THẦY NHẤT HẠNH ĐÃ RA ĐI
Thiền sư
Nhất Hạnh đã thanh thản ra đi lúc 0
giờ ngày 22-1-2022 tại chùa Từ Hiếu, Huế, đại thọ 97 tuổi. Một vị thầy đã ra đi sau khi sống một cuộc
đời trọn vẹn với chân thiện mỹ.
Có lẽ
phải mất rất nhiều thời gian để cảm nhận đánh giá tài năng, tư
tưởng, và ảnh hưởng của Thiền sư Nhất Hạnh, vì chưa có một người
Việt Nam nào vượt khỏi tầm biên giới quốc gia, ngôn ngữ Việt ảnh
hưởng sâu rộng trên thế giới như thiền sư. Với 120 tác phẩm văn chương,
tư tưởng, nhiều quyển bán chạy vào hàng đầu như quyển Phép lạ của
sự tỉnh thức, Bouddha vivant, Christ
vivant, Đạo Phật hiện đại hoá, Đạo Phật ngày nay, Đường xưa mây
trắng… tại Âu Mỹ trong nhiều năm sách được dịch ra nhiều thứ tiếng,
có thể sánh với các nhà văn hàng đầu các nước... dĩ nhiên là các
sách phương Tây không in một hai ngàn cuốn như ở nước ta mà hàng chục
ngàn, hàng trăm ngàn mỗi lần xuất bản. Thầy Nhất Hạnh không chỉ là
một nhà tư tưởng mà còn là một nhà văn, nhà thơ, với văn chương bình
dị trong sáng, với Nẻo về của ý, tả những ngày tháng thầy ở Phương
Bối gần Đà Lạt, cho người đọc mơ về một thiên đường dĩ vãng, quyển Đường xưa mây trắng, tóm tắt cả
Tam Tạng Kinh điển, 82 năm
cuộc đời Đức Phật trong một quyển tiểu thuyết, người đọc không khỏi
khâm phục tài năng và trí tuệ của Thầy. Bao nhiêu kinh điển chữ Phạn,
chữ Hán, chữ Bali gút mặc khó hiểu, trở thành nhẹ nhàng như những
hơi thở thiền định, như sự tỉnh thức. Tác phẩm Hiện đại hóa Phật
Giáo đưa ra những tầm nhìn mới tương lại Phật Giáo. Thầy Nhất Hạnh
vẫn sống đạm bạc bình dị, suốt đời, bao nhiêu lợi nhuận bản quyền
sách được đưa vào công tác từ thiện, tình thương tại Việt Nam và
nhiều nơi và hình thành các cơ sở Làng Mai tại Pháp, Đức, tại Mỹ,
tại Úc, tại Thái Lan... với hàng trăm tu sĩ xuất gia, hàng ngàn cư
sĩ tại gia hàng năm đến tu học. Các nhà tu trên thế giới đều sống
nhờ sự cúng dường của tín đồ, và giảng pháp, nhưng Thầy Nhất Hạnh
tại Âu Mỹ các buổi diễn thuyết trong các hội trường lớn dành cho
hàng ngàn người, người đến nghe thuyết pháp phải đặt trước mua vé
để được nghe thầy giảng.
Tôi có may
mắn được đến nghe giảng, học với Thầy từ 1973-1976 mỗi tuần tại
Trường Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội, tại Đại Học Sorbonne thầy giảng về
Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, những bài giảng được gom thành sách Việt Nam Phật Giáo sử luận ký
tên Nguyễn Lang, thầy phải ký tên khác vì thời gian đó Nhất Hạnh là
tên bị cấm kị cả hai miền Nam Bắc.
Những năm
tháng trước 1970, tôi đã đọc được sách của Thầy Nhất Hạnh từ trong
nước, tôi xúc động nhất là quyển: «Nói
với tuổi hai mươi», tôi cảm động như chuyện tâm tình thầy nói
với chính mình. Giữa một thời điểm chiến tranh khốc liệt, học Trung
học trong một ngôi trường công lập một tỉnh nhỏ, bạn bè lần lượt đi
vào trận chiến, có đứa ở vùng quê đi lên rừng núi, đứa thi Tú tài
rớt phải đi lính, đậu Tú Tài rồi cũng vào trường sĩ quan Thủ Đức.
Bao nhiêu năm nhìn lại có lẽ gần đến phân nửa thế hệ tôi đã hy sinh
trong tuổi hai mươi. Bao người đi trước không ai nói lời nào ngoài
những kêu gào, cổ võ chiến tranh «chập
chờn bay trên bại thắng, ngọn cờ khăn sô màu trắng» số phận thanh
niên thế hệ chúng tôi chỉ thấy ngày về với gia đình trong một quan
tài.
Những ngày
đó tôi thân với anh Nguyễn Bắc Sơn, tôi và anh đọc cho nhau nghe thơ phản
chiến. Anh là một nhà thơ ngang tàng lính chiến miền Nam, nhưng thân
phận anh thật nghiệt ngã, nhưng không biết thời đó anh đã biết chưa,
cha anh đi tập kết trở về là là Đại Tá chỉ huy quân sự vùng quê
hương chúng tôi, anh và cha anh đang cầm súng giết nhau. Có một lần tôi
và anh hẹn gặp nhà văn Y Uyên tại quán Mỹ Vũ, nhưng Y Uyên không đến,
hôm sau anh cho tôi hay tin, Y Uyên đi hành quân và tử trận hôm qua dưới
chân núi Tà Dôn, tôi xúc động viết bài thơ Cho người nằm xuống, cho
tác giả Tượng đá sườn non, qua đời năm 26 tuổi và đăng trên tạp chí
Văn. Thôi đã nhiều, đừng than thở nữa, Viên đá này sẽ tròn cạnh giữa
trùng khơi. Thôi đừng khóc lòng đại dương đã mặn. Qua cánh đồng khô
đau thương kết tinh rồi. Người nằm xuống thân cỏ cây mục nát. Đạn vẫn
bay và sẽ đến bao giờ, Mùa nao rồi cây vội vàng thay lá. Đồng khai
quang còn lại mấy cành khô. Buổi ban mai máu điểm lá xanh nào, Giấc
đêm qua người đến thế giới nào. Tượng đá sườn non ngàn năm vẫn đợi,
Người đã đi đã đến đã là bao. Rồi đất đá ôm kiếp người vùi ngủ,
Thiên đường trong tim mọc từng đốt xương rồng. Hạt bụi trên đời hạt
bụi quay cuồng trong gió. Còn lại gì mà gọi giữa hư không.
Anh Nguyễn
Bắc Sơn rất thích bài thơ Chiến
tranh Việt Nam và tôi, của tôi in trong tập Chiêm bao trắng và
mượn tựa bài thơ để làm tựa tập thơ của anh. Nước mắt khổ đau chinh
chiến, Tương lai chết rụng trong hồn. Tuổi bùn hôi tanh, bơ vơ chiều lên
tiếng khóc. Hai mươi năm rồi màu tang đó có buồn hơn. Tủi nhục đọa
đầy tôi đi vào đêm đen không lối thoát. Mặt trời nhỏ nhoi, lở lói gậm
hờn, Đêm tôi chầo đời mẹ gầy mòn dãy chết. Tình yêu ngọt ngào dòng
sữa máu cho con. Đêm thống khổ tôi cúi đầu mang mặt nạ, Chủ nghĩa
này đành khoát lấy lên vai, Yêu thương đó tôi đã quên những lời xót
đau bi tráng, Huyết thống anh em, máu ngập hình hài. Yêu thương đó tôi
không còn cho ai nữa, tôi mê mù không dám nhận diện hôm nay. Tôi hèn
nhát không dám nói lên lời thú tôi. Nguyên nhân tội lỗi chiến tranh
này, tôi hiện hữu, chính tôi.
Và những
bài thơ anh cho tôi đọc: “Đời bắt một
kẻ làm thơ như ta đi làm lính, Bắt lê la mang một chiếc mu rùa. Nên tâm
hồn ta là một cánh đồng úng thủy, Và nỗi buồn như nước những đêm
mưa. Trong thành phố này ta là người phản chiến, Ngày qua ngày ta chỉ
thích đi câu, Râu tóc mọc dài như bầy cỏ loạn. Sống âm thầm ai hiểu
ta đâu. Đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu, Trời đất bao la ta chỉ một
mình, Nhưng làm sao quên cuộc đời dưới đó. Quên những thằng người bôi
bẩn kiếp nhân sinh. Ngày hôm nay ta muốn chặt đi bàn tay trái, Để được
làm người theo ý riêng ta. Ngày hôm nay ta muốnthọc mù con mắt phải,
Ngày hôm nay ta muốn bỏ đi xa. Khi nâng chén lên cao ta muốn cười lớn
tiếng. Cười lên đi cười những tiếng bi hùng. Đời đã bắt kẻ làm thơ
đi làm lính. Chiếc mai rùa đã nặng ở trên lưng”. (bài Cười lên đi,
tiếng khóc bi hùng).
Và anh
cũng viết một bài Chiến tranh Việt Nam và tôi. Đoạn kết anh viết: «Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi,
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí. Lũ chúng ta sống một đời vô vị, Nên
chọn rừng sâu núi cả đánh nhau. Mượn đất trời làm nơi đốt hỏa châu,
Những cột khói giả rồng thiêng uốn khúc. Mang bom đạn chơi trò chơi
pháo tết. Và náu xương làm phân bón rừng hoang. »
Người thầy
thi ca của chúng tôi là tập thơ Chắp
tay nguyện cầu cho chim câu trắng hiện của Thầy Nhất Hạnh và Nói với tuổi hai mươi. Chúng tôi
say sưa hát Tâm ca Phạm Duy phổ nhạc bài thơ của Thầy: «Kẻ thù ta đâu có phải là người, Giết
người đi rồi ta ở với ai.» Chúng tôi trao đổi cho nhau xem những
sách viết của thầy như «Hoa sen
trong biển lửa», chúng tôi tâm tình nhau hằng giờ trong sân chùa
Tỉnh Hội, trong những ngày tuyệt thực, tranh đấu Phật Giáo và mơ đến
thầy trong một chân trời xa xăm, thầy cùng những người bạn đang đấu
tranh vì hoà bình Việt Nam. Thầy trở thành một nguồn hy vọng dù rất
mỏng manh cho tuổi thanh niên chúng tôi.
Tôi làm
thơ, viểt báo từ năm đầu trung học, đăng thơ trên các nhật báo và tạp
chí, các cơ sở báo chí Sài Gòn đường Phạm Ngũ Lão, Bùi Viện trở
thành nơi quen thuộc, thơ tập họp xuất bản, ngâm thơ trên chương trình
ban Mây Tần Đài Phát Thanh Sài Gòn của Kiên Giang Hà Huy Hà.
Tôi may mắn
hơn bạn bè, tôi đậu xong Tú Tài II năm 18 tuổi vào Sài Gòn ghi tên
học Luật, Nhưng ông anh lớn tôi, hơn tôi gần 20 tuổi, ông đã tạo dựng
được một sản nghiệp to lớn, ông bảo: Ở đây trước sau gì cũng đi
lính, tốt hơn là đi du học qua Tây, rồi trở về làm việc với anh, nếu
không thành đạt cũng tránh qua được chiến tranh, thế rồi ông nhờ
người lo liệu hết mọi việc. Ở miền Nam lúc đó chỉ cần có tiền là đâu
cũng xong.
Tôi du học
ṭai Âu Châu đầu năm 1970, thời gian đó miền Nam cấm cửa không cho đi
Pháp, vì du học sinh nam sang Pháp thường trở thành thiên tả, tôi phải
sang Bỉ hai năm học rồi mới sang Paris. Thời gian ấy cả Âu Châu sôi
động chống chiến tranh Việt Nam, hàng ngày trên truyền hình cảnh máy
bay dội bom, cảnh người Việt gục chết trên cả hai miền, đồng hoang vu
thuốc khai quang tàn phá, trẻ con trần truồng trốn chạy bom đạn những
cảnh Mỹ Lai tàn sát dân lành. Ai cũng nói đến một cuộc chiến diệt
chủng dân tộc Việt Nam, bạn bè trong đại học thôi thúc nhau đi biểu
tình. Tôi lại thấy: «Càng đi xa càng
gần gủi quê nhà, Càng đau xót khi bom gầm đạn nổ, Muối xát tâm hồn
cay bỏng thịt da.» Và tôi cũng lao vào việc chống chiến tranh như
bè bạn, kết quả tôi mất cả chuyển ngân, mất cả thông hành của Miền
Nam. Tôi phải tự làm việc tự kiếm sống cho đến khi xong luận án.
Những thời
gian ấy tôi thường đến thăm thầy Nhất Hạnh. Thuở ấy thầy sống hàn vi
tại ngoại ô Maison Alfort và sau đó trong một căn hộ hai phòng khu Goute
d ́Or nghèo khổ của Paris. Từ năm 1973 thầy được dạy tại Sorbonne,
thầy dọn về Bourg la Reine đời sống sung túc hơn.
Thầy Nhất
Hạnh ra khỏi nước từ năm 1961 sau khi tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa,
thầy học và dạy học tại Đại Học Princeton Colombia, vì vận động cho
hòa bình Việt Nam thầy bị cấm không cho về miền Nam. Năm 1968 khi bắt
đầu Hội Nghị Paris, đàm phán bốn bên Mỹ, Miền Nam Việt Nam và Miền
Bắc Việt Nam, Mặt trận Giải phóng Miền Nam, Thầy Nhất Hạnh cũng lập một
phái đoàn Hòa Bình nhân danh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Các bên đều phủ nhận tính đại diện của thầy, cả miền Nam chỉ công
nhận Giáo Hội Phật Giáo của Thượng Tọa Thích Tâm Châu tại Việt Nam
Quốc Tự, và phủ nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trụ sở
tại Chùa Ấn Quang. Phái đoàn Thầy lập đầu tiên với anh Võ Văn Ái
làm Tổng Thư Ký, với tiền tác giả sách xuất bản thầy mua được máy
in offset giao cho anh Ái đi học nghề in, nhưng khi thạo nghề in, in được
các tập thơ của Quách Tấn, Thi Vũ... và in màu quảng cáo có thể
sinh sống được, anh Ái lại dành lấy nhà in và trục xuất thầy ra
khỏi cơ sở và thành lập báo Quê Mẹ, điều tệ hại nhất của anh là
các số báo nói xấu Thầy Nhất Hạnh liên tục. Có lúc anh còn nguyền
rủa Làng Mai chỉ là một giáo phái dẫn đến sự tự tử trập thể.
Thầy Nhất Hạnh vẫn cắn răng không một lời đáp trả lại.
Khi Thầy
Nhất Hạnh ở Paris, mỗi năm thầy đều tổ chức lễ giổ chị Nhất Chi
Mai, người tự thiêu để cầu nguyện cho hoà bình Việt Nam, tôi cùng Giáo
sư Trần Văn Khê và anh Trần Quang Hải đều được thầy mời đến. Anh Hải
quen người vợ đầu tiên mẹ cháu Minh Tâm từ những buổi sinh hoạt này,
cuối đời chị đi tu theo pháp môn Làng Mai của thầy.
Tôi nhận
được thường xuyên tạp chí sinh hoạt làng Mai và những mãnh giấy hồng
đào thủ bút Thầy mừng xuân, chị Cao Ngọc Phượng rất vui khi báo tin
cho tôi những lần một quyển sách của Thầy bán chạy nhất bên Mỹ. Với
tiền tác quyền sách Thầy đã mua được các trang trại trồng mận trái
màu tím ở miền Nam nước Pháp, miền Agen nổi tiếng loại trái cây
này, làng lúc đầu mang tên Làng Hồng sau đổi thành Làng Mai, vì khi
đến đây vào mùa xuân hàng ngàn gốc cây hoa nở trắng xóa, Thầy thành
lập xóm Thượng, xóm Hạ, rồi xóm Trung, và một ngôi nhà có vườn
cạnh bờ sông Marne vùng Paris, dành cho các tăng thân nam nữ riêng biệt.
Hàng tuần, hàng năm các đệ tử tại gia về tu tập với các đệ tử
xuất gia. Mỗi đệ tử xuất gia được xây dựng một cái cốc riêng biệt,
xinh xắn và đầy đủ tiện nghi chung quanh.
Bên cạnh
Thầy, phải kể đến tài năng tổ chức của chị Cao Ngọc Phượng tức sư
cô Chân Không, anh Thanh Tuệ nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Văn Nghệ, sư
cô Chân Đức nguyên một giáo sư văn học người Anh và các đệ tử người
Mỹ, Hoà Lan, Pháp, Hoa, Thái Lan... Các đệ tử thầy tập họp thành
một ủy ban dịch thuật đủ các thứ tiếng. Nhiều đệ tử thầy trở
thành giáo thọ, có thầy Pháp Ấn nguyên là một Tiến sĩ Vật Lý tốt
nghiệp tại Mỹ cũng từ bỏ tất cả đi tu theo Thầy. Tôi có nhiều lần
đến dự và rất vui khi trò chuyện với các vị giáo thọ Làng Mai, mỗi
người đều có phong thái, giảng pháp y như Thầy.
Sau
30-4-1975, Thầy Nhất Hạnh gửi tặng tôi bài thơ Dấu chân trên cát, tượng
mây giữa trời. Bây giờ Thầy đã đi rồi, giờ nghĩ lại mới thấy
những điều sâu xa trong bài thơ. Những gì mình tưởng là chân lý là
sự thật, có lúc mình tưởng như “mặt
trời chân lý chói qua tim”, nhưng rồi như sóng vỗ, như mây bay, hết
sáng đến chiều tối, những điều mình tưởng rồi cũng chóng qua đi, như
dấu chân trên cát cơn sóng thủy triều lên xóa mất, như những đám mây,
có lúc mây trắng thời thơ ấu nhìn mây mơ mộng, người xưa gọi bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương, có lúc mây đen nghịt tưởng như thần
sấm, thần chớp sắp xuất hiện nhưng rồi mây cũng tan đi còn lại bầu
trời xanh thẳm.
Những lời
Thầy giảng: «Khi ta nhìn lên bầu
trời và không thấy đám mây mà ta yêu quý đâu nữa. Ta nghĩ rằng đám
mây đó đã chết, nhưng sự thật là đám mây đó vẫn đang tiếp tục tồn
tại dưới hình tướng là mưa hay những hình tướng khác mà thôi. Sinh
và diệt chỉ là những hiện tượng mà ta nhìn thấy trên bề mặt. Nết
ta nhìn thật sâu thì không có sinh cũng không có diệt, chỉ có sự biến
đổi không ngừng. Khi ta tiếp xúc được với bản chất không sinh không
diệt thì không còn lo sợ cái chết.»
Bây giờ
Thầy đã ra đi trong tuổi thượng thọ, lá rụng về cội, thầy trở về
Từ Hiếu nơi ngôi chùa Thầy đã ra đi. Một cuộc đời trọn vẹn, ảnh
hưởng sâu rộng thế giới, bao giờ Việt Nam mới có một người tầm vóc
như Thầy.
*
Paris ngày
23-1-2022
PHẠM TRỌNG
CHÁNH
Tiến sĩ Khoa
Học Giáo Dục
Địa chỉ: Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.............................................................................................................
-
Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 25.01.2022.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
-
Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét