BIÊN ĐỘ CỦA
TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
*
Viết về thơ Trẻ ư? Đã bao người viết? Người thì
cho là đầy tiềm lực chưa phát tiết; người thì cho là phóng khoáng tiếp cận được
với bên ngoài; nhưng cũng có người cho thơ Trẻ còn chưa có gì. Vậy viết
về thơ Trẻ thật khó biết bao! Nó khó vì thực tế thơ Trẻ không phải là chưa
có gì, mà là có rất nhiều cái gì, là cái đang chuyển động khó
định dạng; khó vì phải viết về những người song hành, còn trẻ, đều thông minh
và giầu tri thức cả, lơ ngơ một chút là bị “cãi” lại ngay. (Tác giả Đông La)
Tôi đồng ý với một bạn tạm coi thơ Trẻ là thơ của
những người viết sau 1975, dù rằng những nhà thơ nổi bật trong giai đoạn
chống Mỹ thời điểm đó cũng mới chỉ trên dưới khoảng 25-30 một ít. Nhưng
làm nên cái diện mạo tâm hồn họ chính là những ấn tượng về chiến tranh, những
ấn tượng đã ngấm vào máu, luôn hằn sâu trong ký ức họ với độ bám của những cái
móc câu! Chúng chi phối sự sáng tác, dù không viết về chiến tranh, nhưng
họ vẫn viết bằng cách nhìn và tâm hồn của một người lính.
Trước hết, tôi thấy, cái mà thơ ca cần thiết nhất
chính là trí tưởng tượng. Nếu nói: Văn xuôi có nội dung, hội họa có
mầu sắc, âm nhạc có âm thanh và nhịp điệu... chưa cần đến trí tưởng tượng,
chúng đã có những ưu thế đối với ấn tượng người thưởng ngoạn. Còn thơ ca,
nó cũng có tất cả các yếu tố đó, nhưng chỉ thứ yếu, mà cái cốt
yếu của nó chính là sản phẩm của cái trí tưởng tượng
kia. Chính trí tưởng tượng đã giúp nhà thơ vốn giàu có nhất
về ngôn từ, nhưng lại là kẻ keo kiệt dễ thương nhất, bởi có một
quyền năng là, chỉ cần tung ra một dúm chữ thôi, cũng đủ sức gây ra một
hiệu ứng xúc cảm mà những nghệ thuật khác không tạo ra được tương tự. Bằng
trí tưởng tượng với những biên độ khác nhau, nhà thơ biết cách pha
trộn một cách thần diệu giữa tình cảm, ý tưởng và lời nói, tạo
nên một loại sản phẩm có hấp lực đặc biệt - đó chính là thi ca.
Một sự việc không tồn tại biệt lập, hình dạng của
nó chỉ hiện rõ một cách biện chứng trong các mối quan hệ với những cái có
liên quan. Trong lịch sử phát triển của thơ ca, có một sự phân
chia các giai đoạn và sự sáng tạo ra các trường
phái. Khi tạo ra các trường phái, các nhà cách mạng thơ luôn có ý
thức sáng tạo ra một loại thơ mới, có tính chất khác đi với thơ trước đó.
Nói đến thơ Trẻ hôm nay, một bài thảo luận nhỏ dù
không thể nói kỹ được, nhưng không thể không sảo sát trong cái dòng chảy chung
ấy.
Tôi rất tin tưởng rằng, các nhà thơ sau 75 hoàn
toàn tồn tại bình đẳng bằng giá trị tác phẩm của mình, xứng đáng kế thừa thơ ca
của lớp cha anh: Ở nội dung so với nội dung, hình thức so với hình thức,
độ tài hoa của ngôn từ so với độ tài hoa ngôn từ...
Điều này tôi biết rất ít người chấp nhận, vì thực
sự diện mạo thơ sau 75 chưa được vẽ ra thì làm sao so sánh? Dường như mỗi thế
hệ, mỗi tài năng, đều cần có một “bà đỡ” cho mình. Thơ Mới nếu không có Hoài
Thanh-Hoài Chân, không biết có thành “một thời đại” được không? Tương tự, thơ
chống Mỹ có Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Xuân Diệu..., một Hội nhà văn, các viện,
các trường và cả một sự nghiệp giải phóng dân tộc. Còn thơ thế hệ sau 75 có tất
cả mà không có gì cả. Nó chỉ được vẽ bằng phương pháp ấn tượng loãng,
những nét rất mờ, rất vụn, rất rời rạc. Người ta viết phê bình, giới thiệu theo
cảm tình, cảm tính, chứ không phải theo một trách nhiệm gì. Thường
thì người ta chỉ đọc sáng tác của nhau khi quen biết nhau, trừ những vụ nổi
đình nổi đám. Con người thời nay có quá nhiều thứ quan tâm và có quá nhiều thứ
quyến rũ. Một nhà phê bình thấy một tác phẩm hay không giới thiệu cũng chẳng
sao, trái lại, người phê bình dốt tán dương một tác phẩm dở cũng chẳng bị phạt.
Có một thực tế buồn cười là, có tác giả thì người ta khen đến tận mây xanh thì
thôi, y như maketing hàng hóa vậy; ngược lại, cũng có những người sáng y
như vậy (có khi còn hơn) nhưng không ai để mắt tới; và cũng không có ai bắt
người khác khen mình được. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ: Cái hay luôn
có cái hay cao cái hay thấp, trình độ thưởng ngoạn cũng có trình độ
thưởng ngoạn cao trình độ thưởng ngoạn thấp; nên sáng tác mà được người thông
minh uyên thâm khen thì vẫn tốt hơn; và bị một người dốt chê thì cũng
chẳng nên lấy đó làm buồn. Bây giờ người ta cũng ít lệ thuộc vào sự hướng dẫn
thưởng ngoạn của người khác. Người ta muốn hiểu bằng chính họ, bằng tri thức.
Còn tôi, có sáng tác, có phê bình; tôi luôn tập khó với mình, khó với
người, tập thích những điều cao siêu và luôn sợ một điều là: Cái
điều mình thích, mình theo, có khi chỉ là những cái tầm thường? Có phải
mình đang phấn đấu để đạt được cái tầm thường không?
Tất cả những điều trên đều có ảnh hưởng đến sự
nhận diện gương mặt thơ Trẻ hôm nay.
Giá trị của thơ ca, nghệ thuật cũng mênh mông, đa
dạng như giá trị của cuộc sống. Ai đọc được bao nhiêu thì biết được bấy nhiêu.
Nói về thơ Trẻ tôi chỉ muốn nói đến đôi điều khác biệt rõ nét nhất mà
tôi cảm nhận được, chứ không phải định giá thơ Trẻ. Nhưng độc giả nên hiểu cho
là sự khác biệt có tính biện chứng, tính kế thừa: Trong cái khác có cái
giống, trong cái giống có cái khác. Tôi cũng xin được phép bàn luận với tư cách
là người trong cuộc. Vì bàn đến một việc quá khó, tôi chỉ trích những gì
mà mình đã hiểu kỹ.
Điều khác biệt thứ nhất tôi thấy có trong thơ Trẻ
đó là sự thiết kế ý tưởng. Nếu thơ cổ người ta vịnh một vật gì
đấy (kiểu thơ Hồ Xuân Hương chẳng hạn); giai đoạn kháng chiến nhà thơ làm
thơ từ một chuyện gì đấy (như bài Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn
Duy chẳng hạn), thì thơ Trẻ hôm nay cũng có dạng như thế, nhưng
thơ vịnh vẽ nên một vật để ám chỉ, một khung cảnh để nói lên một
tâm trạng, thơ kể chuyện kể lại một câu chuyện để nói lên ý nghĩa, ý
tưởng được diễn tả trong cảm xúc ; còn thơ Trẻ dựng lên các cảnh tượng; ý tưởng
của thơ Trẻ có tính thiết kế , tính dụng ý, tính tượng
trưng, tức khả năng biểu đạt rộng hơn. Trong bài Bầy chó của tôi, Nguyễn
Quang Thiều viết về bầy chó:
Bầy cho gầy, bẩn
thỉu, ốm đau
Ngày lùng sục kiếm
ăn
Liếm cả vào lưỡi
dao sắc ngọt
Lưỡi bị cứa máu
trào ra ở đó
Con đến sau lại
liếm máu bầy mình
(Tập Sự mất ngủ của lửa)
Rõ ràng ở đây ta không thể nói Nguyễn Quang Thiều
“vịnh” bầy chó được, anh cũng không phải “kể” một câu chuyện, mà anh đã dựng
lên những cảnh tượng, vừa thực, vừa hư, đó chính là những biểu tượng của thơ
ca, bầy chó không chỉ là bầy chó, mà thực chất chỉ là cái cớ cho tác giả muốn
biểu đạt những ý tưởng về sự đấu tranh sinh tồn của cả thế giới sự sống. Đọc
bài này của Nguyễn Quang Thiều tôi nhớ đến bài Tấm thảm của tôi. Tuy khác nhau ở chỗ, hiện thực của
Nguyễn Quang Thiều được dựng liền mạch, còn tôi dựng bằng những nét có tính ấn
tượng. Nhưng có cái giống là, nếu Nguyễn Quang Thiều nói về đàn chó là
để người đọc cảm nhận về sự đấu tranh sinh tồn thì tôi dựng
lên tấm thảm để nói về nỗi buồn vui của cuộc đời:
Ôi tấm thảm cuộc
đời sao cứ ken nhau lẫn lộn!
Cứ mỗi sợi vui lại
có lắm sợi buồn
Tôi nâng tấm thảm
ba mươi hai rưỡi năm mình vừa dệt
Cũng nhiều sợi buồn
và chỉ thấp thoáng những sợi vui
(Tập Đêm thiêng)
Tôi tìm kiếm trong Thơ hiện đại Việt Nam (tập thơ tuyển của Nhà xuất bản Hội
Nhà Văn) để nhặt ra những bài khác biệt, đang bí thì bắt gặp bài Mùa sấu rụng của Nguyễn Quyến.
Nguyễn Quyến cũng thiết kế tuổi thơ mình thành một tấm áo, với những
mối quan hệ của nó với cuộc sống.
Điều khác biệt thứ hai tôi thấy, ngôn ngữ trong
thơ Trẻ dù không phải hoàn toàn là ngôn ngữ của thơ siêu thực nhưng cũng
có tính siêu thực, tính kỳ lạ cao hơn thơ thời trước. Tính siêu
thực của thơ Trẻ thể hiện ở chỗ: ý tưởng cảm xúc
không liền mạch, ý tưởng bị phân nhánh, ngẫu nhiên, các thao tác ngôn ngữ phóng
khoáng, kỳ lạ, ý tưởng không hội tụ.
Với Nguyễn Quyến, một tác giả còn rất trẻ, những
ý tưởng lớn có thể còn chưa định hình rõ nét, bởi những điều này thi sĩ còn
phải bị cuộc đời dần cho tơi tả may ra mới có được, nhưng Nguyễn
Quyến có ưu thế của sức trẻ ở độ liên tưởng, hình ảnh trong thơ Quyến rất phong
phú, lạ lẫm, ngộ nghĩnh và non tơ: “Cây
đa dứt hết chòm râu cổ thụ. Và phục sinh râu bằng tiếng hát của bầy trẻ và
hương trầm”. Nguyễn Bình Phương: “Đêm
trôi từ Tây sang Đông rồi từ Đông sang Tây. Những chiếc lá biếc xanh bởi
giấc ngủ tự tin tràn trề của cây”; Dương Kiều Minh: “Ôi những con đường dốc. Những quả đồi mùa đông phủ phục ôm mặt khóc.
Nhất loạt đang qùy trước dòng sông...”; Trần Quang Quý: “Sao heo may run lên trong chiều thẳm”;
Nguyễn Linh Khiếu: “Chẳng biết bao lần ta
ngước lên bầu trời gặp vầng trăng mỏng thượng tuần. Băn khoăn lầm rầm không
biết có phải mỏ vàng của sáo đen thơ ấu”. Nguyễn Ngọc Phú: “Biển vịn chúng mà đi lững thững. Biển tập
nói như người líu giọng”; Nguyễn Lương Ngọc: “Tôi tan vào ngày của em. Mắt lá dăm môi cắn chỉ”. Thơ Nguyễn Quang
Thiều cũng rất đậm đặc chất siêu thực, nhưng anh vẫn định hướng được ý
tưởng: “Sự cấu tạo trăng, sự cấu tạo côn
trùng, sự cấu tạo người. Sự cấu tạo nào nhiều
máu hơn, sự cấu tạo nào nhiều bóng tối hơn. Tội
ác khe khẽ bế từ thiện ngủ mệt mỏi sang giường người khác”. Tôi cũng có
những bài thơ giầu tính siêu thực, nhưng lại là thơ tình : “Khi gặp em/ Anh thấy cơn khát của cánh đồng/
Cánh đồng bị rang trên cái chảo mùa hạ/ Móng tay của nắng để lại những vết xước
hình mắt lưới/ Những vết bỏng phồng rộp như bánh đa nướng/ Trên da thịt đất”.
Tính phong phú của ngôn ngữ lớp nhà thơ sau 75
thực ra vẫn là sự tiếp nối sự lạ hóa ngôn ngữ thơ ca từ cổ chí kim. Nguyễn
Quyến: “Dẫm chân lên bậc thềm
mười bảy”; Nguyễn Quốc Chánh: “Đêm
đêm tôi vắt dòng sông”; Dương Kiều Minh: “Những con thuyền tựa đêm ngủ yên”; Tô Thi Vân: “Chiều sán dần đến mẹ”; Khánh Chi: “Mười ngón tay âm thanh”; Ngay lớp
nhà thơ vừa vào tuổi hai mươi, con gái anh Hoàng Hưng: Ly Hoàng Ly, cũng
có những câu dễ thương: “Đêm lồng vào
giấc ngủ..
.Tầu hỏa xuyên qua
đêm rồi. Ngoái nhìn, đêm ở lại đằng sau”. Nguyễn Thị Châu
Giang cũng vậy: “Dòng sông khóc một đêm
không cạn được nước mắt. Cánh đồng than thở suốt một đêm không mờ được nếp nhăn”.
Tôi cũng nhận thấy trong thơ Trẻ còn có những sự
thể hiện khác, đó là việc đi tìm cái đẹp trong cái xấu, cái có nghĩa trong
cái vô nghĩa, cái nhịp nhàng trong cái ngổn ngang gân guốc, cái ngọt ngào trong
cái cay đắng...
Thơ Trẻ là sản phẩm của thời đại nên phải mang
dấu ấn của chính thời đại này, của dân tộc này. Đó là: Tính tri thức, tính
nhanh mạnh, tính phong phú; tước bỏ những rườm rà của những cái thông thường,
những lề luật gò bó trí tưởng tượng... Nhưng các bạn trẻ cũng nên biết
rằng, cái gì đã trở thành giá trị đều quý giá cả, chứ không phải chỉ
thơ khác đi thì mới là thơ. Cũng như bên hội họa, người ta đã vẽ biết
bao kiểu, nhưng đụng vào mấy bức tranh cổ là cháy tay ngay!
Khuôn khổ một bài thảo luận có hạn, mà thơ Trẻ
lại rất nhiều và phong phú, tôi rất mong được đọc những bài viết của các bạn,
viết về thế hệ mình, khi mà các nhà phê bình mũ cao áo dài còn bận quá
nhiều những chuyện quan trọng khác. Tôi coi đó là một sự tự tin, một tính
cách của thế hệ trẻ hôm nay.
*
ĐÔNG LA (tên thật:
Nguyễn Văn Hùng)
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn
Email: donglasg@gmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: ngocthai1948@gmail.com ngày 23.12.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét