NGUYỄN DU CÓ ĐẾN
LÂM AN KHÔNG?
*
(Giáo sư Phạm Trọng Chánh) |
Nguyễn Du có đến Lâm An (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang) không?
các nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, Trương Chính, Lê Thước, Nguyễn Văn
Hoàn, Mai Quốc Liên.. đều cho là có, Phó Giáo sư Tiến sĩ Nohira Munehiro
trong bài viết: “Một giả thiết
khác về hành trình đi sứ của Nguyễn Du năm 1813-1814” đăng trên
site tạp chí Nghiên cứu Lịch Sử, Tạp chí Văn Hoá Nghệ An và Việt Nam
Học dựa vào câu thứ bảy: “Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu” (Hướng vọng Lâm An lăng miếu cũ), để xác
định rằng chữ vọng là từ xa mà nhìn và ông cho rằng bài này Nguyễn
Du làm bài thơ tại quê hương Nhạc Phi ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam.
Tôi rất ngạc nhiên Phó Giáo sư Tiến sĩ Nohira Nurehio trích câu
7, tại sao không đọc tiếp câu thứ 8: “Sơn
Hà sơn tại mộ yên trung” (Thê Hà chìm đắm khói sương dâng). Tại
Thang Âm, tỉnh Hà Nam có núi Thê Hà như tại Hàng Châu chăng? Núi Thê
Hà phía trên mộ Nhạc Phi bên bờ Tây Hồ, nhìn qua bên kia hồ là lăng
miếu cung đình cũ các triều vua Nam Tống, có con đê Tô do Tô Đông Pha
khi làm Thứ sử Hàng Châu đã cho đã nạo vét Tây Hồ mà đắp thành con
đường, nối liền mộ Nhạc Phi với chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải tức Minh
Sơn hòa thượng từng tu hành trước khi thành cướp biển. Vị trí tương
tự như đường Cổ Ngư nối liền chùa Trấn Quốc và Quán Trấn Vũ, Hà
Nội. Nguyễn Du có thể dạo chơi trên núi Thê Hà núi đá vôi không cao
lắm trên mộ Nhạc Phi, hay đứng trước mộ Nhạc Phi nhìn lên núi, buổi
chiều sương lên từ Tây Hồ chìm đắm khung cảnh trong mơ, nhìn khung cảnh
quanh hồ: bên kia hồ là lăng miếu triều Nam Tống, bờ hồ, đê Bạch (Cư Dị) là các thanh lâu các nàng Kiều bên
Tây Hồ, gần đó còn có mộ nàng Tiểu Thanh với rừng mai bát ngát. Thê
Hà không phải là một địa danh quan trọng trong đời Nhạc Phi, nếu không
đến Lâm An làm sao Nguyễn Du biết đến núi Thê Hà trên mộ Nhạc Phi,
Nguyễn Du tả cảnh sống trực tiếp, tức cảnh sinh tình mà làm thơ,
chứ không tưởng nhớ đến Lâm An, nếu chưa bao giờ đến Lâm An. Lâm An
cũng không phải quê quán, làm sao Nguyễn Du nhớ đến Lâm An như vọng về
cố hương. Bài thơ Nhạc Vũ Mục Mộ tôi cho rằng Nguyễn Du đã đứng
trước tượng Nhạc Phi có thương thần trượng tám, cung nặng sáu thạch,
có câu “Hoàn ngã giang sơn” chung
quanh có hàng tùng hàng bách mà làm thơ tức cảnh chứ không ở nơi
khác mà tưởng nhớ.
Do đó tôi bác bỏ giả thuyết cuả Phó Giáo sư Tiến sĩ Munehiro
cho rằng Nguyễn Du không đến Lâm An. Có lẽ vì định kiến có sẵn
Nguyễn Du đi sứ không đi qua Hàng Châu nên ông bỏ qua những chi tiết
ngược lại sự suy nghĩ chủ tâm trước. Điều này thường thấy trong việc
dịch thơ Nguyễn Du, ví dụ bài Biệt Nguyễn Đại Lang có câu “Ngã diệt phù Giang Hán”, sông Hán
là con sông nối liền từ Vũ Hán,
Hán Dương đến Trường An, tôi đi sông Hán đây còn có ý nghĩa là tôi đi
Trường An đây, nhưng vì không nghĩ đến việc Nguyễn Du đi Trường An nên
cụ Ngô Linh Ngọc dịch thành: “Tôi
cũng vượt sông lớn”, Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cũng dịch thành: “Tôi sẽ sang sông đây”. Ai cũng bỏ qua
địa danh sông Giang Hán. Trung Châu trong bài Biệt Nguyễn Đại Lang là vùng tròng đỏ trứng gà các
kinh đô cũ Hoa Hạ, Trung Quốc các cụ
Trương Chính, Lê Thước, Đào Duy Anh.. đều chú thích Trung Châu
là vùng Hà Nội. Địa danh Giang
Bắc, Giang Nam bài Mạn hứng II các cụ cũng lơ là không nói đến. Nam
Đài, Long Giang bài Xuân Dạ ở Long
Châu, Trung Quốc thành một thôn làng Tiên Điền, một khúc sông
Lam.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký, nhiều nhà
nghiên cứu không đọc kỷ từng chi tiết để tìm ra cuộc đời, hành trình
Nguyễn Du, mà đi ngược lại căn cứ vào gia phả do Nguyễn Y con Nguyễn
Nhưng viết từ làng Tiên Điền và ép các bài thơ vào cái khung định
sẵn, chi tiết nào không hợp thì bỏ qua, hay chú thích thành sai lạc.
Gia phả chép đầy lầm lẫn như: Lê Quý Kỷ Sự của Nguyễn Thu chép
thành tác phẩm của Nguyễn Du. Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn
chép thành Đoàn Nguyễn Tuấn cùng Nguyễn Du khởi binh chống Tây Sơn,
Nguyển Nể được vua Gia Long vời đến cùng Nguyễn Thiếp khi chiếm Phú
Xuân, nhà vua cho Nguyễn Thiếp về quê quán, và cho Nguyễn Nể đi theo ra
Bắc Hà thì chép thành Nguyễn Du theo vua Gia Long từ Hà Tỉnh ra Bắc.
Nguyễn Y cũng không biết Nguyễn Nghi
một ông chú khác ở Chu Kiều, Bắc Ninh viết truyện thơ Quân Trung Đối.
Bài thơ Nguyễn Hành viết về chú Nguyễn Du có hai câu: “Giang hồ, long miếu hai điều đủ, Thi
họa cầm thư bốn nghệ tinh”. Hai
bài Mạn Hứng, Nguyễn Du cũng cho biết mình ở ăn nhờ biển đến sông
và ở xa quê hương ngàn dậm. Nguyễn Du có một cuộc đời đi giang hồ,
như cuộc đời 18 năm làm quan triều đình, giang hồ ngày xưa có nghĩa
là đi chơi như Phạm Lãi, Lý Bạch các con sông Giang Bắc, Giang Nam và
năm hồ trong đó có Tây Hồ là hồ đẹp nhất ở Hàng Châu. Nguyễn Y hoàn
toàn không hay biết gì về cuộc đời giang hồ Nguyễn Du. Mười năm gió
bụi, gia phả chép thành mười năm ông về quê vợ Quỳnh Hải. Nếu về quê
vợ yên ổn hạnh phúc với vợ, dạy học thì có gì gọi là gió bụi?
Tại Hàng Châu, mộ Nhạc Phi, Nguyễn Du làm 5 bài thơ có thêm
hai bài Tần Cối tượng và Vương Thi tượng, các nơi khác khi đi sứ
Nguyễn Du chỉ làm một bài thơ khi đi ngang, chứng tỏ Nguyễn Du dừng
chân lâu nơi này. Nguyễn Du chờ đợi ai, hẹn hò ai chớ không phải đi sứ. Bài Biệt Nguyễn
Đại Lang đã giải đáp thắc mắc này: “Tương
kiến tại Trung Châu”, (Sẽ gặp lại nhau tại Trung Châu). Họ hẹn gặp nhau
tại Mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu. Xưa nay Mộ Nhạc Phi là một địa điểm
danh tiếng, ai đến Hàng Châu cũng phải thăm nơi này.
Nhân vật Nguyễn Đại Lang và Nguyễn Sĩ Hữu trong Thanh Hiên
thi tập là ai ? tìm ra được hai nhân
vật này là chìa khóa mở ra cánh cửa cuộc đời giang hồ của Nguyễn
Du. Cuối đời Lê Trịnh, khi Trịnh Tông lên ngôi chúa, Nguyễn Khản, thầy
dạy Trịnh Tông, anh Nguyễn Du từ
Trấn thủ Sơn Tây lên làm Thượng Thư Bộ Lại hành Tham Tụng kiêm trấn
thủ Thái Nguyên, Hưng Hóa. Nguyễn Khản đã bố trí các em, con rể, thuộc
hạ mình làm vây cánh tại các trấn. Tại Tây Sơn ông giao lại chức Trấn Thủ cho em là Nguyễn Điều thay
thế, Nguyễn Nể phụ tá. Tại Hưng Hoá quyền trấn thủ là con rể
Nguyễn Huy Tự (tác giả truyện Hoa Tiên), có Nguyễn Trứ (con cụ Nguyễn
Nghiễm và bà Nguyễn Thị Xuân, anh Nguyễn Nghi) làm tri phủ. Tại Thái
Nguyên nơi có nhiều tay giang hồ tứ chiến người Hoa sang khai thác mỏ
bạc, Ngô Thì Nhiệm từng có báo cáo về triều đình về tình hình
phức tạp tại Thái Nguyên. Nguyễn Khản cử một thuộc hạ Nguyễn Đăng
Tiến, gốc người Quế Lâm, vùng cao sơn lưu thủy Trung Quốc, người Việt
Đông, nước Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn và thời Triệu Đà. Nguyễn
Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu. Nguyễn Du đã đổi quê Từ Hải, ở Hấp
Huyện, An Huy bằng quê Nguyễn Đăng Tiến. “Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”. Tiến giỏi võ Thiếu
Lâm, thuộc hạ Nguyễn Khản dạy võ cho các em, các con trong nhà Nguyễn
Khản còn có một tay kiếm khách người Hoa khác, đã trấn dinh Kim Âu cho Nguyễn Khản chạy thoát
lúc bọn kiêu binh đến phá dinh, và bị giết chết .(Hoàng Lê nhất
thống chí). Tại Thái Nguyên, Nguyễn Du vừa đỗ Tam Trường trường thi
Sơn Nam, được anh giao nhiệm vụ làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu
Hiệu, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh làm
Trấn Tả Đội, đội quân hùng mạnh khác, Quýnh lấy danh hiệu Sĩ Hữu,
để chứng tỏ mình văn võ song toàn.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí
gọi Tiến là Cai Gia, chức Cai phù hợp với tước Quản Vũ Hầu. Lịch Triều tạp kỷ của Ngô Cao
Lãng gọi là Cai Già, Lê Quý kỷ
sự chép rõ việc: Khi Vũ Văn
Nhậm, Tây Sơn ra giữ Bắc Hà, Tiến họp bọn người Hoa khởi nghĩa tại
Tư Nông, bị chỉ huy Giáo đánh bắt, giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trân
trọng khí khái, sau những lời đối thoại, đã tha bổng cả bọn cho
muốn đi đâu thì đi, họ từ Thái Nguyên đi Vân Nam.
Lê
Quý Kỷ Sự - Viện Hán Nôm, nhà
xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội trang
91,92 chép: “Vũ Văn Nhậm cười
nói: Ta đi cướp nước người, phá nhà người đó là lỗi ta. Vậy thì
người đánh lại ta là chính đáng, chứ người có tội gì. Chỉ giận vì
sức mọn thế yếu, nên mới bị ta bắt được đó thôi. Nay ta thả Tiến ra,
nếu Tiến chịu hàng thì đi với ta, bằng kông thì cho tùy ý muốn đi
đâu cũng được. Ví bằng lại dấy quân quyết chiến với ta mà ta bắt
được lần nữa thì cũng không giết đâu.”
Nguyễn Du cũng bị bắt trong
trận này nên bài Biệt Nguyễn Đại
Lang có câu: “Sinh tử giao tình tại, tồn vong cùng
khổ khi.” Nguyễn Du kết nghĩa sinh tử với Cai Già, cùng bị
bắt suýt bị giết và cùng được
tha, vì ông lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản hơn Nguyễn Du 31 tuổi, nên
Nguyễn Du gọi ông là Nguyễn Đại Lang. Gia phả chép lầm là cha nuôi họ
Hà truyền tập ấm cho Nguyễn Du.
Tìm ra nhân vật này tôi có liên lạc với Giáo sư Nguyễn Tài
Cẩn đang sống những ngày cuối đời ở Moscou, (tôi từng tiếp tân ông
lúc ông và phu nhân sang dạy Việt Học tại Viện Đại Học Paris VII), ông
rất vui mừng, ông ráng đánh điện thư cho tôi chữ nhảy lung tung, cho
biết ông đã bị phong thấp nặng bại liệt nửa người, ông đọc quyển Nguyễn Du mười năm gió bụi của
tôi gửi tặng. Ông viết điện thư bảo
học trò ông từ Hà Nội gửi gấp Hoàng Lê Nhất Thống Chí sang cho ông, cầm trong tay hỏi
tôi trang mấy. Ông rất vui vì sau bao nhiêu năm nghiên cứu đọc hơn 30
ngàn câu thơ Kiều những
bản Nôm cổ nhất, những chữ húy, ông chứng minh Truyện Kiều Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan thời
nhà Nguyễn, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng cho rằng Nguyễn Nể khi đi sứ
năm 1790 đã mang Kim Vân Kiều
truyện về cho em. Nay tôi chứng minh Nguyễn Du có bản Kim Vân Kiều truyện khi đến Lâm
An thời đi giang hồ năm 1790. Thật cảm động, ông gần chết đến nơi mà vẫn đùa vui như ngày nào “khám phá này anh sẽ làm mưa làm gió”.
Nguyễn Du, Nguyễn Đăng Tiến đến Vân Nam, nơi cảnh: Tuyết
xuống làng xa não tiếng tù. (Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai), bài
Sơn Thôn. Áo khăn trưởng giả còn theo Hán, Ngày tháng sơn lâm khác
lịch Tần. (Trưởng giả y
quan do thị Hán, Sơn trung giáp tý quýnh
phi Tần.) bài Sơn Thôn.
Nguyễn Du bị bệnh ba tháng vì không quen khí hậu lạnh, chữa bệnh nơi
nhà một thầy thuốc, vườn có trồng nhiều cây thuốc, phải bán con
ngựa dùng đi đường để chữa bệnh và ước mơ: Ước gì thoát khỏi vòng
trần tục. (Ná đắc khiêu ly
phù thế ngoại, bài Sơn Thôn), Nguyễn Du đã thực hiện ước mơ thoát
vòng trần tục này như thần tượng lý tưởng của Nguyễn Du là Thanh Liên
Lý Bạch, 21 tuổi mặc áo trắng đạo sĩ, vác trường kiếm đi giang hồ
khắp các sông Giang Nam, Giang Bắc và Ngũ Hồ. Lý Bạch không cần có
công ty du lịch, vì nơi nào cũng có
đạo quán Đạo Lão để dừng chân ăn ở miễn phí. Nguyễn Du 21 tuổi mặc
áo vàng nhà sư, trong túi vải có quyển Kinh Kim Cương chú giải của Lê
Quý Đôn, vai mang trường kiếm, cũng không cần công ty du lịch như ngày
nay, đi nhờ thuyền buôn, tụng kinh làm phép hàng hóa cho nhà buôn mua
may bán đắt, nhà buôn cúng dường cho sư (khác với Việt Nam phong tục
này thông thường ớ Trung Quốc ngày xưa). Khi gặp thắng cảnh thì dừng
lại rong chơi, đêm ngủ tại các chùa trên đường đi, tụng kinh Kim Cương,
chùa cũng mời cho bữa ăn rau đậu. Nguyễn Du tụng ngàn lần Kinh Kim
Cương này trong ba năm giang hồ (365 ngày x 3), người thường không ai đọc
Kinh Kim Cương đến ngàn lần. Nguyễn Du đội mũ vàng nhà sư đi vạn dậm.
tức khoảng 5000 km Vạn lý hoàng quan tương mộ cảnh, (Vạn dậm mũ vàng
chiều nắng xế. Bài
Mạn hứng II). Ngày xưa các cụ thường rong chơi, ngụ
tại các chùa trên đường đi, cụ Nguyễn Thông người đi thám hiểm khắp
nơi đã viết nửa đời mình trú ngụ
trong cảnh chùa. Nguyễn Du lấy danh hiệu Thanh Liên Chí Hiên, Chí Hiên
rồi về sau thành Thanh Hiên. Chí là danh hiệu Chí Thiện Thiền Sư
chưởng môn phái Thiếu Lâm thời nhà Thanh cả Trung Quốc kính nể, nhiều
bộ tiểu thuyết viết về môn phái Thiếu Lâm. Bọn đạo tặc, giặc cỏ
nghe đến nhà sư có vai vế chữ Chí cũng lánh xa giúp cho thuyền buôn
được yên ổn. Danh hiệu này Hồ Xuân Hương chép hai bài thơ Chí Hiên tặng trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du học Tứ
Thư Ngũ Kinh và hàng nghìn bài thơ phú đều bằng chữ Hán, Trung Quốc
chữ viết thống nhất, giọng đọc mỗi vùng có khác nhau. Từ cách đọc
Hán Việt thay đổi theo âm mỗi vùng không phải là điều khó. Nhất là
có thầy dạy bên cạnh là Cai Gia. Tôi cho rằng nhờ việc giỏi tiếng Hoa
nên Nguyễn Du năm 1803 làm tri phủ Thường Tín, Nguyễn Du đã được đặc
cách đi tiếp sứ bộ Tề Bồ Sâm sang phong vương vua Gia Long.
Từ Vân Nam, Nguyễn Du lại sang vùng Liễu cao lâm, Liễu Châu,
nơi đây Nguyễn Du từ biệt Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ vùng cao sơn
lưu thủy Quế Lâm. Từ biệt Nguyễn
Sĩ Hữu, tức Nguyễn Quýnh về làm chủ Hồng Lĩnh khởi nghĩa chống Tây
Sơn. Nguyễn Du theo đường sông Tiêu Tương, qua Trường Sa, Mịch Giang đến
Hoàng Hạc Lâu, Hồ Động Đình, rồi theo sông Hán đi Trường An. Tại Trường An Nguyễn
Du viết bài Dương Phi cố lý và Bùi Tấn Công mộ. Nguyễn Du còn đi cựu
kinh đô Lạc Dương, Tô Tần quê ở Lạc Dương, đình Tô Tần ở quê ông,
Nguyễn Du làm hai bài thơ về Tô Tần tại nơi này. Nhà Tùy đóng đô
cũng tại Lạc Dương, chùa Bạch Mã là ngôi chùa đầu tiên và to lớn
của Trung Quốc, tụ tập các cao tăng Trung Quốc lại để phân định, bàn luận cuộc tranh cãi giữa
các phái theo kinh Kim Cương ảnh hưởng Phật giáo Tây Tạng, Kinh Pháp
Hoa đức Phật thuyết pháp cuối đời núi Linh Thứu phái Tịnh độ và
phái Thiền Ngài Bồ Đề Lạt Ma du nhập đương thời, Phật ngồi dưới cội
bồ đề thiền định mà thành Phật do đó chỉ cần thiền định không cần
kinh điển, Thái tử Lương Chiêu Minh chắc chẳng đi xa kinh đô làm gì,
đài phân kinh theo tôi cũng ở gần đó, bài thơ có nhắc chuyện Bạch
Mã. Sau đó Nguyễn Du lại xuôi sông Hán
theo kênh Đại Vận Hà đi Lâm An tức Hàng Châu. Nơi đầu mối của
con đường tơ lụa từ Trung Quốc. Lâm An còn là một trung tâm Phật Giáo
lớn với hơn 600 ngôi chùa. Nơi hai
nhà thơ lớn Bạch Cư Dị và Tô Đông Pha từng bị triều đình biếm trích
ra đây.
Sau khi gặp lại tại miếu Nhạc Phi, Nguyễn Đại Lang cùng
Nguyễn Du đi Yên Kinh. Lý do gì mà Lê Chiêu Thống cùng tùy tùng bàn
chuyện xin nhà Thanh một tỉnh Thái Nguyên như nhà Mạc từng xin tỉnh
Cao Bằng phải chăng họ đã gặp cựu quyền
trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến?. Sau đó đoàn tùy tùng
vua Lê bị đày mỗi người một nơi,
giấc mơ tan rã. Nguyễn Du đi về đến Hoàng Châu thì gặp Đoàn
Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn do Phan Huy Ích làm Chánh sứ năm
1790. Đoàn Nguyễn Tuấn làm hai bài thơ: Chí Hoàng Châu thích Nguyễn
khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi. Đến Hoàng Châu vừa vặn gặp
người bạn văn họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ
tặng. Thơ chép trong Hải Ông thi tập. Người bạn văn chương ấy là ai mà
Đoàn Nguyễn Tuấn viết: “Hứng thú
văn chương mãi luận bàn, Bạn hữu văn chương say gặp gỡ.” (Giải cấu văn nhân sách chỉ đàm, Lan xú
tảo văn như kiến văn). Họ bàn chuyện gì? Đoàn Nguyễn Tuấn trên đường đi tiếp, trong buổi tiếp tân gặp
một giai nhân ca hát đã cảm hứng viết bài thơ Vô Đề có câu “Hồng nhan đa truân”. Tôi suy đoán từ
Hàng Châu, ở chùa Hổ Pháo nơi Từ Hải tu hành, lúc đó quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân đã in ấn được tiếng vang, Nguyễn Du đã mua đọc say mê. Chuyện
Hồng nhan đa truân ám ảnh nhà thơ nên khi gặp Đoàn Nguyễn Tuấn đã bàn
luận sôi nổi việc này và ảnh hưởng đến Đoàn Nguyễn Tuấn trong bài
thơ Vô Đề.
Đoàn Nguyễn Tuấn và sứ đoàn phải đi Nhiệt Hà nơi nghỉ mát
vua Càn Long, hẹn gặp lại Nguyễn Du mùa xuân năm tới: Cố quốc trùng
phùng tuế hựu tân. Nước nhà hẹn gặp lại xuân sang.
Nguyễn Du trở về, đến Long
Châu xóm Nam Đài bên sông Long Giang viết bài thơ Xuân Dạ. Sau đó trở về Thăng Long ở với anh Nguyễn Nể
đang làm quan Tây Sơn tại Bắc Hà, nhưng dinh Kim Âu nhà cha anh Nguyễn Du
thường là nơi hội họp, ca hát các quan
tướng Tây Sơn. Nguyễn Du gặp gỡ Cô Cầm nơi này. Nguyễn Du ra ở nơi nhà câu cá cũ anh
Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân và Cổ Nguyệt Đường tại đây Nguyễn Du
yêu cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai và thường đi hái sen cùng nàng. “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn”. Bài Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh
học sĩ Nguyễn Hầu. trong Lưu Hương
Ký của Hồ Xuân Hương. Những chứng minh của tôi không chỉ căn cứ
trên tựa bài thơ rồi lên internet tìm kiếm địa danh, mà căn cứ theo
tình tiết từng câu thơ và đi Trung Quốc đến tận nơi, đọc lại từng
bài thơ cảm nhận những xúc động của Nguyễn Du trước cảnh sắc.
Bắc Hành tạp lục
có 132 bài thơ, các sứ thần khác trong thời gian đi sứ chỉ viết
khoảng phân nửa số thơ đó. Nguyễn Du không gọi tập thơ là thơ đi sứ,
như Tinh Sà Kỷ Hành của Phan Huy Ích hay Hoàng Hoa đồ phả của Ngô Thì
Nhiệm mà chỉ gọi là ghi chép, sao tạp lộn xộn những bài thơ đi về
phương Bắc. Thơ thời đi giang hồ Trung Quốc năm 1787 đến 1790 và thơ đi
sứ năm 1813 đến 1814. Tôi đã dịch lại và phân tích từng bài trong
loạt bài Bắc Hành tạp lục,
hành trình thời đi sứ và thời đi giang hồ của Nguyễn Du. Có thể tìm
thấy đầy đủ trên các site chimvietcanhnam, khoahocnet,
saimonthidan,vanhoanghean, nghiêncuulichsư, đông tác.. Những bài thơ Nguyễn
Du tiếp sứ thần Tề Bồ Sâm, thơ xướng họa với các quan lại Trung
Quốc trong một triều đình vị vua
thi sĩ Càn Long không thể không có. Phải chăng có một tập thơ Nguyễn
Du chép riêng đã thất lạc ?.
Thơ Bắc Hành tạp lục có nhiều nghi vấn, ví dụ:
Nguyễn Du đi sứ với sứ đoàn 27 người.
Có một tướng nhà Thanh được triều đình
cử tiếp tân đưa đi từ Mạc Phủ, Bằng Tường chỉ huy hành trình
từ Nam Quang tới Bắc Kinh, rồi đưa về với hàng trăm quân hộ tống,
chuyển vận khiên hòm cống phẩm, hành trang, dọc đường các quan địa
phương tiếp rước, quân lính canh phòng nghiêm ngặt đề phòng thảo khấu
cướp đồ cống phẩm, tiệc tùng, ca hát, đêm đèn đuốc sáng choang át
cả trăng sao, đi thuyền có thuyền quan quân mở đường. Nguyễn Du không
thể tả mình đi cô đơn trên một chiếc thuyền con, hay một mình một
ngựa làm thơ tức cảnh.
Đến một thắng cảnh, các
quan lại Trung Quốc thử tài làm thơ các quan Chánh sứ, Phó sứ, xin
thơ viết trên vách, khắc trên đá, Nguyễn Du không thể tả mình ngắm
cảnh cô đơn một mình.
Quan Chánh sứ không thể hẹn
một bác hàng xóm nào để bỏ sứ đoàn đi thắp hương gác Thiên Phi như
bài Thương Ngô. Các quan nhà Thanh cũng không thể nào dẫn quan Chánh
sứ đi thăm di tích Quế Vương kẻ thù nhà Minh chống lại triều đại
mình như bài Quế Lâm Cù Các Bộ.
Nhiều bài thơ ta có thể xác định được thời gian, năm tháng
như bài Tín Dương tức sự
có câu “Tây phong biến dị hương”.
Ngọn gió Tây làm rung động cả đất khách, Tây phong trong thơ Nguyễn Du
ám chỉ Tây Sơn. Nguyễn Du có mặt tại thành Tín Dương lúc Quang Trung
đại phá Tôn Sĩ Nghị tại Thăng Long, năm 1789 cả Trung Hoa rung động vì
việc này. Sự việc còn thê thảm hơn khi dân ăn cám trộn nửa, hy
sinh lương thực cho đoàn quân viễn
chinh. Bài thơ tả hội đua thuyền
mùng năm tháng năm tưởng nhớ đến Khuất Nguyên, so sánh với thời
gian đi sứ.
Đoạn đường đi trên sông Tiêu Tương, Nguyễn Du đi cả thời đi
giang hồ và thời đi sứ nên ông viết. Bài Tây Hà Dịch: Y nhiên tiểu lý tư (Xóm nhỏ vẫn y
nguyên). bài Chu Phát: Giang đồng khứ nhật thu (Sông vẫn cảnh thu như
ngày cũ), bài Tương Giang dạ bạc:
Biệt phố phai tân sắc (Bến cũ nay đã
khác) Nguyễn Du đi sứ có thấy lại cảnh cũ mới viết như thế.
Loạt bài về Bắc Hành
tạp lục này của tôi giải quyết toàn bộ các nghi vấn trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du và những bí ẩn trong cuộc đời Nguyễn Du, từ mười
năm gió bụi đến Bắc Hành tạp
lục. Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn tôi có dịp tiếp tân tại nhà cách
đây hơn 30 năm trong dịp anh sang Paris trên đường đi Ý. Lâu ngày không
gặp lại, tôi gửi tặng bộ Odyssée,
Iliade tôi dịch bằng thơ
lục bát và các sách Hồ Xuân
Hương nàng là ai?, Nguyễn
Du mười năm gió bụi. Anh cũng gửi tặng tôi quyển Thần Khúc anh dịch của Dante,
chị Đặng Thanh Lê cũng gửi tặng tôi quyển sách chị in chung với bài
của cha và ông nội vì tôi cho biết,
ông nội tôi là học trò Tiến sĩ Đặng Nguyên Cẩn, khi cụ làm Đốc học
Bình Thuận trước năm 1905. Anh Hoàn mừng vì tôi cùng anh cùng làm công
việc “đội đá vá trời”, dịch các sử thi danh tiếng, tôi viết bài
giới thiệu quyển Thần Khúc
cho anh. Giáo sư Nguyễn Văn Hoàn đã mời tôi tham gia Hội Kiều Học và
tôi thường xuyên gửi bài về những kết quả nghiên cứu. Giáo sư Nguyễn
Văn Hoàn rất vui mừng khi biết tôi có đi Trung Quốc và nghiên cứu bản
đồ Trung Quốc theo dấu những bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du như anh.
Hội Nghị Bắc Hành tạp lục do Hội Kiều Học tổ chức tại Hà Nội, anh
có gửi cho tôi bài xuất sắc của Tiến sĩ Nguyễn Thị Nương, cô viết
Nguyễn Du viết thơ đi sứ như đi chơi làm thơ một mình một ngựa. Tôi
nhận xét cô nói đúng, lý do đơn giản là các bài thơ đó được làm từ
thời Nguyễn Du đi giang hồ lúc 21, 24 tuổi. Trước khi mất anh Hoàn còn
giới thiệu tôi với anh Nguyễn Tuấn Cường và dặn dò làm việc chung
với Viện Hán Nôm, tôi vẫn giúp anh Cường và các em nghiên cứu sinh
dịch thơ Đường Luật ra thơ, công việc hoàn toàn tự nguyện và miễn
phí.
Trong bài viết Phó Giáo sư Tiến sĩ Munehiro đăng trên mạng Việt
Nam Học có đoạn giới thiệu ông Đoàn Lê Giang có nói đến tôi. Ông viết:
“Cái họa của học thuât tay ngang
Gần đây có loạt
bài của tác giả tên là Phạm Trọng Chánh về việc Nguyễn Du từng đi
sứ Trung Quốc chuyến đi sứ 1813-1814. Ông ấy cho rằng Nguyễn Du đã vân
du đến nhiều nơi khác nhau ngoài con đường đi sứ ra, cứ làm như ngày
xưa muốn đi đâu thì đi dễ dàng, cụ Nguyễn Du không thèm biết tiếng
Hoa, đường đi Trung Quốc xa xôi dặm thẳm, tiền không có mà chẳng có
công ty du lịch nào biết đến để đưa cụ đi chơi miễn phí, thì cụ đi
làm sao? Câu chuyện hoang đường của Phạm Trọng Chánh thế mà được
khối người tin, nhất là nghiên cứu sinh học viên cao học. Có cả tờ
báo giấy báo mạng đăng nữa, làm cái tai hại càng thêm hại. Tìm thông
tin tác giả Phạm Trọng Chánh trên mạng, tôi thấy ông ấy chẳng liên
quan gì đến nghề nghiên cứu văn sử, ông làm nghề khác, có lẽ giờ về
hưu rãnh rỗi, nghiên cứu ngang văn bản Bắc Hành Tạp Lục, ông không tìm
hiểu kỷ hàng chục luận văn luận án, bài nghiên cứu của học giả
Trung Quốc về con đường đi sứ của sứ bộ Việt Nam, ông không tham khảo.
Chữ Nôm chữ Hán ông không rành không
biết, không biết ông có tự học và tự học đến cỡ nào. Tôi đang lo cho
các nhà xuất bản thích sách giật gân sẽ in sách ông thì cái hại
còn nhân lên ghê gớm không xóa được nữa...”
Đây là đoạn văn viết bởi một vị Phó Giáo Sư Tiến Sĩ dạy
văn học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi xin trích để độc giả bình
luận.
Trước nhất ông quá khinh thường
mọi người từ nghiên cứu sinh, học viên cao học đến các chủ bút
các báo giấy, báo mạng, khối người tin chuyện hoang đường, làm như
mọi người là một đàn cừu, tin bậy tin càn, không có trí óc sáng
suốt để nhận định.
Là một trí thức, một
người dạy văn học ông có thể phản
biện bài viết của tôi, sai đúng hay dỡ thế nào, ông không nên “đi đèo”
một bài viết giáo sư người Nhật
rồi quay sang đi tìm tên tôi trên mạng, hạ nhục một người mà ông
không biết là ai? và có lẽ ông cũng chưa từng đọc bài viết của tôi.
Cái tôi là cái đáng ghét, không phải ai cũng lòe đời, xưng danh trên
mạng bằng cấp, mình học đến đâu, mình tự học chữ Hán, chữ Nôm đến
đâu như ông. Tại Paris, từ Trường Viễn Đông Bác Cổ thời thuộc địa đã
sao chép lưu trử các văn bản Hán Nôm Việt Nam, nhiều tài liệu không
tìm thấy tại Việt Nam, có thể tìm tại Paris như Nam Trung Tạp Ngâm của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương vịnh
cảnh Hạ Long, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm lại từ Paris. Tại Paris ngành
Việt Học, Hán học đã có từ lâu đời, từ trường Ngôn Ngữ Đông Phương,
Khoa Đông Phương học tại Viện Đại Học Paris VII, Trường Viễn Đông Bác
Cổ, Trường Cao Đẳng thực hành tại Sorbonne.. đến các trường trung học
học sinh có thể chọn Trung Văn hay Việt Văn làm sinh ngữ để thi Tú
Tài, tốt nghiệp Phổ Thông, việc học chữ Hán không phải là điều khó.
Có nhiều giáo sư người Pháp thông thạo chữ Hán, chữ Nôm viết sách
về thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương, không phải là điều lạ.
Ông cho rằng cụ Nguyễn Du
không biết tiếng Hoa, thế thì cụ học hành thi cử, làm thơ bằng tiếng
gì, cả một nền giáo dục thời quân chủ bằng tiếng gì?
Việc trao đổi nghiên cứu giữa trong nước và hải ngoại nhất
là từ Paris đã có từ lâu đời. Các giáo sư Hoàng Xuân Nhị, giáo sư
Phạm Huy Thông là những Việt Kiều từ Pháp về thành lập các ngành
văn sử. Liên hệ trao đổi giữa Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và Giáo sư Hoàng
Xuân Nhị còn là tình anh em. Có một thời Paris còn có Hội Khoa Học
Xã Hội tại Pháp do Giáo sư Lê Thành Khôi làm chủ tịch với hàng trăm
nhà nghiên cứu tại Pháp trao đổi giao lưu với trong nước. Tôi là người
gần gủi và nối tiếp các công trình nghiên cứu của Giáo sư Hoàng Xuân
Hãn, tôi cũng là môn sinh soạn luận
án tiến sĩ với Giáo sư Lê Thành Khôi tại Đại học Paris Sorbonne. Ông
Đoàn Lê Giang là kẻ hậu bối không biết đến mà thôi. Việc phân biệt
nghiên cứu chuyên nghiệp với nghiên cứu tay ngang thật là buồn cười.
Người viết nghiên cứu là bởi tấm lòng yêu văn học Việt Nam, yêu quê
hương mình chứ không phải vì cơm áo mỗi năm phải rặn ra vài bài viết
để trả nợ áo cơm. Dù có xa quê hương ngàn dậm, không ai trả lương cho
các bài viết, ban ngày sinh sống bằng tiếng người, ban đêm trở về
với lòng mình viết bằng tiếng Việt. Gần 50 năm sống xa quê hương tôi
vẫn làm việc này, chuyện Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Phan Huy Ích.. tôi
nghiên cứu từ mấy chục năm nay lấy gì phân biệt chuyên nghiệp với tay
ngang. Ông cho rằng tôi là cái hại của học thuật tay ngang? Cái hại
ấy là hại thế nào?
Việc ông sùng bái các nhà nghiên cứu Trung Quốc, nếu các
bài viết ấy là khuôn vàng, thước ngọc sao ông không dịch ra cho mọi
người xem và bình luận. Việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du đã có
ít nhất 5 bản dịch chữ quốc ngữ, các em nghiên cứu sinh, học viên cao
học không cần giỏi chữ Hán cũng dò các bản dịch, nghiên cứu các sự
kiện, tình tiết Nguyễn Du viết trong thơ. Nghiên cứu cuộc đời Nguyễn
Du, đường đi sứ, thời đi giang hồ
khác với nghiên cứu so sánh các văn bản, dị bản nguyên tác.
Chữ Nôm không cần trong các nghiên cứu này.
Mời thư giãn với nhạc phẩm NGÀY TẾT QUÊ EM
của Từ Huy, qua tiếng hát Hồ Ngọc Hà:
*
Paris, ngày 31 tháng 12.2018
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục
Địa chỉ:, Viện Đại Học Paris V.
Email: phamtrongchanh@free.fr
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 02.01.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét