VỊN VÀO LỤC BÁT - ĐIỂM TỰA
CUỐI CÙNG CỦA TRẦN HOÀI THƯ
*
![]() |
(Tác giả Đỗ Trường) |
Không ngờ thi tập Vịn Vào Lục Bát từ Hoa Kỳ
được gửi đến tôi sớm như vậy, chỉ hơn chục ngày sau in ấn, ra lò.
Vâng, chắc chắn đó là sự ưu ái của nhà xuất bản Thư Ấn Quán và
nhà văn Trần Hoài Thư đã dành cho tôi. Một chút đó thôi, ấy vậy để
lại trong lòng người một ấn tượng, một cảm xúc thật sâu sắc.
Tuy trước đây, rải rác đâu đó đã đọc một số bài,
nhưng khi nó được chọn đóng thành thi tập chuyên lục bát một cách có
hệ thống, đọc lại cho tôi cảm xúc khác hẳn. Có thể nói, đây là tập
thơ quan trọng, và tâm huyết nhất của Trần Hoài Thư. Nó như một điểm
tựa sống cuối cùng của ông. Bởi, bệnh tật và thời gian khắc nghiệt
đã làm bạn bè, người thân, từng ngày, từng ngày rời bỏ ông. Do vậy,
sự biên tập từng phần, từng giai đoạn gắn với thân phận của thi sĩ
và xã hội, một chủ ý rõ ràng của tác giả. Có điều đặc biệt,
dường như tập sách nào của Trần Hoài Thư dù viết, in ấn ở trong
nước (trước 1975), hay nơi hải ngoại đều mang hơi thở của chiến tranh.
Và Vịn Vào Lục Bát cũng vậy, tuy là tập thơ với cái tôi riêng tư
nhất, nhưng nó vẫn không thoát ra khỏi cái lẽ thường ấy. Ngoài hai
phần viết về bản thân, gia đình, và bạn bè thì chiến tranh khói lửa
vẫn đậm đặc trong thi tập này.
Vịn là động từ, nhưng ở đây nó đã chuyển thành tính
từ, hình tượng hóa tâm trạng bi đát, ngã lòng ấy của người thi sĩ,
xuyên suốt thi tập Vịn Vào Lục Bát. Tính hình tượng này, trước đây,
cũng như hiện nay đã có nhiều người sử dụng, tuy nhiên làm người đọc
rung động từ đầu đến cuối trang của một tập thơ lục bát, không phải
ai cũng làm được như nhà văn Trần Hoài Thư.
Có thể nói, những năm gần đây bạn bè lần lượt ra đi,
nhất là từ khi người bạn đời bị đột quỵ, nhà văn Trần Hoài Thư đến
với thơ nhiều hơn. Và lục bát như những liều Aspirin giảm đi nỗi đau
tâm lý trong tâm hồn ông. Tuy nhiên, thơ Lục bát dễ làm nhưng khó hay.
Do vậy, để có một tập thơ Lục bát là thử thách không nhỏ đối với
một nhà văn như ông. Và khi nhận được thi tập Vịn Vào Lục Bát, tôi
đã đọc ngay, đọc một mạch. Đọc rồi, đâu đó, vẳng lên tiếng thét,
sắc nhọn như mũi khoan xoáy thủng hồn người, xuyên thủng 143 trang
sách trước mặt. Và “Dường Như” là một bài thơ, hay là một câu hỏi tu
từ cho cả tập thơ, mà buộc tôi phải tìm lời giải đáp trong bài viết
này:
“Dường như tôi sắp quị
rồi
Nghe chăng
tiếng thét vỡ màng nhĩ tôi
Này em, em đừng
bỏ tôi
Này thơ, xin
đừng bỏ tôi một mình
Tôi cần thơ,
tôi cần mình
Sao mình cứ mở
mắt nhìn ở đâu…”
(Dường Như)
Với Trần Hoài Thư bao năm xa quê là bấy nhiêu năm thương
nhớ. Thân gửi nơi đất khách, hồn vẫn nơi quê nhà. Thật vậy, có lẽ,
chỉ những người xa quê, xa Tổ Quốc trên ba mươi năm, và đường trở về
mịt mù, xa vời vợi như chúng tôi đọc “Tiếng Mưa” mới thấu hiểu hết
nỗi lòng của Trần Hoài Thư. Mang theo một nỗi buồn thường trực, một
tiếng mưa rơi bất chợt trong đêm cũng làm nhà thơ thổn thức. Để rồi,
nghe giọt mưa rơi ấy, cứ ngỡ tiếng mưa nơi quê nhà:
“Ở đây đất lạ quê người
Mấy mươi năm
cũng một đời xứ xa
Ngày ở Mỹ đêm
quê nhà
Có khi thức
giấc, bên ngoài, trời mưa!
Buồn ơi lạnh
khép chăn thưa
Nghe như lời
vọng quê nhà: Tiếng mưa !!!”
Có thể nói, Vịn Mẹ, Vịn Cha chưa phải là hai bài thơ
hay nhất, nhưng nó lạ, và cảm động nhất trong thi tập này. Bởi, cái
nhìn từ ân và bi ân mang tính Phật Pháp về cha mẹ của tác giả. Và
nếu đặt hai bài thơ này ở cạnh nhau, ta mới thấy hết được tài năng
nghệ thuật đối cú và đối ý trong thơ của Trần Hoài Thư. Từ những
hình ảnh so sánh đó, cho ta thấy sự khác biệt khi biểu hiện tình cảm,
dưỡng dục của cha mẹ, cũng như cảm được cái điểm tựa đầu đời vô
cùng quan trọng. Và điều đó chắc chắn không chỉ ở riêng Trần Hoài
Thư:
“Lan can mẹ, mẹ khom lung
Để con được
vịn, khỏi cần nhón chân
Đứng bên mẹ, bé
vô cùng
Thấy như tay mẹ
sẵn sàng dẫn con…”
(Lan Can Mẹ)
“Lan can ba, ba
thẳng lung
Ba dạy con,
chân đạp bùn mà đi
Con nhón chân,
con đưa tay
Con vịn ba với
cái đầu
ngẩng lên !…”
(Lan Can Cha)
Nói, thể thơ chỉ là hình thức, tải đến người đọc
là những ngôn từ. Thơ hay hoặc dở, cũ hay mới, chẳng liên quan gì đến thể
loại. Thế nhưng viết về những người mẹ, người vợ, có lẽ không thể
thơ nào được sử dụng nhiều bằng lục bát. Và Trần Hoài Thư cũng
không nằm ngoài cái lẽ đó. Bài Vịn Em, được ông viết khi vợ bị đột
quỵ phải đưa vào nhà thương, nhà dưỡng bệnh. Với phép so sánh tu từ,
người vợ hiện lên như Chúa, như Phật trong lòng Trần Hoài Thư. Cái
đoạn trường khổ đau ấy, dường như vợ ông đã giành hết cho mình. Nó
như một sự khai sáng và giải thoát cái linh hồn nhà văn, người lính
trận Trần Hoài Thư vậy. Tôi nghĩ, đây là một trong những bài thơ hay,
chân thực và cảm động nhất trong tập lục bát này:
“Lòng em là cả
trăng rằm
Lòng tôi trăng
tối như nhằm ba mươi
May nhờ tôi
được dựa hơi
Nên lòng cũng
nhẹ, ít nhiều hồi tâm
…
Lời Phật em
tụng hằng đêm,
Nghe chừng như
thể em cầu cho tôi
Cho tôi, bớt
điếc bớt mù
Bớt sân si, bớt
dâm tà tham lam…
…
Em đi để nhận đoạn
trường
Xe lăn định mệnh,
chiếc giường nghiệp oan
Hay là em chuộc
dùm chồng
Như xưa Chúa đã
chuộc dùm thế gian?”
Trần Hoài Thư đã viết nhiều về tình bạn, tình đồng
đội trong văn xuôi của mình, nhưng quả thật đến tập thơ này, cái tình
bạn ấy, mới cho tôi đến đỉnh cảm xúc, khi đọc. Tình bạn được nhà
thơ hình tượng hóa một cách cụ thể. Và chiếc lan can kia đâu phải
chỉ là nơi những cánh tay vịn tựa nhau, mà còn là những sẻ chia vui
buồn. Tuy viết theo thể lục bát, nhưng từ ngữ trong thơ Trần Hoài Thư
mộc mạc, với những khẩu ngữ thường nhật. Đây cũng đặc điểm nổi bật
trong lục bát Trần Hoài Thư. Vịn Bạn là một bài thơ như vậy
của ông:
“Lan can bạn – vịn thân
tình
Để còn thấy
được cuộc đời dễ thương
Chai rượu quí
chắc phải buồn
Nếu không có
bạn, ai người cụng ly?”
Không rõ cái lịch sử tình bạn của các bác nghệ sĩ
miền Trung, xứ Huế như thế nào, nhưng trước đây đọc nhà văn Lữ Quỳnh
và lúc này đọc Trần Hoài Thư cùng viết về họa sĩ Đinh Cường, quả
thật tôi không kìm được cảm xúc của mình. Có thể nói, không chỉ có
Lữ Quỳnh, mà Trần Hoài Thư cũng vậy, ông đã dành hình ảnh, câu thơ
đẹp nhất để viết về người bạn quá cố. Dường như, nó khác hẳn cái
khẩu ngữ thường nhật khi ông viết về bạn bè khi còn bù khú bên nhau.
Vẫn sử dụng phép tu từ, với lối hoán dụ, bài thơ Còi Tàu Hụ Nhớ
Đinh Cường cho ta thấy rõ tài năng của Trần Hoài Thư không chỉ ở trong
lãnh vực văn xuôi:
“Kể từ bạn bỏ đi xa
Con tàu vẫn đến
nhà ga mỗi ngày
Còi tàu vẫn vút
lên mây
Cớ sao thưa bạn
hôm nay quá buồn!
Tàu ngừng, chở
tiếp hoàng hôn
Làm sao chở hết
nỗi buồn của tôi?”
Những quán hàng dân dã, với những căn nhà liêu xiêu
đầy mộng mị, nhưng là một phần ký ức quan trọng đối với Trần Hoài
Thư. Ký ức ấy, đã được ông hóa vào thơ, bằng chân dung bạn bè Khu
Sáu – Bình Định, thời bom rơi đạn nổ. Tuy buồn, nhưng những nét vô tư
vẫn hiện về. Có thể nói, Trần Hoài Thư luôn dành cho bạn những trang
thơ đẹp và trân trọng nhất, kể cả những người không đồng chí hướng.
Với Thái Ngọc San, không phải là bài thơ hay trong thi tập này, nhưng đã
cho người đọc hiểu thêm nhân cách sống Trần Hoài Thư:
“Từ ngày bạn bỏ hàng
quân
Có Khu Sáu mở
rộng lòng chở che
Ngày ngày thuốc
lá cà phê
Chẳng cần thắc
mắc mô tê bạn thù
Bạn chửi tôi
lính đánh thuê
Tôi giận quá
đập chai bia xuống bàn
Bạn hãnh diện
thắng miền Nam
Tôi hãnh diện
vì cháu con nên người…”
Không chỉ văn xuôi, mà cả những bài thơ viết về thời
chiến là những trang viết hay nhất của Trần Hoài Thư. Nếu Điếu Thu,
một bài thơ được cho là phá cách hay nhất được viết trong thời gian gần
đây, thì Nước Lên là bài thơ hay và đẹp nhất, viết trong một lần
hành quân tác chiến của ông. Cùng với thủ pháp nghệ thuật ngắt
nhịp, xuống dòng, đọc Nước Lên, tưởng như mình đang đứng trước một
bức tranh thủy mặc về hoàng hôn, mang mang nét hoài cổ vậy:
“Nước lên, trời
thổ mật vàng
Nửa lan mây núi
nửa tràn bãi song
Nước lên kéo
mặt trời gần
Khanh vàng lai
láng
một dòng vàng
khanh
…
Nước lên, bờ tả
đã mờ
Chỉ còn bờ hữu
nắng vàng níu chân
Nước lên trời
cũng tối dần
Quân qua bỏ lại
một dòng quạnh hiu”
Có thể nói, Vịn Vào Lục Bát là tập thơ buồn. Bởi,
nó là hiện thân của cuộc đời nhà văn người lính, tù nhân Trần Hoài
Thư. Nếu bác nào thần kinh yếu, không nên đọc tập thơ này, vì sẽ bị
ám ảnh, gây ra mộng mị, dẫn đến mất ngủ. Thật vậy, một loạt bài
Mục Tiêu Một, Mục Tiêu Hai….tuy viết đã lâu, và chiến tranh đi qua trên
bốn mươi năm, nhưng đọc lên vẫn thấy mới, làm nhức nhối lòng người:
“Bữa cơm đã dọn ra rồi
Người Ô-đô nói
ngậm ngùi bên tai:
“Hôm nay lại
thiếu thằng Tài
Em bới một chén
mời về ăn chung…”
…
Khẩu súng cắm
giữa gò bồi
Hai hàng quân
đứng ngậm ngùi tiễn đưa…”
(Mục tiêu 5)
Gấp cuốn Vịn Vào Lục Bát lại, và dường như có
tiếng vọng vẫn còn đọng lại trong tôi: “Trên nhành một lũ quạ đen/ Oác lời cho thảm điệu kèn điếu thu”
Nhưng tôi hoàn toàn không tin, đây là tiếng vọng lên cuối cùng của
Trần Hoài Thư. Bởi, tuy là điểm tựa cuối cùng, nhưng lục bát cũng
như tình yêu và nghị lực sống của ông còn nồng nàn, mãnh liệt lắm.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
ĐỖ TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành
phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email dongnguyenhn@yahoo.com
ngày 12.07.2018
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu
tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét