TRẠNG TRÌNH DỰ ĐOÁN CHÍNH XÁC
VỀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA NHÀ TÂY SƠN
*
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây
Ðoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn
Ðầu cha lộn xuống chân con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi…
1. Bức tranh
toàn cảnh nhà Tây Sơn
Vào thời điểm vinh quang nhất của phong trào Tây Sơn trong
công cuộc thống nhất đất nước 1786 - 1787 mà Nguyễn Huệ là người tiêu biểu nhất
thì phong trào Tây Sơn đã bị Nguyễn Nhạc phong kiến hóa, phân phong làm ba khu
vực cai quản đất nước. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa anh
em vua Thái Đức, khiến kẻ địch lợi dụng ngay lập tức. Ở phía Bắc, họ Trịnh ngóc
đầu dậy rồi Nguyễn Hữu Chỉnh ra sức hoành hành. Ở phía Nam, Nguyễn Ánh cũng
nhân cơ hội lực lượng Tây Sơn bị chia sẻ để quay trở về đánh lại Gia Định
(tháng 7/1787).
Người em Đông Định Vương Nguyễn Lữ hèn yếu, chưa đánh nhau
với địch đã bỏ chạy về Biên Hòa, bỏ Gia định cho Phạm Văn Tham giữ. Sau đó,
Nguyễn Lữ lại chạy luôn một mạch về Quy Nhơn rồi ốm và qua đời khiến vua Thái
Đức mất một chỗ dựa về tinh thần. Mặc dù tháng 10/1787, ông đã điều Nguyễn Văn
Hưng vào tiếp viện cho Phạm Văn Tham, nhưng sau khi hai người vây đánh Nguyễn Ánh
ở Mỹ Lung không hạ được nên Nguyễn Văn Hưng tự ý rút quân về Quy Nhơn. Mặc dù
Nguyễn Văn Hưng tự ý rút nhưng Thái Đức hoàng đế không trừng phạt tướng này cho
thấy Thái Đức không còn quyết tâm và đủ nhuệ khí với chiến trường Nam bộ nữa,
hoàn toàn phó thác cho Phạm Văn Tham. Những diễn biến sau này từ chiến trường
Nam bộ cho thấy đây là sai lầm lớn của ông.
Không có người hợp sức, Phạm Văn Tham bị đơn độc và dần dần
trở nên yếu thế trước lực lượng ngày càng lớn mạnh của Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh
chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Tới tháng 8/1788, thành Gia Định mất, Phạm
Văn Tham phải bỏ thành mà chạy. Phạm Văn Tham chiến đấu bền bỉ đến tận đầu năm
1789 nhưng vì bị Nguyễn Ánh vây ngặt và chặn đường biển về Quy Nhơn nên buộc
lòng phải đầu hàng.
Trong khi đó, vua em Bắc Bình Vương đang quyết chí theo đuổi
ý tưởng chinh phục phía Bắc để xây dựng sự nghiệp riêng. Không phải vua em
không quan tâm tới chiến trường Nam bộ nhưng nguy cơ ở Bắc Hà liên tiếp xảy ra
không yên, từ họ Trịnh rồi Nguyễn Hữu Chỉnh và sau đó là Vũ Văn Nhậm và chính
Lê Chiêu Thống dẫn quân Thanh về không phải nhỏ. Do đó Nguyễn Huệ không thể dồn
hết lực lượng vào chiến trường Nam bộ lúc đó. Lực lượng của vua Thái Đức đã hao
mòn, lại mất hết nhuệ khí và ông cũng không có phương pháp nào vực dậy.
Giữa anh em vua Thái Đức dù giảng hòa nhưng chưa hoàn toàn
xóa bỏ hiềm nghi. Hành động chống đối vua em của người con rể vua Thái Đức là
Vũ Văn Nhậm chứng tỏ lo lắng của vua em là có sơ sở. Do đó, dù vua anh đã bất
lực nhìn Nam bộ từng ngày mất về tay Nguyễn Ánh thì việc vua em cầm quân qua
địa phận vua anh để Nam tiến cũng không phải là dễ dàng.
Chính sau cái chết của Vũ Văn Nhậm và diễn biến chiến trường
Nam bộ, vua Thái Đức đã nhận ra tuổi già, sự bất lực của mình với đại cuộc. Ông
thấy ngoài việc không thể kìm chế người em hùng lược, ông cũng không nên ngăn
cản em mình lo việc chung của nhà Tây Sơn nữa. Chính vì vậy, cuối năm 1788, vì
cơ nghiệp chung, ông từ bỏ đế hiệu và niên hiệu Thái Đức, tự xưng là Tây Sơn
vương. Ông nhiều lần viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ Quy Nhơn và nhường
toàn bộ binh quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn
vua em mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ (chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ
vấn đề này).
Tuy nhiên lức đó Bắc Bình vương dù biết lời cầu khẩn của ông
nhưng không thể vào Nam tham chiến vì 20 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống rước
về đã vượt qua biên giới. Nguy cơ phía Bắc rõ ràng gặp nguy lớn hơn nên vua em
buộc phải hoãn việc Nam tiến thêm một thời gian nữa. Mặc dù vua em Quang Trung
đã đại thắng quân Thanh (1789) nhưng sau đó vẫn phải lo ổn định tình hình Bắc
Hà do tàn dư của nhà Lê còn sót lại và sức ép ngoại giao từ phía nhà Thanh. Vì
vậy, Nguyễn Ánh được người Pháp hỗ trợ kéo ra đánh Bình Thuận, Bình Khang, Diên
Khánh, quân của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc liên tiếp bại trận và mất mấy thành
này. Cho tới năm 1791, ông chỉ còn cai quản Quy Nhơn, Phú Yên và Quảng Ngãi.
2. Mâu thuẫn
anh em nhà Tây Sơn
Khi Nguyễn Nhạc là Trung Ương hoàng đế đóng ở Bình Định, giữa
Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ nảy sinh mâu thuẫn. Hai kẻ thù là Nguyễn Ánh và nhà
Thanh muốn nhà Tây Sơn sớm bị diệt nên tìm cách phá long mạch. Theo dân gian kể
lại, trước nhà tổ của Nguyễn Nhạc có một cánh rừng lớn như một con rồng chầu
vào cửa nên một vài thầy phong thủy nói với Nguyễn Nhạc, muốn phát huy sự thịnh
vượng thì phải chặt cánh rừng này đi. Nguyễn Nhạc theo lời đó mà cho chặt cánh
rừng đi, thế là long mạch bị phá. Năm 1792, Nguyễn Huệ đột ngột từ trần trong
lúc đang chuẩn bị kế hoạch chi tiết để diệt Nguyễn Ánh ở Gia Định. Khi Nguyễn
Huệ chết thì truyền ngôi lại cho con là Quang Toản.
Năm Quý Sửu (1793) Quang Toản chính thức lên ngôi vua, lấy
niên hiệu là Cảnh Thịnh, sai Ngô Thì Nhậm sang nhà Thanh báo tang và xin sắc
phong. Vua Thanh vốn đã sắc phong cho Quang Toản làm Thái tử khi vua Quang
Trung còn sống nên lập tức xuống chỉ phong Toản làm An Nam Quốc vương. Án sát
Quảng Tây được lệnh làm sứ thần đến Bắc Thành, Quang Toản cũng sai người đóng
giả nhận thay. Sứ thần nhà Thanh có biết việc ấy song không có phản ứng gì.
Quang Toản lên ngôi lúc tuổi còn nhỏ nên không đủ năng lực và
uy tín để điều hành công việc quốc gia. Mọi việc đều được quyết định bởi Bùi
Đắc Tuyên. Từ đó Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền, trong ngoài đều oán hận. Đại
thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau, Quang Toản không ngăn được đành
chỉ khóc lóc mà thôi. Giữa lúc đó lại có cận thần gièm pha rằng, oai quyền của
Trần Quang Diệu quá lớn, mưu đồ cướp ngôi. Quang Toản tin là thật, liều rút hết
binh quyền của Trần Quang Diệu. Trần Quang Diệu gửi mật thư vào Quy Nhơn hẹn
với Lê Văn Trung đem quân ra phế hạ Quang Toản, lập Quang Thiệu lên ngôi. Việc
không thành, Quang Thiệu bị giết còn Lê Văn Trung bị chém. Con rể Lê Văn Trung
là Lê Chất sợ hãi, bỏ Tây Sơn sang đầu hàng Nguyễn Ánh.
Năm 1793, khi Nguyễn Nhạc đang ốm thì Nguyễn Ánh đem quân vây
thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai con là Bảo đem quân chống lại nhưng tình hình
rất nguy kịch. Nguyễn Nhạc viết thư cầu cứu Quang Toản. Quang Toản sai các
tướng Phạm Công Hưng, Nguyễn Văn Huấn, Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt
voi, 30 chiến thuyền chia đường vào cứu viện Quy Nhơn. Quân Nguyễn Ánh phải rút
lui. Các tướng của Quang Toản vào thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc sai đem vàng, bạc
mỗi thứ một mâm khao quân. Thái úy của Quang Toản là Phạm Công Hưng kê khai kho
tàng, thu lấy giáp đinh và chiếm luôn thành Quy Nhơn. Quá uất ức trước việc làm
đó, Nguyễn Nhạc thổ ra máu mà chết. Sau khi Nguyễn Nhạc mất, Quang Toản phong
cho con của Nguyễn Nhạc là Bảo làm Hiếu Công, cắt cho Bảo huyện Phù Ly làm ấp
ăn lộc gọi là Tiểu Triều. Mẹ Bảo uất hận nói với con rằng:
- Khai thác cõi đất này đều là công của cha mày, nay chỉ ăn
lộc có một huyện, nếu sống mà chịu nhục thì chẳng thà chết còn hơn.
Từ đó, Bảo có chí hàng Nguyễn Ánh. Bảo cho người đi đưa tin
thì bị quân Quang Toản bắt được. Quang Toản cho Bảo uống thuốc độc chết. Do
long mạch bị triệt phá nên anh em nhà Tây Sơn lại đánh giết lẫn nhau. Nhà Tây
Sơn suy vong dần.
3. Quang Trung
qua đời
Năm 1792, quân Tây Sơn đóng thủy quân ở cửa Thi Nại để Nam
tiến. Nhưng lúc đó là mùa gió nồm, chỉ thuận cho quân Nam ra, phải đợi đến mùa
đông mới thuận gió cho quân Tây Sơn vào. Nguyễn Ánh thừa dịp cùng quân Pháp, Bồ
Đào Nha đánh úp cửa Thi Nại, đốt cháy nhiều thuyền chiến của Tây Sơn. Quân Tây
Sơn không phòng bị, lại phải thu quân về Quy Nhơn.
Để báo thù trận đó, vua Quang Trung dự định phát động chiến
dịch rất lớn, huy động hơn 20 vạn quân thủy bộ, chia làm ba đường:
* Vua Thái Đức cùng với quân “Tàu ô” theo đường bộ từ Phú Yên
vào đánh Gia Định.
* Quân bộ của Quang Trung từ Phú Xuân đi thẳng qua lãnh thổ
Vạn Tượng tới Nam Vang (Chân Lạp), từ đó cùng quân Chân Lạp kéo về Gia Định,
bao bọc đường chạy của Nguyễn Ánh không cho sang Xiêm.
* Quân thủy của Quang Trung sẽ tiến vào đón lỏng tận Hà Tiên
đổ bộ lên đất liền để ngăn Nguyễn Ánh chạy ra biển.
Chính các giáo sĩ Pháp giúp Nguyễn Ánh lúc đó cũng rất lo
lắng và dự liệu Nguyễn Ánh khó lòng chống lại được Tây Sơn trận này. Tuy nhiên,
cái chết đột ngột của vua Quang Trung khiến kế hoạch Nam tiến này không bao giờ
trở thành hiện thực.
Tháng 9/1792, vua Quang Trung đang ngồi bỗng thấy hoa mắt,
sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi đó là chứng “huyễn vận” (ngày
nay y học gọi là tai biến mạch máu não). Khi tỉnh dậy được, nhà vua cho triệu
trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng
việc chưa quyết xong thì bệnh của nhà vua ngày càng nguy kịch. Trước khi mất,
nhà vua dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:
– Ta mở mang bờ cõi, khai thác cả cõi Nam này. Nay đau ốm,
tất không khỏi được. Thái tử Nguyễn Quang Toản tư chất thông minh nhưng tuổi
còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, trong khi Thái
Đức Nguyễn Nhạc tuổi già, ham phú quý, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo
về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang cần đơn giản
thôi. Các ngươi nên hợp sức giúp Thái tử sớm Thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày
nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không, quân Gia Định kéo đến thì các ngươi
không có chỗ chôn đâu!
Ngày 29/7 năm Nhâm Tý (1792) vào khoảng 11 giờ khuya, Quang
Trung từ trần. Quang Trung ở ngôi được 5 năm, thọ 40 tuổi. Miếu hiệu là Thái tổ
Vũ hoàng đế. Thi hài của ông được táng ngay trong thành, tại phủ Dương Xuân.
Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập
phong. Vua Càn Long thương tiếc tặng tên hiệu là Trung Thuần, lại thần làm một
bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà
Thanh đến tận mộ ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.
4. Trận chiến
cuối cùng
Ở phía Nam Nguyễn Ánh nhờ người Pháp giúp đỡ nên đem quân
đánh ra Quy Nhơn. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm được Quy Nhơn và đổi tên thành
Bình Định. Từ đó Nguyễn Ánh bắt đầu dành được thế áp đảo. Nguyễn Quang Toản non
yếu, nội bộ lục đục không chống nổi nên bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Tháng 6/1801,
Nguyễn Ánh chiếm được Phú Xuân. Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh lũy Trấn
Ninh, nơi Nguyễn Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo
giáp. Rồi Bùi Thị Xuân còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy
giờ Nguyễn Ánh cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang
đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh nhát gan thấy
quân Nguyễn Ánh tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Khi thấy
Quang Toản quay ngựa bỏ chạy thì Bùi Thị Xuân nắm lấy cương ngựa rồi nói: “sắp
chiến thắng rồi, bệ hạ đi đâu vậy?”. Quang Toản gạt tay Bùi Thị Xuân ra và
nói:“để Trẫm về lấy thêm quân, sau đó sẽ tiếp tục đánh Nguyễn Ánh”.
Ngay lúc đó, Bùi Thị Xuân cũng nhận được tin Nguyễn Văn
Trương phá tan thủy binh của Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ (Quảng Bình) cướp được
hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng. Biết được
tin này, quân Nguyễn Ánh cố đánh để thắng nên làm quân Tây Sơn chồn chân. Trước
tình thế đang thắng thành bại này đội quân Tây Sơn bỏ cả vũ khí, đạn dược để
tháo chạy. Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của Bùi Thị
Xuân nhằm cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây Sơn, sau trận này thêm trượt
dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa. Quang Toản thua trận, chạy
ra Bắc Hà. Tháng 6/1802, Nguyễn Ánh huy động toàn bộ quân thủy bộ đồng loạt
tiến ra Bắc. Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Giang rồi bị bắt. Triều đại nhà Tây
Sơn chấm dứt từ đấy. Triều đại Tây Sơn chỉ tồn tại 25 năm với ba đời vua là
Thái Đức (1778 - 1793), Quang Trung (1789 - 1792) và Cảnh Thịnh (1793 - 1802).
5. Sấm Trạng
Trình về cuộc khởi nghĩa Tây Sơn
Hai câu thơ
Chấn cung xuất nhất
Ðoài cung vẫn tinh
Nghĩa là:
Mặt trời xuất hiện ở phương Ðông
Sao sa ở phương Tây
Theo bát quái, có tám cung là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly,
Khôn, Ðoài. Chấn thuộc về phương Ðông. Theo kinh Dịch, cung Chấn thuộc về người
trên (anh cả). Ý muốn nói người anh cả của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ
dấy nghiệp. Sao sa ở phương tây: ý nói nhà Tây Sơn xuất hiện.
Hai câu:
Hà thời biện lại vi vương
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn
Nghĩa là:
Làm thế nào thời ấy tên biên lại làm vua,
Lúc ấy Bắc phải hết, Nam cũng chạy.
Hai câu trên đây ám chỉ Nguyễn Nhạc, làm chức biện lại ở
huyện Vân Ðồn, tỉnh Quy Nhơn khởi nghĩa dấy binh tự xưng là Tây Sơn Vương. Nhà
Tây Sơn nổi lên diệt chúa Trịnh ở phương Bắc, đuổi chúa Nguyễn ở phương Nam lập
nên đế nghiệp.
Sáu câu:
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Ðoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Ðầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Câu 1+ câu 2: Những câu này
ứng nghiệm việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến Thăng
Long Thành, Tôn Sĩ Nghị cho quân bắc một chiếc cầu nổi bằng tre ngang sông Hồng
Hà. Trước khi đánh dẹp giặc Thanh, Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng đế (hai
câu 1-2). Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm, Quang Trung được vua Nhà Thanh
là Càn Long phong chức An Nam Quốc Vương, một vương hiệu chính thức được Trung
Hoa thừa nhận.
Câu 3+câu 4: Sau hai năm
lên ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất (Ðoài cung) ở câu 3 có nghĩa là phương
tây. Theo kinh Dịch, cung Ðoài là phần đuôi, ý nói người em của nhà Tây Sơn là
Nguyễn Huệ mất. Sau khi vua Quang Trung mất, năm sau Nguyễn Nhạc vì tức vua
Cảnh Thịnh, tức Nguyễn Quang Toản (con vua Quang Trung) chiếm thành Quy Nhơn và
biên tịch tài sản nên thổ huyết mà chết. (Chấn cung ở câu 4 ám chỉ Nguyễn Nhạc.
Theo kinh Dịch cung Chấn là người trên, người anh của Tây Sơn).
Câu 5 ám chỉ tên của vua
Quang Trung và vua Cảnh Thịnh.Theo phép chiết tự, chữ “Quang” (光) của vua Quang
Trung có chữ “Tiểu” ở trên mà chữ “Cảnh” (景) của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiểu”
ở dưới. Cho nên mới gọi là: Ðầu cha lộn xuống chân con.
Câu 6 ám chỉ nhà Nguyễn Tây
Sơn chỉ làm vua được 14 năm là dứt.
————
Chú thích:
[1] Trước khi cất đại quân bắc tiến đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ
đã sai một cận thần là Diệm cầm thư vào Nam cho Phạm Văn Tham, dặn rằng cố gắng
phòng thủ rồi đại quân quân Tây Sơn sẽ ứng cứu. Nhưng đầu năm 1789, khi Diệm
vào tới nơi thì Phạm Văn Tham đã đầu hàng Nguyễn Ánh. Diệm bí mật tìm gặp Phạm
Văn Tham và đưa thư của Nguyễn Huệ cho Phạm Văn Tham. Phạm Văn Tham đọc thư ân
hận, bèn lưu Diệm trong quân của mình để chờ thời cơ. Việc bị tiết lộ, Phạm Văn
Tham bị Nguyễn Ánh giết chết.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
Mời xem video NHỮNG TIÊN TRI CHÍNH XÁC
CỦA CÁC DANH NHÂN VIỆT NAM:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Cao Ngọc Lân - Nguồn: danviet.com
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét