(Nguồn ảnh: tác giả gửi) |
LAN MAN VỀ
CÁNH CÒ... TRONG THƠ
XUÂN DIỆU, HUY CẬN, VƯƠNG BỘT...
(Nhà thơ La Thụy) |
Rảnh, mình đọc bài Tràng Giang - thơ Huy
Cận, lòng man mác cùng mây trời, hoàng hôn và chim chiều nghiêng cánh
Lớp lớp mây cao đùn núi
bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ:
bóng chiều sa.
(Huy Cận)
Bất chợt liên tưởng mấy câu trong bài "Thơ
Duyên" của Xuân Diệu
Mây biếc về đâu bay gấp
gấp
Con cò trên ruộng cánh
phân vân
(Xuân Diệu)
Rồi lan man với lời bình thơ của Hoài Thanh:
“Từ cánh cò
của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà
cánh phân vân, có sự cách biệt hơn một ngàn năm và hai thế giới” (Thi
nhân Việt Nam)
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường
thiên nhất sắc”
(Vương Bột)
Ai đó đã dịch thành:
(Chiếc cò cùng với ráng
sa
Sông thu cùng với trời
xa một màu)
Và cứ thế lan man đến Đằng Vương Các Tự của Vương
Bột. Ôi chao, cái ông thi sĩ thời Sơ Đường này, ông đã lưu dấu ấn lại trong
truyện Kiều của Nguyễn Du qua một câu thơ điển tích thật hay:
“Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa”
(Kiều)
Và trong một câu thơ điển tích khác cũng thật hay
của Tô Đông Pha:
“Thời lai phong tống
Đằng Vương Các”
Hai câu thơ điển tích của hai nhà thơ lớn ấy bắt
nguồn từ giai thoại:
(Đằng Vương Các ; tác giả gửi ảnh) |
"Con của
vua Cao Tông nhà Đường bấy giờ làm Thái Sử ở Hàng Châu, được phong là Đằng
Vương, có dựng một cái gác bên sông Tầm Dương gọi là Đằng Vương Các. Lúc Diêm
Bá Dư ra giữ chức Đô Đốc Hàng Châu, đặt tiệc tại gác Đằng Vương để thết tân
khách. Muốn khoe tài chàng rể, bảo làm trước một bài tự, rồi mời tất cả các nhà
quyền quý, các mặc khách tao nhân xa gần đến dự; và yêu cầu mỗi người làm một
bài tự ngay bữa tiệc.
Vương Bột lúc bấy giờ,
tuổi vừa 15, 16. Hay tin ấy, nhưng vì đường xá xa xôi có mấy trăm dặm, không
đến họp được, lấy làm tiếc. Một ông già khuyên chàng cứ sửa soạn thuyền buồm,
tự nhiên sẽ có gió thổi. Quả nhiên đêm đó có gió lớn. Vương cho thuyền khởi
hành, và hôm sau tới Đằng Vương các vừa kịp lúc vào tiệc. Và một cuộc thi tài
văn học xảy ra, bài Đằng Vương Các Tự đã xuất sắc đoạt giải”
Bài tự "Đằng Vương Các" viết theo thể
biền ngẫu, dùng nhiều chữ cầu kỳ, nhiều điển khó hiểu nhưng lời thì khá đẹp mà
rất khó dịch. Trong bài, Vương Bột nhắc qua địa lý và nhân vật ở quận, nơi xây
gác Đằng Vương, rồi tả chủ khách trong tiệc, phong cảnh chung quanh khi ngồi
trong gác trông ra, sau cùng kể cảm tưởng của chính mình.
Cuối bài, có 8 câu tuyệt diệu, nhất là 4 câu cuối:
Nhàn vân đàm ảnh nhật du
du,
Vật hoán tinh di, không
độ thu?
Các trung đế tử kim hà
tại?
Hạm ngoại trường giang
không tự lưu.
Nghĩa:
Đầm nước mây vờn ngày
tháng trôi,
Mấy phen vật đổi với sao
dời.
Đằng Vương thuở trước
giờ đâu tá?
Sông lớn ngoài hiên
luống chảy hoài.
(Tương Như dịch)
Trong văn nghiệp sáng rực của một cuộc đời ngắn
ngủi, tác phẩm làm cho tên tuổi Vương Bột trở nên bất tử lại chỉ là hai câu thơ
tả cảnh tuyệt bút, cùng một đoạn thơ tám câu ở cuối bài Đằng
Vương Các Tự. Hai câu thơ tả cảnh tuyệt tác đó là:
“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường
thiên nhất sắc”
Hai câu thơ tuyệt bút ấy lại bị người đời sau cho
là thừa chữ "dữ", "cộng" ("dữ, cộng" cùng
nghĩa “với”,“cùng”). Nếu bỏ hai chữ này thì càng tuyệt hơn, vừa gọn
vừa thanh thoát, lại nhất khí:
Lạc hà cô vụ tề
phi,
Thu thủy trường
thiên nhất sắc.
Lạc hà là ráng chiều buông xuống, cô vụ tề phi là
con vịt trời cô đơn đang cùng bay. Thu thuỷ là sông nước mùa thu, trường thiên
nhất sắc là trời rộng mênh mông, chỉ có một màu.
Con vịt trời cô đơn này không lẽ cũng là chú Uyên
Ương gãy cánh của Kahlil Gibran đang trải mối sầu lẻ bóng vào ráng chiều ?
VỤ (鶩) trong từ Hán Việt là con vịt
trời (dã áp 野 鴨). Khổ một nỗi, các dịch giả Việt Nam đã chuyển
ngữ “cô vụ” là “Chiếc cò, cánh cò cô lẻ” nên gây nhầm lẫn trong trí nhớ của một số
người, khi họ đọc câu thơ Hán Việt theo hồi ức, thành “Lạc hà dữ cô LỘ tề phi”. Vì LỘ 鷺 là con cò (Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất - Thơ
Nguyễn Công Trứ).
Đằng Vương Các Tự là bài “tự” về Gác Đằng Vương, là
bài phú về Gác Đằng Vương, còn được gọi tắt là bài Đằng Vương Các.
Gọi như vậy để phân biệt với “bài thơ Đằng Vương
Các”. Cái gọi là “bài thơ” Đằng Vương Các, thật ra chỉ là đoạn thơ cuối cùng
trong bài Đằng Vương Các Tự. Tuy chỉ là một đoạn thơ, một bộ phận trong bài
Đằng Vương Các Tự, nhưng 8 câu thơ cuối thật hay. Nếu tách riêng ra thì 8 câu
thơ này là một bài thơ hoàn chỉnh. Vì vậy, nó được nhiều văn nhân thi sĩ tán
dương và ngâm ngợi. Tám câu thơ cuối bài còn được đưa vào giảng dạy trong nhà
trường và trở nên “bài thơ Đằng Vương Các” và cụm từ “vật hoán tinh
di ” (vật đổi sao dời) được sử sụng như thành ngữ. Mời thưởng
thức!
ĐẰNG VƯƠNG CÁC
Đằng Vương cao các lâm
giang chử
Bội ngọc minh loan bãi
ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây
Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du
du,
Vật hoán tinh di kỷ độ
thu
Các trung đế tử kim hà
tại ?
Hạm ngoại Trường giang
không tự lưu.
DỊCH:
Gác Đằng cao ngất bãi
sông thu,
Ngọc múa vàng gieo nay
thấy đâu ?
Nam Phố mây mai quanh
nóc vẽ,
Tây Sơn mưa tối, cuốn
rèm châu
Đầm nước mây vờn ngày
tháng trôi,
Mấy phen Đằng Vương Các
Tự
Con vua thuở trước giờ
đâu tá ?
Sông lớn hoài hiên luống
chảy hoài.
TƯƠNG NHƯ dịch
Vài dòng lan man về cánh cò trong thơ Xuân Diệu,
Huy Cận, Vương Bột... góp vui cùng quý vị.
Mời thư giãn với nhạc phẩm THƯƠNG CA TIẾNG VIỆT
nhạc: Đức Trí, lời: Hà Quang Minh, qua tiếng hát Mỹ Tâm:
*
LA THỤY
Tên thật: Đoàn Minh Phú
Địa chỉ: 79-1/8 Hoàng Hoa
Thám, Phước Hội,
thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận
Email: phudoan56@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 11.09.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét