NHÀ
NGUYỄN DẸP LOẠN VÙNG BIÊN
*
Những thập niên giữa
thế kỷ XIX là một quãng thời gian đầy biến động trong lịch sử Việt Nam nói
riêng và lịch sử Đông Á nói chung. Nhờ cách mạng khoa học - kỹ thuật vượt bậc,
phương Tây đã có những bước tiến lớn về kinh tế và quân sự. Có một làn gió mới
bấy giờ từ châu Âu tràn sang phương Đông. Các tàu buôn sang châu Á để mở rộng
thị trường, các nhà truyền giáo cũng bắt đầu công cuộc truyền đạo vào các vùng
đất hứa. Cùng với đó là tàu to và súng lớn được cải tiến vượt bậc phục vụ cho
chế độ thực dân, chinh phục các thuộc địa.
Năm 1858 là cái mốc
đáng nhớ đối với mỗi người Việt, thực dân Pháp đã chính thức xâm lược nước ta,
đẩy triều đình nhà Nguyễn dần dần vào thế phụ thuộc và mất nước. Vua Nguyễn bấy
giờ là Tự Đức, giỏi thơ văn nhưng kém tài thao lược, đứng trước trận cuồng
phong từ phương Tây đã không chịu cải cách kinh tế, chính trị để thích ứng thời
cuộc như vua Minh Trị ở Nhật Bản cùng thời (cuộc cải cách Minh Trị Duy Tân đã
làm xứ Phù Tang đi lên như diều gặp gió). Tự Đức đã “bịt tai nghe chuông”, coi
như không có sự tồn tại của bọn “man di” đến từ phương Tây.
Triều đình bấy giờ cũng
bị phân hóa thành 2 phe: Cải cách và bảo thủ và 2 phái: Chủ chiến và chủ hòa.
Tiếc thay, Tự Đức lại nghe theo ý của lão thần (Phan Thanh Giản) mà từng bước
cắt đất cầu hòa với thực dân Pháp để tránh... họa binh đao. Vì thế, dân gian đã
có câu “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình
khí dân”, tức chê trách họ Phan bán nước.
Thực ra, do tầm nhìn
hạn chế mà Phan Thanh Giản đã chủ hòa với thực dân Pháp, chứ ông vẫn là người
tiết tháo. Chẳng thế mà, khi biết không giữ nổi 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên, ông đã bảo các quan nộp thành trì cho Pháp để bớt đổ máu rồi quay vào
phòng uống thuộc độc tự vẫn. Xem ra, cái tiết tháo của họ Phan cũng chẳng giúp
gì cho đất nước mà cái hại do sự nhận thức sai về kẻ thù để lại vết nhơ chẳng
thể nào rửa sạch.
Tự Đức cũng là vị Hoàng
đế yêu nước, nhưng ông cũng đánh giá sai dã tâm của quân Pháp, sau đó, ông đã
phải tự trách mình trong đạo dụ “tự biếm” năm 1875: “Miễn cưỡng theo mưu kế của bậc lão thần, bỏ đất đai và dân chúng 6 tỉnh
Nam Kỳ, để cầu khỏi nạn chiến tranh và yên xã tắc”. Xem ra, thơ văn giỏi
giang của Hoàng đế Tự Đức cũng chẳng thể nào thay cho binh thư và mưu lược
chống giặc. Nam kỳ vì thế mà mất hoàn toàn vào tay giặc.
Lịch sử Việt Nam dưới
thời vua Tự Đức đã bước vào khúc quanh nhiều gam màu tối. Tuy vậy, vẫn còn le
lói những điểm sáng, đó là công cuộc dẹp loạn vùng biên giới Việt - Trung thành
công, giữ được giang sơn xã tắc.
Triều đình Mãn Thanh
khi đó cũng bị cơn gió phương Tây thổi mạnh, vua Thanh cũng có chính sách “bế quan tỏa cảng” giống nhà Nguyễn. Kinh
tế xuống dốc, các phong trào khởi nghĩa chống triều đình nổi lên và bị đàn áp
tàn bạo. Nhiều quân khởi nghĩa cùng đường, phải chạy sang Việt Nam vì bị truy
bắt và thiếu lương thực, thực phẩm phải biến thành... cướp! Một số thì muốn
chiếm luôn vùng biên giới nước ta để lập giang sơn riêng.
Chống triều đình Mãn
Thanh mạnh mẽ là tổ chức Thiên Địa Hội của Trung Quốc, sau đó trở thành nhóm
Tam Đường (gồm 3 hội: Quảng Nghĩa Đường, Đức Thắng Đường, Lục Thắng Đường) đã
tràn sang nước ta. Chúng quấy nhiễu Thất Khê (Lạng Sơn) vào năm 1858, chiếm các
châu Thạch An, Thượng Hạ Pha, Bình Quân của Cao Bằng. Hoàng đế Tự Đức đã kiên
quyết sai các lãnh binh truy quét, phải mất 7 năm sau mới loại được chúng ra
khỏi tỉnh Cao Bằng. Ông cũng cho xây dựng nhiều “ải” và “bảo” (đồn binh)
lớn ở vùng biên, bổ nhiệm các quan từ Kinh thành xuống làm Tổng đốc ở các tỉnh
Hưng Hóa (tương đương Tây Bắc ngày nay), Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng.
Một số nhóm tàn quân
của tổ chức Thiên Địa Hội cũng vượt biên sang ta. Mỗi nhóm lại có biểu tượng
của màu cờ khác nhau. Đó là quân Cờ Đen, Cờ Vàng và Cờ Trắng. Ba nhóm “Cờ” không thống nhất được với nhau,
tranh giành ảnh hưởng và xung đột thôn tính lẫn nhau. Năm 1868, quân Cờ Trắng
cướp được châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang. Sau đó, đội quân này bị quân Cờ Đen
loại bỏ.
Quân Cờ Vàng hoạt động
mạnh ở Tuyên Quang, sau đó lại cùng quân Cờ Đen tấn công Lào Cai, Cao Bằng,
Hưng Hóa. Năm 1875, triều Nguyễn đã đưa quân đội và người Thổ ở địa phương tiêu
diệt hoàn toàn quân Cờ Vàng.
Quân Cờ Đen có thủ lĩnh
là Lưu Vĩnh Phúc là nhóm tàn quân mạnh nhất trong số các loại “Cờ”. Chính sách của Hoàng đế Tự Đức là
phân hóa các loại tàn quân từ bên kia biên giới sang “Dĩ di, trị di” (dùng nhóm
tàn quân nọ trị nhóm tàn quân kia. Tự Đức dùng chữ di để chỉ chúng, hàm ý chỉ
là một lũ man di, mọi rợ). Và thực tế, các nhóm Cờ Trắng, Cờ Vàng đã bị tiêu
diệt. Sau đó, nhà Nguyễn đã dụ hàng Lưu Vĩnh Phúc, phong cho làm Đề đốc. Tự Đức
có chính sách mềm mỏng sử dụng thủ lĩnh Lưu Vĩnh Phúc, một lực lượng có thực
lực quân sự để thanh toán hai nhóm tàn quân khác. Khéo thu phục quân Cờ Đen nên
vùng biên giới nước ta lúc này tạm yên ổn.
Tự Đức cũng cử Đại học
sĩ lãnh Tổng Thống Tam Tuyên Hoàng Kế Viêm là Phò mã lang, lấy con gái vua Minh
Mạng, thuyết phục Lưu Vĩnh Phúc cùng dẹp loạn vùng biên. Chính Hoàng Kế Viêm đã
cùng Lưu Vĩnh Phúc mai phục và giết chết Ph. Gác-ni-ơ tại Cầu Giấy vào năm 1873
và H. Ri-vi-ơ năm 1883, làm chậm quá trình xâm lược của quân Pháp vào Bắc kỳ.
Một số tàn quân khác như giặc Ngô Côn cướp bóc ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, giặc
Tô Tứ hoạt động ở vùng Tiên Yên, Quảng Yên cũng bị quân triều đình thẳng tay
tiêu diệt.
Nhờ sự khôn khéo của
triều đình Huế mà đứng đầu là vua Tự Đức, một vùng biên dậy sóng do phải đón
tiếp bất đắc dĩ... tàn quân các loại tràn qua từ biên giới Việt-Trung đã yên
bình trở lại, nước ta giữ vững được cương giới, bảo vệ được nhân dân khỏi nạn
thổ phỉ, cướp bóc.
Tự Đức thực sự có công
bảo vệ biên giới phía Bắc. Chỉ tiếc rằng do cả tin người Pháp, lại thêm sự nhu
nhược đã làm vua Tự Đức sớm đánh mất giang sơn của cả 6 tỉnh Nam kỳ bằng những
“Hòa ước” vô cùng bất bình đẳng với
quân giặc. Lịch sử sẽ công bằng khi đánh giá về Tự Đức, rất giỏi văn chương, có
hiếu với mẹ, tận tâm với nước, nhưng bất tài trong việc trị quốc.n
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
Mời nghe Đại biểu Quốc hội Lê Văn Lai
nói lời tâm huyết về biển Đông:
Mời nghe Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa nói về biển Đông:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác
giả: Giáo sư Trịnh Sinh - nguồn: báo
Biên phòng
Ảnh
minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét