ĐÊM HÁT CÔ ĐÀO CHUI
Ở AN TOÀN KHU
*
Thời gian
sống ở An Toàn Khu, tôi (Trần Đức Thảo) bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như
ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là
theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây
cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia
cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả!
- Sống như
thế thì tẻ nhạt quá, làm sao bác chịu nổi?
- Ấy trong
quãng thời gian sống ở bên lề chính trị như thế không hẳn là tẻ nhạt đâu. Thinh
thoảng cũng có những giây phút rất thú vị, rất vui. Bởi sống ở hậu phương thời
kháng chiến, luôn luôn được chứng kiến những ngang trái xảy ra thật là bất ngờ,
làm bật cười, cười đến chảy nước mắt. Trong cách mạng mà cũng có lúc ăn chơi
lén lút, đáng ghi nhớ về cái “thời bao cấp” ấy. Những thú vui chui lén như vậy
cũng làm cho mình phải suy nghĩ, tìm hiểu hiện tượng cách mạng và những khát
vọng của con người…
- Thú vui
lén lút đáng nhớ ấy là gì?
Bác Thảo kể
có một lần, “không thể nào quên được”. Đó là lần được nhà văn Nguyễn Tuân mời
đi ăn một bữa cơm Tây, tại một xóm dân Hà Nội tản cư về sống gần An Toàn Khu.
Khi vào tới xóm ấy, là phải chui qua mấy hàng giây thép, trên phơi đầy quần áo
màu mẻ sặc sỡ khác hẳn với quần áo nâu sồng của nông thôn, được giặt để cất đi,
ở sân sâu bên trong một căn nhà cổ, để tới cái quán ăn chui lậu hiếm hoi ở hậu
phương. Chủ nhân tự khoe mình từng là đầu bếp của cựu thống sứ Bắc kỳ
Graffeuil! Bữa ăn hôm ấy có cả món thịt bò. Chateaubriand, có cả rượu vang
Bordeaux. Thịt tươi là do cánh công an vừa săn được mật con nai! Còn rượu cũng
là do cánh công an mang từ Hà Nội ra! Ăn xong, Tuân chửi vui: “Sư bố chúng nó!
Tàn dư phong kiến, thực dân mà sướng thế đấy!”. Thảo ngơ ngác không biết Tuân
chửi ai? Ăn uống ngon lành thế sao lại chửi?
Sau bữa ăn,
Tuân còn cao hứng dẫn Thảo đi hát “cô đầu”! Dĩ nhiên cũng là hát chui, hát lậu.
Địa điểm là một căn nhà chòi có cót che kín mít, dùng để chứa nông cụ thúng,
mẹt, cày bừa… ở ngay giữa một cánh đồng lớn mới gặt xong. Thảo được đưa tới chờ
ở đó, nên rất lấy làm lạ. Ngồi một mình ngắm trăng mười sáu sáng ngời, chung
quanh là một cánh ruộng bàng bạc màu vàng khô khốc của những gốc rạ mới gặt
xong, xa xa là những luỹ tre xanh vi vu gió thổi. Cảnh thật đẹp và buồn.
Mãi sau,
Tuân trở lại lố nhố với năm, sáu người lạ mặt, trong đó có một phụ nữ khoảng
ngoài ba mươi tuổi, mỗi người ôm một cái túi khá lớn. Họ vào trong căn chòi rồi
cài cài mấy tấm cót cho kín đáo. Một ngọn đèn dầu hoả được thắp lên cho vừa đủ
sáng để thấy tỏ mặt nhau. Họ mở túi lấy ra, người thì một cái trống cơm nhỏ,
người thì một cây đàn đáy. Chị phụ nữ cung lấy ra hai que gỗ và một cái phách.
Tuân nói thật trịnh trọng:
- Hôm nay
tôi lén tổ chức chầu hát này là để đãi ông bạn trí thức ở tận bên tây mới về.
Yêu cấu em Đức hát cho thật đạt chỉ tiêu đấy nhé!
Cô ca nương
nhìn Thảo rồi đáp:
- Anh Tuân
ơi! Anh ép, thì vì nể anh em cũng cố mà ra đây hát thôi. Bởi em đã giải nghệ từ
mấy năm nay rồi. Nêu cồng an mà biết thì em sẽ bị đi tù mất. Hát ả đào bây giờ
bị coi là thứ nhạc sa đoạ của thời phong kiến, nó đã bị khai tử từ lâu rồi!
- Không sao
đâu, anh đã lo lót hết rồi. Tuân này bảo đảm mà!
- Cứ hát đi,
đã có ông chủ tịch xã kiêm trưởng công an ngồi nghe đây thì còn sợ gì!
- Thôi đừng
khách sáo nữa! Ta bắt đầu đi, kẻo đã quá canh khuya rồi. Đàn lên! Xin mời quan
viên giữ trống ra tay! Bắt đầu “Hồng, Hống, Tuyết Tuyết” đi em!
Vài tiếng
đàn chậm rãi vẳng lên, trầm bổng, thánh thót day dứt trong đêm khuya thanh
vắng. Rồi một giọng ca trong vắt, ngân nga, luyến láy vang lên giữa cánh đồng
vằng vặc ánh trăng.
Rồi tiếng
trống vào nhịp:
- Tom! Chát!
Chát! Tom!
- Hồng,
hồng, tuyết, tuyết ứ ư ừ mới ư ừ ngày nào chửa… ư biết cái chi chi…
- Tom, tom,
chát…
Tiếng hát,
tiếng đàn nhịp trống bỗng đưa mọi người nhập vào một thứ nghi lễ tôn giáo linh
thiêng… gợi cảm, trữ tình của nghệ thuật!
Bác Thảo vui
vẻ, thích thú kể lại thật chi tiết về một chầu hát ca trù lén lút vô cùng cảm
xúc, trong đêm khuya ấy, giữa một cánh đồng khô, trong lúc tình hình chiến
tranh sôi động, mọi người lo âu, bồn chồn không biết ngày mai sẽ ra sao!
Bởi đấy là
lần đầu tiên trong đời bác Thảo được nghe tiếng hát “trong như pha-lê, luyến
láy ngân nga, thấm nhập tâm can, làm rung động toàn thân xác.,.”. Bác say sưa
khen:
- Ôi! Lúc
ấy, tiếng đàn, tiếng hát, sao có thể thuần khiết, âm vang sâu thẳm đến thế!
Tiếng trống bắt nhịp thật lịch duyệt, như thúc dục, như khuyến khích ca nương!
Bài ca vừa
chấm đứt, Thảo không nhịn được phản ứng ngạc nhiên, nên hỏi:
- Sao thứ ca
dân gian này có thể nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm? Trong đời tôi,
tuy đã từng biết thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ điển vô cùng nghệ thuật
của lối hát đại nhạc (opéra) phương Tây, nhưng đây là lần đầu tiên tôi khám phá
ra một lối ca nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như
của một tôn giáo, nghe mà rợn cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi
thiên thai. Một thứ nghệ thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải
chết?
- Tại vì xưa
kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến! - Tuân giải thích - Thôi
bây giờ thì ca tiếp đi chứ!
Người nghệ
sĩ chơi đàn, người “quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca nương, tất cả
đều đắm say diễn tả, như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói danh tiếng của mấy nhà
thơ trứ danh thời trước. Tay đàn, tay trống và ca nương, tất cả đều biểu diễn,
với tất cả sở trường, y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà
thành thanh lịch xa xưa!
Thảo giải
thích thêm với chúng tôi:
- Tiếng hát
ả đào đúng là hợp với tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc ấy. Ai ai cũng đang
mang nặng một tâm tư u buồn, nên mới hát được như thế, mời nghe thấu được nỗi
niềm của giọng hát, lời ca. Tôi đã từng biết lối hát đại nhạc (opéra) của
phương Tây. Lối hát ấy là dùng sức buồng phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa
nốt nhạc vọt lên chói vót như thi tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế
nhị hơn, vì ca nương phải kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn
hơi qua họng, để uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến
láy, nghẹn ngào; như than van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào,
do đó tinh vi, truyền cảm tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn đại
nhạc phương Tây, Tôi không hiểu sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế mà lại nỡ
lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân tộc có một nền văn minh cao độ mới có thể có
một lối hát nghệ thuật đậm tính văn hoá dân tộc đến thế, sao lại chê bai, kết
tội nó!
- Ôi dào!
Bây giờ thì cái gì của thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây giờ người ta tính
áp dụng lối tiêu thổ kháng chiến ở Liên Xô, phá sập, dẹp hết, đốt hết, san
thành bình địa ráo, để địch không thể xâm chiếm được. Nơi nào có tinh thần
kháng chiến cao như vùng Vinh, Thanh Hoá, Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi
hành chính sách “tiêu thổ”. Với hô hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái
lối đa truyền cảm, trữ tình, nay bị coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!
Chầu hát ả
đào dần tới hồi kết thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước tới trước mặt
nhà văn Nguyên Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:
- Xin kính
mời quan bác! Quan bác là người đã nổi tiếng là tài danh cầm chầu là tài tử
lịch duyệt của ca trù, đệ xin trả lại ngôi quan viên cho quan bác, để quan bác
giữ nhịp cho bài ca cuối cùng của chầu hát chui này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành”
để kết thúc, y như trong các buổi ca trù của các nhà hát trứ danh của Hà thành
thanh lịch thủa xa xưa.
Nguyễn Tuân nghiêm
nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống
đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách
quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh
trên một chiếu hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại
đặt nhẹ rồi trống xuống và nói với giọng trầm buồn:
- Này em Đức
ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao ở Hà
Nội. Xưa kia thì phải là cỡ tuần phủ tri huyện trở lên tới tống đốc mới được
nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích.
Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương
này, cốt là để tìm em, để được nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết
vì bom đạn thì anh cũng mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây,
cái cánh đồng khô giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang nảy bỗng trở thành một bến
Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những tư
mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang
này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường!
Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Thơ Vương
Hàn, Lương Châu Từ, Trung Quốc)
Rồi Nguyễn
Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi
Sa trường say, cười mà chi
Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!
(Người dịch
khuyết danh)
Cây roi giơ
lên phát lệnh bắt đầu bài hát:
- Tom! Tom!
Chát!
Nhưng tất cả
ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo ngồi
đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm
thìa khó tả, chẳng rõ vì sao. Nức nở, sụt sùi mọt hồi, ca nương lấy lại bình
tĩnh nói:
- Em xin
lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày hốc hác, em
thấy thương mấy anh quá! Mà em cũng khóc cả cho thân phận em! Thôi để em hát,
để tiễn đưa các anh, và cũng là đưa em nữa, vì mai đây gia đình em sẽ tìm đường
về xuôi, vì cái bến Tầm Dương của em là bên quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!
- Thôi nín
đi em! Hát đi em!
Nguyên Tuân
lại nổi trống giục:
- Tom! Tom!
Tom! Chát!
Ca nương bắt
đầu lên giọng ngân nga, luyến láy não lòng:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lạch đìu hiu
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tẩm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi, lạnh lùng
Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh…
(Trích thơ
Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch)
- Tom! Chát!
Chát! Tom!
Tiếng trống
vang lên như để khen “Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát ngưng bặt. Cả
cái chòi cót giữa cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn toàn. Chỉ cỏn tiếng gió,
xào xạc, qua một bụi tre, vọng lại từ xa.
Trong chòi,
mọi người, như chết lặng vì quá cảm xúc. Tất cả êm thấm đứng dậy, chậm rãi thu
xếp trống, đàn, từ từ rút lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm nín, ra về trong sợ sệt,
nhìn trước, ngó sau, lắng tai, phóng mắt ra khắp phía xa chung quanh, không ai
nói với ai nửa lời. Mỗi người mỗi nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…
Nguyên Tuân
ghé tai Thảo:
- Này ông
bạn trí thức của tôi ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi đãi ông chầu hát
ca trù này đấy nhé! Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị ngồi viết kiểm điểm thì
mệt lắm đấy!
- Thú thật
là ngồi nghe, tuy không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy lòng mình chùng
xuống y như mình cũng đang khóc cho nỗi niềm u uất của chính mình. Không thể
ngờ là lối ca này nó thấm thía vào tim gan đến thế!
- Anh có
biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một
lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền vãn
chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị
ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức
nở, để bầy tỏ những tình cảm uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn,
muốn than van, nuối tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi
niềm trong lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi
biết anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh
đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?
Thảo nhìn
Tuân chằm chăm, rồi ngần ngừ nói:
- Anh hỏi
tôi câu ấy làm tôi chột dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã nhìn thấy tâm
can tôi không? Hay anh là cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy để bắt quả tang lập
trường chao đảo của tôi đây?
- Tôi chưa
hề đọc Freud. Và anh cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi đấy. Nhưng cứ yên
tâm, vì thằng Nguyễn Tuân này dù thế nào thì cũng không thể hèn mạt đến nỗi bán
rẻ tình bạn cho cách mạng đâu. Anh cứ bình tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ
thời… Tôi hỏi thật, anh có hiểu tại sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng
ta như vậy không?
- Tại sao
vậy anh?
- Tại vì ca
trù toàn chuyên chở âm điệu những nuối tiếc, những tình hận, những chí cả sinh
bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất đắc chí như anh đấy!
- Sao anh
thấy được tận đáy lòng tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng xin anh đừng làm
tôi sợ vì đúng là anh đã bắt quả tang tôi đang chao đảo lập trường đối với cách
mạng!
- Anh đừng
lo. Tôi hiểu anh vì tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn Giang Châu tư mã đang
bị giông bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bên Tầm Dương rừng rú này. Buồn
lắm! Thảm lắm anh ơi! Với anh tôi mới dám thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi
biết sợ cũng như anh biết sợ…
Rồi bác Thảo
còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca
trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động
mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nản ở giữa cái cánh ruộng
khô, đêm trăng ấy nữa.
------------
Trích “Trần
Đức Thảo - Những lời trăn trối”, Phan Ngọc Khuê ghi.
Nguồn: https://www.facebook.com/khachoa.la/posts/1221818017919656
Triết gia Trần Đức Thảo trên Wikipedia:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_%C4%90%E1%BB%A9c_Th%E1%BA%A3o
- ĐẶNG XUÂN XUYẾN giới
thiệu -
(Ảnh sử dụng minh họa trong bài được sưu tầm
từ nguồn: internet
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang
Đặng Xuân Xuyến)
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét