TRẦN MẠNH
HẢO -
ĐẠO HAY
KHÔNG ĐẠO THƠ
*
Vừa
qua đọc trên trang https://tranmygiong.blogspot.com tôi
thấy có bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo phản biện về việc
ông bị tác giả Văn Chinh vu oan cho mình là đã đạo thơ 6
lần. Nói chung tất cả mấy vị nầy đều quá xa lạ đối với Châu Thạch tôi. Thế
nhưng, vì sự tò mò nên tôi tìm hiểu thử sự thật có đạo thơ hay không có
đạo thơ, mà vì thù ghét nên vu oan cho nhau.
Để không mất thì giờ bạn đọc, tôi xin vào đề ngay
những gì tôi đã đọc, tìm hiểu, đồng thời xin góp thêm vài ý chủ quan
của tôi:
1-
TÁC GIẢ VĂN CHINH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ CỦA NGUYỄN DU LẦN THỨ
NHẤT(Tác giả Châu Thạch)
Tác giả
Văn Chinh viết: Ở bài “Con cò tập viết”:
Trời in đáy nước
Cò ngỡ mực xanh
Dùng mỏ chấm mực
Viết mãi không thành
Thực ra, tứ của bài thơ là thuổng từ bức tranh
dân gian Lý ngư vọng nguyệt cơ, chỉ có “Trời in đáy nước” là thuổng từ câu
“Long lanh đáy nước in trời” của cụ Nguyễn Du.”
CHÂU
THẠCH TÌM HIỂU NHƯ SAU:
“Lý ngư vọng nguyệt” hay “cá chép trông trăng” là một trong
những bức tranh đẹp nhất cả nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam. Những con cá
chép trong tranh không tìm về giá trị đích thực, mà lại chỉ nhìn vào những hư
ảo của cuộc đời. Hàm nghĩa của bức tranh muốn nhắn gửi thế nhân: Đừng nhìn
vào những hư ảo trong cuộc đời mà hãy tìm về những giá trị đích thực, tìm về sự
hoàn thiện, viên mãn thật sự của con người.
Ý
KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH:
Hai
câu thơ đầu trong Con Cò Tập Viết “Trời
in đáy nước/ Cò ngỡ mực xanh” của Trần Mạnh Hảo tả bầu trời xanh soi mình
xuống đáy nước là “hình ảnh phổ biến một cách rộng khắp, dùng thường
trong ngôn ngữ”. Hàng vạn nhà thơ từ cổ chí kim, từ em học sinh cấp
1 tâp làm văn trong lớp đến cụ Nguyễn Du đều có thể viết vậy. Do đó bất kỳ
ai cũng có thể dùng hình ảnh trên cho thơ văn của mình mà không thể gọi là ai
bắt chước ai cả.
Hai
câu thơ sau “Dùng mỏ châm mực/
Viết mãi không thành” có ý thơ siêu hơn tranh “Lý Ngư Vọng Nguyệt”. Tranh Lý Ngư
Vọng Nguyệt là cá chép ngắm trăng chỉ diễn đạt cái nhìn hư ảo, còn
thơ Con Cò Tập Viết diễn tả
một hàng động vô ích của những kẻ ngu muội. Tôi nghĩ cà hai ý thơ và hình ảnh
giữa Lý Ngư Vọng Nguyệt và
Con Cò Tập Viết khác
nhau hoàn toàn. Cho dầu nhà thơ Trần Mạnh Hảo có nhìn bức tranh kia mà nẩy sinh
ra ý thơ nầy cũng là một sự sáng tạo đáng khâm phục, không thể quy chụp là đạo
ý của tranh được.
2-
TÁC GIẢ VĂN CHINH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ CỦA NGUYỄN DU LẦN THỨ
HAI:
Tác giả
Văn Chinh viết: “Trần Mạnh Hảo lấy câu
của cụ Nguyễn Du viết trong bài “Phản chiêu hồn”
Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
[Ðời sau đều là Thượng Quan/ Khắp mặt đất đều
là sông Mịch La]
để chế thành một câu trong bài “Nguyễn Trãi
trước giờ tru di”:
“Ta thương xã tắc không mất về tay giặc
Lại mất về tay bọn nịnh thần
Triều đình ai cũng là Lê Sát”
CHÂU
THẠCH TÌM HIỂU NHƯ SAU:
Phản Chiêu Hồn là bài thơ
chữ Hán thể cổ thi của Nguyễn Du trong tập Bắc Hành Tạp Lục, sáng tác trong
thời kỳ đi sứ sang Trung Quốc. Trong bài Phản Chiêu Hồn có mấy câu thơ:
“Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan
Đại địa xư xứ giai Mịch La
Ngư long bất thực, sài hổ thực
Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?”
dịch
là :
“Thượng Quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! Hồn hỡi! Hồn mà làm sao?”
Trong
khổ thơ trên có có các chữ Thượng Quan và Mịch La? Tương truyền Khuất Nguyên
(khoảng 340 - 278 trước công nguyên) làm quan đại phu nước Sở bị Thượng Quan
Ngân Thượng gièm pha khiến cho Sở Hoài Vương ruồng bỏ, phải lưu đày xuống Giang
Nam. Uất ức, tủi nhục, Khuất Nguyên làm bài phú Ly Tao rồi gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Tống Ngọc là
nhà thơ cùng thời với Khuất Nguyên đã làm bài Chiêu hồn để gọi hồn Khuất Nguyên về dương gian. Nguyễn Du
chống lại quan điểm đó, nên đã làm bài Phản
chiêu hồn (Chống lại bài chiêu hồn). Ông cho rằng: Nếu hồn Khuất Nguyên
có về dương gian thì cũng chẳng có gì tốt đẹp.
Bây
giờ đề cập đến bài thơ “Nguyễn Trải
Trước Giờ Tru Di” của Trần Mạnh Hảo. Tựa đề đã nói ý chính của bài thơ
rồi. Bài thơ nầy được nhà phê bình thơ Vũ Bình Lục nhận xét như
sau: “Một bài thơ viết theo
lối trực cảm, nhưng lại khéo mượn lời nhân vật trữ tình. Mà có lẽ cũng chỉ bằng
cách ấy, mới có thể chuyển tải mạch tâm tư tình cảm của người viết một cách hữu
hiệu”. Hai câu thơ mà tác giả Văn Chinh tố họ Trần đạo thơ Nguyễn Du nằm
trong khổ thơ nầy:
“Ta thương xã tắc không mất về tay giặc
Lại mất về tay bọn nịnh thần
Triều đình ai cũng là Lê Sát*
Mắt thiên tử như Nam Hải đố ai lấp đầy giai
nhân?
Luân thường đem gác gác bếp
Chỉ ba ông đầu rau nhìn thấy dân”
*
Lê Sát là một trong những công thần khai quốc của hoàng triều Lê.
Đến đời vua Lê Thái Tông bị ghét bỏ. Năm 1437, Lê Sát bị bãi chức,
sau bắt tự tử tại nhà, vợ con gia sản đều bị tịch thu.
Ý
KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH:
Đọc
mấy câu thơ trong Phản Chiêu Hồn
của Nguyễn Du ta thấy nhà thơ khóc một triều đại mà quan quyền thoái hoa, xấu xa,
xu ninh đã làm hại nhân tài. Nhà thơ đã lấy hình ảnh cá rồng là thứ hiền hòa
thì lại nuốt mà sói hùm là thứ thú dữ thì lại tha, vậy thì “Hồn ơi! hồn ơi! hồn mà làm sao?” có
nghĩa là gọi hồn Khuát Nguyên về cũng vô ích thôi, đâu giúp được gì cho xã tắc.
Đọc
mấy câu thơ trong bài “Nguyễn Trải
Trước Giờ Tru Di” ta thấy Trần Mạnh Hảo viết về tâm trạng và nỗi đau
của Nguyễn Trải, ông lo sợ VUA sẽ mù trước lẽ phải, quan quyền sẽ là bọn đầu
rau, nịnh thần, đạo ly sẽ lu mờ như nơi xó bếp.
Đem
so hai đoạn thơ của Nguyễn Du và Trần Mạnh Hảo, ta thấy cái chủ đề
na ná nhau vì cả hai đều nói đến sự suy thoái của triều đình, đó chỉ là sự
ngẫu nhiên mà hai tác gỉa đã khóc cho hai triều đại khác thời nhau mà thôi .Thế
nhưng từ ngữ và tứ thơ trong hai đoạn thơ không có gì giống nhau cả. Vậy cho
nên nói tác giả nầy lấy thơ của tác giả khác để ‘chế” lại thì không có chút gì
hợp lý cả.
3-
TÁC GIẢ VĂN CHINH TỐ TRẦN MẠNH HẢO ĐẠO THƠ LÝ BẠCH:
Văn
Chinh viết: “Trong bài “Tương tiến tửu”,
Lý Bạch viết:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống,
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa.
Trần Mạnh Hảo thuổng một câu chế thành câu
khác trong bài “Mao Trạch Đông” của mình:
Người cầm con hồng vệ binh như cầm một tách
trà
Hoàng Hà đỏ đổ từ trời như cắt tiết”
CHÂU
THẠCH TÌM HIỂU:
Bài
thơ Tương Tiến Tửu của Lý bạch có những câu thơ mở đầu hay như sau:
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty, mộ thành tuyết.
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan,
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt!
Dịch:
Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống,
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa.
Anh lại không thấy:
Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc,
Sáng còn như tơ đen mượt, chiều tối đã trắng
như tuyết.
Đời người khi nào đắc ý nên tận tình vui
sướng,
Đừng để chén rượu vàng cạn queo nhìn vầng
trăng.
Bài
thơ Mao Trạch Đông của Trần
Mạnh Hảo có một khổ thơ như sau:
Máu Trung Hoa trắng rợn da ngựa
Cho thuỳ dương xoã hết tóc Đường Thi
Người mắc bệnh nghi mình là tượng
Cả Trung Hoa lên cơn nghiền lý tưởng
Người cầm cơn hồng vệ binh như cầm một tách
trà
Hoàng Hà đỏ đổ từ trời như bị cắt tiết
Ý
KIẾN CHỦ QUAN CỦA CHÂU THẠCH:
Đem
đoạn thơ của Tương Tiến Tửu so
sánh với đoạn thơ Mao Trạch Đông
ta thấy khác ý nhau hoàn toàn. Tương Tiến
Tửu nói về sự phôi pha của đời người, ngày tháng như nước sông Hoàng Hà
trôi đi không quay lại, như tóc người gìà bạc đi trong
ngày.
Ngược
lại bài thơ Mao Trạch Đông nói
về nhân vật lịch sử Mao Trạch Đông, đã đưa một thế hệ Trung Hoa lao
vào lý tưởng bệnh hoạn, thần tượng hóa họ Mao, kích động phong trào
hồng vệ binh dễ như cầm tách trà trên tay mà làm cho máu chảy như nước Hoàng Hà
đỏ từ trời cao xuống đổ xuống.
Về
ý câu thơ “Hoàng Hà đỏ đổ từ
trời…” có đạo thơ Lý Bạch hay không thì nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã giãi
thích rằng: “Dân ca Hồ Nam thời Chiến
quốc từng có câu: “Dương tử giang từ trời rót xuống” trước câu thơ “Sông Hoàng
hà từ trời chảy xuống” 800 trăm năm”.
Vậy
theo Châu Thạch tôi, vì viết bài thơ về Mao
Trạch Đông là nhân vật lịch sử của Trung Quốc nên nhà thơ
Trần Mạnh Hảo đã dùng một điển tích, một huyền thoại trong dân gian Trung Quốc,
đó là điều xưa nay ai cũng có thể dùng để nhân mạnh ý thơ mình, nhất là trong
các cảo thơm của các thi hào mà ngay nay ta học như Kim Vân Kiều, Cung Oán Ngâm
Khúc, Chinh Phụ Ngâm… Vậy việc nói nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã “thuổng một câu thơ của Lý Bạch
chế thành câu thơ mình” thì chỉ là một sự vu oan thôi.
Cho
dầu nhà thơ Trần Mạnh Hảo cón mượn cái ý thơ “Hoàng Hà chảy từ trời xuống” của Lý Bạch để đem vào thơ mình thì
cũng chỉ dùng một điển cố, điển tích trong lịch sử Trung
Hoa để làm cho thơ mình trở nên sinh động và hàm xúc. Điều đó được
cho phép. Ta thấy tuyện Kiều
của Nguyễn Du là cả một sự tái tạo điển cố, điển tích mà trở nên toàn bích hơn
nhiều so với nguyên tác.
4-
KẾT LUẬN:
Tác
giả Văn Chinh còn tố Trần Mạnh Hào đạo thơ của Nguyễn
Bính, Trần Đăng Khoa và Truyện Ngụ Ngôn. Thế nhưng đọc những lời tố
cáo nầy, Châu Thạch tôi thấy không thuyết phục và không có gì hay,
nếu mình viết thêm vào đây chỉ thêm dài, làm đau mắt quý bạn đọc. Vì vậy
tôi xin mạn phép ngưng lại sau sự tìm hiểu và ý kiến về 3 lời tố cáo trên.
Công
bình mà nhận xét, thi thấy rằng những lời tố cáo của tác giả Văn Chinh về thơ
của Trần Mạnh Hảo cũng giống như là sự bới lông cố tìm vết. Khi đã bới lông cố
tìm vết thì dầu thấy cái bớt hồng hay cái nốt ruồi hồng vẫn cho là xấu. Điều đó
cũng giống như một người muốn vu oan vợ mình ngoại tình thì nhìn bất
cứ đưa trẻ nào cũng thấy có nét giống vợ mình để đem làm bằng
chứng là vợ mình lấy trai.
Tôi
chỉ là một con dế già thích gáy, thấy điều gì trái ý mình thì gáy, gáy hay hoặc gáy
dở thì cũng đã gáy rồi. Xin nhận lãnh những lời khen hay những lời chê trách,
xem đó đều là niềm vui của mình được giao lưu về văn thơ.
Trân
Trọng./.
*.
CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày
11.08.2021.
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét