(Tác giả Phạm Đức Nhì) |
AI HOÀI CỔ HƠN
AI?
Khoảng cuối
năm 2011, một người bạn văn chương ở trong nước gởi cho tôi 4 bài thơ kèm theo
một câu hỏi như kiểu đánh đố: “Ai hoài cổ hơn ai?” Tôi hiểu ý anh bạn, nhưng
theo tôi, cách đặt vấn đề của anh không được chính xác lắm. Với một người thích
đọc thơ và thỉnh thoảng cũng làm thơ như tôi, câu hỏi đó phải là: “Trong 4 bài
thơ thể hiện tâm tình hoài cổ, bài thơ nào hay hơn? Hoặc tài thơ của tác giả
nào cao hơn?”
Đến khi tra
cứu để bình bài thơ Sông Lấp tôi lại đọc được bài Về Bài Thơ Sông Lấp Của Tú
Xương (1) của Vũ Bình Lục, trong đó tác giả cho rằng: “… Tú Xương và
Nguyễn Khuyến, căn cốt vẫn là những nhà thơ trữ tình đặc sắc của dân tộc. Phải
nói thêm là cả hai cụ, đều trữ tình ngay cả trong trào phúng và ngược lại.
Riêng về thơ, về tài thơ thì tôi cũng muốn xếp cụ Tú Xương cao hơn một tí. Cụ
Nguyễn Khuyến kinh điển hơn, uyên bác hơn, nhưng đó lại chính là chỗ gây khó
cho nhà thơ nổi tiếng này.”
Với tôi, thi
sĩ, ngay cả trong cùng một loại thơ, như thơ trữ tình chẳng hạn, không phải lúc
nào cũng sáng tác đều tay như một cỗ máy sản xuất một món hàng công nghệ. Có
khi cao hứng, chữ nghĩa, ý tứ từ trên trời rơi xuống, viết được bài thơ rất
hay. Nhưng cũng có khi, bài thơ viết ra chỉ muốn vứt vào sọt rác, hoặc giả đem
trình làng, thì chỉ như viên sỏi vứt xuống biển, chẳng thấy tăm hơi gì cả.
Có thi sĩ chỉ
viết có vài bài mà nổi danh, nhưng cũng có người in hết tập này đến tập khác mà
khi xưng tên thì chả ai biết ngài là ai cả. Bởi vậy, tôi không dám dùng phương
cách đem “gia tài thơ” của cả hai thi sĩ đặt lên bàn cân rồi kết luận ai tài
hơn ai. Công việc ấy không phải là không làm được, nhưng phải cần một ê-kíp
những nhà phê bình văn học có tài, phải ra công tra cứu ngọn ngành, phân tích
chi li, kỹ lưỡng, phải có óc tổng hợp, phải cân nhắc đủ chiều, đủ mặt. Mà dù có
làm được việc ấy, kết luận đưa ra vẫn còn đầy tính chủ quan, còn gây nhiều
tranh cãi.
Thôi thì “mèo
bé bắt chuột con”, thỉnh thoảng tôi chỉ dám đem bài thơ này so sánh với bài thơ
kia (nhưng chỉ giới hạn scope của việc so sánh vào một đặc điểm nào đó thôi).
Theo tôi, nếu chọn hai bài thơ thuộc loại “những con tương cận”, nghĩa là có
chung một đặc điểm nào đó (chung một đề tài, chung một thủ pháp nghệ thuật…)
thì việc so sánh sẽ dễ hơn. Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác và Cảm Hoài của Đặng
Dung là “những con tương cận” vì có chung một đề tài, một tâm sự; đó là hào khí
của một sĩ phu trước cảnh nước nhà nguy biến. Dĩ nhiên, khi so sánh, có người
coi trọng cách dùng chữ, có người coi trọng cái thâm trầm, sâu sắc, người khác
lại thích cái hào sảng, phóng khoáng, hơi thơ nóng bỏng, dòng chảy cuồn cuộn
như thác đổ. Và từ đó họ có sự đánh giá cao thấp khác nhau.
Trong tinh
thần đó tôi thấy việc tìm câu trả lời cho câu hỏi của anh bạn về 4 bài thơ là
khả thi, là tương đối dễ dàng. Bốn bài thơ đó là:
- Nhớ Quy Nhơn của Vương Linh.
- Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan.
- Ông Đồ của Vũ Đình Liên.
- Sông Lấp của Tú Xương.
Hoài cổ là
nhớ thương, tiếc nuối một thời đã qua. Như vậy, Nhớ Quy Nhơn, đúng ra, là tâm
tình hoài hương chứ không hẳn là hoài cổ. Dĩ nhiên, trong hoài hương đã ẩn chứa
hoài cổ (Nhớ Quy Nhơn là nhớ cả cái thời gian mình đã sống ở Quy Nhơn); tuy
nhiên, ở đây khung trời quê hương mới chính là tâm điểm của bài thơ. Ba bài còn
lại thì đúng là hoài cổ; nhớ thương, tiếc nuối đều xoáy vào “một thời đã mất”.
NHỚ QUY NHƠN (2)
Không đủ ban ngày để nhớ nhau
Tối nằm chợp mắt đã chiêm bao
Nửa đêm trở dậy hương rừng thoảng
Tương biển Quy Nhơn gió thổi vào.
(Vương Linh,
1921-1992)
Không rõ
trước khi rời quê hương miền trung, tập kết ra bắc (1954), chàng thanh niên Lê
Công Đao (Vương Linh) có được đọc và học thơ Trần Tế Xương không, chứ đọc Nhớ
Quy Nhơn của ông tôi thấy rất đậm mùi … Sông Lấp. Tuy không sử dụng phép ẩn dụ,
Nhớ Quy Nhơn cũng dùng cách bày tỏ, diễn tả chứ không kể lể, biện giải dài dòng
(show, not tell), cũng ngửi cái này, tưởng cái kia. Riêng mức độ tài năng thì
cao thấp rất rõ nét. Thôi thì cứ cho hoàn toàn là do tình cờ mà hai bài thơ có
hơi hướm giống nhau, chỉ riêng thủ pháp “show, not tell” đã cho người đọc thấy
rõ sự “không khéo” của Vương Linh. Trước hết, thay vì dùng hình ảnh khác để
người đọc liên tưởng đến Quy Nhơn thì Vương Linh lại bí bách đến độ ôm hai chữ
Quy Nhơn, rất vụng về, nhét vào câu thứ tư:
Tưởng biển
Quy Nhơn gió thổi vào
Rồi cái tựa
Nhớ Quy Nhơn của bài thơ thì lại “lạy ông tôi ở bụi này”, khiến cái phương cách
“show, not tell” trở thành “half-show, half- tell”, nửa đời, nửa đoạn.
Nhớ Quy Nhơn
đưọc chọn đăng trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình và được Nguyễn
Bùi Vợi khá mạnh miệng ngợi khen.(2)
Với tôi, giá
trị nghệ thuật của Nhớ Quy Nhơn chỉ ở mức trung bình. Không kể cái “tội” na ná
vóc dáng của Sông Lấp, mà chỉ riêng cái thủ pháp “half-show, half-tell” nửa
đời, nửa đoạn cũng đủ xếp bài thơ ở cuối bảng trong số 4 bài thơ mà tôi được
“yêu cầu” bình phẩm.
Với Nhớ Quy
Nhơn của Vương Linh ở hạng tư, vị trí hạng ba sẽ dành cho Thăng Long Thành Hoài
Cổ của Bà Huyện Thanh Quan (3). Lý do: TLTHC là một bài thơ Đường luật hay,
ngôn ngữ sang cả, cảm xúc dạt dào nhưng có hai khuyết điểm mang tính thời đại
là hình ảnh khuôn sáo và thể thơ gò bó.
Còn Ông Đồ
(4) và Sông Lấp (5) đều là tuyệt tác, đều có những “tuyệt chiêu” trong thơ ca.
Việc chọn lựa vị trí hạng nhì và hạng nhất cũng làm tôi có một chút đắn đo, suy
nghĩ. Sau đây là một vài điểm so sánh, cân nhắc:
Cả hai đều áp
dụng thủ pháp “show, not tell” thành công.
Cả hai đều có
phép ẩn dụ hoàn hảo, kín kẽ (không sơ hở); tuy nhiên, phép ẩn dụ của Sông Lấp
tài tình hơn, sâu kín hơn.
Tứ thơ của cả
hai bài đều mạch lạc; cảm xúc, hình ảnh tuôn chảy theo một trình tự hợp lý.
Trận địa chữ
nghĩa của Ông Đồ lớn hơn, bề thế hơn; nhưng câu chữ, âm thanh, hình ảnh, cảm
xúc của Sông Lấp được xếp đặt, nối kết như một thế trận chặt chẽ hơn.
Ông Đồ có
“tuyệt chiêu” thi hóa thân thành họa; Sông Lấp không có.
“Tuyệt chiêu”
thi hóa thân thành họa của Ông Đồ không hoàn hảo; bức tranh thứ năm vẫn cồm cộm
chữ nghĩa.
Sông Lấp
không có hội chứng nhàm chán vần; vị ngọt thơ ca của Ông Đồ hơi đậm.
Dựa vào những
phân tích trên đây, tôi, với cái nhìn chủ quan của mình, chọn Sông Lấp vào vị
trí hạng nhất. Như vậy, thứ tự (từ cao xuống thấp) của 4 bài như sau:
1. Sông Lấp.
2. Ông Đồ
3. Thăng Long Thành Hoài Cổ
4. Nhớ Quy Nhơn
Rất mong nhận
được chỉ điểm, bổ khuyết, phê bình của những người yêu thơ.
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
email: nhidpham@gmail.com
............................................
Chú thích
(1) lethieunhon.com
(2) Thơ Việt
Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, Nhà xuất bản Giáo Dục 2004, trang 418.
(3) Xin xem
thêm Đọc Thăng Long Thành Hoài Cổ Nghĩ Về Vị Trí Của Thơ Đường Luật (t-van.net)
(4) Xin xem
thêm Ông Đồ: Những Bức Tranh Thơ. (t-van.net)
(5) Nếu
có ai trong số người đọc có cái nhìn khác, nhận định khác, cách xếp hạng khác
xin e-mail cho tôi biết. Tôi sẽ thêm vào phần “ý kiến bạn đọc”.
(6) Xin
xem thêm Sông Lấp: Một Bài Thơ Toàn Bích (t-van.net)
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 01.09.2015
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét