THẾ NÀO LÀ THƠ HAY
Nhân đây tôi nhớ
lại câu hỏi của nhà thơ Trinh Đường năm ông đã ở tuổi tám mươi, để làm tập
tuyển “Thơ với lời bình” (Thế
kỷ XX), ông đã gửi tới các nhà thơ, phỏng vấn: “Làm thế nào để có thơ hay?”. Không biết các nhà thơ khác nghĩ
sao, còn tôi đã trả lời: “Nếu biết
làm cách nào để có thơ hay, người ta đã viết ngay được thơ hay và lập tức sẽ
nổi tiếng, sẽ được ngợi ca, sẽ chiếm lĩnh thi đàn, làm gì phải trắng tóc trước
trang giấy trắng nữa!”. Với tôi, chỉ có điều này: Mỗi khi cảm xúc bồi hồi
cầm bút, tôi có cảm nghĩ bài thơ sẽ được bạn bè chú ý, sẽ gây được đồng cảm cho
bạn đọc thơ mình. Nhưng rồi bài thơ hay vẫn là bài thơ chưa viết! Chính vì món
nợ chưa trả, bài thơ chưa viết mà tôi khôn nguôi thao thức, kiếm tìm, mà suốt
đời không rời nổi cây bút, dù vẫn biết tài năng thi bá ở đời như Nguyễn Du khi
kết thúc một kiệt tác như Kiều, ông đã cảm hoài: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Mua vui một khắc cho thiên
hạ cười khóc, mà bỏ cả cuộc đời mình vào đấy!
Từ câu phỏng vấn
trên, một câu hỏi khác tự nhiên được đặt ra, muốn biết làm thế nào để có thơ
hay, trước tiên phải biết “thế nào là thơ hay”. Chưa ai trả lời được câu
hỏi ấy. Đã tự bao đời người khen bài thơ này, câu thơ nọ, nhưng chỉ đưa ra được
những cảm nhận, quan niệm không ai định nghĩa được “thế nào là thơ
hay” để cho người sau có thể dựa vào, so sánh, mỗi khi bàn một bài thơ
hay, một câu thơ hay.
Một thời nhiều
người tâm đắc với câu thơ Tế Hanh “Có thể quên tên người làm thơ nhưng
đừng để quên thơ” coi đây là quan niệm về thơ. Liệu có thể quan niệm rằng
thơ hay là thơ được nhiều người nhớ chăng? Chắc không hẳn vậy. Mỗi người làm
thơ, yêu thơ có thể đọc ngay được vài câu thơ làng nhàng, thậm chí cả những câu
thơ dở. Nhớ thơ, thuộc thơ, phụ thuộc vào trình độ cảm xúc, thẩm mỹ và khát
vọng sống của mỗi người trong những bối cảnh xã hội khác nhau. Thơ cũng như đời
có sâu, nông, cao, thấp. Có thứ thơ dễ nhớ dễ thuộc. Có thứ thơ có thể thấm đến
tận cùng xương tuỷ qua những cơn đau. Chưa kể cảm xúc trong ta thay đổi bởi ấm
lạnh đời sống. Có bài thơ, câu thơ người này tấm tắc khen, người khác thì
không. Có câu thơ, bài thơ đọc lướt qua chẳng thấy có gì, bỗng ánh lên vẻ đẹp
bất ngờ vào lúc nào đấy khi ta gặp cảnh đồng tình đồng điệu. Thơ hay đâu chỉ vì
nhớ và thuộc. Nhớ thuộc thơ mới chỉ là lời, là chữ. Những sợi dây vô hình đằng
sau mỗi chữ, mỗi lời mới giằng buộc xoắn quyện hồn ta cùng với buồn vui mơ hồ
xa xăm không dứt.
Đọc thơ, thưởng
thức thơ có khi như ngồi trước con xúc xắc, người chỉ thấy nhất, nhị,
tam… kẻ nghe được cả vòng quay số phận.
Cái đẹp, cái hay
rất phụ thuộc vào mỗi người thưởng thức, như bông hoa tuyệt vời trên đỉnh núi
cao muốn ngắm nhìn, bình giá, trước hết anh phải lên được ngang tầm, phải vươn
tới được cái đẹp. Muốn tìm thấy ngọc trai dưới bể không thể nào không thấu lòng
bể nông sâu. Câu thơ trong khiết chỉ có thể lọt vào khoé mắt thật trong. Không
quặn thắt, đớn đau làm sao thấu hiểu những ý thơ thăm thẳm.
Không ai định
nghĩa “thế nào là thơ hay” có lẽ vì thơ chứa đựng khát khao muôn đời
cuộc sống. Không ai biết đích cuộc sống ở đâu, thơ cũng vậy. Ai mà đi định
nghĩa “khát vọng cuộc sống là gì?” nên cũng không ai định nghĩa thơ
hay. Mỗi người ở đời thường hiểu cuộc sống theo những vui buồn rộng hẹp riêng
mình. Thơ cũng vậy, nên thường xảy ra cảm nhận hay dở rất khác nhau. Có vậy
Xuân Diệu mới phải mượn “thời gian vặt lông vịt” cho thơ để định giá
thơ hay thơ dở.
Nhìn vào thơ hiện
nay như có hàng trăm quan niệm, cách hiểu, cách diễn đạt đề tài mục đích khác
nhau. Có người đòi phá bỏ hết mọi vần luật giàng buộc để thơ bay cao, bay xa
tới được thiên tài. Người lại tin rằng đốt cháy hết buồn vui đời mình cùng cuộc
sống sẽ tìm được hướng thơ đi…
Quan niệm thơ khác
nhau như vậy đang xảy ra ở khắp nơi, mỗi khi có dịp gặp gỡ bàn bạc nhận định về
thơ. Vừa qua trong cuộc họp chung thảo thi thơ báo Người Hà Nội tôi càng ngỡ
ngàng về sự khác biệt ấy: Ban chung khảo gồm Bằng Việt, Thanh Nhàn, Vũ Quần
Phương, Trần Đăng Khoa và tôi. Với quy chế xét giải, thơ được dọc phách trước,
mỗi thành viên chung khảo tự giới thiệu những bài thơ vào xét giải, sau đó phân
tích, biểu quyết. Khi đến lượt, tôi đã giới thiệu bài thơ:
CHIẾC KHĂN QUÀNG
Tiễn người thân vào cõi vĩnh hằng
Tôi trở về với nỗi buồn rười rượi
Rồi lòng lại tự mình an ủi
Cái chết chẳng thiên vị ai
Giản đơn như giấc ngủ dài…
Cuộc sống trần gian
Ngỡ chiếc khăn quàng cổ
Mà con người chẳng thể nào tháo gỡ!...
Khi biết sống trên đời thật đẹp
Là lúc cái chết nghiệt ngã chẳng buông tha
Nhưng cái chết cũng là bàn tay nhân từ
tháo bỏ chiếc khăn quàng cổ!
Vừa đọc xong, tôi
chưa kịp phân tích gì, nhà thơ Trần Đăng Khoa phát biểu: “Có lẽ bác Chử Văn Long quá nhạy cảm với đau
khổ nên thấy bài thơ này hay chứ bài thơ này không có gì”, rồi Khoa đọc mấy
câu thơ của Hikmet, Khoa cho là hay… Nhà thơ Vũ Quần Phương tiếp theo, ý
hài hước rằng: “Nếu tạo hoá đã cho
ta chiếc khăn quàng cổ thì để quàng cho ấm, chứ việc gì phải cởi ra…”. Tôi
thật sự ngỡ ngàng về cách bàn thơ của các nhà thơ lâu nay mình vẫn trân trọng.
Đặc biệt là cách nhận định của Khoa. Người cầm bút làm thơ nào cũng hiểu đời
buồn có thơ buồn, đời vui có thơ vui, nhậy cảm với nỗi đau khổ nếu không là
tiêu chuẩn hàng đầu, tiêu chuẩn số một để viết được thơ hay, để nhìn ra được
thơ hay, có lẽ nào vì nhạy cảm đau khổ mà tôi nhìn thơ dở ra thơ hay được. Tôi
đã phát biểu như vậy… và bài thơ “Chiếc khăn quàng” được bỏ ra khỏi xét giải như một chuyện
bình thường, bạn đọc và thời gian sẽ bình xét, chỉ có lời phát biểu của Khoa cứ
theo đuổi tôi mãi. Vì sao Trần Đăng Khoa người nhận được vinh quang thơ ngay từ
tuổi nhỏ, lại được học hành đầy đủ nhất về nghề văn, so với nhiều người khác
lại phát biểu về thơ như vậy? Bình tĩnh nghĩ suy tôi thấy điều này, thì ra cái
chưa hiểu Khoa lại là chính tôi. Bước đường vào nghề văn không ai thuận lợi như
Khoa. Hiện tại Khoa còn trẻ, chỉ hơn nửa tuổi đời mình. Mình chẳng đã thấm sự
sâu sắc ở đời là cả sự từng trải, vấp váp, sống chết, sống chết không chỉ bó
gọn theo nghĩa đen của hai chữ ấy. Mà còn cái sống quặn thắt, sống nẫu lòng,
nẫu ruột như chết mà lại không thể chết được. Còn cái chết thì đã như tê liệt
hết mọi cảm xúc về sự sống nhưng tim lại chưa ngừng, những buồn vui còn le lói
trong đầu chưa chịu tắt… Khoa nói không sai, sau mọi nếm trải co dãn đến
vạch khắc cuối cùng cốc nước vui buồn đời tôi đã tràn khi người vợ thân yêu của
tôi qua đời, tôi luôn thắc thỏm giật thột, có lúc đang giữa ban ngày bỗng hoảng
hốt giật mình, nhìn điều gì, vật gì xung quanh cũng cảm thấy lung lay trước quy
luật mất còn, biến đổi. Tôi thường chẩy nước mắt những chuyện không đâu, chuyện
chẳng liên quan gì đến mình, mà không hiểu vì sao… Khoa đã nhìn đúng con
người tôi là vậy. Chỉ có điều lệch nhau ở chỗ khi đem liên hệ vào bài thơ trên,
một người thường trực với nỗi buồn đau, một người đang bình tĩnh tự tin với tài
năng tuổi trẻ, thì sự cảm thụ khác nhau có gì là khó hiểu!
Nghĩ như vậy tự
nhiên tôi thấy nhẹ lòng… nhưng còn các anh chị khác, các nhà thơ tuổi tác
cùng trang lứa với tôi trong ban chung khảo cùng họp hôm ấy, sao không ai bàn
lại ý kiến của Khoa. Phải chăng mỗi người bươn trải trên dòng đời riêng biệt,
rộng, hẹp, nông, sâu cũng khác, nên khi bàn về thơ tìm được những quan điểm
chung nhau mới khó. Còn buồn, vui, sướng, khổ là chuyện của trời đất cho ai thế
nào người ấy hưởng vậy. Tôi lại thấy mình được an ủi bằng nhiều áng văn chương
kim cổ còn sống được đến nay thường được lọc ra từ những trái tim đau… Tôi
nhớ đến câu của Gớt, người gần như được hưởng mọi niềm Vinh quang cuộc sống mà
cũng từng thốt lên: “Niềm đau vĩ đại
nâng ta diệu kỳ”. Vậy là nỗi đau khổ (chẳng ai muốn cả) lại có
khi là niềm hạnh phúc!
Ghi lại đôi điều
trên tôi nhằm đem đến bạn đọc, bạn viết sự phong phú của thơ hiện tại, ở một
thời đại con tim luôn đập bởi những âu lo phấp phỏng không ngừng, đến trái đất,
chiếc nôi nuôi giấu, chở che con người cũng bị thương, cũng cần băng dịt vết
thương trước sự phẫn nộ của thiên nhiên bão tố, nên không có gì lạ lùng khi
nghe những dư luận khen chê ở chỗ này, chỗ khác, và sự định giải ở các cuộc thi
thơ gần đây thường không gây được ấn tượng chung, không lưu lại được dư âm
trong công chúng và cả dư âm trong công chúng dù rộng lớn đến đâu cũng không
quyết định được giá trị của thơ. Bỏ qua cả những đồn đại đã có về giải thơ này,
giải thơ khác mua bằng đồng tiền.
Nhưng cũng lại từ
nhận thức thơ rất phong phú đa dạng, mỗi nhà thơ ngoài nhân cách, phẩm giá cần
cho thơ lại phải là người bán hàng rong, một thứ ngọc cao giá, nếu không tinh,
sẽ trao vào tay người khác của giả. Giả nhiều khi không chê trách được người
làm ra nó vì đặc thù của thơ nhiều người dồn cả tâm sức, cả đời mình để làm của
thật, mà vẫn thành của giả. Hay như người xuống tóc đi tu đến hết đời vẫn không
ngộ được Phật ở ta, từ ta… mà đi tìm kiếm đâu đâu.
Kết thúc bài viết
tôi xin kể lại buổi trao giải cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1981. Hầu hết các
anh chị được giải đều có mặt, trừ nhà thơ Hoàng Hữu tác giả bài thơ “Hai nửa vầng trăng” (Giải B),
anh vừa mới mất, chị đem theo cháu nhỏ về nhận thay. Gian phòng báo Văn nghệ ở
17 Trần Quốc Toản vừa đủ ấm cúng, long trọng cho cuộc vui trao giải, nếu không
có nỗi buồn vĩnh biệt Hoàng Hữu với những dải khăn sô trắng chị ấy và cháu nhỏ
mang về.
Sau những thủ tục,
diễn văn tổng kết của báo, Chủ tịch Hội đồng giám khảo Xuân Diệu (cũng là Chủ
tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam bấy giờ) lúc lắc mái tóc gợn sóng đứng
dậy, anh không lên bục diễn giả mà đứng tại chỗ, nhận xét tóm tắt rất ngắn
những ý kiến của hội đồng chấm thi: “Sau
một thời gian tích cực làm việc của hội đồng chung khảo, và hôm nay, tôi như
ông mối buộc chỉ hồng cho cuộc xe duyên giữa báo Văn nghệ và những tân khoa,
trạng nguyên, bảng nhãn, nhưng…”. Anh bất ngờ hạ giọng: “Tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm về việc
sau đây đôi lứa có sống với nhau “mãn chiều xế bóng” hay không!”,
cả phòng họp oà lên cười vui.
Hai chục năm đã trôi qua, Xuân Diệu đã vắng bóng, ngẫm lại lời ông nói hôm ấy vừa dí dỏm vừa sắc sảo có lẽ vì ông có cách nhìn đánh giá thơ riêng so với Hội đồng chung khảo thơ bấy giờ, bây giờ người còn nhớ về cuộc thi thơ ấy, thường chỉ nhắc đến hai bài thơ giải B là “Hai nửa vầng trăng” và “Người gánh rơm vào thành phố”.
*
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Làng Vạn
Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Điện thoại: 01658818263
Email: haicv08@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email
ngày 31.01.2016.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ
nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét