(Nhà thơ Quang Huy ; Nguồn ảnh: internet) |
NHÀ THƠ
QUANG HUY - TỪ
“HƯ VÔ” ĐẾN “NỖI NIỀM THỊ NỞ”
(Tác giả Phạm Khải) |
Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã nói tới cái khó của thể
thơ lục bát. Xuân Diệu thậm chí còn tiết lộ ông rất "sợ" thơ lục bát,
rất ít viết lục bát, vì sợ thất bại. Trong quan niệm của ông, đây là loại thơ
dễ làm nhưng khó hay, phải làm sao để nó "giản dị, thanh thoát và không tầm thường dung tục".
Quang Huy cũng có chung nhận định như vậy, mặc dù
điều ấy không ngăn trở việc anh năng dùng thể thơ này. Trong thi đàn, anh được
xem là người viết lục bát vững tay nghề. Bình thường anh viết ậm ạch nhưng
riêng với thể thơ lục bát, anh như được thoát xác, thăng hoa. Đa phần các bài
của anh đều có hình ảnh "bắt mắt", âm điệu xuôi tai. Nó có thể chinh
phục người đọc ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên. Tuy nhiên, về lâu về dài, mỗi bài
thơ cần như một con sông, nước vẫn êm đềm chảy trôi song phải có phù sa lắng
lại. Như với trường hợp các bài "Hư vô", "Nỗi
niềm Thị Nở", theo tôi, đây là hai bài vào loại đặc sắc của Quang
Huy, cũng là đặc sắc của thi ca đương đại Việt Nam. Nó hoàn toàn đủ để chứng
minh sức lay cảm ở thể loại thơ lục bát của anh.
"Hư vô" là bài thơ đẹp một cách
trang nhã, ý tứ thâm trầm sâu sắc, thể hiện ở tác giả sự kinh lịch việc đời và
cả kinh nghiệm việc… thơ: "Cái gì cũng có một thời/ Bao nhiêu máu chảy
trong lời vua ban/ Cái gì rồi cũng tiêu tan/ Bao nhiêu xương trắng nằm oan dưới
mồ/ Cái gì rồi cũng hư vô/ Bao nhiêu tượng gỗ lên chùa ngồi chơi/ Cái gì rồi
cũng rụng rơi/ Quả trên vườn Cấm, hoa nơi Địa - đàng/ Chỉ còn mãi với thời
gian/ Tình yêu tự thuở hồng hoang dại khờ…". Thông điệp của bài thơ
khá rõ ràng: Mọi cái thảy rồi cũng qua, chẳng có gì là vĩnh cửu, từ quyền lực
tới đức tin của con người. Chỉ tình yêu là đáng tôn thờ, là còn mãi. Vậy mà con
người vẫn luôn làm khổ nhau. Máu vẫn không ngừng đổ và nỗi oan khuất thì muôn
đời vẫn chất chồng xương trắng… Không chỉ sâu sắc trong ngẫm ngợi sự thế, Quang
Huy còn chặt chẽ trong chọn lựa chi tiết, hình ảnh. Chỉ tiếc là hai câu kết
chưa thực tương xứng với vấn đề mà tác giả đặt ra. Gì chứ "Gắng ngồi
viết cạn bài thơ/ Bài thơ liệu có hư vô như mình?", kết thế là hơi
gượng. Một khi nội dung chính của bài thơ nói tới những cái lớn lao như thời
thế, kiếp người, việc đem chuyện… làm thơ vào đây đã ít nhiều làm giảm cấp độ
cảm xúc của bài thơ.
Nếu như trong "Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam"
in ra năm 1994 ở Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, Quang Huy đã chọn bài thơ
đại diện cho mình là bài "Hư vô" thì ở các tuyển thơ khác
sau này, như "Tuyển tập thơ tình Việt Nam thế kỷ XX" (Nhà xuất bản Thanh
niên, 2001), anh lại thay bằng bài "Nỗi niềm Thị Nở". Giống như
"Hư vô", bài này cũng được anh sáng tác trong năm 1993.
Theo tôi, đây mới thực là bài thơ đạt đến độ hoàn mỹ của Quang Huy.
Nhiều bạn đọc đã biết, Chí Phèo và Thị Nở là hai
nhân vật chính trong truyện "Chí Phèo" của Nam Cao. Đây là hai nhân
vật nổi đình nổi đám và có sức điển hình hóa thuộc loại bậc nhất trong văn
chương Việt Nam .
Sau Nam Cao, đã có một số tác giả tiếp tục cho hai nhân vật này dung dăng dung
dẻ trên trang sách của mình. Về văn xuôi, tôi nhớ có tiểu thuyết "Chí
Phèo mất tích" của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu và tiểu thuyết "Hậu
Chí Phèo" của nhà văn Phạm Thành. Ở mảng thơ, trước Quang Huy, Vương Trọng
và một số nhà thơ khác cũng chọn đưa Chí Phèo, Thị Nở vào tác phẩm của mình.
Song đa phần các tác giả này dùng thể thơ ngũ ngôn, là thể thơ gần với lời nói
thường ngày để dựng chân dung nhân vật sao cho gần với những gì mà bạn đọc cảm
nhận được từ trang sách của Nam Cao. Ở đây, Quang Huy đã liều sử dụng tới thể
thơ… lục bát, một việc mà nếu không khéo sẽ gây… phản cảm với bạn đọc, tương tự
trường hợp ta cho Thị Nở, Chí Phèo hát… quan họ vậy.
Trước đây, hễ nói tới Thị Nở là người ta gần như
chỉ tập trung nhấn mạnh tới nét xấu ngoại hình, tới bộ mặt ma chê quỷ hờn của
thị. Quang Huy không đề cập tới khía cạnh này, nói đúng hơn là anh… lờ đi. Thay
vào đó, anh khai thác cái tâm tính "dở
hơi" - mà thật ra chưa hẳn đã dở hơi - của thị. Và chính cái "dở hơi" mà đáng thương, đáng quý ấy
của Thị Nở sẽ chi phối toàn bộ cái tứ của bài thơ.
Để tiện cho bạn đọc theo dõi, xin dẫn ra đây nguyên
văn bài thơ nói trên của Quang Huy:
Người ta cứ bảo dở hơi
Chấp chi miệng thế lắm lời thị phi
Dở hơi, nào dở hơi gì
Váy em xắn lệch nhiều
khi cũng tình
Làng này khối kẻ sợ anh
Rượu be với chiếc mảnh sành cầm tay
Sợ anh chửi đổng suốt
ngày
Chỉ mình em biết anh say
rất hiền
Anh không nhà cửa, bạc tiền
Không ưa luồn cúi, không yên phận nghèo
Cái tên thơ mộng Chí
Phèo
Làm em đứt ruột mấy
chiều bờ ao
Quần anh ống thấp ống cao
Làm em hồn vía nao nao đêm ngày
Khen cho con Tạo khéo
tay
Nồi này thì úp vung này
chứ sao!
Đêm nay trời ở rất cao
Sương thì đẫm quá, trăng sao lại nhòa
Người ta… mặc kệ người
ta
Chỉ em rất thật đàn bà
với anh
Thôi rồi, đắt lắm tiết
trinh
Hồn em nhập bát cháo
hành nghìn năm.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu có phần bông đùa. Nó có
thể là lời Thị Nở mà cũng có thể là lời tác giả "bênh vực" cho thị.
Song đến câu thơ tiếp theo thì đích thị là câu của Thị Nở. Có cảm tưởng như thị
đang xốc váy xáp vô những người có cách nhìn nhận khinh thường thị: "Dở hơi, nào dở hơi gì". Kể ra, nếu
cứ để thị tiếp tục cái mạch đành hanh, "áp đảo dư luận" kiểu này thì
rồi bài thơ cũng không biết sẽ rẽ sang ngả nào. May mà tác giả đã kịp chen vào
can thiệp bằng một câu thơ gắn nụ cười hóm hỉnh: "Váy em xắn lệch nhiều khi cũng tình". Chữ "cũng
tình" mang hơi hướng ngôn ngữ… vỉa hè đưa vào đây rất đắc địa. Nó thể hiện
một cái nhìn "âu yếm", hơi chút… lẳng lơ với Thị Nở. Âu cũng là một
cách xoa dịu thị.
Khổ thơ tiếp theo, tác giả làm lời Thị Nở nói về
Chí Phèo. Thật ra, trong truyện của Nam Cao, Chí Phèo chưa bao giờ một tay cầm
be (rượu), một tay cầm mảnh sành cả. Hắn chỉ ngất ngưởng với chai rượu và khi
cần thì đập chai, lấy mảnh vỡ rạch mặt. Nhưng thôi, đấy là lời Thị Nở, hẳn
"anh Chí" cũng chẳng chấp. Một người có cái nhìn về hắn tốt đến thế
cơ mà: "Chỉ mình em biết anh say rất
hiền" (xin mở ngoặc: Đây không phải Quang Huy "bịa" thêm
đâu. Nam Cao chẳng có lúc đã để cho Thị Nở nghĩ về Chí Phèo: "Sao có lúc nó hiền như đất?").
Đến khổ thơ thứ ba, vẫn là lời Thị Nở (về Chí
Phèo), song cách nói hốt nhiên trở nên nghiêm trang lạ: "Anh không nhà cửa, bạc tiền/ Không ưa luồn
cúi, không yên phận nghèo". Thú thật, đọc đến đây tôi hơi… lo. Làm sao
lại để Thị Nở phát ngôn như thể các nhà làm sách giáo khoa thế? Không chừng sự
thuyết giáo này lại phá hỏng bài thơ vốn dĩ có giọng điệu hài hước của Quang
Huy. Vả chăng, có một thời, các nhà phê bình quá nặng về vấn đề "tính giai
cấp" nên đã có những nhận định đi hơi xa so với những gì Nam Cao thể hiện.
Kiểu như: "Xưa kia, Chí Phèo đã từng
ước mơ một cuộc sống hạnh phúc, giản dị trong lao động. Tuy còn trẻ trung, anh
cũng phân biệt được tình yêu chân chính và thú dâm dục xấu xa… Bản chất trong
trắng, lương thiện của người dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù
thực dân ra sức bóp chết" (như nhận xét của một vị giáo sư khả kính).
Tôi lo Quang Huy cũng đi theo hướng ấy, nhất là khi anh lại gá những lời nghiêm
túc ấy vào miệng một người như… Thị Nở. Rất may, câu thơ tiếp theo đã hóa giải
tất cả, bởi nó lại trở lại giọng bông đùa ban đầu: "Cái tên thơ mộng
Chí Phèo/ Làm em đứt ruột mấy chiều bờ ao".
Nhưng đùa là đùa vậy thôi, hình ảnh Chí Phèo, dẫu
có xốc xếch, xộc xệch cũng vẫn đáng yêu, nhất là trong con mắt Thị Nở: "Quần
anh ống thấp ống cao/ Làm em hồn vía nao nao đêm ngày". Đến đây, tác
giả buông một câu thật đắc địa (nó gợi lại cái tên truyện "Đôi
lứa xứng đôi" mà nhà văn Lê Văn Trương từng đặt cho tác phẩm của
Nam Cao khi truyện "Chí Phèo" lần đầu được in):
"Khen cho con Tạo khéo tay/ Nồi này thì úp vung này chứ sao".
Từ đoạn tả cảnh vườn chuối đêm trăng trong truyện
ngắn của Nam Cao, Quang Huy đã tạo nên một không gian rất thần diệu, vừa gợi
không khí lãng mạn vừa nói lên cái ngất ngây của cặp "tình nhân" lần
đầu đến với nhau: "Đêm nay trời ở rất cao/ Sương thì đẫm quá, trăng sao
lại nhòa", để rồi qua đó, anh buông hai câu tưởng không thể đáng
yêu và hợp ngữ cảnh hơn: "Người ta… mặc kệ người ta/ Chỉ em rất thật
đàn bà với anh".
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học Đặng Anh Đào -
trong bài viết "Khả năng tái sinh của Chí Phèo"
đã cho rằng, truyện "Chí Phèo" của Nam Cao là một tác phẩm "tắm
trong chất thơ". Và vì những tác phẩm viết lại Chí Phèo ngày nay đã đánh
mất cái "chất thơ" ấy, nên "những Chí Phèo ngày nay sẽ tuyệt
tự" (nghĩa là nó xuất hiện đấy mà không phải… Chí Phèo nữa). Tôi cho rằng
nhận định này tuy có lý, song chí ít nó cũng không đúng với một trường hợp. Bởi
trong bài thơ của mình, Quang Huy đã không hề xem nhẹ cái "chất thơ"
ấy.
Mời thư giãn với nhạc phẩm SON
của Đức Nghĩa, qua tiếng hát Quốc Thiên:
*
Hà Nội, 28.02.2011
PHẠM KHẢI
Địa chỉ: xã Ninh Sở, huyện
Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Hiện thường trú tại Hoàn Kiếm, Hà Nội.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com,vn gửi ngày 13.06.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét