NGƯỜI VIỆT NAM NÀO LẤY ĐẤT
KAMPUCHIA KROM?
Nếu xét lại một cách sâu xa (trên vấn đề pháp lý) thì không
có người Việt Nam nào "lấy đất" của Kampuchia hết cả. Nam Kỳ lục tỉnh
được vua nhà Nguyễn ký nhượng cho Pháp vào các hiệp ước năm 1862 và 1874.
Người Khmer Krom
đòi Nam Bộ là “vô lý”
Nếu đất đó là « của » Kampuchia, thì đáng lẽ năm
1863, khi ký hiệp ước để nhận sự bảo hộ của Pháp, thì vua Miên phải lên tiếng
phản đối (hoặc bảo lưu) cho Pháp biết vùng đất đó là của mình. Sự im lặng của
Miên (qua các hành vi của nhà Nguyễn năm 1862 và 1874) là nhìn nhận đất đó
thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Mặt khác, nếu đất đó thuộc chủ quyền của Miên, sự
im lặng của triều đình Nam Vang, từ năm 1962 cho đến năm 1949, mặc nhiên được
hiểu là vương triều Cambodge đã từ bỏ chủ quyền (không điều kiện) ở vùng đất đó
cho Pháp.
Trong khi đó, các triều vua nhà Nguyễn tiếp nối
(cho đến Bảo Đại), cũng như tất cả các đảng phái chính trị Việt Nam, quốc gia
cũng như cộng sản, đều có chung mục đích đánh Pháp để dành độc lập và thống
nhất (ba kỳ) đất nước. Những yêu sách này đã thể hiện liên tục trong suốt lịch
sử Việt Nam thời cận đại.
Vì vậy Quốc hội Pháp quyết định trả Nam Kỳ lại
cho Bảo Đại (hậu duệ nhà Nguyễn), mà không trả cho Sihanouk, vào tháng 3 năm
1949 là điều hợp lý.
Phía Kampuchia đã nhiều lần nhìn nhận chủ quyền
của Việt Nam tại vùng đất Nam Kỳ, qua các yêu cầu đòi phân định lại biên giới,
với chính quyền thực dân Pháp, sau đó với các chính quyền của Việt Nam. Theo đó
toàn bộ vùng Khmer Krom thuộc về Việt Nam.
Điển hình nhất, bộ bản đồ Kampuchia (do sở Địa dư
Đông dương ấn hành năm 1953), được Sihanouk yêu cầu thế giới tôn trọng «lãnh
thổ của Kampuchia», thì theo đó toàn bộ các tỉnh Nam Kỳ cũng thuộc về Việt Nam.
Vì vậy, trên phương diệp pháp lý, phía Kampuchia
không có lý do nào để lên tiếng đặt lại yêu sách về lãnh thổ với Việt Nam.
Lãnh thổ Thái Lan hiện thời bao gồm ¾ lãnh thổ
của Khmer ngày xưa. Trên đất Thái Lan, cũng có đông đảo người Miên sinh sống,
(như một sắc dân Khmer Krom ở Việt Nam). Không thấy người Miên nào đòi lại đất
từ người Thái.
Những người nông dân thật thà chấc phác Kampuchia
đã bị các thế lực (chống Việt Nam) tuyên truyền nhằm xách động tinh thần dân
tộc.
Điều mà người ta không bao giờ quên là dân Khmer,
trong lịch sử, đã nhiều lần phát động tinh thần bài xích người Việt, đã tàn sát
người Việt (cáp duồn), trong khi phía người Việt thì chưa bao giờ làm các việc
dã man tương tự.
Theo Facebook Trương Nhân Tuấn
Người Khmer Krom đòi Nam Bộ là “vô lý
Trong khoảng thời gian gần đây, cộng đồng người
Khmer Krom tại Campuchia đã liên tục tổ chức nhiều cuộc biểu tình trước sứ quán
Việt Nam phản đối chính sách đất đai của Việt Nam.
Người Việt Nam nào
lấy đất Kampuchia Krom?
Nguyên do của những cuộc xuống đường này là phát
biểu của ông Trần Văn Thông, tham tán sứ quán Việt Nam tại Phnom Penh, nói
rằng miền đất Nam Bộ thuộc về Việt Nam từ lâu trước khi Pháp chuyển giao
lại cho Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 09/09/2014, ông
Thach Setha, Chủ tịch Cộng đồng Khmer Krom ở Campuchia, cho biết :
“Chúng tôi không đòi lại đất, mà chúng tôi muốn
gửi thông điệp tới chính phủ Việt Nam, yêu cầu họ phải tôn trọng chủ quyền của
chúng tôi, không được can thiệp vào công chuyện của chúng tôi.
Việt Nam không hiểu đúng về lịch sử của người
Khmer, hoặc là họ cố tình muốn quên lịch sử bằng cách tuyên bố rằng đất đai
Kampuchea Krom thuộc về Việt Nam từ lâu.
Đất đai Kampuchea Krom là của chúng tôi, và bị
người Pháp giao cho người Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu Việt Nam tôn trọng lịch
sử, tôn trọng chủ quyền của chúng tôi, công khai xin lỗi chúng tôi và không can
thiệp vào chính trị của các quốc gia khác”.
Với tất cả sự trân trọng và lòng kính mến, người
ta thực sự không hiểu ông Thach Setha muốn nói gì.
Yêu sách của Khmer Krom
“Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy chay
hàng hóa Việt Nam” Ông Thach Setha
Yêu sách của ông Thach Setha, một trong những
người lãnh đạo cuộc biểu tình đồng thời là một nhà hoạt động thuộc đảng Cứu
quốc của chính trị gia Sam Rainsy và cựu Thượng nghị sĩ trong Quốc hội
Campuchia, gồm ba vế: đất đai và chủ quyền ; lịch sử Kampuchea Krom và yêu cầu
không can thiệp vào chính trị của một quốc gia khác.
Cụ thể hơn, ông Thach Setha muốn “phía Việt Nam
chính thức công khai xin lỗi người Khmer Krom và công nhận lịch sử của chúng
tôi bằng văn bản” và yêu cầu : “không can thiệp vào việc nội bộ của các quốc
gia khác của khối ASEAN”.
Để làm áp lực, ông Thach Setha đe dọa:
“Nếu như không có phản hồi hay giải quyết gì từ
phía Việt Nam thì đầu tháng 10 này chúng tôi sẽ có biểu tình lớn để yêu cầu
chính phủ Campuchia tạm cắt đứt quan hệ với Việt Nam cho tới khi nào Việt Nam
thừa nhận lịch sử của chúng tôi. Chúng tôi cũng kêu gọi người Campuchia tẩy
chay hàng hóa Việt Nam”.
Thấy gì qua phát biểu này?
Những yêu sách của ông Thach Setha phần lớn dựa
trên tài liệu của Cộng đồng người Khmer Krom phổ biến trên mạng (https://vi-vn.KhmerKromNews), theo đó :
Về đất đai và chủ quyền, “Kampuchea Krom, nguyên
là một phần của Vương quốc Kampuchea ở phía đông, hiện nay nằm dưới sự quản lý
của chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”.
Về lịch sử Kampuchea Krom, “Kampuchea Krom bị
Thực dân Pháp cắt khỏi lãnh thổ Kampuchea và cho xác (!) nhập vào lãnh thổ Việt
Nam, chịu sự quản lý của chính quyền Việt Nam bằng văn bản số 49-733, ký ngày
04 tháng 6 năm 1949 ở Thành phố Toulon, Tỉnh Var, nước Pháp”.
Về danh xưng: “Vào thời đó, vùng đất Kampuchea
Krom được gọi là Kampuchea Ngập Nước hay Kampuchea Krom (Kampuchea Hạ), và còn
được gọi là Đồng bằng Châu thổ sông Mekong (Mekong Delta). Dưới thời Thực dân
Pháp quản lý Đông Dương (Indochina), vùng đất Kampuchea Krom được gọi là Basse
Cochinchine (Cô-săng-sin Hạ)”, với 68 965 km2.
Về dân số: “Nếu căn cứ vào số liệu thống kê dân
số theo từng địa phương của Mặt trân Giải phóng Kampuchea Krom tiến hành vào
năm 1968 thực hiện trên 21 tỉnh – thành của Kampuchea Krom và thực hiện phương
thức tính 20 năm thì cho đến tháng 1 năm 2005, dân số người Khmer ước khoảng 14
571 000 (Mười bốn triệu năm trăm bảy mươi mốt ngàn) người”.
Sự thật là thế nào?
Người Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch
sử và văn hóa để chứng minh chủ quyền của họ trên lãnh thổ miền Nam. Cách tiếp
cận này tuy hợp lý nhưng không đúng. Hợp lý vì những nhóm dân cư bản địa đầu
tiên trên vùng đất này là con cháu những người Khmer trốn chạy các cuộc vây bắt
nô lệ để xây dựng đền đài quanh khu vực Seam Reap và Battambang từ thế kỷ thứ 7
đến thế kỷ 14, và sau đó là những cuộc nội chiến hay tấn công của người Thái từ
thế kỷ 14 đến thế kỷ 18.
Nhưng không đúng vì các vương triều Khmer chưa
bao giờ làm chủ khu vực đồng bằng sông Cửu Long như thường tuyên bố.
“Có thể nói người Khmer chưa bao giờ làm chủ đồng
bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó“
Nhắc lại, đế quốc Angkor trong thời cực thịnh
nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, là một đế quốc lục địa. Các trung tâm chính
trị và tôn giáo được thiết lập :
- về phía tây, quanh khu vực phía bắc hồ Tonlé
Sap (Battambang, Siem Reap), sông Chao Phraya và lưu vực hai sông Menam và
Irrawaddy, mà những đền đại nổi tiếng là Angkor Wat và Angkor Thom được xếp vào
di dản nhân loại ;
- về phía đông, từ vùng trung lưu sông Mekong
(Kompong Cham) tới khu vực phía nam hồ Tonlé Sap (Biển Hồ), Longvek, Udong,
Kampong Cham và Banteay Prey Nokor (Gia Định). Sau khi đế quốc Angkor bị Xiêm
La xóa tên, năm 1439 vua Ponhea Yat bỏ chạy về Wat Phnom Daun Penh (Phnom Penh)
và thành lập kinh đô.
- Vùng phía nam (đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long), cho đến nay chưa tìm thấy dấu ấn cai trị của vuơng triều Khmer.
Những lý cớ chống Việt Nam
Lý cớ đầu tiên là đất đai. Tổ chức Khmer Krom
không ngừng tố cáo Việt Nam chiếm vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long của
người Khmer. Củng cố lý cớ này là sự hiện diện của khoảng 500 đền đài Khmer
trên khắp châu thổ. Đây là vấn đề rất được bàn cãi của những chuyên viên và
những nhà nghiên cứu lịch sử, vì sự thật không hẳn như vậy.
Về điểm này tưởng cũng nên nhắc lại một vài dữ
kiện địa lý-lịch sử. Cách đây hơn 300 năm, đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn là
một vùng sình lầy hoang dại, đầy muỗi mồng và rắn độc nên ít người dám đến
sinh cư lập nghiệp, trừ khi bị bắt buộc như những người trốn chạy những cuộc
ruồng bắt nô lệ thời đế quốc Angkor.
Những người này sống tập trung trên những vùng
đất cao để tránh lụt lội, gọi là giồng, và sinh sống bằng nghề làm rẫy. Không
có tư liệu nào trong Văn khố hoàng gia Khmer (Chroniques royales khmères) nhắc
đến sự triều cống của những nhóm dân cư sinh sống trên đồng bằng châu thổ sông
Cửu Long (Mekong).
“Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ
chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng và tổ chức chính trị bài Việt
Nam mạnh nhất là Đảng Sam Rainsy “
Trong thế kỷ 17, nội chiến và tranh chấp nội bộ
giữa các vương tôn buộc những phe tranh chấp tìm sự hỗ trợ của những thế lực
mạnh hơn để triệt hạ đối thủ hay để được bảo vệ. Đó là trường hợp của vua
Jayajettha II (1619-1627) kết nghĩa với chúa Nguyễn để được tiếp cứu khi bị
Xiêm La tấn công. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương quyền khai thác
lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua và vận chuyển thực phẩm
ra miền Trung. Sau nhiều lần đánh bật quân Xiêm ra khỏi lãnh thổ Chân Lạp trong
những năm 1622-1623, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong Trabei
không còn đặt ra nữa, vì vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên lãnh
thổ của mình.
Phải chờ đến năm 1679, khi hai vị tướng nhà Minh
là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên) cùng với hai phó tướng Hoàng Tiến và
Trần An Bình, với hơn 3.000 quân và 50 chiến thuyền, xin tị nạn và được chúa
Nguyễn cho vào khai thác những vùng đất hoang miền Đông Nam Bộ. Tại đây người
Minh Hương đã cùng những di dân Việt khẩn hoang, xây nhà, lập chợ, dựng đình.
Với thời gian, những khu đất mới này trở nên trù phú và thu hút đông đảo di dân
khác tới, kể cả người Khmer trong nội địa. Năm 1698, vùng đất Sài Gòn – Gia
Định, tức miền Tây Nam Bộ, chính thức được chúa Nguyễn xác lập chủ quyền.
Năm 1671, một quan nhân nhà Minh khác tên Mạc Cửu
cùng với 400 người đổ bộ lên vùng đất hoang vu trong vịnh Thái Lan và xin thần
phục vương triều Khmer. Năm 1681, vua Jayajettha IV cho Mạc Cửu khai thác vùng
đất dọc bờ biển phía nam Campuchia ngày nay, gọi là Căn Khẩu, nhằm ngăn chặn
những cuộc tấn công của hải tặc. Sau nhiều lần bị hải tặc Xiêm La đánh phá và
không được vua Khmer hỗ trợ, năm 1724 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn, vùng
đất Căn Khẩu đổi tên thành Long Hồ dinh, sau này là Hà Tiên. Con của Mạc Cửu là
Mạc Thiên Tứ đã tận tình giúp các vua Khmer đánh trả quân thù để bảo vệ ngôi
báu, sau mỗi chiến công các vua Khmer trao tặng đất đai để tưởng thưởng. Năm
1759, toàn bộ lãnh thổ đồng bằng sông Cửu Long chính thức được sát nhập vào
lành thổ nhà Nguyễn.
Những giải thích dài dòng này để nói lên một sự
thật các triều vương Khmer không hề quan tâm đến vùng đất sình lầy đồng bằng
châu thổ sông Cửu Long, khi có cơ hội là sẵn sàng trao tặng cho những người đã
giúp họ giữ được ngôi báu. Dựa vào yếu tố này, có thể nói người Khmer chưa bao
giờ làm chủ đồng bằng châu thổ sông Cửu Long mặc dù đã hiện diện trước đó.
Lý cớ thứ hai là pháp lý. Dưới thời bảo hộ Pháp
(1863-1953), các vị vua Khmer đã nhiều lần yêu cầu hay van nài Pháp giao lại
lãnh thổ Nam Kỳ cho Hoàng gia Khmer (thư vua Ang Duong gởi cho hoàng đế
Napoléon III ngày 25/11/1856, cuộc gặp mặt giữa vua Norodom (cha) và Toàn quyền
Đông Dương, tướng de La Grandière, năm 1864). Nhưng người Pháp từ chối bởi một
lý do giản dị là chính nhà Nguyễn đã giao phần đất này cho Pháp năm 1862 và sau
đó năm 1874 chứ không phải các vua Khmer, hơn nữa khi ký Hiệp ước bảo hộ vương
quốc Cambốt năm 1863, hoàng gia Khmer không hề đề cập tới phần lãnh thổ phía
nam, mà người Pháp gọi là Cochinchine (miền Nam Việt Nam).
Văn bản pháp lý nào?
Tài liệu chủ quyền pháp lý mà Tổ chức Khmer Krom
dựa vào là “Luật số 49-733 ban hành ngày 04/06/1949 về việc thay đổi quy chế
vùng đất Nam Kỳ (Cochinchine) trong Liên hiệp Pháp (Union française)”, theo đó
lãnh thổ Nam Kỳ được sát nhập vào lãnh thổ Liên hiệp Việt Nam và không còn là
lãnh thổ hải ngoại thuộc Pháp.
Qua luật này, tổ chức Khmer Krom trách Pháp đã
không trao trả Nam Kỳ cho vua Khmer, do đó mỗi năm cứ đến ngày 04/06 họ tổ chức
xuống đường biểu tình đòi Việt Nam trả lại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long cho
Campuchia. Tất cả mọi phương tiện đều được áp dụng, kể cả bạo loạn, trong mục
đích tuyên truyền rằng “chính quyền Việt Nam đàn áp sư sãi và tôn giáo”.
Để gây hận thù dân tộc, tổ chức Khmer Krom còn
dựng đứng những tội ác “ghê rợn” của các chính quyền Việt Nam để tố cáo trước
dư luận thế giới như : thiêu sống 10.000 người Khmer năm 1945, giết rồi thả
hàng ngàn xác người Khmer trôi sông từ 1976 đến 1979, tàn sát hàng ngàn người
Khmer tại Trà Vinh và Vĩnh Long từ 1980 đến 1990.. với hy vọng được thế giới hỗ
trợ và làm áp lực với Việt Nam trả lại miền Nam cho họ.
Lý cớ thứ ba là chính trị. Quan sát kỹ, những
cuộc biểu tình chống Việt Nam chỉ mạnh lên trước những cuộc bầu cử Quốc hội.
Bài Việt Nam có lẽ là mẫu số chung để các tổ chức chính trị tranh thủ sự ủng hộ
của quần chúng. Hiện nay, tổ chức chính trị bài Việt Nam mạnh nhất là Đảng Sam
Rainsy do ông Sam Rainsy lãnh đạo. Sam Rainsy hiện nay là đối thủ chính trị
chính của đương kim Thủ tướng Hun Sen.
Cho đến một ngày gần đây, dưới sự kích động của
đảng Sam Rainsy, chống Việt Nam hiện nay không còn là một chiêu bài tranh cử
nữa mà là một chính sách kỳ thị chủng tộc rõ ràng. Để tránh bị mang tiếng thân
Việt Nam, nghĩa là chư hầu, Đảng Nhân dân Campuchia của đương kim Thủ tướng Hun
Sen còn đi xa hơn khi ban hành những luật lệ siết chặt nhập cư, hạn chế sự đi
lại của người Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia và trục xuất những người Việt
nhập cư bất hợp pháp. Một cách tiệm tiến, chủ nghĩa dân tộc cực đoan của người
Kher đang hình thành mà đối tượng là cộng đồng người Việt sinh sống trên lãnh
thổ Campuchia, an ninh của họ đang bị đe dọa.
Thêm vào đó, lãnh tụ đảng Sam Rainsy còn khơi
động sự thù hận giữa Việt Nam và Trung Quốc bằng cách đề cao những hành vi ức
hiếp Việt Nam của Trung Quốc trên Biển Đông và dành cho người Trung Quốc những
ưu đãi về đầu tư cũng như về kinh tế tài chính để loại thương nhân Việt Nam ra
khỏi thị trường Campuchia, hay đưa xuống hàng thứ yếu, nghĩa là phải dưới người
Khmer
Tại sao đi đến tình trạng này?
Có nhiều lý giải, nhưng giải thích chính vẫn là
các dân tộc Đông Dương là nạn nhân của chính sách chia để trị của người Pháp
trong suốt thời gian đô hộ và bảo hộ.
Chế độ thực dân Pháp là thủ phạm kích thích sự
thù ghét người Việt Nam của những dân tộc khác. Đọc lại những tài liệu và sử
sách viết về người Việt Nam, không một tác giả người Pháp nào không nói Việt
Nam là một dân tộc bành trướng, lịch sử Việt Nam là lịch sử thôn tính những dân
tộc yếu kém hơn. Họ viện dẫn kinh nghiệm mất đất và mất văn hóa của người Chăm,
người Khmer Nam Bộ, người Thượng trên Tây Nguyên…
Dưới thời Pháp thuộc, Đông Dương bị chia thành 5
vùng, trong đó Việt Nam bị cắt ra làm ba miền (Bắc Trung Nam) để hạn chế người
miền này tiếp xúc với người miền kia, và họ đã phần nào thành công. Sau khi
Pháp rời khỏi Việt Nam, sự hợp tác giữa các dân tộc Đông Dương đã rất khó khăn
và phải trải qua nhiều cuộc chiến đẫm máu để giải quyết sự thống nhất. Vấn đề
tồn đọng còn lại là xây dựng niềm tin giữa các dân tộc và giữa người Việt Nam
với nhau.
Nếu chịu khó quan sát, tâm lý bài Việt Nam thường
xuất phát từ những cấp lãnh đạo hay trí thức do Pháp đào tạo : Sihanouk, Pol
Pot, Sam Rainsy, Sarin Chhak…
Đầu tàu của chính sách bài Việt là quốc vương
Norodom Sihanouk, đứa con tinh thần của chế độ thực dân Pháp. Từ lúc còn tấm bé
ông đã được người Pháp nuôi dưỡng và đã hấp thụ tất cả những gì mà người Pháp
muốn truyền bá : chống Việt Nam. Trong suốt thời gian trị vì, không hiểu vì lý
do gì nhà vua Sihanouk đã liên tục chống phá trực tiếp hay gián tiếp các chính
quyền miền Nam Việt Nam, và chính quyền cộng sản Việt Nam sau 1975. Nhà vua sẵn
sàng liên minh hay ủng hộ với mọi phe phái, kể cả Khmer Đỏ, để chống Việt Nam.
Sihanouk còn đào tạo ra được một thế hệ bài Việt
tiếp nối, đặc biệt là Sarin Chhak, tác giả “Những vùng biên giới của Cambodge”
năm 1965. Dựa theo tài liệu này, đầu năm 1967, Sihanouk chính thức công bố khu
vực biên giới Campuchia-Việt Nam, theo đó tỉnh Đắc Lắc, toàn khu hữu ngạn sông
Bé đến Thủ Dầu Một, toàn bộ tỉnh Tây Ninh và Long An và vùng đất phía tây thị
xã Hà Tiên thuộc Campuchia. Những phe nhóm Khmer chống Việt Nam khác cũng đã sử
dụng bản đồ này để tố cáo chính quyền Hun Sen ký những hiệp định về vùng nước
lịch sử ký với Việt Nam năm 1982 và hiệp ước biên giới đất liền tháng 10/1985
bất lợi cho nhân dân Campuchia.
Nội dung những văn bản bản này thật ra không khác
gì với những văn bản đã ký với Pháp trước đó: vùng biên giới đất liền ghi lại
tỉ mỉ hơn làn ranh đã có dưới thời Pháp thuộc; trên biển hai bên giữ nguyên làn
ranh Brévié đã có từ năm 1939. Thật ra vấn đề không phải được hay mất đất và
biển mà chỉ giản dị là tâm lý bài Việt Nam đang lên cao trong sinh hoạt của
những tổ chức chính trị đối lập với chính quyền Hun Sen. Cũng nên lưu ý trong
những văn bản này, Điều cuối cùng ghi: “Trong trường hợp có sự giải thích khác
nhau, văn bản tiếng Pháp được lấy làm căn cứ”.
Giải thích thứ hai là sự trù phú của đồng bằng
châu thổ sông Cửu Long. Nếu đồng bằng này là một vùng đất nghèo nàn như dãy
Cardamones phía tây, chắc không người Khmer nào muốn đòi lại. Ước muốn sở hữu
vùng đất trù phú là lẽ thường tình của người đời, nhưng sự phát triển và giàu
có của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long không phải tự nhiên mà có. Đó là công
lao của người Minh Hương và di dân Việt Nam từ cuối thế kỷ 17 đến nay. Trong
suốt thời gian đó, cộng đồng người Khmer vui hưởng cuộc sống bình yên, những chùa
chiền lớn, “wat” theo văn hóa Xiêm La. Trong những sinh hoạt khác, cộng đồng
người Khmer đứng bên lề những tranh chấp và sinh hoạt chính trị.
“Chính người Thái đã tiêu diệt các triều vương
Angkor“
Có một điều khó hiểu là dân số người Khmer sinh
sống tại Việt Nam hiện nay khoảng 1,4 triệu người (2011), nhưng tài liệu của
Khmer Krom cho biết là trên 14 triệu người (2005), nghĩa là gấp 10 lần và ngang
bằng tổng dân số Campuchia (15,14 triệu người năm 2013). Thật ra dựa vào yếu tố
lịch sử để đòi lại đất chỉ là lý cớ, sự giàu có của đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long mới là động cơ chính. Tổ chức Khmer Krom không phải là người trồng cây ăn
trái nhưng muốn thu tóm mọi hoa lợi vào tay mình, chỉ giản dị là vậy.
Giải thích thứ ba là yếu tố văn hóa. Tại sao
người Khmer dễ ghét người Việt Nam hơn người Thái, mặc dù tất cả những tai họa
chính của dân tộc Khmer đều do người Thái gây ra? Chính người Thái đã tiêu diệt
các triều vương Angkor. Chính sách cai trị của người Thái chắc chắn phải rất
hung bạo để ký ức về triều đại Angkor bị xóa hẳn trong tâm trí người Khmer
trong suốt hơn 400 năm (1431-1861).
Chính người Thái đã góp phần làm hao kiệt di sản
văn hóa của người Khmer, phần lớn những di tích của nền văn minh Angkor được
giới buôn lậu đưa qua Thái bán. Cho tới một ngày gần đây, người Thái còn muốn
chiếm di tích Preah Vihear của người Khmer. Trong Thế chiến II, quân Pháp đã
rất phải cực nhọc mới xua đuổi quân Thái ra khỏi Battambang và Seam Reap. Cũng
chính người Thái đã cho Khmer Đỏ lập căn cứ trên lãnh thổ của mình để chống lại
chính quyền Phnom Penh từ 1979 đến 1989. Có điều lạ là không người Khmer nào tỏ
ra thù ghét người Thái.
Với người Việt Nam thì ngược lại, làm ơn đôi khi
còn mang họa. Mỗi khi bị đe dọa, người Khmer nhờ cậy người Việt Nam vào giúp
đỡ. Khi kẻ thù bị đánh đuổi ra khỏi lãnh thổ, những người mang ơn thường quay
ngược khí giới chống lại Việt Nam. Có cái gì không bình thường trong cách cư xử
này.
Có lẽ người Khmer thuộc văn hóa Ấn Độ nên chỉ
thích giao lưu với người cùng văn hóa (cũng như Việt Nam với Trung Quốc), Việt
Nam thuộc văn hóa Trung Hoa nên rất khó hiểu nhau và hợp tác. Nắm được lý giải
này mới hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam đã bỏ mạng để bảo vệ người Khmer,
nhưng công lao này thường hay quên lãng và đôi khi còn bị hiểu lầm. Khi rút
quân khỏi Campuchia, hài cốt nhưng người lính Việt Nam đều được mang về nước vì
sợ bị phá hoại. Hành trình thông cảm lẫn nhau có lẽ còn khá dài.
Nhưng cho dù có thế nào đi nữa, hai dân tộc
Campuchia và Việt Nam buộc phải đi với nhau suốt đoạn đường dài còn lại. Không
quốc gia nào chọn láng giềng, chúng ta phải tìm cách sống chung với nhau trong
khôn ngoan và hòa bình. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bài Việt Nam
có thể thỏa mãn kết quả của những cuộc tranh cử nhưng chỉ mang lại tiêu cực và
không giải quyết được quan hệ giữa hai dân tộc.
Người ta chỉ gặt những gì được gieo trồng, do đó
phải cẩn thận. Giải pháp hay nhất để hóa giải tâm lý hận thù là tìm cách đối
thoại với nhau trong tinh thần tương kính, và nhất là tránh không bị chi phối
bởi những định kiến.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
Mời nghe nhạc phẩm HOA CỎ MÙA XUÂN
của Bảo Chấn, qua tiếng hát Mỹ Linh:
NGUYỄN VĂN HUY
Định cư: Thủ đô
Paris, Cộng hòa Pháp.
Email: (đang cập nhật)
Điện thoại: (đang cập
nhật)
.............................................................................................
- Cập nhật từ email quanboyman1992@yahoo.com.vn ngày 11.09.2023.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét