- Nguồn ảnh: Internet - |
NỘI CHIẾN TRIỀU TIÊN
và bàn cờ thế cuộc
- Biên dịch: Đoàn Mạnh Thế
-
* Mao Trạch
Đông dự định sau khi thống nhất Trung Quốc, sẽ chi viện cho Bắc Triều Tiên.
* Kim Nhật
Thành cho rằng chỉ trong vòng hai tuần lễ sẽ chiếm lĩnh Nam Triều Tiên.
Chậm nhất là sau hai tháng.
* Lưu Thiếu
Kỳ nói với Stalin, Đảng Cộng sản Trung Quốc dự định năm 1950 sẽ tiến công Đài
Loan. Đề nghị phía Liên Xô cung cấp khoảng 200 máy bay và mời người huấn luyện
phi công. Stalin nhanh chóng đáp ứng lời thỉnh cầu của “Trung
Cộng” (Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc gọi tắt là Trung Cộng). Nhưng thực tế lại không như vậy...
1. THẾ CỤC CỦA TRIỀU TIÊN NGÀY CÀNG CĂNG THẲNG. TRUNG - XÔ
CHỦ TRƯƠNG TRÁNH XUNG ĐỘT
Tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô giải
phóng Bắc Triều Tiên. Sau đó Kim Nhật Thành nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô đã thành
lập chính phủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động (tức Đảng Cộng sản). Vì vậy
tại Nam Triều Tiên, vùng quân Mỹ chiếm đóng cũng thiết lập chính quyền Lý Thừa
Vãn chống cộng. Giữa Nam
và Bắc Triều Tiên hình thành sự đối lập nghiêm trọng. Cuối năm 1948, để buộc Mỹ
rút quân, Liên Xô rút trước khỏi Bắc Triều Tiên. Sau khi Liên Xô rút, thế cục
trên bán đảo Triều Tiên ngày càng căng thẳng. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1949 đến
ngày 15 tháng 4 năm đó, quân đội Nam Triều Tiên đã 37 lần khiêu khích, đe doạ
quân sự vĩ tuyến 38o. Họ đã bí mật tập kết 41.000 quân tại vĩ tuyến
38o, gây sức ép cực mạnh đối với chính phủ Bắc Triều Tiên.
Do nhu cầu đảm bảo an toàn, từ tháng 12 năm
1948 đến tháng 1 năm 1949, Kim Nhật Thành đã hai lần đề nghị Liên Xô ký kết
hiệp định hữu nghị tương trợ. Đồng thời đề nghị viện trợ cung cấp vũ khí. Vì lo
lắng tới chuyện Mỹ có thể sẽ viện cớ công kích Liên Xô muốn chia cắt lâu dài
hai miền Nam Bắc Triều Tiên, nên Liên Xô không đồng ý với yêu cầu của Kim Nhật
Thành. Nhưng theo báo cáo của ngài đại sứ Sitikôp của Liên Xô tại Triều Tiên,
thì Stalin đã phê chuẩn kế hoạch quân viễn đông của Liên Xô, viện trợ quân sự
cho Triều Tiên. Chỉ có điều là viện trợ lần này, chủ yếu là những vũ khí hạng
nhẹ.
Tháng 3 năm 1949, Kim Nhật Thành dẫn đầu
đoàn đại biểu Đảng và chính phủ sang thăm Liên Xô, để trực tiếp thảo luận với
Stalin về những vấn đề an toàn của Bắc Triều Tiên. Theo báo cáo của đại sứ Liên
Xô và tuỳ viên quân sự tại Triều Tiên, Stalin đã chỉ thị rõ ràng: Tăng cường
quân đội Bắc Triều Tiên là cần thiết, song chớ có sợ hãi người Nam Triều Tiên.
Sau đó đến trung tuần tháng 4 năm 1949, tức
là sau khi Kim Nhật Thành về nước, tin tức tình báo từ Bắc Triều Tiên cho biết:
Tháng 5 quân Mỹ sẽ rút toàn bộ khỏi Nam Triều Tiên. Người Nam Triều Tiên quyết
định: Một tháng sau khi quân Mỹ rút đi, sẽ mở một cuộc tổng tiến công vào Bắc
Triều Tiên. Sau hai tháng sẽ kết thúc chiến tranh. Bởi thế, Stalin vô cùng lo
lắng. Hiện tại Kim Nhật Thành chỉ có ba sư đoàn bộ binh, trang bị vũ khí rất
thiếu. Ngược lại Lý Thừa Vãn lại có sáu sư đoàn trang bị đầy đủ, đã được Mỹ huấn luyện. Vì vậy phía
Liên Xô đề nghị với Bắc Kinh, để các sĩ quan binh lính gốc Triều Tiên trong
quân giải phóng Trung Quốc, thâm nhập vào biên chế của quân đội nhân dân Triều
Tiên. Chính vì vậy, Kim Nhật Thành một mặt cầu viện Stalin, đề nghị phía Liên
Xô trước khi hết tháng 5, sẽ giúp đỡ quân đội nhân dân Triều Tiên cơ giới hoá.
Trước cuối tháng 9 sẽ chuyển giao kỹ thuật hàng không. Mặt khác lại thỉnh cầu
Trung Cộng vượt sông Trường Giang để viện trợ quân lính.
Tháng 5, ngài đặc mệnh toàn quyền của Kim
Nhật Thành bí mật thăm Bắc Bình, là đại bản doanh của Trung Cộng, để nói với
Mao tình thế nghiêm trọng của Bắc Triều Tiên. Ông đặc biệt nhấn mạnh tình hình Nam , Bắc Triều
Tiên khó có thể tồn tại. Đồng thời chuyển thư cầu viện của Kim Nhật Thành gửi
Mao Trạch Đông. Mao tất nhiên tán đồng với cách nhìn của Bình Nhưỡng. Mao thừa
nhận, xung đột giữa Nam
và Bắc Triều Tiên là điều khó tránh khỏi. “Có thể là chiến tranh chớp nhoáng,
cũng có thể chiến tranh kéo dài. Đối với các bạn, chiến tranh kéo dài là điều
bất lợi. Bởi nếu như nước Mỹ không can thiệp, thì Nhật Bản cũng sẽ cung cấp
viện trợ cho Nam Triều Tiên”. Mao cho rằng: Không thể cam tâm như vậy được!
Liên Xô và Trung Quốc luôn đứng bên các bạn. Khi tình thế yêu cầu, Trung Quốc
sẽ đưa quân vào sát cánh cùng chiến đấu với các bạn. Mao nhấn mạnh: Kim Nhật
Thành cần kiên trì theo đuổi thực hiện mục tiêu thống nhất Triều Tiên. Nhưng
đây chưa phải là lúc hành động. Bởi vì tình hình quốc tế còn bất lợi. Hơn nữa,
trước mắt Trung Quốc chưa thể chi viện đại qui mô và có hiệu quả cho Bắc Triều
Tiên. Một khi Trung Quốc hoàn thành nhiệm vụ thống nhất đất nước, tình hình sẽ
khác đi.
Thu hoạch lớn nhất của người Triều Tiên là
được người lãnh đạo Trung Cộng đảm bảo viện trợ thực sự khi Bắc Triều Tiên tấn
công. Thậm chí Mao còn xác nhận đã bố trí tại Bắc Bình hai sư đoàn người dân
tộc Triều Tiên, sẽ nhanh chóng gia nhập quân đội nhân dân Triều Tiên. Đến khi
cuộc chiến tranh thống nhất đất nước của Trung Cộng cơ bản bước vào giai đoạn
cuối, các sĩ quan và binh lính gốc Triều Tiên trong quân giải phóng, cũng sẽ
gia nhập quân đội nhân dân Triều Tiên. Như vậy sẽ tăng cường thực lực quân đội
Bắc Triều Tiên.
Cùng với việc chính quyền Lý Thừa Vãn không
ngừng tăng cường thái độ thù địch đối với Bắc Triều Tiên, quan hệ giữa Nam và Bắc
Triều Tiên ngày càng trở nên căng thẳng. Đến tháng 6, số lần xung đột biên giới
hai bên tăng lên rất nhiều. Ngày 11 tháng 6, Lý Thừa Vãn công khai tuyên bố:
Người Nam Triều Tiên đang chuẩn bị giáng cho người Cộng sản một trận đòn mang
tính huỷ diệt. Trong tình trạng như vậy, sự bất ổn của Bình Nhưỡng càng thêm rõ
rệt. Về phía Liên Xô lúc này bắt đầu suy nghĩ, làm thế nào để giải quyết vấn đề Triều Tiên một cách cơ bản.
Họ một mặt kiên trì với xu thế ra sức phát động hoà bình - thống nhất của Bắc
Triều Tiên. Mặt khác lại cho rằng để đối phó với cuộc tiến công của Nam Triều
Tiên, người Bắc Triều Tiên ắt phải chuẩn bị phản công. Đến giữa tháng 9 năm đó,
vũ khí hạng nặng cùng nhiều trang thiết bị quân sự được chở đến Bắc Triều Tiên.
Quân số quân đội nhân dân Triều Tiên cũng nhanh chóng tăng lên đến 90.000
người. Lãnh đạo Bắc Triều Tiên lần đầu tiên đề xuất: Cần hành động tiến công
Nam Triều Tiên giành thế chủ động. Căn cứ theo báo cáo của đại sứ Liên Xô gửi
về Matscơva, báo cáo viết: Xem ra Kim Nhật Thành, trong tình hình quốc tế cho
phép “họ có thể chỉ trong vòng hai tuần lễ chiếm lĩnh Nam Triều Tiên. Chậm nhất
là sau hai tháng!”
Bởi họ hi vọng được Matscơva ủng hộ. Họ đâu
có biết rằng, trước đó hai tháng, Trung Cộng cũng đã nhờ Stalin giúp đỡ giải
phóng Đài Loan.
- Tác giả: Đoàn Mạnh Thế - |
2. KẾ HOẠCH TẤN CÔNG ĐÀI LOAN CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG - THÁI ĐỘ MƠ
HỒ CỦA MATSCƠVA
Hạ tuần tháng 4 năm 1949, giải phóng quân
Trung Quốc, thế như chẻ tre vượt Trường Giang hiểm trở. Với ý đồ “di sơn đảo
hải” quét sạch quân Tưởng Giới Thạch ở phía nam Trung Quốc. Nhưng do không quân
chẳng có mà hải quân cũng không, nên việc khống chế vùng biển và hải đảo đành
bó tay. Tưởng Giới Thạch đã sớm thấy rõ yếu điểm này, nên đã dời đại bản doanh
sang Đài Loan. Trong hoàn cảnh như vậy, Trung Cộng muốn thống nhất đất nước,
không thể không tính đến chuyện tấn công Đài Loan.
Trước ưu thế quân sự rất lớn của Đài Loan,
Mao đã sớm nhận rõ sự hạn chế nhiều mặt trong việc tiến công Đài Loan. Tuy Mao
biết rằng tiến công Đài Loan ắt phải đánh nhau trên biển, không có hải quân sẽ
rất khó khăn. Song Mao lại tin rằng, quân giải phóng đã từng “cơm nắm, súng
trường” đánh bại quân Tưởng Giới Thạch được Mỹ vũ trang đến tận răng. Như vậy
dù không có hải quân và không quân, chỉ cần bộ binh và thuyền đánh cá cũng vẫn
chiếm được Đài Loan. Trường Giang hiểm trở như vậy, chúng ta chẳng đã từng vượt
qua đó sao? Đương nhiên, Mao cũng biểu lộ, đến khi không quân Trung Cộng sơ bộ
hình thành cùng phối hợp yểm trợ và tiến công thì thanh thế càng lớn mạnh.
Trung tuần tháng 7, Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu
đoàn đại biểu Trung Cộng chuẩn bị bí mật thăm Liên Xô. Trước khi xuất phát, Cục
chính trị Trung Cộng đã thảo luận vấn đề liệu có nên nhờ Liên Xô viện trợ kỹ
thuật để Trung Quốc tấn công Đài Loan hay không? Hội nghị đồng thời đề nghị Lưu
Thiếu Kỳ thay mặt Cục chính trị trao thư cho Stalin. Thử đề xuất vấn đề Liên Xô
huy động không quân và hải quân viện trợ cho Trung Quốc. Nhưng theo kinh nghiệm
lâu năm giao tiếp với Liên Xô đã cho thấy hi vọng thật mong manh.
Trong thời gian thăm Liên Xô, Lưu Thiếu Kỳ
căn cứ theo sự uỷ thác của Cục chính trị Trung Cộng, đã nói với Stalin về dự
định tấn công Đài Loan vào năm 1950 của Trung Cộng. Lưu thay mặt Trung ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc đề nghị Liên Xô cung cấp khoảng 200 máy bay và cử
người huấn luyện phi công, để sử dụng trong cuộc tấn công Đài Loan. Stalin
nhanh chóng đáp ứng lời thỉnh cầu của Trung Cộng. Chẳng qua, Stalin đã hiểu rõ
lời thỉnh cầu của Trung Cộng, thông qua Lưu Thiếu Kỳ về việc cung cấp không
quân và hải quân là điều rất khó thực hiện. Stalin nói: Nếu làm như vậy, ắt sẽ dẫn tới sự can thiệp của Mỹ, gây nên xung đột Xô
- Mỹ sẽ dẫn tới chiến tranh. Mà nhân dân Liên Xô đã bị tổn thất quá nặng nề
trong chiến tranh. Họ khó mà thông cảm với sự việc này!
Mao hiểu rõ sự lo ngại của Stalin. Bao năm
qua Mao vẫn tự lực cánh sinh đưa cách mạng Trung Quốc tiến lên. Mao hoàn toàn
không muốn ỷ lại vào viện trợ của Liên Xô. Song cách nhìn nhận của Mao đã nhanh
chóng thay đổi. Nguyên do là vào cuối tháng 10 đầu tháng 11, giải phóng quân đã
tấn công đổ bộ lên đảo ven biển Triết Giang và đảo Kim Môn ven bờ biển Phúc
Kiến. Hai cuộc tấn công thảm bại, tổn thất quá nặng nề. Việc tác chiến trên
biển rất khó khăn đã khiến Mao hiểu rằng: chuẩn bị điều kiện kỹ thuật là hết
sức cần thiết. Đến lúc này Mao mới cảm thấy cần dựa vào sự viện trợ của Liên
Xô. Hiển nhiên, hai cuộc tấn công thảm bại, nguyên nhân là do phương tiện vượt
biển quá sơ sài. Chiến đấu trên biển, đổ bộ lên đảo, vượt biển tấn công Đài
Loan, không chuẩn bị đầy đủ là không được!
Tháng 12 năm 1949, Mao thăm Liên Xô lần
đầu. Ngày 16 khi hội kiến với Stalin, Mao mềm mỏng đề nghị: “Quốc dân Đảng được chi viện đã thiết lập các
căn cứ không quân, hải quân. Không có không quân và hải quân khiến cho việc
đánh chiếm Đài Loan của giải phóng quân vô cùng khó khăn. Trước tình thế như
vậy, chúng tôi rất lo ngại, muốn đề nghị Liên Xô viện trợ. Thí dụ như cử phi
công tình nguyện hoặc cho các hạm đội bí mật cùng phối hợp đánh chiếm Đài Loan”.
Sử dụng máy bay và chiến hạm của Liên Xô
cũng có nghĩa là phải dùng quân tình nguyện và huy động tàu ngầm giúp Trung
Cộng tác chiến trên biển. Điều này ắt sẽ bị Mỹ phát hiện, hậu quả thật khôn
lường! Trong cuộc hội đàm Stalin lại nhắc đến “Hiệp định Giacacta” mà ông và
tổng thống Mỹ LuytsPho đã ký. Phá huỷ hiệp ước mà cục Viễn Đông của ba cường
quốc Mỹ - Anh - Nga đã thừa nhận, đó không phải là điều sáng suốt. Nghĩ lại
chuyện trước đây Stalin lo ngại việc trực tiếp xung đột với Mỹ tại Viễn Đông,
đã căn bản huỷ bỏ các điều ước Xô - Trung cũ, còn ký kết các thoả ước mới thì
lại dùng dằng không quyết. Điều đó cho thấy, hiện tại khó có thể nhận được sự
viện trợ quân sự chân chính của họ. Liên Xô đề nghị Mao trước tiên hãy sử dụng
các phương châm sách lược đề nghị giải quyết vấn đề Đài Loan như: quân nhảy dù
đổ bộ vào Đài Loan, tổ chức bạo động sau đó hãy tiến công có được không?
Stalin không hiểu Mao, thậm chí còn không
xác định được có nên viện trợ cho Mao hay không? Cuối cùng Stalin vẫn không
biết nên xử sự với Mao như thế nào. Đúng lúc Mao đang “ngồi phải tảng băng” ở
Matscơva thì một “tấn kịch” ngoài ý muốn đã làm thay đổi hẳn thái độ của
Stalin.
Đó là ngày mùng 5 và ngày 12 tháng 1 năm
1950, Tổng thống Mỹ Truman và thượng nghị sĩ Aikisân đã lần lượt tuyên bố và
thanh minh rằng: “Trước mắt, nước Mỹ không giành đặc quyền đặc lợi, thiết lập
căn cứ quân sự trên đất Đài Loan”. Đồng thời tuyên bố, “vành đai an toàn của Mỹ,
không bao gồm Đài Loan và Nam Triều Tiên”. “Nước Mỹ sẽ không trực tiếp hành
động quân sự để “bảo hộ” những nơi đó!”. Chính phủ Mỹ đã công khai tuyên bố như
vậy, khiến Stalin mạnh dạn hẳn lên! Hiệp ước trước đây không muốn ký, nay đã
đồng ý ký! Lo ngại về việc viện trợ quân sự trước đây, nay không còn nữa. Nước
Mỹ đã tự rời bỏ phạm vi ảnh hưởng đã qui định trong “Hiệp định Giacacta”. Đặt
Trung Quốc và Triều Tiên ra ngoài “vành đai phòng vệ” của mình. Như vậy cũng có
nghĩa là giao chúng lại cho Liên Xô. Vì vậy Stalin đồng ý để Mao chuẩn bị tìm
thời cơ thuận lợi tiến công Đài Loan. Liên Xô đồng ý viện trợ cho Trung Cộng
3.000.000 đô la. Một nửa trong số đó dùng để mua các trang thiết bị hải quân
cần thiết nhất cho cuộc tiến công Đài Loan.
Liên Xô chỉ cung cấp trang bị và cố vấn
quân sự (bao gồm cả chuyên viên kỹ thuật quân sự). Mao cho rằng như vậy là tạm
đủ. Từ đấy, công tác chuẩn bị giải phóng Đài Loan trở thành nhiệm vụ hàng đầu
trong công việc quân sự của Trung Cộng, được lặng lẽ tiến hành trong năm 1950.
Liên Xô cũng tăng cường hợp tác với quân đội Trung Cộng, tiến hành công việc
cải tiến trang bị và kỹ thuật. Không quân và hải quân của Trung Cộng, bước đầu
đã hình thành nhanh chóng.
3. KIM NHẬT THÀNH QUYẾT ĐỊNH HÀNH ĐỘNG TRƯỚC KHUYNH HƯỚNG
THỐNG NHẤT TRIỀU TIÊN CỦA STALIN
Mao Trạch Đông và Matscơva luôn tồn tại một
khoảng cách. Còn Kim Nhật Thành đã có một thời gian dài sống trong đại bản
doanh của Liên Xô ở Viễn Đông. Vì vậy giữa hai nước Trung - Triều đương nhiên
Stalin tin tưởng người lãnh đạo Bắc Triều Tiên hơn. Nhưng không vì thế mà
Stalin có ý tưởng mạo hiểm vì Kim Nhật Thành. Trong cuộc hội kiến với Kim Nhật
Thành hồi tháng 9 năm 1949, Stalin đã tỏ rõ thái độ cự tuyệt. Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô đã trả lời dứt khoát: “Nước
Mỹ sau khi thất bại ở Trung Quốc, sẽ tăng cường can thiệp vào nội bộ Triều Tiên”.
Hơn nữa quân đội Bắc Triều Tiên chưa đủ trình độ để phát động thành công cuộc chiến
tranh thần tốc đánh nhanh thắng nhanh. Một khi cuộc chiến hình thành ở cục diện
tương đương lập tức sẽ có lý do để Mỹ can thiệp vào nội bộ Triều Tiên về mọi
phương diện.
Tuy nhiên, Kim Nhật Thành vẫn không từ bỏ ý
định thống nhất Triều Tiên. Quan hệ Nam - Bắc Triều Tiên vẫn luôn căng
thẳng. Về căn bản muốn xoá bỏ nguy cơ chiến tranh, ắt phải tiêu trừ chính quyền
Nam Triều Tiên. Những người Cộng sản Triều Tiên, luôn coi giải phóng dân tộc là
trách nhiệm và mục đích của mình. Vì vậy, khi bài phát biểu của Aikisân công bố
được 5 ngày, Kim Nhật Thành lập tức đề xuất với các quan chức ngoại giao Nga -
Xô đẩy mạnh công cuộc thống nhất Nam - Bắc Triều Tiên.
Ngày 17 tháng 1 trong bữa tiệc chiêu đãi
của đại sứ quán Trung Quốc tại Bắc Triều Tiên, ông Kim Nhật Thành tay cầm cốc
rượu đi đến trước mặt ngài cố vấn Liên Xô tại Triều Tiên. Ông xúc động nói: “Trước mắt, Trung Quốc đang hoàn thành sự
nghiệp giải phóng của họ. Vấn đề còn lại là làm thế nào để hoàn thành sự nghiệp
thống nhất Triều Tiên? Ông tuyên bố: Mao đã cam kết, sau khi thống nhất Trung
Quốc, việc thống nhất Triều Tiên là nhiệm vụ cấp thiết nhất! Trung Quốc sẽ ủng
hộ để hoàn thành nhiệm vụ này. Chính Stalin cũng đã từng nói: Một khi Nam Triều
Tiên không phát động, chiến tranh vấn đề thống nhất Triều Tiên sẽ kéo dài đến
bao giờ?” Kim Nhật Thành nói: Cứ nghĩ đến chuyện không đáp ứng được lòng
mong mỏi của nhân dân, tôi không sao ngủ được! Ông nói rõ yêu cầu muốn gặp lại
Stalin để nói rõ về thế cục.
Stalin không đành lòng để Mỹ can thiệp.
Song ông chưa có cách giải quyết. Vì sao nước Mỹ lại không can thiệp vào việc
thống nhất Trung Quốc? Ngay đến đại lục Trung Quốc rộng lớn, nước Mỹ cũng không
“ngó ngàng” đến, tại sao lại can thiệp vào Triều Tiên bé nhỏ? Đến nay, Đôlômen
và Aikisân lại công khai tuyên bố: Triều Tiên và Đài Loan không nằm trong “vành
đai phòng vệ” của Mỹ, tự nhiên mối lo ngại về sự can thiệp của Mỹ cũng tiêu
tan. Tuy nhiên không phải như vậy mà vấn đề đầu tiên Stalin nghĩ đến là Triều
Tiên. Mà chính là do Nhật Bản từ trước đến giờ luôn là mối hoạ bên sườn nước
Nga. Đài Loan không có liên quan gì tới sự an nguy của Liên Xô nên bị coi nhẹ.
Còn việc thống nhất Triều Tiên sẽ tăng cường, củng cố quốc phòng vùng Viễn Đông
của Nga Xô, khiến cho nguy cơ đe doạ của Nhật đối với Nga giảm xuống. Đây là điều
mơ ước của Stalin. Sau khi cân nhắc yêu cầu của Trung Quốc và Triều Tiên,
Stalin xác định rõ ràng ủng hộ Triều Tiên lớn hơn ủng hộ Trung Quốc nhiều. Đó
là lý do không những ông coi trọng vị trí chiến lược của Triều Tiên, mà còn là
vì giúp đỡ Kim Nhật Thành không cần đến binh lính. Ngoài ra việc nước Mỹ hứa
hẹn không can thiệp vào vùng Viễn Đông cũng có điều kiện hạn chế nhất định. Một
khi người Mỹ biết rằng người Nga đã bí mật đưa người vào tham dự cuộc chiến ở
vùng Viễn Đông, chắc gì Truman và Aikisân đã tôn trọng lới hứa của họ!
Sau gần hai tuần lễ suy nghĩ, cuối cùng đến
tháng 1 năm 1950, Stalin đã đồng ý viện trợ cho Kim Nhật Thành. Ngày 8 tháng 1
trong bức điện gửi đại sứ Liên Xô tại Triều Tiên, Stalin đã tỏ rõ: “Tôi biết đồng chí Kim Nhật Thành có thể chưa
vừa lòng, nhưng đồng chí cần hiểu rằng: Muốn giải quyết đại sự liên quan tới
miền Nam ,
cần chuẩn bị chu đáo. Cần tổ chức tốt để tránh mạo hiểm. Nếu đồng chí thấy cần
thảo luận với tôi về sự việc này, tôi luôn sẵn sàng tiếp đồng chí, để cùng bàn
bạc. Chuyển tin này đến Kim Nhật Thành và nói với ông ấy, trong sự việc này tôi
luôn sẵn sàng giúp đỡ”.
Bức điện báo cho thấy Stalin quyết tâm giúp
Kim Nhật Thành. Lúc này, thời gian Mao rời Matscơva chỉ còn nửa tháng, nhưng
Stalin vẫn chưa “hé răng” với Mao “nửa lời”. Cuộc gặp gỡ giữa hai người chỉ là
vấn đề Triều Tiên. Đôi bên thảo luận về cam kết của Mao và Kim Nhật Thành: Từ
tháng 4 năm 1949 đến tháng 1 năm 1950, Trung Cộng sẽ chuyển giao 12.000 sĩ quan
binh lính người gốc Triều Tiên, trang bị đầy đủ vũ khí cho quân Bắc Triều Tiên.
Khi bàn tới vấn đề Triều Tiên, Mao thản nhiên nói: Bây giờ không phải là vấn đề
Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên thế nào? Mà là Bắc Triều Tiên phòng ngự
Nam Triều Tiên ra sao? Nên xem vấn đề Trung Cộng chiến đấu giải phóng Đài Loan
là hiện thực.
4. LIÊN XÔ BÍ MẬT TĂNG CƯỜNG VIỆN TRỢ, TRUNG CỘNG GÁNH TRÁCH
NHIỆM NGOÀI Ý MUỐN
Theo đề nghị của Stalin, phía Liên Xô sẽ
tiến hành viện trợ quân sự theo phương thức có lợi nhất cho Bắc Triều Tiên. Bắc
Triều Tiên sẽ nhận được 9 tấn vàng, 40 tấn bạch kim, 15.000 tấn khoáng sản
khác. Tính thành tiền, tổng cộng trị giá 138.000.000 rúp, đủ để trang bị vũ
khí, đạn dược cho ba sư đoàn. Theo đề nghị của Kim Nhật Thành phía Liên Xô cũng
đồng ý cho Bắc Triều Tiên sử dụng trước 70.000.000 rúp bằng ngân quĩ quốc gia
để trang bị cho quân đội trong tổng số tiền viện trợ, lẽ ra đến năm 1951 mới
cung cấp.
Bắc Triều Tiên tăng cường vũ trang để thống
nhất tổ quốc. Trung Cộng cũng tích cực chuẩn bị giải phóng Đài Loan. Cả hai đều
ra sức đầu tư nhân tài, vật lực và tiền của. Chỉ có điều Mao không hiểu rõ Kim
Nhật Thành đầu tư tiền của lớn đến mức độ nào? Stalin là người duy nhất hiểu rõ
tình hình của cả hai bên. Đương nhiên Stalin cho rằng Kim Nhật Thành tiến hành
công việc, nhất định sẽ móc nối với Mao. Chính vì vậy Stalin đã đồng ý để Kim
Nhật Thành sang thăm Liên Xô. Stalin đặc biệt lưu ý đại sứ quán nhắc nhỏ Kim
Nhật Thành nên nghe ý kiến của Mao về việc thống nhất Triều Tiên.
Quan hệ Nam - Bắc Triều Tiên như quả bom
chờ nổ. Lý Thừa Vãn luôn kêu gào phát động chiến tranh. Bắc Triều Tiên luôn
theo dõi tin tức tình báo về kế hoạch tấn công của Nam Triều Tiên. Tình hình
như vậy cả Matscơva và Bắc Kinh đều biết rõ. Hơn nữa Mao lại thống nhất Trung
Quốc bằng vũ lực, vì vậy Kim Nhật Thành hoàn toàn tin tưởng, Trung Quốc sẽ
không phản đối kế hoạch của mình. Trước khi ông đi thăm Matscơva, ông đã thông
qua đại sứ Triều Tiên tại Trung Quốc thông báo với Mao. Ông nói: Tôi mong muốn
đến thăm Trung Quốc để bàn bạc với ông về việc thống nhất Triều Tiên. Mao hết
sức hoan nghênh và đồng ý. Ông ta nói với đại sứ Triều Tiên: Tôi hoan nghênh Kim Nhật Thành tới thăm
Trung Quốc. Nếu như ông Kim đã có kế hoạch cụ thể về việc thống nhất Triều
Tiên, thì nên đi thăm bí mật. Còn nếu như chưa có kế hoạch cụ thể nên tổ chức
cuộc viếng thăm chính thức.
Lúc này do điều kiện Bắc Kinh chưa có đại
sứ và tuỳ viên quân sự nên Mao hầu như không nắm được tiến trình công việc
thống nhất Triều Tiên. Mao chỉ khẳng định đường lối vũ trang thống nhất Triều
Tiên nên đề cao cảnh giác. Việc đầu tiên Bắc Triều Tiên cần làm là tăng cường
công tác chuẩn bị mọi mặt về quân sự, để tăng cường lực lượng của mình, sẵn
sàng ứng phó với chiến cuộc.
Ngày 30 tháng 3, Kim Nhật Thành bí mật đến
thăm Matscơva. Cuộc viếng thăm này kéo dài đến ngày 25 tháng 4 mới kết thúc.
Trong cuộc hội đàm với Stalin, Kim Nhật Thành nói: Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô,
quân đội Bắc Triều Tiên đã có ưu thế hơn quân đội Nam Triều Tiên. Thêm vào đó
lại có sự ủng hộ của người dân Nam Triều Tiên, nên hiện tại có thể nói đã đủ sứ
mạng để thống nhất Triều Tiên. Nhờ hệ thống tình báo Liên Xô biết được tướng
Maicơn Oen đã báo cáo có chủ trương nước Mỹ không can thiệp vào xung đột sẽ
phát sinh ở Triều Tiên. Vì vậy Stalin càng thêm lạc quan: Đây là cơ hội thống
nhất Triều Tiên.
Trong cuộc hội kiến lần đầu với Kim Nhật
Thành, Stalin biểu lộ thái độ khẳng định đối với việc thống nhất Triều Tiên.
Ông nói: Nếu như một năm trước, kế hoạch này không tiến hành được, thì giờ đây
sẽ thực hiện tốt. Bởi vậy bất kể là công việc nội bộ của Triều Tiên hay tình
hình trên toàn thế giới đều sẽ có biến đổi quan trọng. Tuy nhiên ông vẫn nhấn
mạnh quan điểm cũ: Chiến đấu để thống nhất Triều Tiên nên dựa trên hình thức
phản công để tiến công Nam Triều Tiên. Cuối cùng ông vẫn không quên nhắc nhở
Kim Nhật Thành. kế hoạch của ông, nên thông báo với Mao Trạch Đông. Nếu như ông
ấy đồng tình sẽ không có ý kiến phản đối.
Stalin luôn phong toả tin tức, đến phút
cuối mới đề nghị Kim Nhật Thành trưng cầu ý kiến của Mao. Bởi ông vẫn e ngại việc
Trung Cộng sẽ yêu cầu Liên Xô giúp giải phóng Đài Loan. Mao sẽ lại tự mình
thỉnh cầu Stalin. Khó có thể tưởng tượng Stalin lại đánh giá đồng đều quan hệ
với Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành. Ngay từ đầu ông ta đã yêu cầu Mao giải
thích tính tất yếu của sự lựa chọn. Việc Mao tranh luận về “bên khinh bên
trọng” đã trở thành sự thực, khiến Mao chẳng còn biết nói năng ra sao! Cuối
cùng mãi tới tháng 7 năm 1949, khi Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu đoàn đại biểu sang thăm
Liên Xô đôi bên mới thương lượng xong. Vấn đề Triều Tiên vẫn do Liên Xô chịu
trách nhiệm, cho nên việc không thương lượng trước với Trung Quốc cũng là lẽ
đương nhiên. Tuy làm như vậy, song Stalin vẫn giành cho Mao “lẽ công bằng” mặc
dù “lẽ công bằng” này Mao không hề muốn! Nhưng ít nhất Stalin cũng đồng ý để
Kim Nhật Thành hỏi ý kiến Mao. Về mặt tâm lý ít nhiều cũng an ủi Mao. Hơn nữa
“động tĩnh” tại bán đảo Triều Tiên, lại trực tiếp ảnh hưởng tới Trung Quốc. Một
khi đã xuất hiện những điều ngoài ý muốn, thái độ của Trung Quốc là điều rất hệ
trọng. Nếu Mao phản đối, thì việc “tấn công” bất kể thế nào cũng là mạo hiểm!
Stalin dặn đi dặn lại khiến Kim Nhật Thành
vừa trở lại Bình Nhưỡng không lâu, đã vội vàng yêu cầu tới thăm Bắc Kinh để đặt
quan hệ với Mao Trạch Đông.
5. MAO TRẠCH ĐÔNG “ĐA NGHI TÀO THÁO”. KIM NHẬT THÀNH TÍN TÂM
GẤP BỘI
Ngày 13 tháng 5 Kim Nhật Thành xuất hiện ở
Hoài Nhân Đường, Trung Nam Hải - Bắc Kinh. Trong cuộc hội đàm buổi tối, Kim
Nhật Thành trước tiên thông báo kết quả của cuộc hội đàm với Stalin. Ông giải
thích: ý đồ xâm lược của Nam Triều Tiên đã quá rõ ràng. Quan hệ căng thẳng của
Nam Bắc Triều Tiên không thể không giải quyết. Nhân dân Nam Triều Tiên tha
thiết mong mỏi thống nhất tổ quốc. Hiện nay cơ hội thống nhất Triều Tiên đã đến
rồi. Về điểm này, Stalin cũng đã khẳng định rõ: Việc thống nhất Triều Tiên,
hiện nay có thể tiến hành được! Có điều là, Stalin luôn nhấn mạnh quyết định
cuối cùng về việc này, cần tranh thủ sự đồng tình của Mao. Đó chính là mục đích
chủ yếu của tôi trong cuộc viếng thăm này.
Mao không phải không biết kế hoạch thống
nhất Triều Tiên. Ông ta còn biểu lộ sự cảm thông sâu sắc ngoài ý muốn đối với
Kim Nhật Thành. Bởi vì Stalin cũng biểu lộ sự đồng tình với việc Trung Cộng
tiến hành chuẩn bị vũ trang giải phóng Đài Loan. Các công việc đầu tiên của
giải phóng quân tiến công Đài Loan cũng được xếp đặt và triển khai nhanh chóng.
Ông đâu có ngờ Stalin lại đột ngột chuyển hướng sang tán thành thống nhất Triều
Tiên trước.
Mao rất nhã nhặn bày tỏ với Kim Nhật Thành:
Đại sứ của ông cũng đã mấy lần hội đàm
với tôi về việc này. Tôi nói với họ hiện nay chưa có khả năng. Kim Nhật
Thành lại giải thích: Liên Xô đã giúp
chúng tôi chuẩn bị đầy đủ. Chúng tôi không cần giúp đỡ gì thêm, chỉ cần Trung
Quốc đồng ý. Bất đắc dĩ, Mao Trạch Đông đành phải nói với Kim Nhật Thành:
Đây là vấn đề rất trọng đại. Tôi cũng cần mời đại sứ Liên Xô và Stalin chứng
thực một chút. Nói xong Mao Trạch Đông ngừng cuộc hội đàm, vội vàng hẹn gặp đại
sứ Liên Xô yêu cầu lập tức điện cho Stalin chứng thực lời nói của Kim Nhật
Thành.
Tối hôm sau, đại sứ Liên Xô mang bức điện
của Stalin đến để Mao xem. Nội dung bức điện viết:
“Đồng
chí Mao Trạch Đông!
Trong
cuộc hội đàm với các đồng chí Triều Tiên Philipốp (Stalin sử dụng biệt danh của
Kim Nhật Thành) và các bạn của ông ấy đã bày tỏ ý kiến: Do tình hình quốc tế đã
thay đổi. Họ cùng nhất trí kiến nghị thống nhất Triều Tiên. Nhưng có thêm điều
kiện kèm theo: Quyết định cuối cùng nên do các đồng chí Trung Quốc và Triều
Tiên cùng bàn bạc. Nếu các đồng chí Trung Quốc bất đồng ý kiến, như vậy cách
giải quyết vấn đề nên hoãn lại, đợi tiến hành cuộc thảo luận khác. Chi tiết
trong cuộc hội đàm, các đồng chí Triều Tiên sẽ truyền đạt với ngài sau”.
Thái độ Stalin đã biểu lộ rõ ràng. Mao đương
nhiên không thể có thái độ phản đối. Mao nói với đại sứ Liên Xô: Mao hoàn toàn
tán thành kế hoạch của đồng chí Triều Tiên. Do các thế lực của Mỹ đã dần dần
rút khỏi Triều Tiên, cục diện Triều Tiên đã có sự thay đổi rất lớn.
Mao hiển nhiên có những lo lắng đối với hậu
quả do kế hoạch của Triều Tiên có thể mang lại, bởi vậy phải nghĩ đến Trung Cộng
cần có sự chuẩn bị tốt để trực tiếp viện trợ cho Bắc Triều Tiên.
Sau khi gặp đại sứ Liên Xô, Mao lập tức
triệu tập Chu Ân Lai, Cục chính trị Trung ương và những người lãnh đạo chủ chốt
của Bắc Kinh đến họp, để thảo luận về sự biến đổi tình hình quan trọng này. Mao
hiển nhiên không bằng lòng với sự kiện Kim Nhật Thành và Stalin đã thương lượng
trước. Mấy ngày sau trong cuộc hội đàm với Migaozen và Khơrusốp tại đại sứ quán
Liên Xô, ông ta nhắc lại chuyện này. Mao cho rằng thực tế ông ta đã bị “bưng
bít” mãi đến khi Kim Nhật Thành nói rằng Stalin đã đồng ý! Ông ta mới biết sự
việc này. Nhưng dù cho có “hoả hoạn” (cháy nhà), Trung Cộng cũng chỉ có thể
đồng ý với ý kiến Stalin. Đó là vì từ năm 1945, Stalin đã mấy lần can thiệp vào
Trung Quốc: “Không được cách mạng” đã
làm cho Mao và những lãnh đạo Trung Cộng bất mãn cực độ. Sự thực đã
chứng minh sự can thiệp từ bên ngoài là một sai lầm lớn. Nhớ lại chuyện xưa,
trong tình hình mới đáng lo ngại, Mao và cộng sự của ông ta chỉ còn biết nên
“sắm vai” như thế nào trong các “vai diễn” của Stalin trong quá khứ? Bởi vậy
Trung Cộng cuối cùng quyết định chấp nhận cho xong chuyện!
Ngày 15 tháng 5, Mao lại hội đàm với Kim
Nhật Thành. Mao nói với Kim Nhật Thành: Ông ta vốn vẫn suy nghĩ nên giải phóng
Đài Loan trước, sau mới đặt vấn đề giải phóng Triều Tiên. Như vậy Trung Quốc
càng có đủ khả năng viện trợ cho Triều Tiên. Nhưng vấn đề giải phóng Triều Tiên
đã được Matscơva phê chuẩn, ông cũng đồng ý giải phóng Triều Tiên trước. Kim
Nhật Thành giới thiệu tỉ mỉ kế hoạch ba giai đoạn của mình.
Bước
đầu tiên: Tiến thêm một bước trong việc tăng cường binh lực.
Bước
hai: Công khai đề xuất với miền Nam
một phương án hoà bình thống nhất.
Bước
ba: Nếu phương án hoà bình thống nhất bị miền Nam cự tuyệt sẽ chuẩn bị dùng vũ
lực.
Mao cũng khẳng định như vậy. Ông ta nhấn
mạnh kế hoạch tác chiến phải chuẩn bị đầy đủ. Quân đội phải hành động nhanh
chóng. Bao vây thành phố là chính, không nên vì cố đánh chiếm thành phố mà kéo
dài thời gian, phải tập trung binh lực tiêu diệt kẻ thù. Mao còn e ngại tới
việc Mỹ xúi giục Nhật Bản trực tiếp can thiệp. Mao nói với Kim Nhật Thành: Một khi có hai hoặc ba vạn quân Nhật tham
chiến, ắt cuộc chiến có thể kéo dài! Đương nhiên, nếu quân đội Mỹ tham gia
chiến cuộc, Trung Quốc sẽ cử quân đội chi viện cho Bắc Triều Tiên. Bởi lúc đó,
Liên Xô xuất quân không tiện. Họ bị hạn chế bởi hiệp định đã ký kết với Mỹ. Còn
Trung Quốc không có gì ràng buộc.
Kim Nhật Thành cho rằng khả năng quân Nhật
tham chiến không lớn. Dù cho người Mỹ có đưa hai, ba vạn quân Nhật vào cũng
không thể thay đổi được thế cục. Sĩ quan binh lính quân giải phóng sẽ chiến đấu
kiên cường hơn. Nói về khả năng Mỹ tham chiến, ông quả quyết nói: “Điều đó
không thể có được!”. Stalin đã nói với họ, đế quốc chủ nghĩa sẽ không can
thiệp, bởi vậy không cần phải lo lắng thêm. Nhưng Mao đã đề xuất: Việc chủ
nghĩa đế quốc, chúng ta không làm chủ được. Chúng ta không phải là tham mưu
trưởng của họ, không thể biết được họ nghĩ gì? Chẳng qua chuẩn bị đầy đủ vẫn
cần thiết. Chúng tôi dự định tập kết quân đội ở sát biên giới Áp Lục Giang. Nếu
Mỹ không can thiệp, cũng chẳng phương hại gì. Nếu như Mỹ can thiệp vượt qua vĩ
tuyến 38o, nhất định chúng tôi sẽ đánh sang. Kim Nhật Thành một mặt
thì biểu lộ lòng cảm tạ. Mặt khác lại từ chối khéo. Ngày 16 tháng 5 tức sau
ngày Mao hội đàm với Kim Nhật Thành. Họ nhận được điện của Matscơva, kiến nghị
đồng ý về việc Mao đồng ý ký hiệp ước đồng minh hữu hảo Trung - Triều. Chỉ có
điều là Matscơva cho rằng đấy không phải là việc nên làm trước lúc phát động
chiến tranh! Mà là việc nên làm sau khi Triều Tiên thống nhất!
Tình hình chiến cuộc ở Triều Tiên như “tên
đã lên nỏ”, “đạn đã lên nòng”, tâm trạng hưng phấn của Kim Nhật Thành nói lên
điều đó. Ngược lại, việc giải quyết vấn đề Đài Loan sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng. Trở ngại của Mao không cần nói cũng rõ. Trước khi Kim Nhật Thành sang
thăm Liên Xô không lâu, Trung Cộng còn gặp gỡ nhà đương cục quân sự Liên Xô để
thảo luận kỹ về ý tưởng tác chiến cụ thể để vũ trang giải phóng Đài Loan. Các
trang thiết bị hải quân và không quân cũng tiếp tục đưa tới. Vấn đề điều kiện
kỹ thuật để tiến công Đài Loan, do sự nỗ lực của đôi bên cũng dần dần được giải
quyết. Trung Cộng đã bước đầu có thể dựa vào lực lượng của mình quyết tâm đoạt
lấy Đài Loan. Các điều kiện hậu bị cơ bản, bước đầu lo liệu xong trong năm
1951. Chờ thời cơ thuận lợi sẽ hành động, thực thi tác chiến. Mao không thể ngờ
được rằng chiến tranh Triều Tiên lại được sắp đặt trước khi họ hành động giải
phóng Đài Loan. Điều Mao lo ngại là: Một
khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, bất kể thắng bại, chính phủ Mỹ sẽ thay đổi
chính sách ở Đài Loan. Điều đó khiến cho kế hoạch giải phóng Đài Loan sẽ vô
cùng khó khăn.
6. CHI TIẾT VỀ SỰ CAN THIỆP THÔ BẠO CỦA MỸ. “GIẢI PHÓNG ĐÀI LOAN” GẶP TRỞ NGẠI
Ngày 29 tháng 5, Kim Nhật Thành thông báo
với đại sứ Liên Xô, ông đã nhận được phần lớn trang bị và vũ khí do Stalin cung
cấp. Họ chuẩn bị tấn công trong tháng 6. Trước ngày 10 tháng 6, bộ đội tập
trung toàn bộ lực lượng tại địa điểm tấn công đã định.
Theo phương án đã dự định, chủ trương hoà
bình thống nhất đã bị Nam Triều Tiên cự tuyệt ngày 11 tháng 6. Giai đoạn ba,
giai đoạn tiến công quân sự không thể đảo ngược. Căn cứ theo “kế hoạch tấn công
trước để chế ngự” do tổ cố vấn quân sự Nga và trung tướng Vaxilep của Liên Xô,
giúp đỡ lập ra. Quân đội nhân dân Triều Tiên, từ ngày 22 đến ngày 27, chia làm 3
giai đoạn thực hiện chiến lược giải phóng Nam Triều Tiên. Ngày 19 tháng 6, kế
hoạch tác chiến đã đưa xuống quân đoàn bộ của các đơn vị đóng dọc phòng tuyến vĩ
tuyến 38o. Ngày 25, bảy sư đoàn tham gia khiêu chiến phản kích Nam
Triều Tiên, nổ súng, ào ạt vượt qua vĩ tuyến 38o. Cuộc chiến tranh
Triều Tiên bùng nổ.
Đối mặt với cuộc chiến Triều Tiên, ở một
mức độ nhất định, những người lãnh đạo Trung Quốc cảm thấy bất ổn. Họ hết sức
chăm chú theo dõi tình hình quốc tế. Đặc biệt là phản ứng của nước Mỹ. Hai ngày
sau, điều mà Mao lo lắng đã xuất hiện. Tổng thống Mỹ Truman ngày 27 tháng 6 đã
tuyên bố: Địa vị tương lai của Đài Loan còn chưa xác định. Bởi vậy Truman đã ra
lệnh cho Hạm đội 7 ngăn cản bất kỳ cuộc tấn công nào vào Đài Loan. Xác định giữ
gìn trung lập hoá Đài Loan và eo biển Đài Loan, đề phòng chiến tranh kéo dài.
Mao cho rằng hành động này của Mỹ, đã cứu mạng Quốc dân Đảng.
Đối với hành động của Mỹ, Mao lập tức phản
đối kịch liệt. Ông ta kêu gọi “đánh bại bất cứ sự khiêu khích nào của chủ nghĩa
đế quốc”. Nhưng trong các chỉ thị nội bộ, Trung Cộng không thể không thừa nhận
họ chưa đủ khả năng giao tranh trên biển với hải quân Mỹ. Họ nhận định: “Tình
thế thay đổi khiến cho kế hoạch tiến đánh Đài Loan của chúng ta thêm phức tạp.
Bởi vì có Mỹ cản trở trên eo biển Đài Loan”. Đành phải “lùi thời gian đánh Đài
Loan lại”. Đồng thời ngày 27 tháng 6, Tổng thống Mỹ cũng tuyên bố sẽ đưa quân
vào Nam Triều Tiên. Vấn đề tăng cường “Viện Triều” ở vùng biên giới phía Bắc
Trung Quốc ngày càng trở nên cấp thiết. Trọng điểm chiến lược của Trung Cộng,
bắt buộc phải dời lên vùng Đông Bắc.
Chính vì vậy công việc chuẩn bị tiến công
Đài Loan phải từ bỏ. Việc đó khiến Mao vô cùng bất mãn. Ngày 2 tháng 7, Chu Ân
Lai đến gặp đại sứ Liên Xô thảo luận về vấn đề ngoại giao xem Liên hợp quốc ứng
phó thế nào về cuộc chiến tranh Triều Tiên. Ông ta đã cực lực phản đối nói với
đại sứ Liên Xô: Ngay từ đầu tháng 5, khi hội đàm với Kim Nhật Thành, người lãnh
đạo Trung Quốc đã nhắc nhở khả năng Mỹ có thể can thiệp vào Triều Tiên. Song
lúc bấy giờ Kim Nhật Thành không tin. Sự thực đã chứng minh, tính toán của
chúng tôi là đúng. Đồng thời Chu cũng thông
báo cho phía Liên Xô, một phần báo cáo tổng hợp về cách nhìn nhận của người
nước ngoài đối với cuộc chiến tranh Triều Tiên. Người lãnh đạo Trung Quốc đã
trình bày rõ ràng nỗi hoài nghi về việc Liên Xô chọn thời điểm này để ủng hộ
việc tiến hành thống nhất Triều Tiên. Báo cáo có đoạn viết: Một vị đại biểu
người Anh đã nói với người lãnh đạo Trung Quốc: Mục đích Liên Xô khuyến khích nội chiến Triều Tiên, chính là nhằm cản
trở CHND Trung Hoa đánh chiếm Đài Loan.
Mao hiển nhiên không hi vọng gì ở cuộc
chiến tranh Triều Tiên. Ông ta vốn đã muốn giải phóng Đài Loan trước, sau đó
mới tìm cơ hội, để giúp Kim Nhật Thành giải phóng Triều Tiên. Hơn nữa, trước
sau Mao vẫn luôn nhận định giải phóng quân nhân dân Triều Tiên là do Hồng Quân
Liên Xô xây dựng nên thực tế còn ít kinh nghiệm chưa từng trải trong chiến
tranh. Vì vậy, mà rất khó trưởng thành, trong một thời gian ngắn để tiến hành
“Tốc chiến tốc thắng” thống nhất Triều Tiên. Càng không thể đối phó với sức
mạnh quân đội Mỹ, ưu thế hơn hẳn đang trực tiếp tham gia chiến cuộc. Ngay từ
đầu, Mao đã hoài nghi sự thắng lợi của kế hoạch này. Chỉ có điều Stalin đã ủng
hộ nên Mao không dám phản đối. Đến trung tuần tháng 9, quân Mỹ đổ bộ lên Nhân
Xuyên, dễ dàng tấn công uy hiếp quân giải phóng. Mao càng thêm tin tưởng vào sự
phán đoán của mình. Nhưng như vậy chỉ tổ thêm ân hận. Vì vậy ngay cả khi Stalin
đã qua đời, Mao vẫn còn oán hận Stalin. Mao luôn khẳng định: Quyết định của
Stalin về việc chiến tranh Triều Tiên là một sai lầm lớn! “Sai một trăm phần
trăm!”.
Nói là vậy nhưng thực ra Mao lại nghĩ khác:
Nếu như Stalin không mù quáng ủng hộ hành động của Triều Tiên thì không những
không phạm phải sai lầm to lớn mà còn làm cho vấn đề Đài Loan không đến nỗi rơi
vào tình thế khó khăn đến như vậy.
7. NỘI CHIẾN BÙNG NỔ TRÊN BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
Trong khi Bành Đức Hoài đang dồn hết tâm
trí cho việc lập kế hoạch 3 năm khôi phục và phát triển kinh tế vùng Tây Bắc,
đài phát thanh đưa tin cuộc nội chiến ở bán đảo Triều Tiên đã bùng nổ! Bán đảo
Triều Tiên nằm ở phía Đông nam đại lục Châu Á. Diện tích bằng khoảng 1/200 diện
tích Châu Á. Nó giống như một nhánh cây, từ đại lục Châu Á vươn dài về phía
Nam, nằm giữa biển Hoàng Hải và biển Nhật Bản trong Thái Bình Dương. Hình thành
bán đảo hẹp và dài nối liền với đại lục có biển bao bọc. Từ tháng 8 năm 1910,
Triều Tiên đã là thuộc địa của đế quốc Nhật. Sau đại chiến thế giới lần thứ
hai, theo quyết định của hội nghị Pôtsđam hồi tháng 7 năm 1945 do đại biểu
chính phủ hai nước Xô - Mỹ ký. Thoả thuận về các hành động quân sự đối với phát
xít Nhật ở phương Đông đã qui định: Lãnh thổ Triều Tiên tạm thời chia làm hai
phần lấy ranh giới là vĩ tuyến 38O, để quân Xô - Mỹ tấn công và tiếp nhận sự
đầu hàng của quân Nhật. Quân Liên Xô tấn công và tiếp nhận đầu hàng của Nhật ở
vùng lãnh thổ phía Bắc vĩ tuyến 38. Còn quân Mỹ tấn công và tiếp nhận đầu hàng
của quân Nhật trên vùng lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 38.
Ngày 10 tháng 8 năm 1945, hai đội quân Xô
Mỹ đồng thời tấn công quân Nhật ở bán đảo Triều Tiên, trên bộ và trên biển.
Dưới sức tấn công mạnh mẽ của quân Xô - Mỹ, ngày 2 - 9 quân Nhật buộc phải đầu
hàng. Từ đó người dân Triều Tiên được giải phóng khỏi phát xít Nhật. Nhưng sau
khi quân Nhật đầu hàng, quân Xô - Mỹ lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, đã chia
nhau đóng quân tại hai vùng Bắc - Nam bán đảo Triều Tiên. Vốn vĩ tuyến 38 chỉ
là giới tuyến quân sự tạm thời. Nhưng miền Nam Triều Tiên dưới sự hỗ trợ và đạo
diễn của Mỹ, đã đơn phương tuyên bố thành lập “chính phủ dân quốc Đại Hàn” vào
ngày 15 tháng 8 năm 1948. Cử Lý Thừa Vãn, người đã từng cư trú ở Mỹ mấy chục
năm làm Tổng thống. Quân đội Bắc Triều Tiên lâm vào tình trạng mới, bị Mỹ phá
hoại sự thống nhất đất nước, bất đắc dĩ đành phải tìm kế sách đối phó. Chính vì
vậy ngày 9 tháng 9 năm 1948, hội nghị đại biểu nhân dân đã thông qua việc thành
lập “Nước Cộng hoà nhân dân Triều Tiên”, cử Kim Nhật Thành làm thủ tướng, đứng
đầu nội các chính phủ. Từ đấy trở đi bán đảo Triều Tiên bị chia cắt. Vĩ tuyến
38 trở thành ranh giới của sự đối lập. Phía Bắc Triều Tiên kiên trì đường lối
Xã hội chủ nghĩa. Còn phía Nam
là “Đại Hàn dân quốc”, thực thi chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình hai chế
độ xã hội đối lập mâu thuẫn giữa hai bên càng gay gắt. Xung đột về quân sự
chính trị ngày càng sắc bén. Do tình thế căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên
ngày càng tăng, không khí chiến tranh bao trùm, cuối cùng đến ngày 25 tháng 6
cuộc nội chiến trên bán đảo Triều Tiên đã bùng nổ.
Cuộc chiến Triều Tiên vốn là nội chiến của
một quốc gia. Nhưng Mỹ, vốn xuất phát từ chiến lược toàn cầu, nên ngay ngày thứ
hai sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ Tổng thống Truman đã hạ lệnh cho hải
quân, không quân đóng ở Viễn Đông, đổ bộ vào Triều Tiên, phối hợp tác chiến
cùng quân đội Lý Thừa Vãn. Ngày 27 Truman lại phát biểu rõ hơn, công khai tuyên
bố vũ trang can thiệp vào cuộc nội chiến Triều Tiên. hạ lệnh cho tổng tư lệnh
quân Mỹ ở Viễn Đông Maicơn Oen phải dốc toàn lực chi viện cho quân đội Nam
Triều Tiên tác chiến. Đồng thời hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, do Mỹ thao túng
cũng thông qua hàng loạt quyết định yêu cầu các nước thành viên “giúp đỡ tất
yếu” cho chính phủ Lý Thừa Vãn của Nam Triều Tiên. Tuy được Mỹ ủng hộ Nam Triều
Tiên, song không thể ngay lập tức gây được ưu thế cho quân đội Lý Thừa Vãn trên
chiến trường. Quân “giải phóng” thế mạnh như chẻ tre, thừa thắng xốc tới tiến
công xuống phía Nam .
Ngày 28 tháng 6 giải phóng Hán Thành, tiếp tục tấn công phía Nam, hướng về Đại
Khâu - Kim Sơn.
Ngày 27 tháng 6, Tổng thống Truman công
khai tuyên bố đưa quân đội Mỹ vào để cứu vãn tình thế nguy ngập của quân đội Lý
Thừa Vãn ở Nam Triều Tiên. Ngày 28 Mao Trạch Đông chủ tịch nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa, trong cuộc họp lần thứ 8 uỷ viên hội đồng chính phủ đã kêu gọi:
Nhân dân thế giới và nhân dân Trung Quốc hãy đoàn kết lại! Sẵn sàng đập tan mọi
âm mưu khiêu khích của chủ nghĩa đế quốc. Cùng ngày, thủ tướng Chu Ân Lai cũng
phát biểu: “Tuyên bố ngày 27 của Truman là hành động triệt để phá hoại hiến
chương Liên Hiệp Quốc. Chỉ cần chúng ta đừng run sợ, kiên quyết động viên quảng
đại quần chúng đấu tranh phản đối bè lũ hiếu chiến, bọn xâm lược sẽ hoàn toàn
thất bại”. Lời tuyên bố đanh thép của chính phủ Trung Quốc đã mang lại cho quân
dân Bắc Triều Tiên sự ủng hộ và cổ vũ lớn lao.
Trong tình trạng quân dân Bắc vẫn ồ ạt tiến
xuống phía Nam, Mỹ lại thao túng hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, ký quyết nghị
khẩn cấp, tổ chức ngay “Bộ tư lệnh quân Liên hiệp quốc”. Để “Bộ tư lệnh sử dụng
lá cờ Liên hiệp quốc”. Đồng thời “Mỹ có quyền chỉ định các sĩ quan tư lệnh”;
thống soái và chỉ huy quân đội các nước tham gia cuộc nội chiến Triều Tiên. Ngày
8 tháng 7, căn cứ theo nghị quyết của Liên hiệp quốc, Tổng thống Mỹ Truman đã
bổ nhiệm tướng Maicơn Oen vốn là tổng tư lệnh quân đội Mỹ ở Viễn Đông kiêm tổng
tư lệnh liên quân Nhật - Mỹ, sang làm tổng tư lệnh cái gọi là “Quân đội Liên
hiệp quốc”. Cùng ngày với việc Tổng thống Mỹ bổ nhiệm tướng Maicơn Oen, thủ
tướng Bắc Triều Tiên, Kim Nhật Thành đã phát biểu: “Nhân dân ta quyết không thể trở lại làm nô lệ cho bọn thực dân. Chúng
ta quyết không dung túng cho bọn đế quốc Mỹ phạm tội ác tày trời trên mảnh đất
của tổ quốc. Nhân dân Triều Tiên hãy đoàn kết lại. Vì độc lập, tự do và vinh
quang của tổ quốc, hãy đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bắt bọn đế
quốc Mỹ xâm lược phải cút khỏi Triều Tiên!”.
8. MỸ XUẤT QUÂN - TRUNG QUỐC THAM CHIẾN
Cuộc nội chiến ở Triều Tiên là công việc
nội bộ của nhân dân Triều Tiên. Song Mỹ đã lợi dụng quyết định của hội đồng bảo
an Liên hiệp quốc, đã tập hợp quân của 16 nước, thành lập “đội quân Liên hiệp
quốc”, ồ ạt đưa quân vào Triều Tiên. Ý đồ chiến lược của Mỹ là lấy danh nghĩa
quân đội Liên hiệp quốc, trước tiên tiêu diệt quân giải phóng nhân dân Triều
Tiên sau đó vượt qua vĩ tuyến 38O, khống chế toàn bán đảo Triều Tiên, lấy đó
làm căn cứ quân sự để xâm lấn khu vực Viễn Đông.
Nhìn thấy quân Liên hiệp quốc ồ ạt tấn công
Bắc Triều Tiên, để đối phó với tình hình đột biến có thể xảy ra, Trung Cộng đã
cho triệu tập cuộc họp quân uỷ mở rộng vào ngày 7 tháng 7 do phó Chủ tịch Chu
Ân Lai chủ trì. Tham gia hội nghị có tổng tư lệnh giải phóng quân nhân dân
Trung Quốc: Chu Đức. Tổng tham mưu trưởng các quân chủng: Nhiếp Vinh Trân, đồng
thời chịu trách nhiệm quân khu Đông Bắc. Hội nghị quận uỷ mở rộng lần này đã
quyết định đội quân biên phòng Đông Bắc. Nhanh chóng nhận lệnh bố phòng tại các
thành phố khu Đông Bắc dọc bờ sông Áp Lục, để bảo vệ an toàn biên giới vùng
Đông Bắc tổ quốc. Đồng thời tuỳ tình hình tiến triển của chiến trường Triều
Tiên, sẽ vượt sông Áp Lục chi viện cho nước CHDCD Triều Tiên. Sau hội nghị quân
uỷ mở rộng, quân uỷ trung ương hạ lệnh cho binh đoàn 13, thuộc tập đoàn quân dã
chiến 4 vùng Hoa Nam, đưa quân đoàn 38, quân đoàn 39 và 40, cùng với quân đoàn
42 đóng tại Hắc Long Giang, thành lập biên phòng vùng Đông Bắc. Đồng thời điều
động các sư đoàn pháo binh: số 1, số 2, số 8 và 4 sư đoàn pháo cao xạ; một sư
đoàn công binh; một sư đoàn xe tăng; một sư đoàn xe hơi. Tổng cộng gồm 260.000
quân. Trong thời gian từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8, phải nhanh chóng tập
kết tại các thành phố ven bờ bắc sông Áp Lục. Các thành phố tập kết quân: Bản
Khê, Phong Thành, Liêu Dương, An Đông (Đơn Đông), Thông Hoá, Thể An, Hoan Điện.
Để tăng cường công tác lãnh đạo và chuẩn bị chiến đấu, quân biên phòng Đông Bắc
thuộc quyền lãnh đạo của Cao Cường - tư lệnh quân khu Đông Bắc kiêm chính uỷ.
Ngoài ra còn điều động thêm Hồng Học Trí, Hàn Tiên Sở, làm phó tư lệnh - Giải
Phương làm tham mưu trưởng - Đỗ Bình chủ nhiệm chính trị, phải có mặt vào trung
tuần tháng 8 cùng với bộ đội tại các địa điểm tập kết đặc biệt đã ấn định. Ngay
sau đó phải lập tức tiến hành công tác chuẩn bị như: giáo dục chính trị - kiện
toàn nhân sự - thay thế trang thiết bị - huấn luyện cấp tốc,...
Từ ngày mùng 7 đến ngày mùng 8, ngoài lục
quân Mỹ đến Nam Triều Tiên ra, Ôtstrâylia, Canada, Hà lan, Srilanca... cũng đổ
bộ bằng đường không và đường biển vào Nam Triều Tiên, cùng yểm trợ cho quân đội
Lý Thừa Vãn, làm cho qui mô của cuộc chiến tranh Triều Tiên càng thêm rộng lớn.
Trong tình hình như vậy, ngày mùng 5 tháng 8 Mao Trạch Đông đã điện cho Cao
Cường: "Trong tháng 8 có thể chưa tác chiến. Nhưng chuẩn bị thượng tuần
tháng 9 có thể đánh nhau. Các bộ phận cần hoàn thành mọi công việc chuẩn bị đợi
mệnh lệnh tác chiến”.
Theo chỉ thị của Mao, quân biên phòng vùng
Đông Bắc đã triệu tập hội nghị các cán bộ từ sư đoàn trở lên, họp vào ngày 11
tháng 8, để truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông ngày 5 tháng 8. Nhưng trong
hội nghị hầu hết các cán bộ đều phản ảnh, bộ đội vừa tập kết chưa được bao lâu,
các công việc chuẩn bị chưa hoàn tất. Đặc biệt là công tác thay đổi trang thiết
bị, huấn luyện xung trận và công tác động viên tư tưởng, tiến hành chưa có hệ
thống. Vì vậy, khó có thể cuối tháng 8, hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu
ở nước ngoài. Sau khi hội nghị kết thúc ngày 15 tháng 8, căn cứ vào phản ảnh
của bộ đội, Cao Cương đã gửi điện cho Mao Trạch Đông đề nghị lùi thời hạn tác
chiến ở nước ngoài. Lúc này tình hình chiến sự của quân giải phóng Triều Tiên
đang có biến đổi, càng trở nên ác liệt. Mao Trạch Đông căn cứ vào tình trạng
khó khăn của quân Triều Tiên và quân biên phòng vùng Đông Bắc, đã điện cho Cao
Cương vào ngày 18 tháng 8. Nội dung bức điện viết: Thời gian chuẩn bị của bộ
đội biên phòng có thể kéo dài thích đáng. Bức điện viết thêm: Nhờ đồng chí khẩn
trương đôn đốc, sao cho trước ngày 30 tháng 9 có thể hoàn tất công việc chuẩn
bị.
Lúc này tình thế trên chiến trường Triều
tiên, quân giải phóng đang chiếm ưu thế. Sau nhiều lần kịch chiến, đến trung
tuần tháng 8 quân giải phóng đã tiến sâu vào vùng đất Đại Điền, Đại Khâu của
Nam Triều Tiên. Tiêu diệt phần lớn quân đội Nam Triều Tiên và một phần sư 24
của Mĩ đến chi viện cho quân Lý Thừa Vãn. Giải phóng vùng đất rộng lớn khoảng 80%
diện tích Nam Triều Tiên. Nhưng khi quân giải phóng tiến đến sông Lạc Đông, để
tử thủ chờ tiếp viện, quân Lý Thừa Vãn đã phá huỷ toàn bộ cầu cống quan trọng
trên sông Lạc Đông. Lúc này tàn quân của 7 sư đoàn quân Lý Thừa Vãn và quân
tiếp viện của Mĩ chỉ còn lại mấy sư đoàn. Tất cả đều co cụm lại trên khoảng đất
1ha (10.000m) phía bờ nam sông Lạc Đông. Dựa vào dải đất hẹp ở Kim Sơn làm cao
điểm tập trung binh lực, lại được hậu phương cung cấp kịp thời, có ưu thế về vũ
khí, khí tài đã làm quân giải phóng gặp trở ngại. Đôi bên hình thành thế đối
mặt. Mỹ một mặt tăng cường quân lực bằng đường biển và đường không, chuẩn bị
phản kích. Mặt khác lại huy động hàng trăm máy bay, oanh tạc thành phố, thị
trấn và đường giao thông phía Bắc, phá hoại nghiêm trọng đường tiếp tế từ hậu
phương của “quân giải phóng”. Bởi vậy đã khiến cho thế tiến công của Bắc Triều
Tiên bị ảnh hưởng và thất bại. Tình trạng nghiêm trọng như vậy không ngoài dự
kiến của Mao. Ông ta đã sớm nghĩ tới những vấn đề trọng đại hơn. Trước tiên Mao
gửi điện cho phó chủ tịch quân uỷ Trung ương, phó tổng tư lệnh quân giải phóng
Trung Quốc, để rào đón trước:
“Đồng
chí Bành Đức Hoài!
Để ứng
phó với thời cuộc, hiện nay cần tập trung 12 quân đoàn cơ động (đã tập trung
bốn quân đoàn), có thể đến cuối tháng 9 quyết định tác chiến. Khi ấy mời đồng
chí về Bắc Kinh để thương nghị”.
Từ khi quân giải phóng Triều Tiên tấn công
xuống phía Nam, đến Đại Điền, Đại Khâu rồi tới bờ sông Lạc Đông, Bành Đức Hoài
rất thấp thỏm và lo lắng. Ông đã mấy lần được nghe các đồng chí lãnh đạo cục và
quân khu Tây Bắc nói: “Bán đảo Triều Tiên hiện tại chia làm hai miền đối lập.
Vấn đề tương đối phức tạp vì nó liên quan tới quan hệ của hai nước Xô - Mỹ. Quân
giải phóng đánh xuống phía nam, nước Mỹ sẽ không chịu ngồi đấy mà nhìn. Như vậy
sau đó sẽ xuất hiện vấn đề. Nước ta cũng cần chuẩn bị”. Bành Đức Hoài là nhà
quân sự đã từng trải qua trăm trận đánh, dưới góc độ chiến lược quan sát kỹ
lưỡng đã linh cảm thấy cuộc chiến Triều Tiên sẽ không thuận buồm xuôi gió! Sẽ
xuất hiện những vấn đề khó tưởng tượng.
Cùng với số lượng lớn quân Mỹ và quân các
nước ùn ùn kéo vào, chi viện cho quân Lý Thừa Vãn, không quân Mỹ cũng điên
cuồng oanh tạc các tuyến giao thông phía Bắc, khiến cho chiến trường Triều Tiên
trở nên nguy khốn. Để bảo vệ an toàn biên giới của tổ quốc, Trung Cộng đã di
chuyển lực lượng mạnh đến đóng tại các vùng dễ cơ động, sẵn sàng tham chiến.
Ngày 9 tháng 9 quân uỷ Trung ương quyết định điều động Binh đoàn 9 do Tống Thời
Luân chỉ huy đang ở Thượng Hải đến đóng dọc tuyến đường sắt Tân phố. Đồng thời
điều binh đoàn 19 do Dương Đắc Chí chỉ huy, đang đóng quân tại vùng Tây Bắc,
tới đóng quân dọc tuyến đường sắt Lũng Hải, chờ lệnh, để tuỳ cơ ứng biến. Đây là
thực thi kế sách “cẩn tắc vô ưu” (cẩn thận, không lo).
Giữa lúc Trung Cộng chuẩn bị tham chiến,
ngày 15 tháng 9 năm 1950, Tổng tư lệnh quân Liên hiệp quốc Maicơn Oen đã bí mật
điều động lực lượng hải, lục, không quân, thừa cơ quân giải phóng đang bị ngăn
lại bên bờ sông Lạc Đông, trong tình trạng giao thông, tiếp viện từ hậu phương
bị cắt đứt. Ông ta đã đích thân chỉ huy khoảng 7 vạn quân, dưới sự yểm trợ của
200 chiến hạm và 500 máy bay, đổ bộ lên cảng Nhân Xuyên, ở bờ biển phía Tây của
Triều Tiên. Cùng với việc đổ bộ lên lục địa, tập đoàn quân thứ tám của Mỹ dưới
sự chỉ huy của tư lệnh trung tướng Wuôccơ, nhanh chóng tiến về Hán Thành, cắt
rời tuyến giao thông về hậu phương và đánh thọc sườn quân giải phóng Triều
Tiên. Đúng vào thời điểm này, 10 sư đoàn quân Nam Triều Tiên và quân Mỹ đóng ở
bờ nam sông Lạc Đông cũng bắt đầu tấn công ra bắc để phối hợp với quân đổ bộ
tạo thành thế gọng kìm, kẹp chặt quân giải phóng. Quân giải phóng, trước sau
đều bị chặn, đường tiếp tế bị cắt đứt, đã bị thương vong và tổn thất nghiêm
trọng.
Quân Mỹ sau khi đổ bộ thành công lên cảng
Nhân Xuyên, ngày 26 tháng 9 tiếp tục tấn công chiếm Hán Thành. Khi ấy Tổng
thống Mỹ Truman chỉ thị cho Maicơn Oen: “Phải ép người Nga hoặc người Trung
Quốc không được tuyên bố ý đồ can thiệp vào Triều Tiên hoặc trên thực tế không
can thiệp. Ông có thể vượt qua vĩ tuyến 38o, tiêu diệt quân giải phóng Triều
Tiên”. Chỉ thị của Truman, thực tế là cho phép Maicơn Oen đưa quân “giải phóng”
nước CHDCND Triều Tiên. Ngày 29 tháng 9, quân Liên hiệp quốc và quân Nam Triều
Tiên đã tiến sát vĩ tuyến 38O. Ngày 30 tháng 9 trong buổi lễ mừng quốc khánh,
một năm mừng Đại hội Đảng, thủ tướng Chu Ân Lai đã có bài phát biểu, nghiêm
khắc cảnh cáo Mỹ. Ông ta nói: “Nhân dân Trung Quốc có quan hệ mật thiết với
nhân dân Triều Tiên đang bị xâm lược. Nhân dân Trung Quốc quyết không thể tha
thứ cho bọn xâm lược ngoại quốc, càng không thể để bất kỳ tên đế quốc nào xâm
lược nước láng giềng của mình mà lại mặc kệ!” Cùng ngày, Chu Ân Lai đã mời đại
sứ Ấn Độ tại Trung Quốc Panniga, nhờ chính phủ Ấn Độ truyền đạt lời cảnh cáo
tới nước Mỹ: “Nếu Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38O, Trung Quốc sẽ xuất quân viện trợ
nước CHDCND Triều Tiên!”. Tuy vậy, Maicơn Oen vẫn coi thường lời cảnh cáo của
chính phủ Trung Quốc. Ông cho rằng cuộc nội chiến Trung Quốc vừa kết thúc, vết
thương chiến tranh còn chưa lành, làm sao có thể xuất quân viện Triều và đánh
nhau với quân Mỹ. Đó chẳng qua chỉ là “cáo đội lốt hùm”, là “thủ đoạn chính trị
trên trường ngoại giao” của Trung Cộng mà thôi! Maicơn Oen tuyên bố: “Nếu Trung
Quốc can thiệp trong vòng hai tháng sau khi chiến sự nổ ra, lúc đó mới có ý
nghĩa quyết định. Còn hiện tại chúng tôi không hề sợ họ can thiệp!”. Cùng ngày
với thủ tướng Chu Ân Lai phát biểu lời cảnh cáo Mỹ, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ
Xô Tri - Măccơ đã gửi điện cho Maicơn Oen: “Chúng tôi cần nói để ông rõ, trong
khi ông vượt qua vĩ tuyến 38O tiến về phía bắc, bất kể về mặt chiến thuật hay
chiến lược, đều không hạn chế”. Được sự uỷ thác và cổ vũ của Tổng thống Truman
và Bộ trưởng Xô Tri - Măccơ, Maicơn Oen lập tức chỉ huy quân cơ giới hoá cao
độ, tăng tốc áp sát vĩ tuyến 38O.
Mặc dù nhân dân Triều Tiên đang ở vào thời
điểm nguy kịch, tối ngày 30 tháng 9 đại sứ quán Triều Tiên tại Trung Quốc vẫn
long trọng mở tiệc mừng quốc khánh Trung Quốc. Các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng
và chính phủ Triều Tiên đều có mặt. Sau bữa tiệc, thủ tướng Kim Nhật Thành
triệu tập đại sứ Trung Quốc tại Triều Tiên: Nghê Chí Lương và Tham tán Sài Quân
Vũ, đến họp mặt. Ông đề xuất: Mong rằng chính phủ Trung Quốc nhanh chóng đưa 13
binh đoàn đang tập kết bên bờ Áp lục giang vượt sông để viện trợ cùng tác chiến
với quân giải phóng Triều Tiên chống lại kẻ thù. Ngày 1 tháng 10 Maicơn Oen lại
gửi “bức thông điệp cuối cùng” cho chính phủ nước CHDCND Triều Tiên, yêu cầu
“quân giải phóng phải hạ vũ khí, ngừng chiến đấu, đầu hàng vô điều kiện”. Thủ
tướng Kim Nhật Thành và phó thủ tướng đối ngoại Phác Hiến Vĩnh, sau khi nhận
được “thông điệp cuối cùng” của Maicơn Oen, ngày 1 tháng 10 cùng liên danh gửi
điện khẩn cấp tới Mao Trạch Đông.
“... Hiện nay kẻ địch đang dồn chúng tôi
vào tình thế nghiêm trọng. Chúng không giành cho chúng tôi thời gian, tiếp tục
tấn công vượt qua vĩ tuyến 38O. Nếu chỉ dựa vào sức mình, chúng tôi khó mà khắc
phục được nguy cơ thất bại. Bởi vậy chúng tôi thỉnh cầu ngài hãy viện trợ đặc
biệt cho chúng tôi. Trong tình trạng quân địch vượt vĩ tuyến 38O, tiến công ra
Bắc, giải phóng quân nhân dân Trung Quốc hãy nhanh chóng, trực tiếp xuất quân
cùng chúng tôi chiến đấu với kẻ thù. Tôi xin đề xuất ý kiến này với ngài, mong
nhận được lời chỉ giáo!”.
Bức điện cầu cứu viện trợ được chuyển ngay
đến phòng làm việc của Mao ở Trung Nam Hải.
9. KHÍ THẾ TRUNG QUỐC - LỬA ĐẠN TRIỀU TIÊN
Ngày 1 tháng 10 năm 1950, là ngày kỷ niệm
quốc khánh lần đầu tiên của Trung Quốc. Các bức điện khẩn từ Đại sứ quán Triều
Tiên do Kim Nhật Thành gửi tới, liên tục được truyền về Trung Nam Hải. Tại
thành phố Bắc Kinh từ đầu đường cuối ngõ, đâu đâu cũng tràn ngập không khí tưng
bừng của ngày lễ, cảnh tượng hoà bình yên vui. Cùng lúc đó tại phòng họp của Di
niên Đường tại Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đang triệu tập cuộc họp uỷ viên
thường vụ Cục chính trị Trung ương. Để thảo luận về bức điện khẩn của Kim Nhật
Thành thông báo tình trạng khẩn cấp của nước CHDCND Triều Tiên, do đại sứ quán
Triều Tiên chuyển đến. Các uỷ viên thường vụ thảo luận suốt đêm, mãi đến sáng
mới nghỉ. Cùng ngày, tại thành phố cổ Tây An cách Bắc Kinh hàng ngàn dặm, hơn
20 vạn người cũng khua chiêng gõ trống, tưng bừng hoan hỷ kỷ niệm một năm ngày
Trung Quốc mới thành lập. Bành Đức Hoài người lãnh đạo quân khu Tây Bắc, cục
Tây Bắc, cùng Tập Trọng Cần, Dương Đắc Chí, Lý Chí Dân, Mã Minh Phương, Mã Văn
Thuỵ... đang duyệt đội ngũ tuần hành. Buổi tối, với tư cách chính uỷ quân khu
Tây Bắc, Bành Đức Hoài đã mở tiệc chiêu đãi. Lúc này Bành Đức Hoài toàn tâm,
toàn ý lo chuyện kiến thiết vùng Tây Bắc. Ông ta đâu có ngờ chỉ vài ngày sau,
sứ mạng nặng nề ông ta mang trên vai đã có biến đổi quan trọng.
Sáng sớm ngày mùng 2 tháng 10, Maicơn Oen
lại căn cứ vào quyết định của hội nghị liên tịch tham mưu trưởng quân Mỹ, đã hạ
mệnh lệnh tác chiến số 2. Hạ lệnh cho quân đội Liên hiệp quốc đang tập kết chờ
lệnh, lập tức phải vượt qua vĩ tuyến 38o tấn công ra Bắc, cả trên bộ và trên
biển. Vậy là đôi bờ vĩ tuyến 38O đã xảy ra trận chiến kịch liệt giữa quân tiến
công và quân phòng ngự. Nhưng hoả lực mạnh mẽ của quân giải phóng, khiến đội
“quân Liên hiệp quốc” trùng trùng điệp điệp, phải núng thế đành rút lui. Chỉ
trong khoảnh khắc chờ đợi, hàng loạt máy bay, xe tăng và đại bác đã điên cuồng tấn
công miền Bắc, ngọn lửa chiến tranh nhanh chóng thiêu đốt vùng ranh giới miền
trung Triều Tiên. Trước tình thế nghiêm trọng này, Mao Trạch Đông, suốt đêm
không chợp mắt. Trong tình thế khẩn cấp, ông ta đã đắn đo cân nhắc, đến 2 giờ
sáng ngày 2 tháng 10, Mao đã điện khẩn cho Cao Cương và Đặng Hoa. Bức điện
viết:
1. Mời
đồng chí Cao Cương, sau khi nhận được điện, lập tức về Bắc Kinh họp.
2. Đề
nghị Đặng Hoa hạ lệnh cho quân biên phòng kết thúc thời gian chuẩn bị. Đợi lệnh
hành động.
3. Đề
nghị đồng chí Đặng Hoa luôn sẵn sàng, nhận được điện báo lập tức hành động.
Trưa ngày 2 tháng 2, Cao Cương vội vàng đáp
máy bay tới Bắc Kinh. Ông đã dự tính, Mao khẩn cấp triệu tập về Bắc Kinh lần
này, chắc không ngoài vấn đề Viện Triều. Ông đã định liệu: Lần này dù bất kể
thế nào, cũng không nhấn mạnh vấn đề bộ đội biên phòng chuẩn bị chưa đầy đủ.
Khoảng 3 giờ chiều, Mao, Châu, Lưu, Chu, Cao Cương họp tại Di niên Đường. Ngay
lúc bắt đầu cuộc họp, Mao Trạch Đông, tay cầm bức điện nói với Cao Cương: “Đây
là bức điện khẩn của Kim Nhật Thành, chúng tôi đã xem rồi, ông hãy xem đi!”.
Sau đó, Mao nói: “Tình hình Triều Tiên
nghiêm trọng như vậy, hiện tại không còn là vấn đề xuất quân hay không xuất
quân. Mà là lập tức xuất quân ngay! Xuất quân sớm hay muộn một ngày, là cực kỳ
quan trọng đối với chiến cuộc. Hôm nay chúng ta chỉ thảo luận hai vấn đề cấp
thiết: Một là thời gian xuất quân? Hai là ai cầm quân?”
Người nên chọn đầu tiên là Túc Dụ. Nhưng
quả thật Túc Dụ lâm bệnh, đang điều dưỡng tại Thanh Đảo. Mấy ngày trước ông có
nhờ La Thuỵ Khanh chuyển thư cho tôi. Trong thư nói bệnh tình rất nặng. Tôi
viết thư trả lời khuyên ông ta nên an tâm dưỡng bệnh. Sau này do quân Mỹ và
quân các nước ồ ạt kéo vào Nam Triều Tiên. Máy bay và xe tăng nhiều gấp bội,
tình hình ngày càng nghiêm trọng. Chúng tôi nhận định: Xuất quân Viện Triều,
không thể ngày một, ngày hai giải quyết được vấn đề. Nhiều khả năng phải đưa
quân dã chiến xông trận viện Triều. Do sự thay đổi này, mấy đồng chí trong
thường vụ lại nghĩ đến Lâm Bưu sẽ cầm quân. Ai ngờ Lâm Bưu lại cho rằng nước ta
vừa kết thúc chiến tranh, mọi mặt đều chưa hồi phục. Ông ta còn nhấn mạnh Mỹ là
nước công nghiệp hoá, quân đội trang bị hiện đại. Một sư đoàn có tới 1500 khẩu
pháo. Còn chúng ta một sư đoàn chỉ có khoảng 36 khẩu pháo. Quân Mỹ có không
quân, hạm đội mạnh. Còn chúng ta chỉ vừa mới thành lập. Quân ta sang viện
Triều, không có không quân yểm trợ, hải quân chi viện. Ông ta cho rằng trong
tình trạng trang thiết bị của ta vô cùng thiếu thốn, cứ cố tình xuất quân, khác
nào “Thiêu thân lao vào lửa” “Hậu quả khôn lường”. Mao rít mấy hơi thuốc rồi
nói tiếp: Trước đây đã có bao lần tôi nói chuyện với Lâm Bưu. Tôi nói rõ vì sao
ta cần xuất quân. Không xuất quân hậu quả sẽ ra sao. Xuất quân có những thuận
lợi gì, trong đối sách với Mỹ... Nhưng Lâm Bưu nói: Ông ta thường mất ngủ, thân
thể suy nhược lắm bệnh, lại sợ gió, sợ nắng, sợ âm thanh!!! Ái chà chà!!! Ông
ta mắc ba thứ sợ ấy, làm sao có thể cầm quân ra trận? Tình hình phát triển thực
tế của cuộc chiến Triều Tiên, khiến cho việc đưa quân viện trợ của Trung Quốc,
càng trở nên cấp thiết. Mối lo ngại về người cầm quân viện trợ của Mao cũng
ngày càng tăng. Sau nhiều đêm thao thức, ông nhớ đến Bành Đức Hoài. Mao đã từng
sống với Bành Đức Hoài hơn 20 năm. Ông ta biết chắc chắn rằng Bành Đức Hoài
được mọi người công nhận: Giữ vững kỷ cương của Đảng, nguy hiểm không từ, dám
dấn thân vào chỗ nguy nan, một tướng soái tài ba, tung hoành ngang dọc. Cho nên
ngày 2 tháng 10, khi hội nghị thường vụ thảo luận việc chọn người làm tư lệnh
quân chí nguyên, Mao đã nói: “Xuất quân viện trợ là vô cùng khẩn cấp. Song Lâm
Bưu kiếu bệnh không đi. Tôi cho rằng ông Bành làm tổng tư lệnh là thích hợp
nhất!”. Ông vừa dứt lời, tổng tư lệnh Châu, không kìm nổi buột miệng nói: “Đúng
ông Bành thật đáng tin cậy!”. Vậy là Ban thường vụ đi đến nhất trí, quyết định
Bành Đức Hoài đảm nhận chức tư lệnh quân chí nguyện “Viện Triều chống Mỹ”.
Hội nghị lần này, căn cứ vào tình hình
chiến sự Triều Tiên, đã quyết định xuất quân Viện Triều chống Mỹ vào ngày 15
tháng 10. Sau khi hội nghị kết thúc, Mao đề nghị, lấy danh nghĩa của tư lệnh,
điện báo cho Stalin biết tình hình cuộc họp hôm nay.
Với nội dung bức điện như sau:
“1.
Chúng tôi quyết định đưa một phần lực lượng vào giúp các đồng chí Triều Tiên
chiến đấu với bọn xâm lược Mỹ tại Triều Tiên. Chúng tôi cho rằng làm như vậy là
cần thiết. Bởi nếu để Mỹ chiếm toàn bộ bán đảo Triều Tiên, lực lượng cách mạng
Triều Tiên mất đi, bọn xâm lược Mỹ sẽ càng ngang ngược, bất lợi cho toàn thể
phương Đông.
2.
Chúng tôi cho rằng đưa quân Trung Quốc vào Triều Tiên chiến đấu với quân Mỹ.
Thứ nhất: có khả năng giải quyết được vấn đề, ắt phải tiêu diệt và trục xuất
quân Mỹ cùng quân của các nước khác ra khỏi đất nước Triều Tiên. Thứ hai: đương
nhiên, khi quân Trung Quốc tác chiến với quân Mỹ trên đất Triều Tiên (tuy chỉ
mang danh nghĩa quân chí nguyện), ắt Mỹ sẽ tuyên bố Trung Quốc đã nhảy vào vòng
chiến. Chúng sẽ có thể dùng máy bay oanh tạc các thành phố trung tâm công
nghiệp của Trung Quốc. Hoặc dùng hải quân bắn phá vùng ven biển. Thứ ba: trong
chuyện này, vấn đề đầu tiên là quân Trung Quốc phải có khả năng tiêu diệt quân
Mỹ trên đất Triều Tiên, giải quyết vấn đề có hiệu quả... Chỉ cần quân của tôi
tiêu diệt được quân Mỹ ở Triều Tiên... Tình hình lúc đó sẽ có lợi cho trận
tuyến cách mạng và Trung Quốc...”
Cuối cùng Mao chỉ thị cho Chu Ân Lai: “Ngày
mai ông đưa một chiếc chuyên cơ đến Tây An đón Bành Đức Hoài về Bắc Kinh. Ngày
mai thường vụ chúng ta làm một số công việc chuẩn bị. Ngày mùng 4 họp hội nghị
Cục chính trị mở rộng”. Nhưng kế hoạch không khớp. Ngày 3 tháng 10, thời tiết
vùng Hoa Bắc đầy mây, mây đen giăng kín trời, mưa phùn lất phất... Lúc này
Trung Quốc chỉ có hai chiếc máy bay cánh quạt loại nhỏ kiểu ÁK-140
do Liên Xô chế tạo, không thể bay trong thời tiết xấu. Chính vì vậy mãi đến
ngày 4 tháng 10, Chu Ân Lai mới sắp xếp được máy bay đén Tây An đón Bành Đức
Hoài.
10. ÔNG BÀNH VỀ KINH SẴN SÀNG NHẬN LỆNH
Khoảng 10 giờ sáng ngày 4 tháng 10, một chiếc
chuyên cơ từ Bắc Kinh hạ cánh trên sân bay cố đô Tây An. Hai người cận vệ do
Văn phòng Trung ương phái tới, rời khỏi máy bay, lên xe đến thẳng toà đại sảnh
của Ban quân uỷ Trung ương. Họ vội vã đến phòng làm việc của Bành Đức Hoài.
Tổng tư lệnh Bành đang vùi đầu vào đống tài liệu, tổng duyệt lại các báo cáo có
liên quan tới kế hoạch ba năm khôi phục và xây dựng kinh tế vùng Tây Bắc, để
chuẩn bị sau ngày quốc khánh báo cáo phương án kế hoạch về Trung ương. Đồng chí
trong ban bảo vệ kính cẩn chào Bành Đức Hoài, để giữ bí mật, anh ta chỉ nói với
Bành Đức Hoài, Chủ tịch Mao Trạch Đông mời ông lên máy bay về Bắc Kinh họp.
Bành Đức Hoài ngạc nhiên hỏi: Tôi nhận được điện thoại của Bắc Kinh, nhưng
không biết là họp gì? Anh cận vệ trả lời: “Chúng tôi không rõ ạ! Thủ tướng Chu Ân Lai chỉ dặn dò chúng tôi là, máy bay đến Tây An,
phải lập tức đón tổng tư lệnh Bành về Bắc Kinh. Một phút không được chậm trễ”.
Bành Đức Hoài do dự một lát: Hãy để tôi nói với các đồng chí lãnh đạo quân Khu
và cục Tây Bắc đã! Anh cận vệ nhanh nhảu nói: “Không cần đâu, việc đó ai nói
cũng được, mời đồng chí ra sân bay ngay!”. Bành Đức Hoài vẫn kiên trì ý kiến
của mình. Ông lập tức tìm đồng chí thường vụ bí thư cục Tây Bắc Lê Phu, ông
nói: “Trung ương bảo tôi phải lập tức đáp máy bay về Bắc Kinh họp, không kịp
bàn giao, đại khái chỉ vài hôm tôi sẽ trở lại. Anh nói giùm tôi với mấy đồng
chí lãnh đạo chủ chốt của quân khu và Cục chính trị Tây Bắc. Ngoài ra không nói
với người khác. Có vấn đề gì đợi tôi về chúng ta cùng bàn. Tôi phải lên xe ra sân
bay ngay!”. Trích nhật ký của đồng chí Trương Dưỡng Ngũ thư ký của Bành Đức
Hoài. Bành Đức Hoài, thường ngày vốn bình tĩnh, sâu sắc, nhưng trước sự việc
diễn ra đột ngột như vậy, cũng có phần bối rối, khó hiểu. Lẽ nào họp báo cáo kế
hoạch ba năm khôi phục, phát triển kinh tế lại phải vội vã thế? Ông rất băn
khoăn, chẳng hiểu họp về vấn đề gì. Đành chỉ biết gọi thư ký mang phương án kế
hoạch ba năm khôi phục, phát triển kinh tế vùng Tây Bắc, cùng các báo cáo điều
tra và hệ thống biểu đồ, cùng ông lên máy bay về Bắc Kinh.
Khoảng 11 giờ trưa, chiếc máy bay lúc trước
vội đến, giờ đây lại vội vàng cất cánh vút lên các tầng mây trên bầu trời Tây
An, nhằm hướng Thái Nguyên bay tới. Trên máy bay ngoài hai người cảnh vệ ra, có
Bành Đức Hoài, thư ký Trương Dưỡng Ngũ, cả cảnh vệ Quách Hồng Quang nữa là ba
người. Thành thử trong khoang của chiếc máy bay 20 chỗ ngồi, trở nên rộng thênh
thang. Do tính năng của loại máy ÁK-14 còn rất kém, chỉ huy được
quãng đường ngắn, cho nên đến 12 giờ 20 phải hạ cánh ở sân bay Thái Nguyên để
kiểm tra và đổ xăng. Nhưng rất may, tại sân bay ông Bành lại gặp người lãnh đạo
tỉnh uỷ Sơn Tây: Lại Nhược Ngu. Và ông cố vấn Liên Xô Sanhikhốp. Lại Nhược Ngu
giới thiệu với Sanhikhốp: “Đây là tướng quân Bành Đức Hoài, phó Tổng tư lệnh
quân giải phóng Trung Quốc. Năm ngoái, trong chiến dịch giải phóng Thái Nguyên,
do đồng chí lãnh đạo trước đây bị bệnh, nên Trung ương đã điều phó tư lệnh Bành
đến trực tiếp chỉ huy hỗ trợ”. Sanhikhốp nghe nói đến Bành Đức Hoài rất có cảm
tình, tha thiết mời ông cùng đi ăn trưa. Lúc này, Bành Đức Hoài đang vướng mắc
công việc, lại không tiện nói với Lại Nhược Ngu, nên ông đành viện cớ thoái
thác. Song Sanhikhốp cứ nắm chặt tay Bành Đức Hoài, lưu luyến không muốn rời.
Đồng chí thư ký thấy tình cảm thật khó thoái thác, đành nói nhỏ với Bành Đức
Hoài: “Đằng nào cũng phải nghỉ, ăn trưa một lát!”. Sau bữa trưa, Bành Đức Hoài
về phòng phía sau sân bay nghỉ ngơi. Mãi đến 2 giờ 20, mới lên máy bay, cất
cánh rời Thái Nguyên. Đúng 4 giờ 5 phút máy bay hạ cánh xuống sân bay Tây Giao
của Bắc Kinh. Khi Bành Đức Hoài ra khỏi khoang máy bay, đang từ từ xuống thang,
người phụ trách cảnh vệ ở phòng làm việc của Trung ương, Lý Thụ Khôi kính cẩn
đến chào Bành Đức Hoài. Mấy chiếc xe con, cũng từ từ lăn bánh tạo thành hàng
dài. Đội trưởng cảnh vệ Lý vừa giúp Bành Đức Hoài xách hành lý, vừa nói: “Thưa
đồng chí Bành, hôm nay thời tiết xấu quá, khí lưu bất ổn, đi đường thật vất vả.
Phòng hành chính đã sắp đặt chỗ ở rất tốt cho ông ở khách sạn. Mao Chủ Tịch đã
dặn tôi: trước tiên mời ông về khách sạn nghỉ ngơi, sau đó hãy tới họp ở Trung
Nam Hải”. Bành Đức Hoài, nghiêm sắc mặt nói: “Chẳng phải đã có lệnh cho tôi,
một phút không được chậm trễ đó sao? Tôi không cần nghỉ ngơi! Đề nghị đồng chí
lái xe đưa tôi đến ngay chỗ Mao Trạch Đông ở Trung Nam Hải”. (Hồi ký của Lý Thụ Khôi năm 1985).
Bắc Kinh cổ kính, sau mấy trận mưa thu,
hàng dương liễu bên đường, cành lá xum xuê, lác đác điểm vàng. Xe hơi từ sân
bay Tây Giao, vun vút lăn bánh trên con đường lớn ở cửa Tây. Trên đường nườm
nượp người qua kẻ lại, khắp nơi tràn ngập không khí hoà bình - lễ hội. Xe điện
kiểu cổ leng keng qua lại. Bành Đức Hoài ngồi trong xe chăm chú nhìn các khẩu
hiệu lớn treo ở cổng trường học công sở “Chúc mừng một năm thành lập nước CHND
Trung Hoa”. Ông cảm kích nói: “Trung Quốc mới của chúng ta vừa tròn một tuổi.
Trung Quốc mới ra đời thật không dễ. Phải đổi hàng ngàn, hàng vạn sinh mệnh.
Đây là thành quả phấn đấu mấy chục năm của Đảng mới dành được!”. Nghe Bành Đức
Hoài nói, Lý Thụ Khôi cũng xen vào: - Ái chà! Mùng 1 tháng 10 năm ngoái, Mao
Trạch Đông đứng trên lễ đài của Quảng Trường Thiên An Môn long trọng tuyên bố
trước toàn thế giới: “Thành lập Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa!”. Lúc ấy biển
người trên quảng trường như sóng dậy, hô vang như sấm! Các đồng chí lãnh đạo từ
trung ương đến các đại địa khu, hầu hết đều về dự buổi lễ long trọng này. Chỉ
tiếc đồng chí không được tận mắt chứng kiến cảnh tượng hoan lạc ngày hôm đó.
Bành Đức Hoài ngậm ngùi nói: “Năm ngoái tôi đang ở Cam Túc, chỉ huy quân, tiến
vào Tân Cương! không phải không muốn về, mà là tiền tuyến không thể rời được!”
Xe hơi đi qua lầu Tây Trí Bài kiến trúc mang phong cách dân tộc độc đáo, nhanh
chóng tiến vào cửa tây của Trung Nam Hải. Xe dừng trước cửa “Phong Trạch Viên”,
Bành Đức Hoài nhanh chóng xuống xe cùng Lý Thụ Khôi đi vào cửa sau Di Niên
Đường. Khi họ đến trước Di Niên Đường, thủ tướng Chu Ân Lai, là người đầu tiên
ra đón và bắt tay Bành Đức Hoài. Chu Ân Lai giải thích :“Tư lệnh Bành hội nghị
khai mạc lúc 3 giờ chiều, nên không đợi ông được. Hội nghị Cục chính trị đã
quyết định đưa máy bay đón ông từ hôm qua, nhưng do thời tiết xấu phải hoãn tới
hôm nay. Vì vậy khiến ông vội vàng. Ông đã ăn cơm trưa chưa? Ăn rồi! Bành Đức
Hoài đáp rồi cùng Chu Ân Lai đi vào phòng họp. Chủ tịch Mao Trạch Đông và các
uỷ viên Cục chính trị, thấy Bành Đức Hoài về dự hội nghị, đều đứng cả dậy, lần
lượt bắt tay ông. Mao Trạch Đông nói: “Ông Bành vất vả quá! Ông đến vừa đúng
lúc. Quân Mỹ đã vượt qua vĩ tuyến 38O. Hiện tại Cục chính trị đang thảo luận
các vấn đề có liên quan tới việc xuất quân Viện Triều của chúng ta. Mọi người
đều đang phát biểu ý kiến. Ông hãy chuẩn bị rồi cho biết quan điểm của mình”.
Bành Đức Hoài sau khi ngồi vào chỗ, mới phát hiện không khí cuộc họp rất căng
thẳng, đến nỗi tư lệnh Chu người đã từng “đồng cam cộng khổ”, “lên voi xuống
chó” với ông suốt mấy chục năm ròng, khi nhìn thấy ông cũng chẳng buồn nói câu
gì. Có đồng chí chỉ bắt tay không nói năng gì. Khiến ông linh cảm thấy đây
không phải là hội nghị Cục chính trị thông thường. Trước khi “về kinh”, đầu óc
ông chỉ xoay quanh vấn đề làm thế nào để kiến thiết, mở mang kinh tế vùng Tây
Bắc. Ông hoàn toàn không chuẩn bị tư tưởng cho cuộc họp do Trung ương triệu tập
khẩn cấp này! Ông chỉ còn biết im lặng, lắng nghe. Sau lời phát biểu của vài
đồng chí, ông mới biết việc xuất quân “Viện Triều chống Mỹ” của ta, có nhiều ý
kiến bất đồng. Có người chủ trương xuất quân, có người lại không đồng ý, với lý
do:
1. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm tàn
phá của chiến tranh, vết thương còn chưa lành, tài chính lại vô cùng khốn đốn!
2. Một số nơi trong nước vùng ven biển và
hải đảo còn chưa được giải phóng. Tàn dư của Quốc dân Đảng và thổ phỉ, khoảng
một triệu tên vẫn chưa quét sạch.
3. Vùng giải phóng rộng lớn chưa tiến hành
cải cách ruộng đất, chính quyền mới dựng nên chưa được củng cố.
4. Trang thiết bị của quân ta, kém xa quân
Mỹ, lại không khống chế được không phận và hải phận.
5. Đã sống gian khổ lâu dài trong chiến
tranh, có một số cán bộ và chiến sĩ, nảy sinh tư tưởng cầu an ngại chiến đấu...
Đại bộ phận các đồng chí tham gia hội nghị
đều cho rằng, tình hình kinh tế nước ta khó khăn trầm trọng. Vấn đề xuất quân
là việc hệ trọng. Sau này, nguyên soái Nhiếp Vinh Trân nhớ lại tình hình hội
nghị ngày ấy đã viết: “Tóm lại, không đến lúc vạn bất đắc dĩ, tốt nhất không
nên đánh trận này - Hồi ký của Nhiếp Vinh Trân - Mao Chủ Tịch sau khi nghe mọi
người trong hội nghị thảo luận về việc nước ta nên hay không xuất quân Viện
Triều?”, đã phát biểu tổng kết hội nghị: “Những điều các đồng chí nói, đều là
lý do. Nhưng người khác đang ở vào thời khắc nguy cấp, chúng ta đứng bên cạnh
nhìn, không nói năng gì, xét về mặt tâm lý cũng khó coi” - Theo cuốn "Bành
Đức Hoài tự thuật" - Đồng chí Bành Đức Hoài do đến họp muộn hai giờ, nên
không nắm được toàn bộ tiến trình cuộc họp. Đối với đại sự có quan hệ tới vận
mệnh quốc gia này, ắt đồng chí ấy không thể khinh suất biểu lộ thái độ.
Khoảng 9 giờ sáng hôm sau, Đặng Tiểu Bình
nhận sự uỷ thác của Mao tới gặp Bành Đức Hoài tại nhà khách Bắc Kinh. Ông ta và
Bành Đức Hoài, ngồi nói chuyện trong phòng khoảng một giờ, rồi cùng lên xe đến
Trung Nam Hải. Do hôm qua, trong cuộc họp Cục chính trị, Bành Đức Hoài chưa
phát biểu nên Mao Trạch Đông chưa rõ thái độ của ông đối với việc xuất quân
Viện Triều ra sao. Còn ban thường vụ, đã quyết định Bành Đức Hoài cầm quân sang
Triều Tiên. Vì vậy Mao Trạch Đông muốn đích thân nghe và xem xét thái độ của
ông như thế nào? Mao Trạch Đông đã cử Đặng Tiểu Bình, mời ông tới Trung Nam Hải
để trao đổi ý kiến. Bành Đức Hoài tới phòng làm việc của Mao, hai người cùng ngồi
trên ghế Sôpha. Mao châm thuốc, rít một hơi dài nói: Ông Bành, theo tin tức
tình báo từ Triều Tiên gửi về, quân Mỹ và quân Nam Hàn đã ồ ạt vượt qua vĩ
tuyến 38O, vì vậy chiều nay Cục chính trị lại tiếp tục họp. Trong cuộc họp ngày
hôm qua, ông chưa phát biểu, nhưng ông đã được nghe mọi người đưa ra đủ thứ khó
khăn. Đương nhiên hiện tại chúng ta còn nhiều khó khăn, có những khó khăn
nghiêm trọng. Nhưng làm thế nào để khắc phục, chiến thắng khó khăn, chúng ta
còn có những điều kiện thuận lợi. Không biết tổng tư lệnh Bành có nghĩ như vậy
không? Bành Đức Hoài nhấp một ngụm trà, nhìn đôi mắt mệt mỏi của Mao, ông bình
tĩnh nói: “Thưa Chủ tịch, đêm qua tôi gần như không ngủ được. Tôi nhắc đi nhắc
lại đến vài chục lần, bốn câu nói của Chủ tịch. Tôi nghĩ đây là vấn đề kết hợp
giữa chủ nghĩa ái quốc và chủ nghĩa quốc tế. Nếu chúng ta chỉ nhấn mạnh mặt khó
khăn, mà không nghĩ tới nguy cơ, quân Mỹ thẳng tiến tới Áp lục Giang. Lúc ấy
nước CHDCND Triều Tiên không giữ được, mà ngay cả biên giới Đông Bắc nước ta
cũng bị đe doạ nghiêm trọng. Xuất quân có lợi hay không có lợi? Sau khi đã cân
nhắc kỹ lưỡng, tôi ủng hộ quyết định sáng suốt của Mao Chủ Tịch: Xuất quân Viện
Triều chống Mỹ!”. Mao nghe Bành Đức Hoài nói, nhè nhẹ gật đầu tán đồng, phấn
chấn nói: “Ôi, tốt quá! Vẫn là “Lão tổng Bành” nhìn xa trông rộng, xem ra chỉ
có ông là ủng hộ tôi 100%”. Sau đó Mao Trạch Đông ngả người trên sôpha, cất cao
giọng nói: “Chúng ta có những đồng chí, chỉ biết nhìn trước mắt, không nhìn đến
tương lai. Lại có người bị máy bay, đại bác Mỹ làm cho “vỡ mật”, trong quá khứ
chúng ta đã chẳng chiến thắng kẻ thù ưu thế hơn hẳn về trang bị đó sao?”. Giọng
Mao càng nói càng cao. Lời nói của ông ta, đương nhiên là có tính châm biếm!
Sau một lát trầm tư, Bành Đức Hoài tiếp tục câu chuyện: “Chúng ta quả thực là
có khó khăn, tình hình mọi người vạch ra cũng là sự thực. Nhưng kẻ địch của
chúng ta cũng có khó khăn: Binh lực của chúng không đủ, tiếp tế đường xa. Nước
Mỹ cách Triều Tiên khoảng 5000 hải lý, chúng ta nên quan sát vấn đề một cách
toàn diện. Nhưng nếu để Mỹ chiếm toàn bộ bán đảo Triều Tiên, nước ta sẽ bị đe
doạ nghiêm trọng. Trước kia, Nhật Bản tấn công Trung Quốc, cũng là do lấy Triều
Tiên làm bàn đạp, đầu tiên tấn công ba tỉnh miền đông nước ta. Sau đó lại lấy
ba tỉnh này làm bàn đạp, ồ ạt tiến vào sâu. Bài học lịch sử đó, chớ có coi
thường. Lần này đối tượng tác chiến của chúng ta là bọn Mỹ tuy có ưu thế hơn
hẳn về trang bị, ta không thể coi thường kẻ địch. Song cũng đừng tự ti đánh giá
mình quá thấp. Năm 1947, Hồ Tông Nam tiến công Diên An, ông ta có
240.000 quân, có không quân yểm trợ trang bị toàn vũ khí kiểu Mỹ. Trang bị so
với quân ta không biết gấp bao nhiêu lần? Quân ta chỉ có 25.000 người (chỉ bằng
1/10 quân địch). Trang bị lạc hậu. Mỗi khẩu súng bình quân chỉ có vài chục viên
đạn. Vùng biên giới Thiểm-Cam-Ninh đất cằn, dân nghèo, số dân khoảng 1.000.000
người. Vì sao chúng ta lại đánh bại Hồ Tông Nam ? Một là: Chúng ta là chiến
tranh chính nghĩa, chiến tranh vệ quốc. Hai là: Quần chúng vùng biên giới ra
sức chi viện. Ba là: Chúng ta dựa vào chiến thuật chiến lược cơ động linh hoạt.
Hiện tại chúng đã giành chính quyền trên toàn quốc, có mấy triệu quân, nhân dân
cả nước chi viện. Chúng ta có kinh nghiệm đối phó với kẻ thù có ưu thế về trang
bị. Chỉ cần chúng ta không phạm sai lầm về chiến thuật, chiến lược. Chúng ta có
thể tin tưởng sẽ đánh bại bọn Mỹ xâm lược!”. Mao tập trung tinh thần lắng nghe
Bành Đức Hoài, trình bày xong quan điểm của mình, mừng quá đập mạnh tay xuống
ghế Sôpha, nói to: “Ông phân tích đúng quá, xem ra chúng ta cùng chung ý tưởng!
Hiện tại quân Anh, quân Mỹ cùng quân Nam Hàn đang vượt qua vĩ tuyến 38O, đến
gần Bình Nhưỡng. Maicơn Oen đã gửi thông điệp cuối cùng cho chính phủ nước
CHDCND Triều Tiên. Triều Tiên đang rơi vào tình trạng nguy cấp. Kim Nhật Thành
đã yêu cầu tôi nhanh chóng cất quân, sát cánh cùng chiến đấu với nhân dân Triều
Tiên. Hiện tại thời điểm xuất quân rất quan trọng. Nếu như để quân địch tới sát
sông Áp Lục, thì khỏi cần nói tới chuyện xuất quân! Bành Đức Hoài đồng tình nói
“Chủ tịch nói đúng quá! Hiện nay chúng ta và kẻ địch, đều cần thời gian, không
thể dùng dằng mãi được!” Chuyện tạm dừng ở đó. Mao vừa hút thuốc vừa nghiêng
người về phía Bành Đức Hoài mỉm cười nói: “Lão Bành, ông xem, dẫn quân sang
cùng nhân dân Triều Tiên tác chiến, đây là nhiệm vụ rất to lớn, ai cầm quân là
thích hợp?”
Bành Đức Hoài nói ngay: “Nghe đâu Trung
ương đã chẳng cử Lâm Bưu rồi sao!”. Mao lập tức mím môi, nheo mắt lại, nói
trong tiếng thở dài: “Đúng vậy! Mấy hôm trước tôi, Chu Ân Lai, Thiếu Kỳ, “Chu lão tổng” cùng bàn bạc, thống nhất ý kiến cử Lâm Bưu
đi. Bởi vì ông ấy suốt thời kỳ chiến tranh giải phóng, là người lãnh đạo khu
Đông Bắc, lại là tư lệnh tập đoàn quân dã chiến số 4 vùng Đông Bắc. Hiện nay
bốn cánh quân tập kết tại Nam Mãn đều là quân Đông Bắc cũ. Một khi đã vào trận,
đầu tiên phải dựa vào chi viện của vùng Đông Bắc. Đặc điểm địa hình, dân tình
phong tục của vùng núi Trường Bạch nước ta, rất giống với tình hình phía Bắc
Triều Tiên. Tôi đã suy nghĩ về mọi mặt, cử ông ấy cầm quân Viện Triều là rất
phù hợp. Nhưng vài hôm trước đây tôi có trưng cầu ý kiến ông ấy, thấy tinh thần
ông ta rất căng thẳng, sức khoẻ không tốt. Đêm đêm thường mất ngủ, sợ nắng, sợ
gió, sợ tiếng ồn, làm sao có thể nhận nhiệm vụ”. Mao Trạch Đông rít một hơi
thuốc rồi nói tiếp: “Hiện tại đã thấy rõ, ngọn lửa chiến tranh đang lan nhanh
sang Đại Môn khẩu của nước ta, tình thế nguy cấp. Chúng ta phải tuỳ cơ ứng
biến, lập tức xuất quân. Tất nhiên Lâm Bưu kiếu bệnh không đi. Mấy đồng chí
thường vụ thảo luận thống nhất ý kiến: trọng trách này chỉ có thể giao cho Bành
Đức Hoài gánh vác! Việc này gian khổ và phức tạp hơn nhiều so với thời kỳ chiến
tranh bảo vệ Diên An. Không biết tình hình sức khoẻ ông thế nào? Về tư tưởng
ông có thể chưa chuẩn bị, ông có cảm thấy khó khăn gì không?” Nói đến đây Mao đưa
mắt chăm chú nhìn Bành Đức Hoài.
Lúc này không khí trong phòng như lắng
xuống. Một lát sau, Bành Đức Hoài mặt đối mặt với Mao, bốn mắt thoáng nhìn nhau
thông cảm. Bành Đức Hoài quả quyết nói: “Thưa chủ tịch, ông hiểu lòng tôi. Tôi
phục tùng quyết định của Trung ương”. Mao rất cảm động. Ông ta cảm kích nói:
“Vẫn là “Lão Bành” thuở Trung ương còn gian nan, luôn ủng hộ và phục tùng quyết
định của Trung ương. Vậy là tôi thực sự yên tâm. Hiện tại quân Mỹ đã ồ at xâm
phạm, chúng ta không thể ngồi chờ, phải xuất quân thật nhanh. Chiều nay Cục
chính trị tiếp tục họp, mời ông hãy nói rõ quan điểm của mình về việc xuất quân
Viện Triều”.
Chiều ngày mùng 5 tháng 10, Cục chính trị
tiếp tục họp tại Di niên Đường, tiến hành thảo luận vấn đề: có nên xuất quân
hay không? Có hai quan điểm được bày tỏ trong hội nghị. Một loại cho rằng trong
nước còn gặp nhiều khó khăn không nên, hay tạm thời, không nên xuất quân. Bành
Đức Hoài đã trăn trở suy nghĩ nhiều về việc có nên xuất quân hay không? Ông đã
thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình: Xuất quân Viện Triều là tất yếu. Cùng lắm
cứ coi như thắng lợi của cuộc chiến tranh giải phóng muộn lại vài năm. Nhưng
nếu để cho bọn xâm lược đóng tại bờ sông Áp Lục và Đài Loan. Chúng sẽ phát động
chiến tranh xâm lược. Đến lúc ấy thì chẳng còn cớ gì để nói. Nếu Mỹ chiếm được
bán đảo Triều Tiên, vấn đề sau này càng thêm phức tạp. Cho nên đánh sớm còn hơn
đánh muộn! Đây sẽ là một đòn chí mạng giáng vào bọn thân Mỹ, bè lũ phản động
trong và ngoài nước! Bành Đức Hoài nói xong, Mao Trạch Đông hiển nhiên đã có
tính toán trước. Ông ta đưa mắt quan sát toàn hội trường một lượt, đập mạnh tay
xuống bàn nói: “Trong nước còn tồn tại một số khó khăn, đó là sự thực. Nhưng
tôi cho rằng lời nói tâm huyết của ông Bành, đầy sức thuyết phục. Hiện tại Mỹ
bức ta phải đánh một trận, do dự thụt lùi, tâm thần hoảng loạn liệu có ích gì?
Tinh thần và tâm lý đó chính là hợp với mong muốn của kẻ thù. Hiện tại chúng ta
chỉ có một con đường: Trước khi quân địch chiếm Bình Nhưỡng, không quản phong
ba bão táp, dù khó đến đâu, cũng phải lập tức đưa ngay quân vào Triều Tiên! Về
việc ai sẽ thống lĩnh quân đội. Tất nhiên, do Lâm Bưu đã kiếu bệnh, trước đây
cũng đã từng dưỡng bệnh ở Liên Xô. Tôi đề nghị đồng chí Bành Đức Hoài dẫn quân
sang Triều Tiên, phối hợp cùng quân dân Triều Tiên việc đưa quân chí nguyện
sang Triều Tiên, sau hội nghị chúng ta sẽ cùng với Bành Đức Hoài nghiên cứu”.
Sau khi Mao phát biểu, không khí vốn nghiêm túc, căng thẳng trong hội trường
bỗng sôi nổi hẳn lên. Mọi người đều nhìn Bành Đức Hoài với ánh mắt trân trọng.
Tất cả đều nhất trí để Bành Đức Hoài thống lĩnh quân chí nguyện sang viện trợ
nước CHDCND Triều Tiên. Còn Bành Đức Hoài ông chẳng quản ngại bất kỳ khó khăn
nào. Ông đứng dậy nói “Tôi vẫn chỉ có câu nói cũ: Phục tùng quyết định của
Trung ương!”
Sau cuộc họp Cục chính trị chiều ngày mùng
5 tháng 5, Mao sốt ruột muốn có ngay phương án tác chiến ở Triều Tiên, nên đã
giữ ông Bành, ông Cao và Chu Ân Lai ở lại ăn cơm tối. Sau bữa cơm, Mao nói:
“Hiện tại tình hình Triều Tiên vô cùng khẩn cấp, chúng ta cần xuất quân ngay,
không sẽ lỡ thời cơ. Ông và Cao Cương, ngày mùng 8 đến Thẩm Dương, triệu tập
hội nghị cán bộ quân biên phòng cao cấp vùng Đông Bắc, nhanh chóng truyền đạt
quyết định của Cục chính trị Trung ương tập hợp bộ đội làm tốt công việc chuẩn
bị sang Triều Tiên. Đồng thời gửi ngay quyết định xuất quân Viện Triều của
Trung ương Đảng, tới Kim Nhật Thành. Còn thời gian bộ đội sang Triều Tiên, ông
hãy chuẩn bị khoảng 10 ngày, sơ bộ ấn định vào ngày 15 tháng 10. Còn việc bộ
đội được trang bị của Liên Xô và không quân yểm trợ, đồng chí Chu Ân Lai phải
sang ngay Matscơva để thương nghị với Stalin, giải quyết thật nhanh”. Bành Đức
Hoài tuy biết thời gian thật khẩn trương, ông vẫn bình thản nói: “Thưa Chủ
tịch, người yên tâm, tôi sẽ làm việc 1 ngày bằng 10 hoặc 20 ngày”. Nghe xong
Mao rất vui, ông ta nói: “Tôi là phần tử tích cực kháng Mỹ viện Triều, ông ủng
hộ tôi 100%. Xem ra trận này không đánh không được! Tương lai, toàn quốc sẽ
tích cực chi viện cho công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Còn hiện tại để thuận tiện
cho ông trong lúc công tác ở Triều Tiên, ông nên đem Ngạn Anh đi theo. Cậu ấy
thạo tiếng Nga, lại biết chút ít tiếng Anh. Mục đích tôi nhường cậu ấy cho ông
là để cậu ta làm phiên dịch bên cạnh ông. Sau này quan hệ với Liên Xô cần bảo
mật, để cậu ta làm công việc phiên dịch. Ngoài ra về khía cạnh khác, để cậu ấy
làm một chiến sĩ tình nguyện, rèn luyện trong chiến tranh. Đó cũng là cách
“Tống tử tòng quân!” (Đưa con tòng quân)”. Bành Đức Hoài nghe xong cảm thấy hơi
đột ngột. Thoạt tiên ông im lặng không nói nên lời. Một lát sau ông nhẹ nhàng
nói: “Ông để Ngạn Anh đi cùng tôi sang Triều Tiên, tôi đã hiểu ý ông. Ông là
người đứng đầu toàn Đảng. Nhưng từ sau khi đồng chí Khai Huệ mất, Ngạn Anh từ
nhỏ đã cực khổ, lưu lạc khắp nơi. Sau này lại sang Liên Xô học tập suốt thời
gian dài. Cậu ấy đã lâu ngày không được sống bên ông. Cha con không được đoàn
tụ. Tôi thấy không nên để Ngạn Anh đi cùng tôi, cứ để cậu ấy lại săn sóc
Người!”. Bành Đức Hoài trước sau vẫn tỏ ra không đồng ý, song Mao vẫn kiên
quyết để Ngạn Anh đi cùng Bành Đức Hoài sang Triều Tiên. Về việc Mao Ngạn Anh
cùng Bành Đức Hoài sang Triều Tiên, tổng tham mưu trưởng Nhiếp Vinh Trân nhớ
lại: “Ngày Tổng tư lệnh Bành sang Triều Tiên, để dễ bề quan hệ với đại sứ quán
Liên Xô tại đó, đã xác định phải đem theo một phiên dịch tiếng Nga. Đầu tiên dự
định chọn đồng chí Trương Bá Hành, đã từng là phiên dịch tiếng Nga cho Trung
ương từ khi ở Diên An. Nhưng lúc đó Trương Bá Hành lại đang làm giám đốc sở
ngoại vụ. Do có rất nhiều cố vấn Liên Xô tới Bắc Kinh, nên không thể đi được.
Về sau lại chọn một phiên dịch mới, còn trẻ. Nhưng Bộ trưởng Bộ tác chiến quân
uỷ Lý Đào lại đề xuất ý kiến: Sang Triều Tiên là việc vô cùng cơ mật, chọn một
phiên dịch chưa qua thử thách chính trị liệu có đáng tin không? Thời gian lúc
đó rất gấp, tôi liền nói với Mao Chủ Tịch nên làm như thế nào? Mao Chủ Tịch nói
ngay: “Vậy cho Ngạn Anh đi à, để tôi bảo nó”. Mao Ngạn Anh cùng Bành Đức Hoài
sang Triều Tiên như thế đó!
Về việc cung cấp vật tư, tiền của cho quân
chí nguyện sang Triều Tiên, thời kì đầu, Mao chỉ thị cho Cao Cương, trước tiên
hãy dựa vào sự cung cấp của Đại địa khu Đông Bắc. Sau này toàn quốc sẽ chi
viện.
1 giờ sáng ngày mùng 6 tháng 10, Bành Đức
Hoài trở lại nhà khách (hiệu ăn) Bắc Kinh. Ông nằm dài trên sôpha hút thuốc,
trầm ngâm suy nghĩ một lát. Sau đó bảo thư kí Trương, cho người đưa ngay bản
qui hoạch 3 năm phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục ở Tây Bắc, đến chỗ ông
Quách Mạt Nhược ở viện khoa học. Cuối cùng ông nói với thư kí Trương: “Đợi trời
sáng, anh hãy gọi điện cho mấy đứa cháu tôi ở trường học, bảo với nó kỳ nghỉ
hai ngày đến chỗ tôi chơi, tôi muốn gặp chúng nó”.
Trưa ngày mùng 6 tháng 10, Bành Đức Hoài
lại đến ban quân uỷ trung ương dự hội nghị quân uỷ do phó chủ tịch Chu Ân Lai
triệu tập. Hội nghị lần này sẽ thảo luận các vấn đề: Phương án đưa quân chí
nguyện sang Triều Tiên - Thay đổi vũ khí, trang bị - Phương pháp cung ứng hậu
cần - Điều động cán bộ do Bành Đức Hoài chỉ huy và các vấn đề khác có liên
quan. Hội nghị đã ra nghị quyết mọi công việc trên đều do tổng tham mưu trưởng
Nhiếp Vinh Trân đảm nhiệm.
Công việc chuẩn bị kháng Mĩ viện Triều tiến
hành thật khẩn trương, và đảm bảo bí mật tuyệt đối. Tình hình chiến cuộc Triều
Tiên ngày càng nghiêm trọng, khiến cho Bành Đức Hoài không thể ở lại lâu hơn.
Ngày 7 tháng 10, ăn sáng xong ông ta bảo thư kí đem toàn bộ văn kiện mang từ
Tây An về, sau khi đăng kí rõ ràng, đem giao lại toàn bộ cho phòng bảo mật của
trung ương bảo quản. Sau đó đến phòng hành chính lĩnh quân phục cùng đồ dùng
hàng ngày, chuẩn bị xuất phát. Cùng ngày, Bành Đức Hoài đi ô tô đến chỗ Mao ở
trung Nam Hải, cùng Cao Cương nghiên cứu phương án tác chiến và cung ứng hậu
cần bước đầu. Về vị trí chỉ huy sở của Bành Đức Hoài, theo ý kiến của Mao, để
đảm bảo an toàn, không bị máy bay địch oanh tạc, nên đặt tại địa điểm kín đáo
phía bờ bắc sông Áp Lục. Nhưng Bành Đức Hoài không đồng ý. Ông Bành chủ trương
qua sông cùng với Kim Nhật Thành, để tiện cho việc thống nhất chỉ huy, hợp đồng
tác chiến giữa hai bên. Về vấn đề tuyên truyền của báo chí, trước và sau khi
quân chí nguyện ở nước ngoài. Bành Đức Hoài đề nghị với Mao Chủ Tịch: “Trước lúc đánh, tuyệt đối bảo mật. Sau khi
đánh, báo Tân Hoa Xã và đài phát thanh cũng nên dè dặt, phải nghĩ cách đánh lạc
hướng kẻ địch, khiến chúng phán đoán sai lầm. Để quân ta nhanh chóng kín đáo
vượt sông chiến đấu. Tranh thủ thời cơ có lợi, giành thế chủ động, thắng lợi
ngay bước đầu, khích lệ lòng người nâng cao khí thế, thay đổi thế bị động”.
Ngày mùng 8 tháng 10, Mao Trạch Đông chủ
tịch quân uỷ cách mạng nhân dân Trung Quốc , đã điện khẩn đặc biệt công bố mệnh
lệnh. Nội dung bức điện viết:
1. Để
viện trợ Triều Tiên chiến đấu giải phóng đất nước, phản đối cuộc tấn công của
đế quốc Mĩ cùng với lũ chó săn khác, đồng thời bảo vệ lợi ích của nhân dân Triều
Tiên, nhân dân Trung Quốc và các nước Phương Đông khác. Quân biên phòng vùng
Đông Bắc nay đổi tên thành “Chí nguyện quân Trung Quốc” nhanh chóng đưa quân
sang Triều Tiên, hiệp đồng cùng các đồng chí Triều Tiên, chiến đấu với bọn xâm
lược, nhanh chóng giành thắng lợi.
2. Chí
nguyện quân Trung Quốc gồm binh đoàn 13 thuộc tập đoàn quân số 38, 39 và 40,
cùng sư 1, sư 2, sư 8 pháo binh thuộc bộ tư lệnh quân biên phòng 42, hoàn tất
việc chuẩn bị, chờ lệnh lên đường.
3. Bổ
nhiệm Bành Đức Hoài tư lệnh kiêm chính uỷ chí nguyện quân Trung Quốc .
4. Chí
nguyện quân Trung Quốc lấy đại khu hành chính Đông Bắc làm căn cứ địa hậu
phương lớn. Mọi công việc về cung ứng hậu cần của hậu phương có quan hệ tới
viện trợ cho Triều Tiên, đều do Cao cương tư lệnh quân khu Đông Bắc kiêm chính
trị viên đảm nhiệm, thi hành.
5. Chí
nguyện quân Trung Quốc, sau khi đã tiến đến Triều Tiên phải hữu ái và tôn trọng
đối với quân dân Triều Tiên, Đảng và chính phủ Triều Tiên do thủ tướng Kim Nhật
Thành đứng đầu. Phải chấp hành kỷ luật quân sự_chính trị. Đây là cơ sở chính
trị thiết yếu để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ quân sự.
6. Phải
lường trước các khó khăn có thể gặp phải. Luôn vận dụng tinh thần chịu đựng
gian khổ, dũng khí, chu đáo và nhiệt tình cao độ để khắc phục những khó khăn
gặp phải. Chỉ cần các đồng chí kiên quyết dũng cảm, đoàn kết với nhân dân bản
địa, hăng hái chiến đấu với kẻ thù. Cuối cùng thắng lợi nhất định sẽ thuộc về
ta!
Cùng trong ngày 8 tháng 10 sau khi hạ lệnh
cho quân chí nguyện, Mao tự tay thảo điện khẩn đặc biệt gửi Nghê Chí Lương đại
sứ Triều Tiên chuyển tới thủ tứơng Kim Nhật Thành. Điện văn như sau:
1. Căn
cứ vào tình hình hiện tại, tôi cử chí nguyện quân Trung Quốc sang Triều Tiên, giúp các đồng chí chống xâm
lược.
2. Đồng
chí Bành Đức Hoài là tư lệnh và chính uỷ quân Trung Quốc .
3. Hậu
phương và các công việc hậu cần của chí nguyện quân Trung Quốc tại Mãn Châu, có
liên quan tới công tác viện Triều, do đồng chí Cao Cương, tư lệnh quân khu,
kiêm chính trị viên quân khu Đông Bắc đảm nhiệm.
4. Mời
đồng chí hãy cử Phác Nhất Vũ đến Thẩm Dương gặp Bành Đức Hoài, Cao Cương để
thảo luận những vấn đề có liên quan tới chí nguyện quân Trung Quốc sang chiến
đấu ở Triều Tiên: Trong ngày hôm nay hai đồng chí Bành và Cao sẽ rời Bắc kinh
đến Thẩm Dương.
Tối ngày mùng 8 tháng 10, khi đại sứ Nghê
Chí Lương và tham tán tướng Tử Quân Vũ mang điện báo tới giao cho thủ tướng Kim
Nhật Thành, ông Kim rất vui mừng, vỗ tay nói: “Tốt quá!”. Ông vội vàng kéo cả
hai vào phòng khách. Tự tay ông rót cho ông Nghê, ông Tử mỗi người một chén
rượu, cùng ngồi nói chuyện. Lúc đó ông lại một lần nữa bầy tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với Mao Chủ Tịch, Đảng Cộng Sản và nhân dân Trung Quốc. Ông ca ngợi
tính chiến đấu hữu nghị của nhân dân hai nước Trung - Triều mãi mãi xanh tươi,
đời đời bền vững.
11. TRANH THỦ CHUẨN BỊ XUẤT KÍCH
7 giờ sáng ngày 8 tháng 10 năm 1950, Bành
Đức Hoài theo lệnh của Mao, đã cùng một số người: Cao Cương tư lệnh quân khu
kiêm chính trị viên quân khu Đông Bắc - Bí thư thứ nhất cục Đông Bắc; Thành
Phiên phụ trách chỉ huy sở của Bành Đức Hoài; Từ Mẫu Khang, Cung Kiệt tham mưu;
Bí thư Trương Dưỡng Ngũ cùng phiên dịch viên Mao Ngạn Anh cùng đáp máy bay tới
Thẩm Dương. Chuyến đi này hết sức bí mật. Ngay cả vợ của Bành Đức Hoài và thân
quyến cũng không được biết. Khoảng 10 giờ sáng, chiếc máy bay rẽ mưa, hạ cánh
an toàn trên sân bay Thẩm Dương. Cục Đông Bắc cử người ra đón Bành Đức Hoài về
nghỉ tại sở giao tế số 1 đường Hoà Bình.
Theo Trung Cộng việc đầu tiên phải thương
nghị về mọi mặt với Liên Xô, cùng ngày với Bành Đức Hoài đến Thẩm Dương, Chu Ân
Lai cùng với phiên dịch viên và điện báo viên cũng đáp máy bay đến Matscơva hội
kiến với Stalin. Để bàn bạc về vấn đề mua vũ khí và trang bị của Liên Xô và
việc Liên Xô cử không quân yểm trợ quân chí nguyện chiến đấu tại Triều Tiên.
Sau khi đặt chân tới Thẩm Dương, Bành Đức
Hoài đã hết sức tranh thủ thời gian, khẩn trương làm công tác chuẩn bị bước đầu
để đưa quân sang Triều Tiên. Ông và Cao Cương, trước tiên triệu tập: Tư lệnh
quân biên phòng Đông Bắc Đăng Hoa, Phó tư lệnh Hồng Học Tri, Hàn Tiên Sở, Tham
mưu trưởng Giải Phương, Chủ nhiệm chính trị Đỗ Bình tới để truyền đạt quyết
định của Cục chính trị Trung ương về việc đưa quân sang viện Triều. Và nghe báo
cáo về tình hình chuẩn bị chiến đấu và công tác tư tưởng cho bộ đội trước khi
lên đường. Được biết Bành Đức Hoài sẽ cầm quân, mọi người đều rất vui mừng,
càng thêm tin tưởng vào thắng lợi. Sau khi tan họp, Đỗ Bình chủ nhiệm chính
trị, vốn trước đã công tác ở tập đoàn quân Hồng Tam vội chạy đến chỗ của Bành
Đức Hoài. Ông vui mừng nói với người thủ trưởng già, đã mấy chục năm cách biệt:
“Lão tổng Bành, tôi thật không ngờ ông lại cầm quân!”. Bành Đức Hoài mỉm cười
đáp: “Chẳng phải mình anh không ngờ. Mà nay cả tôi cũng bất ngờ. Tổ chức quân
chí nguyện, Trung ương nguyên định cử Lâm Bưu đi, nhưng Lâm Bưu nói có bệnh,
không nhận nhiệm vụ. Vậy là Trung ương mới quyết định tôi đi thay”.
Buổi chiều Bành Đức Hoài và Cao Cương lại
triệu tập các cán bộ chủ chốt của quân khu và cục Đông Bắc như: Lý Phú Xuân, Hạ
Phiên Niên, Trương Lý Sơn đến họp. Tại cuộc họp sau khi Cao Cương nói xong,
Bành Đức Hoài nói tiếp: “Hội nghị Cục chính trị Trung ương vừa rồi, tư lệnh Cao
cũng tham dự. Trung ương đã hạ quyết tâm xuất quân viện Triều thật nhanh, tranh
thủ thời gian trước kẻ thù, nếu không hậu quả sẽ khôn lường. Về vấn đề cung ứng
hậu cần, Trung ương đã quyết định Đại địa khu Đông Bắc phải dốc toàn lực chi
viện cho quân chí nguyện tham chiến. Hi vọng các đồng chí ở quân khu và cục
Đông Bắc nhận thức rõ điểm này. Các công tác bảo vệ phải làm đến nơi đến chốn.
Công tác bảo vệ này là vấn đề then chốt đảm bảo cho quân chí nguyện tác chiến ở
nước ngoài. Hội nghị dự định ngày 9 tháng 10 sẽ triệu tập các cán bộ cao cấp
của quân tham chiến, họp bàn về sắp xếp lịch trình trước khi ra nước ngoài”.
Sẩm tối ngày mùng 8, sau khi nhận được điện
của Mao, Kim Nhật Thành vội cử ngay Phác Nhất Vũ phụ trách nội vụ của CHDCND
Triều Tiên đến Thẩm Dương. Phác Nhất Vũ báo cáo với Bành Đức Hoài về tình hình
tấn công của địch và hiện trạng của nhân dân Triều Tiên. Đồng thời truyền đạt
yêu cầu của Thủ tướng Kim Nhật Thành đề nghị quân chí nguyện nhanh chóng xuất
quân, để một bộ phận khống chế Hàm Hưng, một bộ phận khác khống chế Tây An
Châu. Buổi tối sau khi hội đàm ông Phác trở về Tân nghĩa Châu. Sáng ngày 9 tháng
10, Bành Đức Hoài và Cao Cương triệu tập cuộc họp các cán bộ cao cấp của quân
chí nguyện. Nhằm mục đích: “Nói rõ tình thế trước mắt và ý đồ của Trung ương,
đồng thời hiểu rõ tình hình bộ đội”. Trong cuộc họp, Bành Đức Hoài nói: “Căn cứ
vào tình hình của Triều Tiên và yêu cầu của Thủ tướng Kim Nhật Thành, Trung
ương đã quyết định xuất quân viện Triều. Đây không phải là chúng ta hiếu chiến,
hoàn toàn do đế quốc Mỹ đã bức chúng ta phải theo con đường này”. Trước khi
quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38o, thủ tướng Chu
đã phát lời cảnh cáo Mỹ: “Nếu “Bắc phạm” vượt qua vĩ tuyến 38o,
Trung Quốc sẽ xuất quân kháng Mỹ viện Triều. Nhưng quân Mỹ và quân Nam Hàn dưới
cờ hiệu “quân Liên hiệp quốc”, đã coi thường lời cảnh cáo của chính phủ ta, cố
tình vượt qua vĩ tuyến 38o. Nhằm hướng sông Áp Lục biên giới Trung
Triều thẳng tiến. Kẻ thù của chúng ta không phải là “Tống tương Công” cũng
chẳng phải “ngu xuẩn” chờ ta bầy “trận đồ” rồi mới đến đánh. Quân địch cơ giới
hoá cao độ, có không quân, hải quân yểm trợ, tốc độ tiến công nhanh. Chúng ta
phải cướp lấy thời gian của kẻ địch. Trước đây 3 ngày, Trung ương mới quyết
định cử tôi tới đây. Lần này xuất quân viện Triều, chúng ta phải đánh thắng.
Nhưng cũng chuẩn bị tinh thần không sợ đánh lâu dài. Chẳng may nước Mỹ lại tấn
công nước ta, khi ấy chúng ta phải trường kỳ. Các quân chủng phải ngày đêm sẵn
sàng, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, giáo dục cán bộ chiến sĩ, sĩ quan
vươn lên tất thắng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Mao Chủ
Tịch. Nhất định có thể đánh bại bọn Mỹ. Các quân chủng trong vòng 10 ngày, khắc
phục mọi khó khăn, liên tục cố gắng, hoàn thành mọi công việc chuẩn bị ra nước
ngoài tác chiến”. Nhưng trong hội nghị, cán bộ các binh chủng đều đề xuất ý
kiến. Vấn đề họ lo ngại nhất là khi chiến đấu ở nước ngoài lại không có không
quân yểm trợ. Vì vậy hội nghị đành phải hoãn lại. Bành Đức Hoài và Cao Cương
ngày mùng 9 khoảng 11 giờ phải liên danh gửi điện khẩn cho Mao:
“Khi tôi xuất quân tác chiến, quân uỷ có
thể điều động bao nhiêu máy bay chiến đấu và máy bay oanh tạc cùng phối hợp?
Khi nào có thể xuất kích và ai chịu trách nhiệm chỉ huy? (chờ chỉ thị)”.
Lúc này quân Nam Triều vượt vĩ tuyến 38o,
gồm các cánh quân:
- Tập đoàn quân số 8 của Mỹ: quân đoàn số 1
(gồm Sư kỵ binh số 1, Sư bộ binh số 24) - Quân đoàn 9 (gồm Sư 24 bộ binh, Sư 25
bộ binh) - Quân đoàn 10 (gồm Sư lục chiến số 1, Sư 7 bộ binh) - Lữ đoàn dù 187.
- Ngoài ra còn có quân của các nước khác
phối hợp. Lữ đoàn 27 và 29 của quân Anh - Lữ đoàn Canađa - Lữ đoàn Thổ Nhĩ Kỳ.
Mỗi lữ đoàn có khoảng hơn 5000 quân.
- Quân Nam Triều Tiên bao gồm: Quân đoàn số
1 (gồm Sư thủ đô, Sư 24 bộ binh) - Quân đoàn 2 (gồm Sư 6, 7, 8 bộ binh) - Quân
đoàn 3 (gồm Sư 2, 5, 9 bộ binh).
Ngoài ra quân Nam Hàn còn có sư đoàn bộ
binh số 1 phối hợp tác chiến với quân đoàn 1 của Mỹ. Sư 11 bộ binh phối hợp tác
chiến với quân đoàn 9 của Mỹ.
Tham gia chiến sự tại Triều Tiên lúc đó còn
có đội hàng không số 5 thuộc không quân Mỹ. Gồm hơn 700 máy bay chiến đấu các
loại. Đội máy bay oanh tạc chiến lược số 20, gồm hơn 300 máy bay oanh tạc các
loại. Thêm vào đó cứ mỗi Sư quân Mỹ lại có 10 máy bay trinh sát hỗ trợ mọi mặt
cho quân chiến đấu. Tính đến trung tuần tháng 10 “quân Liên hiệp quốc” do Mỹ
cầm đầu và quân Hàn quốc, tổng cộng đã lên tới hơn 400.000 quân. Máy bay chiến
đấu các loại khoảng 1000 chiếc (không kể máy bay của hải quân). Quân hạm các
loại hơn 300 chiếc - Theo báo cáo tình hình quân địch khi đưa quân ra nước
ngoài tác chiến của Đặng Hoa -
Từ đêm ngày 1 tháng 10, sau khi Maicơn Oen
hạ lệnh cho Sư đoàn 3 lục quân Lý Thừa Vãn vượt qua vĩ tuyến 38o đầu
tiên, đến ngày mùng 9 tháng 10, toàn bộ quân Mỹ, Anh, Canađa, Thổ Nhĩ Kỳ đều
lần lượt vượt qua vĩ tuyến 38O. Được biết tình hình chiến cuộc Triều Tiên rất
nghiêm trọng, Bành Đức Hoài ruột gan nóng như lửa đốt. Để tiến thêm một bước
trong việc nắm vững tình hình đôi bên, tìm tư liệu, Bành Đức Hoài đã quyết định
thân chinh đi thị sát địa hình dọc ven bờ sông Áp Lục, tìm hiểu rõ hơn về tình
thế địch ta. Sau khi kết thúc hội nghị cán bộ cao cấp trong quân uỷ ngày mùng
9. Chạng vạng tối, ông đáp xe lửa từ Thẩm Dương đến An Đông (Đơn Đông). Trong
hai ngày ở Thẩm Dương, gần như hội họp suốt ngày. Hết nghe báo cáo lại nghiên
cứu phương án tác chiến, các vấn đề cung ứng hậu cần... Mỗi ngày ông làm việc
liên miên khoảng 20 giờ. Ngay cả lúc ăn cũng bàn công việc. Mức độ khẩn trương
thật khó mà tưởng tượng nổi. Đêm mùng 9 tháng 10 ngồi trên xe lửa từ Thẩm Dương
đến An Đông, Bành Đức Hoài vẫn không chịu ngủ. Ông vừa ăn bánh “màn thầu” (bánh
bao không nhân) vừa họp với Đinh Cam Như, Thành Phổ ngay trên xe hoả, để bàn về
việc tổ chức chỉ huy sở. Ông nói: “Hai ngày qua ở Thẩm Dương căng thẳng quá,
bây giờ thư thả một chút hãy tính toán chuyện “cơ quan đầu não”, phân công các
đồng chí được cử từ Bắc Kinh tới Thẩm Dương”. Vậy là cơ cấu sở chỉ huy của tư
lệnh Bành “ra đời” ngay trên xe hoả! Rạng sáng ngày 10, xe hoả đến An Đông
trong ánh đèn mờ ảo. Tướng tư lệnh biên phòng tiếp Bành Đức Hoài trong chiêu
đãi sở Trân giang Sơn. Bành Đức Hoài ăn sáng xong, chẳng quản suốt đêm vất vả,
thân chinh đi thị sát các bến đò vượt sông bên bờ Áp Lục Giang, để hiểu rõ tình
hình.
Lúc này, trong số 400.000 quân của đội
“quân Liên hiệp quốc” và Nam Hàn xâm phạm Bắc Triều Tiên, đội quân ở tuyến 1
gồm bốn quân đoàn tổng cộng 10 sư đoàn, một lữ đoàn bộ, một lữ đoàn dù, tất cả
khoảng mười mấy ngàn quân, bằng nhiều con đường đang điên cuồng tấn công về
hướng biên giới Trung - Triều. Thấy tình hình như vậy, để quân chí nguyện có
thể chiếm ưu thế tuyệt đối trên bộ, đạt được mục đích thắng ngay trận đầu. Ngày
10 tháng 10, Bành Đức Hoài đã điện khẩn thỉnh thị ý kiến của Mao “Nguyên trước
đây dự định cứ xuất 2 quân đoàn, có 2 sư đoàn pháo. Sợ rằng cầu sắt Áp Lục
Giang bị oanh tạc, không dễ tập trung binh lực. Nay sửa đổi kế hoạch cũ cứ xuất
4 quân đoàn thì có 3 sư pháo binh” (chờ chỉ thị). Ngoài ra Bành Đức Hoài cảm
thấy cuộc nói chuyện vội vàng với Phác Nhất Vũ ở tác dụng còn nhiều điều chưa
cụ thể. Vì vậy đến 20 giờ ông lại điện cho Mao, nói: “Còn nhiều vấn đề cụ thể
cần gặp Kim Nhật Thành để thương nghị. Sáng mai (ngày 11) tôi ghé qua Đức Xuyên
ở An Đông” (chờ điện). Nhưng điện báo của Bành Đức Hoài vừa tới Bắc Kinh thì
tình hình đã có nhiều biến đổi đột xuất.
Ngày 10 tháng 10, Mao cũng nhận được điện
từ Matscơva do Chu Ân Lai gửi về, báo cáo: Stalin đã trả lời, hiện tại không
quân Liên Xô chuẩn bị chưa được tốt, tạm thời không yểm trợ quân chí nguyện
chiến đấu tại Triều Tiên. Mong Trung ương xem xét lại vấn đề xuất quân. Về vấn
đề xuất quân viện Triều, vốn trước đây Trung - Xô đã sớm thoả thuận: Về mặt
quân lực do phía Trung Quốc đảm nhận. Còn không quân yểm trợ do phía Liên Xô
đảm nhận. Bởi vậy ngày 2 tháng 10, sau khi Trung Cộng quyết định xuất quân viện
Triều, ngay đêm hôm đó Mao đã điện báo với Stalin, để không quân Liên Xô sớm
chuẩn bị. Ngày mùng 8 tháng 10, cùng với việc Bành Đức Hoài, Cao Cương đến Thẩm
Dương, tổ chức xuất quân thì Chu Ân Lai cũng vội vàng tới Matscơva hội kiến với
Stalin, để đôn đốc việc không quân Liên Xô xuất kích. Cùng ngày Mao cũng gửi
điện cho Kim Nhật Thành, thông qua đại sứ quán Triều Tiên, báo cho Kim Nhật
Thành biết: Trung Quốc đã đồng ý xuất quân chi viện cho Triều Tiên.
Nhưng tối mùng 8, khi Chu Ân Lai đến
Matscơva mới được biết Stalin đã đi nghỉ ở biệt thự Amuađria ở Cơrimê. Sáng
ngày mùng 9, Chu Ân Lai cùng người phiên dịch đến gặp nguyên soái Bunganin, họ
cùng đáp máy bay tới Cơrimê. Sau đó lên ô tô tới biệt thự Amuađaria, cùng hội
đàm với Stalin trong cuộc họp vào lúc 19 giờ. Đến dự họp có các đồng chí:
Malenkôp, Kaganôp, Bêlia, Migaozen, Bunganin và Môlôtôp.
Cuộc họp chủ yếu bàn về các vấn đề: Liên Xô
sẽ cung cấp bao nhiêu máy bay chiến đấu và máy bay oanh tạc để yểm trợ cho chí
nguyện quân Trung Quốc chiến đấu ở Triều Tiên. Lục quân Trung Quốc sẽ trang bị
vũ khí của Liên Xô như thế nào?
Nhưng đúng như Stalin đã dự tính về tình
thế phát triển của cuộc chiến từ sau ngày 2 tháng 10. Quân Mỹ không hề e ngại
phản ứng của Liên Xô đã vượt vĩ tuyến 38o, nhằm thẳng hướng sông Áp
Lục trên biên giới Trung Triều mà tiến tới. Stalin đã phán đoán quân Mỹ sẽ
không ngại nguy hiểm, bằng mọi giá tấn công đến biên giới Trung Triều. Bởi vậy
Stalin rất lo ngại không quân Liên Xô sẽ phải chiến đấu với không quân Mỹ và
lục quân ngay trên vùng biên giới Trung - Xô - Triều. Có thể đây sẽ là nguy cơ
dẫn đến sự xung đột giữa Nga và Mỹ, có thể làm bùng nổ cuộc đại chiến thế giới
thứ 3. Bởi vậy lập trường của Stalin trong việc không quân Nga Xô xuất kích yểm
trợ cho quân chí nguyện đã bị lung lay. Cuộc hội đàm giữa ông và Chu Ân Lai đã
thể hiện rất rõ. Liên Xô chỉ có thể trang bị vũ khí cho 20 sư đoàn, số vũ khí
này sẽ được nhanh chóng chuyển tới Mãn Châu Lý. Còn không quân hiện nay do
chuẩn bị chưa tốt, tạm thời chưa thể xuất kích. Thực ra không quân và lục quân
rất khác nhau trong việc chuẩn bị! Việc điều động máy bay cùng lắm chỉ chuẩn bị
2 hoặc 3 ngày là hoàn tất. Đằng này thời gian chuẩn bị vẫn còn dài khoảng 10
ngày. Chẳng qua là Stalin do dự và nhụt chí. Hội nghị cao cấp Trung Xô vừa kết
thúc hôm mùng 5. Chu Ân Lai đại diện phía Trung Quốc, ông thấy kinh ngạc trước
sự thay đổi đột ngột này. Ông hiểu rằng đây là chuyện toàn cục. Vì vậy cùng với
Môlôtôp - Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô-ông nhanh chóng trở lại Matscơva vào
ngày 10-10. Tại đại sứ quán Trung Quốc ông gửi điện để Mao Trạch Đông rõ: Không
quân Liên Xô tạm thời không thể xuất kích!
Chiều ngày 10 tháng 10, sau khi nhận được
điện của Chu Ân Lai, Mao không ngờ tới tình hình lại bi đát như vậy. Ông lập
tức suy nghĩ: xuất quân hay không đây? Đêm đó ông lại nhận được điện, cho biết
Bành Đức Hoài ngày mai sẽ sang Triều Tiên gặp Kim Nhật Thành để hội đàm. Hai
bức điện như hai quả bom nổ bên tai, muốn lật nhào tất cả quyết tâm và ý định
của Mao. Sau khi hội ý với tổng trưởng Nhiếp Vinh Trân ông gửi điện cho Bành
Đức Hoài cho biết ngày mai không nên sang Triều Tiên. Ông và Cao Cương hãy về
Bắc Kinh ngay! Lúc này đêm đã khuya, Nhiếp Vinh Trân vẫn còn thao thức, ông rất
lo, nhỡ sớm mai Bành Đức Hoài không nhận được điện, cứ sang Triều Tiên gặp Kim
Nhật Thành thì thật rắc rối. Nghĩ vậy nên đúng 1 giờ sáng ngày 11 ông vội đến
phòng tác chiến ban tham mưu gửi tiếp điện khẩn cho Bành Đức Hoài: “Ông nhận
được điện chưa? Phương án trước đây có thay đổi! Có sự thay đổi! Chủ tịch mời
ông và Cao Cương “hồi kinh” ngay. Trung ương có chuyện cần bàn!”.
Chiều ngày 11 tháng 10, Bành Đức Hoài cùng
Thành Phổ phụ trách sở chỉ huy đáp xe lửa về Thẩm Dương vào lúc đêm khuya. Ngày
12 Bành Đức Hoài và Cao Cương triệu tập hội nghị quân khu và cục Đông Bắc, để
nghiên cứu những khó khăn mà ông đã điều tra, đặc biệt khó khăn về hậu cần, tìm
biện pháp giải quyết khẩn cấp. 20 giờ Bành Đức Hoài nhận được điện của Mao
Trạch Đông:
“Tạm
thời không thi hành mệnh lệnh ngày 9 tháng 10. Các bộ phận của binh đoàn 13 vẫn
giữ nguyên vị trí tiến hành không luyện, không xuất quân. Mời hai đồng chí Bành
và Cao “hồi kinh” bàn bạc”.
Sau bữa điểm tâm sáng ngày 13, Bành Đức
Hoài “phụng mệnh” đáp chuyên cơ từ Thẩm Dương về Bắc Kinh. Nhiếp Vinh Trân thay
“tổng trưởng” tiếp Bành và Cao trên lầu ba cửa hàng ăn Bắc Kinh, Nhiếp nói: Chiều nay Cục chính trị họp, bàn lại về
chuyện xuất quân.
Trước khi Bành Đức Hoài về Bắc Kinh, toàn
bộ quân Liên hiệp quốc đã vượt qua vĩ tuyến 38O. Chuẩn bị tấn công Bình Nhưỡng.
Ngày 9 tháng 10 Maicơn Oen gửi tối hậu thư buộc đầu hàng cho Kim Nhật Thành. 16
giờ ngày 10, ngài đại sứ Ấn Độ Pannêga lại chuyển bức điện của đại thần ngoại
giao nước Anh Baioentri, tới Bộ trưởng Bộ ngoại giao Chu Ân Lai. Bức điện viết:
“Nếu quân Bắc Triều Tiên không tự nguyện hạ vũ khí. Ngài nguyên soái quân “Liên
hiệp quốc” sẽ không dành cho ông lối thoát”. Trước sự uy hiếp nặng nề của quân
thù, thủ tướng Kim Nhật Thành đã triệu kiến Tử Quân Vũ đại sứ lâm thời Trung
Quốc tại Triều Tiên để biểu lộ thái độ rõ ràng: “Chúng tôi quyết không hạ vũ khí. Quyết không đầu hàng. Chúng tôi sẽ
chiến đấu đến cùng!”. Ngày 11 thủ tướng Kim Nhật Thành với quyết tâm thà
chết để bảo vệ tổ quốc đã tuyên bố trên đài phát thanh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta hiện nay là dùng “máu tươi” bảo
vệ từng tấc đất của tổ quốc”.
Chiều ngày 13 tháng 10, Mao lại triệu tập
hội nghị Cục chính trị khẩn cấp, tại Trung Nam Hải. Bành Đức Hoài đã báo cáo ba
vấn đề:
1. Nội
dung hội đàm với Phác Nhất Vũ của Triều Tiên.
2. Binh
lực và hướng tiến quân của quân Liên hiệp quốc.
3. Tình
hình chuẩn bị của quân chí nguyện và những vấn đề còn tồn tại cần giải quyết.
Hội nghị chỉ trích thái độ lo sợ của Stalin
trước tình thế nguy cấp của Triều Tiên, từ khi quân Liên hiệp quốc đổ bộ lên
Nhân Xuyên. Thái độ lo sợ, khi Trung Quốc hạ lệnh xuất quân viện Triều càng
trầm trọng hơn. Chính vì vậy đã xoá bỏ phương án đã thoả thuận giữa hai nước Xô
Trung. Đắn đo do dự trước tình hình mới và sự lợi hại của việc xuất quân chí
nguyện. Tình hình quân dân Triều Tiên đang nước sôi lửa bỏng. Thời gian cấp
bách! Không cho phép do dự. Hội nghị của Cục chính trị họp thâu đêm đã đi đến
nhất trí: Dù cho không có không quân Liên Xô yểm trợ, cũng phải xuất quân viện
Triều ngay. Hội nghị kêu gọi tinh thần tự lực cánh sinh. Phát huy kinh nghiệm
phong phú trong lịch sử của quân giải phóng: Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng
mạnh. Khắc phục khó khăn, lập tức viện Triều nghênh chiến với kẻ thù đang Bắc
tiến!
Nguyên soát Nhiếp Vinh Trân nghĩ về Mao
Trạch Đông trong cuộc họp Cục chính trị bàn về việc có nên xuất quân hay không,
ông đã viết: Về việc đánh hay không đánh, Mao Trạch Đông rất đắn đo, suy nghĩ
rất lâu. Đối với sự kiện này, đồng chí Mao Trạch Đông đã nung nấu suy nghĩ, hao
tâm tổn trí, cuối cùng mới hạ quyết tâm!
Sau khi Trung Cộng đưa ra quyết định cuối
cùng. Bành Đức Hoài, để đề phòng quân chí nguyện, sản sinh tâm lý hoài nghi,
buông lỏng. Ông lập tức điện thoại cho Thành Phổ đang đợi ở bộ tác chiến quân
uỷ, để ông ta điện ngay cho tham mưu trưởng quân chí nguyện Giải Phương yêu
cầu: Quân chí nguyện phải tiếp tục chuẩn bị tốt!
Tối ngày 13 sau khi kết thúc hội nghị. Mao điện
khẩn cho Chu Ân Lai đang ở Matscơva: “Cục
chính trị đã biết kết quả thương lượng của đồng chí, vẫn nhất trí cho rằng xuất
quân viện Triều là việc làm có lợi... Chúng ta luôn theo đuổi chính sách: Có
lợi đối với Trung Quốc, đối với Triều Tiên, đối với phương Đông và toàn thế
giới. Nếu ta không xuất quân, kẻ thù tiến sát sông Áp Lục, mọi phía đều bất
lợi. Trước tiên vùng biên giới Đông Bắc càng bất lợi. Sẽ thu hút toàn bộ quân
biên phòng vùng Đông Bắc. Điện lực Nam Mãn bị khống chế. Tóm lại chúng
ta thấy rằng cần tham chiến, là tham chiến! Tham chiến lợi ích rất lớn! Không
tham chiến tổn thất lại càng to lớn!”
Sau khi hội nghị chính trị kết thúc, Mao,
Bành Đức Hoài, Cao Cương còn phải bàn thêm về thời gian xuất quân, phương án
vượt sông, một số vấn đề đảm bảo cung cấp hậu cần cho quân chí nguyện.
Sáng sớm ngày 14, thời tiết xấu, máy bay
cất cánh gặp khó khăn. Theo ý kiến của Mao, Cao Cương vội vàng đi tàu hoả về
ngay Thẩm Dương triệu tập những cán bộ có trách nhiệm ở quân khu và cục Đông
Bắc họ. Truyền đạt quyết định của Cục chính trị, sẵn sàng xuất quân. Chuẩn bị
triệu tập đại hội động viên các cán bộ sư đoàn trở lên.
Cả ngày 14, Mao và Bành Đức Hoài tiếp tục
nghiên cứu phương án tác chiến và ngày giờ xuất quân. Cuối cùng đã nhất trí
quyết định: Các binh chủng quân chí nguyện sẽ lần lượt xuất kích trong ngày 18
và ngày 19, vượt sông, trước tiên đến Khu Sơn Nhạc phía Bắc Bình Nhưỡng, tìm
địa điểm thích hợp, phòng ngự, đợi thời cơ diệt địch.
21 giờ ngày 14 tháng 10. Mao lại điện cho
Chu Ân Lai truyền đạt quyết định của hội nghị Cục chính trị ngày 13 tháng 10 và
nêu phương án tác chiến bước 1. Nội dung như sau:
1. Tôi
đã nói với Bành Đức Hoài, sau khi nghiên cứu tình hình Đức Xuyên, sẽ bố trí hai
hoặc ba trận địa phòng ngự về phía Bắc tuyến đường sắt Nguyên Sơn - Bình
Nhưỡng và phía Nam tuyến đường bộ Đức
Xuyên - Ninh Nguyên. Nếu quân địch tấn công, ắt sẽ đến phía trước trận địa,
chia nhau diệt địch.
2. Quân
Mỹ tấn công Bình Nhưỡng cần có thời gian. Từ Bình Nhưỡng tấn công Đức Xuyên
cũng cần có thời gian.
3. Tôi
quyết định xuất quân ngày 19. Toàn quân 260 nghìn người vượt sông cần thời gian
khoảng 10 ngày.
4. Để
trong tháng 11, khi tiến công Đức Xuyên, đánh thắng trận đầu, chúng tôi quyết
triển khai tốt 12 sư bộ binh và 3 sư pháo binh.
5.
Trong thời gian quân ta xây dựng công sự, quân dân Triều Tiên vẫn tiếp tục ngăn
chặn không cho quân Mỹ-ngụy tiến lên giành lợi thế.
Vì sao Mao lại nói quyết định của mình với
Chu Ân Lai? Bởi vì “Stalin cho rằng Trung Quốc chỉ xuất 6 sư đoàn”. Trung ương
sửa lại phương án cũ theo đề nghị của Bành Đức Hoài. Dùng 12 sư bộ binh, 3 sư
pháo binh, lữ đoàn cao xạ, lữ đoàn công binh... toàn bộ xuất kích. Trung ương cho
rằng phương án sửa đổi, cần thông báo cho Liên Xô biết, để Liên Xô hiểu được
tình hình xuất quân của ta, nhanh chóng ra sức giải quyết khó khăn của chí
nguyện quân Trung Quốc.
Sớm ngày 15 tháng 10, Bành đáp máy bay về
Thẩm Dương. Tại Thẩm Dương, ông ta vừa làm công tác chuẩn bị cho quân chí
nguyện, vừa giành thời gian ít ỏi đến thăm xưởng luyện thép An Sơn và công binh
xưởng. Ông biết rõ Đông Bắc là trung tâm công nghiệp nặng của đất nước. chiến
tranh phải dựa vào công nghiệp nặng. Thắng hay bại của chiến cuộc, ngoài nhân
tố con người ra vũ khí là nhân tố quan trọng. Sau khi quan sát pháo hoả tiễu 6
nòng (cachiusa) do xưởng vừa mới chế tạo, bắn đạn thật. Bành vừa vui mừng vừa
ngạc nhiên nói: “Chúng ta đã có tên lửa của mình rồi!”. Ông thân mật khích lệ
cán bộ công nhân viên cố gắng sản xuất, chi viện cho tiền tuyến, yêu cầu kỹ
thuật phải chính xác. Bành Đức Hoài chỉ thị cho cán bộ lãnh đạo xí nghiệp phải
thực sự chăm lo cải thiện điều kiện lao động, sinh hoạt của công nhân.
Ngày 15, quân Nam Triều bắt đầu tấn công
toàn diện vào Bình Nhưỡng. Nguy cơ mất Bình Nhưỡng tính từng ngày. Kim Nhật
Thành vội cử phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng Phác Hiến Vĩnh đến Thẩm Dương gặp
Bành Đức Hoài. Ông Phác nói rõ tình hình quân địch đã đến gần Bình Nhưỡng để Bành
biết. “Thủ tướng yêu cầu Trung Quốc xuất
quân thật nhanh. Và hy vọng sớm được gặp Bành Đức Hoài”. Bành nói với Phác:
“Trung ương đã có quyết định cuối cùng:
ngày 19 này bộ đội bắt đầu vượt sông. Hy vọng quân dân Triều Tiên vẫn tiếp tục
cản được kẻ thù, ngăn chúng lại! Tôi và Cao Cương phải đi ngay An Đông để bố
trí kế cho binh đoàn 13 vượt sông”. Bành nhiệt tình mời ông Phác tới An
Đông!
Sáng ngày 16, tại An Đông triệu tập họp cán
bộ sư đoàn. Bành Đức Hoài tuyên bố Cục chính trị Trung ương đã quyết định nhanh
chóng xuất quân viện Triều. Sau đó phân tích tình hình chiến cuộc ở Triều Tiên.
Ông nói rõ ý nghĩa quan trọng của công cuộc kháng Mỹ viện Triều. Ông nói: “Hiện
nay quân Mỹ và quân Nam Hàn đã điên cuồng tấn công nước CHDCND Triều Tiên. Tình
thế hết sức nghiêm trọng. Chúng ta đối với Đảng anh em, nước láng giềng bị xâm
lược nên có thái độ như thế nào?”. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Trung ương quyết
định: Không thể để “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại” được. Phải ra sức viện
trợ nhân dân Triều Tiên chống xâm lược. Giúp đỡ họ giải phóng giành độc lập, tự
do. Tôi cho rằng Trung ương quyết định như vậy là vô cùng đúng đắn... Nếu chúng
ta không tích cực viện Triều, các thế lực phản động trong nước sẽ bành trướng,
phe phái thân Mỹ sẽ mạnh lên. Nếu để Mỹ chiếm toàn bán đảo Triều Tiên, nước ta
trực tiếp bị đe doạ. Quốc phòng, biên phòng đều rơi vào thế bất lợi. Trong bài
phát biểu ông còn nghiêm khắc phê phán tư tưởng “bệnh sợ Mỹ”. Ông chỉ rõ: Tư
tưởng này sẽ làm nhụt ý chí của quân đội. Ông nói rõ: kẻ địch hơn hẳn chúng ta
về vũ khí. Song về chiến thuật ta mạnh hơn địch. Dũng cảm kiên quyết hơn. Dám
đánh “giáp lá cà”. Sử dụng bộc phá, lựu đạn, lưỡi lê... Những thứ đó kẻ địch
rất sợ. Ông còn căn cứ vào địa hình Triều Tiên: núi cao, rừng rậm, hẹp dài, ba
mặt đều giáp biển, ông phân tích: Trước đây trong cuộc nội chiến ta áp dụng
phương thức chiến đấu: lùi một bước tiến ba bước! Nay trên chiến trường mới
không thể vận dụng cứng nhắc. Bởi vậy về chiến thuật quân chí nguyện phải sử
dụng “trận địa chiến” và “vận động chiến” kết hợp. Nếu kẻ địch tấn công, chúng
ta bắt chúng phải dừng lại. Một khi nắm được yếu điểm của chúng, phải nhanh
chóng xuất kích, đẩy lùi kẻ thù, kiên quyết bao vây tiêu diệt. Chiến thuật của
chúng ta cần linh hoạt. Không tử thủ một trận địa. Nhưng khi cần phải kiên trì
giữ vững trận địa. Phương châm tác chiến trong tình hình mới đối với quân chí
nguyện, ông đặc biệt nhấn mạnh: Chúng ta là Đảng viên Cộng sản, là người quốc
tế chủ nghĩa. Xuất quân viện Triều, viện trợ Đảng anh em là nghĩa vụ mà chúng
ta nên làm. Viện trợ Triều Tiên cũng chính là củng cố quốc phòng. Vì vậy sau
khi chúng ta sang Triều Tiên, không được kiêu ngạo, cũng không được ỷ thế là
người của nước lớn viện trợ. Đối vơi Đảng, chính phủ, quân đội và đại đa số
quần chúng nhân dân Triều Tiên, phải thật sự tôn trọng. Cuối cùng ông còn nhấn
mạnh sang Triều Tiên chiến đấu phải tính đến chuyện lâu dài gian khổ. Cần phát
huy truyền thống quang vinh của quân đội ta. Nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ
luật 8 mục chú ý. Triệt để giữ gìn kỷ luật. Tôn trọng phong tục tập quán của
nhân dân và chính phủ Triều Tiên. Các đồng chí lãnh đạo phải chịu khó nghiên
cứu tình hình mới, nghĩ cách làm mới. Chỉ cần phát huy được sức mạnh quần
chúng, nhất định chúng ta sẽ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ vinh quang mà Đảng
và Mao Chủ Tịch giao phó.
Sau khi kết thúc hội nghị cán bộ sư đoàn,
Bành Đức Hoài lại hẹn mấy đồng chí đến chỗ ở để mạn đàm, nghe phản ánh về tình
hình xuất quân, nắm vững hơn nữa tình hình bộ đội. Trong cuộc mạn đàm, Đỗ Bình
chủ nhiệm chính trị quân chí nguyện nói: Hiện tại cán bộ, chiến sĩ còn tồn tại
nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Chúng ta nên thảo một lệnh động viên tư tưởng,
tuyên truyền ý nghĩ kháng Mỹ viện Triều là để giữ nước giữ nhà. Chính trị lữ
đoàn sẽ căn cứ vào chỉ thị, soạn thành “lời thề của quân chí nguyện”. Yêu cầu
các cán bộ chủ chốt đọc trong lễ tuyên thệ. Nội dung cơ bản của lời thề:
“Chúng tôi chí nguyện quân nhân dân Trung
Quốc , để phản đối sự xâm lược bạo tàn của chủ nghĩa đế quốc, viện trợ cho cuộc
chiến tranh giải phóng của dân tộc anh em Triều Tiên. Bảo vệ lợi ích của nhân
dân châu Á. Chúng tôi tình nguyện sang chiến trường Triều Tiên chiến đấu. Tiêu
diệt kẻ thù chung. Giành thắng lợi chung mà phấn đấu. Để hoàn thành nhiệm vụ
lịch sử vĩ đại quang vinh này, chúng tôi xin thề: Chiến đấu anh dũng ngoan
cường, phục tùng mệnh lệnh, nghe lời chỉ huy...”.
Trong khi Bành Đức Hoài đang tính chuyện
quân chí nguyện vượt sông sang Triều Tiên chiến đấu. Phía quân Mĩ lại rất lạc
quan. Các quan viên lầu năm góc cho rằng: “Thời cơ để Liên Xô - Trung Quốc đổ
quân đã qua rồi”. Họ phán đoán quân Mĩ thẳng tiến đến bờ Áp Lục Giang chẳng gặp
trở ngại gì. Maicơn Oen huyênh hoang tuyên bố đến ngày 23 tháng 11 năm 1950 sẽ
chiếm lĩnh Bắc Triều Tiên, thẳng tới biên giới Áp Lục Giang. Ông ta đã nói
trong cuộc họp báo: “Không quân, quân
Liên hiệp quốc chiếm ưu thế tuyệt đối. Quân cộng sản muốn vượt Áp Lục Giang vào
Triều Tiên sẽ tổn thất một nửa”. Những nhân vật chủ chốt bên phía Mĩ, căn
bản không coi Trung Quốc ra gì, càng không ngờ cuộc chiến kéo dài. Nước Trung
Quốc chưa ngóc đầu dậy sao dám đương đầu với Mĩ. Những phán đoán sai lầm này,
là thất sách quan trọng về chiến lược của Mĩ. Chính nó là nguyên nhân cơ bản dẫn
đến sự thất bại của Mĩ trên chiến trường Triều Tiên. Bành Đức Hoài khi chọn
phương án qua sông, ở An Đông đã nói: Maicơn
Oen càng huyênh hoang, càng có lợi cho chúng ta. Chúng ta có thể lợi dụng phán
đoán sai lầm của kẻ thù, bí mật vượt sông, giáng cho địch những đòn bất ngờ.
Ngay lúc đó, Mao cũng điện chỉ thị: “Các cánh quân chí nguyện phải cử các đội
trinh sát, cải trang thành quân, dân Triều Tiên, không gọi là chí nguyện quân
Trung Quốc, để đánh lạc hướng kẻ thù”. Bức điện chỉ rõ “Mấu chốt là phải thay đổi cục diện chiến
tranh, như vậy mới có khả năng tấn công bất ngờ”.
Trong khi Truman, cùng Maicơn Oen đang mừng
rỡ trước thắng lợi tạm thời, thì chí nguyện quân Trung Cộng dưới sự chỉ đạo của
Bành Đức Hoài, đang đẩy mạnh công việc chuẩn bị. Sáng ngày 17 Bành chỉ thị cho
Giải Phương tham mưu trưởng, cùng với tham mưu tác chiến Cung Kiệt theo Phác
Hiến Vĩnh vượt sông đến trụ sở của Viên Lý tại Tân Nghĩa Châu để bàn công việc,
sắp xếp cụ thể, khi quân chí nguyện qua sông. Buổi chiều Bành Đức Hoài cùng Cao
Cương đáp máy bay tới Thẩm Dương, bàn bạc thêm với cục Đông Bắc và quân khu
Đông Bắc về công tác quân y, trang bị khí tài, trang phục khi quân chí nguyện
chiến đấu ở nước ngoài. Nhưng ngay lúc đó Bành Đức Hoài và Cao Cương nhận được
điện của Đặng Hoa và Hồng Học Tri cho biết: Hôm qua bàn về việc bộ đội vượt
sông. Rất nhiều đồng chí tỏ ra lo ngại. Hiện nay cao xạ pháo của ta rất ít. Kẻ
địch sẽ không hề lo sợ, tập trung số lượng lớn máy bay, đại bác và xe tăng, tấn
công cả trận địa của ta một cách qui mô. Mặt khác Triều Tiên đa số là núi và
ruộng nước. Mùa đông đất cứng, khó đào công sự, nên địch đánh lớn khó giữ vững.
Mọi người cho rằng công việc chuẩn bị chưa đầy đủ, công tác chính trị tư tưởng
chưa tuyên truyền sâu rộng, nên để qua mùa đông sang mùa xuân hãy qua sông thì
hơn”....
Bành Đức Hoài và Cao Cương sau khi nhận
được điện cảm thấy rõ đây là vấn đề trọng đại, có liên quan tới toàn cục. Vừa
lúc đó, 5 giờ chiều lại nhận được điện khẩn của Mao Trạch Đông, lệnh cho hai
người ngày 18 phải đáp máy bay về Bắc Kinh ngay. Chu Ân Lai cũng dự định sẽ rời
Matscơva về Bắc Kinh. Vì vậy Mao Trạch Đông đã nói với Bành và Cao: “Thời gian
xuất quân hãy đợi sau ngày 18 về Bắc Kinh sẽ quyết định”. Ông yêu cầu hai ông
khẩn trương về Bắc Kinh tham dự hội nghị trung ương. Sớm ngày 18 ông Bành và
ông Cao đáp máy bay trở về Bắc Kinh. Báo cáo với Mao về công tác bộ đội vượt
sông và nội dung bức điện của Đặng và Hồng gửi ngày 17. Lúc này, địch tiến công
nhanh, Bình Nhưỡng càng nguy cấp. Trong cuộc họp trung ương buổi tối, sau khi
Bành Đức Hoài và Chu Ân Lai báo cáo tình hình. Mao Trạch Đông đã quả quyết nói:
“Kẻ thù đang bao vây tấn công Bình
Nhưỡng. Chỉ vài ngày nữa chúng sẽ đến bờ sông Áp Lục. Chúng ta dù có gặp khó
khăn lớn do thời tiết, việc quân chí nguyện qua sông viện Triều không thay đổi.
Thời gian vượt sông cũng không thể trì hoãn. Vẫn theo kế hoạch vượt sông trước
đây”. Theo chỉ thị, Bành Đức Hoài, trước tiên điện cho Đặng Hoa và Hồng Học
Tri biết. Yêu cầu quân chí nguyện phải nguỵ trang tốt, bảo mật nghiêm ngặt. Làm
tốt công tác tư tưởng, bổ sung lương thực đạn dược, họp đại hội sư đoàn chuẩn
bị sang nước ngoài chiến đấu. Sau đó Bành Đức Hoài lấy danh nghĩa của Mao Trạch
Đông chỉ thị cho: Đặng, Hồng, Hàn, Giải và phó tư lệnh quân khu Đông Bắc Hạ
Phiên Niên chờ điện tuyệt mật. Điện văn như sau:
“Gửi
phó tư lệnh Hạ cùng các ông Đặng, Hồng, Hàn bốn cánh quân và một sư đoàn pháo
binh theo kế hoạch vượt sông sang Triều Tiên chiến đấu. Tối mai (ngày 19) vượt
sông dọc tuyến An Đông_Tập An. Bảo mật nghiêm ngặt. Hàng ngày vượt sông từ lúc
hoàng hôn đến 4 giờ sáng thì ngừng. Trước 5 giờ phải hoàn tất việc nguỵ trang,
kiểm tra xít xao. Để rút kinh nghiệm đêm đầu tiên (đêm 19) chuẩn bị cho hai
hoặc ba sư vượt sông. Đêm thứ hai tăng hoặc giảm tuỳ tình hình mà xoay trở.
Bành và Cao thay mặt Mao Trạch Đông điện hồi 21 giờ ngày 18 tháng 10”.
Cùng ngày, để tăng cường sự thống nhất
trong cơ cấu tổ chức bộ tư lệnh quân chí nguyện. Quân uỷ trung ương đã hạ lệnh,
quyết định: Bành Đức Hoài tạm thời chỉ huy binh đoàn bộ 13 (nguyên là bộ tư
lệnh quân khu Đông Bắc). Tổ chức tổng bộ quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc do
Bành Đức Hoài làm tư lệnh, Giải Phương - tham mưu trưởng. Trong thời khắc khẩn
trương tổng bộ quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc, mẫn cán và thống nhất đã
chính thức thành lập. Công cuộc kháng Mĩ viện Triều của Trung Cộng đã mở màn.
*.
ĐOÀN MẠNH THẾ cẩn bút giới thiệu
Địa chỉ: Số nhà 12 Ngách 32 Ngõ 133 phố Hồng Mai,
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 0169.627.9729
.
………………………………………………………………………………..
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 15.09.2015
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét