MA ĐƯA
LỐI....
Tôi nhớ vào năm học lớp hai, một buổi tối mùa đông
rất lạnh nên mẹ cho chúng tôi ngủ trên ổ rơm trong bếp cho ấm vì nhà cũng chẳng
có chăn như bây giờ. Mẹ còn đốt thêm một đống lửa bằng gốc tre khô. Cho dù ngủ
trong bếp nhưng anh chị em tôi ai cũng thích. Hơi ấm của rơm và của hơi lửa làm
cho giấc ngủ thật êm đềm. Đêm ấy, mẹ tôi hỏi: “Có đứa nào biết câu ma đưa lối,
quỷ dẫn đường không?”. Nghe mẹ hỏi, chị tôi trả lời: “Là người ta bị ma lôi
xuống sông”. Mẹ tôi cười bảo chị tôi là ngốc rồi giải thích cho chúng tôi câu
nói ấy. Nhưng vì còn nhỏ tôi vẫn chẳng làm sao hiểu được đầy đủ. Rồi mẹ tôi nói:
“Thế mà có người được ma đưa lối lại gặp may đấy”. Và mẹ kể câu chuyện ma đưa
lối ấy cho chúng tôi nghe.
Vào
một năm từ lâu lắm rồi, nạn đói lan rộng như một bệnh dịch. Làng tôi là một
làng quê nhỏ bé và cũng nằm trong nạn đói ấy. Thế nhưng ngày nào cũng có người
ăn mày đi qua làng. Có một cụ già không biết từ đâu đi ăn mày đến đầu làng tôi.
Nhưng vì già yếu và đói quá, bà cụ không thể lê nổi bước chân bèn ngồi tựa vào
bức tường cổng tam quan của làng tôi ở ngay dưới chân đê. Ông Dụ người làng tôi
đi kiếm cá ngoài sông về gặp bà cụ chìa bàn tay xương xẩu ra xin ăn. Ông Dụ vô
cùng lúng túng bởi ông cũng chẳng có gì ngoài mấy con cá nhỏ vừa kiếm ngoài
sông về. Ông Dụ cầm lấy bàn tay bà cụ và nói bà cụ hãy gắng chịu chờ ông về nhà
nướng mấy con cá nhỏ mang ra cho bà cụ. Trở về nhà, ông Dụ vội đốt rơm nướng
mấy con cá và mang ra cho bà cụ ăn mày cùng với hai quả chuối xanh luộc. Vì đói
và yếu quá, bà cụ không thể tự ăn. Ông Dụ đã gỡ mấy con cá nhỏ nhiều xương bón
cho bà cụ. Bà cụ vừa ăn những miếng cá nhỏ vừa nhìn ông Dụ ứa nước mắt. Cho bà
cụ ăn xong, ông Dụ cõng bà cụ vào một cái lều nhỏ trong chợ đầu làng để bà cụ
nằm nghỉ rồi dặn bà cụ đừng đi đâu để tối ông Dụ sẽ nấu bát cháo khoai mang ra
cho bà cụ.
Buổi
tối, thấy bố mình múc một bát cháo khoai để mang cho bà cụ ăn mày, người con
trai của ông Dụ đã giằng lấy bát cháo khoai và mắng nhiếc bố mình. Bát cháo
khoai văng ra khỏi tay ông Dụ và rơi xuống nền nhà. Ông Dụ vừa khóc vừa vét bát
cháo khoai duy nhất là phần của ông và mang ra cho bà cụ. Nhưng khi ông ra đến
lều chợ thì bà cụ đã trút hơi thở cuối cùng. Quá thương cảm bà cụ ăn mày, ông
Dụ đã tìm một manh chiếu rách bó xác bà cụ ăm này và mang ra gò sông mai táng.
Khi biết chuyện đó, người con trai cả lại càng mắng nhiếc ông và nói với ông
không được làm chuyện đó vì bà cụ kia chẳng họ hàng thân tích gì với gia đình
họ. Ông Dụ nói với đứa con rằng có thể đến một lúc nào đó ông cũng trở thành kẻ
ăn mày và chết đường chết chợ không có ai nương tựa. Nhưng trong cảnh cùng
quẫn, người con trai kiên quyết ngăn cản bố mình mai táng bà cụ ăn mày. Đợi đến
khuya, ông Dụ lấy cớ đi thả lờ rô để mang xác bà cụ ăn mày đi chôn. Ông đặt bát
cháo khoai vét từ nền nhà lên mộ người quá cố và thắp một nén hương cho bà cụ
ăn mày. Sau ba năm, theo tục thì phải cải táng cho người chết để linh hồn người
chết được mát mẻ và yên giấc ngàn thu, ông Dự đã một mình nửa đêm làm lễ cải
táng cho bà cụ ăn mày. Vì nghèo không mua được tiểu sành, ông Dụ phải mua một
chiếc vại nhỏ dùng để muối cà để đựng cốt của bà cụ ăn mày. Đêm ấy, một mình
ông Dụ đào mộ bà cụ ăn mày lên và tắm rửa hài cốt cho bà cụ đến gần sáng thì
xong. Những ngày sau đó, những lúc đi kiếm cá sông, ông Dụ lại ghé qua chăm sóc
ngôi mộ của bà cụ ăn mày.
Cho
đến một đêm vào khoảng canh ba, trong giấc ngủ chập chờn, ông Dụ thấy một người
ăn mặc rách rưới đứng ở cuối giường nhìn ông. Ông Dụ hoảng hốt ngồi dậy hỏi ai
đấy thì nghe bóng người kia nói: “Tôi là người ăn mày khi sống được ông cho ăn,
khi chết được ông chôn cất tử tế, không bao giờ tôi quên ơn ông, tôi về đây để
cám ơn ông, ông hãy đi theo tôi”. Lúc đó ông Dụ mới nhận ra đó là bà cụ ăn mày.
Ông vội vã thắp ngọn đèn dầu lên thì không thấy bà cụ ăn mày đâu nữa. Ông nghĩ
có lẽ mộ bà cụ ngoài gò sông mà ông mai táng cho dù rất kín đáo không ai trong
làng biết được nhưng cũng có thể có chuyện gì xảy ra làm động mồ động mả nên
hồn ma bà cụ ăn mày mới hiện về. Nghĩ vậy, đợi trời hửng sáng ông vội ra bờ
sông tìm đến phần mộ của bà cụ ăn mày. Ông Dụ xem xét phần mộ nhưng không thấy
phần mộ bị xói lở hay khác thường gì cả. Lúc đó ông cho rằng hình hài bà cụ ăn
mày đã chết mà ông nhìn thấy chắc do lúc nửa thức nửa ngủ ông tưởng tượng ra mà
thôi.
Nhưng
rồi những đêm sau đó, cứ thi thoảng ông lại thấy bà cụ ăn mày hiện về. Ông Dự
nói với hồn ma bà cụ là nhà ông nghèo nên khi bà cụ mất không có áo quan mai
táng bà cụ và khi cải táng cũng chẳng có tiểu sành mà chỉ có cái vại muối cà
đựng hài cốt bà cụ thôi và mong bà cụ thông cảm. Nghe ông Dụ nói vậy, hồn ma bà
cụ ăn mày nói: “Tôi chết rồi nhưng mãi mãi mang ơn ông đã đối xử với tôi tử tể
đến như thế. Tôi chưa thể rời khỏi đây vì muốn trả ơn ông. Ông hãy đi theo tôi.
Tôi không làm gì hại ông đâu mà ông sợ”. Cho dù hồn ma bà cụ ăn mày nói vậy nhưng
ông Dụ vẫn cho rằng bà cụ ăn mày chết đói chết khát, chết tha phương không có
con cháu hay người thân gì nên không thể siêu thoát. Vào ngày đầu tháng sau đó,
ông kín đáo sắm bát cơm, quả trứng, nải chuối đợi đêm tối ra phần mộ bà cụ ăn
mày thắp hương khấn vái mong cho linh hồn bà cụ ăn mày được siêu thoát. Thế
nhưng, thi thoảng hồn ma bà cụ ăn mày lại hiện về và vẫn nói ông Dụ đi theo bà
cụ. Cuối cùng thì ông Dụ cũng liều đi theo hồn ma bà cụ ăn mày. Ông nghĩ rằng
chắc bà cụ ăn mày còn có điều gì đó muốn nói với ông nên cứ hiện về như thế.
Hồn
ma bà cụ ăn mày đi trước ông Dụ lúc tỏ lúc mờ, lúc bước đi như người thường và
lúc như bay lơ lửng trước mặt ông. Hồn ma bà cụ dẫn ông ra phía đầu làng về
phía bờ sông. Lúc đó, ông càng tin phần mộ bà cụ ăn mày có “động” nên hiện về
nói với ông. Nhưng khi đến đầu làng thì hồn ma bà cụ ăn mày không đi lên đê để
xuống gò sông nơi có phần mộ mình ở đó mà rẽ xuống bờ chiếc giếng đầu làng. Đến
bờ giếng, hồn ma bà cụ ăn mày chỉ xuống chiếc cầu đá và nói: “Ông lặn xuống giếng
ở phía dưới chiếc cầu đá này. Ở sát chân chiếc cầu đá có một cái hũ sành. Ông
lấy mang về và đừng cho ai biết. Tôi mang ơn ông và muốn được trả ơn ông”. Nói
xong, hồn ma bà cụ ăn mày tan như khói và biến mất. Ông Dụ đứng mãi bên bờ
giếng nhưng không làm theo lời hồn ma bà cụ ăn mày dặn. Ông đi về nhà.
Ít
ngày sau vào lúc canh ba hồn ma bà cụ ăn mày lại hiện về đứng phía đuôi giường
của ông và nói: “ Sao ông không lặn xuống giếng lấy cái hũ sành. Tôi không bao
giờ hại ông cả. Tôi mang ơn ông. Ông nghe lời tôi một lần này nữa. Sau đó tôi
không về làm phiền ông nữa đâu”. Sau mấy ngày suy nghĩ, ông Dụ thấy nên làm
theo lời hồn ma bà cụ ăn mày để bà cụ có thể siêu thoát. Thế là, vào một đêm,
ông Dụ ra chiếc giếng đầu làng lặn xuống. Phải lặn đến lần thứ ba ông mới chạm
tay vào chiếc hũ sành mà người ta thường để làm mắm. Khi mang được chiếc hũ
sành lên bờ giếng, ông ngồi rất lâu. Lúc này ông mới tin hồn ma bà cụ ăn mày
hiện về là có thật. Ông vừa hồi hộp vừa lo lắng không biết trong chiếc hũ sành
có gì. Ông ôm chiếc hũ sành về nhà. Phải đến mấy ngày sau, đợi khi vợ chồng
người con trai đi làm, ông mới mang chiếc hũ sành ra mở. Chiếc hũ sành khá nặng
và miệng được đậy bằng một chiếc đĩa gốm nhỏ có gắn vôi trộn mật nên rất chắc.
Cuối cùng ông phải đập cái hũ ra. Khi chiếc hũ sành bị đập vỡ, ông bàng hoàng
khi thấy những thỏi vàng hiện ra. Lúc này, ông mới hoàn toàn tin chuyện hồn ma
là có thật. Mấy ngày sau, ông sắm một mâm lễ và bí mật ra phần mộ cụ bà ăn mày
thắp hương khấn vái và nói: “Tôi xin đa tạ lòng tốt của cụ. Tôi vốn không ham
vàng ham bạc, nếu cụ thương tôi thì chỉ xin cụ cho con trai tôi một mụn con
trai để lấy người nối dõi tổ tông”.
Từ
sau khi tìm thấy hũ vàng theo lời chỉ dẫn của hồn ma bà cụ ăn mày, ông Dụ không
bao giờ gặp lại hồn ma bà cụ nữa. Về phần người con trai ông Dụ lấy vợ đã nhiều
năm nhưng không có con. Sau khi làm lễ tạ ơn hồn ma bà cụ ăn mày, ông Dụ đem hũ
vàng đem ra gò sông chôn. Một năm sau thì vợ người con trai có mang và sinh đôi
hai đứa con trai. Ông Dụ vô cùng hạnh phúc. Ông nghĩ đến một ngày nào đó sẽ
phải mang chuyện hồn ma bà cụ ăn mày kể lại cho người con trai nghe. Với ông đó
là một bài học cho lẽ làm người. Ông Dụ cũng không bán đi một thỏi vàng nào cho
dù lúc đó cuộc sống của cha con ông vô cùng nghèo đói. Nhưng có một điều ông
nhận thấy là ông không hề ốm đau gì kể từ ngày đó và khỏe như trai tráng. Cuộc
sống của gia đình ông cũng mỗi ngày một khá lên. Hai đứa cháu trai của ông khỏe
mạnh, ngoan ngoãn và thông minh. Ông Dụ cứ thế sống trong hạnh phúc với con
cháu mà không bệnh tật gì cho tới 99 tuổi thì mất. Một buổi chiều, ông nằm trên
chiếc chõng tre kê ở hiên nhà hóng gió và ngủ một giấc vĩnh viễn.
Sau
ngày ông Dụ mất, người con trai mới kể cho vợ nghe là ông Dụ đã nói cho anh ta
nghe về chuyện hồn ma bà cụ ăn mày cũng như chuyện hũ vàng mà ông đã chôn ở gò
sông. Nhưng ông không nói cho người con trai biết cụ thể hũ vàng được chôn ở
đâu. Người con trai đã nhiều lần gặng hỏi nhưng ông Dụ chỉ nói: “Hai đứa con
trai của con là hai hũ vàng lớn nhất. Hãy chăm sóc chúng nó chứ đừng để tâm đến
cái hũ sành đó làm gì. Không có vàng cũng không ai chết cả”. Người con dâu nghe
được câu chuyện đó thì đi kể cho hết người này đến người khác. Chỉ ít sau, câu
chuyện về hồn ma bà cụ ăn mày và hũ vàng được cả làng tôi và những làng lân cận
đều biết. Thế là cuộc săn tìm hũ vàng bắt đầu. Người ta càng tin có hũ vàng vì
khi tìm hũ vàng họ đào thấy cái vại sành đựng hãi cốt bà cụ ăn mày đúng như
trong lời kể. Thế nhưng, họ đào tung cả cái gò sông ra vẫn không tìm thấy hũ
vàng đâu cả. Một thời, người ta đồn có người đã tìm thấy hũ vàng. Nói vậy nhưng
chẳng ai biết cụ thể là ai. Cho đến tận ngày nay, thi thoảng vẫn có người dùng
cái thuốn sắt dò tìm hũ vàng ấy.
*.
NGUYỄN QUANG THIỀU
Địa
chỉ: Làng Chùa, xã Sơn
Công,
huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà
Tây.
Email: nquangthieu@gmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ messenger facebook Ngô Thanh Tuấn ngày 12.03.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét