THĂNG
LONG LƯỢC PHONG THỦY KÍ
(Tác giả Phạm Lưu Vũ) |
Gọi là long mạch được chia ra thân (can
long), cành (chi long), nhánh (cước long), ngoặt (bàng long)... Lớn thì gọi là
đại can long, đại chi long, nhỏ thì gọi là tiểu can long, tiểu chi long... Long
mạch được tạo nên do sự vận hành của Âm Dương, Thiên Địa, Ngũ hành, Can Chi,
bát Quái... con người chỉ có thể vận dụng, không can thiệp vào được, cho dù có
sử dụng hàng vạn tấn TNT hay thậm chí bom nguyên tử... Đó chính là một bộ nhớ
vĩ đại, ghi chép những chu kì lặp lại của Không - Thời gian trong tổng thể cái
gọi là quá khứ, vị lai... của vũ trụ. Sách “Địa giải Huyền thư” nêu rằng nằm
trên đại can long thì có thể hình thành kinh sư (nơi đóng đô), chi long có thể
lập nên thành, phủ, đô thị (tỉnh), cước long có thể lập nên trấn, xứ (huyện,
xã)... Có long mạch, lại phải có ít nhất một đại can long hình thế khúc chiết,
vững vàng thì mới được coi là đất đế vương. Đó là một trong những yếu tố tiên
quyết để có thể lập quốc, hình thành một quốc gia. Trung Quốc rộng lớn có ba
đại can long, hình thành bởi ba con sông là Trường Giang, Hoàng Hà và Áp Lục
Giang. Nước ta cũng có một số đại can long. Trong đó sông Hồng chính là một
trong những ranh giới giữa hai đại can long nước Việt từ xưa tới nay vậy.
Khoa học về long mạch xem xét sự vận hành
của khí tương quan với địa hình, phương vị, các chòm sao... nên xem Trời là
tĩnh mà Đất thì động. Đó là một kiệt tác quan sát của người xưa. Chỉ riêng một
môn này thôi, cũng đủ thấy trí tuệ phương Đông xưa vĩ đại đến nhường nào. Long
mạch tạo nên sự vận hành của “khí”. Có chỗ bế (tắc), chỗ khai (mở), có nơi phát
tán, có nơi ngưng tụ, có khi hung, khi cát... biến ảo tuỳ thời. Tất cả đều
không thể xem thường. Đời Nguyên có Liêu Kim Tinh vốn là người nghèo rách, tầm thường.
Nhờ học được sách phong thuỷ của Ngô Cảnh Loan đời Tống mà tìm được một nơi đắc
địa, có thể phất lên nhanh chóng. Song chỗ đất ấy nếu ở quá hai mươi năm mà không
tu tạo thì sẽ bị tuyệt tự. Liêu Công bèn dọn nhà đến đó ở. Quả nhiên vài năm
sau trở thành một phú hộ giàu có nhất vùng, tiếng tăm vang dội thiên hạ. Bấy
giờ, trong nước có họ Trương là một bậc quyền thế nghe tiếng liền đón Liêu về
để nhờ xem đất. Trong vòng hơn chục năm, Liêu tìm cho họ Trương được bẩy mươi
tư chỗ đất có kết huyệt tốt. Vậy mà họ Trương vẫn chưa thỏa lòng tham. Đến khi
thấy thời hạn hai mươi năm gần hết, Liêu ngỏ ý xin về để tu tạo mồ mả thì họ
Trương cố giữ lại thêm mấy năm nữa. Kết quả khi Liêu trở về nhà thì con cháu đã
bị nạn chết sạch, chỉ còn bà vợ già và đứa cháu ngoại. Liêu Công từ đó đau
buồn, sinh bệnh rồi mấy năm sau cũng mất nốt. Chuyện từ xưa mà buồn đến tận bây
giờ.
Cách đây xấp xỉ một nghìn năm, Lý Công
Uẩn, ông vua khai sáng triều Lý đã nhìn thấy ở thành Đại La, đô cũ của Cao
Vương (Cao Biền) nằm trên đại can long sông Hồng là một nơi có long mạch lý
tưởng: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan
yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời...” (Chiếu
dời đô - Lý Công Uẩn). Càng đắc địa hơn vì trước khi chảy đến đất này, sông
Hồng đã bao lần ngoằn ngoèo, uốn khúc để thải bớt khí hung. Đến đây vừa đủ để
lập nên một vùng cát địa, có long mạch đạt tầm cỡ thượng đô kinh sư. Thế mà
trước khi chảy ra với biển, dòng sông vẫn còn muốn ngoái lại, lưu luyến như
tiếc nuối điều gì... Rồi cũng từ đại can long Hồng Hà vĩ đại ấy, tỏa ra các chi
long, cước long... vây bọc, tạo nên bức gấm thêu giữa một vùng trời nước. Cũng
cần phải nói rằng Thăng Long (thành Đại La cũ) là một vùng đất ngưỡng diện
(ngửa mặt lên trời), sách xưa gọi là thế Dương lai Âm thụ (khí dương phủ xuống,
khí âm ngẩng lên đón). Đất này nhược (mềm mỏng), khí ngưng kết ở bên trên mà
tiêu tán ở bên dưới. Địa huyệt kết ở nơi cao nhất, chính là khu vực có tên gọi
núi Nùng ngày trước. Long mạch này không nộn (non), song cũng chưa phải lão
(già), tuy “cát” đấy nhưng chưa hẳn đã hết khí “hung”. Thăng Long ngược lại với
nơi Lý Công Uẩn lên ngôi là kinh đô Hoa Lư trước đó. Nơi ấy có long mạch gọi là
thế Âm lai Dương thụ. Đó là thế đất cường (cương mãnh), khí tiêu tán ở bên trên
mà ngưng tụ ở bên dưới. Thiên huyệt kết ở chỗ thấp nhất. Long mạch Hoa Lư lợi
cho phòng thủ, chiến tranh, có thể lập nghiệp đấy nhưng phúc trạch không dài.
Hai triều vua trước (Đinh, Tiền Lê), mặc dù triều nào cũng có võ công hiển
hách. Nhưng không triều nào dài quá ba chục năm. Đó chính là một trong những lý
do chủ yếu để Lý Thái Tổ, vị vua có tầm nhìn xa trông rộng phải tìm đến Thăng
Long? Và long mạch của chốn này quả đã không phụ lòng vị vua ấy khi mà nhà Lý
dời đô thì lập tức tồn tại hơn hai trăm năm. Không những thế, các triều đại sau
(Trần, Hậu Lê...), vẫn đóng đô trên đất ấy cũng được hưởng phúc, kéo dài không
kém. Tuy nhiên, khác với Hoa Lư, Thăng Long là nơi trống trải bốn mặt, giặc có
thể xâm lấn bất cứ chỗ nào. Lịch sử từng chứng kiến Thăng Long bao lần bị tàn
phá, vua quan phải bồng bế nhau chạy ra ngoài. Kể cả người Chiêm Thành, bao
nhiêu đời bị coi là nhược tiểu, vậy mà cũng mấy phen đem quân ra cướp phá tận
Kinh sư.
Long mạch để phúc trạch cho con người
không phải là không có điều kiện, càng không phải thiên thu. Câu chuyện của
Liêu Công trên đây là một ví dụ. Phải là người có đức mới ở được chốn đất
thiêng. Đức càng kiên cố thì vận càng dài, đến khi nào đức cạn thì vận cũng
tuyệt theo. Thăng Long chính là một nơi như thế. Hình như có một “giới hạn” đã
định sẵn cho những “nhà” nào ngự trên long mạch ấy. Xin mạn phép có một cuộc
đại thể đối với những triều đại từng định đô ở chốn này như sau:
Hoàng Đế Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về
Thăng Long. Việc đầu tiên, đáng lẽ phải lập tông miếu, xã tắc... thì Ngài lại
cho dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức (trước là châu Cổ Pháp thuộc Bắc
Giang) - quê Ngài. Các nhà chép sử đời sau sở dĩ đem điều đó ra trách Ngài vì
hình như không hiểu được thâm ý của Ngài. Tại sao Ngài lại dựng đúng tám ngôi
chùa? Có phải Ngài muốn chuẩn bị sẵn chốn về cho vong linh mình và con cháu sau
này? Nghĩa là Ngài đã biết trước và hiểu rõ những bí mật về long mạch của đất
Kinh Sư mới mà Ngài vừa chọn? Con số tám huyền bí ấy về sau như là cái giới hạn
khó vượt qua đối với tất cả những chủ nhân của long mạch ấy. Nhà Lý do Ngài lập
nên ngự trên đất Thăng Long hơn hai trăm năm (1010-1225). Tính từ Ngài (Lý Thái
Tổ) đến Lý Huệ Tông, quả vừa đúng tám đời thì đức suy, cũng là lúc vận tuyệt,
vạ từ trong nhà sinh ra, cơ nghiệp lọt hết vào tay người khác.
Nhà Trần giành cơ nghiệp từ tay nhà Lý,
tồn tại được hơn một trăm bẩy mươi năm (1226-1399). Làm chủ Thăng Long bao gồm
mười hai vị vua. Nhưng nếu tính từ đời thứ nhất là Thái Tông (Trần Cảnh) đến
đời cuối cùng là Thiếu Đế (Trần An), thì thực chất cũng vừa đúng tám đời. Bởi
có tới bốn vị vua là Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông và Duệ Tông đều cùng đời thứ
sáu (cùng là con Trần Minh Tông), hai vị: Phế Đế (con Duệ Tông) và Thuận Tông
(con Nghệ Tông) là con chú con bác, đều cùng đời thứ bẩy. Cuối cùng, Thiếu Đế
(con Thuận Tông) là đời thứ tám. Để cho rõ, xin hình dung theo sơ đồ sau:
Đời thứ nhất:.................................Trần Thái Tông.
Đời thứ hai:...................................Trần Thánh Tông.
Đời thứ ba:....................................Trần Nhân Tông.
Đời thứ tư:....................................Trần Anh Tông.
Đời thứ năm:.................................Trần
Minh Tông.
Đời thứ sáu:...................................Trần Hiến Tông -
Trần Dụ Tông - Trần Nghệ Tông - Trần Duệ
Tông.
Đời thứ bẩy:................................. Phế Đế - Trần Thuận Tông.
Đời thứ tám:...................................Thiếu Đế.
Nếu tính theo đời vua thì từ Trần Thái
Tông đến Trần Nghệ Tông - đúng vị vua thứ tám thì hết phúc, bấy giờ đức đã
nghiêng ngả lắm rồi. Mấy đời sau thực chất chỉ còn hư danh, bởi thời vận đã đến
hồi kết thúc, cơ đồ xuống dốc không phanh. Rốt cuộc vạ cũng từ trong nhà sinh
ra, con cháu bị giết, cơ nghiệp về tay kẻ ngoại thích là Hồ Quý Ly.
Hai vị vua thời Hậu Trần (Giản Định Đế và
Trùng Quang Đế) chẳng qua chỉ là vớt vát, vả lại cũng đã lưu lạc ra khỏi kinh
thành, không còn liên quan đến long mạch Thăng Long nữa rồi.
Hồ Quý Ly cướp được ngôi nhà Trần nhưng
phúc ngắn, đức mỏng, chỉ giữ được trong khoảng tám năm (1400-1407), cuối cùng
cả hai cha con lẫn triều thần đều bị quân Minh bắt.
Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, lập nên triều
đại Hậu Lê (Lê Sơ). Triều Hậu Lê làm chủ nhân của Thăng Long chín mươi chín năm
(1428-1527), bao gồm mười vị vua. Song tính theo đời thì chỉ có bẩy đời. Đó là
một triều đại hiển hách nhưng đầu voi đuôi chuột (các vua càng về sau càng ngắn
ngủi, chết non, chính sự càng ngày càng nát). Trong đó có ba vị là Túc Tông, Uy
Mục Đế, Tương Dực Đế cùng đời thứ sáu, hai vị cuối cùng là Chiêu Tông và Cung
Hoàng cùng đời thứ bẩy. Cả hai vị này (Chiêu Tông và Cung Hoàng) đều bị giết
bởi Mạc Đăng Dung. Tại sao trước đó, Lý Công Uẩn (triều Lý), Trần Cảnh (triều
Trần) và con cháu của hai vị ấy đều được ngự trên đất này tám đời, mà đến lượt
Lê Lợi (triều Lê Sơ) thì con cháu chỉ được hưởng mệnh đế vương đến đời thử bẩy?
Giật mình nhớ lại lời nguyền trước khi bị giết ở ải Cổ Lộng của Trần Cảo, vị
vua do chính Lê Lợi lập nên và có thuyết nói rằng cũng do chính Lê Lợi sai
người giết. Có phải con cháu Lê Lợi đã phải trả nợ bớt một đời (đế vương) cho
Trần Cảo?
Lại nghe một cuốn gia phả có đưa ra một
giả thuyết khác. Rằng Lê Lợi và con cháu không phải đã trả nợ cho Trần Cảo, mà
là trả cho Lê Lai, người đã liều mình cứu Chúa (là Lê Lợi). Lê Lai về sau bị
giết tại chân thành Đông Quan (Thăng Long), đơn giản vì (Lê Lợi) không thể (và
không muốn) thực hiện lời hứa chia đôi thiên hạ ngày trước(?). Gia phả ấy còn
chép rằng khi giết Lê Lai, chính Lê Lợi đã tự làm giảm mất một đời (là đế
vương) của con cháu mình. Nếu vậy thì đời còn thiếu kia của triều Lê Sơ trên
long mạch Thăng Long, phải chăng đã được tính vào Lê Lai, kẻ bị giết oan vì
(trót) có công lớn (là cứu Chúa) ấy? Tính vào chỗ nào? Lê Lợi có thể quên, các
nhà chép sử (thời Lê) có thể quên. Nhưng nhân dân thì không quên điều ấy. Dân
gian có câu: “hai mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” nói về ngày giỗ của hai
vị. Dù thế nào đi nữa, thì nếu không có Lê Lai, sẽ không có Lê Lợi. Cho nên Lê
Lai phải được hưởng cúng trước, giỗ trước, tương đương với việc xem Lê Lai
là... đời trước của Lê Lợi. Nghĩa là long mạch đã tính cho triều Lê Sơ phải bắt
đầu từ Lê Lai (rồi mới đến Lê Lợi...). Thế là trước sau vẫn đủ... tám đời. Nếu
quả như vậy thì cái long mạch kia xem ra vừa nghiêm khắc, lại vừa... công bằng.
Từ đó cũng xin tạm đưa ra sơ đồ sau đối với triều Lê Sơ:
Đời thứ nhất:....................................Trần Cảo (hoặc Lê
Lai)??.
Đời thứ hai:......................................Lê Thái Tổ.
Đời thứ ba:.......................................Lê Thái Tông.
Đời thứ tư:........................................Lê Nhân Tông.
Đời thứ năm:.......................................Lê Thánh Tông.
Đời thứ sáu:.......................................Lê Hiến Tông.
Đời thứ bẩy:.......................................Lê Túc Tông.
- Uy Mục Đế - Tương Dực Đế.
Đời thứ tám:.......................................Lê Chiêu Tông -
Cung Hoàng Đế.
Người viết sở dĩ không tính triều Lê Trung
Hưng sau này vào đây bởi các vị vua triều Lê Trung Hưng ngự ở Thăng Long thực
chất không phải con cháu của chính Lê Lợi, vả lại cũng đã xiêu giạt rất lâu mới
trở lại kinh thành, mà thực ra có trở lại thì cũng chỉ làm hư vị (như sau đây
sẽ nói) mà thôi.
Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc, chiếm giữ
Thăng Long sáu mươi lăm năm (1527-1592), trải năm đời. Nhưng long mạch ghê gớm
này không phải nơi mà đức của họ Mạc có thể giữ được lâu dài. Mạc Đăng Dung về
xây kinh đô ở Cổ Trai (gọi là Dương Kinh thuộc Hải Dương), tiếng là để làm
thanh viện cho Thăng Long, song thực chất là ngại chính cái long mạch ở đó. Mà
chẳng riêng gì Mạc Đăng Dung. Đời sau cũng có khối anh hùng từng ngại cái long
mạch đó mà cũng phải tìm nơi khác để lập đô. Bản thân con cháu Mạc Đăng Dung,
trừ thời Mạc Đăng Doanh huy hoàng nhưng ngắn ngủi (trong khoảng mười năm), còn
lại luôn luôn phải chạy giạt ra ngoài, thậm chí nhiều phen phải dựng hành cung
ở ngoại thành, không dám vào ở trong nội cung. Triều Mạc rốt cuộc còn xa mới
đạt tới cái giới hạn tám đời mà cách đó hơn năm trăm năm, Lý Thái Tổ trước khi
dời đô đã xem xét long mạch mà tiên định trước.
Triều Lê Trung Hưng (Lê mạt) kế tiếp nhà
Mạc. Song thực ra chỉ có hư vị, Thăng Long nằm trong tay chủ nhân đích thực là
các Chúa Trịnh. Nhà Chúa kể từ khi Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm nổi lên đã
có lời “sấm”: “phi bá, phi đế, quyền khuynh thiên hạ, truyền được tám đời,
trong nhà dấy vạ”. Lại đúng tám đời thì nhà Chúa phúc hết, vận tan...
Lịch sử đã đành không thiếu gì những sự
trùng hợp lý thú. Song tác động ghê gớm của long mạch là một điều hoàn toàn có
thật, từ xưa tới nay, không ai có thể xem thường. Đó chính là mối quan hệ nhân
quả giữa quá khứ - hiện tại và tương lai... điều mà chính khoa học đang cố
chứng minh và ngày càng tiến gần tới... cổ xưa. Kiến thức về long mạch của
người xưa quả đã từng đạt tới những đỉnh cao kì vĩ. Tiếc rằng vì nhiều lí do,
kiến thức ấy ngày nay hầu như đã bị thất truyền. Tuy nhiên, những tri thức của
tiền nhân dù phong phú, kì bí đến mấy, thì tất cả đều được xây dựng trên một
nền tảng là đạo lý làm người. Chỉ hy vọng rằng cái nền tảng ấy đừng bao giờ đổ
nát, thì sự thất truyền chẳng qua chỉ là vận hạn, tạm thời. Nếu được như thế
thì sẽ đến lúc, những tri thức ấy sẽ trở lại, sẽ tồn tại cùng với muôn đời con
cháu chúng ta sau này.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết về
khoa Phong Thủy0
- Các bài viết về
khoa Tướng thuật0
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
NHỮNG TIÊN TRI CHÍNH XÁC CỦA DANH NHÂN VIỆT NAM:
PHẠM LƯU VŨ
Địa chỉ: Thanh Hải, Thanh Liêm, Hà Nam.
Điện thoại: 37 221 9775
.............................................................................................................
- Cập nhật theo email
nguyenvan12322123@gmail.com ngày 9.3.2024.
- Ảnh minh họa cho bài viết được sưu tầm
từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét