NGUYỄN
VĂN GIA
NGƯỜI
TÌM LẠI HỒN QUÊ
Thời
gian gần đây, những lúc tâm trạng không được thăng bằng, tôi thường tìm
đến Nguyễn Văn Gia. Đọc thơ ông, tuy không có cái chất cổ phong, với
chiều sâu suy tưởng của Phạm Ngọc Lư, nhưng cho tôi cái tĩnh tại của
nội tâm, cùng sự lắng đọng mang mang hương lúa, hồn quê. Khi đi sâu vào
đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, cái cái truyền thống văn chương
xứ Quảng đã đưa Nguyễn Văn Gia đến với thi ca ngay từ cái thuở học
trò. Song cái hồn thơ ấy, dường như bị chẻ, chia ở đâu đó. Và phải
đợi đến biến cố lớn nhất của cuộc đời ở cái tuổi ngũ tuần, mới
làm hồn thơ Nguyễn Văn Gia chợt tỉnh. Tuy nhiên, là người trầm tư, kỹ
tính, do vậy, Nguyễn Văn Gia viết không nhiều. Cho đến nay, ông mới cho
in ấn và phát hành ba thi tập: Đôi Bờ Thời Gian (2010) Lặng
Lẽ Phù Sa (2015) và Nắng Gió Quê Nhà (2019). Có
thể nói, đây là những tập thơ hay về nội dung tư tưởng cũng như nghệ
thuật sáng tạo, mà tôi đã được đọc trong thời gian gần đây. Nếu Đôi
Bờ Thời Gian và Lặng Lẽ Phù Sa hồn quê, hương lúa
được vọng lên từ tình yêu, lẽ sống của con người, thì đến với thi
phẩm Nắng Gió Quê Nhà ngòi bút Nguyễn Văn Gia đã chọc
thẳng vào những nỗi đau đang hằn lên hình đất nước. Và có thể nói,
đi tìm lại ký ức, tìm lại đất nước, hồn quê là tư tưởng xuyên suốt
sự nghiệp sáng tạo của ông.
Nguyễn
Văn Gia sinh năm 1951 tại Đà Nẵng. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm
Huế, ông theo nghề dạy học. Rồi bất chợt, đứt gánh (giữa chừng), ông
ngoặt trở lại con đường thơ ca, thi phú: “Bỏ rơi viên phấn nửa chừng/
Ta về nằm ngủ giữa rừng chiêm bao” (Về Vườn). Hiện nhà thơ Nguyễn Văn
Gia đang sống và viết tại thành phố Đà Nẵng.
Hương lúa, hồn quê giữa đôi bờ lục bát
Những
năm gần đây người người làm thơ, nhà nhà làm thơ, cho đến tổ nhóm,
hội người làm thơ, đặc biệt là thơ lục bát, song còn đọng lại trong
lòng người đọc không nhiều. Và trong cái à uôm đó, thì thật may mắn,
khi đi sâu vào đọc văn chương miền Trung xứ Quảng, bất chợt để lại cho
tôi, không chỉ một Nguyễn Văn Gia lục bát, mà còn một Nguyễn Văn Gia ngũ
ngôn thơ.
Thật
vậy! Tiếng chim rơi lệ, hay tiếng hú âm hồn xưa vọng lại trong tâm hồn
thi nhân, khi quê nhà đã trở thành cố hương. Với thủ pháp ngắt nhịp,
xuống dòng trong những câu thơ lục bát của bài: Nhớ Bóng Tre
Xưa, dường như đã cắt nát tâm trạng của thi sĩ, cũng như người
đọc. Có thể nói, đây là bài thơ lục bát rất hay của Nguyễn Văn Gia.
Và với tôi, chỉ hai câu thơ tuyệt bút bút: “Chim ơi mầy hót lẻ loi/
Hay nghìn xưa đã mồ côi hồn người” Nguyễn Văn Gia có thể ngồi cùng
chiếu, cùng mâm nhấc lên nhấc xuống với các bậc đàn anh Luân Hoán và
Phạm Ngọc Lư… rồi. Ta hãy đọc lại bài thơ này, để thấy rõ hồn quê
và nỗi nhớ trong nghệ thuật làm mới thơ lục bát của thi sĩ Nguyễn
Văn Gia:
“Rồi thôi
Đành cũng xa người
Chắc buồn như thuở ru hời võng đưa
Chim ơi mầy hót lẻ loi
Hay nghìn xưa
Đã mồ côi hồn người
Bóng tre xanh
Đã mù khơi
Về đâu …
Chim sáo
Chìa vôi
Chào mào?
Nhấp nhô nhà ống vươn cao
Trăng xưa
Vườn cũ
Rớt vào lãng quên”
Gần
đây, có một số nhà văn, nhà thơ (chủ trương) cách tân thơ. Chẳng biết
các bác cải tiến, cải lùi thế nào, cho ra lò một thứ gọi là thơ
đọc không thể hiểu, với từ ngữ dễ dãi và dung tục. Và ngược lại,
có một số bác đã bật ra được một tứ thơ, câu thơ rất hay, hình ảnh
đẹp, nhưng do cố uốn ép vào khuôn khổ thơ Đường, cổ phong buộc phải
thay từ, chọn ý cho đúng niêm luật, thành ra những câu thơ trở nên méo
mó, tầm thường.
Thật
vậy, đọc câu thơ hình tượng, giầu cảm xúc dù có phạm niêm luật, quả
thực vẫn khoái hơn những câu thơ chu chỉnh (niêm luật), nhưng gò bó,
không hồn vía. Ta có thể thấy, gần đây một số nhà văn, nhà thơ tên
tuổi đã dùng thủ thuật phá cách, để cho câu thơ phóng khoáng giữ
nguyên cảm xúc ban đầu. Điển hình là thi tập Vịn Vào Lục Bát của
nhà văn Trần Hoài Thư. Thật ra, thể loại thơ chỉ là hình thức. Thơ
hay dở, cũ mới chẳng liên quan gì đến thể lục bát, thất ngôn, ngũ
ngôn, hay thơ tự do cả… Mà nó phụ thuộc hoàn toàn vào tài năng trí
tưởng tượng, liên tưởng với những cảm xúc chân thực của người nghệ
sĩ. Do vậy, từ những đặc điểm trên, khi đọc lục bát Nguyễn Văn Gia,
luôn cho tôi cảm xúc mới mẻ. Bởi, ngoài trí tưởng tượng, tài năng sử
dụng từ ngữ, ông còn làm mới hình thức bằng những thủ pháp ngắt
nhịp, xuống dòng. Tuy nhiên, thủ pháp nghệ thuật này không mới, song
không có nhiều nhà thơ sử dụng được như Nguyễn Văn Gia.
Thật
vậy! Cùng một tâm trạng, nếu Nhớ Bóng Tre Xưa là
tiếng nấc, thì bài Mơ như là lời ước nguyện, một
giấc mơ xa vời vợi. Lời tình tự về xóm làng, về cố hương ấy, được
hoán đổi ra từ những cảm xúc của thi nhân vậy. Chỉ bốn câu lục bát,
với từ ngữ mộc mạc được đặt đúng trong hoàn cảnh, tâm trạng, đọc
lên ai cũng phải bùi ngùi xúc động:
“Chẳng còn đâu
Bóng tre xanh
Quê nhà giờ đã trở thành cố hương
Ngậm ngùi ta
Giữa phố phường
Mơ …
Mùa trăng cũ
Ruộng
Vườn
tiếng chim.”
Không
chỉ dừng ở lục bát, mảng đề tài này, Nguyễn Văn Gia sử dụng khá
nhiều thơ thất ngôn, bát ngôn. Vẫn thủ pháp nghệ thuật ngắt nhịp,
xuống dòng, Hương Hỏa là một trong những bài thơ thất ngôn hay nhất
của ông. Nó không chỉ cho ta thấy, cái diễn biến tâm lý, và thái độ
ứng xử của con người trước cuộc sống hiện thực: “Vườn mênh mông
giữa cơn sốt đất” mà còn bật lên cái triết lý sống của tự nhiên,
và con người:
“Ta về
Ngó sững mái từ đường
Vườn mênh mông
Giữa cơn sốt đất
Chẳng thèm hỏi lòng người
Được
Mất
Cây khế già lặng lẽ trổ bông.”
Dường
như, đi sâu vào đọc Nguyễn Văn Gia càng cho tôi nhiều điều thú vị.
Cũng từ đó, tôi chợt nhận ra, có một Nguyễn Văn Gia ngơ ngác hoài
cảm, sống ở quê, mà ngỡ như xa cách ngàn trùng: “Nghìn trùng xa
thương nhớ một cố hương.” Bởi, ông thì vẫn vậy, nhưng quê giờ đã
mất: “Biển trong xanh khuất bóng tự bao giờ/ Rừng đâu nữa bơ vơ chim mất tổ”.
Do vậy, ông nhớ cố hương, đi tìm quê cũ trên chính quê hương, trên chính
mảnh đất mình đang sống. Và hồn quê cùng những hoài niệm ấy, như
một món nợ đối với người thi sĩ. Nó buộc Nguyễn Văn Gia mãi mãi
phải đi tìm.
Tình yêu, và lẽ sống
Có
một điều đặc biệt, ngay từ thuở ban đầu biết yêu cho đến cái tuổi
nửa trăm năm, thơ tình Nguyễn Văn Gia luôn gắn chặt với đất nước và
gia đình. Chứ dường như không (hoặc chưa) có một một bài thơ nào, ông
viết thuần túy về tình yêu lứa đôi? Nhớ một lần, tôi được xem cái
Videoclips thấy vợ ông (cô giáo Phương Lan) đẹp và hát rất hay. Tôi
liền hỏi, này Nguyễn Văn Gia, nhìn bác (cũ cũ người) không đẹp giai
cho lắm, làm thế quái nào lấy được vợ xinh đến thế? Ông bảo, tớ
giăng bà ấy bằng thơ đấy. Tôi đùa chọc lại, thơ tình của bác toàn
gắn lịch sử, xã hội khô như ngói, lừa thế đếch nào được các cô mới
yêu đầy mơ mộng ấy. Ông cười phơ phớ trong máy, vậy mà, bà ấy lại
khoái và yêu tớ ở cái khoản khô như ngói ấy đấy.
Không
rõ, Nguyễn Văn Gia đùa hay thật, nhưng quả thực, ngay từ năm 1972, khi
còn trên giảng đường đại học, ông viết Lặng Lẽ Phù Sa, bài thơ tình
(thế sự) rất hay. Không rõ, Nguyễn Văn Gia đã lấy cảm hứng chuyện
tình với một nữ giáo sinh môn lịch sử nào, để khơi dậy niềm tự
hào, ý chí quật cường chống giặc Trung Quốc xâm lược của cha ông. Và
ước vọng quét sạch những mê lầm của cuộc chiến huynh đệ tương tàn
đang diễn ra trên thân gầy đất mẹ. Với nghệ thuật vắt dòng, cùng lời
thơ tự sự nhẹ nhàng, song Lặng Lẽ Phù Sa vẫn toát lên được chân lý,
tính thẳng thắn và chí khí của nhà thơ :
“… vẽ lại được bốn nghìn năm dựng nước
chỉ trong phút giây
cả sử vàng xóa bụi thời gian sống dậy
có Đinh Lê Trần Lý…
ôi tay phấn dịu dàng
Em vẽ lại một mùa xuân…
quét sạch mê lầm dựng lại quê hương…
không ai có thể cấm chúng ta biến
những ước mơ thành hiện thực
khi trái đất
mặt trời
và mặt trăng vẫn còn đó
thì không ai hủy diệt được niềm tin
cũng như không ai có quyền
rút bàn tay em ra khỏi tay anh.”
Dường
như, phải chờ đến nửa trăm năm, bất chợt anh mới nhận ra, em vẫn là
cái thuở yêu ban đầu. Đôi Bờ Thời Gian là bài thơ như vậy của Nguyễn
Văn Gia. Có thể nói, đây là một trong số rất ít bài thơ lục bát hay
nhất của ông. Tính vĩnh cửu của tình yêu, tình người, đã được hình
tượng hóa một cách sinh động qua những hình ảnh so sánh hay đến bất
ngờ: “Vọng phu xưa – Em bây giờ/ Chữ Tâm đứng giữa đôi bờ thời gian”.
Đoạn trích dưới đây, không chỉ cho ta sự bùi ngùi xúc động, mà còn
thấy được tài năng sử dụng biện pháp tu từ của nhà thơ Nguyễn Văn
Gia:
“Vẫn là em
Rất dịu hiền
Thảo thơm với mẹ
Nghĩa tình với thơ
Vọng phu xưa – Em bây giờ
Chữ Tâm
Đứng giữa đôi bờ thời gian
Phải chờ đến nửa trăm năm
Để anh mới nhận ra anh lần đầu…”
Đi
sâu vào đọc và nghiên cứu Nguyễn Văn Gia cho tôi một điều thú vị. Khi
viết bài thơ Trở Về, ông đã lấy nguyên cảm hứng từ bài Lạc của
thi sĩ Đông Trình. Tuy chưa được đọc, nhưng tôi nghĩ, Lạc của
Đông Trình như một lời xám hối của một thời lạc bước chăng? Bởi,
đọc Trở Về của Nguyễn Văn Gia, ta cảm được tính nhân đạo, tấm lòng
vị tha cao cả của con người. Với tôi, Trở Về là bài thơ lục bát
toàn bích, điển hình nhất trong sự nghiệp sáng tạo của Nguyễn Văn
Gia. Nếu cái tính vĩnh cửu của tình yêu, tình người ở Đôi Bờ Thời
Gian chỉ dừng lại hình ảnh so sánh, thì Trở Về hình ảnh ẩn dụ,
với những ám chỉ thâm sâu, đa nghĩa trong từng câu thơ, buộc người đọc
phải suy tưởng. Thật vậy, hình ảnh, một điển tích: “Về ngồi dưới
mái hiên xưa/ Lặng nghe thánh thót giọt mưa cam lồ” là sự cảm thông hay
một con đường sám hối mà nhà thơ đã mở ra:
“Chắc gì đâu giữa vô thường
Ai không một thuở lạc đường, nổi trôi?
Xưa ai cánh nhạn lạc trời
Vì đâu nên nỗi thuyền trôi lạc dòng?
Chuông chùa vẫn giọt hư không
Cỏ cây xưa vẫn thủy chung một màu
Ruộng vườn chẳng lạc gì nhau
Tang thương cũng bởi bể dâu lòng mình
Thơ ai lạc chữ, lạc tình
Ngàn năm Phật vẫn lặng thinh trong chùa
Về ngồi dưới mái hiên xưa
Lặng nghe thánh thót giọt mưa cam lồ.”
Thời
gian gần đây, Nguyễn Văn Gia đi sâu vào ngũ ngôn thơ. Những câu thơ mang
đậm tính triết lý như thể răn đời, và răn mình: “Sư nhất bộ nhất
bái/ Chậm rãi vẫn đến nơi/ Mình hối hả một đời/ Đường đi hoài không tới”
(Nhanh & Chậm). Và đọc thơ ngũ ngôn Nguyễn Văn Gia, nhiều khi tôi cứ
ngỡ, mình đang đọc những câu châm ngôn vậy. Vâng, cho nên, ta có thể
thấy, Khuyết Tật là một bài thơ, một câu hỏi tu từ, hay một châm ngôn
sống: “Những khuyết tật cơ thể/ Vẫn có thể bù trừ/ Đã khuyết tật tâm hồn/
Biết lấy gì thay thế?”. Và không ai có thể cưỡng được sự tạo hóa,
qui luật của tự nhiên: “Ta muốn ta đổi mới/ Bằng cách đi giật lùi/ Khi
quay đầu nhìn lại/ Mùa xuân đã phai rồi” (Tân Trang Đời Mình).
Không
chỉ trong thơ văn, mà cuộc sống, tư tưởng của Nguyễn Văn Gia cũng vậy,
ngày càng đến gần với triết lý nhà Phật: “Chẳng cần tìm đâu xa/
Đừng mất công tìm Phật/ Thế Tôn tại lòng ta”. Tuy nhiên, từ cuộc sống
xã hội đảo lộn tùng phèo, ông chợt nhận ra cái vòng luẩn quẩn trong
lẽ sống được cho là vô thường ấy. Và cái ai dè, bất ngờ của Lên
Chùa như một nhát búa, ngọn roi quất thẳng vào hồn không chỉ
riêng người thi sĩ:
“Lên chùa tìm chút thảnh thơi
Ai dè
Chùa cũng như … đời ngoài kia
Cũng thứ hạng
Cũng phân chia
Chỗ này vô nhiễm
Chỗ kia thị trường
Đành rằng tất cả vô thường
Thôi
Ta về lại phố phường
Ẩn tu.”
Là
người trầm lặng, và kiến thức sâu rộng, do vậy thơ Nguyễn Văn Gia tuy
từ ngữ mộc mạc, dân dã, song đa nghĩa, giầu hình tượng, có chiều sâu
tư tưởng. Tình yêu và lẽ sống là một trong những yếu tố xuyên suốt
sự nghiệp sáng tạo của ông.
Có những nỗi đau quất lên hình đất
nước
Giữa
ban ngày ban ban mặt, nơi chốn đông người, vậy mà gã cứ co rúm người
lại. Bởi, xung quanh gã chỉ thấy hồn ma bóng quế. Nỗi cô đơn luôn làm
gã sợ hãi, buộc phải đốt đèn đi tìm đồng loại của mình. Thoạt
tưởng, hồn ma của gã triết học, kịch nghệ Diogenes từ Thổ Nhĩ Kỳ
về nhập vào gã. Nhưng không phải vậy, gã tỉnh lắm, thơ phú cứ bắn
ra đều đều. Chứ hồn ma làm chó gì biết làm thơ… Đang mơ màng, tôi
giật mình tỉnh giấc, bởi tiếng hát của vợ gã với nhạc phẩm Đôi Bờ
Thời Gian, được cài tự động ở trong điện thoại. Thì ra, mình vừa bị
thơ của gã ám. Cái bài thơ ám quẻ Diogenes này, không biết Nguyễn Văn
Gia đã mượn hình ảnh Diogenes, và viết trong hoàn cảnh, tâm trạng
nào, nhưng đọc lên cứ thấy rờn rợn. Bởi, linh hồn, và nhân phẩm con
người đã mất, buộc Nguyễn Văn Gia phải mải miết đi tìm. Một nỗi đau
chìm khuất sau hình ảnh ẩn dụ, được cài đặt trong từng câu thơ:
“Cầm đèn giữa ban ngày
Mong tìm được con người
Con người đâu chẳng thấy
Lạnh lùng bóng ma trơi”
(Diogenes)
Phải
nói, thời gian gần đây, tôi khoái đọc thơ ngũ ngôn thế sự của Thái
Bá Tân và Nguyễn Văn Gia. Bởi, họ là hai trong những nhà văn can đảm,
tài năng viết về đề tài này. Do vậy, có lần tôi đã viết: Đọc thơ
ngũ ngôn thế sự Nguyễn Văn Gia, luôn làm tôi liên tưởng đến thơ thế sự
của Thái Bá Tân. Dù thơ Nguyễn Văn Gia trau chuốt, đầy hình tượng,
khác hẳn với khẩu ngữ xù xì, thẳng thắn của Thái Bá Tân. Nhưng mức
độ lột trần, đả kích sự thối nát của xã hội đương thời một cách
sâu sắc và mạnh mẽ, không hề khác nhau. Và nếu như nỗi đau, tiếng
cười trong thơ Thái Bá Tân được bật ra, thì dường như nỗi đau, tiếng
cười ấy trong thơ Nguyễn Văn Gia lại lặn vào trong lòng người đọc.
Thật
vậy, hình ảnh ẩn dụ trong bài thơ ngũ ngôn Đổi Thay, không chỉ cho
thấy cái qui luật tuần hoàn của tự nhiên sự, mà còn cho ta thấy rõ,
sự thâm thúy mang đến tiếng cười chua cay trước sự lố bịch, rởm đời
của kẻ thống trị, cũng như sự can đảm, thẳng thắn của thi sĩ Nguyễn
Văn Gia: “Chẳng có gì bất biến/ Thành đồng cũng tan hoang/ Nực cười cái vách
đất/ Cũng muốn mình muôn năm.” Có thể nói, thơ văn Nguyễn Văn Gia luôn
gắn chặt với đất nước và thân phận con người. Tính thời sự xã hội
nóng hổi trên những trang viết của ông. Thơ ông như những mũi dao bóc
trần hiện thực xã hội, và những thói lưu manh đê hèn của tầng lớp
thống trị. Cùng đó, làm người đọc phải xót xa, uất hận cho cái giá
trị nhân phẩm của nhân dân, tầng lớp bị trị bị đè nén xuống đến
tận cùng. Tuy nhẹ nhàng, nhưng lời thơ cảnh báo ấy, như vết cắt, hằn
sâu vào lòng người. Những đoạn trích trong bài Đất Nước dưới đây, sẽ
làm sáng tỏ điều đó:
“Và hàng trăm mẹ già chít khăn
Lần đầu tiên người để tang cho đất
Những mẹ chị ở tận Cái Răng
Cũng đành lột truồng giữ đất…
—
Không biết chiếc giày thời trang của Cô Ba
Sài Gòn
Đã rơi vào đâu giữa đất trời Thủ Thiêm
đầm đìa nước mắt
Chúa, Phật và Thánh Thần cũng lặng thinh
Trước những nỗi đau có thật
Tại sao nhân dân không có quyền được biết
Cái gì đã dồn mẹ chị cha anh ta vào bước
đường cùng
Tổ quốc sẽ ra sao
Nếu cứ mất dần
Ruộng vườn
Núi sông
Biển đảo
Đất nước sẽ mồ côi
Nếu không có nhân dân”
Bước
qua tuổi lục tuần, dường như Nguyễn Văn Gia trút bỏ được những ràng
buộc trên vai. Và sự can đảm cho ông nghị lực sống. Do vậy, trước nỗi
đau và sự uất hận, Nguyễn Văn Gia Thử Làm Tráng Sĩ, song ông đã thất
bại: “Mài lưỡi bút sắc nhọn như một thanh gươm/ Chém một nhát quyết liệt/
Vào bức tường câm/ Lạnh tanh/ Oan nghiệt/ Lưỡi gươm cong queo/ Chuôi gươm bật
ngược/ Sự thật lẩn trốn nơi đâu/ Sao chỉ thấy tay gươm rỉ máu!” Và đất
nước ông cứ luẩn quẩn trong cái vòng tròn lừa đảo, chém giết lẫn
nhau:
“…Giải tỏa đền bù bốn chục ngàn, bán ra bốn
chục triệu…
Những vụ cướp của giết người quá đỗi
thương tâm
Bước chân ra đường cứ như ra mặt trận
Liệu chiều nay có còn sống sót trở về…?”
(Phiêu
lãng…)
Có
thể nói, Nguyễn Văn Gia viết, in ấn chưa thật nhiều, nhưng là một
trong những cây bút tài năng, có nội lực ở Đà Nẵng, xứ Quảng miền
Trung hiện nay. Xuất thân từ nhà giáo, do vậy thơ ông nhẹ nhàng, không
đao to búa lớn, dù đó là những bài thơ thế sự xã hội bức xúc. Thơ
Lục bát và Ngũ ngôn của ông để lại nhiều ấn tượng trong tôi. Bởi,
nó gần với Đạo giáo, gắn liền với những triết lý nhân sinh. Và nếu
nói, thơ Nguyễn Văn Gia thơ thức tỉnh, thì quả thật cũng không ngoa.
Và tôi xin mượn bài Tự Họa của Nguyễn Văn Gia để làm sáng tỏ thêm
(tính can trường) chân dung một nhà thơ, để kết thúc bài viết này :
“Và cứ thế đôi lần tôi chết ngộp
Sông thì trôi tôi cố lội ngược dòng
Không là thông sao nghìn năm cô độc
Đã có khi phải phủ định chính mình”
Mời nghe đọc truyện ngắn CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ
của Đặng Xuân Xuyến, do Khề Khà Truyện diễn đọc:
*.
Leipzig
ngày 22-8-2019
ĐỖ
TRƯỜNG
Địa chỉ: Thành phố Leipzig, tỉnh Leipzig,
Bang
Sachsen, Cộng hòa Liên Bang Đức.
Email: dotruong07@yahoo.de
.............................................................................................................
- Cập nhật từ messenger facebook Trần Hải Sơn ngày
21.10.2021.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
..
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét