TÂM SỰ CỦA
XUÂN SÁCH VỀ
‘CHÂN DUNG
CÁC NHÀ VĂN VIỆT NAM’
*
Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong
trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước vào thập kỷ 60, tôi đang độ tuổi và mới từ
đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý (Tác giả Xuân Sách)
Vào năm 1962 có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9,
nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn
nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông,
trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đất. Quân đội
đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh đầy dủ cân đai bối tử,
đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như
Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép,
nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai.
Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là người biệt danh “quanh năm đi chân
đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà
viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép
vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn
là nỗi cực khổ đối với ông.
Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh
xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ
quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán và tôi được gọi là Đồ Thanh
bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh
Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu
hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập
truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập tiểu thuyết “chuyển vùng” viết về cuộc chiến
đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa
qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu in.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:
Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự mao luân
Lưỡng kiên mai hếu phong trần lý
Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân
Dịch nghĩa:
Con dùng văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trơ trụi
Đôi vai lầm lủi trên con đường gió bụi
Chuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?
Dịch thơ:
Con đường văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết thư lông cái gầu
Đôi vai gánh mãi càng đau
Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?
Dịch song tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ
với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành
tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nôi mặt đỏ bừng và nước mắt
dàn dụa.
Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta
thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ của Oánh phác hoạ một
Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác
phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát, tiếp
tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài
thơ số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in
nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi
dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ
non” và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư
nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẫu giấy:
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải.
Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm
nghị chứ không cười như tôi chờ đọi, anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển
cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già,
Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi
mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:
- Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa
rồi!
Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông
thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường bài thơ còn chạm vào tính
cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính
cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa văn không
vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: buồn tênh lại giở thư nhà ra xem...”
Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà
văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt rất đáng
ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi
hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả
tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó
là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi
mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà nội vào một cơ quan văn nghệ dù là ở
quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả
lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước.
Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn
có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh và chúng
cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân
dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu “vẽ” được chính xác những bức chân
dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời dại họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên.
Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt
tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một
thời gian dài khi những bài thơ chân dunglần lượt được ra đời, được phổ biến
một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả sự mong muốn của
tôi. Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các
bài thơ. Bởi khi nhận định về tính cách con người, tính cách các nhà văn thì
không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn
Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc
sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ, nhưng anh lại
thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen
đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá
mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn
nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ suý tôi, đôi khi
anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng “toilet” khoảng ba mét
vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến
thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng, lau sạch ngồi thật mát và
thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba điếu thuốc lá lẻ, vài cái
kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều
bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những
bài thơ này ông Sách viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá
tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung.
Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là
người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần
Hoàng Bách thường đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể
nói đó là “nhuận bút” đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về
người phát hành.
Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng trong giới.
Lúc dầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết
mục” không thể thiếu trong những liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi
cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ
về các nhà văn có mặt, trong không khí như vậy thì dù các anh các chị ấy có
giận cũng cười xoà làm vui. Riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người
cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên
đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó một anh
ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ“
Những bài thơ cũng được lan truyền sang các giới khác.
Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của
giới văn nghệ trong quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung, thường
trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe.
Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được
nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài
trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử những lính cách của
các nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ tôi cứ băn khoăn tự
hỏi: “Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm
thư thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng ngườí đọc như thế, sao họ
còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế một chức vụ, một quyền lực, một chuyến
đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải
sợ hãi”. Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi
viết theo thời tiết chính trị, quay ngược lại với những điều vừa viết chưa lâu,
Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất
tiếc một tài năng lỡ tàu!”
Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắl thứ hai
trong một bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi
vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông
lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều
đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc
ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi
nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần
đúng. Ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn
khuôn mặt ông qua lấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như
người có tội.
Một lần gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc
bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước Cộng
hòa Dân chủ Đức, ông chạm cốc:
- Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào
cõi bất tử.
Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi
đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác
thâm trầm ấy ngồi đặt cầm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt
tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai
Mai?” Tôi lúng túng: “Viết về bác rất
khó, cháu đang suy nghĩ thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít
lâu sau cụ lại gọi đến: “Anh viết về tôi
rồi chứ?” Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông
nghênh này, hoá ra cụ quan tâm thật sự khiến tôi vừa cảm động vùa thích thú.
Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách...
cao sang và thâm trầm thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem
nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”.
Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là
của một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh
đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một
nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri
của thời đại. Đã dành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói
hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi
những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì
danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu,
cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của những cảm xúc ấy, nỗi đau
chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng
cười nhiều khi xuất phát từ nỗ đau.
Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của không
phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến đã ba mươi năm. Đã có
nhiều bài “khảo dị” nhiều bài ngoài luồng cũng được gán cho tác giả. Bây giờ in
ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tại được nếu nó có ích
thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện.
*
Ngày Xuân năm Nhâm Thân
XUÂN SÁCH
Quê quán: Trường Giang, Nông Cống, Thanh Hóa.
Thường trú (và mất): thành phố Vũng Tàu.
-
Nhà thơ NGUYỄN KHÔI giới thiệu -
(Cập nhật từ email: khoidinhbang@gmail.com
ngày 17.01.2021.
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét