưởng rõ ràng về ngành học mà họ chọn lựa vì đó là cửa
ngõ đưa họ vào đời, là nghề nghiệp của họ sau này. Họ rất cân nhắc và thận
trọng trong việc chọn nghề và thường là những nghề mà họ đã có sẵn năng khiếu
và ưa thích.
Người Thân Cư Quan Lộc không thích
làm những nghề có tính cách tạm bợ. Cho nên khi họ đã bước vào một ngành nghề
nào thì đó sẽ là công việc mà họ sẽ theo đuổi suốt cả một đời. Mẫu người này
cho dù làm công hay làm chủ cũng không thích đổi nghề. Nếu đi làm công thì ít
khi bị mất việc. Có thể nói, họ là những người mà việc tìm họ chứ họ không phải
vất vả đi tìm việc như những người khác.
Thân cư Tài Lộc là mẫu người thừa
hành đắc lực nhất. Họ là những nhân viên, những thuộc cấp và là những người
cộng tác rất có tinh thần và trách nhiệm trong chức vụ của họ. Điều này dễ hiểu
vì họ là những người yêu nghề, thích học hỏi.
Người Thân cư Quan Lộc coi sự làm
việc như một lạc thú ở đời chứ không phải là một nghề để sinh sống. Họ rất hăng
say với công việc.
Những đặc điểm nêu trên là mẫu người
Thân cư Quan Lộc mà có cung Quan Lộc tốt đẹp. Ngược lại nếu cung Quan Lộc xấu
xa thì đó là hình ảnh của một người chậm công danh, lận đận trên đường công
danh, và đây cũng là người sống chết với nghề của mình một cách vất vả, lao
đao, hoặc là trường hợp đặc biệt của những người mà chúng ta thường gọi là
"sinh nghề, tử nghiệp" chết vì tai nạn nghề nghiệp, thân bại danh
liệt, hay bị tù tội vì nghề nghiệp nếu có thêm hung sát tinh, bại tinh hội hợp.
Như vậy, quan niệm cho rằng người có Thân cư Quan Lộc sẽ làm Quan là một điều
sai lầm. Làm quan hay làm công, thành đạt hay thất bại trong nghề nghiệp cũng
phải tùy thuộc vào cung Quan Lộc tốt hay xấu.
Nhìn xa hơn, trong khoa Tử Vi Đẩu
Số, sự sắp xếp của 12 cung trên một lá số rất có ý nghĩa. Cung Quan Lộc nằm đối
diện với cung Phu Thê cho nên cung Quan Lộc có thể xem như cái bóng phản chiếu
của cung Phu Thê vậy. Do đó khoa Tử Vi cho rằng đối với những người có số 2 đời
vợ, 2 đời chồng thì cung Quan Lộc là hình ảnh của người vợ hay người chồng thứ
hai của đương số.
Điều này rất có ý nghĩa đối với
những người Thân cư Quan Lộc, cuộc đời còn lại của họ và cả nghề nghiệp của họ
sẽ bị ràng buộc một cách chặt chẽ với người vợ/chồng thứ hai. Điều này chúng ta
sẽ bàn kỷ hơn trong mẫu người Thân cư Phu Thê.
Riêng đối với nữ Mệnh, các bà có số
Thân cư Quan Lộc thì ngoài những nét đặc biệt đã nêu trên, cung Quan Lộc trong
trường hợp này còn có ý nghĩa như một cung Phu, và một vài trường hợp điển hình
mà chúng ta nói đến như: Một người đàn bà có số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan
Lộc bị Tuần hay Triệt án ngữ thì đường tình duyên cũng trắc trở không khác gì
Tuần hay Triệt án ngữ ngay tại cung Phu vậy.
Trong trường hợp như vừa nêu trên,
một quan điểm khác của nhà tướng số Thiên Đức trong một bài viết về "Tai
Nạn Trinh Tiết" ông khẳng định một cách mạnh mẽ rằng "...bất cứ là lá
số của một người phụ nữ nào khi cung Quan Lộc hay cung Thân có Tuần hoặc Triệt,
bất luận về yếu tố sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái khi về nhà
chồng"
Như vậy theo quan điểm này thì bất
cứ cung Thân an tại đâu và bất kể cung Thân hay Quan Lộc cho dù có các sao đoan
chính tọa thủ, nếu bị Tuần/Triệt thì hai chữ "trinh tiết" của đương số
cầm bằng như không có khi bước lên xe hoa lần đầu trong cuộc đời.
Cũng trong trường hợp nữ Mệnh có số
Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt án ngữ mà còn gặp nhiều
hung tinh hay sát tinh thì đương số nên lập gia đình muộn hoặc lập gia đình với
một người đã trải qua một lần đổ vỡ trên đường tình thì mới có thể tránh được
cảnh cô đơn góa bụa về sau.
Một điểm đặc biệt nữa là đàn bà có
số Thân cư Quan Lộc mà cung Quan Lộc bị nhiều hung tinh sát tinh ảnh hưởng thì
đó cũng là số của những người có thể gặp những hoàn cảnh hay tai nạn làm mất
danh tiết của mình.
Riêng đối với các ông, nếu là những
người có quan niệm sống bảo thủ như ông bà của chúng ta ngày xưa, cho rằng
người vợ chỉ là người hiền nội, chỉ là người đàn bà ở trong nhà lo việc nhà,
săn sóc cho chồng cho con thì mẫu người đàn bà Thân cư Quan Lộc hoàn toàn không
thích hợp với quý ông có quan niệm "chồng chúa, vợ tôi" Lý do dễ hiểu
là những người đàn bà có Thân cư Quan Lộc có khuynh hướng độc lập rất mạnh. Họ
muốn ra đời và muốn có một nghề nghiệp như đàn ông để suốt đời không bị lệ
thuộc vào người chồng.
Cuối cùng, trong ý nghĩa về nghề
nghiệp, dù nam hay nữ, khi cung Quan Lộc bị
Tuần/Triệt thì trong đời của đương
số phải thay đổ nghề nghiệp ít nhất 1 lần. Bao nhiêu lần và đổi qua những ngành
nghề gì thì còn tùy thuộc vào cung Quan Lộc và toàn bộ lá số. Đặc biệt đối với
những người Thân cư Quan Lộc thì nghề nghiệp mà họ thay đổi thường là cùng nghề
hay cùng trong một lãnh vực với người chồng hay người vợ thứ hai của đương số.
Tóm lại, cung Quan Lộc biểu hiện cho
công danh, sự nghiệp, tiền tài và danh vọng của một người, cho nên những người
có số Thân cư Quan Lộc thì những yếu tố trên là mục đích mà họ sẽ mang hết tâm
huyết của họ để đạt được.
MẪU NGƯỜI
“THÂN
CƯ THIÊN DI”
*
Nằm ở vị trí đối diện với cung Mệnh
trên lá số, cho nên cung Thiên Di có một tầm quan trọng không kém gì cung Mệnh.
Có thể nói cung Thiên Di là cái bóng của cung Mệnh trong nhiều ý nghĩa. Cung
Thiên Di xung chiếu với cung Mệnh, cho nên những gì xấu tốt của cung này sẽ ảnh
hưởng mạnh mẽ vào cung Mệnh hơn là hai cung Quan Lộc và Tài Lộc, tức hai cung
có vị trí hợp chiếu với cung Mệnh. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn điều này đối với
những người Mệnh Vô Chính Diệu, tức là cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ,
cho nên phải mượn chính tinh của cung Thiên Di mà nói lên ý nghĩa của cung
Mệnh.
Đầu tiên, hai chữ Thiên Di không
phải chỉ nói lên ý nghĩa của sự dời đổi hay di chuyển, mà cung Thiên Di còn nói
lên cái lãnh vực hay địa bàn sinh hoạt của mỗi người ngoài đời, ngoài xã hội.
Nói một cách khác, nếu cung Mệnh biểu hiệu con người của mình khi sinh ra đời,
thì cung Thiên Di biểu hiệu con người của mình, vị trí của mình ngoài xã hội
nói chung, và trong môi trường sinh hoạt hằng ngày của mình nói riêng.
Cung Thiên Di còn nói lên nhiều nét
đặc biệt khác như nghề nghiệp, sự giao thiệp, khuynh hướng tôn giáo, sống hay
làm ăn xa ở nơi quê người, chết tha phương hay chết trên quê hương của mình, ra
đời được người thương mến hay không, chẳng hạn những người có số Hoa Cái cư
Thiên Di là những người ra ngoài thường được nhiều người thương mến, hay ngoài
đời thường có được người giúp đỡ hay không, như những người số có cung Thiên Di
giáp Tả Hữu, giáp Nhật Nguyệt hay giáp Quang Quý là số mà người ta thường nói
là được quý nhân phò trợ, hay những người thân phải tự lập thân, suốt đời chỉ
là kẻ độc hành, cũng vì hai sao Cô Quả đóng ở Thiên Di, hoặc số ra đời là được
tiền hô hậu ủng, cũng là vì cung Thiên Di được cách tiền Cái, hậu Mã vậy. Và
một lần nữa, chúng ta thấy sự sắp xếp các cung trên một lá số của khoa Tử Vi
rất có ý nghĩa: cung Thiên Di tam hợp với hai cung Phúc Đức và Phu Thê, cho
nên, sự may mắn hay bất hạnh, sự thành công hay thất bại của mỗi người ở ngoài
đời đều một phần nào do phước đức của dòng họ cũng như của chính mình tạo nên,
và sự hỗ trợ của người bạn đời, là người chồng hay người vợ, đến từ đằng sau
hay bên cạnh mình là những yếu tố không thể chối bỏ.
Những đặc tính căn bản của cung
Thiên Di vừa nói trên sẽ giúp chúng ta dễ dàng nhìn thấy nét đặc biệt của mẫu
người Thân Cư Thiên Di. Thân cư tại Thiên Di nên cá tính đầu tiên mà chúng ta
nhìn thấy ở mẫu người này là tính thích hoạt động, thích cuộc sống phải có sự
thay đổi cũng như thích di chuyển. Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di không phải
là mẫu người trong gia đình, họ là mẫu người ngoài xã hội, là mẫu người như ông
bà chúng ta thường ví là ăn cơm nhà vác ngà voi hay việc nhà thì nhác, việc chú
bác thì siêng.
Từ đó, nếu quý bà mà đức lang quân
có số Thân Cư Thiên Di thì đừng mong cuối tuần các ông sẽ ở nhà dọn dẹp nhà cửa
hay cắt cỏ, làm vườn, và cũng đừng có buồn với những bữa ăn cơm lạnh, canh
nguội bởi các ông về trễ vì phải họp hội đoàn, thăm bạn bệnh, đến chùa hay nhà
thờ giúp thầy, giúp cha v.v...
Và ngược lại, nếu phu nhân của quý
ông mà có số Thân Cư Thiên Di, thì trước khi cưới hỏi, quý ông cũng nên lo học
trước cách luộc trứng, nấu cơm sao cho chín, cũng như học cách pha sữa, thay
tả, ru con sao cho con ngủ v.v..., bởi vì người đàn bà có số Thân Cư Thiên Di
cũng là mẫu người ngoài xã hội, họ thích cuộc sống bên ngoài hơn là cuộc sống
trong gia đình, những sinh hoạt bên ngoài mang đến cho họ nhiều niềm vui và sự
thích thú hơn là những việc của một người đàn bà phải làm cho chính bản thân
họ, hoặc cho chồng con bên trong gia đình.
Bởi vậy, người Thân Cư Thiên Di
không chịu được cảnh sống lẻ loi đơn chiếc vì họ là con người của đám đông, của
bạn bè, của hội hè đình đám... Người Thân Cư Thiên Di thích giao thiệp rộng nên
thường là những người có năng khiếu trong lãnh vực ngoại giao và tổ chức.
Trong lãnh vực nghề nghiệp, người
Thân Cư Thiên Di thích làm những nghề có tính cách di động, thường được đi đây,
đi đó, tiếp xúc với nhiều người... Chẳng hạn như hoa tiêu hàng không hay hàng
hải, tiếp viên hàng không, chuyển vận đường bộ, hướng dẫn viên du lịch, phóng
viên báo chí hay truyền thanh, truyền hình, đại diện thương mãi, ngoại giao
v.v... đều là những ngành nghề thích hợp với cá tính của mẫu người Thân Cư
Thiên Di.
Hầu hết những người có số Thân Cư
Thiên Di thường ra đời sớm, vào nghề và tự lập sớm hơn những người cùng lứa
tuổi, điều này có thể vì hoàn cảnh và cũng có thể vì cá tính như vậy. Người
Thân Cư Thiên Di có nhiều cơ hội để đi đây, đi đó, sống xa nhà, xa quê hương,
nhất là trường hợp cung Thiên Di đóng tại Dần, Thân, Tị, Hợi là những vị trí
của Thiên Mã, một sao chỉ về sự di chuyển và thay đổi, như vậy chắc chắn họ là
những người thường có cuộc sống nơi đất khách quê người, làm ăn, sinh sống và
chết cũng tại quê người.
Và một nét đặc biệt nữa của mẫu
người Thân Cư Thiên Di là cung Thiên Di lúc nào cũng đối diện với cung Mệnh,
cho nên khi Thân cư vào cung Thiên Di thì Thân và Mệnh đối diện nhau, do đó,
người Thân Cư Thiên Di như có "hai con người" trong họ, một con người
với những bản chất đã có từ lúc sinh ra, và một con người khác là con người
ngoài xã hội, đậm nét nhất là trong môi trường mà họ sinh hoạt hằng ngày.
Tóm lại, mẫu người Thân Cư Thiên Di
là mẫu người có một cuộc sống sôi động và thích hợp với ngoài xã hội hơn là
trong gia đình. Họ sinh ra để làm việc, để hoạt động và có máu giang hồ, cho
nên thường thích ra đời sớm, thích sống xa nhà, xa quê hương cho thỏa chí tang
bồng.
Kỳ sau, chúng ta sẽ nói đến mẫu
người Thân Cư Tài Lộc, là những người sinh vào giờ Thìn, tức là từ 7 giờ sáng
đến 9 giờ sáng, hoặc những người sinh vào giờ Tuất, tức là từ 7 giờ tối đến 9
giờ tối.
MẪU NGƯỜI
“THÂN
CƯ TÀI LỘC”
*
Trong một lá số, cung Quan Lộc và
Tài Lộc là hai cung có vị trí hợp chiếu với Mệnh và được xem là hai cung quan
trọng. Chữ Tài Lộc cũng nói lên hết ý nghĩa của cung này. Nếu như cung Quan Lộc
diễn đạt con đường công danh, sự nghiệp và cả một phần nào chuyện vợ chồng, thê
thiếp thì cung Tài Lộc không chỉ đơn thuần nói về vấn đề tiền bạc mà cũng phần
nào phản ảnh lãnh vực nghề nghiệp của mình.
Điều mà chúng ta sẽ thấy trong một
vài lá số mà nghề nghiệp của đương sự được mô tả trong cung Tài Lộc còn rõ ràng
hơn cung Quan Lộc nữa. Trường hợp này thường thấy trong các lá số của người
Thân Cư Tài Lộc mà chúng ta sẽ bàn đến.
Cung Tài Lộc diễn tả vấn đề tiền bạc
của một đời người. Có tiền nhiều hay ít, có tiền bằng cách nào, làm ra tiền sớm
hay muộn, kiếm tiền dễ dàng hay khó khăn, tiền do chính bàn tay mình tạo dựng
nên hay được thụ hưởng di sản của giòng họ. Tiền bạc do lộc của trời như trúng
số, hoặc do người khác mang đến. Có tiền rồi giữ được hay không? Hay dễ bị hao
tài? Tiền bạc có mang lại hạnh phúc cho đương số hay không, hay có tiền thì có
tai họa đi liền theo sau v.v...
Cung Tài Lộc ở vị trí đối diện với
cung Phúc Đức cho nên ông bà chúng ta có câu: "Có phúc mới có phần"
ngụ ý là số giàu cũng do Phúc Đức. Bởi vậy cung Tài Lộc cũng chỉ rõ người có số
được hưởng gia tài, sản nghiệp của ông bà, cha mẹ để lại hoặc tiền tài phải do
tự hai bàn tay của mình tạo dựng nên mới có được. Nói một cách khác, tất cả
những tốt xấu của cung Phúc Đức đều có ảnh hưởng mạnh mẽ vào cung Tài Lộc hơn những
cung khác, và đó cũng là sắp xếp rất có ý nghĩa của khoa Tử Vi Đẩu Số, một
trong những môn học huyền bí của người Trung Hoa đã chịu ảnh hưởng sâu xa triết
lý nhà Phật.
Những người sinh vào giờ Thìn (từ7am
tới 9am) hay là những người sinh vào giờ Tuất (từ 7pm tới 9pm) thì Thân sẽ rơi
vào cung Tài Bạch. Có người nghĩ rằng nếu Thân cư Quan Lộc thì sẽ làm quan,
Thân cư Tài Lộc thì sẽ giàu có. Quan niệm này không chính xác bởi vì tuy là số
thân cư Quan Lộc nhưng làm quan hay làm người bình dân thì cũng còn tùy vào
cung Quan Lộc của đương sự tốt hay xấu. Tương tự, như số Thân cư Tài Lộc, giàu
hay nghèo cũng còn tùy vào cung Tài Lộc tốt xấu ra sao. Tuy nhiên, những người
Thân cư Tài Lộc, họ có những nét đặc biệt khái quát như sau:
Trước tiên, tiền bạc là vấn đề chủ
yếu và là mục đích quan trọng trong cuộc sống của họ. Nói như vậy không có
nghĩa là người có Thân cư Tài Lộc quan niệm sống của họ chỉ có tiền mà họ là
những người có khả năng làm ra tiền. Làm ra tiền nhiều hay ít, dễ dàng hay khó
khăn, và bằng cách nào thì cũng còn tùy vào lá số của mỗi người. Dù nghèo hay
giàu, người Thân cư Tài Lộc thấu hiểu giá trị của đồng tiền và sử dụng đồng
tiền ra sao cho xứng đáng với giá trị của nó. Chuyện đáng xài thì xài, chuyện
không đáng thì 1 xu cũng không bỏ ra. Mẫu người này quan niệm tiền là cái đích
tiên quyết phải có, rồi từ đó xử dụng tiền như một phương tiện để được những
mục đích khác mà họ mong muốn.
Người Thân cư Tài Lộc thường có năng
khiếu về thương mại, kinh doanh. họ là những người thích hợp để trở thành chủ
nhân của những cơ sở làm ăn mua bán và thường trở nên giàu có bằng đường kinh
doanh nếu cung Tài Lộc của họ tốt đẹp. Ngược lại, một người có Thân cư Tài Lộc
mà cung Tài Lộc lại không được sáng sủa thì họ sẽ là người suốt đời vất vả vì
tiền, hay thường gặp những tai họa về tiền bạc. Có thể đến một vận hạn nào đó,
họ cũng có cơ hội làm ra tiền nhưng lại không giữ được tiền trong tay.
Cuối cùng, như chúng ta đã nói ở
trên, khi Thân cư vào cung Tài Lộc thì Thân sẽ ở vị trí đối diện với cung Phúc
Đức. Có nhiều vị nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số thì họ cho rằng cung Thân quan
trọng hơn Mệnh vì cung Thân biểu tượng cho trung vận và hậu vận, là khoảng thời
gian mà chúng ta bắt đầu rời khỏi vòng tay của cha mẹ để lăn lộn vào đời tự lập
thân. Và như vậy, những người Thân cư Tài Lộc, cung Thân sẽ chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của cung Phúc Đức kể từ khi họ bước chân vào đời. Nói một cách khác, hậu vận
của một người Thân cư Tài Lộc sẽ ra sao cũng là một phần tùy thuộc vào sự tốt
xấu của cung Phúc Đức. Nếu nói theo triết lý của đạo Phật là đương số hưởng
được sự tích đức của ông bà, cha mẹ hay là đương số phải trả nghiệp cho ông bà,
cha mẹ của mình.
MẪU NGƯỜI
“THÂN
CƯ PHU THÊ”
*
Dù trong thời đại nào, dù phương
Đông hay phương Tây thì gia đình vẫn luôn luôn là nền tảng của xã hội. Trong
khoa Tử Vi Đẩu Số gia đình được thể hiện qua hai cung Phu Thê và Tử Tức. Hai
cung này nói lên những vấn đề vợ chồng, con cái của mỗi người. Chúng ta vẫn
thường nghe câu: "Sau lưng một người đàn ông thành công là một người đàn
bà đảm đang tài giỏi." Có phải vì vậy mà cung Phu Thê của người đàn ông có
tầm quan trọng không kém gì hai cung chính là Quan Lộc và Tài Bạch? Còn đối với
phụ nữ thì cung Phu Thê lại càng quan trọng hơn. Sự đánh giá này rất hợp lý với
thời phong kiến xa xưa. Trong xã hội phong kiến, người đàn bà chỉ là cái bóng
mờ, hầu như không có những sinh hoạt nào ngoài xã hội. Và cuộc đời của họ như
thế nào cũng do cung Phu Thê của họ định đoạt mà thôi. Thật đúng với ý nghĩa
"xuất giá tòng phu"
Ngày nay, người đàn bà đã ra ngoài
xã hội, đã có vai trò và vị trí không thua kém gì người đàn ông. Nhưng dù sao,
đối với quan niệm của người Á Đông chúng ta thì không phải vì vậy mà sự quan
trọng của cung Phu Thê bị giảm đi. Trong thực tế hai chữ "gia đạo"
lúc nào cũng là nền tảng của cuộc sống con người trong bất cứ thời đại nào hay
xã hội nào. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng và đậm nét trong mẫu người Thân
cư Phu Thê.
Những người sanh vào giờ Tỵ (từ 9am
tới 11am) hoặc giờ Hợi (từ 9pm tới 11 pm) thì Thân sẽ nằm vào cung Phu Thê.
Người ta cho rằng rằng ông có Thân cư Phu Thê là số được nhờ vợ và nể vợ. Đàn
bà có Thân cư Phu Thê là số nhờ chồng và nể sợ chồng. Điều này không đúng,
chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mẫu người Thân cư Phu Thê có nhiều
nét đặc biệt, nhất là trên lãnh vực tình cảm. Người Thân cư Phu Thê thường gặp
người chồng/vợ mình trong một hoàn cảnh rất đặc biệt. Họ gặp nhau và có tình
cảm với nhau như đã quen biết nhau từ kiếp trước, nay lại gặp nhau để xây tiếp
lâu đài tình ái còn đang dang dở, hoặc trả tiếp cho xong cái duyên nợ chưa tròn,
tùy theo lá số của mỗi người.
Từ nét đặc biệt đó mà người Thân cư
Phu Thê có một cuộc sống ràng buộc nhau rất mật thiết. Sự ràng buộc chặt chẽ
này có thể do từ tình cảm tốt đẹp mà họ có được, nhưng cũng có thể là vì hoàn
cảnh mà họ phải chịu trói buộc với nhau. Hình ảnh bị trói buộc với nhau vì hoàn
cảnh điển hình nhất mà chúng ta đã thấy trong thời gian trước đây đó là hình
ảnh của cựu Tổng Thống Bill Clinton. Dù đang gặp một hoàn cảnh đắng cay, hay có
thể nói là "còn tình đâu nữa mà thù đấy thôi" Nhưng họ vẫn ở bên
nhau, xuất hiện bên nhau trên truyền hình, trước công chúng đễ diễn tiếp cho
xong vở tuồng mà họ phải diễn.
Nói một cách khác, trong lĩnh vực
tình cảm, người Thân cư Phu Thê thường có một cuộc sống khăng khít với nhau,
cho dù trong những trường hợp cuộc sống không được hạnh phúc hay gặp những hoàn
cảnh ngang trái, dường như có một sợi dây vô hình nào đó cứ buộc chặt họ lại
với nhau, không chia ly dễ dàng như những người khác.
Ngoài sự ràng buộc trong vấn đề tình
cảm, người Thân cư Phu Thê còn có sự ràng buộc trong lãnh vực nghề nghiệp. Hầu
hết họ và vợ/chồng của họ là những người làm cùng ngành nghề hay cùng chung một
cơ sở thương mại với nhau. Có thể không cùng nghề nghiệp nhưng công việc của
hai người luôn có sự liên hệ và hợp tác hổ trợ cho nhau.
Ngoài ra, người Thân cư Phu Thê
thường có thêm một nghề tay trái nữa. Nghề tay trái này lúc đầu chỉ như một cái
thú tiêu khiển của đương số, hoặc cũng có thể như một nghiệp mà họ phải theo
đuổi. Dần dần có thể trở thành một lãnh vực sinh hoạt không thể thiếu được
trong cuộc sống hằng ngày của họ. Cũng có một số người thành công, thành danh
bởi nghề tay trái này hơn là nghành nghề chính của họ. Bây giờ chúng ta có thể
trở lại với hai nghi vấn mà chúng ta đã đề cập lúc mở đầu:
1. Có phải những người Thân cư Phu Thê là có số nhờ chồng/vợ hay không?
Đối với người Á Đông chúng ta thì
chuyện "xuất giá tòng phu" là một quan niệm bình thường. Do đó, nếu
một người đàn bà có số Thân cư Phu Thê mà cuộc đời phải nương tựa vào chồng của
mình thì đó là một điều hợp tình hợp lý. Nhưng đối với nam giới, nhất là trong
xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, một người đàn ông có Thân cư Phu Thê là
bị phán ngay là số nhờ vợ thì cũng tội nghiệp cho đương số.
Để giải đoán cho phân minh, chúng ta
phải cân nhắc giữa cung Phu Thê và cung Mệnh của đương sự. Chẳng hạn, người có
Thân cư Phu Thê, nếu Mệnh của đương số yếu hơn cung Phu Thê (Mệnh nhược Thê
cường) có nghĩa là người vợ của đương số có khả năng hơn chồng về mọi mặt từ
trong nhà cho đến những giao tiếp ngoài xã hội. Như vậy chúng ta có thể nghĩ
rằng những gì tạo dựng nên trong cuộc sống chung của hai người thì phần lớn đều
do tay của người vợ. Đối với người đàn bà có Thân cư Phu Thê, vì bối cảnh xã
hội ngày nay có khác, hai chữ "tòng phu" không còn nữa cho nên chúng
ta cũng phải cân nhắc như vậy.
Ngược lại nếu cung Mệnh của đương số
tốt đẹp, sáng sủa hơn cung Phu Thê (Mệnh cường, Thê nhược) thì đây không phải
là số nhờ chồng/vợ. Trường hợp này thông thường thì hai người cùng làm chung
một ngành nghề hay cùng chung một cơ sở làm ăn, họ cùng góp sức tạo dựng với
nhau trong cuộc sống chung, dĩ nhiên họ cũng có những sự ràng buộc chặt chẽ với
nhau như đã bàn ở trên.
2. Có phải người Thân cư Phu Thê là số nể, sợ vợ/chồng hay không?
Để trả lời vấn đề này, chúng ta cũng
phải cân nhắc vấn đề mạnh và yếu giữa cung Mệnh và cung Phu Thê của đương số.
Nếu Mệnh nhược Phu cường thì phải nể, sợ chồng là điều đương nhiên rồi. Chẳng
hạn, lá số của một ông chồng có bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương thủ Mệnh, là bộ sao
tiêu biểu cho văn cách nhưng cung Phu Thê lại có bộ sao Sát Phá Liêm Tham là
biểu tượng cho võ cách. Trường hợp này việc điều hành từ trong ra ngoài cũng
nhu vai trò chánh yếu trong gia đình đều do người vợ một tay thao túng hết.
Điều này chúng ta cũng thấy rõ những
đấng mày râu tuy cung Mệnh không thua kém gì cung Phu Thê nhưng cung Phu Thê
lại có các sao như Thái Âm, Hóa Quyền tọa thủ hoặc hợp chiếu thì đấy cũng là
hội viên cùng hội với Thúc Sinh rồi.
MẪU NGƯỜI
“MỆNH
VÔ CHÍNH DIỆU”
*
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên
118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung
của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của
mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho
nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa
thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh
nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu.
Một cung Mệnh không có chính tinh
tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh Vô
Chính Diệu phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay
mượn cho nên Mệnh Vô Chính Diệu chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những
tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi.
Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên
Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoặc
ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho
Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người Vô Chính Diệu là tính uyển
chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh.
Phải chăng vì Mệnh không có chính
tinh cho nên những người Vô Chính Diệu thường là con của vợ hai, hay nàng hầu.
Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó
nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường
sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.
Một đặc điểm quan trọng khác mà
người Vô Chính Diệu phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như
đoàn quân không có tướng cho nên người Vô Chính Diệu khi ra đời dù là làm công
hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như
chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ
sở thương mại. Người Vô Chính Diệu chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái
bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận
lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó
khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho
chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành.
Người Vô Chính Diệu tánh tình thâm
trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn
thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v... rất thích hợp với họ, điển hình
như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày
nay.
Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm
cho người Vô Chính Diệu. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi
khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ
thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh
nhất là trong khoản tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng
giảm đi.
Người Vô Chính Diệu thường lao đao
vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì
cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt
đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay
đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm
tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn.
Là mẫu người có tài, có trí họ có
thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì
chữ "Thọ" là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói:
"Đa tài thì bạc mệnh" Cho nên người Vô Chính Diệu ít ai có được tuổi
thọ cao. Muốn hóa giải vấn đề này, người Vô Chính Diệu phải làm con nuôi của
người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi
đất khách quê người.
Với sự bất lợi là Mệnh không có
chính tinh thủ, nhưng người Vô Chính Diệu vẫn được hai cách tốt:
1. Mệnh Vô Chính Diệu có Tuần,
Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh
được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh Vô Chính Diệu đắc
nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát
rất nhanh vì sách có nói "hung tinh đắc địa phát dã như lôi." Có
nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp. Nhưng dù sao trong cái
tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây
chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi.
Trường hợp Mệnh Vô Chính Diệu gặp
các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh Vô Chính Diệu
đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì
ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt xấu lẫn lộn cho nên không được
tròn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm
Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp "đắc", "kiến" và
"ngộ" đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu.
Trường hợp đắc tam không:Mệnh Vô
Chính Diệu có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là
tốt nhất. Có câu: "Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ" Cách
này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành
Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát.
Trường hợp kiến tam không:Mệnh Vô
Chính Diệu có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch,
1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di) Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay
sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự
nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ.
Trường hợp ngộ tam không:Mệnh Vô
Chính Diệu có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung
xung chiếu có có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh. Cách này là "Mệnh Vô
Chính Diệu ngộ tam không phi yểu tắc bần" có nghĩa là gặp cách này không
chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm
địa ở Mệnh trở thành phá tán.
2. Mệnh Vô Chính Diệu được hai sao
Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một
vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào
khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rở. Khoa Tử Vi gọi là "Mênh Vô Chính
Diệu Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa" Có người cho rằng phải có thêm
Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ "Hư Không" Điều đó
xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài,
đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh.
Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào
giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu. Mệnh Vô Chính Diệu an tại Mùi có Thái
Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc
nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách "Nhật Nguyệt Tịnh Minh
tá cửu trùng ư kim diện" Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu
trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi.
Vì Mệnh Vô Chính Diệu, cho nên tuổi
thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo
phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên
văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm
thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh
Vô Chính Diệu, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người.
Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu
chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất
cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp
với người Mệnh Vô Chính Diệu. Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ
Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp
chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng
cũng không thành.
Đó là đặc tính đáng chú ý của người
có Mệnh Vô Chính Diệu: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì
khó.
Người ta cũng cho rằng, Gia Cát
Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết
10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt
chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều
này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì
tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh Vô Chính Diệu?
MẪU NGƯỜI
“THAM
VŨ ĐỒNG HÀNH”
*
Mẫu người "Tham Vũ Đồng
Hành" là những người có cung Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung Thìn,
Tuất, Sửu, Mùi và có hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung
chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại Thìn và Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ
xung chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc
sẽ tọa thủ đồng cung. Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác biệt
của mẫu người tuy là Tham Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại
Mệnh có gì khác biệt với người Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu, cũng
như Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang xung chiếu?
Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc
tính của hai sao Tham Lang và Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng
Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh và Hỏa
Tinh thì mới đủ bộ và đúng cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của Tham Lang
có người cho là hành Thủy, có người cho là hành Hỏa và cũng có người cho là
hành Mộc. Theo thiển ý của người viết thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi vậy,
khi Tham Lang (đào hoa) tọa thủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là
cách Phiếm Thủy Đào Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính của
Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống. Thích hội hè đình đám,
những chỗ đông người với những cuộc vui. Tính rất năng động, háo danh, háo
thắng và thích làm những chuyện lớn cho nên có nhiều tham vọng. Ưu điểm của
Tham Lang là có năng khiếu về kinh doanh, có khả năng tổ chức, nhưng khuyết
điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí miếu
hay vượng địa thì chủ về uy quyền, giàu sang và sống lâu.
Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh và
thuộc hành Kim. Bản chất của Vũ Khúc rất nghịch với Tham Lang ở điểm Tham Lang
thích vui chơi ở chỗ đông người thì Vũ Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì cũng
muốn độc hành. Người có Vũ Khúc thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ
chức, có đầu óc kinh doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những
điểm tương đồng này giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ sao của
những tay kinh doanh có hạng trên thương trường. Có người cho rằng Tham Vũ là
hai sao thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại hợp với
lãnh vực kinh doanh? Để trả lời cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống
của người Hoa Kỳ cũng như cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu quân
nhân, sau khi giã từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên thương
trường. Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng cần có của một người điều
binh trên chiến trường cũng cần thiết cho một người lăn lộn trên thương trường,
đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn nói: thương trường như chiến trường.
Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng
Hành thì hai sao Tham Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi gọi là tứ mộ, bốn cung này thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn vị trí miếu
địa, vượng địa của hai sao Tham Vũ. Một điều kiện quan trọng khác là tại bốn vị
trí này, bộ Tham Vũ phải gặp một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh. Hai sao
Linh Hỏa có thể đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao Tham Vũ thì
mới đầy đủ uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ,
ngộ Linh, Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an tại bốn
cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng cung hay xung chiếu,
lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh chiếu vào là số giàu sang, phú
quý như bậc hầu bá dưới thời phong kiến ngày xưa.
Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự
thành công, phú quý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường,
mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người Tham Vũ Đồng
Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ chức và có năng khiếu về
thương mãi, cho nên họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ
làm ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệu của vòng Ngũ
Hành tương sinh trong cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt phù
trợ cho hành Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho hành Kim
của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để dưỡng Mộc của Tham
Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa Linh, Hỏa cháy bùng lên...
Một đặc điểm khác đáng lưu ý của mẫu
người Tham Vũ Đồng Hành là vì ảnh hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫu người này
thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm thì cũng phải qua trung vận,
đa số phải đến hậu vận mới có thể gọi là thành công như ý muốn và lúc đó cơ
nghiệp mới có thể bền vững được.
Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai sao
Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu phát
không đúng vào thời vận thì cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi cũng tắt đi
một cách nhanh chóng. Nếu biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
chẳng nên bôn ba sớm trong cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng cay. Điều
này rất nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng cũng nói
được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã nói: càng phong trần danh ấy
càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an
tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc chế nhau mạnh mẽ
trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương số bao lần thấm mệt và
sớm ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài... Phải qua trung vận
và bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người Tham Vũ Đồng Hành có Mệnh an tại
Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền vững cho đến cuối cuộc đời.
Nói đến sự thành công của mẫu người
Tham Vũ Đồng Hành nhanh hay chậm, bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta cũng nên
lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa thủ đồng cung với Hỏa
Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng, nếu gặp Linh Tinh thì gọi
là cách Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của Tham Vũ Đồng Hành, nhưng với
cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh vì ảnh hưởng mạnh mẽ của Ngũ
Hành tương sinh giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc Hỏa đồng cung với
nhau. Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất nhanh chóng, nhưng cũng
chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách bạo phát, bạo tàn mà thôi.
Tương tự như vậy, chúng ta xét đến
vị trí của hai chính tinh Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham Vũ Đồng
Hành mà Mệnh an tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai sao Tham Vũ
tương đối nhẹ hơn vì nằm trong vị trí xung chiếu nhau, vì vậy, sự nghiệp của
mẫu người này sẽ thành đạt sớm hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt lại không có
kích thước bằng những người Mệnh an tại Sửu Mùi.
Và một điểm khác biệt nữa là cá tính
của mỗi mẫu người Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an Mệnh.
Khi Mệnh an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta giao tiếp với những người này, chúng
ta sẽ nhận ra họ như có hai con người khác nhau: một con người vì ảnh hưởng của
Vũ Khúc nên thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình, nhưng khi ra
ngoài, sao Tham Lang lại làm cho họ thành một con người khác, họ biết nói, biết
làm cho vui lòng người khác, mặc dù trong thâm tâm họ không thích như vậy, và
phải chăng đây cũng là một đặc tính giúp họ thành công trong lãnh vực kinh
doanh?
Tóm lại, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành
là một mẫu người lý thú khi chúng ta quen biết hoặc hợp tác trong vấn đề làm ăn
mua bán với nhau. Họ là những người có cá tính rất mạnh, gan lì, táo bạo và
nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành công là thương trường. Và thời điểm mà
họ xây dựng được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc đời.
MẪU NGƯỜI
“NỬA
ĐỜI NỬA ĐẠO”
*
Khoa Tử Vi chia và xếp hạng các tinh
đẩu ra làm 3 loại: Chính Tinh, trung tinh và phụ tinh. Sao Tử Vi được xem như
chủ tể của các vì sao hay còn gọi là đế tinh. Vì vậy, Tử Vì cũng tựa như một vị
Vua dưới thời phong kiến. Vua cũng có thể là minh quân, cũng có thể là hôn quân
hoặc chỉ là Vua bù nhìn. Bản chất của sao Tử Vi cũng vậy. Nếu ở những vị trí
miếu, vượng thì Tử Vi là một ông Vua đức độ, được thêm hiền thần (cát tinh) phò
trợ thì chắc chắn là một minh quân. Ngược lại nếu ở vị trí hãm địa hay bị bọn
gian, nịnh thần (ám tinh, hung tinh) vây quanh thì đương nhiên sẽ trở thành một
hôn quân. Nhưng cũng có một vài vị Vua tuy sa cơ thất thế, lạc vào hãm địa
nhưng lại không trở thành xấu xa mà chỉ có khuynh hướng chán mùi trần thế, muốn
bỏ đời tìm đạo. Đó chính là nét đặc thù của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Hay cũng
có thể gọi là mẫu người Nửa Đời Nửa Đạo.
Trước tiên chúng ta thử tìm xem
những nguyên nhân nào đã khiến cho bộ Tử Tham khi cư ở Mão Dậu lại trở thành
tốt không tốt hẳn, mà xấu cũng không xấu hẳn như vậy? Hai cung Mão và Dậu là
hai vị trí không tốt cho sao Tử Vi. Cũng tại hai vị trí này Tử Vi gặp Tham Lang
hãm địa. Tuy là đế tinh nhưng nằm ở nơi bất lợi cho nên Tử Vi mất hết uy lực
nên dễ đưa đến khuynh hướng chán đời., yếm thế, và hay có cái nhìn nghiêng
nhiều về lãnh vực tâm linh. Muốn tìm sự yên ổn cho tâm hồn nơi tôn giáo.
Đi xa hơn, chúng ta hiểu rằng khi
nói về phương vị trong khoa Tử Vi thì cung Mão là phương Đông, là hướng của mặt
trời mọc, là biểu tượng ban mai. Cung Dậu là phương Tây, là hướng mặt trời lặn,
là biểu tượng của hoàng hôn. Hai cung Mão và Dậu là hai thời điểm bắt đầu và
chấm dứt của một ngày, cũng là biểu tượng của sự sớm nở tối tàn, sớm nắng chiều
mưa, và chính những biểu tượng này đã góp phần vào khuynh hướng bi quan, yếm thế
cho Tử Vi tại hai cung Mão Dậu.
Ngược lại, bản tánh của Tham Lang là
ham vui, thích sự náo nhiệt ồn ào trong cuộc sống. Khi hãm địa thì sự ham thích
danh lợi của Tham Lang lại càng mạnh mẽ hơn và ba chữ "Tham, Sân, Si"
đều có đủ. Chữ "Tham" dẫn đầu để lôi kéo quyến rũ Tử Vi vào vòng lẩn
quẩn của thế tục.
Như vậy, chúng ta có thể nói đây là
nét đặc biệt của mẫu người Tử Tham Mão Dậu. Nhưng chúng ta cũng nên phân biệt 2
mẫu người sau đây:
1.Mẫu người có khuynh hướng về tôn
giáo mạnh hơn những người khác khi còn nhỏ, giống như một bản tính trời sinh.
Đó là trường hợp chúng ta thấy những đứa bé lúc nhỏ theo cha mẹ đến chùa, nhà
thờ, hoặc tham dự những lễ lạt, thờ cúng, v.v...Có những em bé làm theo như bổn
phận, nhưng cũng có những đứa bé lại có ý thích thú, tự ý học thuộc kinh sách,
tự ý đến chùa, đến nhà thờ để tham dự những sinh hoạt một cách tích cực... Và
dần dần cái ý tưởng về tôn giáo ngày càng rõ ràng hơn những đứa bé khác cùng
trang lứa... Khi lớn lên, tùy theo mỗi hoàn cảnh trải qua trong cuộc sống, nội
tâm của họ phải chịu sự giằng co giữa đời và đạo khiến cho họ nhìn đời mà ít
khi thấy màu hồng.
Và tùy theo mức độ hướng về đời hay
đạo, bên nào mạnh hơn, có nghĩa là còn tùy theo sự ảnh hưởng của các sao đi
cùng với chính tinh Tử Tham. Có người thể hiện khuynh hướng tôn giáo một cách
tiêu cực như thích làm việc xã hội, bỏ công bỏ của ra làm việc từ thiện, hoặc
tích cực hơn thì đó là những người tu tại gia, và hơn thế nữa thì theo con
đường tu hành ngay từ khi còn bé.
Những biến chuyển này đều do tính trung
hậu, phúc đức của Tử Vi mà ra. Nhưng ở Mão và Dậu, oái ăm thay Tử Vi lại ngồi
chung với Tham Lang hãm địa. Đây là hình ảnh cho một cuộc đời khổ não. Bởi vậy
dù đã bước vào con đường tu hành nhưng nợ trần vẫn chưa dứt.
2.Mẫu người Tử Tham Mão Dậu là lúc
khởi đầu của cuộc đời, họ hoàn toàn chưa có một ý niệm mạnh mẽ gì về tôn giáo
cả. Nhưng đến một lúc nào đó họ bị vấp ngã để rồi chính những sự đau đớn chua
cay ở đời đã dẫn dắt họ đến với đạo. Nhưng vào được với đạo hay không thì còn
tùy vào các sao đi cùng Tử Tham. Chẳng hạn nếu gặp Không Kiếp thì khả năng và
sác xuất tu hành rất cao. Nếu gặp Xương, Khúc thì tâm còn vướng nặng chuyện của
trần tục cho nên khó mà tu thành.
Ngoài ra nếu không đề cập đến phương
diện tâm linh thì cuộc đời của những người Tử Tham Mão Dậu cũng ba chìm bảy
nổi, thành bại thất thường từ cuộc sống vật chất cho đến vấn đề tình cảm lúc
nào cũng đòi hỏi ở đương số một sự phấn đấu. Nhưng cuộc đời cũng buồn nhiều hơn
vui, ít khi được xúng ý toại lòng.
Tóm lại: Mẫu người Tử Tham Mão Dậu có
một nét đặc biệt là có lòng tín ngưỡng rất mạnh ngay từ khi còn bé. Cuộc sống
của họ bị giằng co giữa đời và đạo, điển hình như những người tu tại gia, tu
xuất v.v... Điểm này có phần giống những người có Thiên Không thủ Mệnh, là
những người tuy không bi quan, yếm thế như Tử Tham Mão Dậu mà họ chỉ hướng về
tôn giáo mỗi khi gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị vấp ngã, hay lưng trời gãy
cánh (bán thiên triết sĩ).
MẪU NGƯỜI
“TỲ
HÀ NGỌC - CỰ KỴ”
*
Tâm lý chung của nhiều người khi
nghiên cứu về khoa Tử Vi là thường chỉ chú tâm đến những bộ sao chính như Tử
Phủ Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham hoặc Cơ Nguyệt Đồng Lương v.v... Thật ra những
cách đơn giản như Cự Kỵ, hoặc các bộ sao nhỏ như Thai Phục Vượng Tướng mà chúng
ta sẽ bàn đến cũng cho chúng ta thấy một số mẫu người có những nét rất đặc biệt
trong cuộc đời, nếu không muốn nói là những cách, những bộ sao nhỏ này đôi khi
còn ảnh hưởng sâu đậm hơn và chi phối mạnh mẽ hơn trên cuộc đời của đương số.
Và trước khi phác họa những nét đặc biệt cũng như những điểm giống nhau và khác
nhau của hai mẫu người Cự Kỵ và mẫu người Thai Phục Vượng Tướng, chúng ta hãy
bàn qua bản chất của mỗi sao trong hai cách này.
Trước tiên, Cự Môn thuộc nhóm Bắc
Đẩu tinh, hành Thủy, miếu địa ở Mão, Dậu, vượng địa ở Tí, Ngọ và Dần. Về ý
nghĩa thì Cự Môn là cái miệng, và chúng ta đã biết, con người sống cũng nhờ cái
miệng, chết cũng vì cái miệng, được người thương cũng do cái miệng, bị người
ghét cũng bởi cái miệng của mình mà thôi... Ngoài ý nghĩa trên, nếu Cự Môn tọa
thủ tại những vị trí miếu, vượng thì Cự Môn còn là biểu tượng của sự giàu sang,
thông minh, cơ trí, có khiếu ăn nói, có tài hùng biện, thích hợp với các ngành
ngoại giao, giao thiệp, dạy học, luật sư... Chẳng hạn nếu thấy lá số của con
cái mình có cách Cự Hổ Tuế Phù, là gồm các sao Cự Môn, Bạch Hổ, Tuế Phá và
Thiên Phù hội họp với nhau thì nên khuyến khích cho con cái đi vào ngành luật,
vì tương lai chắc chắn sẽ trở thành những luật sư tài giỏi. Nhưng ngược lại,
nếu Cự Môn rơi vào những nơi hãm địa thì đã không tài giỏi lại thiếu suy nghĩ,
cứ mở miệng ra là bị người ta ghét và suốt đời chỉ gặp toàn là những chuyện thị
phi khẩu thiệt mà thôi.
Ý nghĩa thứ hai, Cự Môn là viên
ngọc. Chẳng hạn, Cự Môn ở Tí Ngọ là cách Thạch Trung Ẩn Ngọc, có nghĩa là ngọc
còn ẩn trong đá, Cự Môn gặp Thái Dương là cách Cự Nhật, là ngọc lấp lánh dưới
ánh mặt trời, và Cự Môn gặp Hóa Kỵ là cách Cự Kỵ mà chúng ta đang bàn đến, còn
gọi là Tì Hà Ngọc, có nghĩa là ngọc bị tì vết.
Sao thứ hai của cách này là Hóa Kỵ,
một ám tinh với nhiều tính xấu như độc hiểm, ích kỷ, ghen tuông, tai tiếng, thị
phi, kiện cáo, tai họa, bệnh tật, nông nổi và hay lầm lẫn... Với bản chất như
vậy, cho nên Hóa Kỵ đã làm cho viên ngọc Cự Môn thành tì vết, nhưng Hóa Kỵ cũng
có một điểm tốt là giữ được của.
Cách Cự Kỵ không có gì đáng nói đối
với nam mệnh, ngoài những nét tổng quát là cuộc đời nhiều thất bại, lại thường
hay bị nhiều điều thị phi khẩu thiệt, tai nạn về xe cộ hay sông biển, mà cách
này chỉ đáng lưu ý hơn đối với nữ mệnh. Khi gọi cách Tì Hà Ngọc thì chữ ngọc
hàm ý chỉ vào phái nữ, hay nói rõ hơn là vấn đề trinh tiết, phẩm hạnh của một
người đàn bà, cho nên mẫu người Cự Kỵ mà chúng ta nói đến là bàn nhiều đến lá
số của những người đàn bà có cách Cự Kỵ.
Khi lá số của một nữ mệnh có Cự Môn
tọa thủ và có Hóa Kỵ đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì ít nhiều cũng có
điểm bất lợi. Ở đây chúng ta phải lưu ý một điều là khi luận đoán một lá số của
nữ mệnh mà có những cách như Cự Kỵ, Tham Kỵ, Đào Kỵ hay Thai Phục Vượng Tướng
mà chúng ta sẽ đề cập tiếp theo, thì sự cân nhắc nặng nhẹ phải hết sức thận
trọng, vì vấn đề sẽ liên quan đến danh tiết và phẩm hạnh của một người đàn bà.
Do đó, chúng ta nên phân biệt rõ ràng mỗi trường hợp sau đây.
Trường hợp lá số của một người đàn
bà mà cung Mệnh có Cự Môn miếu vượng tọa thủ và gặp Hóa Kỵ, chúng ta phải quan
sát thêm ở cung Mệnh và các cung chính khác như cung Thân, cung Phúc, cung Phu,
cung Quan, cung Nô... để xem nếu có những sao xác định nết đoan chính như Thái
Dương, Tứ Đức... hoặc những sao khắc chế tính lẳng lơ như Hóa Khoa, Thiên
Hình... thì Cự Kỵ ở đây nhẹ là những người thường hay gặp các hoàn cảnh khiến
cho mình bị những tai tiếng thị phi hoặc dễ bị người khác hiểu lầm, đánh giá
sai lầm phẩm hạnh của mình mà có những lời nói, cử chỉ xúc phạm, sách nhiễu
tình dục (sexual harassement). Mức độ nặng hơn, nếu gặp những sao như Thiên
Hình, Kiếp Sát... thì có thể vì bệnh tật mà phải mổ xẻ, như cắt bỏ buồng trứng,
tử cung v.v... Hoặc có thể là những tai nạn về xe cộ và đáng kể nhất là những
tai họa về sông biển như một số người đã gặp trên đường vượt biển trong những
năm về trước. Như vậy, trong trường hợp này, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc vốn
là một viên ngọc sáng, nhưng vì hoàn cảnh mà rơi xuống bùn nên vấy bùn, hoặc bị
lăn xuống đường nên có tì vết, đó là ngoài ý muốn, là tai nạn của đương số mà thôi.
Trường hợp nếu Cự Môn tuy là miếu,
vượng mà gặp Hóa Kỵ, lại còn được sự hỗ trợ của các sao có tính lãng mạn, như
Văn Xương, Văn Khúc, Hồng Loan hoặc lẳng lơ, ham chuộng vật chất, nặng phần
tình dục như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu v.v... thì những gì không tốt xảy
ra cho đương số là do bản tính chứ không phải là những rủi ro, tai nạn, và hoàn
cảnh chỉ là những trợ lực thúc đẩy thêm mà thôi. Chẳng hạn, nữ mệnh có cách Cự
Kỵ lại gặp thêm Đào Hồng thì làm sao mà giữ được trinh tiết cho đến ngày lên xe
hoa, và khi đã có gia đình thì một đời cũng đau khổ vì tình hoặc phải lo buồn
vì chồng con, dù cho họ có một cuộc sống vật chất đầy đủ, dù cho họ cũng có địa
vị trong xã hội, là những mệnh phụ phu nhân... Trường hợp này có thể ví như mẫu
người của Vương Thúy Kiều, ở cái thời xa xưa đó, với xã hội phong kiến đó, mà
nửa đêm thân gái một mình vào nhà Kim Trọng đánh đàn, thì làm sao trách được sự
đánh giá nghiêm khắc của người sau: Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm. Và như
vậy, viên ngọc của cách Tì Hà Ngọc trong trường hợp này là một viên ngọc vốn đã
có vết, có bọt ngay từ trong lòng đất, chứ không phải do tay người dũa ngọc hay
người chủ của viên ngọc.
Trường hợp nữ mệnh có Cự Môn hãm địa
tọa thủ mà không được Tuần, Triệt án ngữ hay được các sao "đoan
chính" hóa giải phần nào thì đây là một mẫu người đặc biệt. Là mẫu người
có một bề ngoài mà ai mới gặp cũng thấy yêu thích, nhưng khi tiếp cận lâu dài
thì mới thấy rõ con người thật được che đậy vốn là một người đàn bà chua ngoa,
ghen tương, đố kỵ đủ điều... Và nếu đi kèm với một ám tinh Hóa Kỵ nữa thì ba
chữ Tì Hà Ngọc thật là đúng nghĩa!
Khoa Tử Vi cũng cho rằng, cách Cự Kỵ
dù tọa thủ tại cung Mệnh hay các cung chính yếu khác như cung Phúc Đức, cung
Quan Lộc, cung Tài Lộc hay cung Phu Thê cũng còn nói lên sự bất ổn trong cuộc
sống tình cảm của đương số. Lá số có cách Cự Kỵ một đời khó lòng chỉ có một mối
tình hay chỉ một cuộc hôn nhân, chuyện gãy đổ, chắp nối hay sống với nhau theo
kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng là chuyện bình thường của mẫu người này, nếu
không được những sao hóa giải. Các trở ngại hay đổ vỡ trong tình cảm thường là
do sự khắc khẩu, ảnh hưởng của Cự Môn, và tính ghen tuông cũng như lòng ích kỷ
quá nặng, ảnh hưởng của Hóa Kỵ.
Tóm lại, cách Cự Kỵ không tốt cho cả nam mệnh và nữ mệnh,
nhưng đối với nữ mệnh thì sự ảnh hưởng nặng nề và tai hại hơn trong lãnh vực
trinh tiết và phẩm hạnh của đương số. Nói chung, nữ mệnh mà gặp cách Cự Kỵ thì
cuộc đời chắc chắn là một kiếp phong trần, chỉ khác nhau ở mức độ nặng nhẹ mà
thôi. Nhưng ở đây, chúng ta đừng quên một trường hợp đặc biệt, cách Cự Kỵ lại
rất tốt cho những người tuổi Quý và tuổi Thân, khoa Tử Vi Đẩu Số gọi là phản vi
kỳ cách, có nghĩa là từ xấu trở thành tốt vì có
MẪU NGƯỜI
“NHẬT
NGUYỆT ĐỒNG LÂM”
*
Nhật là Thái Dương, là mặt trời.
Nguyệt là Thái Âm, là mặt trăng. Hai vầng Nhật Nguyệt là 2 trong 14 chính tinh
của khoa Tử Vi. Những đặc tính của Nhật Nguyệt rất thực tế. Mặt trời là nguồn
năng lượng lớn nhất đối với qủa đất của chúng ta cho nên người có Thái Dương
thủ Mệnh là người rất năng động. Dù nam hay nữ tính tình cũng có phần nóng nảy.
Từ cổ chí kim mặt trăng luôn là
nguồn cảm hứng bất tận cho các thi nhân cho nên người có Thái Âm thủ Mệnh
thường mang tính đa sầu, đa cảm. Chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn bản chất của
mỗi sao trước khi có cái nhìn khái quát về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
Thái Dương thuộc nam đẩu tinh, hành
Hỏa, miếu địa ở Tỵ, Ngọ tức là mặt trời vào lúc giữa trưa, và vượng địa ở Dần,
Mão, tức là mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí trên, Thái Dương chủ về sự thông
minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương rất hợp với người Dương
Nam, Dương Nữ, và những người sinh vào ban ngày.
Thái Âm thuộc bắc đẩu tinh, hành
Thủy, miếu địa ở Dậu, Tuất, Hợi, là lúc mặt trăng tỏa sáng nửa đêm, vượng địa ở
hai cung Thân (lúc trăng mới mọc), và Tí (lúc trăng sắp tàn)
Ở những vị trí miếu vượng, Thái Âm
là sự nhân từ, tánh đa sầu, đa cảm và lãng mạn, có khiếu về văn chương, nghệ
thuật. Đồng thời Thái âm cũng chủ sự giàu có về điền sản như nhà cửa, đất
đai...Thái Âm đặc biệt phò trì cho người Âm Nam, Âm Nữ, những người mạng Mộc,
Thủy, và người sinh vào ban đêm, nhất là sinh vào những đêm trăng tròn 15, 16
thì càng tuyệt hảo.
Trong cơ thể, Nhật Nguyệt tượng
trưng cho đôi mắt. Trong gia đình, Thái Dương là ông, là cha, là chồng, Thái Âm
là bà, là Mẹ, là vợ...Điều này rất rõ khi cung hạn có Nhật hay Nguyệt tọa thủ
thì những gì xảy ra trong hạn đó không những là cho chính bản thân của mình mà
còn nói lên những sự việc xảy ra cho chồng, cho vợ, cha mẹ, ông bà của đương số
nữa. Sự biểu tượng này cũng nói lên tình cảm hay sự gần gũi mật thiết trong
cuộc sống giữa người con đối với cha hay mẹ. Chẳng hạn, khi chúng ta thấy lá số
của một người có Thái Dương thủ Mệnh thì người này chịu ảnh hưởng tánh tình của
cha nhiều hơn, có thể sẽ nối nghiệp cha, hoặc có thể vì hoàn cảnh, đương số sẽ
sống gần gũi và hợp với cha nhiều hơn là với mẹ.
Khi nói đến hai sao Nhật Nguyệt,
khoa Tử Vi có một nguyên tắc mà chúng ta thường nghe là: "Chính bất như
chiếu" nghĩa là: Nhật Nguyệt chiếu Mệnh tốt hơn thủ Mệnh. Điều này nghĩ
cũng hợp lý, rất thực tế. Chẳng hạn như chúng ta đặt một ngọn đèn ngay trước
mặt mà đọc sách thì ánh sáng chiếu trực tiếp vào mắt sẽ làm cho mắt bị chói và
mau mỏi mệt hơn là để ngọn đèn chiếu lên chụp đèn, hay chiếu vào tường rồi phản
chiếu vào trang sách.
Chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn khi đi
sâu vào trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung. Trong 12 cung của lá số, bộ Nhật
Nguyệt chỉ đồng cung ở hai vị trí Sửu, Mùi tạo nên một mẫu người khá đặc biệt
gọi là mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
Nhật Nguyệt Đồng Lâm cũng giống như
hiện tượng Nhật Thực, Nguyệt Thực. Nghĩa là trong một khoảng thời gian nào đó,
mặt trời, mặt trăng, và trái đất cùng ở một đường thẳng. Như chúng ta đã thấy,
khi Nhật Thực hay Nguyệt Thực thì mặt trăng che mặt trời hoặc mặt trời che mặt
trăng, cho nên ánh sáng mờ mờ ảo ảo, ngày chẳng ra ngày, đêm cũng không giống
đêm. Đó chính là nét đặc thù đầu tiên của mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm.
"Những người bất hiễn công danh
Cũng bởi Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu
Mùi."
Ý nghĩa thật qúa rõ ràng: Những
người có Mệnh an tại Sửu/Mùi, có Nhật Nguyệt tọa thủ thì một đời công danh cũng
như sự nghiệp khó lòng được như ý. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt mà
chúng ta sẽ bàn đến sau.
Mệnh an tại Sửu/Mùi có Nhật-Nguyệt
đồng thủ, mặc dù không phải là những vị trí miếu vượng của Nhật-Nguyệt nhưng
cũng là người khá thông minh vì đó là bản chất thuần túy của vầng Nhật-Nguyệt.
Tuy nhiên vì hai nguồn ánh sáng nằm cùng với nhau cho nên Nhật-Nguyệt tự che
lấy ánh sáng của nhau như đã nói ở trên. Vì vậy người Nhật Nguyệt Đồng Lâm có
trí nhớ kém và thường hay có những quyết định lầm lẫn, mãi cho đến khi việc đã
xong, quay mình nhìn lại thì mới thấy ân hận tại sao lúc đó mình làm như vậy.
Nhật-Nguyệt là biểu tượng của ngày và đêm, và cũng là biểu tượng của Âm và
Dương trong vũ trụ cho nên người có NN thủ hay chiếu Mệnh thường có năng khiếu
về ngành điện tử, điện toán, vi tính v.v...
Nhật - Nguyệt đồng cung cũng như
Nhật Thực, Nguyệt Thực là khoảng thời gian mà ánh sáng và bóng tối hòa lẫn với
nhau, trắng đen lẫn lộn, và như chúng ta thường gọi là lúc tranh tối tranh
sáng. Bởi thế, người Nhật Nguyệt Đồng Lâm thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị những
chứng nhức đầu kinh niên, căng thẳng thần kinh, dễ bị xúc động, và chắc chắn
một điều là hai mắt kém, có nhiều bệnh tật khi còn bé.
Riêng đối với phái nữ, người Nhật
Nguyệt Đồng Lâm mỗi lần có kinh nguyệt thường bị đau bụng dữ dội hơn những
người khác. Và họ thường hay bị những chứng bệnh mà đông y gọi là bệnh khí
huyết.
Nếu nói như vậy, Mệnh có Nhật-Nguyệt
đồng thủ tại Sửu/Mùi thì đây không phải là một cách tốt, ngoại trừ những trường
hợp đặc biệt như sau:
1.Mệnh có Nhật Nguyệt tọa thủ tại
Sửu/Mùi mà có Tuần án ngữ, và được các văn tinh như Xương Khúc, Khôi Việt,
Quang Quí, Thai Tọa, Đào Hồng Hỷ hội hợp thì trở nên tốt. Đây là số của những
nhà văn, nhà thơ, nhà báo, những người làm ngành truyền thông, hay là giới văn
nghệ sĩ danh tiếng và có địa vị trong giới văn chương, nghệ thuật.
2.Mệnh có Nhật Nguyệt đồng thủ tại
SửuMùi, có Hóa Khoa, Hóa Lộc đồng cung hay xung chiếu, hay hợp chiếu thì lại trở
nên tốt đẹp. Công danh sự nghiệp vững vàng, có quyền cao chức trọng trong xã
hội.
Tóm lại, ngoài hai trường hợp vừa
nêu trên, Nhật Nguyệt Đồng Lâm ở Sửu/Mùi thì cuộc đời cũng được cơm no áo ấm
nhưng đây là mẫu người bất đắc chí, có khả năng mà không gặp được thời vận điển
hình như nhà thơ Tú Xương ngày trước.
Cũng là Nhật-Nguyệt đồng cung, nhưng
đúng với nguyên tắc căn bản mà chúng ta đề cập ở trên "Nhật Nguyệt chiếu
Mệnh tốt hơn thủ Mệnh" Như vậy nếu Mệnh an ở Sửu được NN đồng cung ở Mùi
xung chiếu thì chắc chắn tốt hơn Nhật-Nguyệt tọa thủ tại Mệnh. Và phú Tử Vi
cũng khẳng định điều này: "Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu, hầu bá chi
tài." Trong trường hợp này nếu Mệnh có Tuần án ngữ để giữ ánh sáng của
Nhật-Nguyệt, và có Hóa Kỵ thủ Mệnh như vầng mây ngũ sắc làm tăng thêm độ sáng
cho Nhật-Nguyệt. Được cách này, công danh phú quý càng rực rỡ và bền vững hơn.
Như vậy, khi nói đến mẫu người Nhật
Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta phải phân biệt 2 trường hợp. Nếu Nhật-Nguyệt đồng thủ
Mệnh thì cuộc đời được mô tả khái quát như câu: "Những người bất hiển công
danh, cũng vì Nhật-Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi" Nếu Nhật-Nguyệt đồng cung
xung chiếu Mệnh thì công danh sự nghiệp chắc chắn sẽ trong tầm tay.
Nhưng cho dù ở trường hợp nào thì
mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm giống nhau ở chổ mắt yếu, nhức đầu kinh niên,
thần kinh dễ rối loạn, trí nhớ kém, phái nữ thường bị đau bụng dữ dội khi hành
kinh. Năng khiếu nổi bật nhất của họ là văn chương và nghệ thuật.
MẪU NGƯỜI
“THAI
PHỤC VƯỢNG TƯỚNG”
*
Trong khoa Tử Vi Đẩu Số, "Thai
Phục Vượng Tướng" chỉ là một bộ sao nhỏ, gồm các sao: Thai, Phục Binh, Đế
Vượng, Tướng Quân hay Thiên Tướng. Trong cơ thể, sao Thai chỉ bộ phận sinh sản
của đàn bà, cũng có nghĩa là bào thai, là sự sinh đẻ, là vấn đề sinh lý, tình
dục, một cấu tạo mới hay sự thay đổi mới. Phục Binh chỉ sự lừa gạt, dối trá, âm
mưu, gài bẫy, hãm hại. Đế Vượng có nghĩa là cái lưng, là số nhiều, là sự hưng
thịnh, phát đạt. Đế Vượng còn chỉ sự sinh sôi nảy nở, sự canh cải mới mẻ. Thiên
Tướng/Tướng Quân trong cách này hàm ý nghĩa là người đàn ông.
Bộ Thai Phục Vượng Tướng không có ý
nghĩa gì nhiều về công danh, sự nghiệp hay giàu sang phú quý, và cũng không có
gì đáng nói với nam giới. Đối với nữ giới, bộ sao này rất là quan trọng. Thai
Phục Vượng Tướng cũng phần nào giống như bộ Cự Kỵ, hay Tham Kỵ, nói lên bản
tánh, những biến cố, cũng như những khúc quanh quan trọng về mặt tình cảm, hay
khuynh hướng tình dục trong cuộc đời của một người, đặc biệt là phụ nữ. Vì vậy
chúng ta phải rất thận trọng và cân nhắc khi thấy một lá số nữ mệnh có cách
Thai Phục Vượng Tướng. Bởi vì lời giải đoán là sự đánh giá về danh tiết và phẩm
hạnh của đương số. Điều đó đối với một người đàn bà tối ư quan trọng.
Trường hợp nữ mệnh có Thai Phục
Vượng Tướng nằm trong các cường cung như Mệnh, Tài, Quan, Phúc, Di, Thê mà
chính cung có những sao chủ sự đoan chính, hay những sao có khả năng khắc chế
tính lãng mạn, dâm đãng, lẳng lơ, sự buông thả trong vấn đề tình dục, thì lá số
đó sẽ có 2 trường hợp:
1."Tiền Dâm Hậu Thú" có
nghĩa là ăn ở với nhau trước rồi mới cưới hỏi sau. Với nhịp sống của một xã hội
tân tiến hôm nay thì vấn đề này trở nên hết sức bình thường. Nhưng nếu ngược
trời gian trở về một thế kỷ trước đây thì qủa là một điều khó có thể chấp nhận
được. Điều lý thú là khoa Tử Vi có thể nói lên những điều thầm kín ấy một cách
khá chính xác.
2.Sao Thai, Phục Binh nói lên sự hư
thai, Đế Vượng ý nói nhiều lần. Đương số có thể gặp cả hai trường hợp nêu trên.
Cũng cách Thai Phục Vượng Tướng
nhưng Mệnh và các cung chính lại không có những sao khắc chế, ngược lại có thêm
những dâm tinh khác như Tham Lang, Đào Hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục...đồng thủ hay
hợp chiếu thì đương số sẽ thất trinh, thất tiết với người khác khi lấy chồng,
hoặc sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng, chứ không có cưới hỏi
gì.
Trường hợp nữ Mệnh gặp cách Thai
Phục Vượng Tướng mà cung Mệnh và những cung chính bị nhiều sát tinh như Địa
Không, Địa Kiếp đồng cung hay hợp chiếu thì sự thất tiết có thể là do hoàn cảnh
hay tai nạn ngoài ý muốn. Không hẳn đương số là hạng đàn bà lẳng lơ mất nết.
Trường hợp có sao Thai thủ Mệnh,
nhưng không đủ 4 sao mà Thai lại gặp Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ đồng cung
hoặc hợp chiếu thì ý nghĩa ở đây không những chỉ đơn thuần vấn đề ăn ở với nhau
trước khi cưới hỏi mà còn chỉ bản tánh lẳng lơ, mất nết, thích chuyện ngoại
tình, cho nên phú Tủ Vi mới có câu:
"Đào Hồng mà ngộ sao Thai
Tiền dâm hậu thú mới ra vợ
chồng."
hay
"Đồng Hồng mà ngộ sao Thai
Chồng vừa khỏi cửa đón trai vào
nhà"
Trường hợp nữ mệnh có Thai Phục
Vượng Tướng mà sao Thai cùng với những dâm tinh khác tọa thủ tại Mệnh, mà đương
số đã có gia đình thì sẽ có thai do ngoại tình. Nếu Thai gặp Song Hao thì dễ bị
hư thai, gặp Lưu Hà hay Hóa Kỵ thì dùng thuốc mà phá thai, hặp Thiên Hình hay
Kiếp Sát thì nạo thai, hay khi sanh phải bị mổ xẻ.
Nếu Thai tọa thủ tại Mệnh có Thiên
Riêu đồng cung hay hợp chiếu thì đây cũng là mẫu đàn bà có cuộc sống rất buông
thả. Nếu Thai Riêu gặp thêm Đào Hoa nữa thì phải chịu một kiếp phong trần, và
nếu không được những sao khắc chế bớt sẽ dễ trở thành gái giang hồ, đàn bà lăng
loàn, xem thường luân thường đạo lý.
Cũng cách Thai Phục Vượng Tướng mà
có Phục Binh thủ Mệnh hoặc xung chiếu từ Thiên Di thì sự thất trinh của đương
số thường là bị dụ dỗ, cưỡng bức, hay gài bẫy. Nếu có thêm sát tinh Không Kiếp
đồng cung hay hợp chiếu thì càng chắc chắn hơn.
Trường hợp nữ Mệnh không thuộc cách
Thai Phục Vượng Tướng nhưng trong lá số bộ sao này nằm ở một cung nào đó thì
chúng ta cũng nên cân nhắc 2 trường hợp sau đây:
1.Mệnh của đương số là người đoan
chính, đến hạn gặp Thai Phục Vượng Tướng thì vấn đề sinh con đến trong hạn này.
2.Nếu Mệnh là người đa tình, lãng
mạn mà hạn gặp Thai Phục Vượng Tướng (phải đủ 4 sao) thì phải nên thận trọng
trong vấn đề giao lưu tình cảm. Trong hạn này (thường ứng nghiệm vào tiểu hạn 1
năm) cuộc đời sẽ có nhiều thay đổi, những khúc quanh trong vấn đề tình cảm, và
có thể khúc quanh này sẽ thay đổi cả cuộc sống hiện tại của đương số.. Và một
điều đáng lưu ý là sự việc không chỉ đơn thuần trên vấn đề tình cảm mà Thai
Phục Vượng Tướng còn có ý nghĩa sâu đậm trên vấn đề xác thịt.
Đối với nam giới thì cách Thai Phục
Vượng Tướng chỉ rõ bản tính đặt nặng vấn đề vật chất hơn tình cảm. Trong tình
yêu, họ cho rằng trái tim và tâm hồn của người yêu chưa đủ, mà phải chiếm đoạt
cho được cả thân xác. Nếu hội thêm những sao như Tham Lang, Phá Quân hãm địa,
Không Kiếp, Quan Phù, Quan Phủ...thì đương số chắc chắn là bà con của họ Sở.
Tóm lại, trong cách Thai Phục Vượng
Tướng, đặc biệt đối với phụ nữ thì nói lên sự chủ ý hay tự nguyện của đương số
nặng hơn là vì hoàn cảnh, hay tai nạn như cách Cự Kỵ. Nhìn chung, mẫu người
Thai Phục Vượng Tướng có thể bao gồm mọi thành phần, mọi giai cấp trong xã hội,
từ một người đàn bà tầm thường cho đến một mệnh phụ phu nhân, vì đây chỉ là
lãnh vực tình cảm hay khuynh hướng tình dục, là vấn đề phẩm hạnh của con người.
MẪU NGƯỜI
“KHỐC
HƯ”
*
Thiên Khốc và Thiên Hư chỉ là hai
sao nhỏ trong những phụ tinh của khoa Tử Vi. Nhưng không phải vì thế mà chúng
không có ý nghĩa gì đáng kể trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy,
con người khi lọt lòng mẹ đã cất tiếng khóc chào đời, khi lớn lên cũng qua
tiếng cười mà biết được niềm hạnh phúc, cũng như tiếng khóc đễ biết được nổi
thống khổ, thành bại ở đời. Khốc Hư là biểu tượng của 2 giọt nước mắt, vì vậy
cho dù bất cứ lãnh vực nào của cuộc đời, khi nói đến sức khỏe, tình duyên, hôn
nhân, tiền bạc, hay công danh sự nghiệp thì sự hiện diện của Khốc Hư cũng cho
ta biết đương số khi nào đi vào những lãnh vực này, con đường với những nụ cười
thoải mái hay con đường đầy nước mắt thương đau.
Chẳng hạn, chưa nói đến khốc hư tọa
thủ tại Mệnh mà chỉ nói đến Khốc Hư tọa thủ tại cung Quan Lộc thì cũng hiểu
được công việc làm của đương số phải vất vả, lận đận, ba lần bại mới được một
lần nên. Cùng một ngành nghề nhưng người có Khốc Hư ở Quan Lộc phải lao tâm khổ
lực hơn những người không có. Nếu Khốc Hư ở Tài Lộc thì đồng tiền kiếm được
chắc chắn phải đổi bằng nhiều mồ hôi và nước mắt. Khốc Hư ở Phu Thê thì việc
hôn nhân phải trải qua nhiều trở ngại, nếu ăn ở với nhau rồi thì nước mắt cũng
nhiều hơn là nụ cười. Khốc Hư ở cung Tử Tức thì cha mẹ nuôi con rất cực khổ,
đến khi con lớn lên lại phải gánh chịu nhiều phiền muộn vì con cái. Khốc Hư ở
Nô Bộc thì từ bạn bè đến kẻ ăn người ở, và cả người tình của mình đều thường
xuyên đem đến những phiền muộn cho mình trong việc giao tế, làm ăn và chuyện
tình cảm.
Thiên Khốc, Thiên Hư đều thuộc hành
Thủy, đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu, và Mùi. Là biểu tượng của 2 giọt nước mắt,
cho nên người có Khốc Hư thủ Mệnh thường hay lo lắng, hay suy tư, và cũng rất
hay bị đau ốm bệnh tật. Đây là mẫu người kín đáo và có phần cô đôc tựa như Vũ
Khúc hay Đẩu Quân thủ Mệnh vậy. Lúc còn sống trong gia đình thì khắc với cha
mẹ, anh em. Khi có gia đình thì khắc với vợ con, nhưng sự xung khắc không đến
nổi trầm trọng. Người KH nếu chưa qua khỏi tiền vận thì đừng nên toan tính
nhiều để rồi thất vọng. Muốn được xứng ý toại lòng phải từ trung vận trở về
sau.
Tuy nhiên, nếu trên cương vị một
người chủ hay một cấp chỉ huy thì mẫu người KH thủ Mệnh là một cấp thừa hành
tốt vì họ là người có tinh thần trách nhiệm. Giao việc cho họ, chúng ta sẽ thấy
họ lo lắng, suy nghĩ, soạn thảo kế hoạch, đắn đo cân nhắc rất thận trọng. Và
khi đã làm thì làm đến nơi đến chốn.
Nhưng oái oăm thay, với tinh thần
làm việc như thế mà ít khi người Khốc Hư đạt được kết qủa một cách dễ dàng ngay
từ phút đầu tiên. Vì thế khoa Tử Vi gọi mẫu người Khốc Hư là "Tiền Trở Hậu
Thành" Có nghĩa là thường bị trở ngại lúc đầu rồi sau đó mới thành công.
Tuy nhiên đặc tính Tiên Trở Hậu Thành chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trong tiền vận mà
thôi, rồi sau đó sự tác hại sẽ nhẹ dần. Về đặc tính này, người Khốc Hư có phần
nào giống người Vô Chính Diệu: trong một hạn, dù tiểu hay đại hạn, và trong cả
một đời người, chỉ được may mắn, hanh thông vào nửa đời sau mà thôi.
Có phải chăng vì vậy mà người Khốc
Hư rất có ý chí, luôn luôn có gắng để vươn lên trong mọi tình huống. Khi vượt
qua khỏi cái tiền vận gian nan sẽ bước vào một hậu vận tốt đẹp hơn. Điểm nổi
bật của người Khốc Hư là khả năng thuyết phục người khác, có tài hùng biện và
rất sắc bén trong lĩnh vực chính trị. Nếu Khốc Hư đi chung với Cự Nhật hay Tang
Hổ thì đây là những thầy giáo giỏi, những nhà ngoại giao hay chính khách có
tài.
Khốc Hư có hai vị trí tốt đẹp là hai
cung Tí và Ngọ mà chúng ta quen gọi là Khốc Hư Tí Ngọ là cách tiền bần hậu phú.
Nếu Mệnh an tại Tí/Ngọ có Khốc Hư đồng cung (ờ Tí tốt hơn Ngọ) thì cuộc đời
trước nghèo sau giàu. Sự thay đổi ở vào thời điểm nào, nhanh hay chậm còn tùy
thuộc vào toàn bộ lá số.
MẪU NGƯỜI
“VĂN
TINH ÁM CỦNG”
*
Khoa Tử Vi Đẩu Số đã có từ hơn 4000
năm nay cho nên những ý niệm cũng như cách sắp xếp các sao đều đặt căn bản trên
một xã hội phong kiến. Mỗi sao là một biểu tượng. Có sao biểu tượng cho một vị
Vua như Tử Vi, có sao biểu tượng cho quan văn như bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương, cho
quan võ như Sát Phá Liêm Tham, cho giới sĩ phu như Xương Khúc, Khôi Việt, Hổ
Tấu v.v... Đặc biệt hai sao Văn Xương, Văn Khúc được gọi là văn tinh, biểu
tượng cho văn cách của học vấn và khoa bảng.
Văn Xương là bắc đẩu tinh, hành kim,
còn có tên là Văn Quế, chủ về văn học và sự cao quý. Văn Khúc là nam đẩu tinh,
hành thủy, có tên là Văn Hoa, chủ về nghệ thuật và sự sinh đẹp. Cả hai đều đắc
địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi. Khi đắc địa Xương khúc chủ về công danh
qua con đường khoa bảng. Những người Mệnh có Xương Khúc tọa thủ đồng cung, xung
chiếu hay hợp chiếu thì khoa Tử Vi gọi là cách Văn Tinh Ám Củng.
Đây mà mẫu người thông minh và hiếu
học, có năng khiếu đặc biệt về văn chương, thi phú, ca nhạc, kịch, điêu khắc,
hội họa...nói chung là lĩnh vực văn học và nghệ thuật. Cho nên Xương Khúc đắc
địa mà gặp thêm Đào Hồng Hỷ hoặc Long Phượng Tuế Tấu thì đây là số của những ca
nghệ sĩ , tài tử điện ảnh nổi danh.
Người đắc cách Văn Tinh Ám Củng thường
theo học những khoa về văn chương, nhân văn ngoại ngữ, và nếu toàn bộ lá số
tương đối tốt, họ là những người đạt được bằng cấp cao và đặc biệt là có năng
khiếu về sinh ngữ. Trường hợp Xương Khúc hãm địa thì đường học vấn của họ
thường bị dang dở, nhưng vẫn có năng khiếu về nghệ thuật. Cho nên họ thường là
những người khéo tay. Nếu sinh hoạt trong ngành thủ công như đan, may, thêu,
dệt, thợ bạc, nghề tóc, nails.v.v... thì tuy không giàu có nhưng suốt đời cũng
được cơm no áo ấm.
Đặc biệt đối với nữ mệnh, người có
Xương Khúc dù đắc hay hãm thì cũng là người có nhan sắc, biết cách ăn mặc và
khéo trang điểm. Chữ nhan sắc đây không chỉ nói đến vẻ đẹp trên khuôn mặt mà
còn phải nói đến một thân hình đẹp, nhất là bộ ngực bởi vì Xương Khúc là biểu
tượng của đôi nhủ hoa của người đàn bà.
Tuy nhiên khi nói về nhan sắc của
một người đàn bà qua lá số, chúng ta phải phân biệt cái đẹp của Đào Hoa và cái
đẹp của Xương Khúc khác nhau ở chổ nào. Đào Hoa là nét đẹp lộ hẳn ra bên ngoài,
tất cả vẻ đẹp hầu như đều lộ rõ trên khuôn mặt như một đóa hoa đã nở, cái đẹp
của một khuôn mặt mà khoa tướng mệnh gọi là Đào Hoa Diện, vẻ đẹp trên phương
diện thẫm mỹ, nhưng chưa hẳn đã đẹp dưới cái nhìn của khoa tướng mệnh. Nét đẹp
của Đào Hoa dễ lôi cuốn, khêu gợi, hấp dẫn, dễ thu hút đối phương ngay từ phút
ban đầu. Nhưng khi tiếp xúc lâu hơn, có thể gây cho đối phương một chút thất
vọng nào đó chẳng hạn như ăn nói không có duyên, hời hợt bên ngoài, suy nghĩ
nông cạn, cởi mở qúa trớn hay suồng sã lẳng lơ...
Ngược lại, nét đẹp của Xương Khúc
không loè loẹt phô trương như Đào Hoa. Có thể nói cái nét duyên dáng nhiều hơn
là đẹp. Một người có Xương Khúc thủ Mệnh thì nhan sắc có thể chỉ ở mức trung
bình, nhưng khi tiếp xúc càng lâu thì càng bị thu hút bởi cái duyên ngầm, cái
nét đa tình hấp dẫn, hoặc có thể do những yếu tố khác như sự thông minh, có
kiến thức, và có trình độ học vấn, có chiều sâu tâm hồn, ăn nói khéo léo, tế
nhị, hoặc có một tâm hồn lãng mạn...
Tuy nhiên, nữ Mệnh có Xương Khúc đặc
địa thì ngoài những đặc tính vừa nêu trên, có thể nói đây là mẫu người đàn bà
có một bản năng tình dục rất mạnh, nhưng khác với sự buông thả, lẳng lơ của Đào
Hoa ở chổ họ có thể tự kiềm chế được. Họ chỉ bộc lộ điều này với người yêu hay
vợ chồng của họ mà thôi. Và trong cái khung cảnh của xã hội ngày nay, có lẽ đây
không hẳn là một điều xấu. Có thể nói, đối với những người đàn ông có khuynh
hướng cởi mở trong vấn đề tình cảm thì người đàn bà có Xương Khúc thủ mệnh đúng
là một người tình lý tưởng.
Nhưng trường hợp nữ mênh có Xương
Khúc hãm địa tọa thủ thì khuynh hướng buông thả trong vấn đề tình cảm và tình
dục rất gần với Đào Hoa. Do đó, cuộc đời phải ba chìm bảy nổi và nhiều phiền
muộn với chồng con. Nếu Xương Khúc hãm địa mà lại gặp thêm sát tinh, hung tinh
hội chiếu thì đây là mẫu người đàn bà hình phu khắc tử, có nghĩa là số sát
chồng, hại con.
Nữ Mệnh có Xương Khúc hãm địa và có
Thiên Riêu đồng cung hay hợp chiếu là người mê tính dị đoan, thích những chuyện
đồng bóng. Nếu bộ ba Xương, Khúc, Riêu gặp thêm Hóa Kỵ thì đây là người đàn bà
có bề ngoài rất kiều mị, ai gặp cũng phải động lòng vì nét hấp dẫn và lôi cuốn.
Nhưng bản tính rất dâm đãng, cuộc sống rất phóng túng, buông thả và tuổi thọ
cũng chẳng được bao nhiêu.
Trường hợp Mệnh có Văn Khúc và Vũ
Khúc đắc địa đồng thủ, đây là cách Nhị Khúc Vượng Cung, là người văn võ song
toàn, công danh sự nghiệp rất bền vững. Đặc biệt đối với những người tuổi Giáp
có sự ứng hợp nên càng tốt đẹp hơn những tuổi khác. Mẫu người Nhị Khúc Vượng
Cung thường lúc nào cũng có 2 nghề, hoặc sinh hoạt trong hai lĩnh vự khác nhau
và đối nghịch nhau nhưng bên nào cũng đều đạt mức thành công dễ dàng.
Trường hợp cung Mệnh an tại Tứ Mộ có
Tham Lang và Hỏa Tinh tọa thủ đồng cung, thì đây là cách Tham Hỏa Tương Phùng,
một dạng của cách Tham Vũ Đồng Hành mà chúng ta đã nói đến. Nếu cách này có
thêm Văn Khúc đắc địa đồng cung hay hợp chiếu thì đương số là người có chức
tước và địa vi cao trong xã hội.
Tóm lại mẫu người Văn Tinh Ám Củng
là người rất lý thú khi chúng ta tiếp xúc, kết giao bằng hữu, cộng tác làm ăn,
và cũng là những người tình, người chồng hay người vợ lý tưởng. Nếu Xương Khúc
không nằm trong một lá số qúa tệ thì họ là những người có phong cách, có trình
độ, có chiều sâu tâm hồn. là những nhà văn, nhà thơ, những ca nhạc sĩ nổi
danh...
Riêng đối với phái nữ thì đây là
người có nhan sắc, duyên dáng và đa tình. Thật xứng với cái tên Văn Quế, Văn
Hoa mà khoa Tử Vi thường gọi.
MẪU NGƯỜI
“DỊCH
MÔ
*
Dịch Mã chỉ là một phụ tinh nhưng
lại đóng những vai trò khá quan trọng trong một lá số. Có thể nói từ lá số của
một bậc quân vương, một danh tướng, một thương gia, hay một người bình dân mà
đến thời điểm nào đó trong cuộc đời tạo dựng được những công danh sự nghiệp cho
mình thì hầu như lá số của họ không thể không có sự góp phần của Thiên Mã. Lý
do thật đơn giản vì Thiên Mã là biểu tượng của tài năng. Bởi vậy, một lá số mà
cung Mệnh và cung Thân có Thiên Mã tọa thủ gọi là cách Dịch Mã.
Người ta thường cho rằng Thiên Mã
thuộc hành Hỏa và trong 12 cung của lá số Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung là Dần,
Thân, Tỵ, Hợi, và chỉ đắc địa ở hai cung Dần và Tỵ mà thôi. Trong khoa Tử Vi,
Thiên Mã là biểu tượng của chân tay, hoặc phương tiện di chuyển như xe cộ, tàu
bay, tàu hỏa...
Đặc tính chủ yếu của người Dịch Mã
là tính năng động, tháo vác, đảm đang, quán xuyến, thích di chuyển, thích tranh
cãi, hay thay cũ đổi mới...Vởi những đặc tính ấy cho nên Thiên Mã không chỉ ảnh
hưởng ở hai cung Mệnh và Thân mà nó còn tác động mạnh mẽ vào các cung chính như
Quan Lộc, Thiên Di...là những lãnh vực của công danh và sự nghiệp.
Tuy nhiên khi nói đến mẫu người Dịch
Mã, chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ "dịch" là xê dịch, chuyển
đổi, di chuyển, biến động... do đó cũng có người cho rằng hành của Thiên Mã
thay đổi theo hành của cung mà Thiên Mã tọa thủ. Có nghĩa là, khi Mã tọa thủ ở
Dần (hành Mộc) thì Mã ứng với người mạng Mộc và Hỏa. Ở cung Tỵ thì Mã ứng cho
người mạng Hỏa và Thổ. Khi ở cung Thân thì Thiên Mã ứng với người mạng Kim và
Thủy...v.v. Nhu vậy, khi hành của Thiên Mã ứng hợp với hành của Mệnh thì đương
số là người có tài năng và có hoàn cảnh cơ hội để thi thố hết tài năng của
mình. Còn ngược lại thì tuy có tài, có nghị lực nhưng cuộc đời lại không được
những vận hội may mắn, không được đời biết đến khiến cho tài năng phải bị mai
một như một kẻ sinh bất phùng thời.
Người có Mệnh an ở hai cung Dần Thân
có Tử Phủ và Thiên Mã tọa thủ đồng cung gọi là cách Phù Dư Mã, là ngựa kéo xe
cho Vua chỉ những người có tài năng, giữ những chức vụ cố vấn, phụ tá cho các
cấp chỉ huy của một đơn vị quân đội, hay giám đốc của một cơ sở hành chánh,
thương mại...Hoặc cũng có thể là những người không giữ một chức vụ gì chính
thức nhưng ra đời thường được kề cận với những người có quyền thế trong xã hội.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh và có
Nhật Nguyệt đồng cung hay hợp chiếu là cách Thư Hùng Mã. Một đôi ngựa tốt, chỉ
người văn võ song toàn, nhưng cách này thường phát về văn nghiệp hơn là võ
nghiệp. Đây là mẫu người có kiến thức sâu rộng, có trình độ học vấn, có năng
khiếu về các ngành như ngoại giao, chính trị, văn học và nghệ thuật. Nếu đã đi
vào những lãnh vực vừa nêu trên thì mẫu người Thư Hùng Mã này sẽ đạt được những
công danh sự nghiệp một cách dễ dàng, và có người có thể thành công trên cả hai
lĩnh vực cùng một lúc. Chẳng hạn họ có thể là một nghệ sĩ nổi danh lại vừa giàu
có nhờ làm thương mại. Người Thư Hùng Mã có khả năng song thủ hỗ bác tương tự
như người có Thân cư trong tam hợp Phúc, Di, và Phu Thê.
Người có Thiên Mã gặp Lộc Tồn đồng
cung là cách Chiết Tiễn, có nghĩa là bẻ roi đánh ngựa, giục ngựa lên đường, chỉ
người có tài. Khởi sự làm gì cũng được may mắn thuận lợi. Nếu Thiên Mã ở Mệnh
có Lộc Tồn ở Thiên Di xung chiếu thì đây là cách Lộc Mã Giao Trì, ngựa ăn cỏ
trên cách đồng xanh, là người được vận hội may mắn, được thừa hưởng những công
lao thành qủa của người khác làm. Và theo ý nghĩa của Lộc Tồn là lộc trời cho,
nên cả hai cách vừa nêu trên cũng chỉ những người trở nên giàu có nhờ trúng số,
hoặc được thừa hưởng tài sản của ông bà, cha mẹ để lại. Người có Lộc Mã mưu sự
chuyện gì hãy nên mạnh dạn vì thường được may mắn.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Hỏa
Tinh hay Linh Tinh là Chiến Mã, ngựa xuất trận. Cách này chỉ người có tài năng
là thường là phát về võ nghiệp nếu gặp một lá số tốt. Đây là số của những quân
nhân được thăng cấp rất nhanh chóng. Tuy nhiên cách Chiến Mã này tiềm tàng
những tai họa về chân tay như thương tật hay tàn khuyết nếu không có những cách
hóa giải. Nếu đủ bộ Mã Hỏa Linh thì có thể tay chân bị tê bại từ nhỏ, hoặc bị
bại liệt do các chứng bệnh khác đưa đến như bị tai biến mạch máu não, tiểu
đường .v.v...
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên
Khốc, Điếu Khách là cách Mã Khốc Khách, có nghĩa là ngựa đeo lục lạc vàng, chỉ
những người có tài năng, có danh tiếng trong một lãnh vực nào đó. Hạn gặp Mã
Khốc Khách thì vận hội may mắn đã đến, là thời điểm mà danh tiếng của mình được
người đời biết đến. Đối với một lá số trung bình thì đương số cũng gặp được
những cơ hội may mắn như được cấp trên giao phó công việc và được tín nhiệm hay
thăng thưởng do khả năng và những thành qủa tốt đẹp của mình.
Người có Thiên Mã thủ Mệnh gặp Phi
Liêm đồng cung hay xung chiếu gọi là cách Phi Mã, là ngựa có cánh bay như trong
truyện thần thoại của Hy Lạp, ý nghĩa cũng tương tự như Mã Khốc Khách, chỉ
người có tài năng và được nhiều may mắn, làm việc gì cũng thành chông dễ dàng
và nhanh chóng. Hạn gặp Phi Mã là có sự thay đổi, hoặc di chuyển. Nếu khởi sự
một điều gì trong hạn này thì chớ có ngần ngại vi Phi Mã đáo hạn là thời cơ đã
đến. Người có cách Phi Mã thường thích hợp với những công việc đi đây đi đó,
cuộc đời là những chuyến hành trình không dứt.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Thiên Hình
đồng cung là cách Phù Thi Mã, là ngựa kéo xe tang. Người có cách này suốt đời
cực khổ, làm việc gì cũng khó khăn trắc trở, thành ít bại nhiều, và thường gặp
toàn những chuyện xui xẻo, đau thương, buồn khổ, tang tóc triền miên. Hạn gặp
Mã Hình thì phải hết sức thận trọng trong mọi việc, vì những gì sẽ đến trong
thời gian này chỉ là những chuyện buồn hoặc ngoài sự mong đợi của mình.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Đà La đồng
cung gọi là Mã Đà hay Chiết Túc Mã. Có ý nghĩa là ngựa què, chỉ những người
không được may mắn, hay gặp khó khăn trắc trở. Cuộc đời nhìn chung toàn là
những lao đao lận đận. Cùng là một việc, người khác làm thì thuận lợi may mắn,
mình làm thì khó khăn, trở ngại. Bởi vậy trên phương diện dùng người, thì giao
một công việc cần có kết qủa sớm, hay một kế hoạch quan trọng cho người có số
Mã Đà hay đang trong vận Mã Đà thì đây là một quyết định từ sai lầm đến mạo
hiểm của người có trách nhiệm.
Thiên Mã thủ Mệnh gặp Tuyệt đồng
cung, gọi là Mã Tuyệt hay Cùng Đồ Mã. Có nghĩa là ngựa chạy đến đường cùng, chỉ
người làm việc thường thất bại, cuộc đời thường lâm vào cảnh bế tắc. Tương tự
nếu Mã thủ Mệnh gặp tuần triệt, gọi là Tử Mã, nghĩa là ngựa chết, ngựa vô dụng,
ý nghĩa và tai họa còn nặng hơn Cùng Đồ Mã.
Thiên Mã là một trong những lưu tinh
(sao lưu) khi xem hạn. Có nghĩa l2 vị trí của Thiên Mã sẽ thay đổi theo mỗi năm
và gọi là Lưu Thiên Mã. Đó cũng là ý nghĩa thứ ba của chữ "Dịch" khi
gọi Thiên Mã là Dịch Mã.
Khi xem hạn, nếu thấy Thiên Mã và
Lưu Thiên Mã đồng cung, xung chiếu hay hợp chiếu thì những điều sau đây sẽ xảy
đến trong vận hạn: mua xe, đổi xe, đổi chổ ở, đổi việc làm, đi du lịch v.v...Có
thể chỉ xảy ra một sự việc mà thôi. Ví dụ: nếu đã đổi chổ ở thì sẽ không thay
đổi việc làm, đi xa v.v... Nhưng cũng rất có thể xảy ra hai sự việc cùng một
lúc. Những gì thay đổi trong vận hạn ít nhiều tùy theo vị trí của Thiên Mã và
Lưu Thiên Mã đồng cung hay xung chiếu. Mức độ tốt xấu của sự việc còn tùy thuộc
vào những sao chi phối trong hạn đó. Có thể là bị mất việc (không tốt) phải tìm
việc khác. Cũng có thể vì được thăng chức nên phải giữ công việc khác (tốt).
Tóm lại, khi nói đến Thiên Mã điều
quan trọng mà chúng ta phải cân nhắc là hành của Thiên Mã và hành của bản Mệnh.
Nếu cả hai cùng hành, hoặc hành của Mã sinh cho hành của bản Mệnh thì Mã này
mới là Mã của mình. Ngược lại nếu không đồng hành thì Mã này chỉ là cái bóng mà
thôi.
Trên thực tế chúng ta thấy hai lá số
đều có Thiên Mã thủ Mệnh nhưng khả năng và sự may mắn của hai người hoàn toàn
khác nhau rất nhiều. Người có Thiên Mã không hợp với bản Mệnh thì cũng là người
có tài năng nhưng tánh tình rụt rè, nhút nhát, thiếu lòng tin, và không có ý
chí phấn đấu để nắm lấy cơ hội, cho nên cuối cùng dễ trở thành bất đắc chí.
Với một lá số trung bình trở lên,
người Dịch Mã là người đa tài. họ có nhiều năng khiếu nổi bật và có thể thành
công trên nhiều lãnh vực khác nhau. Họ là những người năng động, thích sự đổi
thay và những chuyến hành trình như những bông hoa tô thắm cho cuộc đời của họ.
Về khía cạnh này, cá tính của người Dịch Mã có phần nào giống như mẫu người
Thân Cư Thiên Di mà chúng ta đã đề cập trước đây.
MẪU NGƯỜI
“ĐÀI
CÁC”
*
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên
có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy
chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu
người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể
người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của
mình hay một người nào đó mà mình quen biết.
Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng,
thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ
tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ Đài
Các cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư
Thiên Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Các.
Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng
diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh,
dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng
và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái
tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc,
chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù
hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu
cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để khoe
sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ.
Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt,
người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Thái Âm, Đào Hồng
Hỷ...là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên
kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v...Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm
đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang
nặng khuynh hướng lãng mạn.
Dưới thời đại phong kiến của Trung
Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long
chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó,
gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền,
hiễn đạt hay công danh sự nghiệp.
Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ
Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Thiên Di, Quan Lộc có Hoa Cái, phía sau
có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước,
ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy
bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp.
Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa
thủ ở cung Thiên Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm
đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì
tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời
lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có
cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Thiên Di rất
thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại
giao v.v...
Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái
có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa
Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục,
Riêu...thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm
và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài
các...Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp
thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực.
Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ
Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa...Hoa Cái ở đây cũng
nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ
thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số.
MẪU NGƯỜI
“ĐÀO
HOA”
*
Đà Lạt là thành phố của mộng mơ và
nổi tiếng bởi những cành hoa Anh Đào khoe sắc trong nắng ấm mùa xuân. Màu hồng
nhạt của hoa Anh Đào như màu má của những người con gái Đà Lạt ở tuổi xuân thì
hấp dẫn biết bao du khách, và cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ
sĩ. Có phải chăng vì vậy mà người ta đã dùng tên của loài hoa này làm biểu
tượng cho những người có một sức hấp dẫn, thu hút người khác? Trong khoa Tử Vi
Đẩu Số, một phụ tinh có cùng ý nghĩa như vậy và cũng mang tên Đào Hoa, cho nên
có thể nói, những người có số Đào Hoa thủ mệnh là mẫu người Đào Hoa mà chúng ta
sẽ bàn đến.
Sao Đào Hoa và Hồng Loan thường đi
đôi và có cùng chung một đặc tính. Đào Hoa hành Mộc, Hồng Loan hành Thủy. Những
sách Tử Vi không đề cập đến những vị trí đắc địa hay hãm địa của Đào Hồng. Tuy
nhiên, có người căn cứ trên thực tại để định những vị trí tốt xấu của Đào Hồng.
Như cung Mão được xem là vị trí tốt nhất của Đào Hoa vì cung Mão là thời điểm
của bình minh, những cánh hoa còn đọng sương mai, khởi đầu của sự khoe sắc tươi
thắm rực rở nhất trong ngày. Cung Ngọ là giữa trưa, hoa không còn tươi thắm nữa
vì bị nắng cháy. Cung Tí thì ở vào ban đêm, là thời điểm mà hoa đã khép cánh.
Quan niệm này cũng hợp lý, tuy nhiên
vẫn có những loài hoa chỉ nở về đêm như hoa Quỳnh, Dạ Lý Hương, Thiết Mộc Lan
v.v... chỉ khoe sắc và tỏa hương nồng trong bóng tối mà thôi. Đã mang kiếp hoa
thì tất phải sớm nở tối tàn, dù cho rực rở trong buổi bình minh thì có còn tươi
thắm được đến buổi bình minh hôm sau chăng?
Nhưng nếu nói theo quan điểm trên,
Đào Hoa đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu tức là Tứ Tuyệt, Hồng Loan đắc địa ở Dần
Thân Tỵ Hợi tức Tứ Sinh, thì quan điểm cũng có cái triết lý khi phân tích về
bản chất của Đào Hồng, là hai sao biểu tượng cho phái nữ. Khi nói Đào Hoa ở Tứ
Tuyệt, chúng ta có thể tưởng tượng hoàn cảnh của một cô con gái có nhan sắc
nhưng tư nhỏ đã sinh sống trong một hoàn cảnh rất nghiệt ngã, khiến cho người
con gái này phải có đầy đủ thủ đoạn để sinh tồn. Còn ngược lại, Hồng Loan ở tứ
sinh như một người con gái khuê các, nên bản chất hiền lương đoan chính.
Tuy vậy, theo thiển ý của người
viết, vị trí của Đào Hồng không quan trọng bằng những sao mà Đào Hồng trao
duyên gởi phận, và điều này sẽ được dẫn chứng ở phần sau. Ở đây, chỉ lấy một ví
dụ, bất kể Đào Hoa ở vị trí nào mà khi gặp Hồng Loan và Thiên Hỷ thì trở thành
bộ sao tốt gọi tắt là Đào Hồng Hỷ hay còn gọi là Tam Minh.
Đối với khoa Tử Vi, Đào Hồng đều là
biểu tượng của sự sinh đẹp, cho nên có ý nghĩa chỉ về phái nữ nhiều hơn phái
nam. Người có Đào Hoa hay Hồng Loan thủ mệnh, dù nam hay nữ đều có nhan sắc,
đẹp trai, đẹp gái. Nét mặt lúc nào cũng vui tươi, tính tình vui vẻ cởi mở. Tuy
nhiên, chúng ta phải phân biệt cái đẹp và cái nết của hai sao Đào Hồng khác
nhau ở điểm nào?
Khi nói về nhan sắc, hàm ý nói về
phái nữ, cái đẹp của Đào Hoa là nét đẹp lộ liễu ra bên ngoài, lồ lộ như một đóa
hải đường, vẻ đẹp mà khoa Tướng Mệnh gọi là Đào Hoa Diện, hoặc Đào Hoa Nhãn, là
nét đẹp có sức hấp dẫn, lôi cuốn thu hút người đối diện ngay từ phút ban đầu từ
khuôn mặt, đôi mắt, cử chỉ, lời ăn tiến nói có vẽ lôi cuốn, lẳng lơ, hoặc có
một lối sống buông thả...
Cái đẹp của Đào Hoa có thể nhìn thấy
ở bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, từ một mệnh phụ phu nhân cho đến một người
mẫu, một diễn viên, một thôn nữ, thậm chí một cô gái giang hồ... Nhưng địa vị
và vẻ đẹp bên ngoài đó không bảo đảm là nết hạnh của họ cũng tốt đẹp như vậy.
Còn nét đẹp của Hồng Loan là nét đẹp
của sự nhu tình, duyên dáng, thanh cao, quý phái, đài các. Cái đẹp nghiêng
nhiều về tinh thần hơn là vật chất. Nữ mệnh có Hồng Loan có thể chỉ là một
người đàn bà nhan sắc trung bình, nhưng có duyên, là mẫu người nhu mì và có
chiều sâu tâm hồn. Tuy nhiên, khi đi chung với Đào Hoa cả hai sẽ có ảnh hưởng
tương hỗ nhau. Hồng Loan chỉ chế giảm được một phần nhỏ khuynh hướng vật chất
và buông thả của Đào Hoa mà thôi, còn phần lớn là bị lôi cuốn bởi Đào Hoa.
Ngoài ý nghĩa về nét đẹp và tính
nết, Đào Hồng còn chủ sự nhanh chóng, sớm sủa, dễ dàng và may mắn. Chẳng hạn,
Đào Hồng tọa thủ ở Mệnh, cung Thiên Di, hay cung Quan Lộc là số của những người
ra đời sớm, đi làm sớm hay có công danh sự nghiệp sớm hơn những người cùng lúa
tuổi với mình. Đây cũng là số của những người có nhiều may mắn trong vấn đề học
hành thi cử, và khi ra trường lại tìm được việc làm dễ dàng hơn những người
khác. Nếu cung Tài Lộc có Đào Hồng tọa thủ thì đương số sớm làm ra tiền và kiếm
tiền một cách dễ dàng.
Nếu hai sao Đào Hồng gặp thêm Hỷ
Thần hay Thiên Hỷ chủ sự may mắn về thi cử, sự thăng quan tiến chức, cũng là
việc cưới hỏi. Hạn gặp Đào Hồng Hỷ là sự báo hiệu một tin vui sắp đến. Trong
lãnh vực nghề nghiệp, Đào Hồng Hỷ chỉ những người sinh hoạt trong các bộ môn ca
nhạc kịch, điện ảnh. Trong gia đình, Hồng Loan là biểu tượng của con gái, nếu
Hồng Loan gặp Thiên Khôi là chỉ người trưởng nữ.
Nhu vậy đối với khoa Tử Vi, mẫu
người Đào Hoa là những người cung Mệnh có Đào Hoa hay Hồng Loan tọa thủ hay
xung chiếu. Đặc tính đáng chú ý của họ là sức thu hút đối với người khác phái,
họ là những người đắt đào, đắt kép, bước ra khỏi nhà là có người thương, người
theo, có người sẳn sàng gánh vác, nâng đỡ mọi điều...
Tuy nhiên, người Đào Hoa không phải
lúc nào cũng được may mắn tốt đẹp như vậy, nhất là đối với nữ phái. Nếu Đào
Hồng bất hạnh trao duyên gởi phận cho những sao xấu thì thà đừng có Đào Hồng
còn hơn. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hồng tọa thủ, gặp Hóa Kỵ, Riêu hay Thai đồng
cung hay hợp chiếu, thì đương số là người đàn bà đẹp nhưng lẳng lơ, buông thả
và cuộc đời sẽ trầm luân với những buồn thương sầu hận. Nếu Đào Hồng những sát
tinh như Không Kiếp thì có thể nói là một nỗi bất hạnh cho đương số.
Chúng ta lấy cuộc đời của Vương Thúy
Kiều để làm một ví dụ điển hình: mối tình đầu vừa chớm nở đã đành trao lại cho
em để bán mình vào lầu xanh. Tấm thân đã phải đổi chủ biết bao nhiêu lần, rồi
xuống tóc, rồi trầm mình, nhưng nợ trần đâu dễ phủi tay? Đó là mẫu người Đào Hoa
lụy vì tình, oan nghiệt vì tình, vì nhan sắc mà gặp tai họa, hoặc là lâm vào
hoàn cảnh mà người đời thường hay gọi "trao duyên nhầm tướng cướp"
Nếu Đào Hồng ngộ Thiên Không thì cũng như Đào Hoa gặp lửa, chắc chắn duyên phận
phải bẽ bàng và có thể xa lánh cõi đời bằng con đường tu hành như chuyện Lan và
Điệp.
Đối với nam giới, nếu cung Quan Lộc
có Đào Hồng thì đương số ra đời sớm lý do có thể là do tính thích tự lập hoặc
vì hoàn cảnh đưa đẩy. Họ cũng là người lập được công danh sự nghiệp rất sớm, và
điều đáng nói là sự thành công đó không hẳn hoàn toàn do khả năng của chính họ
mà một phần là do sự nâng đỡ, giúp sức của người khác phái, nguyên nhân chính
là vấn đề tình cảm. Tương tự, đối với nam mệnh mà cung Tài Lộc có Đào Hồng thì
đương số làm ra tiền một cách dễ dàng. Nếu lá số tốt đẹp họ có thể là những
người giàu có lúc còn trẻ tuổi, và chắc chắn rằng sự thành đạt đó không thể
thiếu sự góp phần của người khác phái bởi những quan hệ tình cảm đặc biệt nào
đó., và đôi khi đó chỉ là tình cảm một chiều.
Chúng ta thường nghe câu: "sau
lưng một người đàn ông thành công là bóng dáng của một người đàn bà tài
giỏi" Nhưng không phải Đào Hồng lúc nào cũng cũng được may mắn tọa thủ
trong một lá số tốt đẹp để biểu tượng cho một người đàn bà giỏi. Nam số nếu Mệnh
hay cung Quan có Đào Hồng gặp hung tinh, sát tinh thì hậu qủa sẽ là những gì mà
cựu Tổng Thống Clinton hay Thái Tử Charles đã gánh chịu. Bởi vậy, trong lá số
của người đàn ông nếu Đào Hồng gặp những sao tốt như Tử Phủ hay Nhật
Nguyệt...thì đương số được công thành danh toại. Với phái nữ, đó là hình ảnh
của một người vợ "vượng phu ích tử", một hồng nhan tri kỷ. Ngược lại,
Đào Hồng gặp những sao xấu, thì Đào Hồng cũng là một hồng nhan nhưng cũng là
họa thủy. Chẳng hạn như Đào Hồng ngộ Không Kiếp ở cung Mệnh hay cung Quan Lộc,
nhẹ thì như đã nói ở trên, nặng thì chung cuộc có khác gì cảnh Hạng Võ phải
biệt Ngu Cơ rồi tự vẫn bên bờ Ô Giang. Hoặc nam mệnh có Đào Hồng tọa thủ ở cung
Tài Lộc gặp Song Hao, Địa Kiếp thì tiền kiếp được cũng nhờ đàn bà, tán gia bại
sản cũng vì đàn bà.
Đối với khoa Tử Vi, không phải chỉ
có hai sao Đào Hoa và Hồng Loan là biểu tượng cho mẫu người đào hoa mà còn có
nhiều sao khác như Liêm Trinh, là một sao võ cách nhưng vẫn được mệnh danh là
đào hoa tinh. Ý nghĩa đào hoa của Liêm Trinh thường dùng cho Nam nhiều hơn Nữ.
Đàn ông cung Mệnh có Liêm Trinh, dù đắc hay hãm cũng là người có số đào hoa họ
có duyên ngầm, có một nét đa tình nào đó dễ thu hút người khác phái. Tuy Liêm
Trinh là một sao về võ cách nhưng bản tính vốn liêm khiết và tự trọng cho nên
trong tình trường, họ thường bị người khác phái chủa động và tấn công trước.
Trong lĩnh vực tình cảm, Liêm Trinh có những đặc tính gần với Hồng Loan hơn là
Đào Hoa.
Tham Lang cũng là một đào hoa tinh,
nhưng tình cảm của Tham Lam rất giống Đào Hoa, nặng về vật chất, buông thả, sa
đọa. Nếu cung Mệnh an tại Tí có Tham Lang tọa thủ là cách "phiếm Thủy Đào
Hoa" = Hoa đào trôi theo dòng nước, chỉ những người có tâm hồn lãng mạn,
đường tình lao đao lận đận, hoặc những người có cuộc sống buông thả, phong
trần. Cách Phiếm Thủy Đào Hoa có nghĩa ý đối với phái nữ nhiều hơn Nam.
Thái Âm cũng là biểu tượng của người
đào hoa bởi vì Thái Âm mặt trăng, là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ
sĩ từ cổ chí kim. Cho nên, người mà cung Mệnh hay cung Phúc Đức có Thái Âm thì
ít nhiều cũng là người đa tình lãng mạn, yêu chuộng văn chương nghệ thật, là
mẫu người sống vì nhạc, thác vì tình. Đặc biệt đối với nam mệnh, nếu Thái Âm
tọa thủ tại cung Thê thì đương số là người đào hoa, thích bay bướm, nhưng nể
vợ, sợ vợ như Thúc Sinh trong truyện Kiều vậy.
Ngoài ra một số sao khác như Cự Môn,
Xương Khúc, Hoa Cái...hoặc một vài cách như Thai Phục Vượng Tướng, Cự Kỵ, Tham
Kỵ, Hoa Cái cư Thiên Di.... đều là đặc tính của mẫu người đào hoa, ít hay
nhiều, tốt hay xấu còn tùy vào mỗi lá số hoặc những sao mà chúng đi chung.
Những sao khắc chế được tính đào hoa
gồm có Thái Dương, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Tứ Đức, Thiên Hình, Thiên Không...riêng
đối với nữ mệnh, Thiên Hình và Thiên Không có tác dụng khắc chế qúa mạnh, không
những làm mất hết tánh đào hoa mà còn khiến đương số phải chịu cảnh lận đận
trên đường tình duyên. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hoa gặp Thiên Hình, đây là
người đàn bà có nhan sắc, nhưng tâm hồn khô khan, ăn nói không duyên dáng...hay
nói một cách khác, đúng xa mà nhìn thì thấy đẹp, nhưng đến gần thì chỉ là một
cành hoa giấy.
Từ những nét vừa nêu trên, chúng ta
thấy rằng ý nghĩa chính của Đào Hồng là sự sinh đẹp và tình ái. Cho nên Đào
Hồng thích hợp với tuổi trẻ hơn là lúc về già. Vì vậy, trong tiền vận hay trung
vận nếu gặp Đào Hồng + sát tinh nhập hạn thì cũng không đáng sơ như khi ở hậu
vận, nhất là đối với những người mệnh Vô Chính Diệu.
Và sau hết, chúng ta cũng đừng quên
rằng, mẫu người đào hoa giống như lúc nào cũng nắm trong tay con dao hai lưỡi.
Con dao Đào Hoa trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu. trong hạnh phúc có mầm móng
của sự đau khổ.
Chúng ta thấy Đào Hồng cũng cùng một
nguyên tắc như Nhật Nguyệt đó là "chính bất như chiếu" Do đó cách tốt
đẹp hơn hết là Đào Hồng không nên tọa thủ ở Mệnh, nhất là đối vớ nữ phái. Một
chút nhan sắc trời cho mà phải đánh đổi cả một đời truân chuyên, điều này thử
nghĩ có đắng hay không? Vị trí tốt nhất cho Đào Hồng là cung Quan Lộc hay cung
Tài Lộc. tại đây, Đào Hồng chiếu về Mệnh thì đương số vẫn là người có nhan sắc,
tuy nhan sắc không rực rỡ và phô bày cái đẹp ra bên ngoài nhưng lại tránh được
bốn chữ "Hồng Nhan Đa Truân" Và nói chung cho cả nam nữ thì Đào Hồng
ở hai cung Tài và Quan giúp cho đương số thành công dễ dàng hơn trên phương
diện công danh và sự nghiệp chứ không chỉ trói buộc đương số vào cái vòng tình
cảm như khi Đào Hồng thủ Mệnh.
Đối với đàn bà, nhan sắc là trời cho
nhưng hồng nhan đa truân hay hồng nhan bạc mệnh thì cũng là ý trời. Dù nam hay
nữ, có thể một lúc nào đó, người đào hoa phải tự hỏi mình được nhiều người
thương là hạnh phúc hay phiền muộn? Cũng như mấy ai biết được giữa hồng nhan
tri kỷ va hồng nhan họa thủy phải chăng chỉ là một đường tơ? Phúc hay họa thì
chỉ có khoa Tử Vi Đẩu Số mới trả lời cho chúng ta rõ ràng mà thôi.
MẪU NGƯỜI
“TÀI
MỆNH TƯƠNG ĐỐ”
*
Trong truyện Thiên Long Bát Bộ của
Kim Dung có 4 nhân vật đại gian , đại ác hợp thành một nhóm gọi là Tứ Ác, đứng
đầu trong nhóm tà đạo để chống lại phe chính phái. Khoa Tử Vi cũng vậy, có sao
thiện thì cũng có sao ác. Cầm đầu trong nhóm hung tinh này là hai đại sát tinh Địa
Không và Địa Kiếp mà chúng ta thường gọi là Không Kiếp. Hai sao này cũng như
những sao khác, có thể nhìn thấy bất cứ một nơi nào trên lá số, nhưng đặc biệt
khi Địa Không tọa thủ tại cung Mệnh và Địa Kiếp tọa thủ tại cung Thân, hoặc
Kiếp ở Mệnh, Không ở Thân làm thành cách Mệnh Kiếp Thân Không, và đó là mẫu
người đặc biệt, có thể gọi chung là mẫu người Không Kiếp mà chúng ta sẽ bàn
đến.
Trước khi phác họa những nét chính
về cuộc đời của mẫu người này, chúng ta hãy nói sơ qua những đặc tính của hai
sao này. Không Kiếp thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi. Tại cung Tỵ và
Hợi thì KHÔNG KIếP đồng cung cho nên dù tốt xấu, uy lực của Không Kiếp sẽ gấp
đôi so với Không Kiếp xung chiếu nhau ở hai cung Dần Thân.
Xét về ngũ hành thì Không Kiếp tọa
thủ tại cung Tỵ là tốt nhất vì hành của sao và hành của cung cùng hành Hỏa. Vị
trí thích hợp thứ hai là cung Dần vì hành Mộc của cung tương sinh cho hành Hỏa
của Không Kiếp, làm cho uy lực của Không Kiếp khá mạnh mặc dù là đơn thủ.
Nói chung, dù đắc hay hãm, KHÔNG KIếP
chủ sự hung hiểm, phá tán, bất hạnh, hoạch phát, hoạch phá. Dù nam hay nữ mà
cung Mệnh hay cung Thân có Không Kiếp đắc địa tọa thủ cùng với những sao tốt là
người kín đáo, thâm trầm, biết suy xét, có mưu trí và rất gan dạ. Tuy nhiên
người Không Kiếp không được kiên nhẫn, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng và sớm
thấy kết qủa. Cho nên nếu không được như ý hay chỉ thất bại lần đầu là nản chí
ngay, bỏ cuộc dễ dàng. Nếu Không Kiếp đắc địa cùng những sao xấu tọa thủ ở Mệnh
thì những đức tính thăng trầm, gan dạ sẽ biến đương số thành người thủ đoạn và
dễ đi vào con đường tà đạo.
Nếu hãm địa thủ Mệnh + những sao
tốt, dù nam hay nữ, bản tánh trở nên bất nhất, lúc chính, lúc tà, lúc tốt lúc
xấu, vui buồn bất chợt khiến cho những người giao tiếp với đương số phải e dè.
Nếu Không Kiếp hãm địa thủ Mệnh cùng với những sao xấu thì tánh tình nham hiểm,
xảo quyệt, thủ đoạn, hung dữ, bạo ngược.
Người Mệnh / Thân có Không Kiếp đắc
địa hay hãm địa thường bị những chứng bệnh về da như mụt nhọt, ghẻ ngứa vì dị
ứng, những chứng bệnh về đường hô hấp như viêm phổi, viêm cuống họng, hen
suyễn, khó thở... Đã mang danh là đại sát tinh cho nên những bệnh tật hay tai
họa do Không Kiếp mang đến chắc không phải là đơn giản, nhẹ nhàng. Dưới cái
nhìn của khoa Tử Vi thì vấn đề chế giải tùy thuộc vào phúc đức của mỗi người và
tùy theo sự bất hạnh xảy ra ở thời điểm nào trong cuộc đời. Không Kiếp như Đào
Hồng, càng về cuối cuộc đời thì càng tác hại nặng nề hơn lúc trẻ.
Trong cuốn Tử Vi Ảo Bí của Việt Viêm
Tử có đề cập đến quan điểm Không Kiếp Vô Luận. Quan điểm này cho rằng: những
người sinh vào tháng 4 (tháng Tỵ) và tháng 10 (tháng Hợi) thì không bị Không
Kiếp phá tán vì có sự ứng hợp với hai cung Tỵ Hợi, là hai vị trí đắc địa của
Không Kiếp. Quan điểm này đưa đến 2 nghi vấn, đầu tiên là Không Kiếp an theo
giờ sinh, vậy tại sao chỉ vô luận đối với tháng sinh mà không áp dụng "vô
luận" với giờ sinh? Thứ hai là Không Kiếp cũng đắc địa ở Dần Thân, nhưng
tại sao những người sinh vào tháng Dần, và tháng Thân lại không được hưởng cách
Không Kiếp Vô Luận? Theo quan niệm cổ xưa của phương đông, đàn ông chú trọng
đến công danh sự nghiệp, còn đàn bà nặng về chồng con. Đối với người Không Kiếp
thì hai chữ công danh, phú quý phải nhìn theo một quan niệm căn bản của khoa Tử
Vi, hung tinh đắc địa phát dã như lôi, có nghĩa là hung tinh đắc địa sẽ phát
nhanh như sấm sét. Điều đó sẽ kéo theo một hệ qủa không thể nào tránh được, bạo
phát thì bạo tàn. Bởi vậy, người Không Kiếp làm việc gì cũng đạt đến kết qủa
một cách nhanh chóng, nhưng những gì đã ở trong tầm tay lại khó giữ được lâu
bền.
Đó chính là hai mặt của Không Kiếp,
con dao hai lưỡi, một tay nâng mình lên, một tay xô mình ngã, càng cao danh
vọng thì càng lắm đau thương. Ý nghĩa đó chúng ta phải nhìn thấy để đừng qúa
tin tưởng vào sự tốt đẹp của Không Kiếp khi hai sao này đắc địa, hoặc có những
sao khác kiềm chế. Đặc tính của Không Kiếp là như vậy, trong cái tốt có ẩn tàng
cái xấu, điều mà chúng ta nghĩ là may mắn thì đó cũng chính là mầm móng của tai
họa trong nay mai. Bởi vậy cái quan niệm thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt,
xem ra có vẽ thích hợp với mẫu người Không Kiếp, cờ đến tay thì phất, có trong
tay thì hưởng.
Như vậy, những sao nào có thể kiềm
chế nổi hai đại sát tinh này? Có người cho rằng Tử Phủ miếu vượng thì đủ uy lực
chế ngự Không Kiếp. Nhưng theo thiển ý của người viết, nếu Tử Vi hay Thiên Phủ
cho dù có miếu địa mà đúng riêng lẻ một mình cũng tối kỵ Không Kiếp. Tử Vi gặp
Không Kiếp khác gì Vua bị gian thần lộng quyền. Thiên Phủ mà gặp KHÔNG KIếP thì
nhà kho trống trơn. Nói chung, các văn tinh, sát tinh, quý tinh không đủ uy lực
để chế ngự hai đại sát tinh này mà chỉ có những võ tinh như Sát Phá Liêm Tham
và Thiên Tướng miếu vượng là không sợ Không Kiếp. Trói buộc được Không Kiếp chỉ
có Tuần Triệt.
Trường hợp đặc biệt là các văn tinh
chỉ có Nhật Nguyệt là không sợ các sao "không" như Thiên Không, Địa
Không mà ngược lại, vì ý nghĩa chữ "không" đối với NN là một bầu trời
xanh thẳm không gợn áng mây, là điều kiện lý tưởng cho NN tỏa sáng.
Đối với nữ Mệnh, Không Kiếp là hai
sao bất hạnh cho đường tình duyên. Nữ mệnh có Không Kiếp là người cao số, lúc
thiếu thời thì tình duyên lận đận, khi lập gia đình thì khắc chồng, khắc con.
Sự xung khắc nặng hay nhẹ thì vẫn tùy thuộc vào từng lá số và mỗi thời điểm
trong cuộc đời, lúc còn trẻ, nhẹ thì sinh ly, giữa hay cuối đời, nặng thì tử
biệt.
Nổi bất hạnh của nữ mệnh có KHÔNG
KIếP còn tùy thuộc vào những sao mà Không Kiếp đi cùng, chẳng hạn hư Đào Hồng,
Riêu Thai, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Xương Khúc... (điều này thấy không hợp lý bởi vì
KHÔNG KIếP không bao giờ đi cùng với Xương Khúc. Các bạn nên cân nhắc vấn đề
này) Gặp Không Kiếp thì là cách hồng nhan bạc phận mà cũng có thể là bạc mệnh.
Tình duyên trắc trở, việc cưới hỏi gặp nhiều trở ngại, làm kế, làm lẽ, hai ba
đời chồng, bị chồng ruồng rẫy phụ bạc, hay bạo hành vì tai nạn hay vì tính lẳng
lơ, buông thả mà thất trinh, thất tiết. Vì hoàn cảnh hay do mình tự chọn làm
gái giang hồ v.v... đều là những nhịp cầu oan nghiệt mà người đàn bà gặp những
cách vừa nêu trên sẽ phải bước qua.
Tuy nhiên các tuổi Thìn, Tuất, Sửu,
Mùi gặp Không Kiếp thì cuộc đời cũng khá nhiều gian truân nhưng không đến nổi
tan tác hay trầm luân như những tuổi khác. Nếu 4 tuổi Thìn, Tuất Sửu, Mùi đắc
cách Không Kiếp kiếp Tỵ Hợi thì công danh phú quý sẽ đạt được một cách dễ dàng,
và thật bất ngờ. Những tuổi khác cũng được hoạch phát nhưng không giữ được lâu
bền.
Trong một lá số nếu Mệnh và Thân tốt
thì cuộc đời từ ngày lọt lòng mẹ cho đến khi tư giã cõi đời đều được sung
sướng. Hoặc nếu Mệnh Thân được một tốt, một xấu thì ít ra cuộc đời cũng có một
khoảng thời gian sung sướng. Trường hợp nếu Mệnh và Thân cùng xấu thì cả cuộc
đời là những chuỗi ngày gian truân. Và đó là nét đặc biệt của mẫu người Mệnh
Không Thân Kiếp, hay Mệnh Kiếp Thân Không, một mẫu người có đầy đủ tất cả những
hình ảnh đã nêu trên. Và nếu Nguyễn Du dùng truyện Kiều đễ diễn đạt cái quan
niệm tài mệnh tương đố của mình, thì chúng ta cũng có thể nói rằng, mẫu người
Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không là mẫu người đa tài, đa năng, đa
dạng và cũng đa truân, là mẫu người mà khi bước chân vào đời đã phải ở trong
cái vòng tài mệnh tương đố của tạo hóa.
Tuy vậy, chúng ta cũng còn một biệt
lệ cho những người Mệnh Không Thân Kiếp hay Mệnh Kiếp Thân Không sinh vào các
tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì lại có sự ứng hợp, cho nên cuộc đời sẽ chiết giảm
được rất nhiều những điều bất hạnh do Không Kiếp mang đến.
Nếu đã nói như vậy thì niềm an ủi
cũng là sự kiêu hãnh mỗi một khi mình vươn lên được trước những thử thách cay
nghiệt đó, càng phong trần danh ấy càng cao.
MẪU NGƯỜI
“BẠCH
THỦ THÀNH GIA”
*
Khi nguyên cứu về khoa Tử Vi, chúng
ta nên lưu ý một điều là không phải chỉ những chính tình như Tử Vi, Thiên Phủ,
Liêm trinh, Thất Sát v.v... mới là những sao làm nên chuyện lớn. Nhưng đôi lúc,
chỉ là những phụ tinh, nếu ở đúng cách, đúng chỗ thì vẫn giúp đương số làm nên
sự nghiệp một cách dễ dàng. Đó chính là trường hợp của sao Kình Dương mà khoa
Tử Vi thường gọi là cách Kình Dương Độc Thủ, hay còn gọi là mẫu người Bạch Thủ
Thành Gia, có nghĩa là tay trắng làm nên sự nghiệp.
Kình Dương thuộc nhóm bắc đẩu tinh,
hành Kim, có tên là Dương Nhận, chủ về sát phạt và hình khắc. Kinh Dương đắc
địa ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) Người có Kình Dương đắc địa tọa thủ tại Mệnh
thì thân hình cao và gầy, mặt xương, tánh qủa quyết, can đảm, dũng mãnh, thích
phiêu lưu mạo hiểm, làm việc gì cũng muốn mau chóng. Là người túc trí đa mưu,
đa tài, đa năng và có lẽ vì vậy mà cái "tôi" rất lớn, dù cho có giữ
sự khiêm cung nhưng cũng khó có thể che giấu được nét kiêu căng tự phụ vốn sẳn
là bản chất.
Bởi những đặc tính vừa nêu trên, người
có Kình Dương thủ Mệnh rất thích hợp với võ nghiệp hoặc các ngành kinh doanh về
kỹ nghệ. Nam phái, Mệnh có Kình Dương đi kèm với bộ sao Sát Phá Liêm Tham thì
dễ làm nên sự nghiệp trên chiến trường. Nhưng nếu Kình gặp thêm Linh Hỏa và
Kiếp Sát thì đây cũng là cách sinh nghề tử nghiệp, khó tránh được chuyện phơi
thây ngoài chiến địa. Như chúng ta có nói, Tham Vũ đồng hành ở tứ mộ là mẫu
người của thương trường, nhưng nếu gặp thêm Kình Dương thì đấy lại là người
nghiêng về quân đội, là những quân nhân rất gan dạ và cũng là cấp chỉ huy có
khả năng trong lãnh vực tham mưu, chiến lược.
Nếu Kình Dương hãm địa thủ Mệnh mà
không có những sao tốt đi kèm thì cho dù nam hay nữ, tánh tình cũng rất hung
bạo, liều lĩnh, nông nổi, bướng bỉnh, ương ngạnh, xảo trá. Cuộc đời chỉ gặp
toàn là những tai họa, bệnh tật, và dễ dính dáng đến chuyện tù tội.
Kình Dương hãm ở Mệnh cũng là người
khéo tay, có năng khiếu về nghành thủ công. Nếu Kình hãm đi cùng với những sao
biểu tượng cho nghệ thuật như Nhật Nguyệt, Xương Khúc v.v... đây là những nghệ
nhân trong các lãnh vực như điêu khắc, hội họa, trang trí nhà cửa, làm nữ
trang...
Nhưng dù đắc hay hãm địa, người có
Kình Dương thủ Mệnh, nếu không có những sao chế giải, là người chủ trương sống
ở đời "vô độc bất trượng phu" Đối với họ, cứu cách mới quan trọng,
không cần phải câu nệ đến phương tiện.
Ngoài 4 vị trí tốt đệp của Kình
Dương là tứ mộ, Kình Dương cũng có nhiều ý nghĩa đáng kể tại một vài vị trí
khác như Tí Ngọ và Mão Dậu. Tại 4 cung này, nếu không có những sao tốt chế giải
thì Kình Dương chủ sự bệnh tật, tai họa và chết yểu.
Tuy nhiên, đặc biệt tại cung Ngọ,
Kình Dương đóng một vai trò hai mặt tốt và xấu. Nếu Mệnh an tại Ngọ có Kình
Dương tọa thủ là cách Mã Đầu Đới Kiếm, kiếm treo đầu ngựa, là kẻ anh hùng lập
công trên lưng và chết cũng trên lưng ngựa. Kình tại Ngọ, gặp được những sao
tốt đẹp tọa thủ đồng cung như Thiên Đồng, Thái Âm, hay Khoa Quyền Lộc...thì đây
là cách phát về võ nghiệp, là số của những bậc danh tướng, công trạng hiển
hách, thường được bổ nhậm trấn giữ biên cương. Nhưng với cách này, trong cái
tốt luôn ẩn tàng những điều bất hạnh. Lưỡi kiếm Kình Dương giúp anh hùng tạo
nên sự nghiệp, và cũng chính lưỡi kiếm oan nghiệt này đã giữ đúng định luật
khắc khe của tạo hóa:
"Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạc
đầu..."
Đó chính là số của Quan Vân Trường
của thời Tam Quốc phân tranh. Cách Mã Đầu Đới Kiếm đã đưa đến cái chết bi thảm
của một đấng anh hùng như vậy.
Ngoài ra hai cung Dần thân cũng
không phải là vị trí tốt lành cho Kình Dương. Tại hai cung này. Kình Dương chỉ
sự bệnh tật tai họa, thất bại... Nói chung, Mệnh ở Dần Thân có Kình Dương thì
cuộc đời có thể diễn tả trong bốn chữ "tay làm hàm nhai" tệ hại nhất
đối với người tuổi Giáp và Mậu, dù cho có may mắn được thừa hưởng di sản của ông
bà, cha mẹ thì cũng phá tán hết tổ nghiệp mà thôi.
Tuy nhiên, nếu Mệnh ở Dần Thân có
Kình, được những sao tốt khác cùng tọa thủ thì cuộc đời sẽ được cơm no áo ấm
nhờ bẩm sinh có năng khiếu về nghề thủ công. Nếu có thêm những sao chế giải bớt
sự phá hoại của Kình thì khi vào trung hay hậu vận có thể sẽ trở mình thành đại
phú bởi một ngành thủ công nào đó như dệt, kim hoàn, điêu khắc v.v...
Như vậy chúng ta thấy rằng, trong 12
cung của thiên bàn, chỉ có 4 cung tứ mộ là đất dụng võ của kình dương mà thôi.
Đối với nam phái, Mệnh an tại tứ mộ có Kình Dương cùng với những sao tốt đẹp là
số phát về võ nghiệp. Nhưng nếu ở tứ mộ, Kình gặp Tử Phủ thì lại phát về kinh
thương. Với những cách vừa nêu trên mà gặp những người có các tuổi Thìn, Tuất,
Sửu, Mùi thì có sự ứng hợp, nên mức độ tốt đẹp được tăng lên gấp bội, và khoa
Tử Vi gọi là cách kình Dương Nhập Miếu.
Đối với phái Nữ, Mệnh tại tứ mộ có
Kình Dương là người đàn bà đảm đang, hành xử ngoài đời không thua gì đấng mày
râu, là người dám nói, dám làm. Có thể nói một cách không qúa đáng, đây là mẫu
người đàn bà làm quan cho chồng. Điều này không phải chỉ ảnh hưởng của một Kình
Dương đắc địa mà chúng ta phải nhớ rằng, đàn bà có Mệnh an ở tứ mộ là người rất
thông minh, sắc sảo, ít nhất là trong một lãnh vực nào đó.
Bởi vậy, có người cho rằng, nữ phái,
Mệnh ở tứ mộ có Kình, cùng với những sao tốt đẹp là người đàn bà "vượng
phu ích tử" chỉ nên hiểu theo ý nghĩa của một người đàn bà đảm đang, có
khả năng từ hai bàn tay trắng tự mình, hay giúp chồng tạo dựng sự nghiệp. Còn trên
những khía cạnh khác vấn đề tình cảm, sự tâm đầu ý hợp giữa hai vợ chồng...
chắc chắn không nhiều thì ít cũng khó tránh khỏi sự xung khắc trong gia đạo.
Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn trong trường hợp Kình Dương tọa thủ đồng
cung với Nhật Nguyệt, là hai sao biểu tượng cho vợ chồng, thì ý nghĩa lúc đó sẽ
ngược lại, nam thì khắc vợ, gái thì lúc trẻ cao số, lập gia đình thì khắc
chồng, sát chồng. Từ đó, chúng ta cũng thấy thêm một điều nữa là Nhật Nguyệt
không sợ Không Kiếp mà chỉ sợ Kình Đà.
Trong một lá số, Nhật Nguyệt dù miếu
vượng mà gặp phải Kình Đà thì sớm muộn gì cũng sẽ đau khổ, bệnh tật về mắt, vợ
chồng xung khắc, và nếu không có những sao hóa giải, nhẹ thì sinh ly, nặng thì
tử biệt.
Tóm lại cách Kình Dương Độc Thủ
trong một lá số tương đối tốt đẹp sẽ giúp cho đương số đạt được công danh sự
nghiệp. Tuy nhiên, cuộc đời của người Kình Dương thủ Mệnh là con đường đầy
chông gai. Sự thành công của họ là từ hai bàn tay trắng, bằng sức phấn đấu cũng
như khả năng của chính bản thân. Cho nên lúc thiếu thời thường gian nan vất vả,
cho đến trung vận hay hậu vận thì mới được công thành doanh toại.
MẪU NGƯỜI
“LƯNG
TRỜI GÃY CÁNH”
*
Trong nhóm hung sát tinh của khoa Tử
Vi, người ta ít chú trọng đến sao Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào hàng em
út so với đại sát tinh Không Kiếp mà chúng đã đề cập trong chương trước. Theo
thiển ý của người viết thì Thiên Không là một phụ tinh rất đáng cho chúng ta
lưu ý khi giải đoán một lá số và nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa căn
bản và đơn giản của một ác tinh, Thiên Không còn mang nhiều sắc thái đối nghịch
nhau rất lý thú mà chúng ta phải cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có
Thiên Không thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng tiếc.
Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa
ở Dần, thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại
những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì không kiếp, và cũng như
các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng.
Người có THIÊN KHÔNG hãm địa thủ
mệnh thì tính tình gian xảo, qủy quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn
ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì
ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì
cũng tự hại mình mà thôi.
Người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ
mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những
chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành
gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của
THIÊN KHÔNG là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người "nhị trùng
bản ngã". Trong con người THIÊN KHÔNG có một người thiện, một người ác, có
chính, có tà...Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận
đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm
Thiên Không đồng thủ mệnh.
Cái bản ngã thứ nhì của THIÊN KHÔNG
hiểu theo triết lý nhà Phật thì THIÊN KHÔNG còn có ý nghĩa "sắc sắc không
không" Cho nên, người có THIÊN KHÔNG đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu
người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có
những ý nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người THIÊN KHÔNG
là sự dằn vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của THIÊN KHÔNG, một thiện một ác,
một chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co đương số suốt cả cuộc đời:
Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng
chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ còn tùy thuộc vào
những sao phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây.
Sự cân nhắc thận trọng với lá số
THIÊN KHÔNG lại càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng
cho sắc đẹp, nghệ thật và nhất là nữ phái. Có nhiều sách cho rằng THIÊN KHÔNG
thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng quyến rũ người
khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của người viết,
chúng ta phải phân biệt hai trường hợp.
Đối với nam mệnh, THIÊN KHÔNG là
biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên
nam phái có TH + ĐH ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời phú
cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền
thế..v.v...Nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà
vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan
Phủ... thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách
trắng trợn.
Đối với phái nữ, Đào Hoa là biểu
tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn THIÊN KHÔNG là lửa trên
trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này
là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý
nghĩa: Sự duyên dáng từ cử chỉ đến cách ăn nói của người đàn bà, và cũng là ý
nghĩa của duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên
ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình
hay nội tâm. Họ cũng như cành hoa hữu sắc vô hương, và phải chăng vì vậy mà Đào
Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ
nam phái.
Và tương tự, chúng ta nên thận trọng
trong việc giải đoán với sao Hồng Loan, cùng ý nghĩa như Đào Hoa. Mệnh có Thiên
Không + Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và
khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ "không hồng" với
quan niện triết lý của nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần?
Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã
nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không thủ
mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho
đến chuyện tình cảm gia đạo v.v...Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người THIÊN
KHÔNG thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ = Lưng Trời Gãy Cánh.
Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là
người làm nên sự nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không thì
chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới
làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, có
người gãy đổ trên đường tình ái... Và cho đến việc tu hành cũng không phải là
con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng
họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời.
Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính
lưng trời gãy cánh khi THIÊN KHÔNG nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như
Hạng Võ mà hạn gặp THIÊN KHÔNG cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn
bên dòng Ô Giang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ
mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung
cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể
còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán.
Những tác hại của THIÊN KHÔNG sẽ nhẹ
nhàng hơn đối với những người Mệnh Vô Chính Diệu vì cung mệnh của họ vốn đã là
"không" nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Những
người có Nhật Nguyệt thủ mệnh cũng không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt
lại càng sáng tỏ trong bầu trời không gợn áng mây che.
Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác
của mẫu người Thiên Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có
quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi cũng hai
bàn tay trắng mà thôi.
Như vậy, chúng ta thấy rõ rằng không
phải chỉ những chính tinh mới quyết định số mệnh của một con người, mà đôi lúc
những phụ tinh lại là những khúc quanh rất quan trọng của một đời người.
MẪU NGƯỜI
“NHẬT
TRẦM THỦY BỂ”
*
Khi phác họa về mẫu người Nhật
Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương trong một
vài vị trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của Thái Dương
trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế nào ở vào
các vị trí hãm địa.
Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành
Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai
cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái Dương chủ sự
thông minh, lòng nhân đức, tài lộc và uy quyền. Thái Dương hợp với những người
Dương Nam, Dương Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí miếu
vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của Thái Dương,
mặc dù đó là thời gian đã là giao điểm giữa đêm và ngày.
Như vậy sáu cung còn lại từ cung
Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của bóng
đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái Dương có hai vị
trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể,
nghĩa là mặt trời chìm xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn
giữ được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái Dương.
Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai
cung Tí Hợi là người hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng
đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với
mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy. Là
người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh
chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao, thích sự
tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm mỹ, văn
chương và nghệ thuật.
Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ
đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như
áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn
qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng
tốt. Được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài
hơn. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay
tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao như Kình Đà,
Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ.
Nói về đường công danh sự nghiệp thì
mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất
là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng
như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết, họ là những ngưới bất đắc chí.
Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng
ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài
năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết
đạt thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không
biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch,
tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong
những phòng thí nghiệm v.v...
Nhật Trầm Thủy Bể dù nam hay nữ cũng
là những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh
vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa... Nếu có thêm những
sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ... hợp chiếu thì
họ là những nghệ sĩ có thực tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một,
hoặc là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những
trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một
diễn viên trên sân khấu, màn ảnh... lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn
là những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi
tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một
người khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writer) Đó là ý nghĩa của mặt trời
chìm đáy nước.
Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí
Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi
có câu "Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung." Tính tình đa sầu đa
cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều
hội đủ. Họ thường hợp và sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm,
cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn
vui.
Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng
nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu
may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng
có một cuộc sống an nhàn sung sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu
thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về
già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện.
Nhưng đặc biệt với những người tuổi
Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được
giàu sang phú qúy: "Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung lương."
Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là những
cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi.
MẪU NGƯỜI
“MỆNH
TUẦN THÂN TRIỆT”
*
Trong 118 vì sao của khoa Tử Vi có
hai sao được xem là đặc biệt nhất. Đó là sao Tuần và Triệt. Tuần Triệt an theo
năm sinh và hàng can của năm sinh, và đặc biệt là vị trí của Tuần Triệt nằm
giữa ranh giới của hai cung chứ không tọa thủ trong một cung nào như các sao
khác. Điểm đặc biệt thứ hai là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là
một vấn đề tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa và Triệt
hành kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số khác lại
cho rằng Tuần và Triệt không có hành cố định, đóng ở cung nào thì mang hành của
cung đó. Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc chỉ có
một hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai cung Thân và Dậu đều thuộc hành
kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì thì Tuần Triệt
phải mang hai hành Hỏa của cung Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho cùng, điều này
xem ra không hợp lý lắm.
Khi nói về ngũ hành, ví dụ như nói
về hành của một hướng, như Đông Nam thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa, hoặc hành
của Phượng Các là Mộc đới Thổ chứ không thấy ai nói vừa mang hành Mộc và mang
hành Thổ. Chữ "đới" ở đây có nghĩa là "nghiêng về" hay
"thiên về" Trong cuốn tử vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng
Triệt có hành Kim đới Thủy và Tuần có hành Hỏa đới Mộc.
Về những vị trí đắc hãm của Tuần
Triệt thì cũng có người cho rằng Tuần Triệt chỉ đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu,
còn những vị trí khác đều hãm địa. Nhưng điều này cũng không hợp lý vì chúng ta
biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ. Và cũng theo quan điểm này thì nếu Tuần Triệt
đắc địa sẽ không tác hại, còn nếu hãm địa thì sẽ tác hại. Đây là điều không hợp
lý thứ hai. Sau khi nói đến ý nghĩa của hai sao Tuần Triệt dưới đây, chúng ta
sẽ thấy bản chất của Tuần Triệt là như thế nào.
Tóm lại, người viết đồng ý với quan
điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên, "hai sao
Tuần Triệt không có những vị trí đắc địa hay hãm địa và cũng không thuộc một
hành nào trong ngũ hành."
Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với
cái tên của hai sao này cũng đã nói lên rất nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là
tuần tiểu, tuần phòng, canh giữ, vây hãm. Triệt là chặc đứt, phá tan, tiêu tán,
làm mất hết. Từ đó, hai sao Tuần Triệt vừa đóng vai trò vừa chính vừa tà, vừa
thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà chúng trấn đóng.
Khi nói đến ảnh hưởng của Tuần Triệt,
có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng Tuần Triệt làm đảo
ngược ý nghĩa tốt xấu của tất cả những sao trong hai cung mà chúng đóng. Ví dụ:
một sao đắc địa gặp Tuần Triệt thì những đặc tính tốt đẹp của sao này bị mất đi
và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao hãm địa gặp Tuần Triệt thì lại trở nên tốt
đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì uy lực của Tuần Triệt qúa lớn vì Tuần Triệt
không phải chỉ ảnh hưởng lên 1 sao mà chúng ảnh hưởng lên tất cả các sao mà
chúng trấn đóng. Quan điểm đảo ngược này chúng ta thấy trong một vài trường hợp
đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ, Hợi rất xấu, nhưng nếu gặp Tuần Triệt thì trở
nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi kỳ cách, đổi xấu thành tốt.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng Tuần
Triệt không hề đảo ngược ý nghĩa của các sao trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà
chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu của các sao. Theo thiển ý của người viết,
quan điểm này xem ra có phần hợp lý hơn. Tỉ lệ chiết giảm của Triệt tuy rất cao
nhưng cũng chưa đếm mức độ 100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một sao nào
đó. Hơn nữa, cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp Tuần Triệt thì lại
càng tốt hơn chứ không hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ
(Thạch Trung Ẩn Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp Tuần Triệt phá vỡ cho
ngọc lộ ra bên ngoài thì càng đúng cách.
Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân
Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái Thứ Lang đã gián tiếp xác định mức độ ảnh
hưởng của Tuần Triệt nói chung. Theo Thái Thứ Lang, người Mệnh Tuần Thân Triệt
cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về già mới được xứng
ý toại lòng. Như vậy chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà có
chính tinh đắc địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính
tinh hãm địa rồi trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp.
Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần
thì Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới được
xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh mẽ
hơn Tuần nhiều, cho nên cung Mệnh thà không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có
chính tinh, dù đắc hay hãm địa.
Trên thực tế chúng ta thấy hai sao Tuần
Triệt không có uy lực để thay trắng đổi đen một cách hoàn toàn, chẳng hạn, một
người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh gặp Tuần Triệt thì bản tính của người này
không thể trở thành giống bản tính của người có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một
cách khác, Tuần Triệt chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp
của đương số chứ không triệt tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương
vốn đã đắc địa.
Ngoài ra, ảnh hưởng của Tuần Triệt ở
mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do
nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên
Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân...dù đắc hay hãm cũng tối kỵ Tuần Triệt
hơn các sao khác bởi vì kiếm gãy, ngựa què, tướng mất đầu...thì tất nhiên là vô
dụng. Tương tự, Thất Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất
hô bá ứng, nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm.Tuy vậy, cũng có
những trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã nói
ở trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên Tuần Triệt lại rất cần
thiết.
Chúng ta vừa nói đến ảnh hưởng của Tuần
Triệt trên các sao, còn ảnh hưởng của Tuần Triệt trên các cung thì như thế nào?
Có phải sự ảnh hưởng của Tuần Triệt trên hai cung mà chúng trấn đóng đều như
nhau? Điều này chúng ta cũng có hai quan điểm:
1. Ảnh hưởng của Tuần Triệt trên mỗi
cung nặng hay nhẹ còn tùy thuộc đương số là Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam,
Dương Nữ. Nói một cách khác là theo chiều của vòng đại hạn của mỗi lá số. Ví
dụ: Lá số có vòng đại hạn đi theo chiều thuận, có nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua
Phụ Mẫu, Phúc Đức v.v... Và nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và cung Huynh Đệ, như
vậy chúng ta nói là Triệt chặn đầu cung Huynh Đệ và vuốt đuôi cung Mệnh. Khi
nói Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh hưởng của Triệt ở cung đó sẽ mạnh hơn
đối với cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được xác định cũng theo
nguyên tắc Âm Dương:
Dương hành tam thất (3/7)
Âm quy nhị bát )2/8)
Như vậy, nếu theo chiều thuận của
vòng đại hạn thì cung nào bị Tuần Triệt chận đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu
đi ngược sẽ chịu ảnh hưởng 8 phần và tương tự các cung xung chiếu hay tam hợp
chiếu với các cung có Tuần Triệt đóng cũng chịu ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên
tắc này.
2. Ảnh hưởng của Tuần Triệt phân phối
đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ không có cung nào nặng hơn cung nào
như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất. Người viết đồng ý với quan điểm thứ hai vì
chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của Tuần Triệt chỉ khác nhau trên các cung có
chính tinh mà thôi. Thường những cung có chính tinh không nên gặp Tuần Triệt.
Trái lại, những cung nào Vô Chính Diệu thì lại rất cần có Tuần Triệt. Trong
trường hợp này Tuần Triệt đóng vai trò của một người giám hộ để bảo vệ cho một
gia đình không có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút ra một hệ luận là ảnh hưởng của Tuần
Triệt đối với chính tinh có tầm quan trọng hơn đối với các phụ tinh.
Ngoài ra, Tuần Triệt đôi lúc còn
đóng hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác. Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp,
gọi là tam phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì
mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan,
Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc cách tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như
bị phá hết: "Tam phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính giao
phù kỵ, nhất không chi trực phá."
Và trên đây chúng ta mới nói đến
vùng ảnh hưởng của Tuần Triệt, còn thời gian ảnh hưởng của hai sao này thì như
thế nào? Thường có người cho rằng Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần
ảnh hưởng 30 năm sau của cuộc đời. Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng
mạnh mẽ nhất trong khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh
hưởng của Tuần thì không có khoảng thời gian nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung
bình, đều đặn và bền bỉ từ tiền vận cho đến hậu vận.
Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì
ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thông
thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối
với những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm
giảm bớt những ý nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời
ky tiền vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt
đẹp của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không thể
nào được 100% như trường hợp không bị Triệt.
Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì
đương số lại được một lợi điểm là, giả sử, nếu có những hung tinh hay sát tinh
thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh được phần nào những
điều không tốt do các hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên, khi
Triệt yếu dần, không còn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt
xấu lúc đó chỉ còn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào
mạnh thì chế ngự được bên đó.
Nói chung, Triệt đóng tại Mệnh thì
tiền vận (từ lúc sinh ra cho đến 32 tuổi đối với người Thủy Nhị Cục, 33 với Mộc
Tam Cục, 34 với Kim tứ Cục, ...) Thường bị lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh
mồ côi sớm (trường hợp Triệt đóng giữa hai cung Mệnh và Phụ Mẫu )
Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân
thì ảnh hưởng của Triệt không có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong
khoảng trung vận và hậu vận, có thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối trở
ngại cho đương số những lúc khởi sự một việc gì mới mà thôi.
Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng
thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao tốt mang đến, cũng như những hung họa do
hung sát tinh gây ra cho đương số đều giảm xuống ở mức trung bình, và muốn biết
cuộc đời của đương số thế nào trong khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả
tốt và xấu lên bàn cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng
thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn còn
ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời gian
của tiền vận những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần chi phối vẫn còn âm
hưởng.
Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn
đề tốt hay xấu cũng tương tự như trên. Nếu có khắc thì trong trường hợp này là
Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời gian trung vận và hậu vận mà thôi.
Nếu cả Tuần và Triệt cùng đóng ở
cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau.
1. Một số cho rằng khi Tuần Triệt gặp
nhau thì sẽ tự hoá giải cho nhau và hai cung đó xem như không có mặt của Tuần
Triệt nữa. Điều này xét ra không hợp lý lắm bởi vì khoa Tử vi không có những
sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những sao cùng nhóm luôn hỗ trợ cho
nhau, tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn. Chẳng hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương
Khúc, hay hủy hại nặng nề khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao
khác nhóm mới khắc chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự lẳng lơ
của Đào Hoa.
2. Mệnh có cả Tuần Triệt như một nhà tù
có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt, ông phụ là Tuần. Hết khoảng thời gian
của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng còn ông Tuần cai quản, chứ không hề nhà
giam được bỏ ngỏ.
Sau hết, trường hợp chúng ta muốn
nói ở đây là những lá số có Tuần đóng ở Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta
thường nghe là mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt Thân
Tuần, thì cuộc dời của hai mẫu người này như thế nào?
Để có câu trả lời, cách tốt nhất là
chúng ta để lên bàn cân từng phần một rồi cộng trừ các số thành với nhau để có
đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng, nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần
gây ra tương đối nhẹ nhàng, còn nếu cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng
không được bao nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con phá gia chi tử
trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có người cha là triệt còn đủ uy lực
để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì không đủ sức.
Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào
cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có Triệt đóng thì cũng không gây ảnh hưởng gì
đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu mà thôi. Trường
hợp nếu cung Thân xấu thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ
không có năng lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà có
cung Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện.
Trường hợp đối với những người Mệnh
Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết
giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận mà thôi.
Rồi từ đó cho đến hết cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở
mức độ ôn hoà. Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử
thách nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời tương
đối cũng được bình ổn.
Tuy nhiên, người Mệnh Tuần Thân
Triệt, hay Mệnh Triệt Thân Tuần cũng có những trường hợp đặc biệt như, nếu cung
Mệnh hay cung Thân Vô Chính Diệu mà có Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn là không
có Tuần Triệt. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao
Thiên Không và Địa Không, tùy theo có bao nhiêu sao KHÔNG, chúng ta gọi là cách
Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị không, tam không hay tứ không, đều là những cách
hoạch phát. Hoặc là nếu Tuần Triệt đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung này Vô
Chính Diệu lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì cũng rất tốt đẹp.
Tóm lại, Tuần Triệt là hai sao đặc
biệt nhất trong 118 sao của khoa Tử Vi, và cũng đã trở thành đề tài tranh luận
rất nhiều. Nhưng tốt nhất là tùy theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự
chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù sao, khi nói đến Tuần Triệt, chúng ta đều
thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này trên một lá số nào đó không phải là điều
đơn giản. Giống như một người bị bệnh phải uống thuốc, như người bị chứng đau
nhức phải uống thuốc giảm đau. Nhưng khi uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh
ra chứng đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra
chứng bất lực.. Ảnh hưởng của Tuần Triệt cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này
thì phá bên kia, và có lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó.
MẪU NGƯỜI
“CỰ
CƠ MÃO DẬU”
*
Giai cấp xã hội của thời phong kiến
xa xưa được xếp hạng thứ tự Sĩ, Nông, Công, Thương. Kinh doanh thương mại được
đứng vào hàng thú tư. Nhưng thật sự thì ai cũng hiểu một quan niệm, gần như là
một định luật đó là "phi thương bất phú". Khoa Tử Vi cũng đề cập đến
những mẫu người của thương trường, trong đó có mẫu người Cự Cơ Mão Dậu, là một
trong những mẫu người doanh thương mà chúng ta khảo sát sau đây.
Cự Môn là một bắc đẩu tinh, thuộc
hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh,
"ở bầu thì tròn, ở ống thì dài" Cự Môn đắc địa đi với những võ tinh
thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những
sao văn tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với
những sao có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh
cự phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự Môn rất buông thả.
Cự Môn miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa
ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp
hạng là ám tinh nhưng Cự Môn miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân
hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh.
Cự Môn là biểu tượng của cái miệng,
của lời ăn tiếng nói...cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện,
có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, dễ mất
lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái
miệng của mình thiếu thận trọng.
Với bản tính bất nhất như đã nói
trên, may mắn cho Cự Môn tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được
thiện tinh Thiên Cơ, thuộc nam đẩu tinh, hành Mộc. Và Thiên Cơ cũng góp một phần
bản chất vào mẫu người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn
Tuất Mão Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Thiên Cơ là
một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình.
Khi đắc địa, Thiên Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu
trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú
quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh.
Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại
Mão Dậu. Hành Thủy của Cự Môn càng sinh vượng cho hành Mộc của Thiên Cơ, hơn
nữa, cũng tại vị trí này, Thiên Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho
nên Cự Môn trở thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự
Môn đã hỗ trợ Thiên Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này.
Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người
trong thương trường. Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi
bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn
v.v... Còn người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là
ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật v.v...Hay
nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự Môn, cho nên những sao đi kèm
với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào.
Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ
với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những nhà
làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những tổ
hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh của họ.
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương
Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho
nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những nhà xuất
bản sách, báo chí, nhạc, hay phim...
Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu,
Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người kinh doanh trong các ngành y dược học. Nhỏ
thì là phòng mạch, một pharmacy, lớn thì một clinic, một bệnh viện, một viện
bào chế dược phẩm...
Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ
mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm
Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng
sông đều chảy về hướng Đông.
Khi nói về cách Song Hao ở Mão Dậu,
chúng ta thấy có hai nguyên nhân. Đầu tiên là do địa thế của nước Trung Hoa,
tất cả những dòng sông đều chảy về hướng Đông, cho nên cổ thi có câu: "tự
cổ nhân sinh thường hận, thủy thường đông" có nghĩa là từ xưa đến nay
người đời ai mà không ôm một mối hận lòng, điều này cũng tự nhiên như dòng sông
chảy về hướng Đông.
Song Hao thuộc hành Thủy, lại được
hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận.
Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu tượng
của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương Đông,
khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của
mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở
Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú
quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác. Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số cũng là
người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng giảm:
"Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã
Túng hữu tài quan, dã bất
chung"
Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng
Thủy Triều Đông thì lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có
Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ, khắc với
hành thủy của Song Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không
được ổn vì cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao chỉ áp
dụng cho Hóa Lộc mà thôi?
"Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ,
tối hiềm Hóa Lộc"
Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với
Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý
nghĩa của Song Hao mà ra.
Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý
nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang
tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ + Song Hao + Hóa
Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền vào
tay mặt thì ra tay trái.
Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có
Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương số không
thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, một Thiên Cơ hiền lành không thể trói
buộc nổi Cự Môn với bản tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự Môn dù miếu vượng cũng
có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự Môn là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là
khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì
cãi vã suốt ngày...Cho nên đàn bà có Cự Môn thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài
giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều
hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự Môn lãng vãng đâu đó. Đó chính
là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh.
Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud
mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có
khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất đặc biệt
đó chúng ta thấy có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu:
1. Họ có thể che dấu hay dồn nén
khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh
doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là "tình dục thăng
hoa thành tài năng"
Trong những trường hợp tương tự như
thế, chúng ta mới thấy quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm.
Thật vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta đều thấy hầu
hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh khác. Điều
này không có gì nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi
người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những thất tình lục
dục đó vào một chữ "không" biến tình dục thành tài năng, và được như
vậy họ mới quán triệt được chữ "đạo", rồi mới hiểu được chữ
"ngộ" là gì.
2. Là người có cuộc sống buông thả,
phóng khoáng. Họ dùng những thành qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ
biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương trường, đây cũng là người
đàn bà không thua sút ai, mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn
vàng để mua lấy trận cười làm vui...Đó chính là mẫu người đàn bà mà chúng ta
thường gọi là "đàn bà dễ có mấy ai"
MẪU NGƯỜI
“ĐA
TÀI ĐA NĂNG”
*
Chúng ta vẫn thấy những người tuy
sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét
mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên
mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín.
Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch
Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là
hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không
phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến. Ngược
lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ.
Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ
thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng
đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ,
cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với
nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời
của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ
sẳn rồi.
Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ
côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia
đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì
vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn
này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền
vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần.
Để bù trừ cho những bất hạnh đó,
người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương
quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả
năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất
của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản cho
khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh
vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang
Hổ.
Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ
mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không
làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư...thì dễ vướng vào
vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam
lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là
những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu...Riêng với nữ mệnh thì
nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia
đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc
có thể thành sát phu. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được
phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có
con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử
cung, buồng trứng...Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không
có tay nuôi súc vật, phải vào trung vận thì đặc tính này mới giảm dần.
Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách
Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy,
và thường phát về võ nghiệp.
Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách
Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là
thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận
hội tốt đẹp đang chờ đón. Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp
được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu
còng gọi là cách "tứ phương củng phục anh hùng" ý nói những người có
khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương.
Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là
cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn
vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no
nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm
ý là "cõi Phật" Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng
có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân
hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm
linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão
Dậu.
Trong hai sao Tang Hổ thì Bạch Hổ có
tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang Môn. Ví dụ như Bạch Hổ đi với Tấu Thư (Hổ Tấu)
có nghĩa là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều.
Bạch Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã,
chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất
dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự
tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được
như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương...
Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh
(Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận
lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai
họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công
danh.
Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương
đồng cung thủ Mệnh là cách "hổ hàm kiếm" = Hổ ngậm kiếm, chỉ người
gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì
đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh.
Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho
nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập
hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng
nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh
về xương như đau khớp, rỗng xương... Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp
Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai.
"Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên
bác
Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu"
Hai câu trên có thể dùng để tóm lược
những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng.
Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền.
CẢI SỐ ĐƯỢC KHÔNG
*
Con người từ khi bước chân vào đời
ai cũng hăm hở, lạc quan và đầy lòng tự tin. Ở vào cái tuổi mà người ta gọi là
"Tam Thập Nhị Lập" ít có ai nghĩ đến hai chữ "số mệnh".
Nhưng dần dần khi đã va chạm với cuộc sống, trải qua một vài lần thất bại đổ vỡ
... thì lúc đó mới bắt đầu thấm mệt mới bắt đầu hiểu ý của Nguyễn Du, "có
tài mà cậy chi tài" hoặc có phần khắt khe và hoàn toàn ràng buộc vào cái ý
niệm "thiên mệnh" là "bởi số, chạy đâu cho khỏi số ?"
Tin hay không tin, tin ít hay nhiều,
mức độ tin tưởng sẽ tỷ lệ theo tuổi đời, và có thể tin sớm hay tin muộn vào hai
chữ 'số mệnh" thì cũng còn tùy thuộc đường đời của mỗi người, là con đường
đầy hoa lá hay sỏi đá chông gai ? Và người Á Đông của chúng ta cho rằng, vào
khoảng lứa tuổi 40, có thể gọi là khoảng đời mà con người đã "tận nhân
lực" cho nên có thể bắt đầu "tri thiên mệnh"
Như vậy biết số để làm gì? Và biết
số rồi có cải được hay không?
Vấn đề đầu tiên, biết số để làm gì,
biết số có lợi ích gì không, là những điều có thể có câu trả lời tương đối dễ
dàng. Có người nói rằng:
-Tôi không bao giờ xem Tử Vi, biết
rồi thêm buồn thêm lo mà thôi.
Khi nói như vậy, họ đã hàm ý tin
rằng mỗi người đều có số mệnh, và ít nhiều họ đã thấy hay cảm thấy được cuộc
đời của họ không có gì lạc quan lắm, cho nên chấp nhận một cuộc sống "đến
đâu hay đến đó" biết trước chỉ thêm lo nghĩ mà không làm được gì để thay
đổi.
Nhóm người này rất ít và mang cái
tâm trạng của loài đà điểu, sợ thì chui đầu xuống đất cát, còn hầu hết đều muốn
biết số của mình như thế nào. Và những người này lại có hai quan niệm, một thụ
động và một chủ động. Những người thụ động là khi biết số của mình rồi thì
thôi, phó mặc cho số như "thuyền đời mười hai bến nước, trong nhờ đục
chịu" ngược lại, những người có quan niệm chủ động thì họ tin vào số, dựa
vào số, nương theo số để tránh hết những trở ngại mà họ đã biết trước. Đây chưa
phải là một hình thức cải số mà chúng ta sẽ đề cập đến. Có thể nói đây là một hình
thức tích cực của sự cải số, biết số và làm đúng với số cũng là một cách giúp
chúng ta tránh được phần nào trở ngại, có thể là những trở ngại nhỏ nhặt, nhưng
cũng có thể là những nguyên nhân đưa đến những sự thất bại to lớn. Ví dụ, người
Mệnh Vô Chính Diệu, nếu biết số của người VCD là không nên đứng mũi chịu sào,
có nghĩa là nếu trong quân đội thì không nên giữ chức vị trưởng, dù lớn hay
nhỏ, hoặc bên hành chánh thì không nên giữ những chức vụ như trưởng phòng, giám
đốc v.v... hoặc trong lãnh vực làm ăn kinh doanh thì không nên là người ra mặt
điều hành. Một ví dụ khác, người làm ăn mua bán nếu biết hạn của mình năm nay
không tốt thì họ chỉ giữ cơ sở của họ như cũ chứ không bỏ công bỏ của để khuếch
trương phát triển rồi chuốc lấy sự thất bại lỗ lã. Còn ngược lại, nếu biết là
hạn tốt, họ sẽ mạnh dạn mạo hiểm hơn mà vẫn gặt hái được những thành qủa như ý.
Và trên khía cạnh tiêu cực, nếu mình biết trước số mình nghèo, tình duyên mình
lận đận, con cái mình sẽ hư hỏng, về già mình sẽ cô đơn lẻ bóng v.v...thì ít ra
mình đã biết, đã ít nhiều có sự chuẩn bị về tâm lý. Khi sự việc xảy đến, những
ảnh hưởng về tinh thần sẽ có phần nhẹ nhàng, có thể chịu đựng được và có thể
vượt qua dễ dàng hơn là trường hợp bất ngờ.
Đi xa hơn, bậc làm cha mẹ nếu biết
được số mệnh là một điều rất hữu ích trong vấn đề giúp đỡ con cái của mình. Mặc
dù chúng ta vẫn nói, không ai hiểu con cái bằng cha mẹ, nhưng thật ra sự hiểu
biết của cha mẹ về con cái rất hạn hẹp. Ngoài tính tình và những sở thích hiện
tại, có nghĩa là đang trong lứa tuối đó của mỗi đứa con, thì cha mẹ không thể
nào nhìn thấy được những biến chuyển và những thay đổi trong tương lai của mỗi
đứa con của mình. Nhưng khoa Tử Vi có thể nhìn thấy được những điều đó và giúp
cho cha mẹ hiểu rõ năng khiếu, sở trường, sở đoản của mỗi đứa con để hướng dẫn
con cái chọn ngành mà học, chọn nghề mà làm. Nói chung, nếu cha mẹ có thể nhìn
thấy trước cuộc đời của con mình, sung sướng hay cực khổ, may mắn hay gian
truân, tình cảm được hạnh phúc hay lận đận, thì ít ra cha mẹ cũng có sự bù đắp
trước về mặt tâm lý giúp cho con cái khỏi bị ngỡ ngàng và thất vọng khi phải
đối diện với nghịch cảnh của đời mình.
Trên một phương diện khác, biết số
là một yếu tố hữu ích cho thuật dùng người. Ba chữ "thuật dùng người"
không hẳn mình phải là một cấp lãnh đạo, chỉ huy v.v... nhưng trong vấn đề hợp
tác làm ăn với nhau, biết rõ người hợp tác với mình cũng là một điều quan
trọng. Hoặc trong vấn đề giao thiệp của cuộc sống hằng ngày, biết số giúp mình
biết người và khỏi lầm người thì cũng tránh được sự ân hận về sau.
Những điều vừa nêu trên đề cập vấn
đề chúng ta biết số và thuận theo số, như vậy biết số rồi, chúng ta có cải số
được hay không?
Đối nghịch lại với quan niệm
"thiên mệnh" là quan niệm "nhân định thắng thiên" Nhân sinh
quan này phản ảnh phần nào khả năng tự tôn của con người, sự phấn đấu là tự tin
của những tâm hồn lạc quan. Trong những bộ môn Khoa Học Huyền Bí thì môn Phong
Thủy, Tướng Mệnh, và Tử Vi Đẩu Số đều đề cập đến phần nhân định, có nghĩa là
con người có phần nào chủ động trong số mệnh của họ, chỉ khác nhau ở chỗ mức độ
mà con người có thể cùng tạo hoá dự phần vào sự thay đổi số phận của mình.
Nói như vậy là chúng ta đã sớm có
câu trả lời, con người có thể cải số được nhưng rất hạn hẹp và chỉ ở một mức độ
nào đó thôi chứ không thể nào thay đổi, lật ngược lại cả 180 độ. Trong những
môn vừa nêu trên thì khoa Phong Thủy có thể sửa đổi một cách dễ dàng nhất vì
đối tượng của Phong Thủy là nhà ở, cơ sở thương mại hay mộ phần. Về khoa Tướng
Mệnh, sự sửa đổi không thể nhờ vào khoa thẩm mỹ mà chỉ đặt trên yếu tố cái tâm
của con người, "tướng tùy tâm sinh" Và khoa Tử Vi mà chúng ta đề cập
ở đây chỉ dẫn cho chúng ta những trường hợp và phương cách cải số nhưng xét ra
cũng rất hạn chế và kết qủa của cuộc cải số này vẫn còn ràng buộc chặt chẽ vào
những yếu tố quan trọng mà con người khó lòng kiểm chứng được, đó là phúc đức
của mỗi người. Khi nói phúc đức của mỗi người chúng ta đã hiểu rằng phúc đức
tạo được do chính bản thân mình tạo ra và phúc đức mà mình thừa hưởng được từ
cha mẹ, ông bà hay nói chung là của dòng họ.
Như vậy, chúng ta đã nói biết số và
thuận theo số cũng là một hình thức cải số nhưng tiêu cực. Còn những cách cải
số tích cực hơn nhưng cũng rất hạn hẹp, ví dụ, một vài trường hợp thấy trong
các sách Tử Vi như nếu một đứa con nào đó có số khắc với cha mẹ thì đứa con ấy
sẽ bị đau ốm, bệnh tật hoặc là có thể từ khi sinh ra đứa con này, cha mẹ của nó
thường hay gặp những chuyện không may như mất việc, làm ăn thua lỗ v.v...Trong
trường hợp này, cách hóa giải là cho đứa con ở với ông bà nội/ngoại, hay chú
bác cô dì...
Cách hóa giải của khoa Tử Vi thoạt
nghe thì có vẻ dễ dàng nhưng thực tế thì đây là một vấn đề rất tế nhị. Có cha
mẹ nào sinh con ra mà không muốn chính tay mình nuôi con. ở đây chưa nói đến sự
ảnh hưởng sâu xa về tâm lý sau này của đứa bé. Tuy vậy, nếu làm được thì đổi
lại sự bình yên cho cả hai bên, cha mẹ và con cái.
Một ví dụ khác như đối với những
người con gái mà khoa Tử Vi gọi là "cao số" hoặc có số hình khắc với
chồng con, nặng nề hơn là số sát phu thì những lời khuyên thông thường là không
nên cử hành đám cưới hỏi linh đình, mà càng nên đơn giản, càng lặng lẽ âm thầm
càng tốt. Tùy theo mức độ khắc sát nặng nhẹ, hoặc lễ cưới không đốt đèn long
phụng, không rướt dâu, hoặc có thể ở mức độ là cô dâu lặng lẽ xách vali về nhà
chồng, hay một hình thức khác mà chúng ta thường nghe nói là cưới chạy tang.
Cưới chạy tang là trường hợp đôi bên chưa có ý định làm đám cưới, nhưng nếu
trong gia đình hai bên có tang, thì đây cũng là một cơ hội hóa giải sự khắc sát
nặng nề, những giọt nước mắt ngày sau khóc chồng thì nay đã đổ xuống cho tang
sự.
Như vậy, đối với khoa Tử Vi, chúng
ta có thể cải số, nhưng chỉ ở một mức độ nào đó và cũng giới hạn trong một vài
lãnh vực. Việc cải số đối với khoa Tử Vi vẫn đặt căn bản trên quan niệm phúc
đúc là chính yếu, đức năng thắng số. Cái yếu tố phúc đức này có được hay không
là tùy ở cái tâm, cái tánh và hành động của mỗi cá nhân. Ví dụ như một giai
đoạn về đức năng thắng số là một cậu bé được ông thầy coi số và nói với cha mẹ
cậu ta sẽ không sống qúa tuổi 17. Một ngày tình cờ đi qua con suối, cậu bé thấy
tổ kiến có hàng ngàn con kiến đang bị cuốn trôi theo dòng nước. Cậu bé can đảm
lội xuống suối để cứu tổ kiến. Và cha mẹ đã ngạc nhiên khi thấy cậu vẫn sống
qua tuổi 17.
Còn thời Tam Quốc phân tranh, Khổng
Minh Gia Cát Lượng, trên thông thiên văn, dưới rành địa lý, làm phép cầm sao
bổn mạng của mình để sống thêm vài năm nữa mà thất bại. Người xưa đã nói:
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô" Gia Cát Lượng vì phò tá nhà Hán
mà đã ra tay đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốt Hồ Lô, rồi
đốt luôn 80 vạn quân Tào trên sông Xích Bích thì như vậy phúc đức còn đâu mà
toan cải số ?
Tóm lại, những phương pháp cải số
của khoa Tử Vi vừa giới hạn, vừa khó thực hiện. Một cách được xem là căn bản và
áp dụng tổng quát là quan niệm "đức năng thắng số"
Nhưng hai chữ phúc đức vừa khó đo
lường, vừa có vẻ mơ hồ khiến cho con người đâm ra nghi ngờ và đưa đến những ý
nghĩ có vẻ đùa giỡn nhưng cũng phần nào hàm ý sự hoài nghi như có câu "
người ngay thường mắc nạn, kẻ ác lại sống lâu." Và nếu đem cái triết lý
qủa báo của nhà Phật thì lại đi vào một nghi vấn khác: đâu phải lúc nào cũng
thấy "qủa báo nhãn tiền" ? Nếu không "nhãn tiền" thì đến
bao giờ? Đi xa qúa sẽ làm lung lay niềm tin của con người.
*
NGUYỄN PHÚC VĨNH TƯỜNG
Địa chỉ: (đang cập nhật)
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập nhật)
-
ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới thiệu -
(Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét