BẠN ĐỌC CẢM NHẬN VỀ MỘT
SỐ
TÁC PHẨM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
gồm những bài viết sau:
1. ĐỌC SÁCH: “MƯU
LƯỢC GIÀNH CHIẾN THẮNG”
2. “DOANH NGHIỆP VỚI
THỊ TRƯỜNG” - MỘT CUỐN SÁCH ĐÁNG ĐỌC!
3. ĐỌC THƠ ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
4. KHỐI TÌNH LẬN ĐẬN
CỦA CHÀNG TRAI TRONG THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
5. GÃ KHỜ HAY THẰNG
NGỐC VIỆT NAM CÒN SÓT LẠI Ở ĐẦU THẾ KỶ 21 NÀY?
6. “CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ
- TRUYỆN NGẮN ĐẦY ẮP TÍNH NHÂN VĂN
7. VÀI LỜI VỚI ÔNG
NHÀ THƠ PHẠM KHANG
8. GỬI 2 ANH PHẠM
KHANG VÀ NGUYỄN QUÝ MẬU
9. CHÀNG TRAI ẤY BÂY
GIỜ RA SAO?
10. NHẮM RƯỢU VỚI
CƯỠNG XUÂN - THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
11. “LAN MAN...” VÀ
LAN MAN CÙNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN
12. CHÂN DUNG ĐẶNG
XUÂN XUYẾN TRONG “99 CHÂN DUNG NHÀ VĂN...”
13. TÌNH TRONG
“CƯỠNG XUÂN” - TẬP THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
14. THẾ THÁI NHÂN
TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
15. NHƯ THIẾU NỮ ĐÃ
VÀO CHÙA XUỐNG TÓC???
16. THƠ VỀ RƯỢU
HAY NỖI BUỒN RIÊNG MÌNH VÀ NỖI BUỒN NHÂN THẾ CỦA NHÀ THƠ ĐẶNG
XUÂN XUYẾN?
17. VỀ LỜI BÌNH CỦA
ĐẶNG XUÂN XUYẾN VỚI BÀI THƠ “QUÊ TRONG PHỐ”
18. TRAO ĐỔI VỚI NHÀ
THƠ NGUYỄN VƯỢNG VỀ NGÔN NGỮ TRONG THI CA
19. MẤY LỜI TÂM SỰ -
NHÂN NHÀ THƠ NGUYỄN ĐĂNG HÀNH NÓI VỀ CHÂU THẠCH
20. BÀN VỀ BÀI BÌNH
THƠ “THUYÊN NEO BẾN LẠ” CỦA ĐĂNG XUÂN XUYẾN
21. VỚI BÀI BÌNH THƠ
“THUYỀN NEO BẾN LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
22. CẢM NHẬN KHI ĐỌC
TRUYỆN NGẮN “CÔ SƯỚNG CƯỚI VỢ”
23. ĐỌC BÀI THƠ “SAY
YÊU” NGHĨ VỀ THƠ TÌNH CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC
SÁCH: “MƯU LƯỢC
GIÀNH
CHIẾN THẮNG”
*
Trong 6 tác phẩm mà Đặng Xuân Xuyến
đã cho ra mắt bạn đọc, tôi rất tâm đắc cuốn MƯU LƯỢC GIÀNH CHIẾN THẮNG.
Tác giả là một doanh nhân trẻ, năng
động và tháo vát, có đầu óc về “cái nhìn chiến lược”. Nhưng cái quý là anh
không giấu diếm những kinh nghiệm, những suy nghĩ được đúc kết từ công việc của
mình. Tác giả đã cởi mở những hiểu biết và kinh nghiệm của mình để chia sẻ với
những ai đã, đang và sẽ bước vào lĩnh vực này.
Mục đích của cuốn sách rất rõ ràng,
ngay từ lời nói đầu, tác giả đã viết: “Tôi
viết cuốn sách này không ngoài mục đích: Cùng trao đổi với bạn về một số vấn đề
mà người viết cho là rất đơn gian nhưng lại thật cần cho bất kỳ nhà doanh nghiệp
trẻ nào muốn giành chiến thắng trong cuộc chạy đua tới đích cuối cùng giữa các
doanh nghiệp....”, và nếu người đọc trân trọng, coi đây là những bài học
cho mình thì đó cũng là niềm vui của tác giả: “...Bạn sẽ tìm được một vài điều bổ ích cho hoạt động kinh doanh của bạn.
Thế là đủ! Thế là những trăn trở, nghĩ suy của người viết không uổng!”
Từ ý tưởng ấy, đi vào từng phần, bạn
đọc sẽ thấy được cái hay trong cách đặt vấn đề, cái sâu sắc trong cách phân
tích, cái bao quát trong cách nhìn nhận của tác giả. Ngay từ câu chuyện mở đầu
trong mục đầu tiên Chọn nghề cho kỹ cũng đã là sự
bắt đầu cho sự phân tích các vấn đề về sau. Những lời khuyến nghị ở đây rất đơn
giản nhưng lại rất bổ ích và lý thú. Tác giả nói “Đừng bắt chước người” là
hàm ý nói rằng có bắt chước thì phải “bắt
chước một cách sáng tạo”, “biến cái
hay của người thành cái sáng tạo của mình” thật linh hoạt, tùy cơ ứng biến,
không giáo điều rập khuôn. Muốn thành công rất cần sự say mê với nghề nghiệp
của mình.
Có những điều tác giả đặt ra, lúc đầu
ta tư tưởng như là nghịch lý, là vô lý, nhưng ngẫm kỹ, ta sẽ thấy đó là logic
như Kiếm tiền thì dễ, tiêu tiền mới khó, và không chỉ với kinh
doanh mà trong cuộc sống thì Tiền không phải là tất cả. Ở đây,
tác giả đã bộc bạch qua trang viết những suy nghĩ rất chân thực của mình. Đọc,
ta vỡ ra những điều mà người chưa kinh doanh không nghĩ đến: “Kinh doanh, thực chất là nghệ thuật củng cố
niềm tin với khách hàng.”
Một mục nữa khá hay: “Mượn
gió đưa thuyền”. Từ câu chuyện Tam Quốc nói về đấu trí giữa các chính
khách, tác giả liên hệ tới việc kinh doanh đầy linh hoạt và thông minh của vị
giám đốc nhà máy dệt Song Hải (Tỉnh Chiết Giang - Trung Quốc). Rồi từ chuyện
này, anh dẫn dụ, phân tích sự thành đạt của tập đoàn kinh doanh Nissan nổi
tiếng của Nhật Bản với chiến lược toàn cầu. Từ đó, sẽ rút ra được những kết
luận bổ ích cho bạn đọc.
Tác giả đã phân tích vai trò chủ đạo
hết thảy mọi thành bại trong kinh doanh: CON NGƯỜI! Cụ thể là phải đầu tư vào
chất xám của con người phục vụ sản xuất, kinh doanh. Từ việc lớn đến việc nhỏ,
từ các vấn đề cao xa đến những sự việc bình thường, thậm chí có vẻ như là nhỏ
nhặt... tác giả đã dẫn giải khá lý thú, làm cho người đọc thoải mái và thu nhận
được nhiều điều bổ ích.
Ở mục cuối: “45 điều với bạn”, tác giả
đã đưa ra 45 khuyến nghị rất cụ thể và thiết thực. Tất cả 45 vấn đề được viết
rất ngắn gọn, dễ hiểu trong 196 trang sách nhưng giá trị lại không hề nhỏ,
nếu người đọc vận dụng được cho mình trong từng công việc cụ thể.
Thiết nghĩ, có thể coi đây là một
cuốn sổ tay rất cần thiết cho các bạn trẻ bước vào lập nghiệp.
*.
Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 1998
NGUYỄN HỮU DY
(Giảng viên Trường Đại học Giao
Thông Vận Tải)
“DOANH NGHIỆP VỚI THỊ TRƯỜNG”
-
MỘT CUỐN SÁCH ĐÁNG ĐỌC!
*
Để tìm một cuốn sách về kinh nghiệm
làm giàu thật hay thực sự không phải là một điều dễ dàng, mặc dù trong tủ trưng
bày ở các nhà sách loại sách này chất cả đống với những cái tên đầy “kích
thích”. Nhưng, ở đây, chúng tôi muốn giới thiệu một cuốn sách mà theo cảm nhận
của chúng tôi, mỗi một dòng, một chữ đều bật ra trong tâm huyết, từ máu thịt
của người viết như những lời “tâm sự” “gan ruột”.
Cuốn sách bao gồm hai phần. Phần thứ
nhất, tác giả hệ thống cho bạn đọc những kiến thức rất cơ bản của một nhà kinh
doanh về thị trường. Đối với những ai đã từng qua các “cua” đào tạo về quản lý
kinh tế hay đã từng đeo “mác” sinh viên các trường kinh tế thì những kiến thức
như thế này không phải là điều mới mẻ. Tuy nhiên để nghĩ cho sâu, hiểu cho kỹ
thì không phải ai cũng làm được vì sự phong phú của thị trường. Chính người viết
cũng rất khiêm tốn khi viết: “Người viết
không có tham vọng trình bầy hết những vấn đề của thị trường hoặc liên quan đến
thị trường bởi tính muôn màu muôn vẻ của thị trường, bởi tính biến đổi (nhu cầu
và thị hiếu) không ngừng của thị trường”. Ở đây, tác giả “xoáy” váo ba vấn
đề chính:
- Tìm hiểu thị trường
- Chiếm lĩnh thị trường
- Các chiến thuật chiếm lĩnh thị
trường
Đây là những nguyên tắc, những điều
nên làm và thật cần đối với các doanh nghiệp. Cái “được” mà tác giả xây dựng
được trong phần này của cuốn sách là đã “mềm hoá” được những kiến thức kinh tế
vốn không mấy “dễ tiêu” đối với người đọc. Vì lẽ đó mà nhiều bạn đọc đánh giá
sách của Đặng Xuân Xuyến không nặng về lý thuyết. Nhưng theo chúng tôi, có lẽ
đó là cảm nhận của cả hai phần vì ở phần thứ hai của cuốn sách có rất nhiều lời
khuyên hữu ích đối với các doanh nhân trẻ mà những lời khuyên này xuất phát từ
những điều tâm huyết của người viết khi chiêm nghiệm cuộc sống, chiêm nghiệm
quá trình kinh doanh của bản thân cũng như của những doanh nghiệp thành đạt
trên thương trường. Điều đáng ghi nhận là Đặng Xuân Xuyến đã không truyền đạt
những lời khuyên ấy theo lối “dội” từ trên xuống mà lời lẽ rất chân tình, giản
dị nhưng không kém phần mãnh liệt, thổi vào người đọc một luồng cảm hứng cháy
bỏng về khát vọng làm giàu. Hãy nghe: “Tôi
thành thật mong bạn đừng bao giờ chấp nhận cuộc sống an phận thủ thường, đừng
bao giờ bằng lòng với những gì đã có vì cái chất người như vậy không bao giờ
giúp bạn trở thành ông chủ được đâu” (Khát vọng làm giàu). Và “hãy mạnh dạn xắn tay áo lên mà miệt mài công
việc! Hãy trau dồi kiến thức và mở rộng các mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội!”
(Thời cơ). Đọc những dòng này, người đọc sẽ rất có cảm tình về khát vọng làm
giàu, khát vọng xây dựng cuộc sống, sự nghiệp của chính bản thân người viết.
Không trăn trở, không “đau đớn” về cái khát vọng làm giàu của mình thì
Đặng Xuân Xuyến không thể bật lên khẩu hiệu đầy lôi cuốn như thế. Cứ cho rằng
bạn là người bàng quan với của cải, vật chất nhưng tôi tin bạn là người trọng
danh dự và bạn sẽ cảm thấy mình bị thua kém khi đứng cạnh những người bạn thành
công trong kinh doanh. Và khi ấy bạn có chắc chắn rằng mình sẽ không có một
chút tị hiềm nào trong lòng? Ở đây, Đặng Xuân Xuyến khuyên chúng ta
rằng: “đừng nhìn vào cách tiêu tiền
của họ mà hãy nhìn vào cách kiếm tiền của họ”. Nhìn để mà học, mà học thì
chắc chắn để làm việc rồi. Có nghĩa, bạn phải là con người của hành động!
Với 10 đề mục trong phần hai của
cuốn sách, bên cạnh việc thôi thúc, kích thích khát vọng làm giàu của bạn, Đặng
Xuân Xuyến còn truyền đạt rất nhiều những kinh nghiệm trong thực tiễn kinh
doanh. Điều này thể hiện chủ yếu ở ba đề mục:
- Chính sách dùng người.
- Đánh giá khách hàng.
- Giao dịch - tiền đề của thành công.
Tất nhiên, tác giả không quên nhắc
đến “kẽ hổng trong quản lý vốn” – một
trong những tiền đề cơ bản khiến cho doanh nghiệp… phá sản! Đọc những mục này,
tất cả những chiêu thức quan trọng của các nhà lãnh đạo trong việc quản lý nhân
sự, đánh giá khách hàng và giao dịch với đối tác, tác giả đã phân tích từng chi
tiết nhỏ giúp cho người đọc dễ hình dung ra “chiến trường” của mình hơn. Ở đây,
tác giả đã giúp đọc giả làm công việc gian khổ, khó khăn nhưng cũng thú vị nhất
đó là hiểu rõ cả “địch” và “ta”. Bạn có thể hiểu mình nhưng bạn đâu biết hết
được tâm lý của mọi đối tác. Không phải là quá khen nhưng công lao nghiên cứu
của tác giả trong lĩnh vực tâm lý kinh doanh quả là không thể phủ nhận. Tất
nhiên, khi đã khẳng định được danh tiếng của bạn thì không thể không tính
chuyện khuếch trương danh tiếng ấy lên và Đặng Xuân Xuyến cũng không quên gởi
đến độc giả những kiến thức trong vấn đề quảng cáo rất cần thiết cho các doanh
nghiệp trong thực tiễn.
Bên cạnh phần chính của cuốn sách,
hai phụ bản là “Vài lời về bốn tể tướng đại tài trong lịch sử Trung Quốc” và “Đôi điều
về bốn danh tướng vang bóng một thời trong lịch sử Trung Hoa” của cùng
tác giả Đặng Xuân Xuyến là một món quà khá thú vị. Đây có lẽ chính là điểm nhấn
để chúng ta tin sự uyên thâm của Đặng Xuân Xuyến là… Đặng Xuân Xuyến.
Bạn có thể không tâm đắc với những
điều mà cuốn sách này đặt ra, thậm chí bạn còn hiểu ngược lại vì mỗi người có
một quan điểm riêng, thủ pháp riêng trong kinh doanh. Chính tác giả cuốn sách
này cũng chỉ khiêm tốn mong muốn: “Cuốn
sách sẽ giúp bạn có một khái niệm cụ thể về thị trường và doanh nghiệp; có thể
bạn là người đang chuẩn bị bước vào công cuộc kinh doanh thì Doanh nghiệp
với thị trường sẽ làm tốt khâu “chuẩn bị” nắm bắt được một số nguyên lý cơ
bản để an tâm bước vào nghiệp chủ; còn nếu bạn đã là một doanh nghiệp thực thụ
và tài ba thì với hai trăm trang sách này, chí ít sẽ trút bỏ được một số sai
lầm đáng tiếc sẽ xảy ra trong cuộc đời kinh doanh của bạn”. Vâng! Tư tưởng
đặt ra rất lớn cho tác phẩm - tư tưởng ấy là dành cho bạn
đọc - nhưng mong muốn của tác giả thì lại giản đơn như vậy.
Dẫu sao, sau khi đọc xong hai trăm
trang sách của Đặng Xuân Xuyến, tôi biết mình đã phần nào chịu ảnh hưởng tư
tưởng của anh chàng quá nhiều tham vọng này.
Chẳng biết sự ảnh hưởng ấy có… hại
không?
*.
Hà nội, ngày 15 tháng 10 năm 1999
GIÁP KIỀU HƯNG
ĐỌC
THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Với hai bài thơ “Bạn
Quan” và “Quê nghèo” của mình, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến không làm nổi lên
một cơn sốt trên mạng xã hội như bài thơ “Đất nước mình lạ quá phải không anh”
của cô giáo Trần Thị Lam nhưng gây ấn tượng mạnh cho bạn đọc trên các trang
web, nhất là giới văn nghệ sĩ và trí thức. Từ hai bài thơ đó tôi đi tìm đọc thơ
của Đặng Xuân Xuyến và cảm nhận được phong cách riêng lạ của một nhà thơ đương
đại. Hình như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm thơ không nhiều lắm nhưng mỗi bài thơ
của anh như ngón tay chỉ ta nhìn thẳng vào cuộc sống và buộc ta phải suy nghiệm
bức tranh hiện thực đó, hoặc cho ta hưởng thụ những phút giây sâu nhiệm diễn
biến trong tâm hồn nhạy cảm của người thơ.
Trước hết tôi xin lỗi
tác giả, cho phép tôi rút gọn bài thơ “Bạn Quan” gồm có 39 câu còn lại 10
câu để bạn đọc có ý niệm khái quát về bài thơ đó:
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Chốn quan trường vịt chó giống nhau
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưỡng vờ say
Cái hay đầu tiên của bài
thơ là tác giả làm cho mọi người đọc đến đây đều giật mình cảm thấy ớn lạnh.
Chính người trong cuộc cũng ớn lạnh nên “ngất
ngưởng vờ say”. Sau câu nói của người bạn cũ tác giả đã cho gió nổi lên. “Trời nhiều gió / Hay lòng tao nổi gió” là một tứ thơ giống
như tiếng gầm tiếng rú trong một bi kịch sảy ra trên màn hình. Người xem truyền
hình yếu bóng vía hay người đọc thơ cảm thấy như mình cũng run rẩy. Run rẩy
không vì gió thật mà run rẩy vì tâm lý lo sợ trước quyền lực của tội lỗi.
Tục ngữ ta có câu “Rung
cây nhác khỉ”. Bài thơ nầy tác giả đã thành công khi rung cây nhưng không nhác
khỉ mà là để chỉ cho khỉ thấy thật tình cái cây độc hại.
Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của
kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn
ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7
câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ cho ta thấy một
nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói
rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người”
ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà
còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai
cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người /
Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh
cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.
Qua hai bài thơ trên ta
thấy nhà thơ Đặng Xuân Xuyến vừa gan dạ vừa ngổ ngáo khi đề cập đến mặt trái
của xã hội nhưng với mặt trái của tình yêu, nhà thơ trở nên rất hiền hòa, nhẫn
nhịn:
Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ
Vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy
Ta sẽ cố để không ai thấy
Héo hắt chiều/
Sưng tấy trái tim yêu.
(Vế cuối bài thơ Tim Đau)
Đâu rồi cái khí phách
dám nói thẳng ra mặt xấu ở đời? Bây giờ chỉ “để không ai thấy / héo hắt chiều / sưng tấy trái tim” nghĩa là
những hệ lụy tình yêu xin nhận hết về mình. Có phải đây là trái tim Hàn Mặc Tử
hôm nay? Vâng, còn hơn thế nữa vì Hàn Mặc Tử tuy nhận hết đau thương về mình
nhưng oán trách mối tình tan vỡ “mi là
nơi ta chôn hận ngàn thu / Mi là nơi ta sầu hận ngất ngư” còn Đặng Xuân
Xuyến thì lại nhẹ nhàng thay: Ta dẫu biết trăng lúc mờ
lúc tỏ/ Vẫn không quen lời yêu
chóng hao gầy. (Tim Đau)
Bài thơ “Chia
Tay - Với Nguyễn Minh Phượng -” gồm có 29 câu thơ. Tôi xin mạo muội dùng
9 câu thơ trong bài thơ ấy để rút ngắn bài thơ lại:
Chia tay nhé
Đừng buồn em nhé
Ánh hoàng hôn tím sẫm chân trời
Em nhớ đến bến sông ngày ấy
Nhặt cho anh câu hát lỡ quên
Qua bến cũ đừng nghe sóng dội
Cũng đừng nhìn ghế đá tuổi thơ
Em hãy nhớ giờ là kỷ niệm
Dư âm buồn
Day dứt cũng thế thôi.
Tôi rất cảm động khi đọc
bài thơ nầy vì tôi thấy lệ trên mắt và màu tan vỡ của máu trong tim khi tác giả
rất ôn tồn thỏ thẻ cùng em. Đọc toàn bộ bài thơ ta mới thấy cái bình tĩnh phi
thường của tác giả và ta mới thấy nỗi u sầu được nén xuống lớn làm sao!. Tôi
rung động khi đọc bài thơ nầy vì chính bài thơ là một tác phẩm tuyệt vời, thể
hiện tài hoa của tác giả đã phát tiết nỗi sầu vào trong tiếng thơ, vọng buồn
lên cao, lên xa và lắng xuống trong lòng ta khi đọc nó.
Tôi không muốn so sánh
Hàn Mặc Tử với Đặng Xuân Xuyến vì như thế sẽ trở nên khập khiễng, nhưng thi sĩ
dẫu cách nhau hàng ngàn năm có khi vẫn đồng rung cảm, khiến cho bạn đọc thơ của
người nầy lại nhớ đến người kia. Ta hãy đọc một đoạn trong bài thơ “Đôi Ta”
của nhà thơ họ Hàn: Lúc ấy sóng triều rên rỉ chưa bưa/ Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau
như chết/ Cứ sảng sốt, tê mê và rũ
liệt/ Đừng nghe chi âm hưởng
địa cầu đang/ Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian
Rồi ta hãy đọc một đoạn
trong bài thơ “Khát” của Đặng Xuân Xuyến: Tay siết tay xua giá
lạnh tan rời/ Đôi ngực trần cọ xiết
ngùn ngụt hơi/ Dòng nham thạch cuộn
từng cơn nóng hổi/ Thế. Thế. Thế./ Căng người/ Em hứng đợi/ Môi đốt môi/ Anh thiêu trụi đất trời/ Trăng thượng tuần ngấp
nghé đón triều dâng
Thi âm, thi tứ hai người
có khác nhau nhưng cái chất “Thơ Điên” tiềm ẩn trong hai linh hồn hai người
không khác biệt. Hai tâm hồn có những giây phút cuồng si loang ra cả đất trời
và làm đảo điên vạn vật. Cái câu “Trăng
thượng tuần ngấp nghé đón triều dâng” của nhà thơ họ Đặng không những là
một hình ảnh rất đẹp mà nó còn phô bày hết cái giây phút ân ái của con người
biến thành giây phút thánh của vũ trụ. Giây phút tuyệt đỉnh sung sướng sắp sảy
ra cho con người làm thăng hoa cả trời đất và nó cũng có thể là giây phút chết
trong hoan lạc khi tác giả nói: Môi đốt môi / Anh thiêu trụi đất trời.
Đọc bài thơ “Khát” ta cảm thấy hình như hơi nóng
cũng căng phồng trong da thịt.
Lướt sơ qua vài bài thơ
của Đặng Xuân Xuyến ta thấy tính cách thơ rất ngạo nghễ, rất ngang tàng trong cuộc
sống mà cũng vô cùng nồng cháy khi yêu. Nhà thơ phẫn nộ trước bất công, trước
nỗi đau của đồng loại nhưng lại nhận hết niềm đau về mình trong tình yêu cao
thượng. Đọc Đặng Xuân Xuyến ta cảm nhận được hết tiếng thơ bộc lộ và tiếng thơ
lặng thầm, kích thích tình cảm trong lòng ta có khi cháy bùng, có khi âm ỉ,
khiến niềm vui có ít lại chỉ như cái cười gượng gạo mà nỗi buồn thì triền miên
như dòng sông lặng lờ chảy mãi không thôi./.
*.
Đà Nẵng, 27 tháng 7-2016
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính,
Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
KHỐI
TÌNH LẬN ĐẬN CỦA CHÀNG TRAI
TRONG
THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
1.
Tôi không quen Đặng Xuân
Xuyến và cũng chưa một lần được tiếp xúc với anh mà chỉ gần đây mới biết tên
anh khi tôi đọc trên mạng bài thơ “Quê Nghèo” cùng hai bài bình
của nhà thơ Chử Văn Long ở Hà Nội và bác Nguyễn Bàng, nhà giáo nghỉ hưu ở Sài
Gòn. Bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến đã hay lại thêm hai bài bình
của hai vị cao niên rất có tâm và xứng tầm bút lực thâm sâu khiến tôi tìm đến
Trang Đặng Xuân Xuyến để đọc thêm thơ anh. Và tôi thật bất ngờ, chủ nhân trang
nhà là một người đa tài: một doanh nhân, một bàn phím thơ văn sung sức và một
tinh thông tử vi lý số cùng văn hóa tín ngưỡng và tôn giáo. Nhưng chỉ là một
người thích đọc thơ, không đủ kiến văn về các lĩnh vực khác nên tôi chỉ dừng
chân bên vườn thơ của Đặng Xuân Xuyến và tôi lại nhận ra, vườn thơ ấy không
nhiều những cây lá như “Quê Nghèo” mà lại có vẻ xum xuê
đài nụ thơ tình.
Đọc thơ tình của Đặng
Xuân Xuyến, ta cũng thấy lòng buồn, không phải nỗi buồn xót xa nặng trĩu như
đọc “Quê Nghèo” của anh mà là nỗi buồn mênh mang bởi hàng trăm
vần thơ chất nặng một khối tình lận đận. Chưa quen Đặng Xuân Xuyến nhưng đọc
thơ tình của anh, tôi lại thấy rất thân quen với nhân vật trữ tình chủ đạo trong
thơ anh, một chàng trai đã nửa đời “ngậm
trái bồ hòn” của một nghĩa vợ tình chồng tan vỡ. Vì vậy, tôi không dám
nói khối tình lận đận trong thơ Đặng Xuân Xuyến này là của riêng anh mà gọi đó
là khối tình lận đận của chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến.
2.
Không hiểu chàng trai ấy
biết yêu từ bao giờ nhưng từ khi còn ngồi trên giảng đường Đại học, hình ảnh
chàng đã lọt vào cặp mắt biếc của một cô gái. Người con gái ấy, hẳn đã cảm mến
chàng rất thật lòng nên đã không dấu giếm, không sợ miệng tiếng người đời, tự
mình “cọc đi tìm trâu”, đến thăm chàng với một đóa hoa nhài. Nhưng, chàng đâu
biết đóa nhài cực kỳ tao nhã biểu tượng của tình yêu và sự tinh khiết ấy là tấm
tình thơ ngây của nàng nên chàng đã:
Tôi mỉm cười
Nhìn
mây bay
Hờ hững
Rồi lần sau và cả nhiều
lần sau nữa, nàng (Hoa Nhài) đến thăm chàng: Vẫn bình dị những đóa nhài nho nhỏ
Và chàng vẫn chỉ cười:
Hờ hững ngó mây trôi.
Thế rồi không thấy nàng
đến thăm nưã.
Và rồi:
Một ngày đông hoa nhài không nở
Tôi ngơ ngẩn bên thiếp hồng để ngỏ
Bấy giờ chàng mới giật
mình thảng thốt khi thấy:
Thấm trong tôi hương nhài nỗi nhớ
và: Tôi trách mình hờ hững ngó mây trôi.
Nhưng tự trách mình mà
làm chi, một khi chính mình “Lửa
hương chốc để lạnh lùng bấy lâu!" cho người ta khiến giờ đây chỉ
còn những mảnh tình thơ ngây tan tác:
Ngày mai em theo chồng
Ngày mai tôi lên biên cương
Mối tình ngày thơ bẻ lửa
Thôi.
Về.
Sao còn lần lữa
(Không đề)
Đóa nhài tinh khiết
trong thơ Đặng Xuân Xuyến trở thành đóa sầu muộn giống như nụ tầm xuân xanh
biếc trong ca dao trở thành nụ tiếc nuối. Nhưng thà rằng như chàng trai trong
ca dao, một lần trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
nhìn rõ cảnh “chim vào lồng, cá cắn câu” để
rồi xót xa đau khổ:
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay
Còn hơn chàng trai trong
thơ Đặng Xuân Xuyến cứ “hờ hững ngó mây
trôi” để rồi thở dài ngao ngán:
Em cười. Làn môi héo hắt
Giọt sầu tôi mang!
(Không đề)
Trai khôn lấy vợ. Sau
đó, không biết chàng trai đã theo đuổi những tơ duyên nào, đã dò bao lòng sông
để rồi đi đến quyết đinh sắm một con thuyền. Thơ Đặng Xuân Xuyến không có bài
nào cho thấy con thuyền đó hình hài màu sắc ra sao và cơ duyên nào đã đưa con
thuyền ấy đến với chàng.
Cũng không có bài thơ
nào cho thấy vợ chồng chàng đã ăn ở với nhau ra sao, nhưng qua mấy bài Qua
Đò, Nhớ, Đêm, ta thấy họ đã có với nhau những
phút giây ân ái hừng hực mặn nồng: “Ánh
mắt cười… lăn trên chiếu” những phút “căng người, run rẩy cuộc”, “Em
đè ta nghiến ngấu”. Nhưng như người đời thường nói, đến với nhau thì
dễ nhưng sống chung với nhau thì khó. Chỉ sau ít năm chung sống với bấy nhiêu
đằm thắm, cuộc hôn nhân của họ đã đổ vỡ, đầy đọa chàng vào cảnh: Khép nụ cười héo hắt nửa đời trai
Người vợ ấy đã đi đâu,
về đâu, cũng không ai biết. Nhưng sau khi bỏ chồng, có bao giờ mỗi độ gió thu,
nàng thở dài tự hỏi như người thiếu phụ trong thơ Tản Đà xưa:
Vàng bay mấy lá năm già nửa,
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng
Chắc chắn không, một
nghìn lần không. Bởi lẽ, một người đàn bà dứt áo ra đi, không chỉ cắt đứt hẳn
với chồng mà cả với đứa con, vứt bỏ lại đứa con còn trứng nước cho chồng, quyết
tâm tìm bến đỗ hạnh phúc mới cho riêng mình thì làm sao trong trái tim con
người đó có được những giây phút chạnh lòng.
Nhưng người chồng, chàng
trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến thì không thế. Sau khi “anh đi đường anh, tôi
đường tôi”, mỗi độ gió thu, chàng vẫn chìm lòng vào nỗi buồn xa vắng của
những ngày đang tàn theo năm tháng:
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng không
Mỗi bận Qua
Đò trở lại bến xưa, lòng chàng lại cuộn lên nỗi xót thương một
thời lỡ dở:
Sao ta mãi thẩn thơ
Thương một thời lỡ dở...
"Người xưa đâu xa vắng
Ai đưa tôi qua đò.".
Một mình đớn đau
vất vả nuôi con nhỏ nên mỗi lời hát Ru Con của chàng là một tiếng
thở dài buồn lắng:
Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày mỗi già
Tóc đầy thêm sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.
Nhiều người đọc bài thơ
này bảo đó là cảnh “gà trống nuôi con”. Không đúng. Gà trống nuôi con ví
cảnh người đàn ông phải một mình vất vả trong việc nuôi con, thường do goá vợ.
Nếu góa vợ mà phải chịu cảnh gà trống nuôi con, người đàn ông không buồn tủi mà
chỉ xót thương, tiếc nhớ người vợ bấy lâu cùng mình chung xây tổ ấm đã sớm phải
lìa trần để lại đứa con mồ côi mẹ tội nghiệp cho cha nó nuôi, mà như người đời
đã nói:
Mồ côi cha ăn cơm với cá,
Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường
Người đàn ông trong thơ
Đặng Xuân Xuyến đâu có góa vợ và đứa con đâu có mồ côi mẹ. Nên tiếng hát ru con
đáng lẽ phải là tiếng của người mẹ:
Cái Bống là cái bồng bang
Mẹ Bống yêu Bống, Bống càng làm thơ
Nhưng mẹ Bống đã phũ phàng
bỏ bố con Bống đi tìm hạnh phúc riêng nên bố Bống phải thay mẹ ru Bống trong
tâm cảnh:
Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
(Ru con)
Cùng những lời nghẹn
đắng Ru Con:
Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Kiếm nụ cười trong mơ.
Cũng không có câu thơ
nào nói căn nguyên tan vỡ của cuộc tình chồng vợ đó. Nhưng qua việc người chồng
nhận nuôi con thơ, qua những tiếng ru con của anh, ta thấy anh là người không
hề muốn có cuộc chia tay đau đớn ấy. Chính vì thế, sau khi vợ chồng bỏ nhau, dù
người vợ cũ không ngó ngàng gì nữa đến chồng con nhưng người chồng
vẫn luôn nhớ và nghĩ về nàng:
Em giờ ở nơi đâu?
Có thương về chốn cũ?
Có tan vào giấc ngủ
Buốt lạnh vài giọt ngâu?
(Qua đò)
Trong anh vẫn khắc khoải
một niềm chờ đợi cầu mong nàng hồi tỉnh:
Vâng, từ độ ấy đến giờ
Sông trăng dẫu cạn vẫn chờ đò xưa
Cầu trời đổ một trận mưa
Cho sông trắng nước đò xưa trở về
(Sông trăng)
Nhưng anh đâu biết đò
xưa không bao giờ trở về và quá khứ là những thứ đã qua. “Cá chuối đắm đuối vì
con”, người đàn bà một lần đi qua đời anh đã vứt bỏ con cho anh thì còn gì
nữa đâu mà mong mỏi “cho sông trắng
nước đò xưa trở về”?
Phải 10 năm sau, mười
năm chàng cô đơn “hong tơ ướt”, khi gặp lại Người xưa cũ, chàng mới
nhận ra:
Lời em nhạt lắm, xa xăm lắm
Em chỉ chiều ta. Đâu có yêu.
Chàng mới có thể nhìn kỹ
nàng hơn:
Chạm trán nhau dẫu hà tiện nụ cười
Thì cũng chớ cau mày, quay mặt
Em như thế càng thêm quay quắt
(Buông bỏ nhé em)
Nàng không chỉ là một kẻ
bạc tình:
Xưa ai khéo phụ câu thề
Đem tình chồng vợ quét lê phố phường
Mà còn là một người đàn
bà phóng đãng:
Lời thường nói chẳng thèm nghe
Lẳng lơ nên mới éo le lối về
…
Nực cười cái thói hồng nhan
Mười phương đủ cả còn oan nỗi gì!
(Kẻ bạc tình)
Bây giờ, gặp lại Người
Xưa, chàng mới biết mình là kẻ dại khờ và buông lời tự trách:
Ta trách vì ta quá dại khờ
Dại khờ nên mãi cứ ngu ngơ
Mười năm gặp lại em chẳng nỡ
Ta lại mơ hồ lạc bến mơ.
Và cũng bây giờ chàng
mới nhìn ra cái nguyên nhân người vợ cũ đã bỏ chồng bỏ con:
Ờ thì... đấy chuyện ngày xưa
Em giờ cũng khác em xưa đã nhiều
Em quen nhung gấm mỹ miều
Nhớ làm chi thủa liêu xiêu những chiều...
(Dở hơi)
Hầu hết những bài thơ
lục bát của Đặng Xuân Xuyến đều hay và phảng phất hương vị thơ Nguyễn Bính.
Chắc chắn Đặng Xuân Xuyến rất yêu thơ Nguyễn Bính, đọc nhớ nhiều thơ Nguyễn
Bính. Vậy mà sao Đặng Xuân Xuyến lại để cho chàng trai trong thơ của mình mười
năm sau cuộc hôn nhân đổ vỡ mới hiểu ra “lòng người”, cái “lòng
người” mà Nguyễn Bính đã nói từ rất lâu rồi:
“Lòng người…” chị Trúc nhớ hay quên?
…
Người ta đi lấy cái giàu sang,
Rời cả keo sơn, bỏ đá vàng.
Khiến dằng dặc cả mười
năm “Sưng tấy trái tim yêu”, chàng
trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến mới nhận ra lòng dạ đàn bà trong người vợ cũ và
bấy lâu nay mình đã sống:
Anh ngợp mình trong ảo vọng ái ân
Mải lặn ngụp xây lâu đài trên cát
(Trả em)
Giờ đã hiểu
người và hiểu mình thì đúng như câu hát nhạc Trịnh:
Còn thấy gì sáng mai đây thôi ta còn bạn bè
Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình vẫn u mê.
Chàng trai trong thơ
Đặng Xuân Xuyến đã tìm đến với bạn bè. Nhưng những người bạn hiền, tất cả
đều “cùng một lứa bên trời lận đận”, tất cả đều đang bị cuốn sâu trong cái bộn
bề của cuộc sống đầy khó khăn cơm áo, đâu dễ gặp được nhau:
Mày về quê chơi đi
Biền biệt thế
Bặt tin như thế
Tao nhớ mày
Rượu tao uống chẳng say
(Về quê đi mày)
Những kẻ “học ngu nhưng thủ đoạn tài” giờ trở
thành những Bạn Quan thì đạo
đức và nhân cách của họ đã bị băng hoại hết: Đời đã chó/ Quan trường càng chó
Bạn Quan chó má như thế nên
dẫu có gặp thì cũng:
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Không có bạn để chia sẻ
nỗi niềm, chàng chỉ còn cách tìm chua cay trong Rượu Say:
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Khắp trời cùng đất trong
mắt chàng bây giờ chỉ rượu và Rượu Say:
Rượu ngọt đào thơm vơi lại đầy
Cụ Trích tiên Tản Đà xưa
đã từng mơ được lên Hầu Trời, đọc thơ văn cho Trời và chư tiên nghe. Chàng
trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến hôm nay không chỉ “chống chếnh men say” một mình mà cũng mơ được “sóng sánh mềm môi chén rượu đầy” với
cả chú Cuội từ trên cung Trăng xuống:
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta được say.
(Rượu say)
Nhưng ở đời ai mà say
mãi hết ngày dài rồi lại đêm thâu, mà không có lúc tỉnh? Nàng Kiều khi ở
nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” cũng phải có khoảnh khắc hiếm hoi
để sống thực với mình:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Chàng trai trong thơ
Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi tỉnh rượu, tự đối diện với mình chàng đã nhận ra:
Người đi vá víu nụ cười
Tôi hong tơ ướt cũng mười năm nay
Khật khừ say tỉnh tỉnh say
Cứ ngu ngơ đợi heo may trái mùa
(Khờ)
Đôi tai chàng đã nghe
được những lời thị phi của người đời:
Anh bảo
Sao mãi mày chưa cưới vợ
Chị cười chắc đợi bén duyên
Anh nhìn, đẹp trai như nó
Thiếu gì đứa ngẩn đứa ngơ.
(Ế duyên)
Và hiểu ra trong những
lời khen đó:
Đã nghe câu mắng thằng khờ
Suốt ngày trăng sao mây gió
Duyên đâu đến kẻ ngù ngờ...
(Ế duyên)
Những tiếng thằng
khờ, trăng sao mây gió, kẻ ngù ngờ đã giúp chàng hiểu rõ trắng đen: Đò xưa rời
bến rồi không quay lại nữa mà dù có quay lại thì tất cả cũng đâu còn vẹn nguyên
được như ngày nào. Cần gì phải thiên trường địa cửu, nhất nhất sắt son mà hãy
quên đi những khổ đau đã trở thành quá khứ. Tình yêu bắt đầu sống lại trong
trái tim để chàng hiểu ra, phải tìm một tình yêu mới với một niềm tin mới cho
mình đứng lên sau giông bão.
Chàng đến và đến với
chàng, có khi là một thiếu nữ còn rất tơ duyên:
Người đâu mà trắng, tươi như nắng
Suối tóc vờn bay giỡn nắng vàng...
(Người đẹp)
Có khi là một cô gái
xinh đẹp làng quan họ:
Ngơ ngác níu tìm “người ơi người ở”
Chống chếnh men say “người ở đừng về”
(Người ơi… Người ở)
Cả khi là một người đàn
bà đã một lần sang sông lỡ dở:
Gặp nhau khi đã trễ tràng
Dở dang duyên phận nhỡ nhàng lời yêu
Chỉ là gạo nấu chung niêu
Chẳng mong củ ấu khéo yêu thành tròn
(Gá tình)
Chàng sinh viên hờ hững
đóa hoa nhài năm xưa, người chồng bị phụ tình hôm nay, có lúc trở nên táo bạo
bạo, trần trụi trong cuộc tình mới với Em:
Ta gạ em cạn chén
Nhưng trớ trêu thay:
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.
Và thế là một nửa đời
trai còn lại:
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu
Đã hết rồi cái
thời “Tơ tằm đã vấn thì vương” mà giờ là những cuộc tình gấp gáp,
chẳng còn e ấp, chẳng biết phải sợ điều gì, sẵn sàng bỏ hết ngoài tai miệng
tiếng người đời:
Sợ gì danh phận hư hao
Sợ gì thiên hạ trông vào nhỏ to
Sợ gì nhỉ? Chẳng phải lo!
Trai đơn gái lẻ … nhỏ to bằng thừa!
(Nhỏ to bằng thừa)
Nhưng thật tội nghiệp,
khi đang cuồng nhiệt tắm mình trong những tình yêu ấy cũng là khi chàng nhận ra
mình đã chớm già:
Thì đấy, em chớm vào hạ
Anh đà ngấp nghé thu qua
Chữ yêu nghe chừng xa lạ
Biết mình, chẳng dám mơ xa.
Phút đầu chàng còn bông
lơn với các nàng để khỏa lấp sự lo lắng:
Nỡ nào gọi anh bằng chú
Để anh nhanh bạc mái đầu
Hơn chừng đôi ba chục tuổi
Có nhiều xa cách lắm đâu
(Nỡ nào thế em)
Nhưng rồi sự thật khiến
chàng bắt đầu mặc cảm:
Sao chẳng nói yêu từ sớm
Khi anh đương còn trẻ trai
Bây chừ lừ đừ, lọm khọm
Anh nào dám mộng với ai.
(Lánh yêu)
Và đành thú thật:
Ta thực lòng chỉ muốn ngắm em thôi
Đâu dám ước điều ta mong đợi
Chỉ tại em cứ thản nhiên rời rợi
Đốt lòng ta bằng ánh mắt biết cười.
…
Ta già rồi, ốm yếu lại ngu ngơ
Sao cứ khát giấc mơ em, rõ khổ.
(Mơ em)
Nhưng sợi tơ tình đâu có
dễ gỡ nên nói thì nói vậy mà lòng thì lại cố níu Ở Lại:
Ta muốn đêm này em với ta
Quyện từng hơi thở trộn thịt da
Ưu phiền cứ mặc trôi theo gió
Nào hãy cùng ta dạo bến mơ.
Chính vì thế nên ngày
Valentine, ngày lễ tình yêu hay ngày lễ tình nhân, những đôi lứa, những bạn bè
khác phái bày tỏ tình yêu của mình bằng cách gửi cho nhau thiếp Valentine, hoa
hồng, sô cô la hay những món quà tặng đặc biệt cùng những lời chúc Valentine
thật đẹp và ý nghĩa nhất thì chàng trai trong thơ
Đặng Xuân Xuyến lại thở dài cay đắng:
Có lẽ xưa đường tu vụng dại
Vung vãi tình giờ nghẹn đắng chữ yêu
(Viết cho ngày
valentine)
Và: San niềm vui gom vội niềm cay đắng
Ta cuộn mình sống hết kiếp nhân sinh.
(Viết cho ngày
valentine)
Nhà thơ lãng tử bạc mệnh
Nguyễn Tất Nhiên ở tỉnh lẻ Biên Hòa trước 1975 có bài thơ nổi tiếng “Hai
Năm Tình Lận Đận” đã được nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy phổ nhạc. Ấy là
cái tình lận đận của một cặp đôi học trò, khi cô bé còn thắt bính “nuôi dưỡng thời ngây thơ”, cậu bé còn
luýnh quýnh “giữa sân trường trao
thư”. Tình của cô cậu chỉ lận đận khi có nguy cơ phải chia tay. Thời gian
đâu có dài, chỉ hai năm thôi, vậy mà:
Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng xanh xao
…
Hai năm tình lận đận
Hai đứa cùng hư hao
Xanh xao và hư hao nhưng
dẫu sao 2 năm tình lận đận ấy cũng được chia đôi cho 2 đứa để “cùng thở dài như nhau”. Còn cái tình lận
đận của chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến thì khác hẳn. Về thời gian kéo dài
mười mấy năm rồi mà chưa biết bao giờ mới dứt. Về tâm can, chỉ một mình chàng
chịu đựng trong cảnh thui thủi một mình nuôi dạy con thơ, dẫu sau này
có yêu thêm nhiều cô gái khác, được nhiều cô gái khác yêu thương
nhưng không dám hôn nhân lần nữa, một mặt chàng thấy mình đã chớm già, sợ cưới
nhau rồi trước là pháo hoa sau cũng ra tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ,
sợ đến nỗi có lúc đã cảm thấy chán cái vị yêu đương mới:
Ta bỗng chán vị yêu nhạt thếch
Xộc xệch tình
Lếch thếch tiếng yêu.
(Chán yêu)
mặt khác vì chàng luôn
yêu thương xót xa cho một tuổi thơ thiếu tình mẹ của đứa con mà đã bao năm
chàng một mình nuôi dạy:
Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?
(Ru con)
Ở đời này, dễ gì có được
một người đàn ông vừa làm bố vừa đóng vai trò làm mẹ khi vợ bỏ đi theo tình yêu
mới, nghĩ cho con được như vậy? Tấm lòng người cha ấy ở chàng thật cao thượng!
3.
Đặng Xuân Xuyến rất tinh
thông tử vi lý số. Nào đâu những cung Phu Thê, Mệnh, Thân và Phúc đức, nào đâu
những sao Đào hoa, Cơ cự, Thiên hỷ, Thiên riêu, Phục binh, Không
kiếp… Sao anh không nghiên cứu đặng kích hoạt những sao tốt, hóa
giải những sao xấu cho chàng trai trong thơ anh khiến chàng đã phải ôm khối
tình lận đận nửa đời trai rồi giờ lại còn có ý tự nguyện chịu thua cuộc như
vậy?.
Lại cũng lạ, nhà thơ họ
Đặng người Hưng Yên, yêu quê hương thắm thiết mà sao không tìm cho chàng trai
trong thơ của mình một cô gái quê nhà vừa giòn vừa xinh như cô gái Hưng Yên
trong thơ Huy Cận:
Mắt đen hạt nhãn cười tinh nghịch
Tóc quấn trần trông rất có duyên
(Cô gái Hưng Yên đi khai
hoang Tây Bắc)
Mà cứ mải mốt tìm tận
đâu đâu:
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
(Hương thu)
Phải chăng là vì duyên
số? Tôi mù tịt về lý số nhưng tôi tin ở duyên số, cái duyên số như trong thiên
truyện ngắn cùng tên của Thạch Lam: Một người trẻ tuổi lãng mạn con nhà gia
phong giàu có, bình sinh chỉ ao ước được một người tuyệt thế giai nhân để sánh
vai kề gối. Rồi anh yêu một cô gái mà thoạt nhìn anh đã choáng váng như người
nhấp cốc rượu mạnh. Nhưng rốt cuộc, chính vì mình mà anh không lấy được cô gái
đó khiến anh thất vọng theo lời mẹ cưới một người đã đứng tuổi, vẻ mặt xấu xí
như những đàn bà nhà quê thường thấy. Nhưng sau một thời gian chung sống với
người đàn bà đó, khi bạn đến chơi nhà, anh đã vui vẻ nói với bạn: “Tuy vậy mà tôi với nhà tôi hợp ý nhau lắm,
trong gia đình rất thuận hòa. Biết
đâu, nếu tôi lấy cô Bảo kia, rồi sau lại không được như thế?”
Phải, biết đâu? Biết đâu
chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến không bị vợ bỏ chắc gì chàng đã làm nên sự
nghiệp và thành một ông bố tốt? Và cũng biết đâu, sau đó chàng cứ mạnh dạn đi
bước nữa với một người phụ nữ yêu mình, đến với mình, giúp chàng gạt đi quá khứ
đau buồn, gạt đi những vụn vỡ đắng cay từ mối tình chồng vợ ban đầu, cùng chàng
lo toan vun vén mái ấm gia đình, chàng sẽ có được người vợ yêu thương chung
thủy trọn đời như cô gái trong ca dao: Trăng
tròn chỉ một đêm rằm/ Tình duyên chỉ hẹn một lần mà thôi
Tôi mong mỏi thật lòng
cái biết đâu này bởi qua những vần thơ tình chân thật chảy ra từ đáy
lòng, đọc lên có chút phần u uẩn trong thơ Đặng Xuân Xuyến, tôi rất cảm mến
nhân vật trữ tình trong thơ anh, một chàng trai ôm nặng khối tình lận đận nhưng
tâm hồn vị tha trong sáng, rất hiền trong tình yêu, trách người chỉ biết trách
nhẹ nhàng, còn lại là trách mình, sẵn lòng nhận hết đắng cay về mình.
Ngạn ngữ phương Tây có
câu: "Con người đau khổ. Hát
lên cái khổ đau của mình, con người sẽ vượt qua cái đau khổ ấy". Chàng
trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến đã ngân lên được nỗi đau tình lận đận của mình
làm se sắt lòng người, chàng sẽ vượt qua cái đau khổ ấy!
*
Sài Gòn, tháng 08/2016
DƯƠNG NINH NINH
Email: duongninhsg@gmail.com
GÃ
KHỜ HAY THẰNG NGỐC VIỆT NAM
CÒN
SÓT LẠI Ở ĐẦU THẾ KỶ 21 NÀY?
*
Biết tôi hay lò dò lên mạng để tìm đọc dăm ba thứ
thay vì phải đọc báo in, nghe đài hay xem nghe truyền hình thời sự nhưng lại là
một ông già không biết chơi Phây, không biết Gúc để tìm tòi các trang mạng hay,
nhà văn Đặng Xuân Xuyến đã gửi Mail chỉ đường dẫn mời tôi đọc CHUYỆN CỦA GÃ
KHỜ, một truyện ngắn anh viết năm 2006, ra sách năm 2007 (in chung) nhưng giờ
mới post lên blog của anh và gửi một số trang và như anh nói gửi để tôi đọc cho
vui. Chính vì thế, khi nhìn vào tên truyện, tôi ngỡ mình sẽ được đọc kiểu
truyện chàng khờ với hình tượng nhân vật trung tâm là các anh chàng ngốc nghếch
với những hành động, việc làm… ngây ngô ngớ ngẩn dại khờ đã đem lại tiếng cười
sảng khoái và những trải nghiệm vô cùng lí thú để từ đó người nghe, người đọc
rút ra những bài học cho bản thân. Nhưng đọc xong CHUYỆN
CỦA GÃ KHỜ, tôi chẳng được vui tý nào mà lại cảm thấy đắng lòng khi nhận ra gã
Khờ này phải chăng là một THẰNG NGỐC VIỆT NAM còn sót lại ở đầu thế kỷ 21 này.
Đúng là gã Khờ của Đặng Xuân Xuyến không giống
những chàng ngốc, những thằng dại khờ như trong các truyện dân gian của ta với
cái ngốc cái dại không biết để đâu cho hết khiến mọi người phải ca thán bảo nhau:
Một đêm quân tử nằm kề
Còn hơn thằng ngốc vỗ về
quanh năm.
Hay:
Con vợ khôn lấy thằng
chồng dại
Như bông hoa lài cắm bãi
cứt trâu
mà gã đã từng là một thằng ngốc đại gia trong xã
hội Việt Nam đương thời “đã từng vụt sáng chói lóa trong mắt mọi người”.
Những chàng ngốc trong truyện dân gian vì
ngốc quá nên luôn bị lừa như có anh mười năm đi ở cho lão trọc phú chỉ được ba
nén vàng giả nhưng cầm trên tay, anh ngốc cứ tưởng là vàng thật. Rồi chàng hí
hửng muốn đi du ngoạn khắp nơi, đầu tiên có kẻ gạ chàng ta đổi 3 lạng vàng lấy
sáu nén bạc mà thực ra chỉ là sáu miếng chì, rồi có kẻ gạ đổi 6 miếng chì lấy
bó "lụa đinh kiến" quý hiếm mà thực ra chỉ là bó giấy dó, rồi đổi bó
giấy dó lấy cái “thiên địa vận” biết trước mọi việc trên thế gian mà thực ra
chỉ là cái chong chóng, rồi đổi cái chong chóng lấy viên ngọc lưu ly chưa chắc
vua đã có được mà thực ra chỉ là một con niềng niễng có đôi cánh xanh đỏ.
Gã Khờ trong truyện của Đặng Xuân Xuyến bị lừa
tiền, lừa nhà đi đến cảnh “bây giờ, hắn tiều tụy, thảm thương còn hơn
mèo đi kiết” hiển nhiên không phải vì
gã ngu đần như chàng ngốc kia mà chỉ vì gã có tính thương người và lòng trắc ẩn. Với tấm lòng tốt đẹp ấy, gã rất tin vào tình người nên đã
cho thằng bạn nối khố mượn tiền mà không cần giấy ghi nợ, cũng không cần có người
làm chứng, vì vậy khi cần đến đòi lại thì được thằng bạn “nhướng đôi lông mày
thô đậm, xoăn tít, nhìn hắn từ đầu xuống chân rồi hô hố cười, bảo hắn là thằng
khùng, nếu đói quá, không có chỗ xoay sở thì cầm lấy vài chục nghìn mà đắp đổi
qua ngày, việc gì phải diễn trò ngớ ngẩn như thế”. Tiền không đòi được, hắn tìm về lấy lại ngôi nhà nho nhỏ ở
ngoại ô đã giao cho thằng em kết nghĩa trông coi. Thằng em kết nghĩa này là một
thằng bé đánh giày nhem nhuốc mà gã đã lầm tưởng là người lương thiện nên đã
cưu mang đem nó về nhà nuôi ăn học. Nhưng khi đến ngôi nhà, chạy ra đón hắn
không phải là thằng em kết nghĩa mà là con chó có tên là “Tình Nghĩa”. Rồi
thằng em ấy, khi biết ý định của gã, nó đã không ngượng mồm, nói trắng phớ ra rằng: “Vâng, nhà này mua bằng tiền của anh nhưng em
đã làm sổ đỏ đứng tên là chủ sở hữu rồi” và đuổi hắn đi như đuổi một
con chó.
Hai cái khờ dại, hai cái sai lớn nhất về sự ngộ
nhận tình người đến nỗi gã bỏ ngoài tai những nhận xét tinh tế của vợ gã về ông
bạn nối khố và thằng em kết nghĩa, không để tâm đến những lời can ngăn của thị,
dẫn đến cảnh “nhà hắn thưa dần rồi mất hẳn nụ cười hạnh phúc của người vợ” và đưa
tới cảnh “vợ hắn nằng nặc nộp đơn ly dị”.
Trong một xã hội mà mọi chuẩn đạo đức đang bị băng
hoại, dối trá lừa đảo phát triển như nấm độc khắp nơi nơi như: lừa đảo qua
mạng, lừa đảo bán hàng đa cấp, lừa đảo xin việc làm, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản …, gã Khờ đã không thèm nhớ đến lời mọi người vẫn thường
bảo nhau: Cho bạn vay tiền: "Đứng" cho vay, "quỳ"
đòi nợ, cho thằng bạn nối khố vay tiền mà không cần giấy ghi nợ
cũng không cần có người làm chứng. Trong lúc chưa bao giờ câu nói “tấc đất tấc vàng” đúng
cả nghìn lần như bây giờ khiến cháu giết bà vì sổ đỏ, anh em ruột thịt đâm chém
nhau vì nhà đất, thì gã Khờ lại giao hết giấy tờ và nhà đất cho thằng em kết
nghĩa trông coi hộ. Gã Khờ tuy không ngu đần, không kém về trí khôn nhưng đã
suy xét, ứng phó, xử sự chỉ với thứ lòng tốt đơn thuần và cao thượng của riêng
gã nên mới ra nông nỗi thảm hại hơn cả những thằng ngốc trong truyện cổ dân
gian. Thế chẳng phải là một thằng ngốc còn sót lại ở đầu thế kỷ này thì sao! Và
thế thì làm sao mà vui được khi nghe chuyện về gã? Họa chăng có một chi tiết
làm người đọc vui gượng tý chút, ấy là thấy gã tinh thông về tử vi lý số, biết
về mình: “Thôi thì cũng là do số phận. Cung nô của hắn chẳng ra gì thì đành chấp
nhận. Đã Tham Lang hãm địa lại đồng cung với Thiên Diêu hãm địa thì đời hắn tàn
vì chữ tình là phải.” mà vẫn mù quáng đi đến chữ “tàn”. Thật đúng là “Số thầy thì để cho
ruồi nó bâu”!
Kiểu truyện chàng ngốc trong dân gian thường có hai
xu hướng kết thúc, hoặc là chàng ngốc phải chết hoặc là chàng ngốc gặp may mắn
tìm được hạnh phúc, trở thành người giàu có, khôn ngoan hơn. Gã Khờ trong
truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến đã không
phải chết vì gã không phải là nhân vật xấu, không bị người đời căm ghét; gã
cũng không phải chết để khắc sâu bài học kinh nghiệm sống của con người là:
Đừng ngốc nghếch làm việc một cách máy móc thụ động, không biết suy xét vấn đề
một cách kĩ lưỡng, không hiểu gì về cuộc sống cả mà phải biết làm chủ được
những suy nghĩ và hành động của mình để tránh phải sẽ gặp sự thất bại.
Không bắt gã Khờ phải chết mà rốt cục, Đặng Xuân
Xuyến cũng cho gã được gặp may, nhưng trước khi đến với vận may, gã còn phải ê
chề nếm thêm ít nỗi nhục nhã đắng cay của thời đại mới.
Ấy là, sau khi biết bình đã vỡ rồi, gã Khờ cũng nhận ra là phải lấy thân mà trả nợ
đời cho
xong. Đầu tiên, gã vùi mình trong men rượu rồi tự nguyện làm một “Thằng đàn ông bán
thân nuôi miệng, một thằng điếm”.
Như đã nói, gã Khờ trong truyện
ngắn của Đặng Xuân Xuyến là một kẻ có học. Vậy gã thừa hiểu, ở Việt Nam từ xưa
đến nay người ta đã không mấy ưa loại người làm đĩ, cho dù là đĩ cái. Thì kia,
cô Kiều của Nguyễn Du trong văn chương Việt Nam tuy đã được Kim Trọng khen ngợi
là: “Như
nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”, và cô đã sống trong niềm yêu mến của bao lớp người Việt từ
bậc thức giả đến kẻ bình dân xưa vậy mà cũng vậy, thế mà mấy lần cô Kiều đã bị
cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ yêu nước gọi là "Con đĩ Kiều", "Cái giống độc con đĩ Kiều” .
Ấy là đĩ cái vốn đã cùng với mại dâm xuất hiện và
phát triển từ thời nguyên thủy huống chi đĩ đực mới chỉ đến thế kỷ này mới xuất
hiện. Gã Khờ bất chấp mọi giá làm một thằng điếm, một con đĩ đực vì “Hắn cần
tiền. Hắn cần tạo dựng lại cơ nghiệp. Hắn cần được tung hô, cần được trọng vọng
như ngày trước. Đời hắn không thể thiếu thứ hàng xa xỉ đó”.
Làm đĩ đực, ấy là con tàu tốc hành để gã nhanh
chóng đi tới ga nhặt tiền.
Ngay lần đầu tiên làm thằng điếm đực, gã đã may mắn
không phải hầu hạ một máy bay bà già đã sồ sề, nhăn nhúm nhưng thèm khát tình
dục mà là gặp một “ả” có “Khuôn mặt đẹp, da lại trắng hồng”. Mới đầu, thấy “Ả đẹp. Hắn cũng thích” nhưng khi vào cuộc
gã mới nhận ra ả là một “con vợ đĩ lên đĩ xuống, đĩ ngang đĩ dọc mà
thằng chồng cấm dám ho he”, một “con đàn bà đĩ thõa đang lên cơn động đực”.
Thế là “Hắn không thích cuộc chơi này nhưng hắn không còn sự lựa chọn” vì gã cần tiền như trên đã nói và thêm nữa vì gã sợ cái
thằng vừa dẫn mối vừa bảo kê cho ả mua dâm gã, với “Một giọng nói sắc
gọn, rờn rợn vang lên”:
- Làm bổn phận đi.
Muốn chết à?
ở đằng sau cánh cửa.
Hầu hết các truyện dân gian về các chàng ngốc đều
kết thúc có hậu như gặp vua được vua ban thưởng một chức quan trong triều đình
và sống cuộc đời giàu có sung sướng hoặc nhờ nói mò mấy câu văn chương học lỏm
mà cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Nhưng phổ biến nhất là các chàng ngốc đều
may mắn có được cô vợ thông minh hết lòng vẽ đường chỉ lối cho chồng làm ăn
nhưng ngốc vẫn hoàn ngốc, hết lần này đến lần khác đều thất bại khiến người vợ
bị người đời mỉa mai muốn tự tử cho xong đời nhưng rồi vì lòng thương chồng các
nàng đã bỏ ngay ý định tiêu cực đó, quyết tâm tìm cách giúp chồng trở thành
người khôn ngoan hơn.
Đặng Xuân Xuyến cũng dành cho gã Khờ của mình một
kết cục có hậu tuy rất khác các truyện dân gian. Gã được một người 12 năm trước
đã chịu ơn gã. Người ấy, khi xong việc để lại cho gã một bức thư: “lấy lại đầy
đủ giấy tờ ngôi nhà từ tay thằng em kết nghĩa” của
gã bằng cách làm cho: “Nó thua bạc,
gán nhà trả nợ theo đúng kịch bản mà em cùng nhóm bạn thân dàn dựng”. Người
ấy cũng cũng lấy lại “sợi dây chuyền “bảo bối” mà anh rất quý, bị thằng bạn nối khố của anh
chiếm đoạt” cùng “Số tiền thằng bạn
nối khố lừa đảo, em cũng đã đòi lại và chuyển vào tài khoản cá nhân của anh”. Bằng cách: “dùng các chứng cứ phạm pháp “uy hiếp”, bắt
tên khốn kiếp phải trả lại anh số tiền đã chiếm đoạt, bọn em đã chuyển cho nhà
chức trách những bằng chứng phạm pháp của nó, bắt nó phải trả giá cho những tội
ác đã gây ra”
Một cái hậu tưởng như mơ, đẹp quá sức tưởng tượng
khiến CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ như một cổ tích hiện đại và nhân vật Gã Khờ thấy lại
lòng yêu trời, yêu đất và yêu cuộc sống: “Hắn bước ra sân, ngước mắt nhìn bầu trời
xanh ngắt. Tiếng họa mi nhà ai lảnh lót làm hắn lặng người, rồi bất chợt hắn
mỉm cười.”
Một số bạn đọc cho rằng: “kết thúc truyện lộ bàn tay sắp đặt của tác
giả quá”, nói như các nhà phê bình văn học là tô hồng quá. Thì tác phẩm văn
học là đứa con tinh thần của nhà văn nên nhà văn tạo dáng cho đứa con tinh thần
ấy của mình ra sao là tùy thích. Vì vậy tôi có phần đồng ý với nhận định trên
của người đọc. Nhưng đọc xong CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ, tôi có cảm nhận trong sự sắp
đặt lộ liễu ấy, Đặng Xuân Xuyến đã rất muốn giải trình cùng bạn đọc những suy
nghĩ ẩn dấu bên trong mà tác giả không thể nói trắng ra được. Theo tôi, thì đó
là:
Đành rằng thời đại ngày nay ở nước ta không còn vua
nên gã Khờ sao còn được vua cứu giúp và ban thưởng. Đành rằng, vợ gã Khờ đã cám
cảnh kiểu thương người một cách mù quáng của chồng, đã ly dị gã nên gã đâu còn
được cô vợ thương yêu giúp chồng khôn ngoan hơn trong cách sống của một xã hội
đang loạn chuẩn đạo đức để xóa bỏ ảo tưởng về sự lãng mạn của tình yêu và sự
chân thành của tình huynh đệ, bằng hữu. Không có vua ban thưởng, không còn vợ
giúp khôn nên phải có một người 12 năm trước đã chịu ơn gã nay ra tay cứu giúp
gã. Như thế cũng hợp lý.
Nhưng hà cớ gì người đó không phải là một người
Việt đang sống cùng gã trên giải đất hình chữ S này mà lại phải là một người
Nhật gốc Việt, nói một cách khác là một người Việt đã dời xa xứ sở Thiên đường Xã hội chủ nghĩa của mình để đến sống ở “Đất nước Mặt trời mọc” tư bản đang giãy chết. Bao nhiêu luật lệ để đâu, bao nhiêu người Việt đứng về lẽ
phải đi đâu mà phải để người Nhật gốc Việt đó về nước và như có phép lạ, lấy
lại cho gã tiền bạc đã bị thằng bạn nối khố bất lương quỵt nợ và nhà cửa đã bị
thằng em kết nghĩa chó chết chiếm đoạt. Đã thế người đó còn để lại trong thư
cho gã những lời lãng mạn đẹp như hoa hồng buổi sáng:
“Vâng! Nhất định khi trở
về Việt Nam em sẽ đưa vợ con đến chào anh. Lúc bấy giờ, em sẽ thoải mái được
nói lời cám ơn anh, cám ơn vị ân nhân đặc biệt của mình.
Ps: Anh!
Chị vẫn còn yêu anh
nhiều lắm. Hãy đến làm lành với chị để các cháu được sống trong vòng tay yêu thương
của cả bố, cả mẹ.”
Và vì thế tôi coi nhân vật GÃ KHỜ trong truyện ngắn
của Đặng Xuân Xuyến là một THẰNG NGỐC VIỆT NAM còn sót lại ở đầu thế kỷ 21 này.
Một thằng ngốc hiện đại nên mới có được sự may mắn từ những phép màu hiện đại
như khả năng kỳ tài của anh chàng người Nhật gốc Việt kia. Tôi thấy mình cần
phải đọc CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ này kỹ hơn và ngẫm nghĩ sâu hơn?
*.
Sài Gòn, thứ sáu
09-09-2016
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“CÔ”
SƯỚNG CƯỚI VỢ - TRUYỆN NGẮN
ĐẦY
ẮP TÍNH NHÂN VĂN
*
Cuối tuần trước, nhà văn
Đặng Xuân Xuyến gửi cho tôi truyện ngắn "CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ”, anh viết
từ năm 2015 và mới đưa lên mạng. Anh nói với tôi “viết tặng vợ chồng cậu em họ, cùng làng”, lại thêm lời đề tặng
ở đầu truyện, thì đúng là chuyện thật người thật rồi. Vì thế tôi thích thú đọc
ngay và nhận được từ câu chuyện đầy ắp những tiếng cười vui vẻ.
Truyện vui ngay khi nhìn
thấy cái tên của nó: “CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ”.
Nói như câu ca dao “Vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi” thì
hiển nhiên người vợ của “cô” Sướng là nữ giới rồi. Đúng vậy, đó là nàng Ngân,
một gái quê “không mỏng mày hay hạt
nhưng thùy mị, nết na, không sắc nước hương trời nhưng nét dịu dàng
đủ khiến trai làng phải thầm mơ trộm nhớ. Ngân được người. Ngân được nết.”
Thế thì chồng của nàng
Ngân phải là con trai, đàn ông, nam nhi chứ sao lại là cô
Sướng? Thắc mắc này cũng chính là cái thắc mắc của người kể khi mở đầu câu
chuyện “Vâng! Thì hẳn là “cô” Sướng
lấy vợ chứ làm sao có chuyện “cô” Sướng lấy chồng!”.
Một kiểu vào đề thật
khéo, đánh vào trí tò mò của người đọc khiến họ không thể không đọc tiếp để xem
sự thể nó ra sao.
Và rồi đầu đuôi của
chuyện cứ dần dần được hé mở trong những câu chữ tưng tửng của người kể không
theo một trình tự thời gian nào cả.
Thì ra cô Sướng không
phải là cô mà là cậu Sướng, là anh Sướng, con trai cụ Bống làng Đỗ Hạ. Một gã
trai “Tuy không được cao ráo, mạnh
mẽ nhưng bù lại rất khéo tay, chịu khó lam làm và đặc biệt là người rất tốt nết”. Nhưng
cha mẹ sinh con trời sinh tính, anh Sướng con cụ Bống mang trong mình nhiều
thói nữ tính: Thuở bé, Sướng thích nhảy dây, thích chơi ô ăn quan, thích
chơi trò búp bê, thích buôn hàng, thích cãi lộn. Lớn lên, Sướng thích được
gọi là cô, là chị và khoái nhất khi được mọi người mắng yêu bằng
câu: “Con đĩ Sướng này xinh phết!”.
Rồi, không hiểu sao Sướng lại còn dấp phải tính khí đanh đá chua
ngoa và phát triển khiếu chửi nhau lừng danh thôn xóm.
Nhưng đó chỉ là những dị
tính phát tiết ra ngoài mà thôi, còn trong thâm tâm của Sướng thì: “Thích là thế nhưng Sướng ghét cay ghét đắng
kẻ nào lại thực tâm coi Sướng là phụ nữ, là phận liễu yếu đào tơ, là thân gái
chân yếu tay mềm”. Và để thể hiện điều đó, “Sướng vẫn chưa bao giờ phải tụt quần ngồi xổm mà tiểu tiện”. (Sao
không dùng chữ đái dân giã đời thường thay hai chữ tiểu tiện tao
nhã này nhỉ?)
Tuy là đàn ông thật nhưng
với cái thích là thế, trong mắt dân làng, Sướng không còn là đàn ông
nữa mà là cô Sướng, chị Sướng và mắng yêu anh là “con đĩ Sướng”, như anh hằng thích. Đã thế Sướng lại chơi thân với
Kiên mà dân làng gọi là Kiên “ái”, một gã trai hẳn hoi nhưng lại “dửng dưng chuyện yêu đương trai gái, cứ khó
chịu ra mặt khi có người nhắc đến chuyện lấy vợ”, cùng Sướng nhận nhau
là hai “chị em”, thích được
Sướng gọi là “dì” vì Kiên ít tuổi hơn và cái chính là vì Kiên
“ái” rất yêu Sướng. Chả thế mà khi nghe tin Sướng sắp cưới vợ, Kiên
đã nắm tay Sướng, đăm đắm nhìn thẳng vào mắt Sướng, nũng nịu:
- Nhớ. Sướng đừng lấy vợ nữa nhớ. Sướng mà lấy vợ là em xuống tóc đi tu
đấy.
Một “Cô” Sướng khắp làng
điều tiếng thị phi “dở ông dở bà” như thế, sao nàng Ngân nết na thùy
mị lại nhận lời lấy làm chồng? Có phải vì chơi thân với nhau từ nhỏ, cả 2 cùng
thích chơi nhảy dây, chơi chắt chuyền, chơi ô ăn quan, chơi búp bê, chơi buôn
hàng... nên đã trở thành lứa đôi thanh mai trúc mã đẹp như đôi trẻ trong thơ Lý
Bạch:
Tóc em mới kín trán,
Trước cửa bẻ hoa đùa.
Chàng cưỡi ngựa trúc lại,
Quanh ghế tung mơ chua.
Cùng ở xóm Trường Can,
Đôi trẻ vui tha hồ,
Để rồi:
Mười bốn làm vợ chàng,
Thơ ngây em hổ thẹn
Bên vách cúi gầm đầu,
Mặc cho chàng gọi đến.
Mười lăm mới bạo dạn,
Quấn nhau không muốn rời.
(Trường Can hành - Trúc
Khê dịch)
Hoàn toàn không có chuyện
thơ mộng ấy vì “chưa bao giờ Ngân
nghĩ Sướng là con trai cả.”
Nhưng hiển nhiên
là “cô” Sướng lấy vợ và nhà cụ Bống đang mổ lợn để làm đám ăn hỏi
Ngân cho Sướng. Thế thì duyên do tại sao?
Câu chuyện vui nhất chính
là ở trường đoạn này. Ta hãy lần theo lời kể hóm hỉnh của Đặng Xuân Xuyến:
Trước những lời đồn ra
đồn vào về chuyện thằng con chín phần gái nửa dại phần đàn ông của mình
chuẩn bị cưới vợ; trong lúc đông vui người đang ngả lợn để làm đám hỏi cho nó,
cụ Bống vẻ cũng lo lắng lắm. Vừa lúc đó Sướng đi mời khách về đến nhà.
Cụ Bống kéo Sướng vào,
hỏi dồn:
“- Thầy hỏi, con phải trả lời thật nhé. Con có yêu cái Ngân không? Con có
làm chuyện đàn ông với đàn bà được không? Còn chuyện con với thằng Kiên “ái”
nhà ông Vận thế nào? Thầy nghe thằng cháu đích tôn nói con với thằng Kiên “ái”
yêu nhau, thề thốt nếu không được sống cùng nhau sẽ cắt tóc đi tu. Đã thế, còn
bày đặt chuyện lấy vợ làm gì hả con?”
Sau khi mắng chửi té tát
thằng cháu trưởng hay hớt lẻo chuyện của mình với ông nội, Sướng chưa biết trả
lời bố ra sao thì cụ Bống đã ra tối hậu quyết định:
“- Thôi, không cưới xin gì nữa. Để tôi ra thưa chuyện với bên nhà,
nói rõ “chị” là đàn bà để xin hủy hôn.”
Đến đây thì Sướng cuống
lên:
“- Thầy! Thầy đừng làm thế. Con yêu Ngân thật mà. Con là đàn ông thật mà!
Con thề! Tiên sư bố đứa nào mà con nói điêu!”
Chưa thấy cụ Bống phản
ứng ra sao thì “Vừa lúc đấy, Ngân
bước vào. Như chết đuối vớ được cọc, Sướng vội kéo Ngân vào cuộc.”. Sau
khi nghe con trai mình luôn mồm chị chị Ngân Ngân xin nàng nói cho bố mình
biết mình là đàn ông thật, Cụ Bống nhìn Ngân, nhẹ giọng:
“- Ngân này. Con đẹp người đẹp nết lấy đâu chả được thằng chồng tử tế sao
lại chọn thằng Sướng nhà bác làm chồng? Lấy nhau về, không có con cái thì sao
được hả con? Rồi sẽ khổ cả đời, con ạ. Nghe bác, hủy đám cưới với thằng Sướng nhà bác đi.
Vấn đỏ mặt, nhìn thật nhanh xuống bụng, rồi nhỏ nhẹ:
- Dạ! Con nghe lời thầy nhưng còn cháu nội của thầy thì sao ạ?”
Thì ra chuyện thâm cung
bí sử của họ là ở chỗ cái thằng cháu nội của cụ Bống đang nằm trong bụng Ngân.
Và đầu đuôi chuyện là như vầy: “Trong suy nghĩ của Ngân, Sướng là
một người chị tốt, người chị không giống chị em khác chỉ một điều duy nhất là
khi đi tiểu, chị Sướng không bao giờ phải ngồi xổm”. (Lại đi tiểu!).
Thì nghĩ như vậy nên Ngân mới chủ quan. Tối ấy, sinh hoạt chi đoàn về, trời lất
phất mưa lại còn rét đậm, đường về nhà Sướng thì xa, sợ “chị” Sướng ngấm mưa
ngấm rét sẽ khổ nên Ngân mới rủ “chị” Sướng ngủ lại. Ai ngờ, đêm ấy thành đêm
định mệnh, thành đêm gạo nấu thành cơm, ván đóng thành thuyền”
Và:
“Ngân không ngờ “chị” Sướng tưởng là thằng lại cái, tưởng là thằng vứt
đi, chỉ giỏi mấy trò nhảy dây, chơi chắt chuyền, chơi búp bê, chơi buôn hàng...
và giỏi hăng máu chửi lộn với đám đàn bà con gái,... ấy thế mà khi làm cái
chuyện của thằng đàn ông thì lại thật đâu ra đấy, ra tấm ra đẫn, ra ngô ra
khoai, ăn đứt khối thằng vẫn khoác loác tự nhận là giỏi về chuyện thầm kín của
đấng mày râu! …”
Nghĩ thế, Ngân bằng lòng
đón nhận tình yêu của Sướng, nhận lời lấy Sướng.
Khỏi phải nói cụ Bống vui
sướng ra sao khi biết thằng con của mình tiếng thế mà đàn ông đích thực và cũng
khỏi nói đám “CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ sẽ tưng bừng vui vẻ ra sao ở cái làng Đỗ Hạ.
Khi gửi cho tôi thiên
truyện này, nhà văn Đặng Xuân Xuyến bảo để tôi đọc giải trí. Truyện của
anh đã đem lại cho tôi đầy ắp tiếng cười vui nhưng không phải là tiếng cười mua
vui giải trí như những truyện khôi hài phê phán cái ngược đời, cái trái lẽ tự
nhiên, lầm lẫn, hớ hênh của người đời mà là những tiếng cười tán thưởng, biểu
thị niềm vui, sự yêu mến với con người như “cô” Sướng, nàng Ngân và cụ Bống,
trong đó phần lớn nhất dành cho Cô Sướng!
Một số người trong làng
Đỗ Hạ, điển hình nhất là cụ Vận bố Kiên “ái” đã không ngớt lời miệt thị khinh
bỉ “cô” Sướng. Nào là con dở ông dở thằng, nào là đồng cô, pha gái, lại
cái… Ấy là những tiếng dân giã của những năm xưa trước. Giờ đây, người ta nhập
ngoại về một lô các tên gọi khác như: gay, pê-đê, bóng, chuyển giới, ái nam ái
nữ. Không cần hiểu biết nguồn gốc của các từ ấy, không cần biết nó là tiếng Hy
Lạp, tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng Hán, trong tư tưởng của đa số người dân
Việt Nam, những từ kể trên đều bị hiểu theo một nghĩa là đồng tính luyến ái. Mà
đã là đồng tính luyến ái thì bị đánh đồng với sự sa đọa, bệnh tật, tệ nạn xấu
xa, đều đáng khinh bỉ, đáng bị lên án, nhẹ nhất thì cũng bị phớt lờ, không thèm
quan tâm. Hiểu sai dẫn đến ứng xử sai, khiến một số người như “cô” Sướng trở nên
mặc cảm, sống co cụm lại.
Nhưng “cô” Sướng trong
truyện ngắn của Đặng Xuân Xuyến đã không phải chịu những tai hại của những ứng
xử sai như thế vì “cô” có được mấy cái may mắn:
Một, số người dân làng Đỗ
Hạ đã miệt thị khinh bỉ “cô” Sướng, tiêu biểu như cụ Vận không nhiều. Mà cụ Vận
có quá lời chửi Sướng thì ta cũng dễ bề thông cảm vì cụ mang nỗi khổ ấm ức con
trai mình là “Kiên ái” thực sự là đứa đồng tính luyến ái. Đa phần người dân
làng Đỗ Hạ đều nhìn Sướng bằng con mắt thiện cảm, họ mở lòng chiều cái tính
hây hấy của anh, gọi anh là cô, là chị và sẵn sàng mắng yêu anh: “Con đĩ Sướng này xinh phết!”. Và họ đều
thừa nhận: “Nếu không dấp phải tính
khí đanh đá chua ngoa thì hẳn “cô” là người hiền thục nhất nhì làng xã”. Và
vì vậy, khi nghe tin “cô” Sướng cưới vợ, dân làng đã mừng cho
“cô”: “tính khí của “cô” nửa gà nửa vịt như thế mà có người đồng ý lấy
“cô” làm chồng là may lắm rồi, phúc đức lắm rồi”. Dân làng đông vui đến
ngả lợn giúp nhà "cô" và chuyện trò rôm rả cũng vì cái sự mừng chân
tình ấy!
Hai, Sướng không phải là
ái nam ái nữ hay người đồng tính luyến ái, mà chỉ là một người dị
tính bị thu hút hấp dẫn đặc biệt, “khác thường” bởi những người khác giới nên
thích được gọi là cô là chị, thích chơi các trò chơi của con gái, thích thể
hiện sự đanh đá chua ngoa của những người đàn bà lắm mồm. Trong anh vẫn nguyên
vẹn khí chất đàn ông, khi có dịp nó sẽ bừng dậy đưa anh trở về cuộc sống thật
với con người thật của mình.
Nhưng hai cái may kể trên
chưa cái nào là điều may nhất cho Sướng mà cái may nhất cho anh là anh có được
Ngân, người bạn thân từ tuổi thơ ấu đến cả lúc đã trưởng thành, mặc điều tiếng
thị phi của người làng, Ngân không bao giờ tìm cách xa lánh Sướng. Đã vậy, Ngân
còn rất ngây thơ trong suy nghĩ coi “Sướng
là một người chị tốt, người chị không giống chị em khác chỉ một điều duy nhất
là khi đi tiểu, chị Sướng không bao giờ phải ngồi xổm”. Và nhờ cái ngây thơ
thành thật ấy, Ngân và Sướng đã có một đêm mà tác giả gọi là cái đêm định
mệnh.
Ô hay, sao nhà văn Đặng
Xuân Xuyến lại coi đó là cái đêm định mệnh nhỉ? Bởi lẽ, định
mệnh là số mệnh của con người, do một lực lượng huyền bí định sẵn, không thể
cưỡng lại được khiến nhiều người phải thụ động cam chịu dù nó rủi ro đến đâu.
Cái đêm Ngân - Sướng ấy đâu có phải là cái đêm cả hai hoặc một người trong họ
phải cam chịu mà phải nói, nó là cái đêm kỳ thú nhất trong đời của họ tựa
như cái đêm trong thơ Cung oán:
Cái đêm hôm ấy đêm gì
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng
Tuy Sướng không phải là
bóng dương và Ngân cũng không phải là một đóa đồ mi nhưng cái đêm hôm ấy, Sướng
đã làm cho lửa dục vọng trong Ngân sáng lên rồi được đốt cháy mãnh liệt khiến
Ngân sung sướng thỏa thuê và hiểu chân tơ kẽ tóc cái nam tính trong con người
Sướng. Thử hỏi, nếu trong cái đêm ấy, Sướng không làm được, “quá được” cái
chuyện ấy, cho dù Ngân đã dành cho Sướng biết bao tình cảm cảm tốt đẹp từ thời
chăn trâu cắt cỏ đến nay, sẽ chẳng bao giờ Ngân chịu lấy Sướng làm chồng. Bởi
lẽ, người phụ nữ lấy chồng trước hết là để có được “lời lãi đứa con”: Lấy chồng mà chẳng có con /
Khác gì hoa nở trên non một mình
Và còn bởi, tình dục là
một vấn đề rất đời thường và luôn luôn hiện diện trong cuộc sống của con người
nhưng đã mấy ai trung thực không màu mè nói ra chuyện ấy. Mấy ai được như Ngân,
thẳng thắn thừa nhận với cụ Bống rằng, Sướng con trai cụ đã làm chuyện ấy với
mình, rồi nhìn xuống cái bụng đang mang hình hài đứa cháu nội của cụ.
Vì vậy, “CÔ” SƯỚNG CƯỚI
VỢ không chỉ đầy ắp tiếng cười vui mà còn rất đẹp tính nhân văn. Tác phẩm vừa
miêu tả thực cuộc sống thực của con người vừa vun vào cho khát vọng hạnh phúc
của họ, tán thưởng và biểu thị niềm vui, sự yêu mến với họ. Tác phẩm cũng không
quên phê phán những cái xấu có thể phá vỡ hạnh phúc tự do vốn có của con người.
Đó không chỉ là cái xấu của một số người như cụ Vận luôn tỏ ra khinh bỉ, miệt
thị cay nghiệt một người như “cô” Sướng mà ngay cả Sướng cũng phải lãnh một
phần sự phê bình nhẹ nhàng vì đã để cho cái dị tính trong anh phát triển quá
đà, nếu không được Ngân đưa vào cái đêm định mệnh ấy đưa Sướng về với
đời thực của mình thì không biết số phận đời anh sẽ ra sao?
Khi gửi cho tôi truyện
ngắn “CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ, nhà văn Đặng Xuân Xuyến nói với tôi về tác phẩm của
anh: “Cháu viết cũng vội nên chất
lượng không được như ý”.
Nhưng, ngoại trừ hai
tiếng tiểu tiện tao nhã quá, tôi thấy đây là một truyện ngắn hay, rất
đáng đọc.
*
Sài Gòn, ngày 12/12/2016
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
VÀI
LỜI VỚI ÔNG
NHÀ
THƠ PHẠM KHANG
*
Tôi nhớ, chiều 23 tháng 08 năm 2016, lang thang lướt face
tôi vô tình “nhặt” được đoạn đối thoại của ông “nhà thơ” Phạm Khang với bạn
facebook Nguyễn Quý Mậu. Không hiểu vì lý do gì, khi đọc bài thơ NGẪM của nhà
thơ Nguyễn Dương Cường, ông Phạm Khang lại buông những lời cay
cú: - Bài thơ thì quá dở...cụ
non và học đòi khẩu khí các cụ...chỉ cò cái ảnh thì không có nội dung như
thế...chẳng cần đọc người ta cũng thấy nó có thơ rồi đấy..
Có lẽ thấy lạ nên Nguyễn Quý Mậu tò mò: Bác Khang Phạm ơi thế còn bài thơ LỠ của chú Đặng Xuân Xuyến thì sao ạ.
Xin chép ra đây bài thơ LỠ để bạn đọc tham khảo:
LỠ
Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng
Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông
Thầm thĩ với người từng vun mộng
Trăng kia bến cũ có thay dòng?
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống
Môi kề môi ấy có lạ không?
Và đã khi nào mỏi mòn trông
Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?
Tôi biết, nhưng thôi, chỉ rầu lòng
Ái tình cố níu cũng bằng không
Lòng người còn thẳm hơn sông rộng
Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.
*
Hà Nội, chiều mưa 19.08.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Khang Phạm: - Cũng
không hơn gì. Mượn của người khác cả. Cũ lắm xưa lắm. Nghe thấy mép của cụ
Nguyễn Bính cụ Hàn cười thầm. Lại nghe cái mê loạn của cái tình trăng gió ướt
át của liêu trai...thành ra giả tạo và không thật khiến cho bậc kiêng chữ kiêng
khem khó nuốt trôi được. Thơ đọc được phải có chữ thật của mình gan ruột mình
tuyệt nhiên không uốn éo vay mượn của người khác. Kiếp nạn của thơ khó bắt mạch
và giáo hóa lắm đấy....
Khi Nguyễn Quý Mậu hỏi về lời bình của nhà thơ Chử Văn
Long với bài thơ BẠN QUAN của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thì ông Phạm
Khang trả lời: - Nịnh cả
thôi. Chử Văn Long là chúa nịnh Quý ạ. Đừng cả tin. Bài thơ trên toàn ý của
người xưa. Thời thơ mới. Cũ lắm. Nhạt lắm. Cảnh ấy đâu sống động ở thời @ Quý
ơi.
Xin chép ra đây bài thơ BẠN QUAN để bạn đọc tham khảo:
BẠN QUAN
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn
Mày nhăn mặt chửi tao thằng đểu
Quá nửa đời mãi chửa hết ngu...
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt giống nhau
Mày than đời chỉ rặt những thau
Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào biết bẩn dơ.
Tao gật gù giả bộ ngớ ngơ
Khen các quan vì dân vì nước
Nghe nửa câu mắt mày trợn ngược
Chửi tao khùng hệt “lũ dân ngu”
Mày chửi thề đặc giọng quân khu
Đời đã chó
Quan trường càng chó
Rồi nhăn nhó
Than đời mày nhọ
Mấy tháng trời bổng lộc hụt xơi...
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưởng vờ say.
*.
Hà Nội, trưa 18 tháng 03.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tiếp tục buông lời sỉ nhục ông Đặng Xuân Xuyến (tôi không
tiện trích dẫn vì sợ những câu đó sẽ làm bẩn tai bạn đọc), ông Phạm Khang buông
lời thóa mạ một loạt cây viết khác, rồi “xăng xái”: ... Tối thiểu ở
cái thời gà lợn lên ngôi thì anh ta phải là Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam Quý
ơi... trong khi, chính ông Phạm Khang chỉ là Hội viên Hội Văn Học
Nghệ Thuật tỉnh Thanh Hóa.
Tôi coppy lại đoạn đối thoại trên, gửi qua email cho ông
Đặng Xuân Xuyến, ông điện cho tôi, cười lớn: - Mai ơi anh làm thơ cho vui thôi. Khen đúng, chê đúng, chê sai, đều quý,
đều đáng trân trọng. Chỉ có khen sai mới đáng sợ, Mai à!
Đọc những lời hằn học, sỉ nhục rất vô lối của ông Phạm
Khang mà ông Đặng Xuân Xuyến vẫn tiếp nhận bằng thái độ bình thản, đủ thấy sự
đàng hoàng, hơn hẳn về nhân cách giữa ông Đặng Xuân Xuyến với ông Phạm Khang,
người luôn tự gạt mình, dọa người, “ngộ nhận” là nhà thơ tài năng, đức độ.
Tôi cũng gửi đoạn đối thoại giữa ông Phạm Khang và bạn
Nguyễn Quý Mậu tới một học giả khả kính, được ông trả lời:
“Về bài thơ “Lỡ” của Đặng Xuân Xuyến, khi cháu
viết: “Cháu thấy bài thơ hay” thì chính là cháu đã bình bài thơ đó
bằng một lời gọn gàng súc tích rồi. Bác thêm một ý: Hay và buồn, một nỗi
buồn đẹp.
Trong mấy chục năm Trời cho sống, bác đã đọc khá nhiều
bài thơ và nghe nhiều bản nhạc có cái Lỡ buồn đẹp như thế. Hai câu
thơ của Đặng Xuân Xuyến:
Lòng người còn thẳm hơn sông rộng
Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.
Có thể đặt ngang hàng với những câu thơ, lời hát rất hay
mà bác đã nhớ được:
Hồn tìm theo bóng khách lỡ đi
Thôi thời - gian xóa bao ngày vui
Một vầng trăng vỡ đã thôi không theo nhau
Cuộc tình đã lỡ với bao nhiêu thương đau
Tình ngỡ chết trong nhau
Nhưng tình vẫn rộn ràng
Người ngỡ đã quên lâu
Nhưng người vẫn bâng khuâng.
Chúc Hương Mai vui khỏe, yêu thơ và đọc được nhiều thơ
hay trong bối cảnh thơ đang bị lạm phát ở ta hiện nay.”
Vào google tìm những bài viết về Phạm Khang, may mắn tôi
tìm được bài: NHÀ THƠ PHẠM KHANG: CHẤT NÔNG DÂN TRONG COMPLÊ CÀ VẠT của Lê Tự,
bạn rất thân của Phạm Khang, trong đó có đoạn tác giả viết có thể hiểu đó là
tác giả viết về chân tướng Phạm Khang:
“Hình như đã có một
cái vong của một nhà thơ từ kiếp trước không thành danh nhập vào Phạm Khang
khiến anh ăn không ngon, ngủ không yên vì thơ, một ngày mà không có ai để chia
sẻ thơ thì máu đọng tím bầm trong cổ họng. Nhiều khi đọc thơ cho kẻ ngoại đạo
nghe thì bị nó gọi là ông hâm. Thế mới khổ!
Chính cái vong thơ ấy đã thôi thúc Phạm Khang nghĩ ra
“trăm mưu nghìn kế” cách tân thơ của chính mình, những câu thơ thoát xác, lìa
hồn bây vút lên không trung rồi rơi tõm xuống, đọng lại thành một chất hữu cơ
cho một nhành hoa đỏ thắm nở bung ra. Một quy trình của tạo hóa khiến dù Phạm
Khang có biến thành Tôn Ngộ Không thì vẫn cứ không thoát khỏi cội nguồn, gốc
gác, đó là hiệp sĩ “nhà quê” cầm long đao bằng cành trúc đi dép mo, lướt trên
bờ ruộng giao chiến với con nghé con còn mùi sữa mẹ. Con nghé đứng nghếch mõm
lên trời cao, ỉa một bãi cứt non đầu đời bốc khói. Không còn bất cứ sức mạnh
nào hơn cứt được nữa, con nghé đã thắng, và trở thành bạn của nhà thơ vì
nó cảm nhận được nhà thơ là đồng loại”
Vâng. Đến đây thì tôi đã hiểu ông nhà thơ PHẠM KHANG tâm,
tầm thế nào?!
*.
Hà Nội, 13 tháng 02-2017
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319
quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
GỬI
2 ANH PHẠM KHANG
VÀ
NGUYỄN QUÝ MẬU
*
Tình cờ tôi đọc bài viết của tác giả Vũ Thị Hương Mai trên trang blog
Thạch Đà về cuộc “chuyện trò” của anh Phạm Khang với anh Nguyễn Quý Mậu về
bình bán thơ trên mạng đã kéo cả tên tôi vào mục đích chê bài thơ Bạn Quan của Đặng Xuân Xuyến là
“Bài thơ toàn ý của người xưa. Thời thơ
mới. Cũ lắm. Nhạt lắm. Cảnh ấy đâu sống động ở thời @ Quý ơi.”. Chê khen
bài thơ đã đưa lên mạng tùy quyền từng người nhưng giá anh Phạm Khang phân
tích, dẫn luận cho người khác thấy được đâu là ý của người xưa, đâu là cũ, là
nhạt... còn đưa ra những nhận định chẳng ai rõ ý như thế là ác tâm, nói lấy
được. Tôi định bỏ qua, bởi gần sấp sỉ năm mươi năm cầm bút làm thơ, tôi đã
chứng kiến bao nhiêu người từng đã hùng biện, đánh giá nhận xét, cho mình được
nhân danh để kết tội văn này bồi bút, văn kia phản động, cuối cùng hay dở, đúng
sai không thuộc về ai lớn tiếng, to lời. Bài thơ thì của Đặng Xuân Xuyến, cách
cảm nhận thì của mỗi người đọc, dù tôi có cái thẻ nhà văn mấy chục năm có lẻ nó
vẫn không thể đảm bảo cho thơ tôi tồn tại, nếu thơ tôi không sống được cùng bạn
đọc hôm nay hoặc mai sau, huống hồ tôi khen hoặc chê thơ Đặng Xuân Xuyến hoặc
thơ người khác. “Yêu nhau cau sáu bổ ba /
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”, vì thơ không phải là cau, nên thơ hay
hay dở nó mãi chỉ nguyên có giá trị là vậy, làm gì anh Phạm Khang, hôm nay tôi
mới biết tên, đã biết gì về tôi mà dám hạ những lời như đinh đóng cột: “Chử Văn Long là chúa nịnh Quý ạ! Đừng cả
tin.” Một nhà thơ gần 50 năm cầm bút tôi chưa được nghe ai nói lời này. Vậy
Phạm Khang lấy gì để tự tin mình có quyền làm vậy? Vì lẽ này, tôi gọi điện cho
Đặng Xuân Xuyến để tìm hiểu về 2 anh, thì ra Phạm Khang còn trẻ, làm việc ở Nhà
xuất bản Thanh Hóa, nơi mà trước kia Đặng Xuân Xuyến hay vào làm việc với sếp
của Phạm Khang. Chuyện không ưa nhau trong công việc là lẽ thường, hà cớ gì lại
lên mạng, cố tình nói những lời ác tâm để hạ nhục nhau như thế. Thuở ấy tôi in
thơ cũng nhờ Đặng Xuân Xuyến bán và anh bao giờ cũng lấy phần trăm cao hơn hẳn
nơi khác. Anh nói phải chi phí cho hoạt động kinh doanh như: thuế, lương nhân
viên, cắt phần trăm cho khách,... nên “chuyện
nào ra chuyện nấy, quý chú nhưng cháu không thể bù lỗ việc bán sách giúp chú
được.”. Và anh bao giờ cũng bán được nhiều gấp mấy lần nơi khác nên tuy có
hơi buồn nhưng vẫn thích nhờ Xuyến bán. Giờ chơi thơ cùng nhau, mỗi lần nhớ
chuyện cũ chỉ thấy vui vui: Rằng cái anh chàng sống bằng lợi nhuận ngang ngửa
được với phát hành sách quốc doanh, bây giờ lại phải tập dần coi thường cái túi
tiền vẫn reo vui xủng xoảng để mua lấy những cơn buồn không biết do đâu và cũng
không thể dùng tiền mua được.
Tôi bình bài thơ Bạn Quan vì
vô tình đọc bài thơ Bạn Quan của
Đặng Xuân Xuyến trên báo mạng, điện cho Xuyến, thật lòng khen bài thơ hay.
Xuyến cười bảo tôi: Chú thấy hay thì chú viết tặng Bạn Quan vài dòng đi. Quen biết
Xuyến đã hơn 19 năm, trà dư tửu hậu cùng nhau cũng nhiều, biết Xuyến không
thích người khác khen xã giao, khen không đúng nên khi bình thơ Xuyến tôi đã
kiệm lời. Vì thế mà nhà thơ Nguyễn Đăng Hành mới phàn nàn tôi mượn chuyện bình
thơ để nói chuyện xã hội mà không bình hết cái hay của bài thơ Bạn Quan. Vậy anh Phạm Khang hãy chỉ rõ
bài thơ Bạn Quan đã mượn ý
người xưa và cũ, nhạt thế nào? Tôi nịnh Đặng Xuân Xuyến ở điểm nào để bạn đọc
cùng nghe.
Nếu đoạn trích trong bài của chị Vũ Thị Hương Mai:
“Hình như đã có một cái vong của
một nhà thơ từ kiếp trước không thành danh nhập vào Phạm Khang khiến anh ăn không
ngon, ngủ không yên vì thơ, một ngày mà không có ai để chia sẻ thơ thì máu đọng
tím bầm trong cổ họng. Nhiều khi đọc thơ cho kẻ ngoại đạo nghe thì bị nó gọi là
ông hâm. Thế mới khổ!
Chính cái vong thơ ấy đã thôi thúc Phạm Khang nghĩ ra “trăm mưu nghìn kế”
cách tân thơ của chính mình, những câu thơ thoát xác, lìa hồn bây vút lên không
trung rồi rơi tõm xuống, đọng lại thành một chất hữu cơ cho một nhành hoa đỏ
thắm nở bung ra. Một quy trình của tạo hóa khiến dù Phạm Khang có biến thành
Tôn Ngộ Không thì vẫn cứ không thoát khỏi cội nguồn, gốc gác, đó là hiệp sĩ
“nhà quê” cầm long đao bằng cành trúc đi dép mo, lướt trên bờ ruộng giao chiến
với con nghé con còn mùi sữa mẹ. Con nghé đứng nghếch mõm lên trời cao, ỉa một
bãi cứt non đầu đời bốc khói. Không còn bất cứ sức mạnh nào hơn cứt được nữa,
con nghé đã thắng, và trở thành bạn của nhà thơ vì nó cảm nhận được nhà
thơ là đồng loại”.
cho là những nét điển hình mà Lê Tự phác họa chân dung của Phạm
Khang thì tôi xin được nhìn từ xa “Kính nhi viễn chi”. Bởi Trời sinh mỗi người
một tính, thuở tôi đến với thơ đời trong trẻo lắm. Nên giờ có thể phải sống
giữa khói bụi, sự ô nhiễm trùm phủ đó đây, tôi vẫn không thôi những mơ ước
trong lành… Làm thơ, đàm đạo thơ là đi tìm nét tri âm đồng điệu, khác với cuộc
sống ngoài kia là thắng thua, giành giật... Tài năng đến đâu cũng không dễ định
đoạt dở hay giữa lúc ngôi đền thiêng thi ca không còn nữa thánh thần, huống chi
là người mà gần 50 năm làm thơ, hôm nay đọc bài của chị Vũ Thị Hương Mai tôi
mới biết anh Phạm Khang cũng làm thơ. Liệu nhà thơ trên mạng Phạm Khang có cảm
giác này, ta chưa gặp nhau bao giờ, chả có gì liên quan là vậy, đã nói về nhau
bằng những lời nói để người được nghe không vui thì làm thơ để làm gì giữa cuộc
sống “thơ rẻ hơn bèo” ở chính qua
cách sinh hoạt bình bán của chúng ta đã góp phần hạ giá thơ mà nhiều khi chính
ta không để ý. Nói điều này, từ quan niệm một đời làm thơ của mình, tôi không
dám nghĩ đem kinh nghiệm mình làm mẫu mực. Và tôi chỉ tâm niệm hãy làm những
câu thơ theo nỗi thao thức của lòng, đến tay ai người định liệu chê khen đều
được. Đến cả cái tên cha mẹ đặt cho là Chử Văn Long, dòng họ của Chử Đồng Tử
nghèo nhất nước Việt Nam tôi vẫn để nguyên dưới mỗi bài thơ gửi đi, như sự tri
ân công đức sinh thành của cha mẹ.
Để kết thúc chút tâm sự, giấy ngắn tình dài. Tôi xin gửi tới 2 anh Phạm
Khang và Nguyễn Quý Mậu bài thơ NGHĨ VỀ ĐẤT NƯỚC BUỒN VUI tôi viết gần đây như
một tâm sự bằng thơ cùng nhau không mong gì khen chê ở 2 anh. Giữa ngàn vạn
người làm thơ hiện nay, bài thơ của tôi chỉ như hạt muối thả bể, không mong mặn
hơn nhưng không bao giờ làm cuộc sống nhạt đi.
*.
Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2017
Nhà thơ CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà
Nội.
Điện thoại: 0165.881.82.63
Email: haicv08@gmail.com
CHÀNG
TRAI ẤY BÂY GIỜ RA SAO?
*
Chàng trai ấy là người mà tôi đã viết trong bài Khối tình lận đận của chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến. Giờ
thiều quang chín chục của mùa Xuân năm 2017 cũng đã ngoài sáu mươi, nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến cũng đã ngoài năm mươi, vẫn miệt mài biên tập trang Đặng Xuân
Xuyến, vẫn say mê làm thơ, vẫn nghiên cứu Tử vi lý số và vẫn vui chơi Facebook, nhưng chàng trai trong thơ của họ
Đặng, một chàng trai đã nửa đời “ngậm trái bồ hòn” của một nghĩa vợ tình chồng
tan vỡ thì tôi thực không biết bây giờ ra sao?
May thay, tôi vừa băn khoăn tự hỏi thế thì nhận được ngay câu trả lời. Ấy
là chùm thơ tình mới nhất của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến liên tiếp đăng trên
mạng trong tiết xuân này, và qua đó, tôi thấy được tâm tư tình cảm của người mà tôi đã sẻ chia khối tình lận đận trong
bài đã viết.
Nếu những năm trước, chàng trai ấy mỗi khi tự đối diện với mình, chàng đã
nhận ra sự ngu ngơ của mình về một duyên tình chồng vợ đã đổ vỡ:
Người đi vá víu nụ cười
Tôi hong tơ ướt cũng mười năm nay
Khật khừ say tỉnh tỉnh say
Cứ ngu ngơ đợi heo may trái mùa
Thì bây giờ, xem ra cái ngu ngơ ấy vẫn còn chưa dứt:
Chiều tàn bước thấp bước cao
Đêm mơ hái được chòm sao lưng trời.
Niềm vui
đến chỉ nửa vời
Ngẩn ngơ chi sợi tơ trời,
bỏ đi.
(Hoang Mơ)
Nếu như Ngày lễ Tình yêu năm ngoái, chàng trai ấy đã nếm trải vị đắng cay
của cảnh chăn đơn gối lẻ trong đêm khuya:
Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng
Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường
Ta rụt rè ngóng gió muôn phương
Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng...
Thì Valenti năm nay, niềm đắng cay ấy vẫn còn nguyên vị:
Lại valentine
Lẻ người
Lẻ chăn
Lẻ gối.
Tuy vẫn còn ngu ngơ, vẫn còn hoang mơ, vẫn còn thấy trong lòng nặng trái đắng cay đơn lẻ nhưng xem ra chàng
trai ấy cũng đã có nhiều đổi khác trong tâm tư tình cảm.
Nếu mấy năm trước, được nhiều cô gái khác yêu thương nhưng chàng trai ấy
đã không dám hôn nhân lần nữa vì cảm thấy mình đã chớm già, sợ cưới nhau rồi
trước là pháo hoa sau cũng ra tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ, sợ đến
nỗi có lúc “chàng trai” đã cảm thấy chán cái vị yêu đương mới:
Ta bỗng chán vị yêu nhạt thếch
Xộc xệch tình
Lếch thếch tiếng yêu.
Thì năm nay, cái sự chán vị yêu nhạt thếch ấy dường như đã tan biến khiến
trái tim chàng đã biết say mê rung động trước một vẻ đẹp thiếu nữ:
Ô kìa người ngọc giữa sớm mai
Áo xiêm trễ nải chả chịu cài
Ngực nõn phập phồng ru hồn gió
Bồng đảo in hồng trong mắt ai.
(Thiếu nữ)
Bài thơ tứ tuyệt với bức tranh một thiếu nữ đẹp giữa cảnh sớm mai của mùa
Xuân đã khiến nhà thơ
Nguyễn Thanh Lâm phải tốn công gõ phím với cả ngàn chữ bình luận rất xác
đáng: “Bài thơ cho tâm hồn thư giãn,
quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không
phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu
chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc”.
Người ngọc - Thiếu nữ đã là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân,
vì vậy thơ Đông thơ Tây đã có cả ngàn bài tuyệt tác ca ngợi vẻ xinh đẹp của
thiếu nữ. Nhưng ở Á Đông, do những hủ tục bất nhân, những tập quán ti tiện, xem
thường vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũ, thơ ca có phần dè dặt khi tôn
vinh vẻ đẹp đó. Ba nhà thơ Đường trứ danh của Trung Quốc như Lý Bạch, Bạch Cư
Dị, Vương Xương Linh, trước vẻ đẹp của các cô gái hái sen đã không ai bảo ai mà
cùng phóng bút viết nên mấy khúc ca diễm tình cùng chung
một tên là Thái liên khúc (Khúc hát hái sen).
Đây là cô gái trong Khúc hát hái
sen của Bạch cư Dị: Một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng chèo chiếc
thuyền nhỏ giữa một đầm sen để hái hoa và vô tình thấy chàng trai đang đắm đuối
nhìn mình, người thiếu nữ thẹn thùng, muốn nói chẳng nên lời, để đến nỗi đánh
rơi chiếc trâm cài đầu xuống đáy ao lúc nào chẳng hay:
Sóng đưa lá, gió rung hoa
Đầm sen thuyền nhỏ lướt qua thấy chàng
Cúi đầu thẹn, chẳng nói năng
Ao sâu rơi xuống chiếc trâm cài đầu
Thái Liên Khúc (Bạch Cư Dị-Hải Đà dịch)
Đây là cô gái trong Khúc hát hái
sen của Lý Bạch: Một khuôn mặt đẹp như hoa, hồn nhiên, nhí nhảnh, ngây
thơ bên ngòi Nhược Da, dưới bầu trời cao rộng, trời xanh nước biếc, nắng hồng,
hoa trắng giao hòa tạo ra một vẻ đẹp thanh tao huyền ảo: Có cô con gái nhà
ai,
Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da.
Mặt hoa cười cách đoá hoa,
Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh.
Áo quần mặc mới sáng tinh,
Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng.
Thơm thơ vạt áo gió tung,
Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.
Thái liên khúc (Lý
Bạch-Tản Đà dịch)
Và đây là cô gái trong Khúc hát
hái sen của Vương Xương Linh: Màu quần lụa của cô gái lẫn một màu
giữa rừng lá sen xanh thắm chập chùng, mặt nàng tươi như hoa thắm khó mà thấy, bỗng đâu một tiếng hát khe khẽ
ngân vang mới biết có bóng người:
Lá sen quần lụa một màu,
Mặt tươi hoa thắm như nhau mặn nồng.
Dưới ao trà trộn khôn trông,
Nghe ca mới biết là trong có người.
Thái liên khúc (Vương Xương Linh –
Trần Trọng Kim dịch)
Ba bức tranh thiếu nữ hái
sen với những nét vẽ khác nhau đều tuyệt đẹp. Nhưng vẻ đẹp thiếu nữ đó chỉ
thuần khiết là một vẻ đẹp thanh xuân trong trắng tựa hoa sen.
Ở ta, mới cách nay vài chục năm, người đọc cũng chỉ thấy trong thơ hình
ảnh những thiếu nữ đẹp ngây thơ trong sáng như người thiếu nữ bên hồ Xuân trong
thơ mới của Thế Lữ:
Trên vừng trán ngây thơ, trong sáng,
Vẩn vơ qua một áng hương buồn.
Giây lâu cô vẫn như còn
Lâng lâng trông gửi tâm hồn lên cao.
Mà không thể thấy được một bức tranh thiếu nữ nào với vẻ đẹp phồn thực
của những áo xiêm trễ nải, ngực nõn, bồng đảo đầy quyến rũ như thiếu nữ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.
Một bài thơ Đường được coi là sexy nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa
là bài Thanh Bình điệu do
Đường Minh Hoàng đã lệnh cho Lý Bạch làm để ca ngợi Dương quý phi. Dương qúy phi vốn là một dâm phụ, từng là
vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy. Dương Qúy Phi với sắc đẹp
dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc Sơn muốn cướp người đàn
bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba dân số Trung Hoa thời đó.
Nhưng dưới ngọn bút tài hoa của Lý Bạch, vẻ đẹp viên mãn và gợi dục của Dương
Quý Phi sau một đêm làm tình với nhà vua cũng chỉ như một đóa nhánh hồng tươi
ướt đẫm sương:
Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương,
Mây mưa Vu giúp uổng sầu thương
Và hình ảnh sexy của
Dương quý phi cũng chỉ được diễn tả trong hai câu thơ trác tuyệt này:
Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây,
Hiên sương phơ phất gió xuân bay
Không phải là vẻ đẹp kiêu sa ngồn ngộn của xác thịt như bộ ngực hay
đôi vú mà chỉ là một vẻ đẹp mờ ảo như mây như sương như gió.
Vậy mà, câu “Vân tưởng y
thường hoa tưởng dung” được xếp vào hàng câu thơ gợi dục nhất của cả ngàn
năm nay. Câu thơ này, mới hơn một năm trước đây đã khiến một vị anh hùng lao
động của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bị ném đá tơi bời khi
người anh hùng đã trăm
tuổi này, Giáo sư Vũ Khiêu (tên thật là Đặng Vũ Khiêu) lấy nguyên vẹn câu thơ
tả dâm phụ đó làm câu đối: "Trí như bạch tuyết tâm như
ngọc - Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” để tặng cho hoa hậu Kỳ
Duyên, một cô gái chưa chồng chỉ nhỉnh hơn chắt nội gái của cụ Quốc sư có vài
tuổi.
Giờ đem đặt câu thơ “Mặt tưởng
là hoa, áo ngỡ mây” được coi là câu thơ sexy hết mực ấy bên cạnh những
câu tả vẻ đẹp phồn thực của thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ta thấy vẻ đẹp
kiêu sa của Dương Quý Phi chỉ là một vẻ đẹp của một người mây mờ áo còn vẻ đẹp
của thiếu nữ lại là một vẻ đẹp rất phồn thực và rất cụ thể với áo xiêm trễ nải,
bộ ngực nõn và đôi gò bồng đảo in hồng vào mắt người chiêm ngưỡng.
Tôi đồ rằng khi chụp bức tranh thiếu nữ này, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã
không quên nghĩ đến
bức tranh “thiếu nữ ngủ ngày” trong thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
Rõ ràng, thiếu nữ trong thơ Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã sexy hơn,
gợi dục hơn thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ở câu:
“Một lạch đào nguyên suối chửa thông”
Nhưng thiếu nữ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương là thiếu nữ ngủ ngày và
bị chụp bởi đôi mắt đầy dục vọng của “Quân
tử dùng dằng đi chẳng dứt” còn thiếu nữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là
thiếu nữ đứng trong gió
xuân giữa sớm mai được chiêm ngưỡng bằng cái “Ru hồn gió” vì say mê của tác giả. Nhà thơ hiện đại học tập và
kế thừa nhà thơ lớn của dân tộc như vậy là vừa đủ và thật đáng khích lệ.
Nếu như mấy năm trước, quen một nàng nào đó, chàng trai mới chỉ dám nghĩ
đến là phải mạnh bạo bước qua điều tiếng thị phi của người đời:
Sợ gì danh phận hư hao
Sợ gì thiên hạ trông vào nhỏ to
Sợ gì nhỉ? Chẳng phải lo!
Trai đơn gái lẻ … nhỏ to bằng thừa
(Nhỏ to bằng thừa)
Thì bây giờ, chàng đã biết nói thẳng như ca dao có yêu thì nói
rằng yêu, không yêu thì nói một điều cho xong:
Anh một con
Em cũng một con
Anh mới son
Em cũng đã son
Sao ta chẳng thử thành chồng vợ
Có chi mà mắc cỡ
Hoa đến thì phải nở
Ta chung nhà, chả sao
Nếu như mấy năm trước, chàng đã nhiều lúc se buồn khi nhận ra mình đã chớm già, không dám
mơ xa tới một tình yêu mới:
Thì đấy, em chớm vào hạ
Anh đà ngấp nghé thu qua
Chữ yêu nghe chừng xa lạ
Biết mình, chẳng dám mơ xa.
(Lánh yêu)
Thì bây giờ, chàng không chỉ đã rung động mê say trước vẻ đẹp của thiếu
nữ mà còn rất bạo liệt đón nhận những cuộc vui xác thịt. Bài thơ Cưỡng
đã gây xôn xao trong các bạn đọc thơ của Đặng Xuân Xuyến bởi khúc nhạc giao
hoan bạo liệt của đôi trai gái trong một buổi mưa xuân rỉ rắc và rét ngọt trở
mùa. Bài thơ có 37 tiếng thì 36 tiếng là lời nói, tiếng cười và hành động của
một cô gái máu lửa trong chuyện yêu đương:
Rỉ rắc mưa
Rét ngọt trở mùa
Em vê tròn ném tôi vào cơn lốc
.
Tay run rẩy
lẩy từng khuy cúc
Ngai ngái hương
thầm thĩ
em cười
.
Vít cổ xuống
Cong người
Em rướn...
Đúng là chàng trai
bị cưỡng thật rồi, bởi chỉ nghe có mỗi 1 tiếng cuối là của chàng trai: Em!.
Một tiếng thôi nhưng là tiếng gọi vừa yêu thương
tràn trề thỏa mãn vừa như lời cảm ơn vì đã bị (được) em cưỡng vào cuộc mây mưa
trong “Cái đêm hôm ấy đêm gì?” sẽ
được ghi xương khắc thịt.
Bài thơ Ẩm trời mới ra
lò ít ngày nay nóng hổi những lời kể của một chàng trai được một cô gái “gạ một đêm chồng vợ” vì ẩm trời và vì…:
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm hương
Mấy ngày hôm nay mưa tợn
Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.
Lời kể ngọn ngành rành rọt thế thì đúng là chàng trai bị gạ thật rồi.
Nhưng sau cái đêm bị gạ ấy, chàng đã nói với nàng:
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm
Thoạt nghe ngỡ như chàng giao hẹn với nàng: Chỉ một đêm thôi, không có
thêm một đêm gạ nữa đâu nhé. Nhưng sau cái lời tưởng như thật thà ấy, chàng lại
thòng thêm:
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn
Như nhắc khéo đối tác hay đúng hơn là gạ lại đối tác rằng: Mùa này ẩm
trời dài lắm, không gạ nhau thêm thì da thịt sẽ ươn nhão mất, và không chỉ gạ nhau thêm một đêm đâu mà nhiều
nhiều đêm khiến da đây thịt đấy đến mòn thì mới thôi.
Đúng là cáo giả nai, bụng thì thích mê tơi nhưng lại làm ra vẻ mình chỉ là người bị gạ.
Khi gửi bài thơ này cho bạn bè đọc trước, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến có
viết: “Cháu gửi các chú, các anh và
"bé" Dương Ninh Ninh đọc cho vui ạ!”
Nhà thơ Nguyễn Khôi sau khi đọc đã nói một câu đùa vui: Xuyến đang sức trai hừng hực / 10 năm không vợ/ ôm cái Tình thơ...con
Dê đang bị "hãm" nên cũng dễ hiểu...các bác thông cảm nha...
Còn tôi, “bé” Dương Ninh Ninh thì đọc xong không thấy mấy vui mà còn có
phần chạnh buồn vì tôi đang sống ở phương Nam, trời không ẩm mà lại đang khô
nóng vô cùng. Bài thơ của Đặng Xuân Xuyến khiến tôi cũng muốn được gạ một ai đó đáng để mình tin yêu,
không chỉ một đêm mà đêm đêm cho tôi được mộng mơ trong lời ru nhẹ nhàng, êm
ái: Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây. (Ngậm ngùi - Huy Cận)
Một số bạn đọc phê bình Thiếu nữ,
Cưỡng và Ẩm trời là ba bài thơ gợi dục và xếp
chúng vào loại thơ dâm. Tôi không nghĩ thế, bởi lẽ thời nào, thế hệ nào cũng cần phải yêu và làm tình
đấy thôi.
Lễ giáo phong kiến đã ràng buộc con người một cách gắt gao, ấy vậy mà Thời Hán - Ngụy - Lục
Triều (khoảng thế kỷ III TCN đến thế kỷ thứ VI SCN), dân gian vẫn say mê và
mạnh dạn nói rằng:
Gió xuân thật đa tình
Thổi mở cả xiêm y của ta.
Người ta sống vì tình yêu và dám chết vì tình yêu.
Dưới chân núi Hoa Sơn,
Chàng đã vì em mà chết.
Em một mình biết sống vì ai?
Chàng có thương em hãy mở nắp quan tài.
Không phải chỉ thơ ca dân gian mới mạnh dạn như thế, ngay cả trí thức,
nho sĩ... cũng nói đến tình yêu một cách phóng túng hết mình. Đào Uyên Minh được coi là nhà
thơ bình đạm, thanh khiết bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc, người mà cụ Tam
nguyên Yên Đổ của dân tộc ta đã phải nói: “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”, thì ông
Đào phẩm cách cao quý ấy cũng đã tự bạch:
Ước tình biến thành đôi giầy nhỏ,
Ôm ấp hoài đôi chân của giai nhân.
Bài Nhàn tình phú của
ông Đào còn cháy bỏng thêm nhiều
khao khát hơn:
Nguyện làm chiếc cổ áo,
để hưởng chút hương thừa trên mái tóc em;
Buồn rằng ban đêm áo lại cởi ra,
hận rằng đêm thu sao quá dài.
Nguyện làm dải là thắt,
buộc lấy tấm thân thon yểu điệu;
Than ôi khí trời lúc ấm lạnh,
có khi đổi cũ mà mang dải mới
Đây chẳng phải đều là những lời tự bạch khá "liều lĩnh", có thể
nói là khá can đảm đã vượt qua mọi câu thúc ràng buộc của xã hội thời bấy giờ.
Ở nước ta, Thơ Hồ Xuân Hương thì gần như trăm phần trăm bị coi là dâm
nhưng đó thực là thơ ca ngợi vẻ đẹp cơ thể phụ nữ và đòi quyền sống cho thân
xác con người trong tình yêu đôi lứa bằng những ý tưởng rất táo bạo vượt lên
trên các điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời.
Tự Lực Văn Đoàn và phong trào Thơ Mới giữa thế kỷ trước đã có một đóng
góp cách tân lớn là không như
thơ xưa xem thiên nhiên là chuẩn mực cái đẹp mà con người mới là vẻ đẹp toàn
bích, xác lập và đề cao cái đẹp thể chất của con người. Vì thế mới có một Xuân
Diệu yêu cuộc sống đến cuống quýt “muốn
ôm, muốn riết, muốn say…” (Vội vàng), Vì thế mới có một Hàn Mặc Tử
nhìn thiên nhiên là hiện thân xác thịt, là người thiếu nữ gợi cảm, là cám dỗ
của trái cấm:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...
Và trong lịch sử thơ ca Việt Nam, đã có hẳn một Bích Khê (1916-1946) đã
đặt Dâm ngang hàng với Đẹp, coi đó là một phạm trù thơ và đặt tên cho
nó: thơ lõa thể. Và Bích Khê tự nguyện hiến mình cho loại thơ này:
Tôi vồ người như một miếng mồi ngon
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc...
Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc
Hai tay cào đôi vú trắng như bôn
(Xác thịt)
Nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi chuyên viết về thần thoại cổ tích đã nghe và
chép lại bài thơ dân gian này:
Tài tử, giai nhân, giai
quý thích
Chẳng gì hơn “cái ấy” nữa mà thôi!
Khách văn nhân tài tử ai ai
Sinh cũng đấy, mà chơi thời cũng đấy.
Dẫu lá tre, lá vông gì cũng vậy
Hở hang ra coi thấy, dễ càng đau!
Khách tài tình rày ước mai ao
“mao” càng thú mà
“vô mao” càng tuyệt thú
Mền gấm lơ thơ tơ liểu rủ
Cửa son thấp thoáng gạt hồng non
Quyền thế gì một cái cỏn con!?
Dẫu trăm khéo ngàn khôn rồi cũng mắc
Đố ai biết bên nào là chắc
(Cái ấy)
Liệu có gọi bài chép trên là dâm và tục được không? Chỉ có những kẻ hách
dịch luôn làm ra vẻ đạo đức giả mới cho rằng đó là những câu dâm tục. Bới, chân tướng thật của họ đều là:
Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan
lớn tần mần như ma.
Vì không coi mấy bài thơ tình mới đây của Đặng Xuân Xuyến là thơ gợi tình
dâm tục nên tôi rất mừng khi thấy chàng trai trong thơ của Đặng Xuân Xuyến qua
những bài thơ ấy, bây giờ đã có một tâm trạng mới, dần quên những khổ đau lận
đận, dần xa những ngu ngơ để tâm hồn mình sống lại với những rung động trước vẻ
đẹp cơ thể của thiếu nữ, biết ngân lên sung sướng trong lạc thú thân xác của người đời.
Vậy thì, chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến ơi! Xin chàng hãy quẳng cái
khối tình lận đận mà chàng đã gánh chịu quá nửa đời trai ấy đi mà vui sống. Vui
sống với đời thực, với con người thực của mình. Chỉ có thế, ngày vui mới trở
lại và chúng ta mới có thể:
Cùng với ánh quang minh còn mãi
- Cho người với cảnh quên già.
(Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
*
Sài Gòn, ngày 19/03/2017
DƯƠNG NINH NINH
Email: duongninhsg@gmail.com
NHẮM
RƯỢU VỚI CƯỠNG XUÂN
-
THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Tôi có thói quen mỗi lần
đọc thơ, khi gặp một câu hay, ý lạ thường tự thưởng cho mình một ly rượu - thắp
lửa ở lòng mình, thả hồn lang thang trên ngọn nguồn, bến bờ say của câu chữ. Và
hôm nay đọc tập: Cưỡng Xuân của Đặng
Xuân Xuyến, không cưỡng nổi lòng mình, không thể hoãn cái sự sướng, tôi nhắm
rượu với thơ.
Sao lại Cưỡng Xuân? Người ta thường nói đón
xuân, khao khát mùa xuân về, có người rẽ lá vàng chặn lối xuân đi và chặn nẻo
xuân về; có thể yêu xuân và thù hận mùa xuân, nhưng Cưỡng Xuân thì chưa có ai
dám “liều” như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Mùa xuân như thiếu nữ
huyền bí trong vẻ non tơ mà nhà thơ dám cưỡng xuân sao? Không thể! Nhưng nhan
đề tập thơ là “Cưỡng Xuân” rất lạ,
gợi trí tưởng tượng, hoang mang, mời gọi tìm hiểu. Ôi “Cưỡng Xuân”! Mới nghĩ
đến thôi đã thấy lạ và không khỏi giật mình.
Và tôi như kẻ vụng trộm lắng nghe tiếng nói thì
thầm của đôi trai gái:
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm hương
và tiếng chàng trai:
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm.
Gạ thôi, rủ yêu thôi, có
cưỡng gì đâu! Nhưng tình yêu đến với tình yêu, thực sự như lửa gặp lửa sẽ hòa
đồng cùng cháy sáng. Không mặc cả, không gạ gẫm, chàng trai không những bằng
lòng một đêm mà còn “lo xa”:
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn.
(Ẩm trời)
Thì ra là vậy. Sự lo
lắng của chàng trai đã vén màn bí mật của “Cưỡng Xuân”. Là sự lạ trong tình yêu
mà cũng rất đời thường. Cái sự lạ trong đời
thường không khoác áo đạo đức, mà lại rất hồn nhiên:
Rỉ rắc mưa
Rét ngọt trở mùa
Em vê tròn ném tôi vào cơn lốc...
(…)
Vít cổ xuống
Cong người
Em rướn…
Em…
(Khát)
Cưỡng xuân ở đây là sự
cưỡng của cơn say “Ném tôi vào cơn lốc”
và sự run rẩy của bàn tay, bản năng không lý trí: “Vít cổ xuống/ Cong người/ Em rướn...” theo bản năng yêu... và tiếng
“Em” cuối cùng như tiếng thở gấp, đưa
tình lên đỉnh… cõi bồng lai.
Tôi tự hỏi, tình yêu
điên cuồng mê dại như thế có phải là “Cưỡng” không? Muốn đem lý thuyết phân tâm
của F.Rớt để trả lời mà không thể, mọi lý thuyết đều “mất điện” trong tình yêu.
Hãy nghe trong giấc “Mơ
Đêm” - “Cuống cuồng vòng tay ghì
hơi ấm” - Chỉ ngôn ngữ của thơ mới “ghì
hơi ấm”, chỉ “khi tỉnh rượu/ lúc tàn
canh” nhà thơ mới tự thương mình, giật mình xót xa cho mình:
Giật mình
Ánh mắt nửa đêm
hun hút đại ngàn gió hú...
Thèm trận cuồng lũ
Dào dào trùm ải chờ mưa
Khát...
Khát là sự đòi hỏi của
thể chất, khi khát cần uống, khi đói thèm ăn, nhưng cái khát trong tình yêu dày
vò ở tâm, ở tim, linh thiêng và gần với thánh thần hơn. Cái khát thể hiện bằng
thơ: “Trăng vàng lả lướt bến sông/ Đắm
hồn tôi với mênh mông gió trời” (Mơ). Khát trong cả giấc mơ là cái khát
không bờ, không bến. Và khi đã khát thì ở đâu cũng khát. Cái khát của tình yêu
không có nhà, không nơi ẩn náu mà ở đâu cũng thành quê hương.
Một chiều lạ “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya…/ Te tẻ
chiều/ nhớn nhác/ nhón chân qua”. Chỉ cái khát của tình yêu - của thơ mới
nhận ra vị “te tẻ chiều”, nếm được
tiếng “xáo xác khuya”, thức ngộ bao
chiều mà chiều vẫn lạ.
Tôi đọc bài “Khát” (Lời đề tặng V. yêu). Không biết
V. yêu có phải là vợ yêu không mà sao giống tình vợ chồng đến vậy. Ở đây không
có sự “Cưỡng Xuân” mà rất tự nguyện:
Nào nằm xuống
Vùi ngực anh
Dán chặt…
(…)
Dòng nham thạch cuộn từng cơn nóng hổi
Thế. Thế. Thế
Căng người
Em hứng đợi...
(…)
Thỏa thuê từng cơn khát
Em. Em ơi… đêm sắp qua rồi....
Tình cảm vợ chồng ngoài
cái say, cái yêu thuần khiết, còn có cái say, cái yêu nghĩa vụ. Nhưng ở đây
hoàn toàn thăng hoa “Căng người/ hứng đợi”,
và sự giục giã “Em. Em ơi... đêm sắp qua
rồi” thì không thể yêu nghĩa vụ chút nào, mà cao hơn cơn khát yêu của vợ
chồng. Nhưng nhà thơ đã tự tố cáo mình, trong thơ không thể dối được. Vợ chồng
thì có đêm nay và nhiều đêm nữa, việc gì phải vội, phải sợ không còn nữa mà phải hổn hển “Em. Em ơi… đêm sắp qua rồi.”.
Vâng. Cơn khát này cao
hơn, đằm hơn cơn khát vợ chồng nên không phải vợ chồng mới có chất say - Chất
khát của tình yêu!
Lại một bài “Đêm” nữa tặng V. yêu. Cơn khát nóng ran
làm “Đêm bức bối”, màn đêm như bị
căng ra và nén lại: “Em đè ta nghiến
ngấu/ Đêm chuyển màu”.
Đêm chuyển màu gì vậy? Họa sỹ thực thụ có thể biết
180 màu đen, nhưng màu đêm của tình yêu chỉ tình yêu mới biết, màu của “Đêm lõa lồ/ rần rật/ đốt thịt da.”.
Ôi! Tình yêu đã truyền
vào đêm sức sống, truyền một ngôn ngữ linh thiêng - thần bí mà rất đời.
Khát, yêu, nhớ là mạch
đập liên hoàn trong trái tim yêu, cứ tưởng nhớ là phải xa xôi, cách mặt nhưng
nhớ của Đặng Xuân Xuyến như hiện thực trông thấy rõ ràng, như cuốn phim đời:
Đêm tỉnh giấc
Khát mắt cười chiều qua lăn trên chiếu
Căng người
run rẩy cuộc yêu...
(…)
Gió trườn qua khe cửa.
Đã yêu, ai chẳng nhớ,
nhưng nhớ rất chi tiết “Gió trườn qua khe
cửa” - gió như một chứng nhân có lẽ chỉ nhà thơ mới có. “Gió trườn qua khe cửa” là ngọn gió có
linh hồn, ngọn gió vàng xoa dịu và mát lành cõi phàm tục của tình yêu.
Sếch-xpia bảo: Tình yêu
như người cung thủ bịt mắt mình, phóng mũi tên tình yêu đi đến đâu không cần
biết mà vẫn trúng đích.
Trong cái mê, có cái
ngộ, cái biết, và phải trải qua bến mê mới thấy bờ giác. Đặng Xuân Xuyến đã ngồi
thiền dưới gốc cây bồ đề tình có biết bao năm để ngộ chăng? Cứ tính từ ngày vợ
chồng Xuyến chia tay, hay cộng cả trước và sau thời gian ấy mới đắc đạo tình
hay đốn ngộ. Đốn ngộ là đột biến, đắc đạo là sự tiêm ngộ. Theo tôi thì Đặng
Xuân Xuyến trải qua bao đổ vỡ, hẫng hụt, khổ đau mà đắc ngộ.
Hãy nghe về sự ngộ, sự biết của anh:
Ừ biết
Em rồi chẳng đợi
Mà lòng chẳng nỡ buông lơi
Ừ biết
Chỉ lời giả dối
Mà tin, tin đến cạn lời.
Biết em không thật mà
lòng vẫn tin là sao? Hãy lấy lòng khát yêu để trả lời cho câu hỏi này. Hãy lấy
sự “Cưỡng Xuân” - Gượng yêu làm chìa
khóa mở ra tâm hồn nhà thơ.
Nhà thơ vẫn khát thèm
yêu nên dù biết rằng “em chẳng đợi”,
chẳng yêu mình mà vẫn gượng yêu, gượng tin, thậm chí còn mong nàng nói dối là
yêu mình còn hơn phải nghe những lời phũ phàng nói thẳng - không yêu. Ta nhận
ra nhân cách đẹp của nhà thơ chính ở sự phi lý này.
“Thôi thì sắm vai người dại/ Ngô nghê với tháng năm dài”. Trải qua
những khổ đau, những cơn khát, cưỡng xuân, Đặng Xuân Xuyến chấp nhận “Dại Yêu”, chấp nhận “Niềm vui dẫu chỉ nửa vời/ Có sao đâu/ Vẫn cứ
ngời ngợi hương/ Chỉ tôi/ Chín nhớ/ Mười thương/ Đủ rồi”.
Đọc những dòng thơ, như
nghe tiếng nước mắt chảy ngược vào tâm, giọt nước mắt long lanh ánh sáng thức
ngộ - Thức ngộ sau chén say, mê đắng của tình yêu:
Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta...
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu.
(Em)
Màu của tình yêu là màu
gì vậy? Là 7 sắc cầu vồng sau chiều mưa chăng? Không! Màu tình yêu là muôn màu,
màu của hạnh phúc và khổ đau, không họa sĩ nào vẽ nổi, nó biến ảo trong không
gian, thời gian, trong tâm thức của mỗi người.
Với Đặng Xuân Xuyến là
màu say đắm và màu “Chán Yêu” hòa
quyện, là màu “Bồng bềnh người ơi/ Mây
tím lưng trời” chìm vào “nụ cười bạc
phếch/ Xộc xệch tình.../ Lếch thếch tiếng yêu.”
Tôi tìm thấy ở Đặng Xuân
Xuyến màu của “Đêm trở mình nhiều hơn/
Tóc dầy thêm sợi bạc”. Và đặc biệt ở Đặng Xuân Xuyến là màu của tình yêu
máu thịt dành cho cậu con trai - cái màu máu thiêng liêng của tình cha con đã
giải thiêng mọi màu sắc của tình yêu lứa đôi. “Lặng nhìn con nằm ngủ/ Ngổn ngang nỗi tơ vò”.
Sau màu yêu ngày tươi
đẹp đã qua, con chim thi ca vẫn cất cao giọng hót nhưng không còn là bản tình
ca réo rắt mà là giọng to nhỏ thì thầm:
Mình già rồi anh nhỉ
Thời gian thế mà nhanh
Mới vài chuyện loanh quanh
Tóc đã pha màu bạc...
Giọng thoảng nghe khang khác
Mình già rồi mà anh.
Không ai khuất phục được
thời gian, không ai ở mãi trên đời, yêu đương... mê ngộ một thời rồi đi. Và
Đặng Xuân Xuyến cũng nằm trong quy luật của thời gian như mỗi chúng ta. Chính
vì hiểu quy luật của thời gian mà anh đã “Cưỡng Xuân”, anh “Cưỡng Xuân” và xuân
cũng cưỡng anh.
Nhà thơ “Lánh Yêu” mà vẫn bị yêu: “Sao chẳng nói yêu từ sớm/ Khi anh đương còn
trẻ trai/ Bây chừ lừ đừ, lọm khọm/ Nào ai dám mộng với ai.”. Nhà thơ trách
cô gái trẻ chậm nói lời yêu nhưng trong lòng tự biết tuổi của mình, sức đã
“chồn chân mỏi gối”, lòng thèm yêu lắm nhưng “Chỉ e nhỡ đường ân ái/ Khiến em đứt ruột chiều tà.”
Tôi cam đoan rằng: Tuổi
của Đặng Xuân Xuyến mới 52 còn tràn đầy sinh lực, chưa “chồn chân mỏi gối” tí nào, anh như con chim bị trúng thương tình
ái, đổ vỡ duyên vợ chồng nên sợ “cành cây cong” như chiếc cung thôi. Và chất
quê Hưng Yên ở trong máu còn thắm chưa phai, chưa nhiễm chất thị thành, nên
thèm yêu mà vẫn lo xa.
Lo xa nên nhà thơ mới tỏ
tình với ngôn ngữ dân dã chân thành: “Em
có cần anh không/ Nếu cần hãy cùng anh chung sống”. Chữ “cần”
mộc mạc mà rất thơ mang nặng tâm tình. Tình yêu cần tình yêu như con người cần
không khí để sống. Thiếu sự “cần” ấy - thiếu không khí - có ai sống được bao
giờ. Bài thơ “Chung”, tôi đã bình rồi, không bình lại nhưng vẫn bị sự mộc mạc
của câu thơ “Em có cần anh không” níu
kéo. Tôi đành nhắp thêm chén rượu nữa cho hồn say với sự “cần” yêu.
Thơ của Đặng Xuân Xuyến
chưa đến bực tài hoa, mà là thơ của nỗi lòng, tình yêu và sự đớn đau trong tình
yêu nâng hồn anh thành cánh chim bay đến phía sau của chân trời tình yêu và trở
về với hồn quê - Đất nhãn Hưng Yên:
Về đi em! Về ngắm trăng buông
Câu mái đẩy lèn sâu ký ức
Dựa vai anh ngắm đời rất thực
Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi..
Nếu có tài họa sĩ, tôi
sẽ vẽ bức tranh đồng quê, có đôi trai gái ngồi ngắm trăng buông. Cô gái tựa vào
vai chàng trai, ngắm trăng trời và nghe trăng ở lòng thổn thức. Nhưng vẽ “Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi” thì
thật khó. Chỉ có thơ, hồn thơ quê của Đặng Xuân Xuyến mới vẽ được. Tôi nhắm câu
thơ này cho rượu thêm hương.
Rượu và thơ dẫn tôi đi,
tôi lang thang trong sự “Cưỡng Xuân”
của Đặng Xuân Xuyến. Mỗi bài thơ như cưỡng tôi yêu, và tôi bằng lòng với sự
cưỡng yêu ấy.
Tôi bị cưỡng vào những
khao khát và những giấc mơ, mà từ những khát khao và những giấc mơ ấy tôi lại
được trôi dạt tới bờ bến của dại khờ. Ôi! Sự dại khờ trong tình yêu như một cõi
tiên. Trên đảo bồng lai của dại khờ tôi gặp tôi, gặp những khát khao chân thực
của tình người. Tình yêu cần sự dại khờ hơn khôn ngoan.
Có phải yêu thật lòng
quá thành dại khờ nên Đặng Xuân Xuyến đã “Cưỡng
Xuân”. Tôi nghe thẳm xa trong hồn tiếng của trời, tiếng của mùa xuân thì
thầm trong hoa lá: “Tôi bằng lòng… bằng
lòng.”. Thì ra mùa xuân cũng khát yêu và thèm sự “Cưỡng” như con người. Lâu lắm, xa lắm, trên
thế gian chưa có ai, chỉ có Đặng Xuân Xuyến “Cưỡng Xuân”.
Vì “Cưỡng Xuân” - Tập thơ đầu tay của Đặng Xuân Xuyến, tôi tự rót rượu
thưởng cho mình.
*
Hà Nội, 08 tháng 6-2017
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4 ngõ 179, phố Minh
Khai,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Email: thanhlam.tho@gmail.com
“LAN
MAN...” VÀ LAN MAN
CÙNG
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Khi đọc 2 bài thơ “Lan
man và…”, sáng tác theo trường phái siêu thực của Đặng Xuân Xuyến, tôi
thấy “lạ” và thích nhưng không có ý định viết lời bình. Chiều qua, 14 tháng 06
năm 2017, đọc bài tản văn Cú điện thoại bình thơ của cùng tác
giả Đặng Xuân Xuyến, tôi ôm bụng cười khi đọc lời bàn rất vui của một “ông chú”
về 2 bài thơ “Lan man và...” này:
“- Thơ của cậu thế nào
ý. Đấy đếch phải là thơ. Kiểu như cái bài Lan man và chuyện đàn cừu, với bài Lan
man và chuyện thằng bạn. Đúng là lan man thật. Sao lại lôi con Cừu vào
thơ thế? Lại bình đẳng con Cừu với Con Người Việt Nam ta là thế nào? Cậu có
biết hình ảnh con Cừu trong biểu tượng văn hóa là tượng trưng cho điều gì
không? Là nô lệ! Là tầng lớp bị trị ngu đần và bạc nhược! Ở Việt Nam ta có Cừu
không? Có nhưng không nhiều, rất hiếm, vì đấy là hàng “nhập ngoại” nên không
thể là hình ảnh tượng trưng cho bất kỳ điều gì trong thực trạng văn hóa của
người Việt Nam cả. Cậu dùng hình ảnh con Trâu, con Bò hoặc con Chó, con Lợn,...
còn khả dĩ chấp nhận được phần nào... Đằng này lại là hình ảnh con Cừu. Hẳn cả
một đàn Cừu. Đấy. Phi thực tế như thế mà cũng đưa vào thơ được. Mà... Sao lại “bạn rủ tôi về nhà nghe hát”? Sao không
là bạn rủ tôi về nhà nghe nhạc cho nó sát với thực tế, mà cũng đậm đà chất thơ?
Lại còn nửa đêm sợ tiếng thạch sùng, với những tiếng tờ lạch tạch? Rất yếu đuối, rất phi thực tế. Đàn ông đàn ang, ai
lại sợ những con vật nhỏ bé, yếu ớt như con thạch sùng, con gián, con kiến? Đàn
bà, con gái cũng không ai yếu đuối đến vậy. Đã thế, đêm hôm không lo ngủ, hoặc
lo bảo nhau làm mấy cái chuyện sung sướng lại dựng bạn dậy để khoe nhiều
tiền.... Kiểu... Rất chi là vô học. Ừ. Còn lan man, vô lý ở chỗ: Đang tả bạn
thờ thẫn, man dại vì thèm tiền lại nhảy sang tả khuôn mặt bạn
người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm với những khuôn nét vừa của thánh
nhân, vừa của quỷ dữ. Xong, chốt câu “Tôi
đã từng sợ ma” để hạ màn. Vớ vẩn. Sao lại sợ ma ở đây? Chả ăn nhập gì với
nhau. Linh tinh. Dở oẹt. Tóm lại, đấy đếch phải là thơ. Là tản mạn mấy tiếng
thở dài của mấy thằng dở người nửa đêm nửa hôm đếch biết làm gì nên rủ nhau làm
mấy cái chuyện khác người, rõ ngớ ngẩn.”
Tôi nghĩ chắc cũng không
ít bạn đọc có suy nghĩ giống “ông chú” nọ, vì thế, tôi
cầm bút lan man đôi điều về “Lan man và...” của Đặng Xuân Xuyến,
góp thêm một tiếng nói về cách cảm nhận khác như thế về thơ anh.
1.
Lan man và chuyện thằng bạn là bài thơ lạ, nhiều
tâm trạng, viết theo trường phái siêu thực mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng
khi muốn làm mới thơ.
Để cảm được bài thơ này,
phải lý giải bằng trực giác, bằng cảm xúc mạnh của nỗi lòng. Không thể giải
thích thực tế bằng lối chú giải, phân tích tẩn mẩn, cụ thể như cách cảm nhận
của các nhà thơ thủ cựu. Nếu đọc và cảm Lan man và chuyện thằng bạn theo
cách thủ cựu thì bài thơ này sẽ “thật vớ
vẩn”, thậm chí có người sẽ nhăn mặt: Văn
nhảm chứ thơ phú gì…..
Khung cảnh của bài thơ
là nhà “thằng bạn”, với thời gian là
cả ngày và đêm nhưng cả bài thơ, ở cả 2 phân đoạn thời gian: ngày và đêm, đều
được vẽ bằng gam màu sắc u ám, lạnh lẽo, rờn rợn
vì ám đầy tử khí. Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạn” được bóc trần nhẹ nhàng, từ
từ khi thời gian còn là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian đã chuyển
sang đêm tối (khổ thơ II) thì cái mặt nạ của “thằng bạn” đã bị lột huỵch toẹt, trắng phớ, bằng những câu tưởng
chẳng ăn nhập với cái hành động cũng tưởng như ngớ ngẩn của “thằng bạn”:
Đêm.
Bạn dựng tôi dậy khoe tiền nhiều
Lôi từ gầm giường những tờ tiền đỏ như rưới máu
Tôi không hỏi tiền nhiều từ đâu
Bạn tránh nhắc từ đâu tiền nhiều
Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” đã đủ để vạch trần tất cả: Đó là
những đồng tiền dơ bẩn, những đồng tiền tội ác mà “thằng bạn” đã cướp giật từ những người lương thiện, nó thấm đẫm mồ hôi, nước
mắt và thậm chí cả máu, cả tính mạng của người lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu
nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền
nhiều từ đâu”, nhưng “bạn” vì
nghĩ “tôi” ngờ nghệch, không biết nên
tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”.
Giọng thơ cứ cà tang, cà tang, tưng tửng, tưng tửng mà kỳ thực lại rất tỉnh,
rất lạnh, điểm suốt câu chuyện.
Bóng đêm thường đi liền
với tội ác vì bóng đêm và tội ác là cặp bài trùng. Và trong bóng đêm, bộ mặt,
bản chất của “thằng bạn” hiện lên
thật rõ nét, vì “thằng bạn” với bóng
đêm cũng chính là một cặp bài trùng. Hình ảnh
“thằng bạn” lần nữa được nhà thơ đặc
tả thật ti tiện, đáng sợ:
Cẩn thận
Vuốt vuốt những tờ tiền
Mắt lim dim
Bạn thả hồn vào khoảng không tối lịm
Và, trong cái “Quánh đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện ra rõ nét là kẻ
giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi
của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ.
Đến đây, người đọc chắc
chắn sẽ nhận ra chân tướng “thằng bạn”
của nhà thơ là người thế nào.
2.
Lan man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường
phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu:
Tôi đặt cược đời mình
Bằng nụ cười nhếch mép
Bằng vòm ngực lép kẹp
Bằng căn phòng mốc meo ướt nhép
Bằng cót két tiếng giường ọp ẹp
Bằng cả tiếng ngủ mơ chóp chép...
Tôi kỳ vọng quá nhiều!
Tôi đặt cược quá nhiều!
Hình như...
Đây là tứ thơ mới nhưng
nếu cảm theo cách cảm xưa cũ thì rất dễ đưa ra lời phán: - Nhảm! Viết ba lăng nhăng! Nhưng rõ ràng đây là phân cảnh, là tâm
thức, tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới
nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói
nghèo, lam lũ. Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội
- đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình
như”... Câu “hình như...” nghe
chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng.
Nếu ở Lan man và chuyện thằng bạn là giọng thơ tưng tửng
nhưng lạnh mà tỉnh thì ở Lan man và chuyện đàn cừu lại là giọng thơ trầm buồn,
day dứt.
Nhà thơ tiếp tục câu
chuyện của mình nhưng lại “lan man”
sang chuyện khác, chuyện của đàn cừu:
Đàn cừu
Ngoài kia...
Cấu trúc bài thơ thay đổi.
Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi:
Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp
Cả đàn chết khiếp
Lẩy bẩy
Chen đẩy
Vào chuồng
Ông chủ oang oang
Bà chủ nhẹ nhàng
Đàn cừu
Im lặng
Cúi xuống
Nhai...
Cách ngắt câu thành
nhiều nhịp để diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của
“đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị thống trị,
cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới
nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.
Thật đúng như lời nhà
thơ, chủ bút trang Văn Đàn Việt, cũng là người mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đề
tặng bài thơ, đã viết trên trang facebook: “Tứ thơ mới. Cấu trúc mới. Ngôn ngữ mới cũ
nương nhau, sắt đanh nghe chan chát, âm âm chất thời sự! Chúc mừng tác
giả!”
*.
Trên đây là những cảm nhận cá
nhân của tôi về 2 bài thơ “Lan man và…”, sáng tác theo trường
phái siêu thực của Đặng Xuân Xuyến.
Viết bài “Lan
man...” và lan man cùng Đặng Xuân Xuyến, tôi muốn góp thêm một cách cảm
thơ khác với cách cảm nhận của “ông chú” nọ về 2 bài thơ “Lan man và…” của Đặng
Xuân Xuyến, nên có điều gì sơ xuất, hoặc không đúng, không vừa ý, Đỗ Anh Tuyến
tôi rất mong nhận được sự lượng thứ của quý bạn đọc.
*.
Thái Bình, 16 tháng
6-2017
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email:
dovantuyenbk@yahoo.com.vn
CHÂN
DUNG ĐẶNG XUÂN XUYẾN
TRONG
“99 CHÂN DUNG NHÀ VĂN...”
(Trích
từ: VỀ CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI)
*
“Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu
ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số
89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm
chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn đua nhau in ấn các loại văn thơ: “đâu là
đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng
đại học nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực
nghiệm cho ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu
sách với nhiều bút danh).
Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập
sách, một là Giới tính và giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống
tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực
tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp
người giải phóng mặc cảm, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn
đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử
Vi kiến giải, viết theo quan điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền
nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín
ngưỡng của người Việt Nam thế nhưng cũng bị nhà chức trách thổi còi “đình bản”,
thu hồi. Sau đó sách vẫn được truyền tay tìm đọc, vẫn được tái bản mấy lần. Đó
là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có
giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một
loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu,
Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi
cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm
xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn
ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê
nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy
trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà
thơ rồi.”. Vậy mà bác Nguyễn Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này:
“Buôn sách và viết sách
Vui gà trống nuôi con
làm tình “cưỡng” không thích
Thơ như thời trai son.”.
Thực quá dễ dãi, quá trơn tuột. “Buôn
sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích”
thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt,
cái chân dung để đời của nhà văn?!”
*
Khoan Tế, tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Điện thoại: 0166.467.78.26
TÌNH
TRONG “CƯỠNG XUÂN” -
TẬP
THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Có lẽ không ai cầm tập thơ “Cưỡng Xuân” của nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến mà không có một chút hoang mang với tên của tập thơ... Một người bạn thơ
nói với tôi: “Cưỡng Xuân” là khống
chế mùa xuân, nghĩa là hoặc làm cho xuân đến sớm, hoặc làm cho xuân quay lại.
Với tuổi đời của Đặng Xuân Xuyến hiện nay, cưỡng xuân tức là làm cho xuân đã đi qua quay trở lại. Riêng tôi, tôi cũng
lấy cái chủ quan của mình để hiểu được phần nào ý nghĩa của hai từ “Cưỡng Xuân”
khi đọc được hai bài thơ trong tập thơ này.
Bài thơ thứ nhất có đầu đề là “Cưỡng” như sau:
“Rỉ rắc mưa
Rét ngọt trở mùa
Em vê tròn ném tôi vào cơn lốc
Tay run rẩy
Lẩy từng khuy cúc
Ngai ngái hương
thầm thĩ
em cười
Vít cổ xuống
Cong người
Em rướn…
Em!”
Qua bài thơ này ta có thể hiểu em là người cưỡng xuân, nghĩa là em đã ép
cho mùa xuân tình dục trong thể
xác anh nẩy nở.
Bài thơ thứ hai là bài “Xuân”
như sau:“Áo trắng em cười với gió đông/
Run rẩy đào phai đón xuân nồng/ La đà trong gió đôi vạt nắng/ Ngơ ngẩn trai
làng, ngơ ngẩn xuân”.
Như vậy cũng cho thấy em đã đưa mùa xuân tình yêu thuộc về phần tinh thần
đến sớm trong tim những người trai làng. Vậy qua hai bài thơ trên, có thể hiểu
“Cưỡng Xuân” trong thơ Đặng Xuân
Xuyến là làm cho mùa xuân trong thể xác, trong tâm hồn dậy lên không theo một
quy luật nào. Phải nói rằng tiếp theo cái tựa đề “Cưỡng Xuân” của tập
thơ, hầu như các đầu đề của những bài thơ trong tập thơ này Đặng Xuân Xuyến
dùng từ hoặc cụm từ như “Mơ”, “Lỡ”, “Chấp chới”, “Ấm Trời”…
đều ngắn gọn nhưng trừu tượng, xúc tích, thâm trầm và thâm thúy. Từ đó đọc thơ
Đặng Xuân Xuyến, nếu ta cảm nhận được cái bề dày, bề sâu của nó thì ta sẽ thấy
thơ ấy như một bức tranh nhỏ nhưng mô tả sống động một khung trời, khung đời hiện thực
trong cuộc sống. Người viết bài này xin chỉ đề cập đến một góc cạnh trong phần
nổi bật của tập thơ, với chủ đề tình yêu trong “Cưỡng Xuân”.
Đặng Xuân Xuyến yêu:
“Trái tim anh
không yêu vì thương hại
Sẽ ngàn lần không buộc khổ vào nhau”
(Tình Anh)
Vâng, từ độ ấy đến giờ
Sông trăng dầu cạn vẫn chờ đò xưa
Cầu trời đổ một trận mưa
Cho sông trăng nước đò xưa trở về.
(Sông Trăng)
Đoc những bài thơ của Đặng Xuân Xuyến trong “Cưỡng Xuân” ta hay gặp những cuộc tình chớp nhoáng như chỉ để
khỏa lấp sự trống vắng trong đời nhưng thật ra, qua những câu thơ trên ta khám
phá được tính cao thượng và chung thủy trong con tim yêu chân thành và sâu đậm
của người thơ. Từ cái tình yêu quá đỗi chân thành và sâu đậm đó đã làm cho nhà
thơ trở nên bi quan vì không ai đền đáp đủ trong đời: Quá
khứ buồn cứ để lạc trôi / Trăng với sao không đắp nền hạnh phúc/ Thuyền với
biển không nối cầu nguyện ước/ Mây gió buồn cứ để dật dờ trôi (Quá Khứ).
Tình yêu “trăng với sao” là thứ
tình yêu đầy thơ mộng nhưng cũng không đắp thành “nền hạnh phúc” được. Rồi tình yêu “thuyền với biển” là thứ tình yêu gắn bó keo sơn cũng gảy đổ cây “cầu nguyện ước”. Thế nhưng tác giả không
quên đi bao giờ bởi vì “Quá khứ buồn cứ
để lạc trôi/ Mây gió buồn cứ để dật dờ trôi” nghĩa là nó không tan đi, không biến mất, còn hóa ra thiên hình vạn
trạng, dật dờ trôi trên bầu trời kia mãi mãi. Bầu trời kia là gì? Phải chăng là
tâm hồn bao la của tác giả, là ký ức chứa những đám mây tình.
Từ những kỷ niệm buồn trong đời, nhà thơ mang mặc cảm, không còn thấy mùa
xuân với hoa lá của nó. Nhà thơ nghĩ rằng tất cả niềm vui trong tình đều là sự
“Cưỡng Xuân” nghĩa là mình hay ai đó phải tự làm cho mùa xuân đến, và
chỉ cần đến để thỏa mãn cơn khát tình là đủ:
“Ừ thì rượu. Ừ thì thơ. Ừ mộng đẹp
Ừ thì say chi hỉ hả phong trần
Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.
Yêu thương nhé
Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian…”
(Say Yêu)
Đọc cái chủ đề tập thơ là “Cưỡng
Xuân” và những bài thơ bên trong như “Ẩm Trời”, “Cưỡng”,
“Khát”, “Đêm”, “Say Yêu”… nhiều người có thể cho rằng nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
thiên vể sự khoái lạc của tình dục. Thật thế, trong những bài thơ này tình yêu
nóng như lửa, sôi động như phong ba làm da thịt người xem thơ cũng nóng lên
hừng hực. Tuy vậy, nói như trên là ép tác giả. “Cưỡng Xuân” trong thơ
Đặng Xuân Xuyến chỉ là hành động đáp ứng nhu cầu tình yêu cần phải có do đòi
hỏi của con người, còn “Xuân” với hương hoa đầy đủ ý nghĩa của nó luôn luôn có
trong thơ và trong tâm hồn tác giả nên không cần phải cưỡng. Xuân ấy là sức
sống ứ căng. Có sức sống của xuân thì mới cưỡng được xuân đến với mình. Nếu nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến không có sẵn xuân trong hồn thì sẽ chẳng bao giờ cưỡng được
xuân vì sẽ ít có hoa nào nở trong giá lạnh, mà không có hoa thì chẳng có xuân
bao giờ. Bởi vậy đọc toàn bộ tập “Cưỡng Xuân” với 80 bài thơ ta mới thấy
xuân tồn tại trong mỗi bài thơ với sức sống tươi thắm của nó, ta mới thấy xuân
tồn tại trong nhiều bài thơ với chân tình của nó, với niềm say đắm đam mê,
thanh khiết trong con tim chan chứa tình yêu.
Người viết xin rút gọn bài
thơ có 12 câu còn 6 câu để khái quát cái điều mà tác giả tự nhủ đặt trong tim:
Đừng khắc lời thề trên đá
Đừng khắc lời thề trên cát
Đừng ghim lời thề trên lá
Hãy nghe vọng tiếng con tim!
Hãy thở nhịp đập trái tim!
Hãy đặt trong tim lời thề!
(Đừng Thề)
“Hãy đặt trong tim lời thề”
nhưng nếu ta bị lỗi lời thề thì phải “Cưỡng
Xuân” nghĩa là cố mà quên để “đón bình minh trước cửa”:
Ừ ly nữa/ Ừ thêm ly nữa/ Ừ thì say! Ừ
quên quãng sống thừa/ Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa/ Ta cạn chén đón
bình minh trước cửa. (Men Đắng)
Tuy thế nhiều khi cưỡng xuân phải chịu đau thương vì đó là hậu quá của
những điều trái với lẽ tự nhiên:
Anh ngại ngùng khi em chợt hỏi anh
“Anh hạnh phục hay chỉ là chót lưỡi”
Biết nói sao để không thành giả dối
Rưng rức buồn…
Day dứt giấc mơ trăng.
(Mơ Trăng)
Với những bài thơ như “Người
Xưa”, “Hương Thu”, “Tim Đau” và nhiều bài thơ khác ta
thấy ở Đặng Xuân Xuyến một con tim thả lỏng tình yêu như thời còn trai trẻ, sôi
động, thật thà, tha thiết, chân thành kể cả những lúc cưỡng xuân: Đứng trước em anh thành người rất lạ/ Thả
rông hồn đắm đuối mắt em/ Em rất gần/ Nhưng cũng thật xa xăm/ Em hời hợt để anh
thèm vị biển/ Em hoang sơ để anh khát đại ngàn. (Trả Em)
Yêu như thế là yêu với tất cả trái tim còn xuân. Lánh yêu như sau đây là
lánh yêu với con tim đau nhưng vẫn là con tim còn xuân trẻ: Thôi
đành như người xa lạ/ Hững hờ gom gió mùa đông/ Thẩn thơ nhìn cây trút lá/ Lánh
nghe điệu lý tơ hồng. ( Lánh Yêu)
Tóm lại, đọc “Cưỡng Xuân” của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự rung
động cùng một lúc. Đó là sự rung động của con tim yêu chân tình, say đắm và độ
lượng. Cùng lúc đó cũng bốc lên trong bầu máu nóng của ta một thứ hương tình
cúa thể xác. Hai thứ hương đó quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng trong
nỗi đau khổ quặn thắt. Khoái lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn lửa
của ái ân thể xác và của âu yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến làm lạnh con tim, nỗi sầu được diễn tả như
bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn lòng se thắt. Thơ đó không phải là thứ
thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như những bông hoa trường trãi được nẩy mầm
từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập trong bao nhiêu biến động của đời./.
*
Đà Nẵng, 13 tháng 7-2017
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính,
Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
THẾ
THÁI NHÂN TÌNH
QUA
THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
gửi tặng tập thơ CƯỠNG XUÂN đã lâu nhưng vì bận nên tôi chưa viết lời cảm nhận
được. Hơn nữa, nhà phê bình Châu Thạch và nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm giới thiệu tập
thơ đã khá công tâm, đã đủ ý, đủ lời nên tôi cũng khó viết thêm.
Bài viết này, giới thiệu
một số bài thơ ở mảng thơ thế thái nhân tình, tức thơ thế sự, của nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến, đã được anh công bố rộng rãi trên các trang mạng nhưng chưa in
thành sách, theo cảm nhận của riêng tôi là hay, lạ và độc đáo. Xin được chia sẻ
cùng quý vị.
1.
Quê nghèo
là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến.
Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo,
cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt
rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác
giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê
nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong
khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng
làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa
mà là biểu tượng của thể chế đã giam hãm, trói buộc người dân trong
đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau
của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh
cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt
thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên
tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục
khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người
dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn
hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc
sống người dân xót xa đến mức: “Quê tôi
nghèo/ Nghèo cả giấc mơ.”
2.
Ru Con là bài thơ Đặng Xuân
Xuyến viết tặng con trai của anh, đã làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc
bởi tình yêu con bao la, sự hy sinh cho con vô bờ bến của người cha. Nhà thơ
Nguyễn Đăng Hành khi bình đã bật lên được
thần thái của bài thơ:
“Không một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn”
đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng đã hiện lên hoạt cảnh đầy
kịch tính, xúc động: “Con níu vào giấc ngủ/ Kiếm nụ cười trong mơ”.
Đọc đến đây tôi đã khóc,
khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào
giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ
“níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ
ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi
của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những
thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người
con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ
với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ
con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất
hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là
khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.
(…) Tiêu đề bài thơ tuy
cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương
con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run
rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru Con!”
3.
Lan man và chuyện thằng bạn viết theo trường phái
siêu thực, một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn
làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà
thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong thơ
Đặng Xuân Xuyến.
Khung cảnh bài thơ là
nhà “thằng bạn”, thời gian là cả ngày
và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí. Bao chùm bài thơ
là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ
lạch tạch não nùng...” và “Tôi đã
từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà thơ
- người dân luôn sống trong tâm trạng nơm nớp âu lo hoảng loạn?
Sự giả dối, thói tham
lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng
bạn”, ám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc
trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời
gian chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc
ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với
“những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng
đã đủ để vạch trần đó là những đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ
hôi, nước mắt, thậm chí là máu, là tính mạng của những người dân lương thiện.
Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con
người mình nên tảng lờ, “tránh nhắc từ
đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh
đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ
hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây,
chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích
thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
4.
Khi cảm nhận về bài thơ Tôi
nghe, nhà thơ Chử Văn Long viết: “Mừng
cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể
hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản
trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù
tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ
tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ
trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi
khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng
bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám
câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc
sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che
đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi không đồng
thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận của ông về Tôi nghe:
“Bài thơ không cần đoạn
thứ năm: Tôi nghe… / Những mảnh đời khốn khó / Những anh Vươn sắp trơ lì
hãi sợ / Có câu tức nước ắt vỡ bờ / Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó
đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải
khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng
qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.”
vì khổ thơ cuối không
chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút
trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà
văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những
tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy
ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến
đấu như thế?.
5.
Bài thơ Lan
man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường
phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua
dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh,
chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ
đầu là phân cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động,
thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải
chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng,
tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số
đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê,
rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ “lạ” và mới.
Sang khổ 2, nhà thơ tiếp
tục câu chuyện của mình nhưng “lan man”
chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu/
Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp/ Cả đàn chết
khiếp/ Lẩy bẩy/ Chen đẩy/ Vào chuồng/ Ông chủ oang oang/ Bà chủ nhẹ nhàng/ Đàn
cừu/ Im lặng/ Cúi xuống/ Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để diễn tả sát từng
cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị trị, cùng với cách sử dụng
ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.
6.
Bài thơ Văn
Thùy “dị nhân”, được 2 nhà thơ Chử Văn Long và Nguyễn Đăng Hành cảm
mến viết lời bình, nhưng tôi thích bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành hơn vì ông
đọc được cái hồn cốt, cái thần của bài thơ:
“Đọc Văn Thùy “dị nhân” của
Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về
mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “dị nhân” sẽ không ít người
thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là
thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người
là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà
như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “dị nhân” là bài thơ như thế.
(…) Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt
hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”... Hai câu
“Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi,
nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi”
đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ
bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau
đó:“Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”. Rồi tiếp: “Thiếu vợ/ Thiếu con/ Đâu phải
Kép Tư Bền/ Sao cứ bắt miệng cười tim héo”. Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật
khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng
nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận
cái giá của sự say sưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi
đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước
mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn
Thùy “dị nhân” được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng
đắng cay.”
7.
Trò Đời, sáng tác ngày 08 tháng
05 năm 2017, với dòng chua: kính tặng nhà
thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy
thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.
Được viết ở thể thơ tự
do, Trò
Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ
theo niêm luật mà viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế
thái nhân tình đốn mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi
đương chức đương quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa
nhưng khi nghỉ hưu thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc
lỗi những năm tháng làm quan hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.
Mượn giọng bất cần của
một ông quan đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường,
nhà thơ ngông nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy
cùng diệt tận” đối thủ chính trị cho dù đối thủ ấy đã
“Thất thế sa cơ”, đang cố diễn trò “Ráng
“làm người tử tế””...
Câu kết bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN,
không chỉ là sự trả giá của gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị
“truy cùng diệt tận” mà còn là lời
cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử tế, cho ra
một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.
Chữ NHÂN là nhân tâm, là
phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!
8.
Khi bình về bài thơ Bạn
Quan, nhà thơ Chử Văn Long hạ bút:
“Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải,
vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ
cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào,
hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy.
Thơ Đặng Xuân Xuyến cũng
mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của
một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách,
làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu
ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát
bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là
dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp
người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Tình bạn xa lâu ngày gặp
lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu
cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa
của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng
học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học
ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng
lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra
cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ.
Bài thơ thành bữa tiệc
giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng,
lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật
ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông
cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi.
Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho
vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!”
9.
Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ
rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa
trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế
đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu
thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau
mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại /
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng
Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được
cảm xúc của người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao
trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi
lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn
hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân
hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh
người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay
con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao,
chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần
nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những
yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng
lên Mẹ.
Chưa hẳn là bài thơ
tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một
trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.
10.
Bài thơ “Về
quê đi mày” cũng là bài thơ hay, chan chứa tình của Đặng Xuân
Xuyến với bè bạn, quê hương. Tôi thật sự ấn tượng khi đọc nhà văn Dương Ninh Ninh cảm Về quê đi mày với những dòng:
““Về quê đi mày”, thoạt nghe
tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta
sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của
thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu
bóng dáng những kỷ niệm về nó trong tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm,
bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính
khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ
những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ
dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi
có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người
bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm
thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những
tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ
dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo
nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng
gọi “Về quê đi mày” là ở
đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân
Xuyến.”
&.
Vài cảm nhận cá nhân về
một số bài thơ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, có gì bất cập, mong nhận được ở quý
vị sự lượng thứ.
*.
Thái Bình, 10 tháng
1-2018
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email:
dovantuyenbk@yahoo.com.vn
NHƯ
THIẾU NỮ
ĐÃ
VÀO CHÙA XUỐNG TÓC???
*
(Gửi nhà thơ Đặng Xuân Xuyến)
Lọc ra chừng 8 bài thơ viết về biển
của Nguyễn Thanh Lâm để bình riêng BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM trong RỪNG
XANH MƯA là một việc làm khéo léo. Và bài bình đã làm bật lên cái ý “Thơ
ông viết về biển, bài nào cũng tươi rói cảm xúc, cũng được cảm nhận bằng một
tình yêu trong sáng, thánh thiện của cõi Thiền”
Nhưng có lẽ vì bị ám ảnh bởi sự
thánh thiện của cõi Thiền nên Đặng Xuân Xuyến đã không dưới 2 lần khen Nguyễn
Thanh Lâm:
1/
“với
Nguyễn Thanh Lâm thì biển không chỉ dịu dàng như thiếu nữ tuổi dậy thì mà còn
đẹp hơn thế, khi ông phát hiện: biển trong mưa thật đẹp, đẹp trắng trong, tinh
khiết “Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc”, chỉ nên chiêm ngưỡng bằng tâm thể
thánh thiện của cõi Thiền. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ và cõi phàm trần “trở
bệnh tương tư”, “ngẩn ngơ” tiếc nuối:
Biển lại mưa
Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc”
2/
“Khi
mưa tạnh, biển trở lại hiền hòa, êm dịu, thì dưới lăng kính lãng mạn của nhà
thơ, biển đẹp như “cô gái mới vào chùa chưa xuống tóc”, còn nguyên nét ngây
thơ, trong sáng của tuổi mới lớn. Nét đẹp ấy mơn mởn những phồn thực mà hồn
nhiên, sáng trong, lặng thầm của hương trinh nữ, làm xuyến xao nhà thơ với miền
cảm mến thanh tao, không vẩn nét phàm trần, khiến những trăn trở, nghĩ suy của
nhà thơ về trách nhiệm với cuộc đời trở nên an nhiên, tự tại:
Lòng tôi rỗng không ngắm biển
Tóc trắng trên đầu lặng sóng
Mắt khép hờ lỏng then quá khứ -
tương lai
Hồn nhiên nhịp thở
Hương hạnh phúc dâng đầy”
Liệu các thiếu nữ đã vào chùa xuống
tóc có “đẹp trắng trong, tinh khiết, có
còn nguyên nét ngây thơ, trong sáng của tuổi mới lớn...” không?
Không xét đến, những người đi tu,
nếu là nam thì theo dân gian, đa phần đều là “trốn việc quan đi ở chùa”, mang danh tu hành hoặc nương nhờ, lánh
vào cửa Phật để “trốn việc quan” (như
phu phen, tạp dịch, thuế má, lính tráng, thậm chí trốn trọng tội đã vi phạm
ngoài đời... nói chung). Chính vì thế một số triều đại phong kiến đã phải ra
chính sách hạn chế người đi tu. Tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh đã nói
rõ điều này: Sãi nói mình là người đi tu bất đắc dĩ, đầu Phật cốt để "khỏi xâu, miễn thuế", nay thấy Vãi
"thanh tân, đẹp đẽ" nên
muốn rủ Vãi "tu hoài, tu hủy".
Bị trách mắng, bị cự tuyệt, Sãi chẳng cần dấu diếm, bày tỏ hết cái chân tướng
"hổ mang" của mình ra...
Còn các thiếu nữ đã xuống tóc đi tu
như trong thơ Nguyễn Thanh Lâm và trong lời bình của Đặng Xuân Xuyến thì văn
học nước nhà cũng đã có không dưới ba nàng nổi danh:
Truyện Quan Âm Thị Kính cốt tả đức tính nhẫn nhục và
lòng từ bi của bà Thị Kính, vì đó mà sau này bà trở thành Phật Quan Âm. Nhưng
người con gái nết na, xinh đẹp ấy cũng vì bị nghi oan âm mưu giết chồng,
bị nhà chồng mắng chửi và đuổi về nhà bố mẹ đẻ nên quá buồn tủi, bèn giả trai
đến tu ở chùa Vân (Vân Tự), được đặt pháp danh là Kính Tâm.
Hàng loạt ca khúc nổi tiếng "Chuyện
tình Lan và Điệp" viết về đôi trẻ yêu nhau nhưng bị số phận đớn
đau chia uyên rẽ thúy, được nhiều người ví như Romeo và Juliet hay Lương Sơn Bá
và Chúc Anh Đài của Việt Nam, lấy nguồn từ tiểu thuyết "Tắt
lửa lòng" của nhà văn Nguyễn Công Hoan. Cô thiếu nữ Lan ôm mối
tình tuyệt vọng bỏ nhà đến chùa để cắt tóc đi tu và rồi kết cục:
“Đời Lan khác chi,
Như một cành hoa xuân hương sắc sớm
phai mau
Một đêm gió mưa bên ngọn đèn quạnh
hiu
Lan đã cướp linh hồn
Ngoài xa từng tiếng cú kêu sương
nghe thê lương
Gió than não nề trong màn đêm nghe
đau thương
Từng hồi chuông ngao ngán ngân dài
như khóc than,
Tiễn một linh hồn’’
Một chú tiểu cũng tên là Lan trong “Hồn
bướm mơ tiên” của Khái Hưng là một cô gái vì lý do đặc biệt mà phải cải
nam để tu hành. Giả trai rồi mà chú tiểu Lan vẫn còn xinh đẹp đến nỗi chàng
sinh viên Ngọc, lần đầu lên chùa gặp mặt đã phải thắc mắc: "Quái lạ! Sao ở vùng nhà quê lại có người đẹp
trai đến thế, nước da trắng mát, tiếng nói dịu dàng trong trẻo như tiếng con
gái”. Và rồi Ngọc đã nhanh chóng phải lòng Lan. Và sự có mặt của Ngọc
đã đánh thức trong Lan cái gọi là tình yêu, gieo vào tim nàng những tiếng yêu
êm ả.
Vì vậy ví von:
“Biển lại mưa
Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc”
Không hẳn là trắng trong tinh khiết
như nhà thơ và cả người bình đã cảm hứng.
Về Mưa biển, tôi nhớ nhà
thơ, nhà giáo Thúc Hà (Hà Thúc Chỉ), dạy học ở Hải Phòng cùng thời với tôi có
viết:
“Bỗng đâu mây kéo tối sầm
Con thuyền xa cũng khuất dần dặm
khơi”
Trong âm nhạc cũng có bài hát nổi
tiếng Mưa trên biển vắng, vốn là một ca khúc tiếng Pháp được dịch lời
sang tiếng Việt:
“Mưa buồn mãi rơi trên biển xưa âm
thầm
Ôi biển vắng đêm nao tình trao êm
đềm
Cơn sóng nào, gợi lên nỗi đau trong
em
Bao nhiêu chiều lang thang …. một
mình”
Xem ra thơ và nhạc về biển trong mưa
không thật đẹp, đẹp trắng trong, tinh khiết mà buồn buồn, ấy là biển trong mưa
không phải vào những hôm chớp bể mưa nguồn.
Thích bài bình của Đặng Xuân Xuyến
thì viết thế thôi.
*
Sài Gòn, ngày 9 tháng 5-2018
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
THƠ VỀ RƯỢU
HAY NỖI BUỒN RIÊNG MÌNH
VÀ
NỖI BUỒN NHÂN THẾ CỦA NHÀ THƠ
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN?
*
Tuần trước, nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến gửi cho tôi chùm thơ về rượu của anh, bảo để tôi đọc cho vui
nhưng vui sao được khi mà cả chùm 10 bài thơ đều thấm đẫm một nỗi
buồn: Nỗi buồn riêng mình của thi nhân và nỗi buồn vì nhân tình
thế thái.
Người ta thường
nói “Trà tam tửu tứ", nghĩa
đại chúng nhất là “Uống trà không
nên quá 3 người, mới thưởng thức hết cái thú vị của nó. Còn uống rượu phải
từ 4 người trở lên mới vui, mới náo nhiệt”. Nhưng trong 10 cuộc
rượu của Đặng Xuân Xuyến khồng hề thấy có một cuộc rượu bốn người nào mà
chỉ thấy toàn những cuộc rượu một mình nhà thơ hay những cuộc rượu có
thêm một người nữa là hai. Và cả chùm 10 bài Thơ Về Rượu thì có tới quá nửa số bài là
độc ẩm.
Trước hết
là bài Một tôi với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài
thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có
một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm
gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy
rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì
lại khác. Bởi lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12
chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Đông vốn
kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có ai
khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối cảnh
không gian và thời gian lại là:
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió
cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ
bé.
Thi nhân đã cô đơn lại
thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí
bao quanh lạnh lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà
thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:
Một bàn tay lạnh quờ vai
lạnh
Bàn tay của mình
quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình
tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật
lên:
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà
giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài
thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài
dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn
rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn
bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều
hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Đặng
Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều
từ 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Rượu
say là cuộc độc ẩm của nhà thơ dưới
trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn khích:
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Thế rồi say trong
men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn
nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung
Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta được say.
Bài thơ là một tưởng
tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên
tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi
bá Tản Đà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một
đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung
trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung
Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn
thoát ly cõi trần quá buồn chán.
Tiệc Rượu Trong Mơ cũng là một cuộc
độc ẩm diễn tả tâm trạng muốn thoát cái “Một tôi” đơn côi bằng cách để trí tưởng
tượng hiện lên một thằng bạn đối tửu trong mơ. Cuộc đối tửu đã đến hồi kết:
Dốc ngược chai
Chắt thêm vài giọt rượu
Cạn ly này
Mai mỗi đứa một nơi
Cả hai đều đã say nên
cứ mày rót, tao rót, khề khà nhấp môi rồi kể lể tình cảnh
ngày mai chia ly mỗi thằng mỗi ngả, mày tao đều chung kiếp không nhà nhưng rồi
sẽ:
Tao xa lạ
Cõi trần đày đọa
Mày xa hoa
Tiên cảnh phiêu bồng...
Và họ cứ cạn
nhé, cạn nhé chưa biết cuộc rượu tàn khi nào. Bài thơ tưởng như mình
đã có bạn cùng uống rượu. Nhưng than ôi, đó chỉ là một cái bóng người
trong mơ.
Men Đắng cũng là bữa rượu
một mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng
đã tan vỡ, từ mười lăm năm trước về trong
hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm đó, cái men mà:
Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn
Cho nên tay nâng chén mà trong lòng vẫn cảm thấy:
Thon thót sợ vô tình gặp lại.
Tự gật đầu với mình “Ừ ly nữa”, thêm rượu để cố
quên đi nhưng:
Cạn ly này có quên được chuyện xưa?
Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?
Và rồi chuyện xưa
cứ hiện về rõ mồn một:
Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo
Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ
Nhưng đâu phải thế, mà chỉ vì:
Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ
Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.
Người đã như yêu
tinh, như hồ ly mà lại thêm trời cũng
ăn ở bất công: Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ
Nên ta đành phải:
Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ
Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.
Men Đắng đầy bi phẫn vì không biết
phân tỏ cùng ai, tưởng như sẽ đẩy nhà thơ vào miền
bế tắc. Nhưng may thay vẫn có một chút ánh sáng là khi cuối cuộc
độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân tướng không tốt đẹp gì của người đã
đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho mình ly nữa, ly nữa để quên
đi cái bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang đợi: Quên bóng tà lẩn khuất
phía song thưa/ Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.
Bữa rượu một mình cuối cùng trong
chùm thơ về rượu là bài thơ Chết. Bài thơ chỉ có 4 câu nghe
như tiếng nghẹn nấc khi nhà thơ nhấp
chén rượu buồn cay đắng tiễn người mình yêu đi lấy chồng và thấy trái tim mình đang dần chết: Kể từ trăng tàn ấy/
Ta chết dần ai hay.
Bài thơ khiến nhiều
người nhớ tới Chuyện tình buồn của nhà
thơ Phạm Văn Bình đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
Ngày nhà em pháo nổ
Tâm hồn anh nhuốm máu
Ôi nhát chém hư vô
Ôi nhát chém hư vô.
Chuyện Tình Buồn chứ không phải Chết
nhưng cũng nhuốm máu đau thương bởi những nhát chém hư vô!
Thế Gian
Say gọi là cuộc rượu một người cũng được hay cuộc rượu hai người
cũng được. Một người vì bài thơ là lời của Đặng Xuân Xuyến nói
về thế gian say. Hai người vì bài thơ có đề tặng nhà
thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai thi nhân đã
đối ẩm với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc
rượu thì nhà thơ họ Đặng ghi lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng.
Dù hiểu cách nào thì Thế Gian
Say cũng là một phiếm đàm về cái say rượu của người đời:
Thế gian say đòi đập chén trở cờ
Thế gian cười.
Thế gian khóc.
Thế gian mơ
Người đời say đòi “đập chén trở cờ” rồi cười, rồi
khóc, rồi
mơ, rồi thêm nữa:
Ngật ngưỡng bước.
Khành khạch cười.
Chửi cha thiên hạ dở!
Tôi từng nghe, cũng
chính người đời đã phân ra ba loại say lớn trong
thế gian: Loại thứ nhất, say như khỉ, hết "nhảy múa rồi đến ca hát hay chửi bới”, loại
thứ hai, say như lợn, "nặng
nề, trì trệ và muốn ngủ", loại thứ ba, say
như dê, "không có đầu óc,
nhưng dâm đãng".
Thế gian say trong
thơ Đặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất, say rồi chửi cha thiên hạ.
Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Đặng xuân Xuyến và Hoàng Xuân Hoạ?
Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế,
cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có
của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất
cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại...” Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại đã thấm gì
so với Trương Tửu và bạn ông khi say:
Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả
Hình như hai nhà
thơ họ Đặng và họ Hoàng rất tương đắc khi chê “Thế gian say đòi đập chén trở cờ”. Tôi tra từ điển
“trở cờ” nhưng không thấy mà
chỉ có “trở” được định nghĩa “Đảo
ngược vị trí đầu thành đuôi, trên thành dưới, trái thành phải hoặc quay
ngược lại đi hướng khác”. Dù thế nào trở cờ cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng rượu cho mình
uống giờ say đòi đập nó, không xấu thì là gì?
Bài thơ Thế Gian
Say hay nhất ở câu cuối:
Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!
Ngày xưa, tiền chi tiêu
trong dân chúng là tiền gián, với một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới
hào là xu rồi đến chinh và kẽm. Ca dao Việt Nam có nhắc đến người nội
trợ đi chợ:
Một quan tiền tốt mang đi
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra
Thoạt tiên mua ba tiền gà...
Ngày nay, đồng tiền Việt
Nam được lưu hành trong dân chúng, thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn
đồng. Nhà thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình đi chợ:
Nửa triệu tiền tốt mang đi
Em mua những gì?- máy tính thẩm tra
Xem vậy, rượu ba xu thời
nào cũng là thứ rượu rẻ tiền nhất. Nên cái đáng cười người
đời là đã phải uống cái thứ rượu mạt hạng ấy mà không biết mình là ai
lại đòi đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc, rồi mơ và chửi thiên
hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ. Nhưng trong cái đáng chê
cười ấy cũng nên có chút lòng thương xót vì họ toàn là dân nghèo khốn
khó. Những kẻ giàu sang chơi những loại rượu Sake, Shochu, Whisky, Chivas… dẫu có say điên đảo vẫn có kẻ hầu người
hạ và có ai dám bảo chúng hoá thằng rồ đâu. Bởi ở đời này,
“ông” nào nói to, “ông” nào nhiều tiền thì “ông” ấy đúng!
Vả lại:
Thế gian còn dại chưa khôn
Sống mặc áo rách chết chôn áo lành
Vậy phiếm đàm
về thế gian say thì cứ phiếm nhưng đừng quá chê trách họ.
Những cuộc rượu hai
người trong chùm thơ về rượu của Đặng Xuân Xuân
Xuyến hầu hết thấm đẫm nỗi buồn vì nhân tình thế thái.
Hai bài thơ Quan
Trường và Bạn Quan đều diễn đạt tâm trạng
nhà thơ khi uống rượu với hai người bạn làm quan. Thói thường khi có bạn
làm quan người ta thường hãnh diện và coi đó là một may mắn và một diễm phúc.
Nếu bạn là quan lãnh đạo cấp cao, người ta còn cố chụp chung một
bức ảnh bắt quàng làm họ rồi treo giữa sảnh khách để loè khoe
thiên hạ. Đặng Xuân Xuyến, ít nhất có hai bạn quan nhưng
anh không có cái ý khoe khoang đó .
Thằng bạn trong Quan
Trường là một quan chức to vừa “ngã ngựa” vì bị bọn đồng liêu ganh
ghét không cùng dòng chảy với chúng:
Đục kín dòng mày lại cố gượng trong
Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng
Vì thế, nhà
thơ an ủi bạn:
Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại
Làm “quan to” ngã ngựa cũng chả hèn
Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi
Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.
Rồi chân tình khuyên bạn:
Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng
Cứ vui đi, mặc thiên hạ vào tròng
Tiếc làm gì mấy thứ của phù du
Thiên trả Địa, đếch gì mày cay cú.
Bài thơ cho ta
thấy, tuy không làm quan nhưng Đặng Xuân Xuyến biết rất
rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí hiểm ấy luôn có những đám mây đen âm
mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh toán nhau bất kì nổi lên gây ra không
biết bao nhiêu thảm kịch.
Ở đấy đầy dẫy những
kẻ mặt dày vô sỉ, đầy quyền mưu quyền
biến, đổi trắng thay đen, gian hùng, giả nhân giả nghĩa…Vì
thế nhà thơ gọi chốn quan trường là nơi thiên hạ đú, thiên
hạ cù và văng thẳng câu chửi vào cái thiên hạ ấy:
Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú
Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù
Rồi mời rượu bạn để:
Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu
Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.
Thái độ của nhà
thơ là rất thẳng thắn coi khinh chốn quan trường và cảm thông sâu sắc với
bạn mình, tuy làm quan nhưng vẫn còn chút thanh sạch
và chưa bị tha hoá nên đã bị cả một lũ quan trường, chúng nó
đập.
Người bạn quan
thứ hai của nhà thơ trong bài Bạn Quan là một quan
chức đang tại vị, về quê mở tiệc tẩy trần, khách mời là nhà
thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì khác thằng bạn quan bị ngã ngựa,
bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ vạch
trần bộ mặt thật của thằng bạn cũ lâu ngày gặp
lại:
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày là thằng đã
bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải thu hồi vốn, thu hồi xong
phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không
từ thứ gì của dân.
Thêm nữa, cái tài học và
tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ gì nhau:
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Tưởng nói trắng phớ
ra như thế thì mình sẽ hả dạ, bớt đi đau buồn thua thiệt trong cõi đời đen bạc.
Còn nó, thằng bạn quan sẽ mất mặt vì nhục nhã. Nhưng cái hay ở bài
thơ là thằng bạn lại không thấy như thế. Mà y đợi:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Ơ hay, sao
chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại phải “ghé tai”, “nói thật nhỏ” đến nỗi bạn phải “căng tai mới rõ”. Phải chăng quen sống ở chốn quan
trường, nơi mê cung bí hiểm đã thành động hình trong y,
lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi là sự thực. Nay
chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là “Quá nửa đời mãi chửa hết ngu…” thì nỗi sợ ấy không còn
nữa nên y mới có đủ dũng khí để nói ra cái sự thực ấy:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó, vịt giống nhau…”
“Quan càng lớn, chữ nhân càng nhỏ…”
“La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ!”
Đúng là y nói rất thật
nhưng cũng đúng y là một thằng học ngu vì y chưa
đọc hết câu: “Làm người là khó, làm
người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều”
Vẫn đang đà giả tỉnh giả
say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ: Khen các
quan vì dân vì nước. Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang
đà được nói thật nên đáp lại cũng rất thật: Đời đã chó/ Quan trường càng chó
Tuy y nói thật
thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy trần
hôm nay là tiệc của nhà quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã “Ăn của dân không từ cái gì”, đã “La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ”. Vì vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Bạn Quan là một bài thơ hay,
một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để nói thật lòng mình, rất đúng với câu “Lời
say sưa mới là câu chân tình” (Trần Huyền Trân) cho ta thấy
bộ mặt thật xấu xa bỉ ổi của bọn
quan trường trong xã hội hiện nay.
Đời Khát với lời
đề tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà
thơ và một nghệ sĩ. Hiển nhiên rượu phải ngon và
quý: Rượu tình đời men ủ nhiều
năm. Họ khát gặp nhau và khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một trận càn khôn túy lúy:
Này thì khát!
Uống cho đời đỡ khát
Rượu tình đời men ủ nhiều năm
Khát chất chồng
dồn nén
tháng năm
Ta đốt cạn cái đong đời cay đắng
Họ liên tiếp chuốc
rượu mời giục nhau trong ba khổ thơ liên tiếp khổ nào cũng
mở đầu bằng hai câu:
Uống!
Thì uống!...
Uống để cho hết u
buồn, cho Nhật Nguyệt hửng nắng, cho lòng ta và lòng bạn không hổ thẹn giữa một
thế gian “sấp ngửa trắng đen”, và để: Rượu tri âm thêm vững
mạnh bước đường! Đúng là thi nhân,
nghệ sĩ say thì chữ nghĩa tràn chiếu rượu
Thân phận nhà
thơ Đặng Xuân Xuyến thì bạn đọc đều đã biết,
chỉ xin vài nét về tài tử Võ Hoài Nam để mọi người hiểu
thêm về kèo rượu của đôi bạn.
Bố mẹ Võ Hoài
Nam ly hôn khi anh mới lên hai, kể từ đó, Võ Hoài Nam sống
như một đứa trẻ không có gia đình. "Đầu đường, xó chợ đã dạy tôi nên người”. Đấy là lời dũng
cảm anh tự nói ra. Trở thành diễn viên chính trong series phim "Cảnh
sát hình sự", Võ Hoài Nam được coi là một trong những tài
tử hàng đầu của điện ảnh phía Bắc. Khi đang ở đỉnh cao của
sự nghiệp, anh bất ngờ rời xa màn ảnh cùng vợ mở quán
ăn để có đủ cơm áo chăm lo cho đàn con 4 đứa..
Võ Hoài Nam tâm sự:
"Đối với tôi, tiền không phải là tất
cả, tiền không đánh đổi được tình nghĩa, hạnh phúc gia đình. Nghĩ vậy nên tôi
dừng lại, không dấn thêm một bước nữa". Thật không hổ thẹn khi không ham tiền và ham sự nổi danh
dưới ánh đèn sân khấu.
Đúng như câu
thơ Đặng Xuân Xuyến:
Ta như bạn sống một đời không thẹn
Say Yêu là cuộc rượu của
nhà thơ với người tình. Một cuộc rượu đã đến hồi rượu ngọt, môi mềm và “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”:
Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ
Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại
ngần
Đây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm
E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận
Và rồi mặc dù đêm lạnh
lắm nhưng đã say yêu, đã trút áo xiêm rồi thì cái gì đến sẽ phài đến:
Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.
Trong thi ca Việt Nam,
ta thấy nhiều bài thơ hay về cuộc rượu của nhà thơ với người đẹp
như trong thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu... Nhưng hầu hết
những người đẹp đó đều là gái giang hồ, gái nhảy hay kỹ nữ:
Say đi em, say đi em
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết...
(Vũ Hoàng Chương - Say
đi em)
Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,
Tay em đây, mời khách ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
(Xuân Diệu -
Lời kỹ nữ)
Người đẹp trong Say
Yêu của Đặng Xuân Xuyến không phải là gái giang hồ, gái nhẩy hay
kỹ nữ nhưng tiếc thay cũng chỉ là
người con gái chẳng cần thề non hẹn biển, nguyện ước trăm năm “như chim chắp cánh
như cây liền cành” mà chỉ say yêu một
đêm, một lần:
Yêu thương nhé.
Một lần thôi. Là đủ
Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...
Có thể nói
nhờ Rượu mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã cảm khái nên chùm Thơ Về Rượu khá hay và độc
đáo. Chùm thơ 10 bài với 10 cuộc rượu khác nhau, lúc độc ẩm, lúc
nhị ẩm trong những bối cảnh khác nhau đã diễn tả khá đậm nét nỗi buồn
riêng mình và nỗi buồn chung về nhân thế của nhà thơ, giúp người
yêu thơ hiểu thêm về thi nhân và hiểu thêm cái cõi đời sấp ngửa đen
bạc này.
Nhìn bộ dạng
thư sinh của Đặng Xuân Xuyến, tôi nghĩ nhà thơ không phải là người
hay rượu mà chỉ đáng phụ chén cho cụ Tam nguyên Yên Đổ, nếu
cụ còn sống. Mà cụ Tam thì: Rượu tiếng rằng hay, hay
chả mấy/ Độ năm ba chén đã
say nhè
Phải chăng Đặng Xuân
Xuyến đã mượn rượu và có hẳn một chùm Thơ Về Rượu hôm
nay để xóa nhòe đi tất, để ngự lên hiện thực mà ngạo chơi với
Thế sự thăng trầm bao tục lụy này?!
*
Sài Gòn, cuối tháng 07.2018
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
VỀ
LỜI BÌNH CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VỚI
BÀI THƠ “QUÊ TRONG PHỐ”
*
Thân gửi Đặng Xuân Xuyến.
1.
Mình đã đọc bài bình của Xuyến
về bài thơ “Quê Trong Phố” và thấy bài bình này đã đăng tải không chỉ trên trang
nhà Đặng Xuân Xuyến hay trang bạn Văn nghệ Quảng Trị mà còn thấy trên
nhiều trang mạng khác. Một bài bình rất gọn nhưng đầy đủ những điều cần nói về
bài thơ “Quê Trong Phố” của Nguyễn Xuân Môn.
Nhà thơ kiêm luật sư Nguyễn Xuân Môn
là một người làm thơ khá đều tay và đã đăng tải bài viết trên nhiều trang mạng,
thật đáng nể.
Tuy nhiên, không chỉ vì bài thơ đưa
lên Face book, “chỉ sau vài ngày
“xuất xưởng” đã nhận được lời tán
thưởng và chia sẻ của nhiều bạn đọc trên facebook: 892 lượt thích, 166 bình luận
(hầu hết là lời ngợi khen) và 8 lượt chia sẻ” mà khẳng định đó là một
bài thơ hay thì e sẽ có sự nhầm lẫn. Bởi cái sự "like" trên face book
được mặc định coi là những cái like vô hại. Có một faceboooker đã viết về những
cái like đó như sau:
“Like
giao lưu, like trả nợ, like lấy lòng, like nhạt nhẽo thờ ơ không thèm đọc nội
dung cốt chỉ để phủ sóng, like vì rách việc tay buồn không biết làm gì, like
cân đo đong đếm nhẩm tính đối tượng thế nào với mình, like chần chừ ngạị ngần
để ý trước sau, like lưỡng lự lo sợ vừa bấm vừa run, vừa like vừa ướt quần,
like khôn ngoan tính toán, like nhắc nhở có nhau, hy vọng ấm chút lòng người
viết,…”
Trong số like ấy: “có những cái like dũng cảm biết sau cái like
có thể là phiền phức…những người đằng sau những cái like ấy là hay nhất, người
nhất, biết rung động và có trách nhiệm với xã hội nhất.”
Riêng mình, đọc bài Quê
trong phố không có mấy cảm hứng, trước hết đó là bài thơ lục bát
mà lục bát là điệu hồn dân tộc Việt nhưng lục bát ở Quê trong
phố không có câu nào có được cái tinh tế, cái thần của thơ lục bát. Điều
đó cũng đúng thôi, vì Tuyển tập thơ lục bát từ Nguyễn Du đến các
tác giả vào cuối năm 1993 cũng chỉ được 145 tác giả với 166 bài lục bát hay.
Xem ra những nhà tuyển tập đã đã phải trải qua một sự lựa chọn khó khăn và dũng
cảm.
Đọc bài bình của Đặng Xuân Xuyến
mình cũng có cảm giác Xuyến đã phải suy nghĩ khó khăn và dũng cảm để nói thật
cảm nhận của mình về bài thơ của Nguyễn Xuân Môn làm cho bài viết được cân đối
giữa lời khen và lời phê.
Tuy nhiên, vẫn thấy lời khen của
Đặng Xuân Xuyến nhiều chỗ tựa như những cái like để giao lưu, like để hy vọng
ấm chút lòng người viết.
Chẳng hạn khi Đặng Xuân Xuyến khen “văng”, tiếng gà gáy làm “vỡ toác đêm thu tàn: rằng: nhà thơ đã
sử dụng từ ngữ, hình ảnh “độc đáo” và táo bạo, không nền nã như
"tạng" của thể thơ lục bát.”
Như vậy là không đúng với ý nghĩa
của từ văng và từ toác. Văng là thình lình bị bật ra khỏi vị trí và di chuyển
nhanh đến một chỗ nào đó, do phải chịu một tác động mạnh và đột ngột. Toác là
nứt, vỡ thành đường, thành mảng lớn.
Tiếng gà gáy là âm thanh chứ đâu
phải là vật thể mà bị văng ra khỏi cổ của con gà? Lại nữa, văng dẫu mạnh đến
đâu cũng không chuyển đi quá xa như ta làm văng một cái chén thì nó cũng chỉ
rơi bật ra đâu đó quanh quẩn bên chỗ ta mà thôi. Lại nữa nơi bị tiếng gà gáy
văng đến là thời gian một đêm thu tàn, và là một không gian rộng lớn, một cái
cái đêm mùa Thu đã đi vào thơ và nhạc:
Đêm lắng buồn
Tiếng Thu như thì thầm
Trong hàng cây trầm mơ
Và mọi mái nhà trong không gian ấy
thường là Mái im triền miên. Vậy mà chỉ một tiếng gà gáy nhà bên “văng” sang nhà của nhà thơ đã làm cho
cái đêm thu tàn trong khắp thành phố vỡ toác ra tức là bị nứt, vỡ thành đường,
thành mảng lớn. Chỉ có viên đại bác bắn vào thành phố giữa đêm thu tàn mới có
thể có công năng như vậy. Thế mà Đặng Xuân Xuyến buông lời bình tán: Một
sự “thưởng ngoạn” tiếng “gà gáy sáng” rất khác lạ. Thì kể
cũng lạ.
Rồi Đặng Xuân Xuyến đặt câu
hỏi: “Thế nhưng tiêu đề bài thơ là
"Quê Trong Phố" thì đích thị "tiếng gà gáy" ở trong thành
phố. Có lẽ là ở vùng giáp ngoại ô? Sở dĩ tôi nêu những thắc mắc như vậy là vì
mấy chục năm sống ở thành phố Hà Nội, tôi không hề nghe được "tiếng gà gáy
sáng". Thiếu gì nhà thành phố nuôi gà, đủ các loại gà trong đó gà
cảnh và gà đá chiếm số đông, nếu có thua về số lượng thì thì chỉ thua số lượng
chó nuôi trong thành phố.
Phải chăng Đặng Xuân Xuyến đặt ra
câu hỏi trên là để khẳng định cho lời bình này: “Mà đã là "tiếng gà gáy" sáng ở thành phố thì "tia sáng nằm ngang" có thể
chấp nhận vì tính hợp lý: ánh sáng được khúc xạ bởi những ngôi nhà cao tầng.”?
Đặng Xuân Xuyến khen mấy câu thơ:
Ánh đèn đêm phố còn vương
Còi xe đã xé rách đường tả tơi
Lắng tai nhặt tiếng chim rơi
Tiếng kêu của lá úa rời cành đau
Bằng những từ tìm tòi, sáng tạo, gợi
cảm, trau chuốt. Nhưng đọc kỹ ta sẽ thấy không hợp lý: con đường đã bị rách tả
tơi thì dòng chảy lưu thông liệu có còn không? Mà âm lượng còi xe khủng khiếp
như thế liệu có thể còn nghe thấy tiếng chim rơi, tiếng kêu của lá úa?
Tiếng chim buổi sáng thanh bình
trong vườn hoa thì cũng phải nghiêng tai mới nghe rõ như trong câu thơ Định Hải
viết:
Mà vườn hoa cũng lạ lùng
Nghiêng tai nghe đến không cùng
tiếng chim
Tiếng kêu của lá úa thì trong đêm
Côn Sơn chỉ có tiếng chim nhỏ nơi vách núi, tiếng rì rầm của suối mà một chiếc
lá đa rụng thì như Trần Đăng Khoa nghe rất tinh mới thấy: Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Vậy thì tiếng chim rơi, tiếng kêu
của lá úa trong thơ Nguyễn Xuân Môn to hay nhỏ, là bao nhiêu decibel để nhà thơ
nghe được trong cái âm thanh còi xe xé rách đường tả tơi?
Phần phê bình cách sử dụng từ ngữ
cẩu thả, thiếu cân nhắc, việc chọn lựa hình ảnh cũng hời hợt, tùy tiện,...cùng
những câu thơ nhạt nhẽo, thô kệch trong bài thơ Quê trong phố, mình thấy
Xuyến viết rất thẳng thắn, bạo tay và rất đạt.
Đúng là mấy câu thơ:
Quê từ cha “nhiễm” sang con
Trát ngoài “phấn” phố vẫn còn quê
trong
Người quê ở phố, quê… bong?
Tôi "quê" trong phố bởi
lòng có quê!
Thì đúng là kết cấu lỏng lẻo, ý tứ
nhạt nhẽo, nhất khi ông cố dụng tâm “chơi chữ.
Mà như các cụ đã nói: Dốt đặc
còn hơn hay chữ lỏng.
Nếu muốn nói bằng thơ thì cố học
theo Nguyễn Bính:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Bằng không thì nói văn xuôi như
Nguyễn Huy Thiệp: “Tôi sinh ra ở
nông thôn. Bố mẹ tôi là nông dân...”. Chơi chữ mà làm gì?
2.
Về trao đổi riêng với Đặng Xuân
Xuyến sau khi đọc bài bình thơ Nguyễn Thanh Lâm của Xuyến, nghĩ chỉ là trao đổi
riêng giữa hai người thôi, giờ bác Phú Đoàn đã đưa lên trang Văn Nghệ Quảng Trị
và Đặng Xuân Xuyến sẽ đưa lên trang nhà. Không biết là mưa hay nắng đây?
*
Sài Gòn, tháng 01 tháng 11/2018
Tác gia, Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
TRAO
ĐỔI VỚI NHÀ THƠ NGUYỄN VƯỢNG
VỀ
NGÔN NGỮ TRONG THI CA
*
Mỗi nhà thơ thường có một trường
ngôn ngữ cho thế giới thi ca của mình. Nếu ta cứ muốn đi đến tận cùng của nó
thì quả là một điều không tưởng vì ngôn ngữ trong thi ca thường rất phi lí vì
thế ta cứ phải gắng tìm cách tiếp cận để thấu hiểu và đôi khi phải mặc nhiên
công nhận nó.
Tôi xin lấy ví dụ trong bài VỘI VÀNG
nhà thơ Xuân Diệu đã viết:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Nếu cứ chất vấn đến tận cùng thì xin
hỏi nhà thơ Nguyễn Vượng có ai tắt được nắng và có ai buộc được gió không. Đó
là điều không thể vì đó chỉ là khát vọng của thi nhân không muốn vạn vật trôi
đi bởi vì thời gian của đời người là hữu hạn.
Nhà thơ Nguyễn Vượng có thắc mắc hai
từ THẦM THĨ tôi đã dùng trong bài bình luận cho bài thơ HƯƠNG QUÊ của nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến.
HƯƠNG QUÊ
Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà
hàng xóm
Cô bé thậm thò vắt ngang dải yếm
Níu bờ sông
Ơi ời “ra ngõ mà trông”
Vi vút gió đồng...
Ngẩn ngơ
giấc mơ
Níu đôi bờ bằng dải yếm
Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm
Áo tứ thân trải lá lót nằm
Gom gió lại để chiều bớt rộng...
Thẩn thơ
Tiếng mơ thầm thĩ
“Người ơi...
Người ơi...”
Dan díu lời thề
Ngõ quê líu quíu.
*.
Hà Nội, chiều 31.08.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Xin được thưa rằng đó là hai từ tôi
sử dụng lại của nhà thơ Giang Nam trong bài thơ TIẾNG NÓI VIỆT NAM:
"Đây tiếng nói Việt Nam! Đây Hà
Nội"
Xa muôn trùng vẫn thầm thĩ bên tai!
Rút lại cách ngăn, đẩy lùi bóng tối
Thắp niềm tin cháy sáng giữa tim
người”
Với văn cảnh của khổ thơ và toàn bài
thơ nếu nhà thơ Giang Nam dùng hai từ THẦM THÌ thì không thể chấp nhận vì đài
tiếng nói Việt Nam thì không thể thầm thì (thầm thì như trộm chia của). Mặt
khác vì thời đó ở Miền Nam không thể nghe Đài tiếng nói Việt Nam tự do mà phải
nghe lén nên âm thanh rất nhỏ vì thế chữ thầm thĩ nói được cái gần gũi ấm áp
của tiếng nói Việt Nam.
Giang Nam thừa kế hai từ này của ai
thì tôi không biết, còn theo nhà thơ Vượng Nguyễn nó đã có trong bài MÙA XUÂN
CHÍN của Hàn Mạc Tử “Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc” Với văn cảnh câu thơ này
thì hai từ THẦM THĨ mà tôi kế thừa đã rất đắc địa phải không nhà thơ Vượng
Nguyễn. Tôi đã bình giảng bài thơ TIẾNG NÓI VIỆT NAM khi dạy môn văn bổ túc văn
hóa từ những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ trước và hai từ đó đã ám ảnh tôi cho
đến bây giờ. Đây không phải là lần đầu tiên tôi dùng hai từ này mà đã nhiều lần
sử dụng nó khi có nhu cầu. Đôi khi tôi thường ghép hai cụm từ với nhau “Thầm
thĩ thầm thì” Tôi dùng hai từ này khi cần phải nói đến sự trao gửi những lời
yêu thương của hai người yêu nhau gần giống với câu thơ tôi trích ở trên của
Hàn Mạc Tử, hoặc là sự gửi gắm của nhà thơ với người đọc. Nhưng theo nhà thơ
Nguyễn Vượng thì hiện nay không ai dùng vì có lẽ ông chưa đọc bài thơ của nhà
thơ Giang Nam. Với tôi hai từ đó có một âm hưởng khác, một cung bậc cảm xúc
khác với hai từ THẦM THÌ vẫn thường dùng. Xin trích dẫn đoạn văn bình luận có
hai từ thầm thĩ của tôi: “Chỉ là một tiếng mơ thầm thĩ, gian díu một lời thề
trong cái ngõ quê líu qúiu. Cái ngõ quê rất đặc trưng của nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến.”
Cũng khi bình luận về từ DUYỀNH
(Chắc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến viết sai đáng ra phải là DUỀNH mới đúng). Nhà thơ
Nguyễn Vượng thì đã tra từ điển từ này chỉ một vụng nước như trong câu Kiều
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh” Vâng đó không hề sai. Nhưng tôi nghĩ trong câu
thơ này của Đặng Xuân Xuyến
“Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà
hàng xóm”
Theo tôi từ DUỀNH ở đây lại muốn gửi
gắm về một động từ “duềnh lên”, thuộc về sự lan tỏa của mùi hương cốm. Mà mùi
hương cốm ở đây còn được trợ lực bằng sức mạnh của tình yêu mà người con gái
nhà bên muốn gửi sang cho chàng trai. Tôi nghĩ chữ DUỀNH phải hiểu theo nghĩa
đó và nó đã trở thành một từ đắt giá của Đặng Xuân Xuyến. Các nhà thơ thường
sáng tạo ra những từ theo trí tưởng tượng của họ mà thông thường cổ nhân vẫn
gọi “Ý tại ngôn ngoại”
Tôi lấy một ví dụ rất mới mà thực ra
tôi cũng chưa thể tiếp cận để nắm bắt cho hết những gì mà nhà thơ Dung Thị Vân
muốn gửi gắm trong bài thơ TA NÓI ĐỂ MÀ CHI để cùng trao đổi thêm:
“Cảm ơn người
Bên đây bờ vĩnh tận
Những tàn phai
Ta chưa kịp cựa mình”
Rõ ràng cụm từ: BÊN ĐÂY BỜ VĨNH TẬN
là một cụm từ sáng tạo của nhà thơ Dung Thị Vân. Hiểu thế nào về cụm từ đó chỉ
có nhà thơ mới lí giải một cách cặn kẽ. Nhưng đôi khi sự lí giải ấy chắc gì đã
được người đọc chấp nhận. Với tôi tôi nghĩ đây thuộc về một giới hạn vô cùng
của không gian và không chỉ là không gian mà còn là giới hạn của của cảm xúc.
Qua đó hình như nhà thơ đã muốn bày tỏ về sự tận cùng vĩnh cửu của những tàn
phai. Ta cứ phải mặc nhiên công nhận nó và ta cảm nhận sự mông mênh của thi ca.
Ta thấy những câu thơ như thế chiếm đoạt được cảm xúc của con tim mà không hiểu
được vì sao lại như thế. Nó rất hay, nhưng hay ở chỗ nào thì ta cũng không thể
lý giải.
Thi ca luôn tồn tại những phạm trù
của sự phi lí và nhiều khi ta cứ phải mặc nhiên công nhận một cách mơ hồ về ý
tưởng, về khát vọng của tác giả. Xin đăng toàn bộ bài thơ của Dung Thị Vân để
các bạn có thể trao đổi về nghệ thuật ngôn ngữ của bài thơ này:
TA NÓI ĐỂ MÀ CHI
Xin cảm ơn
Lời bạc của tình nhân
Cảm ơn người đã cho ta
Những bài thơ bọc bằng suối lệ
Cảm ơn người
Bên đây bờ vĩnh tận
Những tàn phai
Ta chưa kịp cựa mình
Tình nhân ơi
- có những điều
Viễn miền câm lặng
Có những dối gian trầy xước chẳng
nên lời.
*.
DUNG THỊ VÂN
Xin được đăng một lời bình luận dưới
bài thơ này: “Hay tuyệt, ngắn gọn nhưng chuyển tải điều xót xa sâu khuất góc
tâm hồn” đây là bình luận tương đối nhất, còn thì là “Hay lắm, hay tuyệt” ...
Qua đây tôi mong muốn nhà thơ Nguyễn
Vượng, Thuy Do, Dung Thị Vân và đặc biệt là nhà thơ Đặng Xuân Xuyến tác giả bài
HƯƠNG QUÊ mà tôi đã bình luận cách đây một năm cùng tất cả những ai quan tâm đến
sự bí ẩn của ngôn ngữ thi ca cùng trao đổi. Đặc biệt các nhà thơ đã sáng tạo ra
những cụm từ cho thế giới thi ca của mình. Các bạn có thể đưa ra những ví dụ và
giải thích cho độc giả hiểu thêm về ý tưởng của các bạn.
Rất mong nhận được những ý kiến trao
đổi của các bạn!
*
Bắc Ninh, 06 tháng 11.2018
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,
phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh
Email: nguyenxuanduong1940@gmail.com
MẤY LỜI TÂM SỰ - NHÂN NHÀ THƠ
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH NÓI VỀ CHÂU THẠCH
*
Vừa ăn Tết xong, mồng
mấy Tết không nhớ, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến điện thoại cho Châu Thạch. Sau vài
lời chúc tết, nhà thơ hỏi:
- Chú đã đọc bài “Tưng Tưng bảy chuyện cùng…Nguyễn Đăng Hành”
chưa ạ?.
- Hả, mấy bữa nay bận lo
Tết quá nên chú chưa đọc.
- Chú đọc đi, trong đó có
nhắc về chú đấy ạ.
- Ừ, để chú đọc bây giờ.
Thế là tôi ngồi vào máy
vi tính mở trang web dangxuanxuyen.blogspot.com và tìm đọc bài nầy. Bài nầy
Đặng Xuân Xuyến chép lại những lần trao đổi giữa anh với nhà thơ Nguyễn Đăng
Hành, bàn luận về các nhà thơ, trong đó tôi có biết vài người chớ chưa quen ai
cả. Châu Thạch tôi cũng hân hạnh được đề cập đến hai lần. Lần thư nhất hai
người nói về Châu Thạch như sau:
“Mươi hôm sau, anh (tức Nguyễn Đăng Hành) điện cho tôi, vẻ rụt rè:
- Anh hỏi câu này, chú
trả lời thật nhé. Bài "Ẩm trời"
của chú, đáng mấy điểm.
Tôi có chút ngập ngừng:
- Tự chấm điểm thì em
không biết cho điểm mấy nhưng bài đó cũng thường thôi, không thể là hay.
Anh ồ lên, lanh lảnh:
- Vậy mà bác Châu Thạch
khen hết lời.
Tôi cười, nửa phân trần:
- Chú Châu Thạch khen
hay ở phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt chứ không khen bài thơ "Ẩm trời" hay.
Anh chậm rãi:
- Anh nghĩ bác Châu
Thạch vì quý người mà quý thơ. Bác Châu Thạch nhiều bài bình rất sâu, rất hay,
anh rất phục nhưng đọc mấy bài bình kiểu quý người quý thơ như thế không
sướng.”
Trước hết tôi thành thật
cảm ơn nhà thơ Nguyễn Đăng Hành đã thốt lên những lời có cánh khen tôi, khiến
trong tôi, niềm vui đầu năm ập đến bất ngờ.
Sau đó thấy bài ghi chép
của Đặng Xuân Xuyến được đăng lên facebook tôi có comment mấy lời như sau:
“Nhà thơ Nguyến Đăng Hành viết có cái chưa hiểu tôi:
Khi nói về bài bình “Ấm
Trời” của Đặng Xuân Xuyến, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành nói: “bác Châu Thạch quý
người nên quý thơ”. Thật ra khi bình bài “Ấm
Trời” tôi chưa hề quen biết gì Đặng Xuân Xuyến và cho đến nay cũng chưa hề
gặp Đặng Xuân Xuyến lần nào hay trao đổi với nhau quá 5 phút trên điện thoại,
còn trên email thì hoàn toàn không có. Vậy thì phải nói tôi “QUÝ THƠ NÊN QUÝ
NGƯỜI” mới đúng.”
Nói cho đúng, tôi biện
hộ cho mình như thế cũng chưa chính xác, vì nếu nói quý người nên quý thơ thì
tôi còn quý nhiều người hơn quý Xuyến, mà thơ họ không thua gì thơ Xuyến, nhưng
tôi chưa bình cho họ lấy một bài thơ. Ví dụ như nhà thơ Phan Minh Châu ở Nha
Trang. Anh đã là bạn thơ với tôi gần 10 năm, tôi yêu thơ anh như điếu đổ nhưng
cho đến khi anh qua đời, tôi chưa hề viết một câu về thơ anh. Tôi đau đớn và
chua xót trong lòng.
Tôi nghĩ người làm thơ
và người bình thơ có một sợi dây liên kết vô hình nào đó, nên có sự đồng điệu
trong cảm thụ, tri kỷ nhau ít nhất trong chính bài thơ được đem ra tán thưởng.
Ví dụ như bài thơ “Ấm Trời” của Đặng Xuân Xuyến, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành tỏ ý
không vừa lòng nhưng với tôi nó là bài thơ hay thật thụ.
Ở trên, nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến trả lời nhà thơ Nguyễn Đăng Hành như sau: “Chú Châu Thạch khen hay ở phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt chứ không
khen bài thơ "Ẩm trời" hay.”.
Đó chỉ là một câu nói khiêm nhường thôi. Thật ra bài thơ phải hay mới làm bộc
lộ “phong cách tỏ tình mới lạ, bạo liệt” và độc đáo được. Thơ hay là ở chỗ diễn tả sống động
cái phong cách ấy.
Từ sự trao đổi giữa hai
nhà thơ trên, tôi mở bài bình thơ của tôi đọc lại. Bài viết có đầu đề là: “Ấm
Trời” thơ Đặng Xuân Xuyến: Một phong cách tình khác lạ.
Để hiểu những đoạn sau
của bài viết nầy, xin mời đọc lại một lần bài thơ của Đặng Xuân Xuyến:
ẤM TRỜI
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm
hương
Mấy ngày hôm nay mưa tợn
Ẩm trời, khó ở, thấy
ghê.
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn.
Mở đấu bài bình tôi đã
viết:
“Có những bài thơ nói về tình yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng
như bướm bay, lãng mạn như gió trăng và êm đềm như tiếng suối chảy.
Cũng có những bài thơ nói về tình yêu thiên về nhục dục hừng hực
như lửa cháy, cuốn hút như phong ba và cuồng nộ như con thiêu thân sa
vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ nói về tình yêu
khô khan như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn thể
hiện sự độc đáo của một phong cách yêu”.
Như vậy bài thơ nầy không phải hay ở chỗ lời
thơ hoa bướm mà hay ở chỗ lời thơ ngổ ngáo, có mãnh lực cuốn hút người đọc nhìn
thấy một cuộc truy hoan hoàn toàn vì nhục dục sẽ diển ra.
Đoạn giữa của bài bình
thơ tôi viết như sau:
“Người ta có thể tìm thấy trong ca dao hay trong thơ những câu
đối đáp rất hay của những chàng trai trả lời cô gái đang gặt lúa
trên đồng hay ban đêm giã gạo cùng nhau. Những câu đó chắc chắn rất
trữ tình nhưng chắc chắn không bao giờ thân ái như lời thơ trong khổ thơ
này. “Ừ thì một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói với
em. Chúng ta tưởng tượng lời từ cửa miệng chàng trai thốt ra âu yếm vô
cùng, ấm áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, gạ nữa một đêm”: Câu thơ
không phải là lời từ chối đâu, ngược lại đó là lời hẹn hò những
đêm kế tiếp bằng một câu bông đùa tế nhị.”
Như vậy, bài thơ hay ở
chỗ diễn tả được cái chân tình, cái tình yêu ẩn kín phía sau những lời tưởng
như trắng trợn đó. Nhà thơ đã dùng ngôn ngữ thật thô cứng nhưng lại diễn tả hết
cái mềm mại nằm trong sâu kín tâm hồn của hai người có bản tính bông đùa và
thích diễu cợt cùng nhau.
Đoạn cuối của bài bình
thơ tôi viết như sau:
“Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề
ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh
ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ấm Trời” ta nghe tiếng thơ như của
một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ
rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những
tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng
và cảm mến”
Tất nhiên ở đây tôi chỉ
trich lại những phần chính trong bài bình thơ của tôi, mục đích để biện hộ cho
mình. Biện hộ rằng tôi quý thơ Đặng Xuân Xuyến mà viết những lời có cánh cho
thơ anh chớ không phải vì quý anh mà viết những lời có cánh cho thơ ấy. Quý vị
nào có vui thì tìm trên web dangxuanxuyen đọc trọn bài bình cúa tôi cho “ẤmTrời”
sẽ tường tận hơn.
Sau đó hai nhà thơ còn
đề cập đến việc tôi và nhà thơ Nguyên Lạc cãi cọ nhau.
Khi nói về thái độ của
ông Nguyên Lạc đối với tôi, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành nhận xét: “Ông Nguyên Lạc thâm và đểu khi dùng thái độ
nhã nhặn lịch thiệp để ra đòn với ông Châu Thạch”.
Thật ra ông Nguyên Lạc
dùng chữ “không lương thiện” để chửi
tôi thì không thể nói là “nhã nhặn lịch
thiệp” được. Phải nói đó là một câu nặng nề nhất khi dùng cho một người đã
từng viết khen ngợi ông ta từ khi chưa hề biết ông ta là ai và chưa đòi hỏi ông
ta một món quà nhỏ nào. Nghĩa của chữ Lương thiện là “không làm những gì trái với đạo đức và pháp luật”. Vậy ông ấy nói
tôi “không lương thiện” là ông ấy nói
tôi “vô đạo đức và phạm pháp”. Ông ấy
có nhiều bằng đại học, là một nhà văn thì phải ý thức đầy đủ lời nói của mình,
không vu khống làm xúc phạm nhân phẩm kẻ khác chứ. Nhưng thôi, tôi đã hứa với
mọi người quên đi nên không nhắc lại nữa.
Cuối cùng, xin gởi đến
hai nhà thơ Nguyễn Đăng Hành và Đặng Xuân Xuyến lời chúc một mùa xuân an lành,
một năm mới phát triển và viết thật hay. Xin gởi đến quý vị đã đọc bài nầy lời
cảm ơn và ước nguyện nhận nhiều niềm vui, an khang, thịnh vượng trong năm Kỷ
Hợi nầy./.
*.
Đà Nẵng, 14 tháng 2-2019
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
BÀN VỀ BÀI BÌNH THƠ “THUYÊN NEO
BẾN LẠ” CỦA ĐĂNG XUÂN XUYẾN
*
Nhận được nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến báo tin cho tôi đọc bài viết “Tưng Tưng bảy chuyện cùng…Nguyễn Đăng
Hành” tôi tò mò tìm đọc thêm một vài bài của anh trên trang web
dangxuanxuyen.blogspot.com. Nhờ vậy bài bình thơ “Vài suy nghĩ khi đọc Thuyền Neo
Bến Lạ của Phúc Toản” đập vào mắt tôi. Cái khiến cho tôi dừng lại để
đọc không phải là bài bình mà chính là bài thơ “Thuyền Neo Bến Lạ” của
nhà thơ Phúc Toản. Đọc bài thơ xong, xúc cảm với bài thơ đưa tôi đọc tiếp bài
bình. Xin mời thưởng bài thơ trước:
THUYỀN NEO BẾN LẠ
- Gửi NTPT -
.
Lạnh lùng cơn gió chiều
đông
Xô con thuyền nhỏ theo
dòng về xa ...
Dây đời buộc tím nhành
hoa
Ngày vui ...mà lệ ướt
nhòa câu thơ ...
.
Thật rồi... vẫn ngỡ là
mơ
Lấy chồng! Em lấy chồng!
Ơ! Lấy chồng...
Gừng cay, muối mặn xát
lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào
trong nỗi mừng...
.
Một luồng gió thổi sau
lưng
Tân bao kỷ niệm, đoạn
từng nhớ thương...
Mùa xuân phía trước dâng
hương
Đằng sau lạnh buốt một
phương trời buồn...
*.
Tân Yên, tháng 01.2001
PHÚC TOẢN
Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
đã viết lời bình ngắn, trình bày lướt qua vài cảm nhận mà anh đã có khi đọc bài
thơ nầy. Để bài viết không dài, Châu Thạch xin nêu những ý chính trong bài bình
của Đặng Xuân Xuyến và đóng góp những ý kiến của mình như là một cuộc trò
chuyện văn chương, hầu góp vui cho bạn đọc thư giản năm, mười phút mà thôi.
Trong bài bình thơ ngắn,
gọn và xúc tích nhà thơ Đăng Xuân Xuyến đã nêu cảm nhận của mình đại ý như sau:
1 - “Tôi thích khổ thơ thứ hai, khổ thơ gây nhiều ấn tượng với tôi.
Cách chuyển nhịp từ 2/4
(tiết tấu chậm) ở câu lục: "Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ", sang nhịp
2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy
chồng...", đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật "tôi" cùng
(lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát
như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng
trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ”
“Tôi nghĩ, đấy là câu
thơ độc đáo, đã giúp bài thơ sáng lên.”
Phần nầy nhà thơ Đặng
Xuân Xuyến đã nói đủ, Châu Thạch tôi chỉ xin bàn về việc vì sao nhà thơ dùng
chữ “Ơ!” mà không dùng chữ “Ơi!” hay chữ “ÔI” trong câu thơ “Lấy chồng! Em lấy
chồng! Ơ! Lấy chồng…” mà thôi.
Ta thử tìm nghĩa của các
chữ trong tự điển:
Nghĩa của chữ ơi: “Là cảm từ, tiếng dùng để gọi một cách thân
mật”
Nghĩa của chữ ôi: “Là cảm từ, tiếng thốt ra biểu lộ ý than thở”
Nghĩa của chữ ơ: Không
tìm thấy nghĩa
Chữ “Ơ!” là một cảm từ hay là một tiếng tán
thán không có trong tự điển nhưng có ở
ngoài đời. Theo tôi,nhà thơ Phúc Toản thật là tinh tế khi dùng chữ “Ơ!” để diển tả sự ngạc nhiên đến bất ngờ
do người thân yêu đem tới mà mình chưa kịp cảm nhận nỗi đau xảy ra trong lòng,
chưa đủ bình tỉnh mà than thở bằng chữ “Ơi!”
hay ta thán bằng chữ “Ôi!”. Chữ “Ơ!” là một tiêng kêu ngập ngừng được
thốt lên giữa chữ “Ơi!” và chữ “Ôi!”,nó diễn tả được toàn bộ và rốt ráo
diễn biến rất thật xảy ra trong lòng chàng trai khi hay tin người yêu lấy chồng
“Thật rồi…vẫn ngỡ là mơ”. Chàng trai
không biết rõ mình đang ở giữa sự thật hay chỉ là mơ nên nhà thơ dùng chữ “Ơ!” để cho chàng trai kêu lên. Đó là một
cảm từ ít dùng trong văn, nhưng lại có trong thực tế, tác giả đã dùng để lột tả
được biểu cảm của con người một cách rất hay.
Xin nói thêm về tiết tấu
nhanh cúa câu thơ ở nhịp 2/3/1/2 mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã đề cập đến.
Nhà thơ Nguyễn Bính có
một câu thơ tiết tấu hơi giống chớ không phải là giống toàn bộ câu thơ nầy: “Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm”(3/3/2).
Ta đặt hai câu thơ cận nhau sẽ thấy rõ sự khác biệt về tiết tấu thơ, về ý nghĩa
thơ khác nhau tất cả:
Cánh buồm nâu, cánh buồm
nâu, cánh buôm (3/3/2)
Lấy chồng! Em lấy chồng!
Ơ! Lấy chồng! (2/3/1/2)
Câu thơ của Nguyễn Bính
chỉ dùng để chỉ sự vật, mô tả sự nhấp nhô của cánh buồm. Ngược lại câu thơ của
Phúc Toản diễn tả nội tâm. Đem hai câu thơ nầy để so sánh câu nào hay hơn câu
nào thì thật là khập khiểng. Thế nhưng ta có thể thấy rõ nhà thơ Phúc Toản chỉ
dùng thêm chữ “Ơ!” mà câu thơ của anh
có tiết tấu na ná như Nguyễn Bính lại khác hẳn đi trong cảm xúc của ta. Câu thơ
của Phúc Toản bị dừng lại đột ngột ở chữ “Ơ!”,
cho thấy sự thảng thốt xảy ra trong lòng chàng trai, giống như con thuyền ngừng
lại bất ngờ trong phút chốc vì sự cố nào đó, rồi lại tiếp tục lên đường, còn
câu thơ của Nguyễn Bính thì ta thấy con thuyền êm ái đi về cuối phương trời.
Đặng Xuân Xuyến tiếp tục
suy nghĩ về bài thơ nầy như sau:
2) “Không than vãn, kế nể, không nặng lời trách móc khi người yêu theo
"thuyền neo bến lạ", nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất cả sự trách
giận, nỗi xót xa của chàng trai vào 2 câu thơ:
"Gừng cay, muối mặn
xát lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào
trong nỗi mừng ..."
“Nỗi đau ấy không chỉ
bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim cô gái - người đang cử
hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.”
Ý kiến của Châu Thạch:
Có người cấm dùng câu
thơ “Gừng cay muối mặn xát lòng” vì cho rằng cặp trai gái phải động phòng hoa
chúc, thành vợ thành chồng mới được dùng câu nầy.
Hiểu như vậy thì thật là
quá khắt khe.
Biểu tượng muối mặn-
gừng cay là một biểu tượng kép, ghép biểu tượng muối và biểu tượng gừng thành
một với ý nghĩa tượng trưng cho cho tình duyên chung thủy cùng nhau, trong đó
vợ chồng là một trong những ngữ cảnh mà thôi. Ngữ cảnh là hoàn cảnh lúc hành
văn. Một câu nói nhưng đặt trong ngữ cảnh khác nhau thì mang nghĩa khác nhau. Ở
đây nhà thơ Phúc Toản không đặt biểu tượng kép “Gừng cay muối mặn” vào ngữ cảnh vợ chồng mà đặt vào ngữ cảnh tình
yêu. Đó là quyền của tác giả mà người đọc thơ phải thẩm thâu ý nghĩa đó thì mới
thấy cái hay của nó. Ngược lại nếu người đọc thơ cứ xoi mói, tìm kiếm để bắt bẻ
thì không bao giờ hiểu được cái hay của nó.
Về câu thơ “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng”.
Câu thơ trên bị điệp từ
chữ “nỗi”, có người cho là không hay.
Thế nhưng điệp từ dưới những cây bút lão luyện thì đó là “biện
pháp tu từ nhắc đi nhắc lại nhiều lần, có tác dụng làm tăng cường hiệu quả diễn
đạt, nhấn mạnh, tạo ấn tượng, gợi liên tưởng, tăng cảm xúc cho câu thơ rất
nhiều”. Hai chữ “nỗi” trong câu
thơ trên là điệp từ như vậy.
Cuối xùng xin đặt ra một
câu hỏi rất cắt cớ. Vì sao “nỗi buồn”
lại nằm chung với “nỗi mừng”? Có
nghich lý chăng?
Có người cho rằng:
“Nỗi mừng”? Người yêu vu
quy lấy chồng mà mừng? cũng lạ?
Nếu ‘mừng” này ở cô gái
thì “không chân thật” trong tình yêu càng rõ
ràng.
Xin thưa. Câu thơ không
có gì là nghịch lý. Hai người yêu nhau nhưng nàng phải đột ngột chia tay để làm
“thuyền neo bến lạ” tất nhiên bên
trong cuộc tình phải có một nan đề gì đó. Nửa mừng nửa vui có thể là tâm trạng
thật sự của riêng chàng trai, của riêng cô gái hay có khi, của cả hai người.
Đọc thơ, ta cảm nhận được nỗi éo le trong cuộc tình, ta thổn thức với sự dở
khóc dở cười của nhân vật trong thơ, chứ không đọc thơ để ta làm anh chàng ngồi
lê, móc cái tâm sự của thiên hạ ra mà diểu cợt. Người đọc thơ cũng là người làm
thơ. Khi không hiểu một điều mà tác giả không nói hết trong thơ được thì ta
phải tự hư cấu lên mà thưởng thức cái hay của nó, chớ không ngồi đó mà hỏi tại
sao thế nầy, tại sao thế nọ, phải như thế nầy phải
như thế nọ thì muôn đời cũng không hiểu được thơ. Đọc thơ như thế thì thà ta
ngồi chợ cãi nhau thú vị hơn nhiều. Nỗi buồn xen với nỗi mừng cũng có khi là
tâm trạng của chính tác giả bài thơ. Cũng có thể nhà thơ đã đặt cảm xúc của mình lên câu thơ đó, thấy hôn
nhân thì vui, nhưng thấy sự sự tan vỡ thì buồn. Cảm xúc đó có ngay trong sâu
kín của lòng ta khi đọc thơ mà ta không thấy được đấy thôi.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn
cả hai nhà thơ Phúc Toản và Đặng Xuân Xuyến đã đem đến cho tôi một niềm vui
thưởng thức thơ và bình thơ đầu xuân Kỷ Hợi. Cả hai đều có phong cách viết ngắn
gọn mà xúc tích, truyền tải đến người đọc sự rung cảm của chính mình bằng lời
thơ, lời văn có âm vọng và có cánh bay cao ./.
*.
Đà Nẵng, 16 tháng 2-2019
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
VỚI
BÀI BÌNH THƠ “THUYỀN NEO
BẾN
LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Theo tôi, bài thơ “Thuyền
Neo Bến Lạ” của Phúc Toản là một bài thơ hay và nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
đã phát hiện ra những điểm sáng, những chi tiết đắt giá của bài thơ nên viết
vài lời cảm nhận để chia sẻ với tác giả thơ, với bạn đọc. Tiếc là ông Nguyên
Lạc đã viết bài “Vài Suy nghĩ khi đọc bài bình thơ Thuyền Neo bến lạ” với chủ ý
“hạ bệ” nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã “bẻ
cong” ngòi bút (cách ông Nguyên Lạc vẫn dùng để quy kết các bài bình thơ mà
ông đố kỵ với tác giả) để vụ lợi, rồi miệt thị trình độ của nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến là việc làm không đúng. Bài viết đó đã bị nhiều nhà văn, nhà thơ như
Nguyễn Khôi, Nguyễn Xuân Dương, Thái Quốc Mưu, Trần Quốc Phiệt, Trần Thắng...
phản đối ở mấy điểm:
- Ông Nguyên Lạc buộc tác giả thơ
cũng như tác giả bình thơ phải theo suy nghĩ của ông ấy, phải lấy tâm lý nhân
vật của ông ấy là điều thật ngô nghê.
- Ông Nguyên Lạc quen tật ấu trĩ là
dạy những điều cơ bản cho người bình thơ, cái mà không một cây bút bình thơ nào
không biết.
- Ông Nguyên Lạc đòi dùng chữ “ôi” thay chữ “Ơ” của nhà thơ Phúc Toản thì thật buồn cười. Chữ “Ơ!” biểu hiện một sự ngạc
nhiên bất ngờ, chưa đủ thời gian để cơ thể có phản ứng gì. Chử ‘ôi’là chỉ niềm đau đã thấm sâu trong cơ
thể. Tác giả dùng chữ “ơ’ rất hay.
- Ông Nguyên Lạc bắt buộc câu “Gừng cay muối mặn” chỉ được dùng
khi trai gái đã thành vợ chồng thì rất vô lý. Đây là một câu ca
dao chỉ tình nghĩa sâu đậm thắm thiết vì vị mặn của muối và vị cay của
gừng rất đậm đà, rất khó quên nên dầu chưa thành vợ thành chồng, chưa làm lễ
“hợp cẩn” thì tác giả dùng cái ý để chỉ tình yêu khắng khít sâu đậm không sai.
- Ông Nguyên Lạc chỉ trích câu thơ “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng” thì
thật là cưỡng hiếp nhân vật. Nhân vật trong thơ có hoàn cảnh của nhân vật trong
thơ. Vừa mừng vừa buồn cũng như vừa cười vừa khóc là cảm xúc tự nhiên trong
lòng nhân vật mà họ đã bộc lộ ra ngoài một cách tự nhiên. Ta chỉ thấy và biết
có sự giằng co trong lòng họ. Nhà thơ viết “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng” là ý thơ diễn tả đầy đủ tâm
trạng giằng co buồn vui lẫn lộn trong lòng tác giả. Còn vì sao buồn vui lẩn lộn
thì có khối lý do để giải thích.
- Hai chữ “nỗi” trong cùng một câu dùng để nhấn manh sự đối kháng xảy ra, sự
giằng co giữa mừng và buồn, chỉ một hiện tượng tâm lý dằn vặt xảy ra trong lòng
nhân vật mà Nguyên Lạc chê thì đúng là chịu thua sự hiểu và dùng câu chữ của
ông Nguyên Lạc.
- Ở đoạn khen, Nguyên Lạc còn nói “Cũng phong cách ấy người sau phải làm hay
hơn người trước”. Nói như vậy thì ai làm thơ lục bát cũng phải hay hơn cụ
Nguyễn Du chăng?
- Ông Nguyên Lạc dùng bài viết để
soi mói đời tư, nhục mạ tác giả thơ, tác giả bình thơ, phân định phe ta phe
địch... là không chấp nhận.
Nói chung bài viết của ông
Nguyên Lạc chỉ chăm chăm moi cái đẹp ra chê thành xấu để làm bẽ mặt người
bình, để tự đánh bóng tên tuổi ông ấy. Đấy thật sự là việc làm rất đáng phê
phán của ông Nguyên Lạc.
Điều đáng trách là sau vụ “Thuyền
Neo Bến Lạ”, ông Nguyên Lạc lại cố ý lồng vào rất nhiều bài viết để “làm xấu”
nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là: “muốn tạo
dáng, muốn ta đây "riêng một góc trời" / “cố đưa vào trong thơ
mình một vẻ gì khập khiễng, gượng gạo như một kiểu tạo dáng kém tự nhiên, khiến
câu thơ tối tăm, khó hiểu.” / “ngữ lực yếu kém của bản thân nhà thơ:
Không hiểu rõ hoa sao biết nó đẹp xấu, thơm thúi? Không biết rõ người
con gái sao ta yêu thương được?” / “hai chữ "thầm thĩ " có gì
"ghê gớm" hơn thầm thì đâu mà phải uốn éo tạo dáng để ra vẻ?” /
“Đây là cái trò MA GIÁO của Đặng Xuân Xuyến khi thêm mấy câu
cuối này vào bài thơ HỜN DỖI của tôi. Tự thêm rồi tự chụp ảnh rồi
phát tán khắp Email gần 100 người”...v.v... nhiều lắm, khiến nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến không thể nhịn được phải lên tiếng bằng bài viết “Vài Lời Về
Mấy Bài Viết Gần Đây Của Ông Nguyên Lạc” đưa ra vài sai phạm của ông Nguyên
Lạc, trong đó có vụ đạo thơ của ông Nguyên Lạc.
----------
(Trích từ: TỪ MỐI “LƯƠNG DUYÊN” GIỮA NGUYÊN LẠC VÀ CHÂU
THẠCH)
*.
Hà Nội, 04 tháng 01-2010
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319
Quận Long Biên, thành phố Hà
Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
CẢM
NHẬN KHI ĐỌC TRUYỆN NGẮN
“CÔ
SƯỚNG CƯỚI VỢ”
*
Tôi đọc truyện ngắn "Cô
Sướng Cưới Vợ" trên trang facebook của tác giả Đặng Xuân Xuyến.
Lối viết dí dỏm của anh đã lôi cuốn tôi ngay từ phần đầu của truyện. Khi đọc
trên báo mạng, tên nhân vật và tên truyện không hiểu lý do gì mà thay đổi, dù
cốt truyện giữ nguyên nhưng tôi thích đọc tên truyện cũ là "Cô
Sướng Cưới Vợ". Có lẽ vì ấn tượng tên "Cô Sướng Cưới Vợ"
tạo yếu tố dân dã hơn, chân thật hơn.
Nhân vật Sướng được Đặng Xuân Xuyến ưu ái, giành nhiều sự
quý mến. Tính khí khác thường của "cô" Sướng qua ngòi bút của Đặng
Xuân Xuyến không hề phản cảm, gây cười mà đáo để duyên:
“Sướng
thích được gọi là cô, là chị. Sướng khoái được mọi người mắng yêu câu: “Con đĩ
Sướng này xinh phết!”. Thích là thế nhưng Sướng ghét cay ghét đắng kẻ nào lại
thực tâm coi Sướng là phụ nữ, là phận liễu yếu đào tơ, là thân gái chân yếu tay
mềm. Tóm lại, Sướng là đàn ông, là nam nhi chính hiệu, là chuẩn men đích thực
nên Sướng không chấp nhận ai đó cho rằng, nghĩ rằng Sướng là phận nữ nhi! Ừ thì
Sướng thích gọi là cô, là chị. Ừ thì Sướng thích nhảy dây, thích chơi ô ăn
quan, thích chơi trò búp bê, thích buôn hàng, thích cãi lộn... Như thế thì đã
sao? Những sở thích đó tuy có khác biệt với đặc trưng giới tính của giới nam
nhưng cũng chẳng ảnh hưởng gì tới bản chất giới tính vốn có của Sướng? Thật
đấy! Sướng vẫn là thằng đàn ông đích thực. Sướng vẫn chưa bao giờ phải tụt quần
ngồi xổm mà tiểu tiện. Sướng cũng chưa bao giờ tùy tiện cho rằng mình không
phải là thằng đàn ông nên vì thế đừng có ai vớ vẩn nghĩ Sướng là đàn bà con
gái. Sướng ghét đấy. Sướng chửi cho đấy.”
Bạn đọc yêu nhân vật Sướng bởi bản
chất thật thà, tốt nết của anh. Đằng sau sự đanh đá chua ngoa của Sướng là tấm
lòng lương thiện, tử tế, sống nghĩa hiệp với người thân và bè bạn. Bị cụ Vân,
bố đẻ của "dì Kiên", người bạn thân bị "bê đê nặng",
"nhiếc móc" là "pha gái", chọc vào "điều cấm kỵ"
khi coi Sướng là "con đàn bà" dù rất tức cụ Vân nhưng Sướng vẫn biết
dừng lại ở đúng đạo nghĩa:
“Nghe
câu “Tôi lại hỏi thật chị nhé: Hai con đàn bà lấy nhau thì đẻ đái làm sao?” mặt
Sướng tái lại rồi thoắt cái phừng phừng sát khí. Sướng chống hai tay vào hông.
Sướng dậm chân đến huỵch một cái rồi kéo dài giọng:
- Hai con đàn bà lấy nhau thì đẻ đái
làm sao? Này! Con nói thật với bố. Đừng tưởng con này trông như pha gái mà nghĩ
con này là phận liễu yếu đào tơ, không phải là thằng đàn ông. Đây nói cho bố
biết. Đây chưa bao giờ ngồi xổm như mấy con đàn bà! Chưa bao giờ! Bố hiểu chửa!
Mà con nói thật nhé. Chắc gì bố đã là đàn ông mà bố bĩu môi, dè bỉu, coi khinh
con này như thế.
Thấy sắc mặt tím tái rồi thoắt cái
đỏ bừng của Sướng, cụ Vân chột dạ:
- “Mẹ nó! Chạm phải vía “con dở ông
dở thằng” này rồi. Nó mà nổi cơn đồng bóng thì mình dại mặt.”. Cụ lùi người,
lùi người để tránh cơn giận của Sướng, không ngờ cụ trượt chân ngã oạch một
cái. Nhìn bộ dạng luống cuống của cụ, Sướng phì cười, bĩu môi:
- Gớm! Đàn ông chưa? Ối dào! Đàn ông
như bố, đây cũng dí thèm!”
Bị cụ Bống, là bố đẻ, đánh chửi, dù
"nhiều oan ức" nhưng "cô" Sướng không cãi mà ngồi im cam
chịu vì đạo làm con. Bị cụ Bống hiểu sai là "thằng đồng cô" (bê đê)
và đe sẽ huỷ hôn giữa Sướng với Ngân nhưng lo cho tương lai của "dì
Kiên", sợ nói ra sự thật chỉ Kiên ái mới là "đồng cô" thì Kiên
ái sẽ khó lấy được vợ, sẽ khổ nửa đời về sau của bạn mình nên dù bị oan ức, bị
cụ Bống chửi đánh... Sướng vẫn cắn răng chịu đựng. Nghĩa cử đó của
Sướng thật đẹp, không phải ai cũng làm được.
Ngân là nhân vật được tác giả giành
những lời ngợi ca, những khắc họa rất đẹp về nhan sắc và nhân cách:
“Ngân
không mỏng mày hay hạt nhưng Ngân thùy mị, nết na. Ngân không sắc nước hương
trời nhưng nét dịu dàng của Ngân đủ khiến trai làng phải thầm mơ trộm nhớ. Ngân
được người. Ngân được nết. Cả làng, cả xã chưa thấy Ngân mặt nặng mày nhẹ, cãi
cọ với ai. Cứ nhẹ nhàng với mọi người, cứ nhún nhường với mọi người như thể
Ngân sinh ra là để chan hòa với mọi người vậy.”
Không chỉ xinh đẹp, hiền thục, đảm
đang mà Ngân còn được tác giả Đặng Xuân Xuyến mô tả là người phụ nữ mạnh mẽ
trong tình yêu và dám sống với tình yêu đích thực của mình. Cái đêm Sướng biến
thiếu nữ Ngân thành người đàn bà được tác giả Đặng Xuân Xuyến dàn dựng như một
vụ "tai nạn" hi hữu, chủ yếu để đề cao chữ "trình tiết", đề
cao phẩm hạnh của Ngân. Có thể vì quá quý mến em gái mình nên Đặng Xuân Xuyến
mới dàn dựng như thế nhưng nếu là tôi, tôi sẽ để Ngân "dính bầu" như
các trường hợp "ăn cơm trước kẻng" khác, thì sự mạnh mẽ trong tình
yêu của Ngân mới thật.
Tóm lại, Đặng Xuân Xuyến đã giành
cho nhân vật Ngân sự yêu mến và trân trọng đặc biệt. Người con gái ấy không chỉ
đẹp người, đẹp nết mà còn là người phụ nữ hiện đại, mạnh mẽ với tình yêu.
Nhân vật cụ Bống xuất hiện cuối
truyện và số chữ viết về cụ không nhiều nhưng Đặng Xuân Xuyến đã khắc hoạ thành
công hình ảnh cụ Bống: một người ông, người cha yêu thương con, cháu hết mực;
có những nghĩa cử cao đẹp, hơn hẳn người đời, biểu hiện ở hành động khi nghe
tin con trai bị "đồng cô, không yêu được con gái" đã yêu cầu con trai
huỷ hôn, đừng làm lỡ dở cuộc đời người con gái xinh đẹp, hiền thục của làng xã:
- “Thầy hỏi, con phải trả lời thật nhé. Con có yêu cái Ngân không? Con có
làm chuyện đàn ông với đàn bà được không? Còn chuyện con với thằng Kiên “ái”
nhà ông Vân thế nào? Thầy nghe thằng cháu đích tôn nói con với thằng Kiên “ái”
yêu nhau, thề thốt nếu không được sống cùng nhau sẽ cắt tóc đi tu. Đã thế, còn
bày đặt chuyện lấy vợ làm gì hả con?”.
Phải là người có tấm lòng của Bồ Tát
thì cụ Bống mới lo lắng cho Ngân, khuyên Ngân huỷ bỏ hôn nhân với Sướng vì:
- “Ngân này. Con đẹp người đẹp nết lấy đâu chả được thằng chồng tử tế sao
lại chọn thằng Sướng nhà bác làm chồng? Lấy nhau về, không có con cái thì sao
được hả con? Rồi sẽ khổ cả đời, con ạ. Nghe bác, hủy đám cưới với thằng Sướng
nhà bác đi.”.
Tóm lại, tôi thích truyện ngắn “CÔ
SƯỚNG CƯỚI VỢ” của Đặng Xuân Xuyến bởi, như tác giả Nguyễn Bàng đã nhận xét: “Truyện viết dí dỏm, hài hước gợi nhiều trăn
trở với người đọc. Truyện chạm vào trái tim người đọc bởi trong truyện đầy ắp
tính nhân văn.”
*.
Cao Bình, tháng 02/2020
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319
Quận Long Biên, thành phố Hà
Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
ĐỌC
BÀI THƠ “SAY YÊU” NGHĨ VỀ
THƠ
TÌNH CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Đọc bài thơ “Say
yêu” khi gặp 2 từ “gian díu”
tôi nghĩ có lẽ Đặng Xuân Xuyến đã dùng từ sai hoặc anh viết sai chính tả nhưng ngẫm
nghĩ kỹ và đọc lại bài thơ mới thấy anh đã có chủ ý dùng từ “gian díu” vì chỉ 2 chữ đó mới diễn tả
đúng được tâm trạng yêu của bài thơ: Một tình yêu cuồng nhiệt và vụng trộm! Và
chỉ 2 chữ “gian díu” mới lột tả được
những khát khao yêu đương, những đau đớn khi yêu và cả những nổi loạn bất cần
giáo lý đạo đức của kẻ “Say yêu”,
“Cuồng yêu” như gã si tình nổi
loạn Đặng Xuân Xuyến!
Tình của "Say yêu" là thứ tình "gian díu", không phải là thứ tình "díu dan" “dan díu”
như thường thấy ở đời nên một kẻ "Cuồng
yêu", bạo liệt khi yêu, bất chấp quy tắc định chế của xã hội
như Đặng Xuân Xuyến mới thẳng thắn rằng:
"Yêu
thương nhé!
Một
lần thôi. Là đủ
Ta
đâu cần gian díu giữa nhân gian"!
Ngay khi sử dụng 2 chữ "gian díu" nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã có chủ ý khẳng định với
bạn đọc đấy là chuyện tình trái ngang vụng trộm. Anh "huỵch toẹt" cuộc tình đó giữa thanh thiên bạch nhật, bất chấp
sự soi mói đàm tiếu của người đời:
"Yêu
thương nhé.
Một
lần thôi. Là đủ
Ta
đâu cần gian díu giữa nhân gian.".
Vì đó là thứ tình yêu “vụng trộm” trái ngang, yêu
kiểu “bất chấp” nên anh sòng phẳng, không chấp nhận ngay cả sự e ngại của người
phụ nữ vì theo khẩu khí của anh thì đó chỉ là kiểu làm dáng, làm mất đi thi vị
của tình yêu:
"E
ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.".
Thơ tình của Đặng Xuân Xuyến thường có sự
song hành cùng lúc 2 tâm trạng đối nghịch ngay trong một bài thơ, đó là sự đối
nghịch giữa tâm trạng ngùn ngụt đam mê dục vọng với tâm trạng dằn vặt đau khổ
trong tâm hồn vì cuộc tình đã không đạt được trọn vẹn một chữ TÌNH như mong
muốn.
Tác giả Châu Thạch đã rất chính xác khi ông
khái quát về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:
“Đọc “Cưỡng
Xuân” (tập thơ tình) của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự rung động cùng một
lúc. Đó là sự rung động của con tim yêu chân tình, say đắm và độ lượng. Cùng
lúc đó cũng bốc lên trong bầu máu nóng của ta một thứ hương tình cúa thể xác.
Hai thứ hương đó quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng trong nỗi đau khổ
quặn thắt. Khoái lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn lửa của ái ân
thể xác và của âu yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến làm lạnh con
tim, nỗi sầu được diễn tả như bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn lòng se
thắt. Thơ đó không phải là thứ thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như những
bông hoa trường trải được nẩy mầm từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập trong bao
nhiêu biến động của đời.”.
Những câu thơ tả dục tình cuồng nhiệt, táo bạo, nóng
bỏng, nhiều chất phồn thực nhưng không hề “khiêu dâm” “dung tục” đã làm nên nét
riêng của thơ tình Đặng Xuân Xuyến, ví dụ:
- “Đêm
phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi
đón lưỡi uống hương tình bất tận.”
(Say yêu)
- “Thôi,
ngả vào ta, cuộn vào ta
Để
đêm thánh thót rót trăng ngà
Để
làn gió thoảng loang hương lạ
Để
trộn vào ta, nghiến nát ta..”
(Cuồng say)
-
“Ta muốn đêm này em với ta
Quyện
từng hơi thở trộn thịt da”
(Ở lại)
- “Nướng
thời gian với ngọn đèn hiu hắt
Mắt
tìm môi thêm lơi lả ánh nhìn.”
(Chiều ta về)
- “Chẳng
rình em tắm như người ta
Anh
sỗ sàng dụ em buông thả
Vội
vã thành đàn bà
Ngơ
ngẩn làm "vợ người ta"
Em
mặc miệng đời bủa vây mai mỉa
Lời
yêu nuốt sâu cuống họng
Em
thị phi khác thường...”
(Bến đợi)
-
“Thì...
Ngủ
với nhau một đêm
Ta
nếm môi nhau một bận
Ta
lần ngực nhau một bữa
Cho
chừa cái nết sợ đêm.”
(Sợ đêm)
-
“Vội vã cuống cuồng quấn chặt nhau
Chẳng
vì yêu
Chẳng
vì đầu mày cuối mắt
Ngấu
nghiến nhau chỉ giải nghiền cơn khát
Trách
móc làm gì câu nói đầu môi.”
(Tình vội)
-
“Em hững hờ thả từng lọn trăng suông
Anh
nén thở đè muôn ngàn con sóng
Vòng
tay ôm có phần em lơi lỏng
Khẽ
co người khi chạm khúc triều dâng.”
(Phía không em)
-
“Em rướn mình hà hít nụ hôn anh
Tê
tái lắm. Cuộc tình mình thật tội
Môi
khóa môi mà sao xa vời vợi
Đêm
cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.”
(Mơ trăng)
Những câu thơ cuống quýt yêu, bạo liệt yêu như thế
xuất hiện trong thơ Đặng Xuân Xuyến khá nhiều và các chuyện tình trong thơ của
anh cũng phần nhiều rơi vào những sự éo le, ngang trái. Với “Chuyện tình của "Mơ Trăng"
là cuộc tình một bên cuống quýt được thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, vội vã tận
hưởng những phút giây ân ái, một bên lặng người, xót xa, tội nghiệp cho tình
yêu "em" đang dâng hiến và cũng tê tái cho cuộc tình ngang trái của
cả hai.” (Vài cảm nhận về 2 bài thơ tình của cậu học trò lớp 12 - Đặng Xuân
Xuyến). Thì “Tình vội” lại là
một chuyện tình đơn thuần chỉ là cuộc giao hoan giữa 2 thân xác, cả 2 lao vào
nhau để tự giải tỏa những khát khao tình dục cho nhau còn chuyện tình của “Say yêu” thì đích thực là lời mời
gọi khát tình của một kẻ cô đơn này với một kẻ cô đơn khác:
SAY YÊU
- Với T.L.A -
.
Yêu
thương nhé. Một lần thôi. Là đủ
Ta
đâu cần gian díu giữa nhân gian
Uống
nữa đi. Đây rượu ngọt. Môi mềm
Đêm
lạnh lắm đừng để ta lẻ bạn.
.
Nào
nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ
Trút
áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần
Đây
rượu nồng, men ủ đã nhiều năm
E
ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.
.
Thì
ta biết thuyền em chưa bến đậu
Giấu
mơ hoang vật vã đợi phong cuồng
Ta
nhốt mình đằng đẵng mấy mùa ngâu
Nén
lơi lả loạn điên nơi cõi mộng.
.
Ừ
thì rượu. Ừ thì thơ. Ừ mộng đẹp
Ừ
thì say cho hỉ hả phong trần
Đêm
phập phồng, ngực nõn hứng trăng non
Môi
đón lưỡi uống hương tình bất tận.
.
Yêu
thương nhé.
Một
lần thôi. Là đủ
Ta
đâu cần gian díu giữa nhân gian...
*.
Hà Nội, đêm 11 tháng 04 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Trong thi ca Việt Nam, hầu hết những người đẹp trong
các tiệc rượu của các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu... là
gái giang hồ, là kỹ nữ... chỉ là khách mua vui của các thi nhân nhưng những
người đẹp trong thơ rượu của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến (Say yêu, Em, Mơ đêm, Ở
lại,...) lại là những người con gái khoác áo “con gái nhà lành” nhưng khát yêu,
cuồng yêu vì cô đơn, vì những trắc trở của các cuộc tình... đến với thi nhân
cũng chỉ để thỏa mãn những bức bách của dục tính gần như là tình một đêm, tình
chớp nhoáng.
Đặng Xuân Xuyến đã bộc bạch quan niệm về thơ tình
qua bài anh cảm nhận về tập thơ “Sóng
ngầm” của nhà thơ Ngô Nguyễn:
“Thơ Ngô
Nguyễn ít có những giằng xé dữ dội của tâm trạng, của những ham muốn yêu đương
xác thịt mà thường là những chuyển biến rất nhẹ nhàng, những xáo trộn tình cảm
vẫn còn nằm trong sự “kiểm soát” và “giữ gìn” của lý trí, kiểu: Ừ thì,/
gió thoảng mây bay/ Ừ thì,/ chỉ cái chau mày/ nhếch môi....(Ừ thì)... của những
nỗi buồn chơi vơi, của những xâm chiếm nhẹ nhàng hồn cốt: Được lời/ em đến
thăm nhà/ Ngó cau/ cau mới đang hoa/ bao giờ (Mùa cau)... Tình yêu đấy “sạch”
quá, “lành” quá. Ôi! Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”, phải có những
cắn, cấu, cong người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng, mới khoái, mới
đã, mới đích thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í a í a thì quá
chán... Vâng! Tôi quan niệm tình yêu phải vậy.”
Nhà thơ, nhà phê bình văn học Châu Thạch thì chắc
nịch về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:
“Phải chăng
thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình thường không đáp ứng được
cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ luôn mơ mộng sự trong trẻo,
sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc đời. Con người thật của
Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng thơ Đặng Xuân Xuyến quả
là đúng như vậy.”
Còn tôi thì chua thêm câu về thơ tình của Đặng Xuân
Xuyến:
Đặng Xuân Xuyến cuồng nhiệt yêu, bạo liệt yêu vì anh
chưa thực sự được sống trọn vẹn với tình yêu!
*.
Hà Nội, ngày
1 tháng 12 năm 2021
VŨ THỊ HƯƠNG
MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319
quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
-----------------------------------
Đang cập nhật
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét