MỜI ĐỌC:

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2020

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ TRUNG HOA: LINH ĐẾ LƯU HỒNG - Chuyển ngữ: Trần Đình Hiến (Hà Nội)

 

LINH ĐẾ LƯU HỒNG

đời đông hán: mắc chứng sợ lên cao

*

 

Lời ca: Giằng lấy cục bùn từ miệng chim én (én lấy bùn để làm tổ).

Mà lại đầu kim gãy để dùng

Vạch miêng chim én để tìm hạt đậu

Bóc cẳng cò lấy thịt ăn

Rãn muỗi lấy dầu

Xin tiên sinh cứ hạ thù!

 

Trên đây là bài vè chế giễu những anh keo kiệt, rán sành ra mỡ. Vì là tác phẩm văn học, bài vè tránh không khỏi khái quát các hiện tượng cùng loại thành điên hình. Cũng vì vậy mà có người hỏi: "Trong cuộc sống có loài người như vậy sao?"  

(Dịch giả Trần Đình Hiến)

Khẳng định là có. Không những trong đám phàm phu tục tử, mà cả trong hàng ngũ Đế Vương cũng không tránh khỏi có những người như thế. Tất nhiên, họ không đến nỗi như tác phẩm văn học đã cường điệu "giằng lại cục từ miệng én, rán muỗi lấy dầu ăn", nhưng so đo từng tí trong chuyện tranh giành lợi lộc, thì trong các đế vương có rất nhiều.

Linh đế Lưu Hồng, ông vua thứ 12 đời Đông Hán, là ông vua keo kiệt hơn những người keo kiệt khác một cái đầu.

Lưu Hồng là đời chút của Chương Đế Lưu Đát, con trai Giải Độc Đình Hầu Lưng Sưởng. Nếu vì quá tham lợi nhỏ, thì ông vua tại vị 25 thành tích chẳng có gì đáng kể, chắc chắn sẽ không được sử sách ghi lại.

Ông tổ nghề mộc là Lỗ Ban, ông tổ nghề hát  là Đường Minh Hoàng, vậy tổ sư của ông "keo" là ai? Có người bảo là Đào Chu, có người lại bảo là Hoằng Cao. Sai hết! Một nhà sử học đã nói không hề khôi hài, rằng "xét về mặt quy mô cũng như thủ đoạn, tổ sư của những người keo kiệt, không ai hơn Hán Linh đế Lưu Hồng.

Ngày Đinh Sửu tháng 12 năm 167, Đông Hán Hoàng đến Lưu Chí bị chết đột ngột. Do bị liệt dương bẩm sinh, Lưu Chí không có con. Vấn đề người nối ngôi trở nên rắc rối.

Sau khi bí mật bàn mưu tính kế, vợ Lưu Chí là Đậu Hoàng Hậu thoả thuận cùng gia nhân Dậu Võ, quyết định lập Lưu Hồng lên nối ngôi. Lưu Hồng không tin vào tai mình khi nghe tin này, ông ta cho rằng mình nghe lầm.

Ta biết rằng, chế độ quan lại đời Đông Hán xếp theo từ dưới lên là Hầu, Vương, Thân Vương, Thái tử, Hoàng đế. Người dân thường thì miễn bàn, tước Hầu khó có hy vọng trở thành Hoàng đế. Tước Hầu đời Đông Hán lại chia thành ba cấp: Hầu ăn lộc của một huyện, hầu ăn lộc hai xã, Hầu ăn lộc của ba xóm (tam Hầu), mà Lưu Hồng lại ở cấp thấp nhất: Giải Độc Tam Đình Hầu (trông coi việc tưới tiêu). Vì vậy, dù nằm mơ, Lưu Hồng cũng không nghĩ rằng mình có thể làm vua.

Đúng là vận may đã đến!

Kể từ lúc Quang Lộc Đại phu Lưu Điều và Trung Thường Thị Tào Tiết đến Hà Gian, nơi cư ngụ của Lưu Hồng để đón về làm vua. Lưu Hồng đã tâm niệm : người ta sống ở đời, trăm năm chỉ là một chớp mắt, phải sống gấp, làm những gì mà mình thích, để không phụ với trời xanh. Còn vua thì làm cũng được, không làm cũng được. Bảo làm thì mình làm, vì sao cũng chỉ là vua nhặt !

Tất nhiên, sau khi lên ngôi cũng có làm một đôi việc, vua mà lại. phải ra vẻ một ông vua chứ. Thế là niên tiếp xuống chiếu, đổi niên hiệu là Kiến Ninh phong Thái Uý Trần Phồn là thái phó, Quốc Trượng Đậu Võ, Tư Đồ Hồ Quảng cùng đảm nhiệm Tham Lục Thượng Thư  Sự, tiếp đó, đại xá thiên hạ. không hiểu sao, thiên hạ không đại xá cho nhà vua, sau khi lên ngôi được ba năm, vùng Hà Nội (bắc Hà Bắc) bị đói, dân ăn thịt lẫn nhau. Quốc khố rỗng tuếch, đời sống của vua cũng lao đao. đúng khi đó, có người mách nước cho nhà vua.

Người nào vậy? Không phải là Đậu Thái hậu, mà là Hiếu Nhân Đổng Thái hậu, mẹ đẻ của Lưu Hồng. Đổng Thái hậu giúp nhà vua rất nhiều ''mẹo", trong đó có mẹo vét tiền.

Người ta nói rằng, thiên tử giầu vì có bốn biển, ''dưới gầm trời, đâu cũng là đất đai của nhà vua, nhưng người sống trên đất đai đó đều là thần dân của nhà vua, vinh hoa xài không hết, phú quí hưởng bất tận, vậy vua cần tiền để làm gì ? câu hỏi thật là chí lý.

Theo lí luận phân tâm học của phương tây, ''bản năng" chi phối tất cả. Thật ra, ngoài ''tính bản năng" trời sinh, người ta còn một bản năng khác : chạy theo đồng tiền.

Theo bản năng, Lưu Hồng vui vẻ tiếp thu  kiến nghị của Thái hậu, ra lệnh: những kẻ bị tội mà chưa hành quyết thì có thể '' nhập kiêm thục" (nộp tơ lụa để chuộc tội), nói theo ngôn ngữ hiện đại thì những kẻ giết người, đốt nhà cướp của, hiếp dâm vv... mà chưa bị hành quyết, chỉ cần nộp một khoản tiền là thoát tội.

Chỉ trong vòng vài năm, chiếu lệnh này ban bố đến ba bốn lần.

Kết quả như thế nào ! Tiền voà rất nhiều, nhưng quốc khố có đầy hay không thì rất khố nói. Thực tình hoan nghênh cử chỉ của nhà vua : giết người thì đã sao, bỏ tiền ra mà chuộc tội. Hiếp dâm một phụ nữ thì có gì là ghê gớm, lão đây có tiền. Thái hậu yêu tiền, nhà vua cũng yêu tiền, mắt đen không nhìn thấy bạc trắng, có tiền '' mua tiên cũng được ", tiền rất được việc.

Lòng tham của con người là không đáy, đổ vào đấy bao nhiêu cũng không vừa. Một khi đã đánh hơi thấy sự '' ngọt bùi của đồng tiền", Lưu Hồng và Đổng Thái hậu bèn quyết định phóng tay vơ vét.

Phóng bằng cách nào !

Nghĩ đi nghĩ lại, Lưu Hồng quyết định bán quan tước.

Đúng, chỉ quan mới đáng giá, quan cũng giỏi kiếm tiền. Thời bấy giờ tuy chưa có cách nói ''ba năm làm Tri phủ, mười vạn lạng bạc ròng", nhưng loại Thái Thú trên 2.000 thạch và 2.000 thạch đá giỏi xay tiền như  thế nào, thì khi ở ấp phong Giải Độc Đình Hầu, Lưu Hồng đã biết quá rõ. Giờ đây Thái hậu cần tiền tiêu, không bắt chúng nộp thì bắt ai ?

Thế là '' mở phủ đệ phía Tây để bán quan. Từ Quan Nội Hầu đến Hổ Bôn Vũ Lâm số tiền nộp có khác nhau"

Theo phụ chú của "Hậu Hán thư", ta thấy nhiều hiện tượng thú vị:

Thì ra, Thái hậu yêu tiền, ông con quý tử của Thái hậu cũng yêu tiền. Cái cảnh hai mẹ con hăng hái mua quan bán tước , đã mở đờng cho nạn hà lạm sau này.

Nếu như tán đồng việc đi tìm tổ sư cho các nhành nghề hiện nay, tìm danh nhân lịch sử để tuyên truyền cho tâm lý khắc bạc trưởng giả học làm sang, cái tâm lí mà những năm 80 tại Trung Quốc lan tràn khắp hang cùng ngõ hẻm cực kỳ sôi động và bị người ta chỉ trích nhiều nhất, bị đàm tiếu, bị oán hận, nhưng lại như một con rết đọc, chết mà không bị thối rữa, hễ có điều kiện là lại ngóc đầu dậy, cái loại " quan mua" mà người ta yêu ngời ta hưởng đó, nếu định tìm tổ sư thì bổn nhân đánh cuộc rằng, cái ngôi vị cao quý đó phải thuộc về Lưu Hồng và mẹ của vua là Đổng Thái hậu.

Khỏi nói dài dòng, ta hãy xem nhà vua bán quan như thế nào?

Bậc tam công, Tư đồ, Tư không, Thái phó, Thái uý, Thái bộc, Thượng Thư lệnh, Châu mục, nhất đẳng hầu v.v... hưởng lộc 2.000 thạch, nhất loạt thu 20 triệu.

Quận tú, Huyện lệnh (huyện loạ I), Hiệu uý, Châu viên, Thừa, Chủ bạ ăn lộc 400 thạch, đồng loạt nộp 4 triệu.

Một thạch đổi một vạn, nhìn qua thì cứ tưởng là đắt. Nhưng núi rừng mênh mông chim chóc nhiều vô kể, chắc chắn có những kẻ vào bẫy. Có tiền là có thể mua rượu, mua thịt, mua phụ nữ, vậy tại sao lại không mua một chức quan để làm quan? Mua rượu uống xong là hết, mua thịt ăn xong là mất, mua phụ nữ lại càng thiệt : hao tiền tốn sức. Chỉ có mua quan, tuy có đầu tư nhiều, nhưng kiếm được lại càng nhiều hơn.

Thái hậu và nhà vua ở chốn thâm cung làm sao hiểu được tâm lý của bọn tiểu thị dân vô lại vì phú bất nhân đó.

Sau khi công bố biểu giá mua quan bán tước, Thái hậu thấy trong lòng bâng khuâng.

Tuy Thái hậu là bậc tôn quý, nhưng dù sao thì cũng là phụ nữ. Thấy tiền của chảy vào như nước, Thái hậu vừa vui vừa buồn. Buồn vì chuyện gì? Vì không có chỗ tiêu tiền chăng? Không phải, Thái hậu kiếm tiền không phải để tiêu. Giống như các thân sĩ ăn không ngồi rồi, suốt ngày ư ử kinh kịch "Xuống biển" hoặc như các tiểu thư khuê các lắm tiền, tiệc tùng khách khứa, tiền đối với Thái hậu là một thú vui. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đây là một cái thứ nghiệp dư, là một sự hưởng thụ "cao sang". Niềm lạc thú, hương vị và cảm giác do nó đem lại, không lời lẽ nào có thể diến tả. Đúng là "Đạo khả đạo, phi thường đạo, Danh khả danh, phi thường danh" ("Đạo" mà người ta có thể nói thì không phải là "Đạo" vĩnh viễn bất diệt lúc nguyên thuỷ, cái danh mà người ta có thể gọi tên thì không phải là cái danh vĩnh viễn bất diệt) không phải là cái đạo của bọn phàm phu tục tử.

Thái hậu buồn ở chỗ người ta sẽ nói như thế nào? Nhớ lại khi chưa xuất giá, hàng năm vào dịp tết, được người già trong gia đình mừng tuổi nhiều hơn, thường bị chị em bằng vai phải nứa ghen tị đến phát cuồng, giờ đây bỗng chốc có bao nhiêu là tiền, thì miệng lưỡi thiên hạ đâu có để yên? Huống hồ đây là do mua quan bán tước mà có.

Thái hậu buồn, buồn thật sự.

Nhưnng Thái hậu rốt cuộc là một con người thông minh. Người thông minh thì bao giờ cũng nghĩ ra cái gì đấy. Quả nhiên, sau khi biểu giá được ban bố mấy hôm, Thái hậu lại sai người bảo nhà vua thêm một câu vào biểu giá:

 

"NGƯỜI CÓ ĐỨC ỨNG TUYỂN THÌ GIẢM MỘT NỬA HOẶC MỘT PHẦN BA SỐ TIỀN"

Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì những kẻ có tiền lại có "đức" thì được ưu đãi, giảm giá từ 33,33 % đến 50 %, có lẽ đây là phần thưởng cho đức hanh, vừa có "hiệu quả kinh tế", vừa có "hiệu quả xã hội" thì Thái hậu mới yên tâm.

Nhưng ông con Lưu Hồng thì không cần suy nghĩ nhiều. Nhà vua tóc ngắn, kiến thức cũng không dài. Kiểu mua bán 2.000 thạch đổi lấy 20 triệu, 400 thạch đổi lấy 4 triệu, ông không cho là bình thường, nói cao thì thế là quá cao, bảo thấo thì thế là quá thấp. Hơn nữa, số tiền thu được đều do Thái Hậu nắm giữ, ông điên đầu vì chuyện này.

Thế là, nhà vua gọi tay chân thân tín lại, bảo chúng bí mật lập một kho tiền riêng, mở một trương mục mới : bí mật rỉ tai một số người đến chỗ Thái hậu mua một chức quan 2.000 thạch, bảo rằng họ ơn vua như trời biển, cũng chức ấy ở chỗ Hoàng thượng sẽ giảm giá một nửa, người có đức hạnh thì giảm cho một nửa hoặc 1/3, hơn nữa được bổ nhiệm ngay, không phải chờ hạu bổ. Tất nhiên, khi điện kiến Thái Hậu thì không được để lộ chuyện này ra, kẻ nào đẻ lộ thì hậu quả cũng có thể tự hiểu.

Biện pháp này dược triển khai, giá này được nêu ra, khách đến mua quan ở Tây Đệ lập tức bị hút sang phía này. Tâm lí của con người là mua phú quí chứ không mua bần tiện, nhưng đó là mua đồ vật, đây là mua quan. Quan cũng là đồ vật, nhưng không phải là đồ vật thông thường. Ở đây không được thiếu một xu, vật chết báu như vật sống, 2.000 thạch tức là bậc công khanh, cùng là công khanh, nhưng ở chỗ Thái hậu bán 20 triệu, còn ở chỗ hoàng đế bán 10 triệu (hoặc 5 triệu).Chẳng lẽ con người ta lại ngu ngốc đến nỗi chen đổ lan can Tây Đệ, bỏ thêm 10 triệu để mua lấy một chức quan ? kr nào mà như vậy, nếu không là điên thì là điếc, và rất có thể là một người đần.

Vậy là, truyện mua bán của nhà vua nhộn nhịp hẳn lên.

Trong con mắt bọn phàm phu tục tử, mỗi vị vua đều hưởng tận vinh hoa phú quí ở đời. Thực ra, chưa hẳn là như vậy. Một nbạn thích trêu chọc nói vậy, ''Tần Thuỷ Hoàng đã mặc đồ ni lông bao giờ chưa ? Vua Khang Hi đã xem ti vi bao giờ chưa ? Lời nói quá quắt, nhưng quả thật có những thứ người thường giơ tay ra là với tới, vậy mà các bậc đế vương cả đời chưa bao giờ được hưởng. Ví dụ như Lên cao thì Linh đế Lưu Hồng cả đời chưa bao giờ được ở nhà cao tầng.

Năm 180 sau công nguyên, trong hoàng cung Lạc Dương, thủ đô của Đông Hán, bọn Trung Thường thị tào tiết cứ ngồi mà ca cẩm. Họ đang lo vì nhà vua tuổi lớn mà cứ đi lung tung khắp nơi khắp chốn. Bọn Tào Tiết không buồn vì nhà vua bỏ bế việc triều chính. Nếu có tấm lòng trung nghĩa đó, thì họ không còn là họ nữa. họ lo vì nhà vua cứ như  vậy, thì tai hạo sẽ đổ ập lên đầu họ.

Nguyên là, từ khi vua thứ 10 Chất Đế Lưu Toản bị Bạt Hộ tướng quân Lương Kí bị đầu độc chết, vua thứ 11 Lưu Chí liên minh với hoạn quan Xỉ Tí để trừ diệt Lương Kí, thế lực của hoạn quan bành trướng rất nhanh. Năm 159, bọn hoạn quan Đường Hành, Đơn Siêu gồm 13 người cùng được phong Hầu trong một ngày đã khiến cho người xôn xao bàn tán, còn Lưu Hồng thì năm 168 cùng ngày phong tước Hầu cho bọn Tào Tiết, Vương phủ gồm 17 người, đã đưa quyền lực của bọn hoạn quan lên đỉnh cao.

Năm 179, con nuôi  hoạn quan Vương Phủ là Vương Cát khi đó làm tướng ở nước Bái, dựa vào thế lực của cha nuôi, thích giết người để giải trí. Mỗi khi giết ai, hắn cho sác lên xe diễu khắp các huyện để thị uy, mùa hè, xác bị rữa, liền lấy dây xâu các đốt xương sống treo lên cao, sau khi diễu một vòng như vậy, mới cho phép người nhà đem về chôn.

Có người tâu chuyện này lên Lưu Hồng, nhưng Kưu Hồng cho rằng đó là chuyện thường. Vì rằng, so với Lưu Trí thì Lưu Hồng càng ỷ lại, càng tin tưởng bọn hoạn quan. Ông vua trẻ này từng nói với mọi người, rằng '' Trương Nhượng là cha Trẫm ",Trương, Triệu đều là hoạn quan.

Nhà vua quá sùng ái hoạn quan, khiến thời kỳ hoạn quan chuyên quyền lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc được mở ra nhanh chóng.

Những đại, tiểu hoàng môn (hoạn quan lớn nhỏ) bị thiếu từ  nhỏ, quanh quẩn trong cung cấm, bỗng thấy cả cái thể giới loè loẹt bên ngoài, tên nào tên nấy bổng nẫy lòng tham, đều có tâm trạng "vơ vét". Dựa vào mưu mẹo và "lễ lạt", chỉ trong mấy năm, tên nào cũng xây nhà cao cửa rộng, nuôi con hát, chó săn ngựa đua, tận hưởng lạc thú ở đời.

Thời kỳ này, ở Lạc Dương có rất ít nhà cao cửa rộng, nay đột nhiên loại nhà như thế nhiều hẳn lên, không thể không chướng mắt mọi người, nhất là những ngôi nhà đó xây giấu nhà vua. Do vậy, khi các tiểu hoàng môn bẩm với các đại thái giám rằng nhà vua muốn lên lầu cao ở cung Vĩnh An để ngắm toàn cảnh thành nội, thì bọn trương nhượng, Triệu Trung, Tào Tiết sợ toát mồ hôi.

Làm thế nào bây giờ?

Vắt óc suy nghĩ, cuối cùng người thông minh vẫn là Triệu Trung, Trung đã nghĩ ra được một kế.

Vốn là khi ấy đang lưu hành những câu sấm truyền, từ nhà vua đến dân thường đều rất tin. Do vậy bọn Triệu Trung sai người đem quyển "Xuân Thu tiềm đàm ba", sách đó có câu "Thiên tử vật cao đài tạ, cao đài hạ Tắc Thiên hạ bạn chi" (Vua không được lên lầu cao đài, nếu không, thiên hạ sẽ chống lại nhà vua) để doạ Lưu Hồng. Đây vốn là một câu cảnh cáo, khuyên nhà vua không nên xây dựng đài cao lầu rộng, bọn hoạn quan xuyên tạc thành ra "không được treo lên đài cao" vì trèo lên cao sẽ nhìn thấy nhà cửa của chúng, hành vi phạm pháp của chúng sẽ bị bại lộ.

Vậy là Lưu Hồng vốn không sợ trèo cao, nay trở thành kẻ mắc bệnh "sợ cao", trừ một trận duyệt binh đã được hoá giải bằng "tai nạn binh đao", suốt đời Lưu Hồng không trèo lên cao một lần nào nữa. Để "bồi dưỡng" chứng "sợ cao" cho nhà vua, bọn Triệu Trung kiếm cho nhà vua những trò chơi mới.

Chó cảnh, cưỡi xe lửa, làm tiểu thương.

Vài ngày sau, vườn sau của hoàng cung thâm nghiêm là thế đã trở thành một cái chợ. Ngự  hoa viên rộng khoảng mấy dặm chật ních người. Ngày thường các cung nữ nghiêm trang yêu điệu, nay như bị ma ám, hoá trang thành dân tiểu thương. Đúng là, xưa áo đỏ quần hồng, nay khách thương tài chủ. Người gọi kẻ thưa, người đi kẻ lại, người bán bánh, kẻ bán rượu "Đỗ Khang", người dắt bò, kẻ mổ dê, hàng nào quán ấy ba tiêu, anh đào xanh đỏ, ngựa hãn huyết của nước Đại Uyển, các chim lạ của vườn Thượng Lâm, tất cả những thứ trước đây ít được nhìn thấy, thì nay đem ra mua bán đổ chác, khiến đám cung nữ vui như hoá rồ, nha vua thích như hoá dại.

Thấy nhà vua thích vui chơi, bọn hoạn quan lại đem đến một cỗ xe hai bánh do bốn con lừa kéo, xếp theo thứ tự ba trước một sau, rồi thỉnh nhà vua lên xe, hưởng cái thú "ông chủ lừa".

Không đợi nhà vua cảm thấy nhàm chán, các tiểu hoàng môn lại nghĩ ra trò chơi mới: chơi chó cảnh, nào là Tế khuyển của nước Lỗ toàn thân trắng như bông, thân dài mà mảnh; nào là chó sư tử tai nhỏ, lưỡi màu lam, lông như lông sóc, dáng như sư tử đực; nào là chó bướm, lông điểm mầu cánh bướm, có thể bỏ vừa trong tay áo ... không sao kể hết.

Ông con trời mặt mày rạng rỡ, càng thấy trên đời có nhiều thú vui. Từ đó, ông quyết tâm mắc bệnh "sợ cao" ngày càng "sợ cao" không còn chí tiến thủ của một ông vua nữa.

Năm 189 sau công nguyên, Lưu Hồng chết, hưởng thọ 34 tuổi.

*

TRẦN ĐÌNH HIẾN

Địa chỉ: số nhà 45 phố Phan Bội Châu,

Quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

 

 

 

.............................................................................................................

- Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng giữ bản quyền. 

- Cập nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét