NGUYỄN TUÂN
TRONG HỒI KÝ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
*
Từ nhỏ tôi đã đọc Nguyễn Tuân trong kho sách của
bà chị cả tôi. Tất nhiên chẳng hiểu gì lắm! Nhưng cũng muốn bắt chước chủ nghĩa
xê dịch của Nguyễn Tuân: thích lang thang ngắm trời, ngắm đất. Thời kháng chiến
chống Pháp, một mình đi trên đường Việt Bắc, lội suối, leo đèo, rất khoái –
thực sự cảm thấy cái khoái “Đường vui” của Nguyễn Tuân quả là có thật. Hồi về
Hà Nội học Đại học Sư phạm (1957), tôi có lần dắt xe đạp thử đi suốt đêm ở Hà
Nội, từ phố này sang phố khác, bắt chước Nguyễn Tuân làm “Một người lữ hành
trong thành phố chúng ta”, xem Hà Nội sinh hoạt về đêm như thế nào, thưởng thức
những tiếng rao đêm có giọng điệu riêng của các hàng quà rong xuất hiện rất
đúng hẹn cho mỗi thời khắc. (Tác giả Nguyễn Đăng Mạnh)
Tôi chính thức được tiếp xúc với Nguyễn Tuân khi
dạy ở Đại học Sư phạm Vinh. Trường Vinh cử tôi ra đón Nguyễn Tuân vào nói
chuyện về ký chống Mỹ. ấy là vào năm 1965, 1966 gì đó. Xe đi từ sáng sớm, nhưng
đến cầu Khuất thì phải dừng lại rất lâu. Cầu sắt bị phá. Người ta bắc cầu phao.
Nhưng buổi sáng người ta phải dỡ phao cho thuyền bè qua lại. Vì thế mãi đến
trưa xe mới đến đồi Kim Tân. ở đây có một hàng bán miến gà. Xe dừng lại để ăn
trưa. Nguyễn Tuân không ăn, tuy tôi bảo nhà hàng làm cho một bát miến gà đặc
biệt (Hồi chiến tranh chỉ có loại miến làm bằng bột đao, nhưng vào thời ấy, thế
là đã sang lắm rồi). Ông lấy trong túi ra gói cơm nắm, xắt ra mấy lát, ăn với
ruốc. Sau đó lấy bi đông rượu rót ra cái nắp uống.
Trong cuộc đi này, tôi thấy Nguyễn Tuân biết rất
nhiều chuyện, nào là các làng nghề chung quanh Hà Nội (làng này chuyên chữa
kính, làng kia chuyên cắt tóc, làng nọ chuyên làm thợ may…), nào là những nhân
vật có tiếng ở xã này, huyện nọ, nào là những chuyện vui thời kháng chiến chống
Pháp trên đường số 6 từ khu Ba lên Việt Bắc… Và ông hay đố chữ. Nhờ Nguyễn Tuân
hôm ấy tôi mới biết được, tiết canh đánh giỏi là “tiết canh xâu lạt”, người
theo đạo Thiên chúa mà bỏ đạo, gọi là “dở người”. Thí dụ “ông tôi đã dở người”,
“Nam Cao đã dở người”…
Trường Đại học Sư phạm Vinh lúc ấy sơ tán ở
huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Khi xe chúng tôi về đến nơi, thấy Ban Giám
hiệu đều có mặt ra đón long trọng lắm, sau đó bầy tiệc lớn chiêu đãi. Tôi thấy
Nguyễn Tuân không có vẻ mặn mà gì, ông chỉ gắp vài miếng trứng tráng. Từ hiệu
bộ, tôi đưa Nguyễn Tuân về khoa văn ở một địa phương gọi là Thạch Yến. Trần Văn
Hối, phó chủ nhiệm phụ trách sinh hoạt, thủ sẵn một chai vang ngoại đợi Nguyễn
Tuân vào thì đưa ra. Trông thấy chai vang, Nguyễn Tuân nói: “Rượu đàn bà, uống
làm gì!”. Hối cụt hứng, buồn quá!
Hồi ấy Nguyễn Tuân rất nổi về những bài ký chống
Mỹ viết về những tên giặc lái tàu bay bị bắn cháy, bật dù xuống đất và bị nhốt
ở các trại giam. Chúng tôi mời ông vào để nói chuyện về những bài ký ấy. Giữa
buổi nói chuyện, sinh viên nhờ tôi đề nghị ông nói về Vang bóng một thời. Tôi
lựa lời nói với Nguyễn Tuân. Ông hình như không thích thay đổi bài nói đã chuẩn
bị, cứ tiếp tục nói về ký chống Mỹ. Tôi nài thêm lần nữa, ông mới thủng thẳng
nói mấy câu: “Tôi đọc lại Vang bóng một thời, tôi thấy phục tôi quá! Tôi nhớ
ngày trước tôi làm gì có quan điểm lao động, thế mà tôi lại ca ngợi những người
thợ mộc Tràng thôn lên sửa đền cho thánh Tản viên. Hồi ấy tôi cũng chưa lên núi
Tản Viên, Ba Vì, kháng chiến mới có dịp tới. Vậy mà sao tôi tả đúng thế”. Rồi
ông cười hóm hỉnh: “ấy nói thế người ta lại bảo nhà văn không cần đi thực tế
thì chết” (Nguyên Ngọc cho rằng, nếu Nguyễn Tuân lên núi Tản Viên trước khi
viết Trên đỉnh non Tản thì có khi lại viết hỏng)
Từ lúc bị Nguyễn Tuân từ chối chai vang, Trần
Văn Hối bèn sục tìm trong làng kiếm được một chai cuốc lủi, lặng lẽ đặt ở nơi
nghỉ của ông. Lúc ông rời Thạch Thành, chai rượu vẫn còn nguyên. Ông có rượu
riêng đem đi, không uống tạp như Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông hay Đoàn Phú
Tứ… Bữa tiệc cuối cùng khoa văn tiễn ông có nhiều rau tươi: xà lách xanh non,
cà chua, ớt màu đỏ. Nguyễn Tuân có vẻ thích. Ông khen bữa ăn rất đẹp.
Ông kể chuyện từng được một ông sư đãi một bữa
thịt chó độc đáo. Thịt chó ướp gia vị, đặt vào giữa bông sen, bó lại, đem đồ
cho chín dừ. Món ăn vừa tục vừa thanh, vừa có vị chát của nhựa sen vừa có hương
thơm của hoa sen. Tôi nghĩ bụng, thịt chó mà dám cho vào toà sen, lão sư nào mà
hỗn thế. Nhưng vừa ăn vừa nghĩ đến cái tục cái thanh của nó, chắc cũng thú.
Lần thứ hai, tôi được gặp Nguyễn Tuân là vào mùa
thu năm 1967. Cũng là tình cờ thôi. Tôi ra Hà Nội, có việc đến Nhà Xuất bản Văn
học (49 Trần Hưng Đạo) và gặp Nguyễn Tuân ở đó. Hình như ông đến làm việc với
Nhà Xuất bản về việc in một tập ký chống Mỹ thì phải (Nghe nói Nhà Xuất bản đề
nghị loại bỏ bài Tờ hoa, còn ông thì nhất định đòi giữ lại, không in thì thôi).
Dịp may hiếm có, tôi đề nghị được gặp ông. Ông
đồng ý, không tỏ vẻ khó khăn gì cả. Tôi hỏi ông về những tác phẩm gần đây của
ông, về quan niệm và cách viết của ông.
Ông nói liền một mạch, rất sôi nổi:
– Người ta viết văn, giảng văn, nói đã nhiều về
tư tưởng, về đạo đức. Điều ấy không phải không cần. Nhưng tôi muốn giúp độc giả
nâng cao trình độ thẩm mỹ, đem đến cho họ cảm xúc về cái đẹp. Đó là điều băn
khoăn của tôi. Tôi cung cấp cho họ
những gợi ý bằng những suy nghĩ của tôi. Còn họ phản ứng thế nào, tuỳ. Về
độc giả, tôi không quan niệm là công nông hay trí thức mà chỉ chú ý phục vụ con
người mới, có tư tưởng mới, có văn hoá, có trí thức. Bao giờ độc giả được tất
cả như thế, tôi không biết, nhưng nhất định sẽ như vậy, tôi rất tin điều đó.
– Về kinh nghiệm viết văn?
Tôi cho tác phẩm văn học mà không tạo ra được
cái atmosphère thì không có giá trị gì. Cái atmosphère nó làm cho cùng một hiện
tượng, cùng một sự việc mà thành màu sắc xanh đỏ tím vàng khác nhau. Cái chi
tiết nước sông Hồng dâng cao trong bài “Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội” là
cái chi tiết tạo không khí như thế. Kinh nghiệm tạo
không khí là phải có quan điểm lịch sử, quan điểm địa lý, quan điểm thiên
nhiên, có óc tưởng tượng mới tạo ra được. Bài Nguyễn Văn Trỗi, tôi viết ngay
khi có tin ấy. Tôi muốn tạo ra cái résonnance toàn thế giới. Lúc đó tài liệu
gầy guộc nghèo nàn quá, tôi phải cố tạo ra không khí bằng cách ngồi trước quả
địa cầu và bản đồ thế giới mà tưởng tượng.
Có người nhận xét
tôi lan man, không phải không đúng. Nhưng bài văn đâu phải bản báo cáo mà phải
có các mục 1, 2, 3, hay như bài rédaction, bài composition của học trò, cũng
không phải bài thơ Đường luật có đề, thực, luận,
kết… Nó tuỳ theo
nhà văn định nói gì và cách nói của anh ta. Lan man là hiện tượng, nhưng nó có
cái fil d’idée của nó. Nó không có hại gì về bố cục, về tư tưởng là được. Sông
Đà bảo là lan man, thực ra là cái fil d’idée của nó là vấn đề giao thông vận
tải… Có người lại bảo tôi là thiên nhiên chủ nghĩa không nói đến người. Thế thì
bài Xoè của tôi bỏ đi đâu? Người ta có định kiến sẵn khi phê bình nên không
nhìn toàn diện. Tôi cho nội dung không thiếu. Cái quan trọng là cách nói cho
nổi cái nội dung đó lên, thế
mới gọi là có đóng góp. Cách nói, nói thế nào là điều tôi
băn khoăn nhiều và
thế mới có ích.
– Tôi không thích khẳng định nhiều quá… Có lối
viết đưa ra kết luận rõ ràng, dứt khoát, có cách viết không kết luận, để tự
người đọc kết luận lấy, gọi là lối nóng, lối lạnh. Tôi thích lối thứ hai này.
Người nước ngoài thường than phiền văn học ta tropd’ affirmatifs, trop de superlatifs,
đáng lẽ nói tốt thì lại nói “rất tốt”,
“rất vĩ đại”…
Khi tôi và Nguyễn Tuân trò chuyện với nhau thì
cuộc tranh luận về thể ký còn đang tiếp tục sôi nổi trên các báo chí (1966,
1967). Tôi bèn hỏi quan niệm của Nguyễn Tuân về thể văn này.
Ông nói:
“ Đúng, người ta đang tranh luận về thể ký. Ký
và cấu. Nhiều người tham gia tranh luận nhưng có viết ký đâu. Tôi thì cứ viết.
Có người hỏi làm thế nào để viết ký cho hay, không nhạt. Tôi cho rằng phải có
vốn văn hoá, vốn kiến thức. Người viết có nhiều dụng cụ thì đồ chế tạo nhất
định phải tinh xảo hơn. Kiến thức lịch sử, địa lý, thiên nhiên…, rồi vận dụng
các ngành nghệ thuật. Mà nói chung thì nghệ thuật nào chẳng phải mượn các cách
của nghệ thuật khác để thể hiện. Khi anh không chỉ tả mặt mà còn tả cái gáy,
cái vai, tả người cúi xuống, cái mông bóng lên, là vô tình đã phải vay mượn
điêu khắc rồi”.
Nói ký là bước sơ bộ của truyện, không đúng. Các
thể loại văn học đều bình đẳng. Mỗi thể văn được chọn viết là do cái tài khác
nhau. Một ký hoạ chì than có thể giá trị hơn một bức sơn mài lớn. Cùng một
matière có thể người này viết truyện ngắn, làm thơ, người kia viết ký. Không có
tài không viết ký được. Ông A. France, nhà xuất bản bảo ông viết truyện ngắn.
Ông ấy nói, tôi làm gì có thời giờ viết truyện ngắn. Viết truyện, phải có nhân
vật. Nhân vật truyện không bị gò bó trong không gian, thời gian hay ước lệ sân
khấu. Nhân vật truyện muốn làm gì thì làm, tự do. Ký không bắt buộc có nhân
vật, hay đúng ra chỉ có bóng dáng của nhân vật. Nên nhân vật không cần có lí
lịch, tính cách, số phận rõ ràng. Ký ghi sự việc, thấy ẩn ẩn hiện hiện một nhân
vật nào đó. Thoáng một tý hình ảnh, ký là sự việc. Sự việc thì cũng phải có
thằng người. Bốn người viết bốn thể tài, cũng đi thực tế. Cùng nghe, thấy, hỏi,
ghi chép. Kịch hỏi khác. Truyện hỏi khác. Giác quan anh viết ký phải dựng lên
hết. Sách cũng là một thực tế. Thí
dụ đọc sách về Lai Châu như cuốn Lamission de Pavy, đến một lúc nào đó, có khái
niệm về Lai Châu, biết đích xác lịch sử Lai Châu. Lai Châu thành một thực tế.
Viết ký phải đọc nhiều. Thượng vàng hạ cám, đọc hết. Nhưng đọc xong phải có cái
ý của mình, ghi lại. Có chỗ phải đánh dấu vì hay, để đọc lại.Đọc sách địa chất,
tình yêu Tổ quốc càng cụ thể. Phản ánh thực tế phải xoáy vào một điểm, nhưng
phải có diện rộng soi vào đó. Đó là kinh nghiệm viết. Văn khác toán. Toán chỉ
có một đáp số. Văn học lắm đáp số. Anh phê bình lại cứ đòi một đáp số. Tôi viết
Sông Đà. Thằng Tây nói sông Đà đen. Tôi viết Sông Đà đỏ lên, sau bỏ chữ “lên”
đi cho khoẻ. Nói đến đấy, ông dừng lại nghỉ hơi một lúc. Rồi bỗng quay trở lại
cái ý về lối viết “nóng”, lối viết “lạnh” – chắc ông chợt nhớ đến có kẻ từng
phê phán truyện Chém treo
ngành của ông trong Vang bóng một thời.
“Có người nói tôi thích nhấm nháp cái tài chém
treo ngành trong Vang bóng một thời, mà kẻ chém lại là tay sai đế quốc, phong
kiến. Thực ra tôi muốn nói tội ác của chúng nó là như thế đó, nó vừa nhắm rượu
vừa xem chém người – Khi đăng trên Tao đàn tôi lấy tên Bữa rượu đầu lâu (Thực ra,
đọc Tao đàn, tôi chỉ thấy cái tên Bữa rượu máu – Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta cứ
muốn phải nói rõ thái độ đả kích, phê phán. Tôi cho không cần, và đó là lối
“lạnh” phải để độc giả tự kết luận, cho họ tự do. Có phải giảng chính sách đâu
mà cứ phải nói rõ đúng sai và phải chỉ ra thực hiện thế này, thế khác. Văn học
khác chứ! Người ta còn nói tôi thích quay lại thời phong kiến.. Cái cổ không
nhất thiết là cái phong kiến, mà có cả dân gian nữa chứ!
“Viết văn phải có tinh thần khoa học. Song có
cái genre merveilleux, genre fictif. Ai chả biết quả đất xoay quanh mặt trời.
Thế mà bao đời nay vẫn viết mặt trời mọc, mặt trời lặn mà cứ phải thừa nhận
trong văn học. Thế đấy, có cái rất phi lý mà vẫn tồn tại”.
Nguyễn Tuân nói liền một mạch như thế, rất say
sưa. Trên kia tôi đã nói đến cái lần, tôi được cử ra Hà Nội mời Nguyễn Tuân vào
Đại học Sư phạm Vinh để nói chuyện về ký chống Mỹ. Chính trong cái lần ấy tôi
đã nung nấu một bài viết về ký chống Mỹ của Nguyễn Tuân (Bài này do chị Thiếu
Mai, lúc đó ở Tạp chí văn học đặt)
Tháng 8 năm 1968, bài viết được đăng trên tạp
chí với đầu đề: “Con đường Nguyễn Tuân đi đến bút ký chống Mỹ”. Vì bài này mà
ông Hoài Thanh (Thư ký toà soạn Tạp chí Văn học lúc bấy giờ) bị ông Trường
Chinh gọi lên khiển trách. Hồi ấy bị ông Trường Chinh phê thì thành chuyện ầm ĩ
lắm. Nguyễn Tuân cũng biết. Hôm ấy tôi gặp ông đang sắp hàng ở một quán bia hơi
ở Phố Huế (Nguyễn Tuân gọi là bia bơm), ông vẫy tôi lại gần, cười nói:
“Họ lôi cả anh vào với tôi rồi đấy!”.
Có lẽ vì thế chăng mà Nguyễn Tuân có cảm tình
với tôi. Tuy vậy tôi từ đấy cũng không có lần nào gặp Nguyễn Tuân nữa. Không
phải ngại gì cả. Tính tôi thế. Biết người ta có thích mình đến không mà đến.
Nghe nói Nguyễn Tuân rất khó tính, rất kiêu ngạo. Vả lại ông bằng tuổi cha chú
của mình, bạn bè gì mà đến chơi. Có khi ông ấy lại tưởng mình “thấy người sang
bắt quàng làm họ”, cứ đến quấy nhiễu ông.
Người ta đều nhận thấy Nguyễn Tuân là một cây
bút rất tài hoa và uyên bác. Đúng như
thế. Nhân vật chính của tuỳ bút là bản thân cái tôi của tác giả. Ký, tuỳ bút, hay hay dở là phụ thuộc vào cái tôi
ấy có phong phú hay không. Cho nên không uyên bác không trở thành nhà bút ký,
tuỳ bút được. Vì thế Nguyễn Tuân đọc rất nhiều, đọc đủ loại: côn trùng học, địa
chất học, địa lý học, sử học, giao thông vận tải…
Một lần tôi đến Nguyễn Tuân thấy ông đặt trên
bàn một cuốn sách viết về giao thông vận tải của Mỹ, trong dó có bức ảnh chụp
buổi lễ khánh thành đường xe lửa xuyên Mỹ: hai cái đầu tầu đi ngược chiều áp
vào nhau nơi lắp cái đinh bù- loong cuối cùng nối hai đường tầu với nhau. ở hai
đầu tầu, có hai người rót rượu chạm cốc. Cái đinh bù – loong này làm bằng vàng
nguyên khối – Nguyễn Tuân cười nói:
“Nếu ở Việt Nam thì cái đinh bù – loong này đã
bị đánh cắp từ đêm trước”.
Sự uyên bác của Nguyễn Tuân cũng có chỗ độc đáo:
ông muốn những tư liệu của ông chỉ mình ông có, nghĩa là độc quyền tư liệu. Thí
dụ, có bao nhiêu tấm ván trên cầu Hiền Lương, hoặc Hà Nội có bao nhiêu cây
tươi… Tìm cho được nhưng tư liệu ấy cũng phiền phức, công phu lắm: phải đóng
vai sỹ quan quân đội đổi gác trên cầu Hiền Lương để đếm được các tấm ván ở cả
đầu Bắc lẫn đầu Nam, phải tìm đến công ty quản lý cây xanh Hà Nội để biết con
số cây tươi của thành phố. Những tư liệu ấy có ý nghĩa gì quan trọng đối với
nội dung và hình thức bài ký? Tôi ngờ rằng ý nghĩa không nhiều.
Nhưng Nguyễn Tuân có lẽ ít quan tâm đến điều ấy.
Cái quan trọng đối với ông là: tư liệu ấy chỉ mình ông có, “đếch” thằng nào
biết. Đầu năm 1980, bỗng nhiên Nhà xuất bản Văn học cho người đến mời tôi làm
Tuyển tập Nguyễn Tuân. Tất nhiên là tôi rất mừng và cảm động.
Hồi ấy tôi ở một căn phòng thuộc tầng năm của
một chung cư gọi là nhà B2, khu tập thể cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Anh Lê Khánh, biên tập viên Nhà Xuất bản Văn học đến thông báo cho tôi và cùng
tôi làm Tuyển tập. Lê Khánh nói, ngày mai ta đến gặp Nguyễn Tuân để bàn chuyện.
Tôi nhất trí ngay. Tôi cũng thấy cần gặp Nguyễn Tuân để hỏi nhiều điều cần
thiết để viết về ông. Sáng hôm sau, 8 giờ, chúng tôi có mặt ở nhà Nguyễn Tuân.
Ông chấp nhận đề nghị của tôi, hẹn gặp làm việc 8 giờ sáng hôm sau. Ông dặn:
“Anh cứ chuẩn bị sẵn những câu hỏi, đến làm việc
cho nhanh”.
Hôm sau tôi và Lê Khánh lại đến. Tôi bắt đầu hỏi. Nguyễn Tuân gạt đi: “Thôi để
lúc khác”. Rồi ông nói đủ thứ chuyện
nhưng không dính dáng gì đến việc viết tiểu sử và làm tuyển tập cả. Tôi lấy làm
lạ bèn hỏi:
“Thế bao giờ ta làm việc?”.
“Mai, 8 giờ sáng”, ông lại hẹn đúng như hôm
trước.
Tôi không hiểu, nhưng Lê Khánh biết ý. Khi ra
về, anh nói với tôi:
“Ngày mai tôi không đến nữa, anh đến một mình
thôi. Ông ấy không thích tôi”.
Ngày mai tôi đến một mình. Quả nhiên làm việc
rất nhanh chóng trôi chảy. Tôi hỏi, Nguyễn Tuân trả lời, rất gọn. Mấy ngày sau,
tôi đem chuyện này nói với Xuân Diệu. Xuân Diệu nói:
“Đúng quá còn gì nữa, cậu chẳng hiểu gì cả. Trai
gái yêu nhau, nói chuyện tâm tình với nhau, có người khác ngồi đấy, nói sao
được!”. Cái gì Xuân Diệu cũng liên hệ đến chuyện
trai gái.
Khác với Xuân Diệu, Nguyễn Tuân không hề quan
tâm gìn giữ những tài liệu của mình. Làm tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi không khai
thác được tài liệu gì quan trọng của ông hết, ngoài hai cuốn kiếm đâu cũng
được: cuốn tuỳ bút Tình chiến dịch và tiểu thuyết Quê hương (Sài Gòn in lại,
vất đi nhiều chương một cách rất tuỳ tiện). Ngoài ra có tập Tôi đọc, tập hợp
những bài tiểu luận phê bình viết sau cách mạng tháng Tám. Cuốn sách này vừa in
ra đã bị cấm, phải huỷ hết. May mà Nguyễn Tuân giữ lại được một bản. Thực ra
những bài in trong Tôi đọc cũng không khó tìm. Toàn những bài đã đăng trên sách
báo sau cách mạng. Thành ra làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi phải tự xoay xoả lấy
cả. May mà tôi đã nghiên cứu Nguyễn Tuân từ hai mươi năm trước (1960) nên biết
được hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Tuân đã in thành sách hay đăng lên các
loại báo chí. Có những tờ báo không tên tuổi, chẳng ai để ý như tờ Tuần lễ. Tôi
đã tìm được ở đấy bài Răng người tình của Nguyễn Tuân, viết năm 1938.
Khi bắt đầu làm tuyển tập, Lê Khánh nói với tôi:
“Tuyển văn Nguyễn Tuân phải cẩn thận, thí dụ như
bài Chém treo ngành thì không nên tuyển”.
Nhưng tôi rất thích truyện này, một truyện rất
Nguyễn Tuân. Tôi đi tìm nguyên bản tác phẩm này khi chưa bị kiểm duyệt, đăng
trên Tao đàn thời Mặt trận dân chủ Đông Dương. Mới thấy bọn kiểm duyệt thời Tây
rất tinh. Nó cắt đi ba chi tiết mà tác phẩm chuyển hẳn tư tưởng. Quả là chi
tiết trong truyện ngắn cực kỳ quan trọng: một là nó bỏ cái tên tác phẩm Bữa
rượu máu, thay bằng Chém treo ngành, hai là hình ảnh thằng công sứ Tây và thằng
tổng đốc ta chuốc cho nhau hai tuần rượu và cái chi tiết cơn lốc lớn chạy giữa
hai hàng tử tù, đuổi theo và lật cái mũ thằng công sứ quẳng xuống cho lăn lộn
mấy vòng trên bãi cỏ pháp trường. Tôi đưa ngay tác phẩm này vào Tuyển tập một
cách đắc ý. Nguyễn Tuân rất khoái. Ông mời tôi uống rượu và chửi Hoàng Trung
Thông:
“Thế mà Hoàng Trung Thông nó bảo nhấm nháp chém
đầu người. Thằng cha cũng làm văn mà sao nó ngu thế!”.
(Vậy mà mãi sau này, trong “Chân dung và đối
thoại”, Trần Đăng Khoa vẫn lặp lại ý kiến của Hoàng Trung Thông).
Tôi để ý thấy có hai trường hợp, Nguyễn Tuân
không đồng ý cho vào Tuyển tập. Một là bài ông viết về tranh lụa Nguyễn Phan
Chánh, hai là bài ông viết về Dostoievsky. Bài thứ nhất có lẽ do Nguyễn Phan
Chánh là bố vợ Lê Quang Đạo, khi chết được đặc cách đưa vào Mai Dịch. Ông ghét
Lê Quang Đạo chăng? Còn bài thứ hai là vì lý do khoa học. Ông tự thấy chưa đọc
hết các công trình về Đôxtôi, và đọc ai, mượn ý của ai, giờ ông không có điều
kiện tra cứu để chú thích cho sòng
phẳng. Về mặt này, Nguyễn Tuân tỏ ra rất nghiêm khắc về mặt khoa học (Sau,
chúng tôi nài mãi ông mới chịu. Nhưng ông yêu cầu phải cho ông viết mấy dòng
gọi là “Tái bút” để thanh minh với độc giả).
Hồi năm 1929, ông học ở trường Thành Chung Nam
Định, do tham gia một cuộc bãi khoá để phản đối một giáo viên người Pháp nói
xấu người Việt Nam, ông bị đuổi học. Trường học ghi vào học bạ, phạt những người
tham gia bãi khoá năm năm không được học ở trường nào, không được làm ở công sở
nào. Ông về Thanh Hoá rủ một người bạn (theo Tô Hoài, là Lương Đức Thiệp) đi
chơi qua Lào, sang Thái Lan, đến Băng Cốc, thì mật thám bắt giải về nước theo
đường Cămpuchia về Sài Gòn, rồi đưa ra quản thúc ở Thanh Hoá, nơi cụ thân sinh
ra ông làm việc. Khi làm Tuyển tập
Nguyễn Tuân, tôi hỏi ông, sang Thái Lan làm gì?
Ông nói:
“Người khác sẽ nói là đi tìm đường cứu nước.
Nhưng tôi thì nói thật, vì đi chơi không có giấy phép nên nó bắt, thế thôi”.
(Theo Tô Hoài, Nguyễn Tuân rủ Lương Đức Thiệp sang Xiêm để tìm ngọc ở Pâylinh).
Trong quá trình làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tôi
có điều kiện tiếp xúc luôn luôn với ông. Ông quả là người khó tính, không phải
ai đến, ông cũng tiếp. Có lần ông đuổi một anh thanh niên đường đột đến thăm
ông:
“Anh đến gặp con gái tôi đấy à? Nó đi vắng
rồi!”.
Lại nghe nói có một cán bộ lãnh đạo ông không
ưa, đến chúc Tết ông, ông mở cửa sổ nhìn xuống nói: “Nguyễn Tuân đi vắng”, rồi
đóng sập cửa lại…
Nguyễn Văn Hạnh muốn đến ông, nhưng cũng ngại…
Vậy mà đối với tôi, ông tỏ ra rất dễ dãi. Ông cho phép tôi đến ông lúc nào cũng
được, không cần báo trước, miễn là đến sau 10 giờ sáng. Trước giờ đó, ông có
thói quen đi dạo mấy vòng ngoài phố, 10 giờ thì về ăn cơm. Có điều này, ông nói
tôi mới biết: Anh Lý Hải Châu, giám đốc Nhà xuất bản Văn học đề nghị hai người
làm Tuyển tập Nguyễn Tuân, tuỳ nhà văn quyết định. ấy là Vũ Ngọc Phan và tôi.
Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Tất nhiên tôi rất cảm động, nhưng vinh dự này cũng đặt
lên vai tôi một gánh nặng: phải chọn lựa tác phẩm và nhất là phải viết bài giới
thiệu sao cho xứng đáng với sự tín nhiệm của ông. Bài viết chỉ có hơn 60 trang
(in chữ nhỏ), mà tôi đã phải viết trong hơn sáu tháng. Rất may đã được Nguyễn
Tuân cho là được. Ông chỉ nói vắn tắt “Tôi không có ý kiến gì khác”.
Tuyển tập Nguyễn Tuân gồm hai cuốn, xuất bản năm
1981, 1982. Ngày 29 – 5 –
1982, Nguyễn Văn Bổng, hồi đó làm tổng biên tập tuần báo Văn nghệ, tổ chức một cuộc toạ đàm về Tuyển tập
Nguyễn Tuân ở trụ sở Văn nghệ. Hôm ấy có mặt Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Tế Hanh,
Phạm Hổ, Lý Hải Châu, Lê Khánh,Từ Sơn, Ngọc
Trai, Nguyễn Bao, Thiếu Mai... và tôi. Tôi nhớ hôm ấy, Xuân Diệu nói:
“Nghe nói văn Chùa Đàn rất hay, nhưng không có trong Tuyển tập. Phải trích vài
trang Chùa Đàn cho người ta biết mặt mũi tác phẩm này chứ. Tại sao không cho
người ta có cái thú đọc văn hay nhỉ! Qua Tuyển tập, tôi mới hiểu được anh
Nguyễn Tuân. Tại sao lại cứ đòi văn phải có ý nghĩa. Trai gái nó hôn nhau thì
cần gì ý nghĩa. Sự sống có ý nghĩa gì đâu. Tôi rất thích truyện “Một vụ bắt
rượu lậu”. Dân mình thông minh, hóm thật đấy. Xưa tôi đã từng làm đoan, tôi
cũng đã từng đi bắt rượu lậu mà không biết.”
Hôm ấy, Nguyễn Tuân rất vui. Ông phát biểu rất
hào hứng:
“Hiện nay có một Tuyển tập Nguyễn Tuân ở California,
một cuốn ở Paris, một cuốn ở Sài Gòn, tôi tặng
tướng Trần Văn Trà do bài hồi ký của ông ta.”
Hôm ấy, ông cũng nói công khai về việc chọn tôi
làm Tuyển tập:
“Vũ Ngọc Phan hồi xưa làm báo Revue Franco –
Annamite, đi xe nhà, làm cái “Nhà văn hiện đại” chữ nghĩa chằn chẵn ra, chẳng
có trouvaille gì, gọi là cái catalogue St étienne littéraire. Có vẻ
accadémique. Giữa hai người, chọn Nguyễn Đăng Mạnh còn đỡ hơn”.
Ông phê bình việc cắt xén truyện Rượu bệnh tôi
trích và đổi tên là Bố Ô:
“Trích như thế làm cho không còn có tính chất
yêu ngôn nữa, đó là fantaisiste và fantastique kia mà, lão Bố Ô còn huýt sáo,
còn có chuyện cháy nhà… Tôi còn có truyện Thạch tinh, không nhớ đăng báo nào:
một anh ăn chơi, bị sỏi thận. Đêm, hai viên sỏi thận (thành tinh) nói chuyện
với nhau, người đó nghe được”.
Ông nói tiếp:
“Còn Như Phong, còn Mao, thì không thể có Tuyển
tập Nguyễn Tuân. Ông Như Phong có lần nói, văn Nguyễn Tuân để cho người hút
thuốc phiện và hát ả đào đọc. Tôi giận lắm. Tôi bảo Như Phong: “Tôi giận anh
lắm, thế trước cách mạng, tôi hút, anh cũng hút. Thế có phải lúc đó vì đọc sách
của tôi mà anh hút không?” Ông Vũ Đức Phúc rất ghét văn tôi, vậy mà gần đây ông
ấy phải viết khen văn tôi. Nhưng mà sau khi khen ông ấy lại sợ người ta hiểu
sai, đề cao tôi quá, lại nói Nguyễn Tuân không phải là nhà văn lớn. Nào tôi có
muốn là nhà văn lớn đâu, tôi chỉ mong làm một nhà văn trung bình, viết về cái
gì mình thích, thế thôi.
Hồi Tạp chí Văn hoá – Nghệ thuật có phân ra các
ban về văn hoá: ăn, mặc, ở. Hà Huy Giáp bảo tôi: Anh hay chú ý về cái ăn, vậy
anh suy nghĩ xem có cái gì viết, tìm ra lý luận gì về ăn uống. Tôi viết về giò
chả. Ông Vũ Đức Phúc phê phán là phục vụ bọn phe phẩy mặc áo phin nõn, áo
nilông. Sau có chuyện mậu dịch ta bán phở, thế là phục vụ phe phẩy à? ở Hàng
Buồm có quán Bạch Ngọc cơm tám giò chả rất ngon, mở từ thời xưa, có thanh toán
hết nợ cũ (tháng trước) thì mới bán tiếp. Bà chủ quán bảo tôi: “Ông ăn uống mãi
mà ông dại. Người ta ăn gấp mấy ông nhưng không nói. Ông ăn, ông nói, nên ông
chết”.
Lúc ấy có một anh nhiếp ảnh của báo Nhân dân đến
chụp. Nguyễn Tuân lại chuyển sang nói về chụp ảnh: “Camus nói, le photographe,
c’est l’histoire de l’instant. Có người lại ví quay phim là lia một băng liên
thanh, còn chụp ảnh là lẩy phát một. Chụp ảnh là làm một việc rất thiện ý mà
người ta khó chịu”.
Cuối cùng ông lại quay về chuyện Tuyển tập. Ông
nói: “Cái người đàn bà không đẻ được nữa, người ta gọi là tắt kinh, còn nhà văn
không viết nữa, già, hết thời, tôi gọi là đến thời kỳ “tuyển hồi” (viết hồi ký
và làm tuyển tập). In tuyển tập tập I là un pieds dans la tombe rồi, in tập II
thì là đưa cả hai chân…”
Từ sau chuyện Tuyển tập, thấy Nguyễn Tuân dễ dãi
với mình, tôi thỉnh thoảng lại đến ông. Tuy vậy lần nào đến cũng phải kiếm một
cớ gì đấy, gọi là có việc, chứ không phải đến chơi suông. Hôm ấy, nhân nghe
nói, ông có những nhận xét rất ác về giới phê bình
văn học, tôi đến
ông để dò hỏi về điều này. Quả là ông không mấy lạc quan về tình hình phê bình
văn học. Ông nói:
“Nước mình không qua tư bản chủ nghĩa, người ta
thấy có trở ngại về kinh tế, song chưa thấy trở ngại về tư tưởng. Lão Khổng Tử
ghê gớm lắm! Phê bình hiện nay cứ có lối aurait écrire, lối conditionnel. Vào
hàng phở lại đòi ăn cơm và phê bình không nấu cơm, lẽ ra nấu cơm thì sẽ… hay
hơn. Thành ra để tránh conditionnel, người viết phải dùng toàn inpératif hay
infinitif. Tây phương nó đòi dân chủ, bàn đã khá triệt để, đòi được tự do, được
quyền phạm sai lầm, revendiquer le droit de l’ erreur. Không phải để làm bậy
đâu mà đòi một cái marge cho tự do tìm tòi. Nếu bắt phải đúng thì ai dám tìm
tòi. Mà sao phạm sai lầm lại là độc quyền của một số người! Trong lịch sử ta đã
có lúc giương lá cờ độc lập tự do để tập hợp nhân dân, nhưng không mấy khi dám
giương riêng lá cờ dân chủ. On trouve quand on cherche. Quand on cherche, on
trouve quelque chose. Khi người ta tìm có thể không tìm ra cái định tìm, nhưng
nhất định tìm ra cái gì đó, một cái khác với dự định. Hiện nay đang hình thành
một thứ provincialisme, một thứ chủ nghĩa tỉnh xép trong quan niệm, trong tình
thần lãnh đạo. Người ta phê bình Tình rừng của tôi cũng theo lối aurait écrire.
Còn cuộc tranh luận chung quanh thể ký thì cứ cãi nhau ký với cấu, ký không
cấu, đúng là trò cười. Về Vũ Trọng Phụng thì tôi biết, chả có trốt – kít gì cả
đâu. Hồi ấy viết lách lung tung lắm. Hiện nay người ta ách nhiều thứ quá. ách
truyện ngắn Gogol, ách Le Rouge et leNoir, ách Guy de Maupassant, Le Boule de
suif, định dịch Le steppe sau lại thôi. ách cả La peau de chagrin… Phê bình thì
theo kiểu aurait écrire. C’ est une gratuité. Tôi ghét nhất loại chính thống
orthodoxe mà lại giả vờ thắc mắc, để do thám,
aux écoutes người khác. ách Miếng da lừa vì cho là chủ nghĩa sống gấp. ách Le
Rouge it le Noir vì cho rằng ông cha ta, vợ chồng ngủ với
nhau cũng khăn áo
chỉnh tề, nay nó lại dám cởi quần áo ra thì láo quá! ở ta, một mặt khuyến khích
réalisme, mặt khác lại tránh cái réel. Tạo ra một thứ littérature abstraite,
hình như không đúng phương pháp nghệ thuật. Chỉ nói ý, không có hình tượng
thật. Theo tôi cần làm một essai có hệ thống về vấn đề này.
Tôi thấy cần chuyển câu chuyện sang hướng khác,
và muốn tìm hiểu xem khuynh hướng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân như thế nào khi đọc
các sách vở ngoài nước (từ 1945 đến 1975, sách vở nước ngoài vào nước ta chủ
yếu là sách Liên Xô, Trung Quốc) Nguyễn Tuân tỏ ra có tình cảm với văn học Nga
hơn. Ông nói, thích Gogol, Tchékhov, thích Le Manteau. Thích Paoutovsky. Cuốn
Histoire d’ unevie, sáu tập của Paoutovsky có đoạn văn rất tuyệt: trên tàu
điện, người ta phân phát cho mỗi người một bông hoa. Một đoạn văn có cái
lyrisme rất hay. Nguyễn Tuân rất ghét lối phê bình văn học kiểu Mao-it của Tầu
lúc bấy giờ.
“Cuốn Ballade d’un soldat nói về một anh lính
lúc đầu nhát, sau có thành tích. Họ phê
phán: “Sao lại đưa ra một anh lính nhát”. Tra từ điển Larousse, tôi thấy nó
định nghĩa: le courage, c’ est triompher la peur. Không phải can đảm sinh ra đã
có, phải có quá trình chứ. Người ta không thích quá trình, cứ phải sinh ra đã
can đảm rồi. Chung quy là do thiếu văn hoá. Thiếu văn hoá thì sinh ra hẹp hòi.
Đó cũng là tư tưởng của phong kiến và của nông dân”.
Một lần khác, vào đầu tháng 11 năm 1986, tôi lại
đến thăm Nguyễn Tuân. Nhân đang làm tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tôi muốn hỏi ông
một vài chi tiết cụ thể về nhà
văn này mà tôi biết ông rất quý. Ngoài ra muốn ông viết cho một bài về Vũ Trọng
Phụng để in vào Tuyển tập. Lúc tôi đến, ông
đang nằm xem sách. Ông ngồi dậy, có vẻ mệt mỏi.
Trên bàn thấy có một mâm cơm rất đạm bạc. Một
bát cơm ăn dở. Vài miếng dứa trên một cái đĩa.
Tôi hỏi ông về
ngôi nhà của Vũ Trọng Phụng ở Cống Mọc, Vũ Trọng Phụng chết ở đó. Tôi nói anh
Vũ Đình Liên cho tôi biết đó là một ngôi nhà lá. Nguyễn Tuân cau mặt:
– Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên. Nhà ở Chợ Đuổi,
chả biết vợ con xích mích thế nào, không ở được với nhau, cứ đến ở nhà Vũ Trọng
Phụng. Đúng là một anh thần kinh!
– Tôi ghét anh Vũ Đình Liên. Tôi biết hồi trước
anh ta có chơi bời gì đâu. Thế mà cứ nói dối là ngày xưa tôi cũng chơi bời cô
đầu, cô đít, ra vào tiệm ăn, tiệm hút… Giống như cái anh Vũ Ngọc Phan. Hay gì,
đẹp đẽ gì cái đó mà cũng phải nói dối, cứ “hư cấu” ra làm cái gì.
Ông lắc đầu, để tay lên ngực; “mùa rét, mệt”.
Ông lấy một miếng dứa ăn tự nhiên, uống một hớp rượu trong cái ly uống sâm banh
– ly tròn có chân.
– Tôi đã viết trong bài đăng ở Tao đàn: Vũ Trọng
Phụng chết ở ngôi nhà ngay ngoài
phố, gần Cầu Mới, chỗ Ngã Tư Sở, đường Hà Nội – Hà Đông.
– Tôi hỏi: Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện?
– Có, Vũ Trọng Phụng có hút thuốc phiện, để kéo
dài cuộc sống, vì anh ta bị ho lao. Có đem bàn đèn về nhà.
– Bác quen Vũ Trọng Phụng từ hồi nào?
– Không nhớ.
– Từ hồi còn ở Hàng Bạc?
– Ờ.
– Bác có đến chỗ ở cuối cùng của Vũ Trọng Phụng
và có đưa ma Vũ Trọng Phụng?
– Có. Tôi không thể nào nhầm, nhầm thế nào được!
Tôi ghét cái anh Vũ Đình Liên…
Tôi tranh thủ chuyển sang hỏi ông cái điều mà
tôi luôn trăn trở:
“Người ta hay nói về phong cách Nguyễn Tuân.
Nhưng bác lại ít nói về phong cách. Quan niệm của bác về phong cách là thế nào?
Nguyễn Tuân ngồi im lặng, vẻ mặt như sắp nói một
điều gì đã có quan niệm rất rõ, Nghĩa là sắp phát biểu một tuyên ngôn rành mạch.
Một lát, rồi ông chỉ tay ra trước mặt, nói chậm rãi:
– “Những người viết mà được chế độ này chấp
nhận, hay hay dở chưa biết, nhưng được chế độ này chấp nhận về thế giới quan,
nhân sinh quan. Trên cơ sở cái nhân sinh quan, thế giới quan chung ấy, mỗi người
lại có một cái nhỡn quan riêng, tiếng Pháp gọi là vision. Đó là cái đẻ ra phong
cách. Vì cái đó mà anh thì thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa,
người có sở trường này, người có sở trường nọ. Rồi cách đưa vấn đề cũng khác
nhau… Nó đẻ ra tất cả. Văn học có cái rất vui là phong cách, cách nói, cách
quan niệm về nghệ thuật khác
nhau. Anh giảng dạy lại không đi vào đấy, chỉ nói về nội dung, về tư tưởng nên
trở thành nhạt nhẽo vô duyên. Tại anh thôi, cái chỗ phong phú nhất, vui nhất,
“xôm” nhất anh lại đếch đi vào nên người ta chán”.
Như đã nói, lúc này tôi đang làm Tuyển tập Vũ
Trọng Phụng (1986). Vì thế tôi thử dò ý xem Nguyễn Tuân có muốn viết gì cho
tuyển tập này không. Ông lắc đầu nói, giờ không viết gì được nữa. Tôi nói có ý
định làm một cuốn sách gọi là “Việt Nam, đất nước, phong tục, con người qua các
trang văn của Nguyễn Tuân”. Ông tán thành và nói cứ làm đi.Tôi lại hỏi ông, vì
sao Tờ hoa bị phê phán? Ông Hoài Thanh, anh Chế Lan Viên cho là ông ám chỉ sai
lầm của cải cách ruộng đất?
Nguyễn Tuân nói:
– Vì ông Trường Chinh không thích nên tất nhiên
là họ cũng không thích.
Tôi gợi ý:
– Tờ hoa chỉ có cái chi tiết con ong bị đập, nó
đốt lại thế thôi.
Nguyễn Tuân nói:
– Ờ. Còn cái này nữa: con bướm – Con bướm cánh
phấn sặc sỡ, đẹp như những khẩu
hiệu. Nhưng mà chả ai nói đến mật bướm cả. Còn con ong nó rất hiền, nhưng đập
nó, trêu ghẹo nó thì nó mới đốt cho.
Ông Trường Chinh không thích. Ông ấy nói với tôi
như thế ở một cuộc hội nghị văn nghệ gì đó trước giờ khai mạc. Ông ấy và tôi
cùng ngồi chủ tịch đoàn. Ông ấy nói: “Đả thằng phi công Mỹ thì anh viết mới
được, nhưng tôi không thích bài Tờ hoa của anh”.
Tiếp xúc nhiều với Nguyễn Tuân, tôi thấy ông
không nói yêu ai, mến ai bao giờ. Điều này trái hẳn với Xuân Diệu. Qua các bài
viết của ông, tôi biết ông rất quý Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng,
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Văn Bổng, Lý Hải Châu… Quý nhưng không thích nói
ra miệng. Theo anh Lý Hải Châu,
ông cũng rất quý bác sĩ Trần Hữu Tước. Khi Trần Hữu Tước mất, ông nói:
“Sao những người tử tế thì chết, mà mấy thằng
đểu giả mất dạy thì cứ sống mãi!”.
Nguyễn Tuân đặc biệt rất quý Nguyên Hồng. Hôm
làm lễ truy điệu Nguyên Hồng ở Hà Nội (ngày 11 – 8 – 1982, tại 51 Trần Hưng
Đạo), tôi được chứng kiến tận mắt Nguyễn Tuân thương tiếc Nguyên Hồng như thế
nào. Từ hàng ghế quãng giữa hội trường, ông chống gậy lọm khọm đi lên phía sân
khấu. Ông khóc mãi không nói được. Một lúc sau mới chậm rãi thuật lại một số kỉ
niệm của ông với Nguyên Hồng. Ông kể lại cái lần gặp Nguyên Hồng trên một
chuyến tàu Hà Nội – Nam Định. Nguyên Hồng được phóng thích từ Căng Bắc-Mê ra,
còn ông thì bị đưa ra đối chất với một số người bị bắt rồi cũng sẽ bị đưa đi
tù. Một người ra tù, một người vào tù. Ông nói với Nguyên Hồng:
“Anh là người chuyên tô tượng đúc chuông, còn
tôi thì chuyên phá đình phá chùa”.
Cả hai cùng đi tù. Chi tiết này mấy anh ở Liên
Xô không hiểu: sao khác quan điểm mà đều bị tù? Tôi có đưa chi tiết này vào bài
tựa viết cho tập truyện ngắn của Nguyên Hồng in ở Liên Xô. Chính cái chuyện
viết bài tựa này cũng là một kỉ
niệm khó quên. Ông nói:
“Hôm ấy tôi hứa viết xong bài nhưng rồi lỡ hẹn.
Bẩy giờ sáng, anh con trai Simonov dựng tôi dậy, bắt ra xe đến chỗ làm việc.
Anh ta nói: “Chúng ta chỉ đi ăn trưa khi nào viết xong bài tựa”. Cách làm việc
như sau: Tôi nói, một người dịch, một người đánh máy. Vì Nguyên Hồng mà lần đầu
tiên tôi phải làm việc như thế đấy.”
Ông nói tiếp về Nguyên Hồng:
“Người ta có bốn cái khổ: sinh, lão, bệnh, tử.
Nguyên Hồng bỏ qua hai khâu lão, bệnh, đi thẳng từ sinh đến tử. Ai dám bảo
Nguyên Hồng là lão. Văn còn trẻ lắm! Trước khi giác ngộ cộng sản, Nguyên Hồng
theo đạo. Anh tin thiên đường ở trên trời, dưới đất chỉ có khổ não và tội lỗi.
Sau này giác ngộ cách mạng, anh biết thiên đường có thể có trên mặt đất này.
Nói đến đấy, ông dừng lại và bỗng hô to: “Hồng
ơi! Hãy yên nghỉ! Hồng ơi! Hãy yên nghỉ”.Ông vừa nói vừa khóc.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Ngô Tất Tố. Ông đã viết
một bài ca ngợi hết lời tiểu thuyết Tắt đèn và nhận đóng vai Chánh tổng trong
phim Chị Dậu. Theo Nguyên Ngọc, Nguyễn Tuân đóng phim Chị Dậu chẳng qua vì có
tình với Ngô Tất Tố. Lúc ấy ông yếu lắm. Tuy chỉ đóng một thoáng thôi, nhưng
phải đi ngựa (phim quay ở đình Đồng Kỵ). Đêm trước ông bị sốt. May, sáng hôm
sau khỏi, ông lại uống rượu rất vui. Nguyễn Tuân cũng rất quý Lý Hải Châu. Hồi
làm giám đốc Nhà Xuất bản Văn học, Lý Hải Châu đã đấu tranh cho việc làm Tuyển
tập Nguyễn Tuân, Xuân Diệu… Anh Châu làm tình báo cách mạng từ trước 1945, đã
từng bị thực dân kết án tử hình. Anh là một trí thức rất có bản lĩnh. Tôi nhớ
khi Tuyển tập Nguyễn Tuân được xuất bản, Nguyễn Tuân nói:
“Không có Lý Hải Châu thì không thể có Tuyển tập
Nguyễn Tuân”.
Nguyễn Tuân cũng có cảm tình với Nguyễn Văn Bổng
và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Ông khen Hoàng Phủ Ngọc Tường viết được, có văn hoá.
Nguyễn Tuân cũng rất quý Đặng Thai Mai. Nhưng ông không đánh giá cao Đặng Thai
Mai về tư cách nhà văn. Hồi ông vào Đại học Sư phạm Vinh sơ tán ở Thạch Thành,
Thanh Hoá, ông nói với tôi:
“Anh Đặng Thai Mai là người tôi rất quý. Nhưng
nếu có ai hỏi, Đặng Thai Mai có những tác phẩm gì, thì tôi lúng túng quá!”.
Tôi để ý thấy Nguyễn Tuân tỏ ra rất thích thú
câu tâm sự rất riêng này của Đặng Thai Mai vì ông nhắc
lại với tôi hai
lần: “Tôi là thằng đàn ông biết độc có một cái l”. (Đặng Thai Mai nói tiếng
Pháp: je suis un homme d’ un seul vagin).
Nguyễn Tuân nói xong cười thích thú, cuống mũi
nhăn lại, cái mũi đã to, càng to hơn trên bộ ria Hoa Kỳ rất Nguyễn Tuân. Đối
với Tố Hữu, một mặt ông không quên cái việc nhà thơ đã đánh giá cao uy tín của
ông đối với giới văn nghệ. Sau cách mạng tháng Tám, được Đảng gọi ra Hà Nội lãnh đạo văn nghệ, người đầu tiên
Tố Hữu thấy cần phải gặp là Nguyễn Tuân và đến năm 1948 thì đưa ông lên làm
tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam. Ngoài ra Tố Hữu cũng là người giới thiệu ông
vào Đảng. Dù sao ông cũng không quên thiện ý ấy. Vì có lần tôi hỏi ông về Tố
Hữu, ông nói: “Tố Hữu là người đỡ đầu cho tôi về tư tưởng” (ông nói tiếng Pháp:
parrain idéologique).
Và trong liền mấy năm, cứ vào dịp đầu xuân, ông
lại gửi cho Tố Hữu một cái thiếp chúc tết (bonne année) có in nghiêng một cành
hoa tím (Tố Hữu có làm một bài thơ gọi là
Hoa tím tặng Nguyễn Tuân in trong tập Gió lộng). Nhưng về sau, bẵng đi, Nguyễn
Tuân không gửi nữa. Tố Hữu buồn lắm, nhờ Hà Xuân
Trường hỏi xem. Hà
Xuân Trường nhờ Hoàng Ngọc Hiến. Nhưng Hiến ít có quan hệ với Nguyễn Tuân nên
lại nhờ tôi. Rất tiếc là tôi quên mất.
Đầu năm 1987 (1.1.1987), trong một cuộc liên
hoan nhẹ ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới (65 Nguyễn Du), tôi có được dự, Nguyễn
Tuân kể chuyện vừa đến thăm Tố Hữu (lúc này Tố Hữu đã mất hết mọi chức vụ). Ông
nói:
“Văn bây giờ chỉ viết về tương lai hay quá khứ
thôi. Hiện tại không viết. Chỉ viết cái lẽ ra nên như thế. Vì thế không thấy
cái xấu, chỉ thấy cái tốt. Chỉ viết toàn cái tốt là không tốt. Tôi nói thế với
anh Lành, anh ấy cũng tán thành. Ông Tố Hữu phải có một phen bị quật hẳn xuống
như thế ông ấy mới tỉnh ra, ông ấy phải rơi xuống như bọn mình thì mới thấy
khác. Hôm tôi đến thăm, ông ấy mừng lắm, vui lắm, tiễn tôi mãi ra xa. Tôi xua
tay bảo ông về và hỏi: “Cây táo của anh còn không? Cây táo ông Lành còn không?
Cho tôi xin mấy quả. Người ta nói cây táo có ma nên không có quả?”. Tố Hữu cười
một cách đau khổ – Nguyễn Tuân nhận xét một cách hóm
hỉnh.
Nguyễn Tuân yêu ai, quý ai thì không thích nói
ra, nhưng ghét ai thì nói thẳng, nói công khai, không chút dè dặt. Mà đã ghét
thì thường phát ra những câu rất ác. Những người ông ghét khá nhiều. Theo tôi
được biết, ấy là : Như Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Phùng Bảo Thạch,
Hoài Thanh, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc,
Phan Cự Đệ, Anh Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh…
Nhưng theo tôi, chỉ kể trong số người viết văn,
ông ghét nhất ba người: Như Phong, Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên. Như Phong
chết rồi, ông còn gọi là thằng mặt lợn. Ông ghét Hoàng Trung Thông kể ra cũng
dễ hiểu. Thông có thời gian làm Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật và từng quy chụp chính
trị nhiều tác phẩm của Nguyễn Tuân . Tôi đã chứng kiến Nguyễn Tuân nổi nóng và
đã chửi Hoàng Trung Thông như thế nào khi tôi tìm được nguyên bản Bữa rượu máu
để đưa vào Tuyển tập Nguyễn Tuân.
Vào năm 1973, tôi từng được nghe Hoàng Trung
Thông và Lưu Quý Kỳ nói chuyện về một hiện tượng mà các anh gọi là luồng gió
đen hay luồng gió độc gì đó thổi vào nền văn học miền Bắc nước ta, trong đó có
những bài Tình rừng, Giò lụa… của Nguyễn Tuân.
Nhưng Hoàng Trung Thông vẫn phục tài Nguyễn Tuân.
Và khi về già, cũng muốn có mối quan hệ tốt với ông. Năm 1986, Thông đăng trên
Văn nghệ bài “Anh Nguyễn Tuân”, một bài thuộc loại chân dung văn học. Thông lấy
làm đắc ý lắm. Anh nói với tôi: “Anh là nhà nghiên cứu, anh viết khác. Tôi là
người sáng tác, tôi viết khác”.
Tôi chắc Hoàng Trung Thông nghĩ rằng bài ấy
Nguyễn Tuân có xem và không ghét mình
nữa, nên Tết năm ấy (1987) anh bảo con đèo đến chúc Tết Nguyễn Tuân. Chẳng ngờ
Nguyễn Tuân không tiếp. Nghe nói Hoàng Trung Thông đã khóc.
Biết chuyện này, tôi bèn tìm đọc bài viết của
Hoàng Trung Thông xem thế nào. Tôi thấy viết như thế Nguyễn Tuân ghét là phải.
Đại khái bài viết có những câu như thế này: Anh nói Thiếu quê hương,”song chúng
ta làm gì mà phải đến nỗi thiếu quê hương”, “có những lúc tưởng như anh xa rời
Đảng, rồi anh lại gắn chặt với Đảng. Vì anh biết rằng anh không thể xa rời Đảng
được”, “Anh đã viết Tình rừng, dẫu rằng những bài văn đó có đôi chỗ sai sót,
nhưng trong đó vẫn đầy rẫy những tâm
tình về sông nước, con người”, “Tôi biết có lúc Nguyễn loạng choạng, nghiêng
ngả. Nhưng khi anh vịn vào từng câu, từng trang văn, anh đứng thẳng dậy, rồi
anh đi, đi đàng hoàng và có lúc đi nghênh ngang nữa để cùng với những bạn văn
của mình đi đến đỉnh cao của văn chương Việt Nam”…
Đúng là có giọng tuyên huấn! Vẫn viết theo giọng
tuyên huấn!
Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn ghét điều này nữa ở bài viết ấy: nguyên là ngày xưa,
có một lần Nguyễn Tuân, Hoàng Trung Thông về Đông Anh cùng với vợ chồng Nguyễn Hồng Phong – Ngọc Trai. Phong quê ở Đông
Anh. Đêm ấy họ đi xem một đoàn cải lương Nam Bộ biểu diễn vở gì đó ở bên cạnh
thành Cổ Loa. Nguyễn Tuân nhớ gần đó có làng Quậy – rượu Quậy rất ngon – quê
một đào hát ông đã quen rất lâu. Họ bèn đến hỏi thăm thì được biết cô đào ấy đã thắt cổ tự tử rồi vì bị quy là phản động gì đó
trong cải cách ruộng đất. Buồn quá! Họ uống rượu, rượu rất ngon, đúng là rượu
Quậy. Nguyễn Tuân vừa uống vừa khóc, vừa hát đi hát lại bài hát rất buồn của
Đặng Thế Phong:
“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi…”
Trong bài viết của mình, Hoàng Trung Thông có
đưa chuyện này vào. Nhưng Nguyễn Tuân cho là anh đã diễn đạt không đúng tâm sự
của mình lúc ấy nên càng ghét:
“Mình buồn cho những kiếp người chịu oan khuất,
buồn cho đời. Nó lại viết
như mình khóc nhân tình vậy” – Chị Ngọc Trai nói lại với tôi như thế.
Nguyễn Tuân cũng rất ghét Chế Lan Viên. Một lần
tôi đến Xuân Diệu. Xuân Diệu bảo tôi: “Mình nghe nói Nguyễn Tuân vừa phát biểu
một câu rất hay về Chế Lan Viên”. Và anh nhắc lại cho tôi nghe cái câu rất ác
ấy. Nhưng tôi muốn biết đích xác câu nói ấy từ chính miệng Nguyễn Tuân kia, nên
tìm đến ông. Tôi gạ chuyện: “Vừa rồi anh Xuân Diệu cho tôi biết bác có nói một
câu gì đó rất hay về Chế Lan Viên”.
Nguyễn Tuân ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
“Cái anh Xuân Diệu từ ngày vợ bỏ đến giờ có khá
hơn” (Cho đến nay tôi vẫn không hiểu ý nghĩa của câu nói đó. Khá hơn là thế
nào? Tại sao vợ bỏ lại khá hơn?
Nguyễn Tuân nói tiếp: “Có hai chữ thi nhân và
thi sĩ. Tôi thích chữ thi nhân hơn. Thi sĩ là chỉ anh có nghề làm thơ. Còn thi
nhân thì sang và đẹp từ bản chất con người. Chế Lan Viên không đáng gọi là thi
nhân. Thi sĩ thì có thể được bao nhiêu phần trăm đấy”.
Như thế nghĩa là, theo Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên
cũng chưa được coi là thi sĩ trăm phần trăm.
Ông tiếp tục: “Một
hôm tôi đi vào phòng văn thư của Hội nhà văn. Tôi đi vào đúng lúc Chế Lan Viên
đi ra. Hình như anh ta đến để lấy vé máy bay đi vào Sài Gòn. Anh giơ tay bắt
tay tôi. Tôi không bắt. Chế Lan Viên ra rồi, các cô văn thư hỏi tôi: “Sao bác
không bắt tay anh ấy? Tôi hỏi lại: “Thế các vị có biết vì sao có tục bắt tay
không? Các cô không biết. Tôi nói: Ngày xưa ở phương Tây, hai người tin cậy
nhau, không mang theo vũ khí, họ bắt tay nhau. Tôi không bắt tay anh Chế Lan
Viên vì anh ấy trong người có hàng bồ dao găm”.
Ông lại nói tiếp một chuyện khác:
“Anh Chế Lan Viên ở trong Nam bắn tin ra ngoài này cho tôi, không hiểu sao,
anh Nguyễn Tuân cứ thấy tôi là lảng tránh không muốn gặp. Hôm ấy họp chi bộ,
tôi nói với cô Lê Minh là bí thư: “Cô ghi lại rồi bắn tin cho anh Chế Lan Viên
hộ tôi: “Đúng là tôi tránh mặt anh ấy thật. Lý do là tôi đã già rồi. Người già
tính khí bất thường. Tôi sợ gặp anh ấy, lỡ tôi
nổi nóng lên, tát cho anh ấy một cái thì làm thế nào. Đồng chí với nhau mà tát
nhau thì phải kiểm điểm thôi”.
Nguyễn Tuân ghét Vũ Ngọc Phan vì, cũng giống như
Vũ Đình Liên, vốn xưa sống khuôn
phép như một anh viên chức, thế mà bây giờ cứ nói là hồi Pháp thuộc mình cũng
chơi bời dữ lắm (Tô Hoài cho là Vũ Ngọc Phan không dám chơi bời vì sợ Hằng
Phương). Tô Hoài còn cho biết một lý do khác: ngày trước túng tiền, Nguyễn Tuân
thường đến vay Vũ Ngọc Phan nhưng từ khi đi tù về (khoảng 1941, 1942, Nguyễn
Tuân bị bắt giam ở Căng Nho Quan), Phan không cho vay nữa.
Nguyễn Tuân sai con trai là Toản đến vay, Vũ Ngọc Phan từ chối. “Nó sợ liên
quan đến thằng tù dây đây mà!” – Nguyễn Tuân nói thế.
Ông cũng rất ghét Phùng Bảo Thạch. Thạch chết,
Nguyễn Tuân không đến viếng. Thạch là tay thân Nhật, Nguyễn Tuân cho ẩn náu ở
nhà riêng tại Ngã tư Sở (ông gọi là Am Sông Tô). Vậy mà Thạch đã làm cho ông bị
tù. Vì chứa Thạch nên cũng bị coi là thân Nhật. Thạch bị bắt, bị tra hỏi, đã
khai là Nguyễn Tuân đang nằm ở xóm hát Khâm Thiên và đưa mật thám đến bắt.
Nguyễn Tuân vừa buông màn ngủ thì bị gọi dậy, còng tay luôn.
Ông cũng không ưa Phan Cự Đệ. Có lần ông nói với
tôi: “Nghe nói anh Phan Cự Đệ làm
Tuyển tập Nguyên Hồng, tôi buồn quá!”. Hoài Thanh cũng bị
nhiều nhà văn không ưa. Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông gọi Hoài Thanh là thằng nịnh.
Hồi Hoài Thanh ốm nặng, Nguyễn Tuân nói, tôi định đến thăm Hoài Thanh để nhắc
lại lời ông ta nói khi đi Trung Quốc về:
Mao Trạch Đông có một cái nốt ruồi rất lớn ở
cằm, đúng là tướng đế vương.
Còn Anh Thơ thì Tô Hoài kể chuyện này. Một lần
Nguyễn Tuân và Anh Thơ cùng đi công tác ở Lai Châu. Hồi ấy không sẵn khách sạn
như sau này, còn hoang vu lắm. Lại vào lúc mưa to gió lớn. Người ta kiếm được
một cái phòng đưa hai người vào nghỉ. Tất nhiên mỗi người một giường. Nhưng Anh
Thơ nhất định không chịu, vì sợ… Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân rất bực và chắc cũng
ngượng nữa. Khi về Hà Nội, gặp lại trong một cuộc họp, Nguyễn Tuân nói vào mặt
Anh Thơ: “Bà làm như tôi chực hiếp bà hay sao!”.
Còn Nam Mộc? Nam Mộc từng viết một bài về tập
Tuỳ bút Sông Đà của Nguyễn Tuân. Tay này có vết về chính trị nên lên gân lên
cốt ghê lắm. Nam Mộc phê Nguyễn Tuân trong Sông Đà là “ngựa quen đường cũ”,
chưa dứt bỏ được những căn bệnh cũ như chủ nghĩa xê dịch, tư tưởng hoài cổ,
rồi nào là buồn rớt, nhắm nháp thiên nhiên… Tôi chắc Nguyễn Tuân ghét Nam Mộc
lắm nên có lần nói với tôi: “Thằng cha Nam
Mộc, vợ nó bỏ là phải lắm!”. Ngoài ra có chuyện này nữa, nhiều người biết: một
lần kia, Nguyễn Tuân bệnh nặng phải cấp cứu ở bệnh
viện Việt Xô. Người ta đưa ông vào một phòng bệnh, đã có Nam Mộc ở đó. Nguyễn Tuân không chịu ở chung với Nam
Mộc, nhất quyết từ chối không vào:
“Hoặc tôi đi chỗ khác, hoặc Nam Mộc phải đi”.
Bệnh viện đành
phải giải quyết theo nguyện vọng của ông.
Có một điều này, cho đến nay, tôi vẫn chưa hiểu
được: gia đình Nguyễn Tuân ngày
xưa ở Thanh Hoá rất lâu. Cụ Tú Lan làm việc ở Toà sứ Thanh Hoá rồi nghỉ hưu
luôn ở đó. Nguyễn Tuân có thời gian bị giam giữ, quản thúc ở Thanh Hoá. Có lúc
làm thư ký ở nhà máy đèn, đồng thời làm thông tín viên cho báo Trung Bắc Tân
Văn thường trú ở Thanh Hoá. Viết văn, ông thường ghi nơi viết là Thang Mộc ấp,
tức Thanh Hoá gọi theo địa danh thời phong kiến.
Ấy thế mà có lần tôi thấy ông xử quá tệ với
Thanh Hoá. Một hôm có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá đánh xe ra Hà Nội thăm
Nguyễn Tuân. Họ đến Hoàng Ngọc Hiến nhờ đưa đi. Hiến chưa đến Nguyễn Tuân bao
giờ, giới thiệu tôi thay anh. Tôi đi cùng với họ đến trước nhà Nguyễn Tuân ở 90
Trần Hưng Đạo. Tôi bảo xe đỗ ngoài đường đợi tôi vào xem ông có nhà không. Tôi
thấy ông đang ngồi một mình
ở phòng riêng. Tôi nói:
“Có mấy anh ở Nhà xuất bản Thanh Hoá muốn đến
thăm bác. Họ đang đợi dưới kia.
Ông xua tay:
“Thôi anh bảo họ về, tôi cám ơn”.
Tôi nài thêm: “Họ có rượu ngon muốn biếu bác”.
Ông nói: “Tôi có rượu rồi, cám ơn”.
Tôi lại nài thêm một lần nữa:
“Họ nói muốn xin bác cho in lại những bài bác
viết về Thanh Hoá”.
Ông vẫn một mực từ chối:
“Được, anh cứ bảo họ, tôi đồng ý. Thôi bảo họ về
đi”.
Người ta đánh xe từ Thanh Hoá ra thăm mà nhất
định không tiếp. Rất lạ! Sau này Tô Hoài cho tôi biết , ông rất ghét Thanh Hoá.
Ngày xưa ông viết truyện Đôi tri kỷ gượng, giễu cợt lối văn bằng phẳng, thiếu
cá tính của một nhân vật tên là Mợi. Mợi là Thanh Châu, người Thanh Hoá. Nhưng
Thanh Châu thì có liên quan gì đến Nhà Xuất bản Thanh Hoá?
Nhân dịp tác phẩm Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng được
tái bản, vợ chồng Sơn – Hằng (Hằng là con gái, Sơn là con rể Vũ Trọng Phụng),
tổ chức một cuộc liên hoan ăn mừng tại nhà riêng ở Mọc Giáp Nhất (ngày
23.01.1983). Rất nhiều nhà văn được mời tới dự: Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Huy
Phồn, Lưu Trọng Lư và vợ con (vợ lạc đường không đến được), Như Phong, Hoàng
Trung Thông, Ông Lưu, nhà nhiếp ảnh từng quen biết Vũ Trọng Phụng. Bà Tuệ, vợ
Nguyễn Tuân, hàng năm đều có đi viếng mộ cụ Tú Lan, nhân tiện cũng viếng mộ Vũ
Trọng Phụng ở gần đấy. Vì thế cũng đến dự liên hoan. Trong khi chờ đợi dọn
tiệc, người ngồi trong nhà, người ở ngoài sân
trò chuyện với
nhau.
Nguyễn Tuân nói chuyện với tôi và Bùi Huy Phồn ở
ngoài sân. Ông nói, lẽ ra kỷ niệm
Vũ Trọng Phụng 70 tuổi tổ chức năm 1982, mọi người đã đồng ý cả, nhưng Hoàng
Trung Thông, Hoàng Trinh, Phong Lê, Vũ Đức Phúc phản đối.
Nguyễn Tuân hỏi:
“Phong Lê là thằng nào, tên thật là gì, tướng
gian ác có lộ ra mặt không, có phải dân Nghệ không? Vũ Đức Phúc, Phong Lê, Như Phong đúng là cùng một băng đảng với nhau.”
Tôi ngỏ ý mời Nguyễn Tuân đến nói chuyện với học
viên sau đại học. Ông nói, ngại đăng đàn diễn thuyết lắm, sẽ trả lời sau, nhưng
không hứa hẹn gì. Ông nói với Đồ Phồn, lát nữa chỉ dự ăn một lát rồi xin về
sớm, vì còn mấy đám cưới phải đi. Vả lại sợ rượu vào nói cà khịa, phiền :
“Không phải sợ nói sai mà sợ nói đúng mới gay
go. Mình là loại quý tôc lọt lưới mà!”.
Nguyễn Tuân nhìn bao quát ngôi nhà của vợ chồng
Sơn – Hằng, chê kiến trúc không ra
gì. Ông cười nói:
“Đã lâu không đánh nhau với ai đâm ngứa ngáy,
lại cà khịa với cái nhà này”.
Tôi hỏi thăm Nguyễn Tuân về sức khoẻ. Ông nói,
chả biết trả lời ra sao. Già rồi, khoẻ yếu không biết thế nào. Hỏi thế cứ như
là nhạo, là chế giễu. Phải hỏi như hỏi những ông thủ trưởng chứ: “Anh có khoẻ
không ạ!”.
Bùi Huy Phồn hỏi về chuyện bà Chu Thị Năm (Chủ
cô đầu ngày xưa, bồ của Nguyễn Tuân). Nguyễn Tuân nói: “ấy có bà ấy kia (bà
Tuệ, vợ Nguyễn Tuân), ông hỏi thế phiền lắm. Bà Tuệ nói: “Không, ngày xưa bà
Năm đến chơi, tôi vẫn tiếp bình
thường”. Nguyễn Tuân chỉ bà Tuệ: “Những cái cách mạng cho tôi được hưởng không nhiều lắm. Được hưởng nhiều là bà này
này!”.
Tô Hoài đến góp chuyện. Tôi hỏi anh đang viết
gì. Anh nói, sắp in một tiểu thuyết feuilletion cho Thiếu niên tiền phong về
loài chim. Viết để cho thiếu nhi biết về loài chim, nó sinh hoạt, làm tổ, đẻ
con, nuôi con như thế nào. Mình có một cái vốn như thế, không viết, phí. Tô
Hoài nói riêng với tôi, vì có mặt Lưu Trọng Lư: “Người ta viết có thời, tài có
thời, hồn thơ có thời, có một lúc nào đó thôi. Như ông Lư ngày xưa làm thơ mới
thì chân thật, có hồn thơ, sau này tôi cho chẳng còn nữa. Nhiều người như thế.
Còn viết văn học sử thì không phải cứ có tài liệu nhiều mà đủ. Phải viết có
hồn. Có tài liệu và có hồn. Anh Đệ, anh Đức có tài liệu mà viết không có hồn.
Anh (Mạnh) viết vừa có tài liệu vừa có hồn. Còn bọn mới thì chả có tài liệu gì,
cứ phóng ý ra thôi”.
Nguyễn Tuân bỗng xoay ra nói về Hoàng Văn Hoan:
“Hoàng Văn Hoan có viết một
bài tiểu luận về Vũ Trọng Phụng, hình như gửi cho báo Nhân dân. Tôi có đọc rồi
để đâu, tìm mãi chưa thấy. Đúng là lưới trời lồng lộng thật. Nó chửi Kiều là ăn
cắp của Tầu và cho đề cao Kiều là đề cao con đĩ. Đấy là một tội. Tội thứ hai là
nói Vũ Trọng Phụng cũng viết về đĩ. Bây giờ ai là đĩ? Chính nó là con đĩ. Nhưng
nó chết thì lại có thằng Hoàng Văn Hoan khác. Có những thằng Hoàng Văn Hoan ở
Hà Nội này, khối ra đấy, lại có chức có quyền nữa cơ chứ!”.
Như Phong đến góp chuyện, nói năm 1937, hai mươi
tuổi, có đến nhà Nguyễn Tuân ở Thanh Hoá. Rồi ông nhắc đến bài thơ của Nguyễn
Vỹ ví nhà văn An Nam khổ như chó. Nguyễn Tuân cười nói:
“Bây giờ nên sửa lại là nhà văn Việt Nam khổ như
sư tử, sư tử bị bẻ hết vuốt, hết móng”.
Rồi ông chuyển luôn sang giọng tâm tình: “Ngày
xưa, nhà văn có tình với nhau lắm, hơn bây
giờ. Cái đêm trước
ngày đưa ma Phụng, không ai ngủ được. Cánh ở Gia Quất, cánh ở nhà chú Trô Mã
Mây… không ai ngủ được”.
Tôi nói với Nguyễn Tuân:
“Bài Một đêm họp đưa ma Phụng bác viết rất hay”.
Ông nói:
“Bây giờ không viết được như thế nữa”.
Các mâm cơm dọn ra. Như Phong, Nguyễn Tuân,
Hoàng Trung Thông, Lưu Trọng Lư ngồi một mâm, vừa nói chuyện vui, vừa khích bác
lẫn nhau. Hoàng Trung Thông nói không tán thành lời bình của Nguyễn Tuân về câu
thơ Kiều: “Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần”. Nguyễn Tuân nói: “Cái đó tuỳ ý
mọi người chứ, tôi không theo ai cả”. Bỗng nhiên thấy Lưu Trọng Lư đùng đùng bỏ
ra về. Hình như là do Như Phong khen Nguyễn Vỹ thế nào đó. Lưu Trọng Lư chạnh
lòng, vì do Nguyễn Vỹ mà Lưu Trọng Lư bị mang tiếng là ăn cắp thơ của Nhật (Bài
Tiếng thu).
Lưu Trọng Lư nhất quyết bỏ về, bắt con không ăn
nữa, đưa bố về ngay. Hôm ấy chụp rất nhiều ảnh kỷ niệm. Nguyễn Tuân rất vui
tính. Bốc lên cũng hò cũng hát rất nhộn. Theo Tô Hoài, những lúc ấy ông thường
hò chèo đò hoặc hát đường trường. Ông cũng hay diễn trò nhại giọng điệu người
này người khác để giễu cợt. (cũng chính trong buổi liên hoan ở nhà con gái Vũ
Trọng Phụng ăn mừng tái bản Vỡ đê, tôi đã được nghe Nguyễn Tuân nhại giọng Huế
của một viên chức thời Tây (Bố Hoàng Xuân Tuỳ, phán đầu toà, cùng làm việc ở
toà sứ Thanh Hoá với cụ Tú Lan, bố Nguyễn Tuân). Ông này thường nói với lớp trẻ
ngày nay: “Cạc anh giừ sưởng lẳm, cách mạng rồi cạc anh sưởng lẳm! Tui trước làm
việc với thằng Tây, khổ lẳm. Đêm nỏ còn gọi lên hỏi, có chi không?
– Dạ bẩm quan lớn, không thấy sở liêm phóng báo
sang có việc chi.
Thế mà nỏ cũng xà lù mẹc. Tui bực quả, chào rồi
ra về, đóng cửa đánh sầm một cải. Đấy, thời trước làm với thằng Tây, khổ rửa!”.
Nguyễn Tuân nói xong, cười thích thú. Ông nhại
giọng Huế rất đạt và có duyên. Lúc ấy, tôi chợt nhớ ra Nguyễn Tuân vốn là một
diễn viên kịch nói có tài từng đóng vai chính trong các vở Kim tiền của Vi
Huyền Đắc và Ngã ba của Đoàn Phú Tứ. Và đã từng được tuyển vào đoàn tài tử đi
sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma.
Nguyễn Tuân rất thích truyện tiếu lâm, tiếu lâm
ta, tiếu lâm Tây. Tôi nhớ có một hồi, ở trong nhân dân ta, phát triển rất mạnh
một loại truyện vui gọi là tiếu lâm hiện đại nhằm giễu cợt những sự việc, những
nhân vật đương thời. Nguyễn Tuân có vẻ
rất thích những truyện ấy. Có lần ông kể tôi nghe một truyện về Phạm Tuân: “Cái
hôm người ta phóng con tầu đưa Phạm Tuân lên vũ trụ, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc
Việt có tới dự. Một điều lạ là khi nhiên liệu đã nổ rầm rầm mà con tầu không
thấy bay lên. Các công trình sư Liên Xô chạy đôn chạy đáo kiểm tra kỹ thuật mọi
mặt đều chẳng có gì trục trặc cả. Võ Nguyễn Giáp ngẫm nghĩ một lát rồi đề nghị
cho mình đến gặp Phạm Tuân. Tuy biết Võ Nguyên Giáp không hiểu gì về kỹ thuật,
nhưng vì nể một vị đại tướng lại là uỷ viên Bộ Chính trị Việt Nam nên họ đồng
ý. Võ Nguyên Giáp vào gặp Phạm Tuân một lát , vừa quay ra thì con tầu đã vọt
thẳng lên trời. Các vị có mặt hôm ấy hỏi tướng Giáp đã làm thế nào. Giáp không
nói, chỉ tủm tỉm cười. Khi về nước, Lê Duẩn lập tức triệu ngay Giáp đến để hỏi.
Giáp vẫn không chịu nói. Duẩn nghiêm mặt: “Anh giữ bí mật quốc gia là đúng.
Nhưng tôi là tổng bí thư mà anh cũng
giữ bí mật sao? Võ Nguyên Giáp đành phải nói thật: “Có gì đâu, tôi thọc tay
ngay vào túi quần nó. Quả nhiên thấy có mấy cái đinh ốc nó vừa xoáy ở con tàu.
Tôi quát: “Muốn sống lắp trở lại ngay!” Thế là con tàu bay vọt lên trời”.
Ông còn kể tôi nghe một truyện nữa – một truyện
tiếu lâm Tây.
Đó là lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Tuân. Buổi
sáng hôm ấy, như mọi ngày, ông có thói quen đi dạo quanh phố xá mấy vòng rồi
tạt vào Hội Nhà văn một lúc. Lúc đó tôi nhớ đang có mặt Nguyễn Khải, Bùi Bình
Thi, Xuân Quỳnh, Hà Minh Đức và tôi. Ông đến sau, thấy tôi, ông nói, đã lâu lắm
không gặp. Chính hôm ấy ông lại nhắc lại với tôi một cách thích thú cái tâm sự
rất riêng của Đặng Thai Mai đã nói trên kia. Rồi ông kể tôi nghe một truyện
tiếu lâm của Pháp:
“Có một lão giám mục kia, vào lúc hấp hối, phát
biểu một nguyện vọng cuối cùng là muốn được xem “cái ấy” của đàn bà ngoại đạo
nó như thế nào. Người ta thông cảm, đáp ứng yêu cầu của ông. Xem xong, ông ta
nói: “Tưởng thế nào, hoá ra cũng chẳng khác gì của các nữ tu sĩ”.
Nói dứt câu, Nguyễn Tuân cười khoái chí. Nghe
nói ở kỳ Đại hội văn hoá toàn quốc tại Việt Bắc năm 1948, Nguyễn Tuân, ngay
trên diễn đàn, dám kể chuyện “cái rắm thơm, cái rắm thôi”. Hồi ấy sinh hoạt văn
nghệ còn thoải mái lắm mới có thể có chuyện tếu như thế được. Từ năm 1951 trở
đi, đừng hòng được như vậy: Đảng ra công khai, biên giới phía Bắc thông với phe
xã hội chủ nghĩa, sự đổ bộ của tư tưởng Xtaline và Mao Trạch Đông, chỉnh huấn
về lập trường giai cấp chuẩn bị cải cách ruộng
đất… Rồi yêu cầu
của chiến tranh giải phóng dân tộc phải tập trung cổ vũ chiến đấu: Ta là chính
nghĩa, là anh hùng, không được giễu cợt! Tiếng cười hầu như mất hẳn trong đời
sống văn học. Tôi cho rằng, ở Nguyễn Tuân, luôn tiềm tàng một cái gọi là chất
trẻ trung tinh nghịch, thể hiện ở người và ở văn. Trong cuốn 40 năm nói láo,
Vũ Bằng tỏ ra biết khá nhiều về cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân. Đọc tập hồi
ký này, thấy Nguyễn Tuân bày ra lắm trò tinh nghịch rất oái oăm, kỳ quái. Chẳng
hạn, ngủ lại xóm hát, bỗng dưng leo lên mái nhà ả đào chơi. Rồi bắt ả đào giả
vờ chết để diễn trò khóc lóc ầm ĩ khiến hàng xóm láng giềng tưởng thật chạy
sang chia buồn… Cụ Nguyễn Lương Ngọc còn kể tôi nghe chuyện này về Nguyễn Tuân:
đang ngồi ở nhà ả đào, tự nhiên phóng tay đấm mạnh vào cửa kính cho vỡ toang
ra. Chả để làm gì cả. Y như người dư thừa sinh lực vậy. Hay là đang nửa đêm,
dạy cặm cụi đánh giầy cho tất cả quan viên… Nguyễn Tuân hay có những ý nghĩ
nghịch ngợm: chẳng hạn, tuyên bố, khi chết, muốn người ta đốt xuống cho mình
vài hình nhân nhà phê bình. ở dưới ấy rỗi rãi, trò chuyện với mấy tay phê bình
chắc cũng vui. Hoặc đến các vị trong Ban chấp hành Hội nhà văn, đề nghị cho
biết khi mình chết thì sẽ thuê mấy ô tô đi đưa. Hỏi thế để bây giờ xin trước
vài cái đi uống rượu, sau này xin cứ trừ đi…
Trong văn cũng thế. Như trong Một chuyến đi
chẳng hạn, ông nẩy ra ý nghĩ đem giam chung với nhau mấy thằng nghiện thuốc lá
nặng, rồi theo dõi xem chúng ứng xử với nhau như thế nào khi cạn bao thuốc. Còn
trong Sông Đà thì lại tưởng tượng tượng ra cái cảnh ở một bến nước kia, đàn
ông, đàn bà đang tắm táp, tự nhiên nước sông đột ngột rút sạch, mọi người thấy
mình bỗng tênh hênh tô hô cả ra (chi tiết này trong những lần in lại, không
thấy nữa)…
Các vị Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Như Phong, Phan Cự
Đệ… chắc cho thế là nhảm nhí, là vớ vẩn. Tôi thì cho đấy chính là cái chất trẻ
trung hồn nhiên rất có duyên của Nguyễn Tuân.
* *
*
Nguyễn Khải nhiều lần nói, Nguyễn Tuân là người
sướng nhất: ngông nghênh, khinh bạc, chẳng trọng ai, chỉ trọng mình, vậy mà đi
đâu cũng được chiều chuộng, đón rước, nể trọng. Lại có người tự nguyện điếu đóm,
phục vụ tận tình. Nguyên Ngọc có lần cùng sang Liên Xô với Nguyễn Tuân. Họ ở
Lêningrát vào đúng dịp tuyết đầu mùa. Người ta biết Nguyễn Tuân rất thích xem
tuyết rơi, nên dành cho ông một căn phòng rất thuận tiện để ngắm tuyết (về
nước, ông có viết một bài đăng trên Văn nghệ gọi là Lêningrat, tuyết đầu mùa).
Nam sau Nguyễn Tuân lại sang Liên Xô. Đến Mạc Tư Khoa đúng vào dịp tuyết đầu
mùa. Người ta lại đưa ông về đúng cái căn phòng năm trước ở Lêningrát để xem
tuyết rơi. Theo Nguyên Ngọc, ở Liên Xô, Nguyễn Tuân được coi như một thượng
khách. Lại có một anh tên là Marian, chuyên dịch Nguyễn Tuân sang tiếng Nga.
Trong nhà mình, Marian chỉ treo độc một bức chân dung Nguyễn Tuân.
Nguyễn Khải kể với tôi chuyện này:
Sau 1975, có lần Nguyễn Tuân vào Sài Gòn. Ông bị khớp nặng, nằm liệt trên
lầu. Trịnh Công Sơn ngày nào cũng tự nguyện lo chuyện ăn uống theo khẩu vị
Nguyễn Tuân: nấu cơm niêu đất ăn với cá bống kho
tiêu là món Nguyễn Tuân thích. ở tầng dưới thì Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long
đóng vai tiếp khách cho Nguyễn Tuân. Ai đến thăm thì lên báo cáo xem ông có
tiếp không. Nhiều người ông không tiếp, phải để quà đấy đi về. Có một lần
Marian lúc ấy đang ở Sài Gòn, đến thăm. Nguyễn Khải và Nguyễn Thành Long nghĩ
là trường hợp này không phải báo cáo, cứ cho lên luôn. Marian hôm ấy lại dắt
theo một tay Liên Xô nữa. Nguyễn Khải cứ thấy ông mắng Marian xơi xơi: “Sao mày
lại đưa thằng ấy lên!”.
Khải nói: “Lần đầu thấy một thằng “tiểu quốc”
mắng một thằng “đại quốc”, nghĩ cũng mát ruột”.
Nguyễn Minh Châu cũng cho Nguyễn Tuân là sướng.
Sau 1975, Hội An có tổ chức một cuộc kỷ niệm gì đó, mời Nguyễn Tuân vào viết
cho một bài. Lúc ấy Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu đang ở Đà Nẵng, muốn có xe
vào Hội An chơi, bèn bịa chuyện cần một ôtô vào trước để sửa soạn đón Nguyễn
Tuân hôm sau vào. Thế là được cấp luôn một chuyến xe. Thực ra bịa thế thôi chứ
có sửa soạn gì đâu! Nguyễn Tuân vào đã có xe riêng, một mình một xe. Hồi ấy
chuyện xe cộ không sẵn như bây giờ.
Nghe nói, ngày xưa, Nguyễn Tuân chơi cô đầu cũng
rất sang. Thường bồ bịch với đào hát nổi tiếng hoặc bà chủ nhà hát. Không phải
bao gái mà lại được gái bao. Hồi kháng chiến chống Pháp, ở chiến khu Việt Bắc,
ông được cô đào hát nhân tình nào đó gửi vàng từ Hà Nội ra cho ông tiêu.
Riêng tôi được chứng kiến một chuyện cũng lạ. ấy
là ngày làm lễ bế giảng trường Nguyễn Du khoá một long trọng lắm. Quan khách
đến dự rất đông. Có đủ bộ trưởng, thứ trưởng, trung ương uỷ viên và các nhà văn
có tên tuổi ở Hà Nội. Anh điều khiển buổi lễ, giới thiệu lần lượt các đại biểu.
Giới thiệu ai thì người ta cũng chỉ ngồi vỗ tay tại chỗ thôi. Nguyễn Tuân đến
muộn. Không hiểu sao, cả hội trường không ai bảo ai, cùng đứng dậy vỗ tay dài.
Vì thiên hạ vốn trọng người tài chăng? Nguyễn
Tuân đúng là một cái tài. Nhưng người tài đâu chỉ có Nguyễn Tuân? Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi… không tài à? Tôi cho Nguyễn Tuân được
trọng vì vừa có tài vừa có nhân cách. Nhưng giữ được nhân cách đâu có dễ. Cái
nghèo, cái đói, cái sợ (sợ cấp trên) khiến người ta khó giữ được nhân cách, tuy
biết thế là hèn. Vì thế người có nhân cách càng hiếm, càng quý. Cho nên có một
người như Nguyễn Tuân là rất sang cho giới nhà văn.
Trong nhiều tác phẩm của mình, nhất là trong
Chiếu lư đồng mắt cua, Nguyễn Tuân thường vẽ mình như một kẻ bê tha, trác táng,
bẩn thỉu, nhếch nhác, rượu chè be bét, suốt ngày chui rúc vào cái màn hôi hám
của ông Thông Phu, một con nghiện bị bệnh bại liệt bán thân bất toại. Uống rượu
thì say đến mức úp mặt vào mâm bát mà gào, mà hò hét như thằng điên… Thực ra
trong đời thực, ông có phải như thế đâu. Hồi ở Việt Bắc bà Trần Minh Tước cùng
làm việc với tôi ở Sở Giáo dục Liên khu Việt Bắc vốn quen thân với Nguyễn Tuân,
nói với tôi:
“Ông ấy đến cái maillot, cái quần lót cũng giặt
là cẩn thận”.
Còn uống rượu thì không bao giờ quá chén. Tô
Hoài gọi là uống rượu ngữ, nghĩa là có chừng mực chứ không say bét như Hoàng
Trung Thông…Ông Hoài Thanh chê Nguyễn Tuân có lắm lệch lạc về tư tưởng, từng bị
cánh nhân văn lợi dụng, nhưng ông vẫn thấy Nguyễn Tuân không bê tha truỵ lạc
như nhiều tay trong nhóm Nhân văn, nghĩa là Hoài Thanh cũng rất nể Nguyễn Tuân
về nhân cách.
Tôi lại nghe nói, sau 1975, một số nhà xuất bản
ở Sài Gòn tự nguyện trả tiền nhuận bút cho những nhà văn “tiền chiến” sống ở
miền Bắc, mà trước 1975, họ có in lại sách này sách khác để bán. Các vị đều
nhận cả, riêng Nguyễn Tuân từ chối.
Trở lại câu chuyện Nguyễn Tuân và Nguyên Ngọc ở
Liên Xô. Trong thời gian Nguyễn
Tuân ở Liên Xô, người ta cử một cô gái Nga làm phiên dịch cho ông. Cô gái rất
đẹp – đẹp như tượng – Nguyên Ngọc nói thế (Chắc là đẹp như tượng thần Vệ nữ ở
Milô chăng?). Nguyễn Tuân nhờ cô gái mua cho mình mười bông hồng tươi. ở Nga,
giữa mùa rét, hoa hồng rất đắt: 12 rúp (trong khi một cái bàn là điện hay một
cái áo bay có 7 rúp). Hỏi mua để làm gì, ông không nói. Mua về, ông tặng luôn
cho cô gái phục vụ mình. Cô gái Nga lấy làm lạ, vì cô biết Việt Nam còn nghèo
lắm, lại đang có chiến tranh, sao ông nhà văn này lại chơi sang thế, không dành
tiền mua quà cáp gì về nhà. Cô ta áy náy, bèn tự mình đi mua một ít hàng rồi
gói ghém, bắt Nguyễn Tuân mang về. Cô hỏi, các nhà văn nước ông có như thế cả
không? Nguyễn Tuân nói, tôi chỉ là một nhà văn xoàng ở Việt Nam thôi. Ông nói
thế, chắc là để làm sang cho giới văn nghệ Việt Nam vốn rất nhếch nhác mỗi khi
ra nước ngoài.
Hoạ sĩ Đào Đức còn kể chuyện này: Một lần Nguyễn
Tuân cùng Kim Lân sang Liên Xô. Mấy ngày đầu người ta chưa cấp tiền. Nhà văn
Simônốp ngỏ ý biếu mỗi người 50 rúp tiêu tạm. Nguyễn Tuân từ chối, Kim Lân chả
lẽ lại nhận, nhưng tiếc quá, nói với Đào Đức: mình cảm thấy cứ y như là bị móc
ví mất 50 rúp.
Mọi người đều biết, Nguyễn Tuân là người ham
chơi, ham “xê dịch”. Nhưng không vì thế mà vất bỏ nhân cách. Vào lúc đã cao
tuổi, ông có được mời sang Pháp, nhưng ông từ chối. Ông nói với tôi: “Già rồi
sang đấy mà chết ở đấy thì nhục quá!”.
Đấy, Nguyễn Tuân sở dĩ được trọng là vì thế.
Mình không giữ được nhân cách thì ông ấy giữ hộ – đại diện giới nhà văn giữ hộ. Nguyễn Tuân nổi tiếng là ngông. Đúng thế. Nhưng
chơi ngông không dễ đâu. Không có tài, không có đức, chơi ngông làm sao được!
Ngông có cả một cơ sở đạo lý của nó đấy. Cho nên những bậc chơi ngông xưa nay
đều là những tấm gương đạo đức cả –
Tản Đà gọi là “thiên lương”:
“Hai chữ thiên hương thằng Hiếu nhớ”
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản
Đà, Nguyễn Tuân đều thế cả. Sau Nguyễn Tuân, hình như trong giới văn học, không
còn ai dám chơi ngông nữa thì phải. ở Nguyễn Tuân tôi thấy có một cái gì rất cổ
điển, không phải chỉ trong văn đâu mà trong lối sống, tác phong sống. Ông không
chỉ viết văn cho hay, cho đẹp mà còn muốn sống đẹp nữa.
Chất cổ điển chính là ở chỗ đó. Các cây bút hiện
đại chỉ lo sản xuất văn chương cho nhiều, cho tốt, còn sống thế nào cũng được,
cốt sao cho khoẻ, cho sướng. Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn
Đình Thi… là như thế.
Người xưa tư duy nguyên hợp (syncrétique), óc
phân tích chưa phát triển nên thường không phân biệt thực và hư, chân và ảo,
con người và thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật. Cho nên người quân tử nói
năng cũng có văn vẻ, ăn uống cũng có phép tắc, chào hỏi cũng có điệu bộ, ngôn
ngữ tình yêu cũng kiểu cách, khóc than cũng lên bổng xuống trầm (văn tế), thậm
chí đánh nhau mà như vũ đạo… Cho nên Trần Hưng Đạo truyền hịch mà thành văn
chương, Nguyễn Trãi viết cáo mà hình tượng tầng tầng lớp lớp… Từ đó, không phân
biệt sự sống và nghệ thuật, cuộc đời hay sân khấu…
Nguyễn Tuân là một trí thức Tây học, một cây bút
hiện đại. Những tác giả phương Tây mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc là những nhà
văn vào loại hiện đại nhất như Marcel Proust, André Gide… Tuy nhiên ở ông vẫn
có một cái gì giống như Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Tản Đà… Không phải chỉ làm
nghệ thuật mà trước hết sống cho đẹp, cho nghệ thuật. Và về nhân cách vẫn phảng
phất cái cốt cách trượng phu quân tử.
Nguyễn Tuân là cây bút có phong cách nghệ thuật
rất sâu. Nhưng trong cung cách sống nhiều khi ông cũng cố tình tạo cho mình một
phong dạng (manière) riêng khá kiểu cách: từ cách để ria mép, cách cầm cái can,
ngậm cái píp, cách đi đứng… không phải ông không có ý tạo dáng cho đẹp. Ông
sành sỏi hát ả đào, đấy cũng là một cái thú chơi cổ điển. Trước cách mạng tháng
Tám, hồi còn ở Thanh Hoá, ông mở một hiệu sách đặt tên là Thư Trang, về Hà Nội,
làm cái nhà ở Cống Mọc, ông gọi là Am Sông Tô…nghĩa là cũng thích văn vẻ.
Ngay sau cách mạng tháng Tám, đến dự Hội nghị
Văn hoá cứu quốc giữa Hà Nội, ông vẫn mặc áo gấm, đội khăn xếp… tôi cho cũng là
một cách “diễn” đấy thôi – diễn trò ngông nghênh nghệ sĩ trước bàn dân thiên
hạ…
Một con người như thế, tất không thích ai đến
thăm khi ốm đau. Ông có bệnh thấp khớp mãn tính nặng, mỗi lần phát bệnh, chân
tay sưng tấy, co quắp, phải vệ sinh tại chỗ, trông chẳng “mĩ thuật”, chẳng
“nghệ sĩ” tí nào. Một lần tôi đến ông, đúng lúc ông ốm. Ông đang ngồi ở mép
phản, thõng chân xuống. Có một người nữa quay lưng lại hình như một người nhà
đang làm gì để giúp ông. ông nheo mắt nhìn tôi từ xa, lúc đầu ngờ ngợ, sau nhận
ra, ông có vẻ bối rối, luống cuống:
– Sao, có việc gì thế?
– Không có gì. Đến thăm bác thôi.
– Thế thì cám ơn, cám ơn. Thôi để lúc khác nhé.
Sợ tôi chưa hiểu, ông chỉ xuống cái bô ở gậm
phản… Tôi ngượng quá, vội bỏ ra. Một lần khác, tôi đến thăm ông cũng đúng vào
lúc ông ốm. Nhưng lần này cửa đóng. Ngoài cửa tôi thấy có dán một tờ giấy lớn
ghi mấy dòng chữ: “Bệnh nhân Nguyễn
Tuân không tiếp khách, bao giờ khỏi sẽ xin đến tạ. Ai đến, xin gọi và xướng tên
hai lần. Không có tiếng trả lời thì xin vui lòng lui cho. Cám ơn”.
Đến thăm mà phải xướng tên, ai còn đến làm gì!
Như đã nói, tôi gặp Nguyễn Tuân lần cuối cùng
vào buổi sáng ngày thứ bẩy 25 – 7 –
1987 ở trụ sở Hội nhà văn, 65 Nguyễn Du. Trông ông rất đẹp lão. Nguyễn Khải
nhận xét và nói một câu rất gở:
“Đẹp lão thế là sắp sửa đấy!”
Nguyễn Tuân nói, ông không sợ chết, chỉ sợ ốm kéo dài thôi. Hôm ấy, ông nói
rất nhiều chuyện vui. Tôi đã từng nghe câu nói của ông về các nhà phê bình: khi chết đi, muốn người ta đốt xuống cho mình
vài anh phê bình…
Hôm ấy ông lại cho ra thêm một câu nữa: “Vừa rồi
có mấy anh nhà văn nước ngoài
đến hỏi tôi: “Ông thường có thói quen viết vào lúc nào?”. Tôi nói, thường vào
ban đêm. Họ hỏi lý do. Tôi nói: “Vì lúc ấy các nhà phê bình họ đi ngủ cả rồi!”.
Tôi thấy ông cầm trên tay một điếu thuốc lá
nhưng không hút, lại còn xin thêm Nguyễn Khải điếu nữa. Ông nói: bác sĩ nói
phải hạn chế hút. Mỗi ngày một điếu thôi, tránh hít sâu vào. Còn rượu thì cấm
hẳn. Và phải tránh có xúc động mạnh. Rồi ông cười: “Làm nghề viết văn mà phải
tránh xúc động thì còn viết gì được nữa!”. ấy thế mà đúng 3 ngày sau ông qua
đời.
Bửu Chỉ ở Huế ra Hà Nội. Chị Ngọc Trai tổ chức
một bữa nhậu. Nguyễn Tuân uống rượu. Hôm sau vào bệnh viện và tịch luôn. Anh
Đình Quang nói, lẽ ra ông chưa chết. Ông tự tử đấy. Ông nằm cùng với một bệnh
nhân nào đó. Ông khó ngủ, dậy bật đèn lên. Ông kia tắt đi. Người bật lên, người
tắt đi, cứ thế mấy lần. Bực quá, ông uống một liều thuốc gì đó và đi luôn.
Chuyện chả biết có thật thế không. Nhưng anh Nguyễn Xuân Đào, con trai Nguyễn
Tuân lại bảo không phải. Ông chết là vì đêm ấy ông uống đến nửa chai rượu. Thế
thì có trời cứu!.
Nhưng như thế thì cũng là một cách tự sát chứ
sao! Vì chính ông đã biết phải kiêng rượu kia mà! Thuốc lá còn được hút mỗi ngày
một điếu. Còn rượu thì cấm hẳn. Như vậy thì điều anh Đình Quang nói không hẳn
đã sai.
Chung quanh những người nổi tiếng và độc đáo,
thiên hạ thường thêu dệt ra lắm giai thoại. Chung quanh Nguyễn Tuân xưa nay
cũng lắm giai thoại. Thí dụ, nhiều người, tôi cũng thế, nghe nói và tin ở câu
chuyện này: Võ Hồng Cương, bí thư đảng đoàn Bộ Văn hoá đến thăm Nguyễn Tuân.
Đứng dưới sân, Cương gọi
vọng lên lầu (Nguyễn Tuân ở trên tầng 3, nhà số 90 Trần Hưng Đạo): “Anh Nguyễn
Tuân có nhà không?”. Nguyễn Tuân mở cửa sổ nói chõ
xuống: “Nguyễn
Tuân có nhà nhưng không tiếp khách” (Có “dị bản” khác:
Nguyễn Tuân mở cửa sổ trả lời Võ Hồng Cương:
“Nguyễn Tuân đi vắng”).
Nghe có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!. Nhưng sự
thật có chuyện ấy không? Tô Hoài nói, Nguyễn Thành Long nó bịa ra thế thôi. Tôi
hỏi Nguyễn Tuân rồi. Chuyện bịa, không có đâu.
Một thí dụ khác: Tạ Tỵ trong Nam, hồi trước
1975, có viết một cuốn sách về chân dung một số nhà văn. Anh ta dựng đứng lên
một chuyện về Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân ốm nằm ở bệnh viện Phủ Doãn. Ông thèm
rượu quá mà bị cấm, đang đêm bèn leo tường chốn ra bờ hồ Hoàn Kiếm uống rượu và
chết luôn trên ghế đá. Cũng có vẻ rất Nguyễn Tuân đấy chứ!
Tôi đọc bài viết này của Tạ Tỵ đúng vào thời gian luôn tiếp xúc với Nguyễn Tuân để làm Tuyển tập. Giờ lại nghe chuyện anh Đình Quang. Chả biết thực hư thế nào!.
Mời thư giãn với
nhạc phẩm NGÀY TẾT QUÊ EM
của Từ Huy, qua tiếng hát Hồ Ngọc Hà:
*.
NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
Địa chỉ: Quan Hoa, Cầu Giấy, Hà Nội.
......................................................................................................
- Cập nhật từ
email: datinh_1974@yahoo.com ngày 22.12.2020
- Bài viết không
thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi
rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Đây là một lời chứng rất đáng ngạc nhiên, tôi muốn tất cả các bạn cùng tôi cảm ơn câu thần chú tình yêu của Kiriji vì anh ấy thực sự là một người đàn ông của lời nói của mình. Tôi đã suy sụp trái tim trong nhiều năm, mọi người đàn ông tiếp cận tôi đều không bao giờ coi tôi là người nghiêm túc, sau trải nghiệm cuối cùng của tôi với người đàn ông khiến tôi thất vọng như thường lệ, tôi bắt đầu tìm giải pháp để chấm dứt vấn đề của mình thì đồng nghiệp của tôi đã giới thiệu. tôi đến Great Kiriji love spell Temple, sau đó tôi liên lạc với anh ấy qua địa chỉ email của anh ấy; kirijilovespell@gmail.com, anh ấy đã mất vài ngày trước khi trả lời tôi và khi anh ấy trả lời, tôi được hướng dẫn về những việc phải làm trước khi tôi có thể thoát khỏi sự trói buộc về tinh thần, tôi đã làm tất cả những gì anh ấy nói, và hôm nay tôi hạnh phúc với chồng mình. Người đàn ông đã vứt bỏ tôi mà không có lý do giờ đã quay lại với tôi trong vòng 3 ngày, anh ta cũng giúp đồng nghiệp của tôi mang chồng cô ấy trở lại khi họ ly hôn. Đây là thông tin liên lạc của anh ấy; kirijilovespell @ gmail.com, bạn cũng có thể liên hệ với anh ấy qua số whatsapp của anh ấy; +23490201168697
Trả lờiXóa