(Nguồn ảnh: internet) |
VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ
“THUYỀN THEO BẾN LẠ”
*
Lời nói
đầu:
(Tác giả Nguyên Lạc) |
Bài viết
nầy viết ra với tấm lòng yêu thương thơ văn cùng với niềm trân trọng sự chính
xác và trong sáng của tiếng Việt thân yêu. Chủ ý của tác giả chỉ góp ý, đưa
ra vài suy nghĩ hoàn toàn chủ quan về tính đẹp, tính chính xác của thơ văn
chứ không có ý gợi ra sự tranh luận, sự đúng sai. Mong các bạn hiểu cho –
Nguyên Lạc
TRÍCH ĐOẠN BÀI THƠ VÀ LỜI BÌNH THƠ
Bài bình
thơ “Thuyền Theo Bến Lạ” của nhà thơ kiêm nhà bình luận Đặng Xuân Xuyến (Tên
bài thơ là “Thuyền Neo Bến Lạ”) được đăng trên trang nhà anh và rất nhiều
trang Web trong cũng như ngoài nước. Nó là Top Hít và được các fans anh “hít
hà” khen thưởng. Thấy vậy tôi tò mò tìm đọc và xin ghi ra đây vài suy nghĩ chủ
quan của riêng tôi.
Trích
đoạn thơ
Xin
trích ra đây khổ thơ thứ hai của bài thơ được nhà bình luận Đặng Xuân
Xuyến bình [1]
Thật
rồi… vẫn ngỡ là mơ
Lấy
chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…
Gừng
cay, muối mặn xát lòng
Nỗi buồn
cứ nhói vào trong nỗi mừng…
(Phúc
Toản)
Lời bình
thơ
Đây là
lời bình của nhà binh luận Đặng Xuân Xuyến:
[… Tôi
thích khổ thơ thứ hai, khổ thơ gây nhiều ấn tượng với tôi.
Cách chuyển nhịp từ 2/4 (tiết tấu chậm) ở câu lục: “Thật rồi… vẫn ngỡ là mơ”, sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát: “Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…”, đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật “tôi” cùng (lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ. Từ tâm trạng còn nhiều ngờ vực, bán tín bán nghi: “Lấy chồng”, chuyển sang tâm trạng sững sờ, buộc phải chua chát mà tin: “Em lấy chồng”, và đẩy nỗi niềm đắng cay dâng tiếp lên cao bằng câu thảng thốt: “Ơ”, biểu hiện của tâm trạng bất lực, rồi buông thõng bằng câu xác tín: “Lấy chồng…” của tâm trạng thất vọng, chán chường.
Cách chuyển nhịp từ 2/4 (tiết tấu chậm) ở câu lục: “Thật rồi… vẫn ngỡ là mơ”, sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát: “Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…”, đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật “tôi” cùng (lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ. Từ tâm trạng còn nhiều ngờ vực, bán tín bán nghi: “Lấy chồng”, chuyển sang tâm trạng sững sờ, buộc phải chua chát mà tin: “Em lấy chồng”, và đẩy nỗi niềm đắng cay dâng tiếp lên cao bằng câu thảng thốt: “Ơ”, biểu hiện của tâm trạng bất lực, rồi buông thõng bằng câu xác tín: “Lấy chồng…” của tâm trạng thất vọng, chán chường.
Tôi
nghĩ, đấy là câu thơ độc đáo, đã giúp bài thơ sáng lên.
Không
than vãn, kế nể, không nặng lời trách móc khi người yêu theo “thuyền neo bến
lạ”, nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất cả sự trách giận, nỗi xót xa của chàng
trai vào 2 câu thơ:
“Gừng
cay, muối mặn xát lòng
Nỗi buồn
cứ nhói vào trong nỗi mừng …”
Chính sự
kiệm lời ấy càng làm nỗi đau nhân đôi.
Tôi
nghĩ, ở câu thơ: “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng…”, dù nhà thơ Phúc Toản
chỉ nói về nỗi đau đang cứa vào trái tim của riêng “anh” thì người đọc vẫn cứ
liên tưởng, vẫn cứ hình dung đấy là nỗi đau đã lan tỏa, đã xâm chiếm cả không
gian ngày “em” làm lễ Vu Quy. Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai
mà còn làm rức buốt trái tim cô gái – người đang cử hành hôn lễ với một người
đàn ông xa lạ.
Vâng.
Câu thơ: “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng…” đã đích thực chỉ ra là
vậy….][1]
VÀI QUAN NIỆM CẦN CHO NGƯỜI BÌNH LUẬN
Trưỡc
khi vào phần góp ý về lời bình, tôi xin được ghi ra đây vài ý kiến chủ
quan riêng về bình luận (phê bình). Vì là chủ quan nên chắc không hoàn toàn
chính xác, xin các bạn góp ý. (Những ý này cũng đã ghi ra trong các bài
trước, các bạn nào đã đọc có thể bỏ qua):
— Người
bình thơ nên học hỏi biết thêm căn bản về “Văn học sử”, vài thủ pháp về thơ,
biết sơ lược về cách “phân tích ngôn ngữ” cần thiết cho sự bình thơ… Nếu chỉ
bình theo cảm tính thì bài phê bình không chính xác, đầy tính chủ quan và có
nhiều khi vô tình gây ảnh hưởng tiêu cực đến bài /sách thơ được bình.
– Người
bình thơ không nên đóng “hòm” trước rồi chặt chân xác chết cho vừa cái “hòm”.
Có nghĩa là đừng đưa ra tiêu chí chủ quan riêng mình rồi ép bài thơ, bài văn
được bình phải hợp theo.
— Hãy
thật lòng mình, đừng bẻ cong ngòi bút vì tư dục (tư dục này bao gồm tình, tiền,
danh, nể vì, sợ .v.v…)
— Bình
luận tự nghĩa nó là nêu ra ưu điểm và khuyết điểm. Ở đời đâu có gì tuyệt đối
100% ưu, là hay chỉ trừ các bậc thánh nhân. Phải thẩm định kỹ, đừng vội vàng
“hít hà” khen thưởng. Nên nhớ, khen “quá lố” có khi làm hại người được khen.
— Đừng
“hòa quá nhiều nước lã vào mực.” (Modern poets mix too much water with their
ink – Goethe) Nghĩa là phải chân thật, phải lương thiện.
Người bình luận nên nhớ lại “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán:
Người bình luận nên nhớ lại “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán:
Yêu ai
cứ bảo là yêu
Ghét ai
cứ bảo là ghét
Dù ai
ngon ngọt nuông chiều
Cũng
không nói yêu thành ghét.
Dù ai
cầm dao doạ giết
Cũng
không nói ghét thành yêu…
— Theo
chủ quan, tôi nghĩ câu chuyện này cần cho nhà bình luận:
“Nhà thơ Jacque Prévert đi vào câu lạc bộ bình thơ của Pháp tại Paris. Gặp lúc các nhà bình thơ đem thơ ông ra mổ xẻ đủ loại, đủ điều nhưng chả có ai chú ý đến một người vô danh mới vào và chăm chú theo dõi cuộc bình thơ. Hết cuộc bình thơ, người khách lạ bước lên sân khấu bắt tay các diễn giả và nói rằng: “Xin chân thành cảm ơn tất cả các ngài đã đem thơ tôi bình luận. Thật sự tôi chưa bao giờ biết rằng tôi đã có những ý nghĩ lạ lùng cao xa ấy trong thơ mình và tôi cũng không ngờ thơ tôi lại hay như vậy. Cảm ơn các ngài. Nói xong, người khách lặng lẽ bước ra. Người khách lạ ấy chính là Jacque Prévert.”
“Nhà thơ Jacque Prévert đi vào câu lạc bộ bình thơ của Pháp tại Paris. Gặp lúc các nhà bình thơ đem thơ ông ra mổ xẻ đủ loại, đủ điều nhưng chả có ai chú ý đến một người vô danh mới vào và chăm chú theo dõi cuộc bình thơ. Hết cuộc bình thơ, người khách lạ bước lên sân khấu bắt tay các diễn giả và nói rằng: “Xin chân thành cảm ơn tất cả các ngài đã đem thơ tôi bình luận. Thật sự tôi chưa bao giờ biết rằng tôi đã có những ý nghĩ lạ lùng cao xa ấy trong thơ mình và tôi cũng không ngờ thơ tôi lại hay như vậy. Cảm ơn các ngài. Nói xong, người khách lặng lẽ bước ra. Người khách lạ ấy chính là Jacque Prévert.”
Qua trên
là vài ý nghĩ của tôi về thơ và phê bình, giờ mời các bạn vào phần chính của
bài viết.
VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
1. Câu
bình đạt
— Cách chuyển nhịp từ 2/4 (tiết tấu chậm) ở
câu lục: “Thật rồi… vẫn ngỡ là mơ”, sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu
bát: “Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…”, đã khéo léo đặt tâm trạng của
nhân vật “tôi” cùng (lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp
đặc biệt ở câu bát như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả
nội tâm của chàng trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ…(Đặng
Xuân Xuyến)
Trước
bài thơ này, Nguyễn Bính có bài thơ “Không đề”
Hôm nay
dưới bến xuôi đò
Thương
nhau qua cửa tò vò nhìn nhau.
Anh đi
đấy, anh về đâu?
Cánh
buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Tuyệt
vời nhất là 2 câu cuối, tôi xin xét từng câu:
– “Anh
đi đấy, anh về đâu?”
Người
con gái băn khoăn tự hỏi “Anh đi đấy, anh về đâu?” Sáu chữ mà gợi ra hai tâm sự
ngổn ngang. “Anh đi đấy” là câu hỏi thảng thốt. “Anh về đâu?” là câu hỏi ngậm
ngùi.
– “Cánh
buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”
Câu cuối
này là “đỉnh” và nó có liên hệ đến câu thơ đang bàn của nhà thơ Phúc Toản.
Chiếc
thuyền rời bến, từ từ đi xa. Rồi chiếc thuyền cũng khuất. Chỉ còn cánh buồm
chập chờn, nhấp nhô theo sóng, lung linh, xa xăm rồi mờ nhạt hẳn.
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Câu thơ
8 chữ này ngắt thành ba nhịp (Cánh buồm nâu / cánh buồm nâu / cánh buồm…):
Cánh buồm nâu dâng cao theo sóng trào, rồi mất bóng theo sóng hụp/ Cánh buồm
lại xuất hiện rồi mất bóng/ cánh buồm đã đi xa không còn còn thấy màu sắc nữa
(chữ “nâu” ở nhịp cuối biến mất). Ta thấy rõ ràng hình ảnh những con
sóng nhấp nhô đưa đẩy con thuyền. Trong câu thơ vần, nhạc ̣(nghe như tiếng
sóng) họa (hình dạng nhấp nhô chiếc thuyền theo sống từ từ đi xa…) đầy đủ.
– So
sánh 2 câu thơ
So sánh
2 câu thơ sau bạn nghĩ sao?
Lấy
chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng…
Cánh
buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Câu thơ
Phúc Toản ngắt thành bốn nhịp: Lấy
chồng!/ Em lấy chồng!/ Ơ! / Lấy chồng… Nhịp 3 chữ Ơ! (chữ tán thán) dùng
không chính xác: Chữ Ơ! này (đứng trước: Ơ! Lấy chồng…) có chắc “biểu
hiện tâm trạng bất lực” như Đặng Xuân Xuyến nói không? Theo tôi nghĩ là
không. Nhà bình luận nghĩ sao với câu này: – Ơ! anh nầy, Ơ! chị kia! Làm
gì đó? Nó có “biểu hiện tâm trạng bất lực” tâm trang buồn thảm
không?
Theo
tôi, ở đây phải dùng chữ ƠI hay ÔI để tán thán sự buồn mới đúng : Ơi (ôi) em!/
ơi (ôi) anh! chúng ta đành phải xa nhau rồi.v.v… Buồn, bất lực là hai
chữ này.
Chắc
có lẻ nhà bình luận hiểu chữ Ơ rộng nghĩa hơn tôi!
Tuy câu
thơ bị khuyết điểm nhỏ này, nó cũng tạm coi là đạt.
So sánh
2 câu thơ, điều chắc chắn là câu của Nguyễn Bính nhiều nhạc tính và họa tính
hơn. Cùng phương cách, người sau làm sao hơn người trước thì mới
tuyệt: “Sóng sau dồn sóng trước “.
2. Những
câu bình chưa đạt
[Không than vãn, kế nể, không nặng lời trách
móc khi người yêu theo “thuyền neo bến lạ”, nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất
cả sự trách giận, nỗi xót xa của chàng trai vào 2 câu thơ:
“Gừng
cay, muối mặn xát lòng
Nỗi buồn
cứ nhói vào trong nỗi mừng …”
Chính sự kiệm lời ấy càng làm nỗi đau nhân đôi.] [Đặng Xuân Xuyến]
a. “Gừng
cay, muối mặn xát lòng”
Câu thơ
này có chính xác ở trường hợp này không?
Xin mời
nhà bình thơ đọc trích đoạn này:
[…Như
đã nói trên, quan hôn tang tế không thể nào không có rượu. Nhất là ngày “loan
phụng hòa minh” và đêm “động phòng hoa chúc”
Đất
Quảng Nam chưa mưa đã thấm,
Rượu
Hồng Đào chưa nhấm đà say…
Với tục
lệ Việt Nam cổ truyền thì lễ động phòng cần có: Chỉ đỏ hoặc chỉ ngũ sắc gọi là
dây tơ hồng, đĩa muối với dăm lát gừng tươi, chai rượu Hồng Đào đính kèm một
chiếc chung. Chú rể buộc tơ hồng vào cổ tay nàng dâu và ngược lại. Rót đầy
chung rượu, chàng uống nửa, nàng uống nửa. Xong, cùng lấy gừng chấm muối mà
nhai, đôi lứa vừa hít hà, vừa dìu dặt ngâm nga:
Tay bưng
đĩa muối chấm gừng,
Tình
nồng nghĩa mặn xin đừng bỏ nhau
(Rượu Hồng Đào: Quảng Nam song hỷ tửu –
Phanxipăng)[2]
Ở đây
chàng trai và cô gái “động phòng, hợp cẩn” hay sống với nhau lúc nào? Nàng vẫn
sống ở nhà nàng rồi vu quy, chàng đứng nhìn theo thuyền rời bến về nhà chồng.
Sao lại liên hệ đến việc nhai muối/ gừng xát lòng ở đây? Đến việc sống
chung (ngoài vòng lễgiáo)ở đây? Nhà bình thơ có chú ý đến điều này
không?
b. “Nỗi
buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng…”
Theo chủ
quan tôi câu này có vấn đề ở hai điểm:
– Hai
chữ ở cùng một câu (Nỗi) là điều các nhà thơ nổi tiếng khuyên nên tránh.
– “Nỗi
mừng”? Người yêu vu qui đi lấy chồng mà mừng? Cũng lạ?
Nhà
bình luận, bạn đã nói đây là cuộc hôn nhân “không tình yêu”, vậy thì cả 2 đều
phải buồn chứ làm sao mà có chữ “mừng” ở đây? Nếu nói “mừng” thì không thật
lòng, không đúng cảm xúc của hai người yêu nhau.
– Nếu
“mừng” này ở chàng trai thì câu này có nghĩa là chàng vừa buồn vì tiếc và vừa
“mừng” vi “tống khứ” cô gái được phải không? Tình yêu chân thật?
– Nếu
“mừng” này ở cô gái thì sự “không chân thật” trong tình yêu càng rõ ràng. Cô
gái thoát nợ!
Nhà binh
thơ có thể nói (hay đoán) “nỗi mừng” là ngoài mặt của cô gái, còn trong lòng
thì buồn. Làm sao biết được trong lòng của người khác?
Trong
câu thơ, nếu một vài chữ có thể gây ra sự suy nghĩ tiêu cực của độc giả thì
nên tránh đừng dùng, phải dùng chữ có nghĩa chính xác. Đừng chủ quan theo ý
mình, nên dự phòng những vấn đề rắc rối có thể xảy ra.
Theo tôi
(xin nói chỉ là chủ quan) phải thay chữ nào khác phù hợp với ý tứ bài thơ
để giải quyết các vấn đề nêu trên:
Thí dụ
như dùng chữ bâng khuâng ta giải quyết được điệp từ và chuyện rắc rối
lẫn lộn giữa buồn/mừng nêu trên. Lúc này câu thơ sẽ như thế này:
Bâng
khuâng cứ nhói vào trong nỗi buồn…
Đây chỉ
là thí dụ gợi ý, quyền là ở tác giả bài thơ, ông là người “sáng tạo”
Để tránh việc người khác (trong đó có thể có nhà bình thơ) cho rằng sự thay thế chữ khiến “lợn lành thành lợn què”, tôi sẽ phân tích chữ “nỗi” và chữ “niềm” cho rõ ý.
Để tránh việc người khác (trong đó có thể có nhà bình thơ) cho rằng sự thay thế chữ khiến “lợn lành thành lợn què”, tôi sẽ phân tích chữ “nỗi” và chữ “niềm” cho rõ ý.
PHÂN TÍCH CHỮ
Người ta
thường nói
— “Nỗi”
lòng chứ không “niềm” lòng: Nỗi lòng người đi vân vân…
“Nỗi”
sầu chứ không “niềm” sầu: Nỗi sầu trong lòng vân vân… Tương tự, “nỗi” buồn chứ không nói “niềm buồn”: Nỗi buồn
kẻ tha hương vân vân…
Với nỗi
sầu, nỗi buồn của một người, người khác chưa chắc biết vì đôi khi người đó
không muốn biểu lộ ra hoặc cố tình tỏ ra vui vẻ trên mặt: “Cười là dòng lệ rơi
trong lòng”.
Điều
này có nghĩa là chữ “nỗi” diễn tả những gì bên trong lòng, riêng tư của
người.
— Về chữ
“mừng” và “vui”
Người ta
nói “nỗi” mừng chứ không nói “niềm” mừng, nhưng bù lại có thể nói “niềm”
vui. Chữ vui có thể dùng với cả hai: Nỗi và niềm.
Thử nhận
xét nỗi mừng và nỗi vui:
Thí dụ:
Nỗi mừng
hay nỗi vui của một người khi trúng giải độc đắc, người khác có khi không
nhận được vì người trúng giải cố tình không cho mừng vui lộ ra ngoài, vì sợ
đánh cướp.. Người ta nói “niềm vui tái ngộ, niềm vui thống nhất” chứ ít ai
nói “nỗi vui tái ngộ, nỗi vui thống nhất” vì lúc này cảm xúc dạt dào tuôn
trào ra ngoài, biểu hiện ra ngoài.
Qua
những nhận xét trên, ta đi đến kết luận: Đa số trường hợp “Nỗi” diễn tả bên
trong (lòng) và “niềm” diễn tả, hiện ra bên ngoài (cũng có trường hợp
thiểu số ngoại lệ vì đâu có gì tuyệt đối 100% ). Bên trong lòng thì
chỉ riêng ta biết chứ người khác không thể nào biết được.
Đem điều
nầy áp dụng vào câu: “Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng …” ta nhận xét rằng
nỗi buồn và nỗi mừng này phải ở cùng trong lòng của chàng trai. Nếu nói “nỗi
mừng” là của cô gái thì “trong lòng cô gái đã mừng”. Cả hai trường hợp câu thơ
đều có vấn đề: Chàng trai vừa buồn vì tiếc vừa mừng vì tống khứ được cô
gái, hoặc là cô gái trong lòng mừng vì thoát nạn. Còn như muốn nói theo lời
phê bình của nhà bình luận: “Cô gái tỏ vẻ vui ở ngoài mặt nhưng buồn trong
lòng” thì phải thay thế cụm từ “nỗi mừng” bằng “niềm vui”: Chàng trai xót xa
vì thấy niềm vui biểu hiện ra trên gương mặt cô gái. Điều này không thể
vì niêm luật. Vậy phải tìm cum từ nào thích hợp về vần và ý chứ
không thể nào ép nghĩa, bắt người đọc phải hiểu theo chủ quan mình.
Tóm lại,
còn có cụm từ “nỗi mừng” là bài thơ còn có vấn đề, phải thay thế nó bằng cụm từ
nào đó thích hợp với ý tứ bài thơ để dự phòng những rắc rối ngoài ý
muốn xảy ra như tôi đã nói trên.
LỜI KẾT
Lâu lắm
rồi, tôi thường gặp câu nầy: “Dưới ánh sáng…” “Nhờ ơn…” gì gì đó…tác giả mới
viết được bài này… Và những lời “hít hà” khen các bài văn thơ của của những
người ve cổ áo veston trước ngực có logo “quốc huy sao vàng” (cấp lãnh đạo).
Ai mà dám nói thật, ai mà dám chê trong thời này? Vì sợ, vì muốn lấy lòng để
được hưởng chút “ơn mưa móc”. (Về vụ “sợ” hình như nhà văn Tô Hoài đã có lần
thừa nhận, nếu tôi nhớ không lầm)
Nhưng
bây giờ là thời khác, không thể làm giống thế được, phải “lương thiện” với
lòng, phải “chính danh” là trí thức là nhà bình luận . Nhà bình luận nên nhớ
lại “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán đã nhắc ở trên.
Một
nhà thơ đã viết:
Ta tìm
ta bắt, trong thơ…
Những
con sâu chữ, lơ mơ “ra rìa”
(Hà
Nguyên Du)
Đúng,
phải tìm bắt sâu chữ: Trong vườn hoa nghệ thuật, văn thơ, người bình luận
giống như người làm vườn, phải chăm sóc vung trồng và tìm bắt những con sâu để
cho cây hoa tươi tốt, nở ra những những nụ hoa đầy hương sắc cho đời.
Trên
trang nhà Đặng Xuân Xuyến, nhìn kỷ thấy trên ngực (cổ áo Veston cà – vạt)
của nhà thơ Phúc Toản có logo “quốc huy sao vàng”[1].
Hãy
trân trọng gìn giữ tiếng nước ta. Tiếng Việt mà bị tiêu diệt thì dân tộc
Việt sẽ tự nhiên biến mất y như Học giả Phạm Quỳnh đã từng nhận xét. Hãy bảo về
sự trong sáng của tiếng Việt. Nên cẩn trọng về tính chính xác của nó nếu không
sẽ dẫn đến “văn nạn” “bút máu” mà tôi đã đề cập trong bài viết “VĂN NẠN VÀ TÍNH
CHÍNH XÁC CỦA NGÔN NGỮ(3)
Mời đọc
trích đoạn:
[… Chữ
viết chắt lọc từ tiếng nói. Văn và nhất là thơ là tình túy của CHỮ. Nên cẩn
trọng với CHỮ NGHĨA. CHỮ quan trọng lắm, có thể làm chết hoặc làm tiêu tan sự
nghiệp và tài sản con người. Không nhớ vụ án Minh sử triều Thanh đã làm tiêu
mạng biết bao Nho sĩ Minh mà Kim Dung đã viết trong phần nhập của bộ truyện Lộc
Đỉnh Ký sao? Vụ án của Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (giết ba họ) do sự ganh
ghét, đố kỵ của đám tiểu nhân đắc chí, trong đó có một phần từ văn nạn. Và cuối
cùng với hàng chữ “kim loại màu vàng” mà “ai đó” ghi khi kiểm kê vàng của người
dân miền Nam trong đợt “cải tạo tư sản” 1976
VĂN NẠN
(cũng được gọi là ÁN VĂN), nói nôm na là những vụ án liên quan đến chữ nghĩa,
văn chương, văn nghệ… Có khi nạn nhân chết chỉ do một chữ chứ không cần cả bài,
cả tập. Chết mà không biết mình vì sao bị chết…]
Đừng như
hai ngài Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại và Phó giáo sư Phó tiến sĩ Bùi Hiền, những
người mắc bệnh VĨ CUỒNG (mégalomanie, megalomania) muốn làm mai một nó.
Trân
trọng!
Nguyên
Lạc
___________
Chú thích:
[1] Vài suy nghĩ
khi đọc “THUYỀN THEO BẾN LẠ” – Đặng Xuân Xuyến
http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2019/01/vai-suy-nghi-khi-oc-thuyen-theo-ben-la.html
http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2019/01/vai-suy-nghi-khi-oc-thuyen-theo-ben-la.html
[2]
Rượu Hồng Đào: Quảng Nam song hỷ tửu – Phanxipăng
https://phanxipang.wordpress.com/2013/04/13/ruou-hong-dao-quang-nam-song-hy-tuu-iii/
https://phanxipang.wordpress.com/2013/04/13/ruou-hong-dao-quang-nam-song-hy-tuu-iii/
[3]
VĂN NẠN VÀ TÍNH CHÍNH XÁC CỦA NGÔN NGỮ
http://www.art2all.net/tho/nguyenlac/nguyenlac_vannanvatinhchinhxaccuangonngu.htm
http://www.art2all.net/tho/nguyenlac/nguyenlac_vannanvatinhchinhxaccuangonngu.htm
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
Mời thư giãn với nhạc phẩm THẰNG BỜM CÓ CÁI QUẠT MO
của Đỗ Lộc, qua tiếng hát bé Bảo Khương:
.*.
NGUYÊN LẠC
Địa chỉ: Garland, Texas City, Hoa Kỳ.
Email: stevenguyen6739@gmail.com
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email: phudoan56@gmail.com ngày 14.02.2019.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét