MỜI ĐỌC:

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2024

100 TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM HAY NHẤT (phần I) - Thái Đắc Xuân tuyển chọn và giới thiệu

(Thái Đắc Xuân: bút danh của Chủ bút Trang Đặng Xuân Xuyến)
100 TRUYỆN CỔ TÍCH
VIỆT NAM HAY NHẤT
Công ty Văn Hóa Bảo Thắng liên kết xuất bản
*
1. CHỬ ĐỒNG TỬ
Thời xưa ở làng Chử Xá, có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu thì người đó đóng. Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con rằng: Bố chết, con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng. Cù Vân chết, Chử Đồng Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. Ở một túp lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống đánh cá rồi đổi gạo ở các thuyền qua lại.
Thời bấy giờ có nàng công chúa tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà không chịu lấy chồng, chỉ thích đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp cho thuyền và đủ người hầu hạ, mặc cho muốn đi chơi đâu thì đi.
Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cả mặt nước. Chử Đồng Tử trông thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ lên.Thấy bãi rộng rãi, lại có từng bụi cây lớn toả bóng mát êm dịu, Tiên Dung lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn một chỗ có bóng mát, sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn, cởi xiêm áo, dội nước thoả thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung dăng màn tắm là chỗ Chử Đồng Tử náu mình. Tiên Dung dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy quân quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng: Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng ở trốn này, mới biết cương không được với trời. Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa xuống thuyền và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý chối từ. Tiên Dung bảo chàng rằng: Thiếp với chàng là trời xe duyên, việc gì mà từ chối! Đồng Tử đành nghe theo. Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng. Vua được tin nổi giận gọi hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chồng ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày càng thịnh vượng, dần dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng cho người ra biển tìm vật lạ đem đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo, để chồng đi.
Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật Quang muốn truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép chàng xuống núi và dặn rằng: Phép biến hoá ở cả cây gậy và cái nón này.
Đồng Tử về nhà, đem phép màu truyền lại cho Tiên Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương. Rồi hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả tiểu đồng, thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang. Sáng hôm sau, hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có tướng sĩ canh gác rất đông, chẳng khác nào một toà thành lớn.
Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên Dung làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung và Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự Nhiên1 còn đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ. Thấy có sự lạ lùng như vậy, nhân dân lập miếu thờ trên bãi. Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước, bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn, cho Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng và dặn: "Người cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì đi đến đâu, giặc sẽ tan đến đấy". Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời.
Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng lên chỏm mũ, thấy sức khoẻ tăng lên gấp bội, mới đem quân phá vòng vây, chém được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi đất nước.

2. SƠN TINH, THỦY TINH
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên gọi là Mị Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mị Nương được vua cha yêu thương rất mực. Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua để cầu hôn. Một người ở núi Ba Vì, tuấn tú tài giỏi khác thường: chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây mọc lên hàng dãy núi. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người ở mãi miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: Gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa tới - chàng này tên gọi là Thuỷ Tinh. Một người là chúa của miền non cao, một người là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng. 
Hùng Vương băn khoăn không biết nhận lời ai, từ chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mãi vẫn không tìm được kế hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng: - Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai trăm bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì được rước dâu về.
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước và được phép đưa dâu về núi. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mị Nương. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió, làm dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà cửa. Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Thuỷ Tinh đuối sức phải rút quân về.
Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm sâu, không năm nào Thuỷ Tinh không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh và lần nào Thuỷ Tinh cũng bị thua, phải bỏ chạy.

3. TIẾNG HÁT CỦA NGƯỜI ĐÁ
Trên đỉnh một ngọn núi cao vùng Chư Bô-đa có một mỏm đá xanh, giống hệt như hình một em bé kháu khỉnh, xinh xắn cưỡi trên một con voi. Mỏm đá đứng ở chỗ ấy tự bao giờ, không ai biết cả. Chỉ biết từ trước, đời ông, đời cha, lâu lắm, mỏm đá ấy đã có rồi....
Ở trên cao, những tia nắng vàng rất dịu, những hạt mưa trong vắt, sáng như ngọc, thay nhau tắm gội cho mỏm đá. Và gió từ biển khơi phía đông, từ núi cao phía tây, rì rào nhè nhẹ thổi về, kể cho mỏm đá nghe thật nhiều chuyện kỳ lạ của những miền đất nước xa xăm. Chỉ có những con chim bay cao nhất, bay xa nhất, mới đặt chân tới được đấy. Trước cảnh mây núi đẹp tuyệt vời, chim chớp mắt nghiêng đầu nhìn ngắm, rồi vươn cổ, cất giọng hay nhất của mình mà hát cho mỏm đá nghe những bài ca thần tiên, những điệu hát đẹp nhất, quý nhất của loài chim. Cứ thế, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, giọng nỉ non của gió, tiếng thánh thót của chim, như từ từ quyện vào từng thớ đá, thấm sâu vào mỏm đá hình em nhỏ trên đỉnh núi cao.
Một buổi sáng, trời trong suốt, gió thoảng nhẹ, núi rừng trải rộng ra và im lặng. Mỏm đá hình người bỗng rùng mình nhè nhẹ, khẽ cựa quậy, rồi từ từ biến thành một em bé bằng thịt bằng xương, xinh đẹp chưa từng thấy. Em bé đứng yên lặng, mở to mắt nhìn núi, nhìn mây, mỉm cười vui thích, rồi thong thả bước xuống núi.
Sáng hôm ấy, dưới chân núi, dân làng từng toán, từng đoàn, vai mang gùi, tay cắp rổ, đang tấp nập suốt lúa, bẻ ngô. Bỗng nhiên, từ phía rừng xa, nai, mang, công, trĩ, chim phí, lợn rừng... từng đàn kéo về đông nghịt. Động rừng rồi! Chưa năm nào động rừng dữ dội như năm ấy. Dân làng hoảng hốt cầm gậy chạy đuổi đằng đông, chạy đuổi đằng tây, rướn cổ, gào thét đứt cả hơi để đuổi thú, đánh chim mà vẫn chẳng ăn thua gì. Mọi người lại ào vô rừng, hối hả dứt hàng vác mây song về giăng chằng chịt, buộc bù nhìn, rồi gõ thanh la, khua mõ nhưng vẫn vô hiệu. Cuối cùng, họ phải bỏ cả nương rẫy mùa màng, chạy như bay về làng, tìm dao, kiếm nỏ....
Vắng bóng người, chim lông vàng lông đỏ chắp cánh bay, xa trông như một đám mây ngũ sắc. Hươu sao, nai vàng, hàng đàn kéo thẳng tới, xông vào nương rẫy. Giữa lúc ấy, em bé từ trên núi cao cũng vừa xuống tới nơi. Thấy cảnh hỗn độn, em bé đứng nhìn đám muông thú mà cười, vẫy tay đùa bỡn với chúng. Thấy chuyện lạ, chim sà xuống bìa nương, ngẩng đầu lấm lét nhìn. Hươu sao, nai vàng cũng lùi lại bãi tranh rộng, vẻ ngờ vực, mắt giương tròn lơ láo. Bỗng nhiên em bé từ từ mở miệng, cất giọng hát. Tiếng hát của em vang khắp nương rẫy, núi rừng. Tiếng hát mới hay làm sao, lôi cuốn như hoa thơm quyến rũ ong vàng, bướm trắng. Nghe tiếng hát lạ lùng ấy, từng đàn chim công, chim sẻ, từng đàn hươu nai, lợn lòi ... tất cả đều quên hẳn chuyện phá rẫy. Chúng gật đầu xoè cánh, đập đập móng... và bắt đầu nhảy múa nhịp nhàng. Tiếng hát khoan thai, chúng nhảy chậm; tiếng hát dồn dập, chúng nhảy nhanh; tiếng hát dặt dìu, chúng lim dim mắt, gật gù như người chếnh choáng hơi men. Khi dân làng cầm dao, vác ná chạy ra đến nương, nghe tiếng hát, thấy cảnh ấy, mọi người đều sửng sốt, kinh lạ. Lũ muông thú vẫn cứ mê say nhảy múa, mãi cho đến khi nhận ra dân làng đang cầm lao, ná, ập tới, chúng mới giật mình đánh thót, đạp cánh bay vù, chen nhau chạy giạt đi mất.
Dân làng vây quanh em bé, mừng rỡ như gặp được tiên. Họ tranh nhau hỏi em bé từ đâu tới, học ở đâu mà có tiếng hát thần tiên như vậy. Nhưng em bé chỉ cười. Dân làng lại hỏi tên em là gì, em cũng chỉ cười. Tiếng cười ròn rã làm rộn lòng dân làng, và nụ cười tươi tắn làm rạng rỡ khuôn mặt xinh xắn của em. Dân làng liền mời em bé về làng. Họ sửa soạn đốt lửa, dựng chòi cho em bé hát. Một cô gái xinh đẹp nhất làng thấy em bé đáng yêu quá, liền đặt tên cho em là Nai Ngọc. Nghe tên ấy, em gật đầu, rồi lại cười, dân làng cũng cười theo, vui thích vì đã chọn được một tên đẹp cho một em bé kỳ lạ.
Tối hôm ấy, trăng sáng lắm, Nai Ngọc ngồi giữa dân làng cất tiếng ca. Em hát những bài anh hùng ca cho bà con nghe. Trăng lặn, sao mờ nhưng không một ai chịu về ngủ cả. Họ ngồi như vậy cho đến lúc nắng vàng chiếu rọi trên nương. Từ đó, Nai Ngọc sống chung với dân làng. Tiếng hát của em khiến mọi người làm việc không biết mệt mỏi, tiêu tan mọi sự buồn thảm, khiến cho nương đầy lúa, rẫy đầy bông, rừng núi nở đầy hoa.
Nhưng một ngày kia, khi Nai Ngọc đang cùng dân làng làm việc trên nương, thì bỗng thấy bốn phương lửa cháy rừng rực, rồi tiếng chiêng tiếng trống rầm rập nổi lên. Có những người đội khăn đỏ, ngồi trần trên lưng ngựa, phi như gió, vải đỏ của họ thắt chéo trước ngực, một tay cầm đuốc, một tay cầm kiếm, cầm vòng đồng. Đoàn người ngựa phi như bay hết làng này sang làng khác. Lệnh truyền của Mơ-tao vang khắp núi rừng: Bọn giặc ở dưới biển sắp lên cướp phá quê ta. Chúng kéo lên đông như lá rừng, nhanh như chớp giật, giáo mác tua tủa như bông lách bông lau. Ai là người thương mẹ, thương cha, ai là người thương đất nước, ông bà, hãy mau ra đánh giặc. Nghe tin, dân làng bỏ cả công việc, chạy ào về nhà. Thanh niên trai tráng, các cụ già, thảy đều cầm chặt tên nỏ, giáo mác, sẵn sàng đi giúp Mơ-tao đánh giặc. Nai Ngọc cũng cầm khiên, dao theo đoàn quân xuất trận.
Quân hai bên đã gặp nhau. Quân địch tấn công ồ ạt, thế mạnh như nước tràn bờ. Quân đôi bên xông vào đâm nhau, chém nhau, máu chảy tràn sông, đỏ cả suối. Nai Ngọc mở to mắt mà nhìn cảnh chém giết ghê sợ đó, rồi em từ từ trèo lên một mỏm núi, cất tiếng hát. Lúc đầu, tiếng hát còn chìm trong tiếng sắt thép chạm nhau, lúc sau, tiếng hát vút lên ngân nga, dìu dặt, quân giặc ngừng tay kiếm, đứng sững sờ như pho tượng. Chúng đứng đờ người ra, như nuốt lấy từng lời ca, binh khí tuột khỏi tay, rơi xuống đất lúc nào không biết. Rồi từ từ, chúng ngã xuống, ngủ say như chết dưới chân những đàn voi, đàn ngựa.
Mơ-tao hết lời khen ngợi Nai Ngọc, ban thưởng cho Nai Ngọc rất nhiều nhưng em chỉ cười và lắc đầu. Nai Ngọc lại cùng dân làng trở về nương rẫy, sớm chiều cất cao tiếng hát của mình cho bà con nghe. Được vài ngày thì dân làng không thấy Nai Ngọc đâu nữa. Em đã đi khỏi làng, một mình theo đường cũ trở lên núi, biến thành đá như thủa nào. Dân làng vội vã đi tìm, nhưng không thấy. Họ chờ đợi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, từ mùa xuân sang mùa hạ, từ năm này sang năm khác, nhưng Nai Ngọc vẫn không trở về. Dân làng bảo với nhau rằng sau khi giúp dân trừ giặc, Nai Ngọc đã trở lên núi cao, biến trở lại thành người đá như thủa nào. Mọi người tin rằng, một ngày kia, nhất định Nai Ngọc sẽ trở lại làm người, về với dân làng, lại cất tiếng hát kỳ diệu giữa cảnh núi rừng thanh bình, tươi đẹp ...

4. THẠCH SANH
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng bác tiều phu, tuổi đã cao mà không có con. Vợ chồng bác ngày đêm lo buồn, càng ra sức làm việc nghĩa để mong trời thương tình mà cho một mụn con. Quả nhiên trời đã không phụ lòng mong mỏi của hai vợ chồng già. Vợ bác tiều phu đã mang thai nhưng mãi ba năm mà vẫn chưa sinh nở. Người cha chưa được nhìn mặt con đã qua đời. Thế rồi một ngày kia vợ bác tiều phu đã sinh ra một bé trai khôi ngô, tuấn tú, bác đặt tên con là Thạch Sanh. Chẳng bao lâu sau mẹ Thạch Sanh qua đời, từ đó Thạch Sanh sống côi cút một mình trong túp lều dưới gốc đa. Gia tài chẳng có gì ngoài một mảnh khố che thân và một chiếc rìu đốn củi. Năm Thạch Sanh mười ba tuổi, Ngọc Hoàng thương tình sai tiên xuống dạy chàng đủ các môn võ nghệ, mọi phép thần thông.
Một hôm có anh buôn rượu tên là Lý Thông đi ngang qua đó ghé lại nghỉ chân. Lý Thông thấy Thạch Sanh khoẻ mạnh lại mồ côi, có thể lợi dụng được bèn kết nghĩa anh em, rồi đưa Thạch Sanh về nhà.
Bấy giờ ở trong vùng có một con trăn tinh thường bắt người ăn thịt, quan quân mấy lần vây đánh nhưng nó có nhiều phép thần thông nên không ai làm gì được. Nhà vua truyền lập miếu thờ và cứ hàng năm phải nộp cho nó một mạng người. Năm ấy đến lượt Lý Thông phải đi nộp mạng. Mẹ con Lý Thông nghe tin, rất hoảng hốt liền bàn mưu tính kế đưa Thạch Sanh đi chết thay. Chiều hôm đó Thạch Sanh đi kiếm củi về, Lý Thông đã đợi sẵn để đãi rượu rồi bảo: "Hôm nay có việc quan trọng, triều đình cắt phiên cho anh đi miếu thờ. Ngặt vì anh trót cất mẻ rượu, sợ hỏng việc ở nhà, mong em chịu khó đi thay anh một đêm". Nghe nói, Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả thuận tình đi ngay.
Nửa đêm, giữa khu rừng rậm bỗng gió thổi, cây rung, không khí lạnh buốt, trăn tinh hiện ra giơ nanh vuốt phun lửa phì phì, sấn đến định ăn thịt Thạch Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh đánh nhau với trăn tinh, hồi lâu thì con yêu quái bị giết chết, hoá ra là một con trăn lớn. Thạch Sanh chặt lấy đầu mang về. Đến nhà thì hết canh ba. Thạch Sanh gọi cửa, mẹ con Lý Thông ngỡ là hồn Thạch Sanh hiện về báo oán. ở trong nhà mẹ con cứ lạy lục khấn vái. Thạch Sanh mới rõ dã tâm của hai mẹ con Lý Thông cố tình đưa mình đến chỗ chết. Nhưng Thạch Sanh tính tình vốn hiền lành, không giận, vui vẻ kể chuyện giết trăn tinh cho mẹ con Lý Thông nghe. Lý Thông nghe xong, nảy ra một mưu thâm độc. Lý Thông dọa Thạch Sanh rằng trăn tinh là của nhà vua nuôi xưa nay, bây giờ giết đi tất thế nào cũng bị tội chết. Rồi khuyên Thạch Sanh nên trốn đi, để hắn kiếm cách thu xếp cho Thạch Sanh trở về nơi cũ ở gốc đa. Còn Lý Thông thì đi tâu vua về chiến công của hắn đã diệt trừ được trăn tinh và hắn đã được đức vua phong chức đô đốc.
Bấy giờ nhà vua mở hội kén phò mã cho công chúa, nhưng vẫn không chọn được ai vừa ý. Một hôm công chúa đi dạo trong vườn hoa, bỗng một con đại bàng sà xuống cắp đi mất. Tình cờ đại bàng bay ngang trên cây đa có Thạch Sanh đang ngồi thẫn thờ ở dưới gốc. Thạch Sanh thấy vậy liền giương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Nhưng con đại bàng rút tên vứt xuống rồi tiếp tục bay đi, Thạch Sanh lần theo vết máu đỏ, thấy đại bàng chui vào một cái hang rất kiên cố. Chàng đánh dấu lối vào hang và trở về.
Khi nghe tin công chúa bị đại bàng bắt nhà vua rất đau lòng, truyền cho Lý Thông đi tìm, hứa nếu tìm được sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lý Thông vừa mừng vừa lo, bèn lập mưu mở hội hát xướng trong mười ngày, mục đích là để nghe ngóng tin tức. Tám, chín ngày đã qua mà không nghe ai nói lời gì về chuyện đại bàng bắt người cả. Tin Lý Thông mở hội hát xướng đến tai Thạch Sanh, chàng lần về thăm. 
Gặp Thạch Sanh, Lý Thông tỏ mối lo không tìm được công chúa, Thạch Sanh thật thà kể lại việc bắn trúng chim đại bàng. Lý Thông mừng lắm, lập tức nhờ Thạch Sanh dẫn đường, mang quân lính đến tận cửa hang đại bàng. Tới nơi, Thạch Sanh tình nguyện xuống hang tìm công chúa hộ Lý Thông. Quả nhiên gặp công chúa ở đó. Gặp lúc đại bàng đang ngủ không biết gì, Thạch Sanh buộc dây vào người công chúa kéo lên. Xong việc, Thạch Sanh chuẩn bị lên theo nhưng Lý Thông đã kịp ra lệnh cho quân lính lấp kín cửa hang lại. Giữa lúc ấy đại bàng tỉnh giấc. Thấy mất công chúa, lại có một người lạ có mặt trong hang, hắn nổi giận lôi đình, gầm lên, vách đá ầm ầm rung chuyển. Thạch Sanh hoá phép đánh nhau với đại bàng, cuối cùng đại bàng cũng bị giết chết, Thạch Sanh mò tìm lối ra. 
Đi thêm một đoạn, chàng thấy có một cũi sắt bên trong giam một người con trai. Thì ra đó là Thái tử con trai của vua Thuỷ tề bị đại bàng bắt giam đã ngót một năm. Thạch Sanh lấy cung vàng bắn tan cũi sắt, cứu Thái tử ra. Thái tử mời Thạch Sanh về cung vua để vua cha được đền ơn. Vua Thuỷ tề mừng lắm, tặng Thạch Sanh vô số vàng bạc châu báu nhưng chàng đều từ chối không nhận, chàng chỉ lấy một cây đàn làm kỷ niệm, rồi chàng từ giã vua và Thái tử trở về chốn cũ nơi gốc đa. Lý Thông nghe tin Thạch Sanh lại trở về túp lều cũ ở gốc đa, e lộ chuyện hắn bèn sai người lấy ngọc ngà châu báu vứt vào lều Thạch Sanh rồi vu cho chàng ăn cắp để hắn lấy cớ bắt Thạch Sanh giam vào ngục tối.
Lại nói về công chúa, từ khi được cứu lên khỏi hang, chứng kiến cảnh Lý Thông lấp mất cửa hang, công chúa uất ức mà hoá câm. Khi trở về cung ai hỏi gì nàng cũng không nói. Vua buồn rầu sai Lý Thông lập đàn cầu nguyện, đàn đã lập một tháng mà công chúa vẫn không nói được. Lúc ấy Thạch Sanh đang bị giam trong ngục, buồn tình chàng lấy cây đàn ra gẩy, không ngờ cây đàn ấy là cây đàn thần. Đàn phát ra những lời ai oán như trách móc: Đàn kêu tích tịch tình tang, ai mang công chúa dưới hang trở về. Tiếng đàn vang vọng trong cung vẳng đến tai công chúa. Nghe tiếng đàn công chúa bỗng reo mừng, cười nói, xin vua cha cho gọi người gẩy đàn. Vua đòi Thạch Sanh đến và trước cả triều thần, bá quan văn võ, Thạch Sanh kể lại sự tình cho vua nghe. Vua nghe xong tức giận truyền lệnh cho bắt mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh toàn quyền xử tội. Thạch Sanh thương tình xin vua tha tội cho hai mẹ con Lý Thông để họ trở về làng. Nhưng dọc đường về hai mẹ con gặp mưa dông và cả hai đều bị sét đánh chết.
Kế đó, vua cho Thạch Sanh kết hôn cùng công chúa. Tin ấy truyền đi, Thái tử mười tám nước chư hầu trước đã ôm hận vì công chúa không để ý đến mình, nay lại nghe tin vua cha gả công chúa cho một tên mồ côi nghèo xơ xác liền cất binh mã đến hỏi tội. Vua sai Thạch Sanh ra dẹp giặc. Khi giáp trận, Thạch Sanh vốn không muốn gây đổ máu vô ích bèn đem cây đàn của mình ra gẩy. Tiếng đàn khi khoan khi nhặt, êm ái lạ thường, khiến cho quân địch phải xúc động. Người thì bồi hồi thương con, nhớ vợ, kẻ thì bâng khuâng nhớ tới quê hương, không một ai còn nghĩ đến đánh nhau nữa. Thái tử mười tám nước chư hầu thấy thế khiếp sợ vội vàng xin hàng. Thạch Sanh dọn một niêu cơm nhỏ cho chúng ăn nhưng chúng ăn mãi không hết, niêu cơm cứ vơi rồi lại đầy. Chúng cảm phục Thạch Sanh dập đầu lạy tạ rồi kéo nhau về nước.
Sau khi quân giặc đã chạy hết, vua liền làm lễ nhường ngôi cho Thạch Sanh. Từ đó Thạch Sanh cùng công chúa sống yên vui, hạnh phúc đến trăm tuổi.

5. HAI CÔ GÁI VÀ CỤC BƯỚU
Xưa có một cô gái con nhà nghèo không may là khi sinh đã mang một cục bướu ở mặt. Người càng lớn, cục bướu càng to, vì vậy nhan sắc của cô thua em kém chị. Tuy nhiên cô gái không lấy thế làm buồn, suốt ngày vẫn thường vui đùa ca hát. 
Một buổi trưa hè cô theo bạn lên rừng kiếm củi. Vì mải mê tìm nấm cô vui chân quá bước vào rừng sâu, quên bẵng mất trời đã về chiều và mây thì đang kéo tới mỗi lúc một đen sầm, báo hiệu một cơn dông sắp tới. Quả nhiên khi cô định trở về để gặp chúng bạn thì không kịp nữa. Gió thổi mạnh làm cây rừng xào xạc, cành khô gãy răng rắc, những giọt mưa hắt vào mặt. Bất đắc dĩ cô phải tìm chỗ ẩn. May làm sao cô chạy kịp đến một gốc cây cổ thụ, thu mình chui vào một cái hốc để tránh mưa. Nhưng đến lúc mưa tạnh, bước ra khỏi hốc thì trời cũng đã tối mịt. "Các bạn ta bây giờ chắc đã rủ nhau về cả. Đường rừng lại tối, đi một mình thật là đáng sợ. Thôi, đành ở đây đợi sáng, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy, cô dọn lại chỗ hốc sạch sẽ rồi lách mình vào đó nằm nghỉ, không quên đặt bó củi chắn cửa để để phòng thú dữ.
Khuya lại, có những tiếng hát, tiếng cười và tiếng đàn sáo làm cho cô tỉnh giấc. Cô nhìn ra thấy trăng sáng như ban ngày. ở một bãi đất bằng phẳng phía bên kia gốc cổ thụ có một đám người đang múa hát vui vẻ. Cô bước ra khỏi hốc. Thoạt đầu cô cứ ngỡ là một đám người đi rừng nào đó lên đây sớm ngồi đợi trời sáng nên bày ra múa hát mua vui. Nhưng khi nhìn kỹ thì hoá ra không phải. Đó là những người hình dung dị thường, ăn mặc khác lạ, có những bộ mặt đen đúa đầy những lông lá gớm ghiếc. Cô gái bụng bảo dạ: "Đúng là một bọn quỷ", và cô bỗng rùng mình, nhưng rồi cô liền đánh bạo bước lại nấp sau cây cổ thụ rình xem. Bọn quỷ vẫn múa hát không biết có người đang rình mình. Giọng hát của chúng không hay nhưng thật là vui làm cho cô vui lây. Cho nên cô cũng lẩm bẩm hát theo bằng một giọng nho nhỏ trong cổ họng. Dần dần hứng lên, tự nhiên cô cất cao giọng, quên bẵng là mình đang nấp. 
Nghe tiếng hát, bọn quỷ bỗng im bặt. Rồi cả bọn ùa nhau đến gốc cây. Một đứa nói: Hà hà, khá quá! Ra đây, ra đây, ta cùng hát cho vui. Rồi chúng dắt cô ra bãi, bảo cô hát tiếp. Cô lấy can đảm hát lại bài hát vừa rồi. Giọng cô rất ngọt làm cho bọn quỷ phải lắng nghe. Xong một bài, chúng tấm tắc khen ngợi rồi nhảy múa thích thú. Chúng lại đưa những quả sim, quả ổi mời cô ăn. Ăn xong, lại bảo cô hát tiếp, rồi chúng còn lần lượt đàn hát và nhảy nhót suốt đêm.
Tiếng gà rừng gáy buộc bọn quỷ phải ngừng cuộc vui. Một đứa bảo: Cô hát hay quá! Tối mai đến đây hát nữa nhá! Cô gái đáp: Cái đó thì cũng còn tuỳ. Nó kêu lên: Ấy, còn tuỳ thế nào. Chúng mày ơi! Ngộ tối mai cô ấy không đến thì sao? Một tiếng ứng theo: Phải bắt cô ấy để lại cái gì làm tin mới được! Một đứa chỉ vào cái bướu: Ta hãy giữ lấy cái này, chắc là của quý. Mai cô đến đây mà lấy nhé! Nói xong phẩy tay một cái, rồi cả lũ biến đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau cô gái ra về, lòng mừng khấp khởi. Cục bướu đã được bọn quỷ lấy đi một cách thần diệu, làm cho cô trở nên nhẹ nhõm. Gặp ai cô cũng kể chuyện tối hôm trước cho họ nghe. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn đã lan khắp đầu đường, xó chợ. Một cô gái con nhà phú ông ở làng bên cạnh cũng không may mang một cục bướu trên mặt, khi nghe câu chuyện, cô này vội vàng đến gặp cô kia xin chỉ chỗ cho mình đi thay, hy vọng nhờ lũ quỷ nhổ cho cái bướu xấu xí trên mặt. Cuối cùng, cô gái nhà phú hộ cũng tìm được đến gốc cây cổ thụ nọ và nấp sẵn trong hốc cây. Nửa đêm, bọn quỷ hiện ra dưới ánh trăng. Chúng tìm đến chỗ cô gái nấp: - Nào, cô hãy xuống hát với chúng tôi đi! Vốn quen thói gắt gỏng, lại thấy những cánh tay lông lá giơ ra kéo lấy áo, cô vội gạt đi: - Buông ra đã nào, tránh để cho tôi xuống. Ôi, kinh tởm! Rồi cô cũng nhảy xuống khỏi hốc, nhưng vẫn tỏ vẻ sợ hãi, gớm ghiếc, không dám lại gần lũ quỷ. Cô để cho chúng giục hai ba lần mới cất giọng hát, song nét mặt thì không được vui. Giọng của cô cũng vì thế mà mất tự nhiên. Mỗi lần cô cố gắng cất cao thì giọng lại the thé, nghe chẳng hay ho gì. Cô mới hát được một bài, bọn quỷ tỏ ý không hài lòng! Một đứa nói: Hôm qua hát hay thế, sao bây giờ thì chán ngắt! Thôi cô về đi cho rảnh. Cả lũ quỷ đồng thanh: Phải đấy, về đi! Tiếng đuổi của lũ quỷ nhao nhao làm cho cô gái phật ý, quay lưng trở lui. Nhưng mới đi được mấy bước, cô đã nghe có tiếng chạy theo: Này cô kia, trả lại cô cái làm tin hôm qua. Cô vừa ngoảnh lại thì thấy có vật gì mềm nhũn văng vào má. Sờ tay vào mới biết bây giờ không phải là một mà có tới hai cục bướu.

6. ANH HỌC TRÒ VÀ 3 CON QUỶ
Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng nâng niu như vàng như ngọc. Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng xong, phú hộ lại cho người đi tìm hoa thơm cỏ lạ, trồng xung quanh vườn để con thưởng ngoạn.
Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy, có ba con báo sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hoá, thường quen thói hại người. Nghe tin có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở vườn, chũng rắp tâm phá phách, bèn hoá thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có ba cánh, mỗi cánh một màu. Một người tiều phu lên rừng hái củi, thấy hoa đẹp chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt, phú hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu ngày hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành cái then cửa đem về chốt ở cửa buồng của con gái.
Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường toan sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến vào then cửa. Khi vợ chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái nằm thiêm thiếp trên giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập, nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh. Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau trong khi người cha một mình chăm sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa, lại đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá, vội cho người mời một thầy phù thuỷ đến bắt quỷ trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái thì con quỷ đầu đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ, vì phép thuật đã giở ra hết mà cô gái vẫn ngày đêm nằm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng ngôi lầu có quỷ nên không một ai dám lui tới.
Một buổi chiều nọ, có một thầy cử tên là Long đi thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và nói: - Chẳng giấu gì ông, nhà chúng tôi đang bị quỷ quấy nhiễu. Ông nên đi tìm chỗ khác mà trọ, kẻo mang vạ vào thân. Nghe đoạn, Long nói với vợ chồng phú ông. - Đã là học trò, đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà. Vợ chồng phú hộ nghe nói, bèn mở cửa đón khách vào. ăn xong bữa chiều, Long khoan thai bước trên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn, một con dao sắc. Đêm lại, anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên người. Đến khuya, một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo một cô gái xinh đẹp. Long vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung ác, tóc xoã, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Long, nhưng anh vẫn thi gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn cô gái, bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú lên mấy tiếng: “Có bậc quí nhân... Trốn cả mau!” Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình, nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người đã cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời cảm on. Long dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh học trò.
Sáng hôm sau lúc lên đường, Long từ chối vàng bạc của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin cái then cửa buồng giắt vào thắt lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt, khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Long cười: - Không được! Chúng mày có tài phép gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ cho chúng mày vào lửa. - Xin ngài tha cho chúng tôi! - Ba con quỷ đáp - Chúng tôi xin tặng ngài những vật quí. - Vật gì đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách! Con quỷ thứ nhất đưa tặng Long một cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm, hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sầm như cũ. Con thứ hai tặng một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đến đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa, mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đượng. Long vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm bên đường. Sau đó, Long nhảy lên lưng con ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập tức, ngựa hí lên một tiếng rồi lao rất nhanh, bốn chân không chạm đất. Chỉ một lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa mọi thứ để dự kỳ thi hội.
Hôm bắt đầu thi, bài của Long làm rất đắc ý. Cho nên thi vừa xong buổi sang, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn có con ngựa quí, anh nhảy ngay lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang nghủ, rất kinh ngạc vì thấy chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vọi trở về. Long không muốn đánh thức cha mẹ dậy nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ to trò chuyện cho đến mờ sáng anh mới lên đường.
Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông bà ngờ rằng nàng dâu có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy - lúc ấy Long đã cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa báo tin - hai ông bà vội vào buồng nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh, nhưng sau thấy không giấu được, đành phải kể lại câu chuyện chồng về tối hôm qua, cùng những việc chồng mình trị quỷ và được chúng tặng ngựa quí ra sao... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Long không biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều hôm ấy Long lại về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực, Long kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe: - Sáng hôm sau, ngựa đưa con vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi tên những ai thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ, vội ra nhà trọ thu xếp hành lý, phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức hoàng đế đãi các ông nghè ở điện Thiên Quang. Nghe nói có con ngựa thần đi một ngày ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử, Long hỏi: - Bố muốn đi chơi đâu bây giờ? - Bố thường ao ước được vào tận trong Đồng Nai, Gia Định để du ngoạn một phen. - Được.
Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh tề bước ra sân, Long nắm dây cương trao cho cha. Ông vừa nhảy lên yên thốt ra hai tiếng “Gia Định”, ngựa đã phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu nữa. Cho đến chiều, vào lúc mặt trời gác núi, con ngựa quí lại phóng như bay trở về, đặt ông già xuỗng giữa sân. Ông mở tay nải lấy quà mời mọi người nếm thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia Định.
Mẹ Long nghe chồng hết lời ca ngợi con ngựa thần, cũng có ý định muốn đi chơi Đồng Nai, Gia Định một chuyến dối già. Qua hôm sau, Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất. Một luồng khói trắng từ trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người xúm lại xem thì con ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa thần không đúng lúc vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi. Thiệt hại cho ông tiến sĩ mới cả đơn lẫn kép. Không những mất một tặng vật quí vô giá, ông còn khó thoát tội “khi quân”, vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh cho kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày, đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long đành bắt một con ngựa thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho ngựa phi nước đại.
Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được nửa đường. Nằm nghỉ ở quán trọ, Long lo lắng hết sức. Anh sực nhớ tới tặng vật “mặt trời” do con quỷ thứ nhất biếu vẫn còn cất trong túi vải. Thế là Long nghĩ ra một diệu kế. Ngày hôm sau, Long lại lên ngựa phóng đi. Cho đến lúc mặt trời sắp gác núi, anh bèn lôi “mặt trời” của mình ra treo trước đầu ngựa. Thốt nhiên, một chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho đến khi con ngựa đưa Long đến trước điện Thiên Quang, anh mới cất mặt trời vào túi, bấy giờ bầu trời từ ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.
Long buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã muộn mất rồi. Mọi người chớ mãi không thấy đêm xuống, song thức ăn thì đã nguội cả, nên sau cùng hoàng đế đành ra lệnh cho các ông tiễn sĩ cứ bốn người một, ngồi vào mâm. Khi Long bước vào thì tiệc rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ “phủ phục” trước sân điện, một hai viện lý do “không thấy trời tối” để mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh, nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi tiếng có nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồn rùng rợn rằng từ trước đến nay, hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ vật chết, Long vẫn ung dung về trị nhậm.
Theo tục lệ vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân các làng xã đều phải mang lễ vật đến chào quan. Cho nên những ngày Long mới chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công đường, Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần, nhưng nhất mực từ chối mọi lễ vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân vào ra về thì bí mật đi theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba một trong những người lính hầu mà Long phái đi, đã theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người lính thấy hai người dân đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà vẫn chưa đến nơi. Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội đi suốt đêm trở về báo lại tình hình cho quan biết.
Sáng hôm sau, Long hạ lệnh cho một toán lính huyện tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả ngày. Nhưng thật là lạ lùng! Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Bọn lính huyện cảm thấy rất chán nản. Một hôm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ, bỗng thức giấc thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. - Nếu chúng nó kéo tới đông thì có tát cạn chăng? - Một con hỏi. - Nhiều người cũng vô ích thôi. Chỉ có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách nào khác - Con kia đáp. Người lính bèn đem câu chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay: - Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng. Nói xong, Long cưỡi ngựa về đến tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần, cầm lấy gầu tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long cũng đã làm cho nước giếng dần dần cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không thấy quỷ. Giữa ban ngày, quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẩn lút trống nấp trong các hang hốc làm cho Long và lính hầu tìm hết hơi mà mãi không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm, không thể chẹm lên được, Long sực nhớ tới món tặng vật bèn mở túi lấy “Mặt trời” ra treo trên đầu ngọn tre. Lập tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày nên quỷ lại tàng hình lọt khỏi mắt của người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng vật thứ hai. Vừa đưa ra khỏi túi, “mặt trăng” toả một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi nơi. Long liền mang “mặt trăng” đi lần xuống giếng, tiến vào các hang, các hốc. Dưới ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng hình nổi. Cho nên chỉ một chốc, chưa dập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào huyệt. Trước mặt Long, hai con quỷ cúi đầu lạy lục xin quan sinh phúc tha cho tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nưa. Long sai lính giải chúng đi đày thật xa. Từ đấy dân huyện ấy sống yên ổn.

7. CÂY KHẾ
Một nhà kia có hai anh em, cha mẹ đều chết cả. Hai anh em chăm lo làm lụng nên trong nhà cũng đủ ăn. Muốn cho vui cửa vui nhà, hai người cùng lấy vợ. Nhưng từ khi có vợ, người anh sinh ra lười biếng, bao nhiêu việc khó nhọc đều trút cả cho vợ chồng người em. Vợ chồng người em thức khuya dậy sớm, lại cố gắng cày cấy, làm cỏ, bón phân, lúa tốt hơn trước, nên đến mùa được bội thu. Thấy thế, người anh sợ em kể công chiếm lấy phần hơn, vội bàn với vợ cho hai vợ chồng người em ra ở riêng.
Ra ở riêng với vợ, người em được người anh chia cho có một căn nhà tranh lụp xụp, trước nhà có một cây khế. Hai vợ chồng người em không phàn nàn một lời, hết vào rừng đốn củi đem ra chợ bán lại đi gánh mướn, làm thuê. Còn người anh có bao nhiêu ruộng nương đều cho làm rẽ để ngồi không hưởng sung sướng với vợ. Thấy em không ca thán, người anh cho là em ngu si, lại càng lên mặt, không lui tới nhà em và cũng không để ý đến em nữa.
Những ngày sung sướng nhất của hai vợ chồng người em là những ngày cây khế chín. Quanh năm, hai vợ chồng đã chăm bón và bắt sâu, đuổi kiến cho khế, nên cây khế xanh mơn mởn, rợp bóng khắp mảnh vườn bé nhỏ, quả sai trĩu cả những cành la sát mặt đất, chỉ cần với tay cũng lấy được. Một buổi sáng, hai vợ chồng mang quang gánh và thúng bị ra gốc khế, định trèo lên hái quả đem ra chợ bán thì thấy trên ngọn cây rung động rất mạnh, như có người đang trèo. Hai vợ chồng nhìn lên thì thấy một con chim rất lớn đang ăn những quả khế chín vàng. Hai vợ chồng đứng dưới gốc cây xem chim ăn, đợi chim bay đi rồi mới trèo lên lấy quả. Từ ấy, cứ mỗi buổi sáng tinh mơ, hai vợ chồng ra hái khế thì đã lại thấy chim ở trên cây rồi. Thấy có người, chim vẫn cứ ăn, ung dung một lúc lâu rồi mới vỗ cánh bay đi. Chim ăn ròng rã như thế ngót một tháng trời, cây khế vợi hẳn quả.
Đến một hôm, đứng đợi chim ăn xong, người vợ mới nói nửa bỡn nửa thật với chim: "Chim ơi, chim ăn như thế thì còn gì là khế của nhà tôi nữa! Cây khế nhà tôi cũng sắp hết quả rồi đấy chim ạ!". Chim nghển cổ, đáp lại: "Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng". Chim nhắc đi nhắc lại câu ấy ba lần rồi vỗ cánh bay đi. Hai vợ chồng thấy chim biết nói đã lấy làm lạ, lại thấy chim bảo mình như thế, nhắc cho mình đến ba lần, nên lại càng suy nghĩ phân vân. Nhưng rồi hai vợ chồng cũng làm theo lời chim. Người vợ lấy vài vuông vải nâu may cho chồng một cái túi, ngang dọc đúng ba gang.
Sáng hôm sau, hai vợ chồng vừa ăn xong thì thấy một luồng gió mạnh cuốn cả cát bụi trước sân nhà, rồi trong chớp mắt một con chim cực kỳ lớn hạ xuống giữa sân, quay đầu vào nhà kêu lên mấy tiếng như chào hỏi. Người chồng xách túi ba gang ra sân, chim nằm rạp xuống, quay cổ ra hiệu cho anh ngồi lên lưng mình. Anh ngồi lên lưng chim, bám vào cổ chim thật chặt, chim đứng dậy vươn cổ, vỗ cánh bay bổng lên trời xanh. Chim lúc bay cao, lẩn vào mây bạc, lúc bay thấp, là là trên rừng xanh, đồi núi trập trùng. Rồi chim bay ra biển cả mênh mông, sóng biếc cao ngất, ập vào sườn những hòn đảo nhỏ, làm tung lên bọt trắng xoá. Anh ngồi trên lưng chim thấy biển tuyệt mù, không biết đâu là bờ... Thốt nhiên, chim bay vào một hòn đảo toàn đá trắng, đá xanh, đá đỏ, đá ngũ sắc phản chiếu ánh sáng rực rỡ, anh chưa từng thấy bao giờ, chim bay một vòng thật rộng xung quanh đảo như muốn tìm một nơi hạ cánh, rồi bay những vòng hẹp hơn, là là trên các ngọn đá, lắm lúc anh tưởng như mình sắp va vào những tảng đá khổng lồ. Bay đến trước mặt cái hang rộng và sâu, chim từ từ hạ xuống. Đặt chân xuống đảo, anh nhìn ngó khắp nơi, tuyệt nhiên không thấy một sinh vật nào, không có đến một ngọn cỏ hay một con chim sâu.
Chim ra hiệu bảo anh vào hang, muốn lấy gì thì lấy. Ở ngay cửa hang, anh đã thấy toàn những thứ đá trong như thuỷ tinh và hổ phách đủ các màu sắc, có thứ màu xanh như mắt mèo, có thứ đỏ ối như mặt trời, còn vàng thì nhiều như sỏi đá. Thấy hang sâu và rộng, anh không dám vào vì sợ lạc. Anh nhặt một ít vàng và kim cương bỏ vào túi ba gang rồi trèo lên lưng chim, ra hiệu cho chim bay về. Chim tỏ vẻ vui mừng, gật gật cái đầu, vươn cổ kêu vài tiếng, rồi vỗ cánh bay lên trời xanh, bay qua biển, qua rừng núi. Mặt trời vừa mới đứng bóng, chim đã hạ cánh xuống cái vườn nhỏ có cây khế ngọt. Người vợ thấy chồng về bình yên, mừng rỡ vô cùng, chạy ra vuốt lông chim tỏ ý cảm ơn, ra hiệu mời chim bay lên cây khế giải khát. Chim bay lên cây khế ăn một lúc, rồi kêu lên ba tiếng như chào vợ chồng người nông dân, rồi bay đi. Từ đấy, lâu lâu chim lại mới đến ăn khế một lần.
Tiếng đồn hai vợ chồng người em đột nhiên giàu có bay đến tai hai vợ chồng người anh. Hai vợ chồng người anh vội vã đến chơi nhà em để dò xét. Nghe em thật thà kể chuyện, người anh gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Hai vợ chồng chỉ lo người em không chịu đổi, không ngờ người em vui vẻ ưng ngay. Hai vợ chồng người anh mừng rỡ như mở cờ trong bụng, lập tức giao hết tàn sản của mình cho em và sáng hôm sau dọn ngay đến ở túp lều tranh trên mảnh vườn nhỏ có cây khế ngọt. Đến ở mảnh đất chật hẹp, hai vợ chồng người anh không làm việc gì cả. Còn được ít tiền hai vợ chồng đem tiêu dần, cả ngày chỉ nằm khềnh ngoài hè, hí hửng nhìn lên cây khế, chờ chim bay đến. Một buổi sáng, có một luồng gió mạnh tạt vào nhà, rồi hai vợ chồng thấy ngọn cây khế rung chuyển, hai người hí hửng chạy ra sân, vội vàng nhìn lên cây khế thì quả nhiên thấy một con chim lớn đang ăn khế.
Chim mới ăn vài quả, hai vợ chồng đã tru tréo lên: "Cả nhà chúng tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn tào ăn huyện như thế thì chúng tôi còn trông cậy vào đâu!". Chim liền đáp: "Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, đem đi mà đựng" rồi chim bay vụt đi. Hai vợ chồng người anh mừng quá, cuống quýt vái theo chim, rồi bàn nhau may túi, cãi cọ om sòm. Mới đầu, hai người định may thật nhiều túi, sau lại sợ chim không bay đi, nên rút cục cũng chỉ may một cái túi như người em nhưng may to gấp ba lần, thành một cái tay nải lớn.
Sáng hôm sau, chim hạ cánh xuống sân trước túp lều tranh, người anh đang ăn, thấy chim đến, bỏ cả ăn hấp tấp chạy ra, tay xách cái túi lớn trèo tót lên lưng chim, còn người vợ vái lấy vái để chim thần. Chim cất cánh bay bổng lên mây xanh, qua núi, qua biển cả, rồi cũng hạ cánh xuống cái đảo lần trước. Từ trên lưng chim bước xuống, người anh hoa cả mắt về những ánh ngũ sắc của các loại kim cương, và ngọc quý chiếu ra. Đến khi vào hang, người anh lại càng mê mẩn tâm thần, quên cả đói, cả khát, cố nhặt vàng và kim cương cho thật đầy tay nải, lại buộc đầu ống quần và tay áo cho thật chặt rồi nhét đầy cả hai tay áo và hai ống quần. 
Chim đợi lâu quá, chốc chốc lại kêu lên vài tiếng vang cả đảo thúc dục anh chàng ra về. Mãi gần chiều, anh ta mới kéo được cái tay nải đầy vàng và kim cương đến chỗ chim đang đợi. Muốn cho vàng bạc khỏi rơi, anh ta đặt tay nải dưới cánh chim rồi lấy thừng buộc chặt tay nải vào lưng chim và vào cổ mình.
Chim vỗ cánh bay lên, nhưng vì quá nặng, mới bay lên khỏi mặt đất một ít lại sa xuống. Sau chim cố gắng đạp hai chân thật mạnh xuống đất, vươn cổ bay bổng lên. Anh chàng ngồi trên lưng chim khấp khởi mừng thầm, cho là chỉ trong vài phút mình sẽ về đến nhà, sẽ có nhà cao, cửa rộng, vườn ruộng khắp nơi, tiêu pha đến hết đời cũng không hết của.
Lúc ấy, chim đã bay trên biển cả, trời trở gió, những con sóng xám xì cất cao lên bằng mấy nóc nhà. Chim bay ngược gió rất là nhọc mệt, cổ gập hẳn xuống, hai cánh mỗi lúc một yếu dần. Túi vàng lớn bỗng nhiên bị gió hất mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi hai cánh, đâm bổ từ lưng trời xuống biển. Chỉ trong chớp mắt, người anh bị sóng cuốn đi, cái túi lớn và những ống quần, tay áo chứa đầy vàng và châu báu dìm anh ta rất mau xuống đáy biển. 
Còn chim chỉ bị ướt lông, ướt cánh một lúc, rồi chim lại vùng khỏi mặt nước, bay về núi rừng.

8. CHUYỆN NGHÈ HOÁ CỌP
Ngày xưa, ở một làng nọ, có một gã thanh niên bố chết từ hồi hắn còn nhỏ và để lại cho hắn một gia sản khá lớn. Hắn dư của ăn học, thường nói với mọi người trong làng: "Thầy tôi khi xưa làm một chức quan nhỏ, tôi nhất định sẽ làm quan to hơn". Rồi đối với những người hắn không ưa, hắn nói: "Ông mà đỗ ông nghè thì chúng bay chết với ông". Đến khoa thi, nhờ đút lót tiền cho quan trường, hắn đỗ hương cống. Đỗ hương cống về làng hắn không còn coi ai ra gì. Đối với người hai thứ tóc hắn cũng mày tao, làm cho cả tổng lo ngay ngáy, chỉ sợ hắn mà đỗ ông nghè thì rồi dân hàng tổng không ai cất đầu lên được. Chẳng bao lâu, cứ lấy tiền mà đút lót, gã thanh niên ấy đỗ ông nghè thật. Đỗ tiến sĩ, hắn được vua ban cho áo, mũ, cờ biển, võng lọng vinh quy về làng, có lính theo hầu có dân làng đón rước.
Đường từ Kinh về làng xa lắm, qua rừng, qua đèo, lội suối, lại đi trong mùa hè nên nhân dân và binh lính phục dịch rất vất vả. Đến một khu rừng rậm, binh lính và nhân dân dừng lại để nghỉ. Mọi người mệt nhọc, nằm dưới bóng mát ngủ thiếp đi. Nghè ta được người võng nên không mệt nhọc gì cả. Thấy rừng xanh um, lại nghe tiếng suối chảy róc rách ở gần, hắn liền dạo chơi, lần đến bờ suối, tìm tảng đá ngồi nghỉ, định nghĩ mấy vần thơ vịnh cảnh vinh quy giữa núi cao rừng thẳm, nhân đây cũng để tỏ "chí thanh cao" của mình. Thấy suối xanh trong và mát lạnh, lại vắng vẻ không người qua lại, nghè định tắm cho thân thể mát mẻ, tinh thần sảng khoái, để nghĩ cho ra những vần thơ hay... 
Hắn cởi quần áo lội xuống suối. Chao ôi! Nước mát làm sao. Nhưng tắm xong, hắn thấy ngứa ngáy khác thường, ngứa và nóng bỏng như rôm sảy mọc lên khắp mình mẩy, hắn lấy tay gãi thì thấy da thịt bị xước, máu chảy ròng ròng. Nhìn các đầu ngón tay, móng tay đã mọc dài nhọn và sắc từ bao giờ , nhìn đến chân tay mình mẩy thì thấy lông lá xồm xoàm. Hắn thấy trong bụng cồn cào như hun, như đốt, cổ họng như bị bỏng, bị khát, tưởng như có thể uống cạn giếng nước đầy. Hắn đến bờ suối, cúi đầu xuống dòng nước trong mát để uống thì thấy mặt mình hoá ra mặt hổ, thân hình mình cũng như thân hình hổ. Hắn kinh hãi quá, lên tiếng gọi quân sĩ thật to, mong họ cứu chữa cho mình, thì tiếng của hắn đã trở nên như những tiếng gầm của hổ. Hắn càng gào thét thì những tiếng ở miệng hắn thốt ra đều là những tiếng gầm vang, chấn động cả khu rừng. Nghè ta thấy mình đá hoá cọp, tức tối chạy rong một lúc, rồi cúp đuôi chạy thẳng vào hang sâu. Quân sĩ và phu tráng đang ngủ say, bỗng nghe tiếng hổ gầm dữ dội, đều thức dậy. Họ tìm khắp nơi không thấy ông nghè đâu, yên trí là ông nghè đã bị hổ tha mất. Mọi người đành nhặt nhạnh khăn gói, cùng nhau ra khỏi rừng tìm đường quang đãng để đi, phu tráng thì trở về làng, còn quân lính thì trở về kinh.
Từ đấy, cứ cách vài ngày, người ta lại thấy một con hổ xám gầm lên những tiếng ghê rợn trên một ngọn núi trọc. Trong có ba tháng trời con ác thú ấy đã ăn thịt hơn mười người qua lại. Chỉ còn một số phường săn đến thăm dò, để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác thú tinh lắm, đặt mồi to và ngon đến đâu cũng không lừa nổi nó. Người ta nói: Trong đêm thanh vắng, nó khóc thút thít như người, săn mãi không được, những người phường săn cũng chán nản, bỏ khu rừng ấy không đến nữa. Câu chuyện ông nghè về vinh quy bị hổ tha mất cũng lu mờ dần trong trí nhớ mọi người.
Năm sáu năm sau, có một anh nông dân cùng làng với nghè hoá cọp đi lính được về làng. Anh đi đến địa đầu khu rừng thì trời đã xế chiều. Anh tính nếu đi qua khu rừng thì sáng sớm hôm sau đã về đến nhà, còn nếu đi vòng qua đồi, qua các bản làng thì hai ngày nữa mới tới nơi. Anh vào một cái quán bên đường uống nước, giở cơm nắm ra ăn và đem việc tính toán đường đi nói chuyện với nhà hàng. Mấy ông già đều khuyên anh không nên đi qua rừng và nói cho anh biết con cọp xám mỗi ngày một hung dữ. Anh vốn người gan dạ, lại đi lính thú đã lâu năm đang nóng lòng gặp gia đình, nên anh quyết băng rừng. Ăn đã chắc dạ rồi, anh vác một ngọn giáo, một bó nứa để phòng làm đuốc, đeo tay nải, bùi nhùi, mạnh dạn đi thẳng vào rừng...
Lâu năm cỏ đã mọc kín đường mòn, phải tinh mắt lắm mới nhận ra lối đi. Anh rảo bước để ra khỏi khu rừng trước khi mặt trời lặn. Mới đầu nghe tiếng lá rơi, tiếng cành khô rơi, anh cũng nhìn trước nhìn sau, rồi càng đi sâu vào rừng, càng thêm hiu quạnh, âm u, nhưng lòng hăng hái của anh càng tăng lên. Không những anh không sợ nữa mà còn thầm nghĩ: "Thật người ta cũng quá nhát! Hổ xám hoạ hoằn mới ra, chứ có đâu lúc nào cũng ngồi chồm chỗm bên đường để rình người". Anh vừa nghĩ xong thì chợt có tiếng động ở một bụi rậm bên đường. Tiếng sột soạt lúc nhẹ, lúc mạnh, như có người đang kéo cành khô, anh cầm chặt ngọn giáo, lắng tai nghe...Thốt nhiên có tiếng gọi, tiếng khàn khàn, ồ ồ như kẻ rụt lưỡi, không hẳn là tiếng người, nhưng dùng lời thì thật sõi: Anh Lương đấy à? Hãy dừng lại, tôi hỏi một tí. Anh nông dân thấy gọi đúng tên mình, liền đứng lại. Trong bụi có tiếng nói tiếp: "Tôi là Bành đây, không biết anh có còn nhớ không? Tên Bành đã đốt nhà anh, làm cho anh phải bỏ làng đi mất mấy năm ấy mà!" Anh nông dân đáp: "Tôi nhớ ra rồi, sao người ta nói anh bị hổ tha đi mất? Còn chuyện cũ kia, thôi đừng nhắc đến làm gì? Nếu có phải anh nhỡ độ đường thì ra đây, tôi đưa về làng. Trời sắp tối rồi!" Có tiếng thở dài trong bụi, rồi có tiếng nói ra: "Tôi chỉ lo anh chưa quên chuyện cũ. Bây giờ thì tôi... tôi không ra với anh được. Anh hãy nán lại một chút, tôi xin kể nông nỗi của tôi cho anh nghe...".
Rồi Bành kể hết mọi việc của hắn từ ngày hắn đỗ ông nghè, về vinh quy và hoá cọp. Anh nông dân hỏi: "Thế bây giờ muốn tôi giúp gì?" Hổ đáp: "Tôi có đứa con trai, ngày vào kinh thi, nó mới lên hai. Tôi lại còn mẹ già và vợ dại... Không biết có còn cả hay không? Nếu còn, nhờ anh trông nom, giúp đỡ cho." 
Rồi hắn hỏi: "Anh Lương ơi! Anh có thịt chín đấy không? Bao nhiêu năm nay, tôi ăn toàn thịt sống, những lúc tỉnh như lúc này, thèm thịt chín quá..." Anh nông dân lục trong tay nải, rồi bảo hổ: "Còn một gói nem và một mẩu chân giò luộc đây. Ra mà ăn!" Con hổ nói một giọng sung sướng: "Xin anh ném vào bụi cho tôi. Bây giờ khắp người tôi lông lá hôi hám lắm, không dám đến gần anh". Anh nông dân ném mẩu chân giò và gói nem vào bụi, rồi dặn con hổ: "Từ nay nên vào rừng sâu, tìm kiếm hươu nai mà ăn, không nên luẩn quẩn trên đường này mà hại người". Hổ đáp: "Xin nghe lời anh".
Từ đó, trong đêm tối, người ta không nghe thấy tiếng con hổ xám gầm trên ngọn đồi trọc nữa. Con đường tắt qua rừng lại tấp nập người qua lại. Và khắp miền ấy, ai ai cũng thuộc câu chuyện ông nghè hoá cọp.

9. CHUYỆN AN TIÊM
(hay chuyện sự tích dưa hấu)
Đời xưa, thời Vua Hùng Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý. Thói thường các quan được một chút lộc Vua thì nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai Vua, Vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương hay không".
Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết. Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu của dân cư cũng không còn, bây giờ chỉ còn thấy trời với nước xanh ngắt một màu.
Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng hàng xóm chia nhau những bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện dưới trăng ! Quay vào hòn đảo hoang vu nàng lại càng khiếp sợ hãi hùng, không biết rồi đây lấy gì mà ăn để sống cho qua ngày tháng.
An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chan chát và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé chẳng bắt được con nào. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu. Tuy nhiên An Tiêm vẫn tin là một ngày khi mình có thể làm cho đời sống khá lên.
Một hôm, có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì ra là một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột và đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảng đất và gieo hạt xuống.
Ít ngày sau mấy hạt dưa mọc mầm đâm lá, bò toả ra khắp khoảng đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc lấy dây dưa lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi ra hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.
Một buổi sáng sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng: - Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào ! An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay tan tác, bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ dưa ra, cả nhà loá mắt vì màu đỏ tươi của ruột dưa.  Đây đó giữa màu đỏ có những hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé thèm nhỏ nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ và không những không xót ruột lại còn đỡ khát và khoẻ người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả dưa cho con ăn đến no.
Bây giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm màu da đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ chỉ gồm một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống dưa ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao nhiêu lần, trăng non, rồi trăng già không biết bao nhiêu bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi đem về bán trên đất liền. Từ đấy, An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà xinh xinh.
Về phần Vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, Vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, Vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc dưa hấu mà chúng ta ăn ngay nay.
Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta chỉ nói có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, chỉ có nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.

10. MỴ CHÂU - TRỌNG THUỶ
Sau khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thần Kim Quy cho vua một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. An Dương Vương chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. An Dương Vương quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.
Lúc bấy giờ Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không lợi, bèn xin giảng hoà với An Dương Vương, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần.
Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu, Trọng Thuỷ được gặp Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng, nhan sắc tuyệt trần. Trọng Thuỷ đem lòng yêu dấu Mị Châu, Mị Châu dần dần cũng xiêu lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành là Mị Châu không dẫn người yêu đến xem. An Dương Vương không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mị Châu cho Trọng Thuỷ.
Một đêm trăng sao vằng vặc, Mị Châu cùng Trọng Thuỷ ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỷ tê, Trọng Thuỷ hỏi vợ rằng: Nàng ơi bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Mị Châu đáp: Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được. Trọng Thuỷ làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe nói đến nỏ thần lần đầu. Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mị Châu không ngần ngại, chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem. Nàng lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thuỷ cách bắn. Trọng Thuỷ chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho vợ cất đi.
Hôm sau, Trọng Thuỷ xin phép An Dương Vương về thăm cha. Hắn thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng Thuỷ giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. An Dương Vương vốn chiều con gái, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thuỷ uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mị Châu say tuý luý. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thuỷ lẻn vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào.
Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, Mị Châu hỏi chồng rằng: Chàng như có gì lo lắng phải không? Trọng Thuỷ đáp: Tôi sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Mị Châu buồn rầu lặng thinh, Trọng Thuỷ nói tiếp: Bây giờ đôi ta sắp xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, tôi biết đâu mà tìm? Mị Châu nói: Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm. Nói xong Mị Châu nức nở khóc.
Về đất Nam Hải, Trọng Thuỷ đưa cái móng rùa vàng cho cha, Triệu Đà mừng rỡ vô cùng, reo lên rằng: "Phen này đất Âu Lạc sẽ về tay ta". Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, vua mới sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. An Dương Vương vội lên ngựa, đèo Mị Châu sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. 
Ngồi sau lưng cha, Mị Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc dọc đường. Đường núi gập gềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co, dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, vua hướng ra biển, khấn thần Kim Quy phù hộ mình. Vua vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo An Dương Vương: "Giặc ở sau lưng nhà vua đấy". An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển tự tận
Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn Trọng Thuỷ một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mị Châu. Đến gần bờ biển, thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Trọng Thuỷ khóc oà lên, thu nhặt thi hài đem về chôn trong thành, rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia Mị Châu thường tắm.
Ngày nay, ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương Vương, còn cái giếng gọi là giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mị Châu đã bị cha giết chết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy được ngọc trai ấy đem về rửa bằng nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong sáng vô cùng.

11. HAI NÀNG CÔNG CHÚA
Vào thời nhà Trần có một ông vua sinh được năm nàng công chúa, trong đó có hai nàng xinh đẹp: một người tên là Bảo Nương; một người tên là Ngọc Nương. Năm hai nàng đến tuổi lấy chồng vua cha toan hạ chiếu kén rể nhưng cả hai đều từ chối. Họ chỉ thích đi xem núi sông, cảnh vật trong nước. Họ tâu với vua cha trong một buổi vấn an: - Thưa cha! Phong cảnh nước nhà ta vô cùng đẹp đẽ. Chúng con chưa muốn lấy chồng. Chúng con chỉ xin phép cha đi chơi một chuyến, để xem cho thỏa thích. Vua Trần không biết làm sao mà can ngăn được, đành chiều ý hai con. Họ cải trang thành hai gã con trai, mang theo một số người hầu, và từ đấy, đoàn du lịch không quản gió sương, đi khắp mọi nơi trong nước, đặt dấu chân ở nhiều danh lam thắng cảnh.
Vào hồi đó, có giặc Nguyên sang cướp nước ta. Quân của chúng rất hung ác, đi đến đâu thì cướp bóc tàn phá đến đấy. Dưới tay chúng, những đình đài miếu mạo cũng như nhà cửa, dân cư đều làm kiếp tro bụi. Nhà vua phái bao nhiêu quân đội đến biên thuỳ nhưng không sao ngăn được bước tiến của chúng. Chẳng bao lâu, chúng đã chia nhau chiếm khắp đầu gò, cuối bãi một vùng hữu ngạn sông Thương, đóng đồn la liệt, để rồi hãm hiếp, chém giết, đốt phá không còn kiêng nể.
Bấy giờ, hai nàng công chúa đang ở bên tả ngạn sông Thương. Vì vùng Đa Mỗi có nhiều phong cảnh đẹp, nên hai chị em sai làm nhà trên bờ sông để tiện trú chân ngắm cảnh. Thấy đất nước dân cư bị tàn phá vì lũ giặc hung hãn, hai nàng xiết bao căm tức. Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép vua cha một phen liều mình để diệt giặc.
Cầm đầu lũ giặc lúc đó ở vùng Bắc Giang có hai tên tướng tiên phong. Chúng lăm le vượt sông tiến nhanh về phía Kẻ Chợ. Hai nàng bí mật bàn với các phụ lão làng Đa Mỗi giúp cho mình được thực hiện mưu kế. Thấy họ quả quyết quá, các phụ lão đành phải vâng lời. Hai nàng bèn trang điểm rất đẹp, giả làm hai cô gái bán hàng ở chợ bên sông, cố làm cho giặc ở bên kia trông thấy. Quả nhiên, hai tên tướng giặc vừa nhác thấy bóng hồng thì tâm thần mê mẩn, chúng liền rút lệnh tiễn cho quân hầu qua sông, truyền lệnh cho làng Đa Mỗi phải đưa sang sông dâng nạp hai người con gái đó, nếu kháng cự thì toàn dân không thoát được cái vạ “làm cỏ” một khi quân “thiên triều” sang sông. 
Hai nàng bảo chúng: - Chị em chúng tôi vẫn có lòng chờ hai tướng quân. Nhưng chúng tôi vốn là con vua cháu chúa, cũng biết chút lễ nghĩa. Nếu hai tướng quân có lòng thương thì cho sang đây hai chiếc thuyền hoa chọn ngày lành tháng tốt, đón về tử tế. Nếu tính chuyện "cầu hợp", thì chị em chúng tôi thà nhảy xuống sông phó cho dòng nước, chứ không chịu để nhơ nhuốc tấm thân. Quân hầu trở về tin lại. Hai tên tướng giặc bèn sai lấy hai chiếc thuyền, trang hoàng đẹp đẽ, cho mười quân hầu và thị nữ mang vàng bạc chèo sang đón về. Thấy chúng đến, hai nàng đón tiếp rất tử tế, sai dọn cỗ bàn mời chúng ăn. Trong khi đó, có mấy người thợ mộc đã cắt sẵn, bí mật lôi thuyền lên bãi dùng khoan, đục mỗi thuyền chừng vài chục lỗ nhưng chú ý đút nút kín lại, rồi đưa xuống nước như cũ. 
Sau khi phái mấy người thân tín phi ngựa về Kẻ Chợ báo tin cho quân triều đình, hẹn ngày tiến quân, đồng thời gửi lời vĩnh biệt của mình tới hoàng hậu, vua cha và anh chị em hoàng thân quốc thích, hai nàng quay ra bảo mấy tên quân hầu của giặc: - Các ngươi về bẩm với hai tướng quân rằng, chị em tôi đã chọn được ngày lành tháng tốt, đúng giờ Thân sẽ xin xuống thuyền sang sông. Nhưng chị em chúng tôi phải lên chỗ muôn tên nghìn giáo thì rất sợ hãi, chỉ mong hai tướng quân cùng đi thuyền đến làm lễ hợp cẩn ngay trên thuyền hoa này.
Đúng ngày hẹn, hai nàng công chúa xuống thuyền. Sắp sang bên kia sông, hai nàng nhất định bắt quân hầu cắm lại để đợi. Quả nhiên, hai tướng giặc chờ không được, phải thân đi thuyền đến. Trông thấy hai nàng xinh đẹp, bọn chúng hết sức thèm muốn. Cho nên sau chén rượu hợp cẩn, chúng đã ra lệnh cho bao nhiêu thuyền khác lui ra xa.
Giữa lúc hai tên tướng giặc đang say sưa vì rượu nồng gái đẹp thì những chàng trai làng Đa Mỗi đã ước hẹn sẵn, lặn ra sông rộng lần đến dưới đáy hai chiếc thuyền hoa, tháo tất cả các nút to nhỏ ra. Nước chảy mạnh vào thuyền và không mấy chốc đã đưa tất cả xuống thủy phủ.
Bấy giờ quân triều đình đã bí mật kéo tới rất đông. Khi được người Đa Mỗi kể lại tin đó, họ vượt sông ba mặt tiến lên đánh úp. Bọn giặc không tướng, như rắn mất đầu nên tan vỡ rất chóng. Cuối cùng, quân ta đã tiêu diệt được cả một cánh tiên phong địch, chặn được bước tiến của chúng, nhờ đó đủ thì giờ cho toàn bộ vua quan và tướng sĩ rút lui.
Về sau, ngày đại quân của nhà vua đuổi giặc ra khỏi đất nước, người ta nhớ đến công lao hai nàng công chúa Bảo Nương và Ngọc Nương nên dựng đền tại nhà của họ ở Đa Mỗi để thờ.

12. CHUYỆN TÌNH TRẦU CAU
Ngày xưa, một viên quan Lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như đúc, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Hai anh em vốn yêu quý nhau, nay gặp cảnh nhà hiu quạnh, lại càng thương nhau hơn trước.
Không còn được cha mẹ dạy dỗ nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu.  Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn, nên được thầy yêu mến như con. Ông Lưu có một người con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi giòn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái sinh lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái múc một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người anh nhường người em ăn, người con gái mới nhận ra được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng. Từ khi người anh có vợ thì tình yêu thương giữa hai anh em không còn được thắm thiết như trước nữa. Người em rất buồn, nhưng người anh vô tình, không để ý đến.
Một hôm, hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về. Người em vào nhà trước. Chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu chạy ra, lầm chàng là chồng mình vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng vừa bước vào nhà. Từ đấy, người anh nghi ngờ em có tình ý với vợ mình, lại càng hững hờ với em.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô đơn quá, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng, nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo vang, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi và sau cùng cũng đến con suối nước xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng vàng. Chàng không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào tảng đá. Chàng có ngờ đâu tảng đá ấy chính là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống, thấm dần vào da thịt chàng. Chàng gọi em rền rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết đứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, cuối cùng cũng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cái cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và ở gần kề tảng đá là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng nước reo át cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu ngêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cái cây không cành, mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm Vua Hùng đi qua bến ấy, dân đem chuyện ba người kể lại cho Vua nghe và rước Vua đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay, nhai thử thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Dân trong vùng gọi cái cây mọc thẳng không cành ấy là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm môi đỏ.
Tình cảm của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu thường là đầu câu chuyện, để bắt mối lương duyên. Và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, ăn trầu đã trở nên một tập tục của dân tộc Việt Nam.

13. HÀ RẦM HÀ RẠC
Ngày xưa, một nhà nọ có hai anh em, cha mẹ mất sớm để lại một tư cơ cũng vào hạng khá trong vùng. Từ trước hai người vẫn ở chung với nhau. Ít lâu sau, người anh lấy vợ, anh bảo em: "Bây giờ đã đến lúc phải chia gia tài ra để cho mày học ăn, học làm với người ta". Đến ngày chia của, anh chìa một tờ giấy, bảo em: "Của cải của cha mẹ để lại có ba giống: giống đực, giống cái và giống con. Mày bé bỏng nên tao nhường cho mày tất cả những đồ đạc có giống đực, còn giống cái và giống con thì phần tao. Nếu mày bằng lòng thì ký vào đây!" Em ngây thơ tưởng anh thương thật nên không nghi ngờ gì cả, ký ngay. Cuộc chia của bắt đầu. Nhưng đồ vật nào mà chả gọi là "cái" hay "con" nên người anh đếm mãi: "Cái nhà này của tao, con trâu này của tao, cái cày này của tao...". Suốt từ sáng đến chiều, những của chìm của nổi, chia đã sắp vợi mà vẫn chưa có một vật nào thuộc giống đực cả. Mãi đến lúc trời đã tối, người em tức mình mới chụp lấy một cây dao rựa dựng ở hè nhà mà nói: Còn đây là "đực rựa" thuộc về phần tôi! Nói xong, người em vác rựa lùi lũi đi ra giữa lúc người anh cười ha hả vì thấy mưu kế của mình đã đạt. Từ đấy, người em ngày ngày vác rựa vào rừng chặt củi làm kế sinh nhai. Vì không có nhà ở nên anh phải nay nằm ở đình, mai nằm ở chùa, ngủ cầu ngủ quán như kẻ cầu bất cầu bơ. Nhưng anh vẫn chăm chỉ làm ăn để khỏi cái nhục ngửa tay xin ăn.
Một hôm, trăng non vừa mọc, anh đang ngủ say, tỉnh dậy tưởng trời đã sáng bèn tới lấy rựa đi miết lên rừng. Đến cửa rừng mới hay là mình nhầm: trời vẫn còn khuya. Bèn nằm duỗi chân dưới một gốc cây cổ thụ đợi sáng nhưng bỗng dưng anh ngủ quên lúc nào không hay. Anh chàng không ngờ rằng nơi đây là chốn chơi đùa của một bầy khỉ. Hôm ấy, chúng cũng kéo nhau đến đây, nhưng khi thấy dưới gốc cây có một người lạ nằm thẳng đuỗn thì chúng nghĩ là một thây người, chúng bèn xúm nhau khiêng đi chôn để lấy chỗ nhảy nhót. Đang đi, anh chàng bỗng tỉnh giấc, toan la lên nhưng thấy chuyện hay hay nên cứ nằm im để thử xem bọn khỉ khiêng mình đi đến đâu. Hồi lâu, anh nghe bọn khỉ dừng lại nói với nhau: Hà rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng! Nhưng trong bầy khỉ có một con khỉ đột đứng đầu, bảo chúng: Hà rầm hà rạc, chôn vào hố vàng, không chôn hố bạc! Thế là bầy khỉ lại tiếp tục khiêng anh tới một chỗ khác xa hơn. Đến nơi, chúng đặt anh xuống rồi kéo nhau trở về gốc cây cổ thụ. Anh chàng nhìn thấy xung quanh mình có những cục vàng sáng chói thì mừng lắm, bèn chờ cho chúng đi khuất mới đứng dậy nhặt đầy túi mang về. Từ khi trở nên giàu có, anh chàng hết làm nhà cửa lại tậu ruộng vườn, nuôi trâu bò, cuộc đời muôn phần tươi hơn trước.
Câu chuyện một người tiều phu lên núi bắt được vàng từ đấy lan đi khắp nơi. Người anh nghe nói nửa tin nửa ngờ. Một hôm, vào ngày giỗ cha, hắn thấy em mình đến tìm mời về nhà ăn giỗ. Hắn vội vã nhận lời. Bước vào nhà em, người anh không giấu được kinh ngạc: Từ dạo ấy đến giờ chú mày làm thế nào mà phát tài dữ vậy? Người em vui vẻ kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện lên rừng gặp khỉ và từ hố bạc tình cờ được chúng chuyển sang hố vàng. Nghe đoạn, người anh mượn ngay cây rựa và cũng chờ một đêm trăng non, một mình vác rựa lên cửa rừng, hắn ta cũng giả vờ duỗi chân nằm dưới gốc cây cổ thụ non. Lát sau, quả có một bầy khỉ đến nhảy nhót xung quanh gốc cây và khi thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui chơi, chúng xúm lại khiêng đi chôn, vì chúng cũng tưởng đó là thây người chết. Nhưng đến lúc nghe bầy khỉ nói: Hà rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng! Thì hắn vội ngẩng đầu cãi lại: Chôn vào hố vàng chứ! Chôn vào hố vàng chứ! Bầy khỉ không ngờ cái thây người vẫn còn sống, cuống cuồng vứt hắn xuống rồi bỏ chạy. Hắn bị lăn xuống sườn núi, va đầu vào đá vỡ sọ chết.

14. EM BÉ THÔNG MINH
Ngày xưa, có một ông vua sai một viên quan đi dò la khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu hắn cũng ra những câu đố oái oăm để hỏi mọi người, nhưng tuy mất nhiều công sức mà chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng. Hắn bèn dừng ngựa lại hỏi: Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? Người cha đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời như thế nào thì đứa con chừng bảy, tám tuổi nhanh miệng hỏi lại quan rằng: Thế xin hỏi lại ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường. Viên quan nghe nó hỏi lại như thế thì há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Hắn thầm nghĩ, nhất định nhân tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Hắn bèn hỏi tên họ hàng làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe nói vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết đích xác hơn nữa, vua giao thử lại. Vua sai cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải chịu tội. Khi dân làng nhận được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng và lo lắng không hiểu thế nào. Bao nhiêu cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ trên xuống dưới, mọi người đều tin là tai vạ. Việc đến tai em bé con nhà thợ cày. Em liền bảo cha: Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai con, còn hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo việc đó. Người cha bực tức: Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi đó con ạ! Nhưng đứa con quả quyết: Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc. Người cha vội ra trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói, bắt cha con họ phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào xét hỏi: Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc. - Tâu đức vua - Em bé đáp - mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho con có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ. Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười, vua phán: Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực thì làm sao mà đẻ được! Em bé bỗng tươi tỉnh: Thế sao làng chúng con nuôi trâu đẻ nộp đức vua được? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ? Vua cười bảo: Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy mà thịt với nhau à? Cậu bé tủm tỉm cười rồi bẩm: Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.
 Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ bảo làm thịt để đãi các quan trong triều. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả bảo: Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim. Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn. Lập tức, vua cho gọi hai cha con vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên ta có nhân tài không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn dài, rỗng hai đầu, để làm sao xâu một chỉ xuyên qua đường ruột ốc. Khi nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan nhìn nhau. Không ai trả lời được câu đối oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của mình đối với nước láng giềng. Các đại thần bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho dễ xâu... Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu, bao nhiêu ông Trạng và các nhà thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán để có thì giờ hỏi ý kiến em bé thông minh nọ. Khi một viên quan mang dụ chỉ của vua đến thì em còn đùa nghịch ở sau nhà. Và khi nghe nói xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu: Tang tình! Tang tình tang! Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang bên thời lấy giấy mà bưng, bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang! Tang tình tang! Rồi bảo: Cứ theo cách đó là xâu được ngay! Viên quan sung sướng, lật đật trở về tâu vua. Quả nhiên con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc trước con mắt thán phục của sứ thần nước láng giềng.
Rồi đó, vua phong cho em làm Trạng nguyên, vua lại sai xây dinh thự ở cạnh hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.

15. SỌ DỪA
Hai vợ chồng nọ đã nghèo lại hiếm con, mãi về già mới được mụn con. Khốn thay, đứa con ấy lại dị hình, dị dạng, lọt lòng mẹ chỉ có cục thịt đỏ hỏn, có mắt, có mũi nhưng không có mình mẩy chân tay. Người ta kể rằng, người vợ vào rừng hái củi, trời nắng to, bà ta khát nước quá, thấy một cái sọ dừa có đựng ít nước mưa, không chần chừ, bà ta bưng lấy uống, thế rồi về nhà có mang. Đủ tháng đủ ngày, bà sinh nở nhưng thấy con không ra hình người, bà ta buồn lắm, định vứt đi. Nhưng nghĩ đến cũng thương, dù sao cũng là khúc ruột đứt ra, bà ta cứ để nuôi, đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lóc trong nhà, chẳng làm được việc gì, một hôm bà mẹ than phiền: Con nhà người ta bằng ấy tuổi đã đi ở chăn bò lấy tiền về nuôi cha mẹ. Còn mày chẳng được tích sự gì! Sọ Dừa nói: Gì chứ chăn bò thì con cũng chăn được. Mẹ cứ hỏi phú ông cho con đến ở chăn bò vậy. Bà mẹ đến hỏi phú ông, phú ông ngần ngại. Cả đàn bò giao cho thằng bé không ra người không ra ngợm, chăn dắt làm sao? Nhưng mà nuôi nó thì được cái tốn ít cơm, công sá chẳng bao, hơn nuôi đứa khác nhiều. Thôi cứ thử xem! Thế là Sọ Dừa đến ở.
Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Hàng ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về chuồng, bò con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Tiết nông nhàn phú ông làm trại trên núi thả bò ăn cỏ, bảo Sọ Dừa ở lại trông, cơm nước có người đưa lên tận nơi. Phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị xinh đẹp nhưng kiêu kỳ, thường hắt hủi Sọ Dừa, còn cô em út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi với Sọ Dừa rất tử tế.
Một hôm, cô út vừa mang cơm đến dưới chân đồi thì nghe tiếng sáo ví von. Cô út lấy làm lạ, rón rén bước lên, nấp sau bụi cây rình xem thì thấy một chàng trai, mặt mũi khôi ngô, đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc đâu đấy. Nhiều lần như thế, cô gái biết Sọ Dừa không phải người phàm trần. Cô đem lòng yêu, có của ngon vật lạ đều giấu đem lên cho Sọ Dừa.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về bảo mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ hết sức sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ, cũng chiều lòng, đành kiếm buồng cau đến gặp phú ông. Phú ông cười mỉa: Ừ được, muốn hỏi con gái tôi, hãy về sắm đủ mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm và một chĩnh vàng cốm đem sang đây làm lễ vấn danh! Tưởng thách thế, mẹ con Sọ Dừa bẽ mặt, không ngờ, sáng hôm sau, Sọ Dừa mang lễ sang đầy đủ. Phú ông lúng túng, nhưng đành gọi ba cô gái lên hỏi xem ý con ra sao. Hai cô chị bĩu môi, nguýt Sọ Dừa một cái rõ dài rồi đi vào. Cô em út e lệ, cúi mắt xuống, tỏ ý bằng lòng, thế là thành đôi thành lứa.
Từ hôm cưới, Sọ Dừa không còn là Sọ Dừa nữa mà hiện thành một chàng trai thanh lịch. Vợ chồng ăn ở với nhau đầm ấm. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra thông minh khác thường, ngày đêm miệt mài đèn sách, chờ khoa thi. Năm ấy, Sọ Dừa đỗ Trạng nguyên. Chẳng bao lâu, có chiếu nhà vua sai quan Trạng đi sứ. 
Khi chia tay, quan Trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi cần đến.
Từ khi cô em út lấy được chồng Trạng nguyên, hai cô chị sinh lòng ghen ghét, định tâm hại em để thay em làm bà Trạng. Nhân quan Trạng đi sứ vắng, hai cô chị sang chơi, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em rơi xuống nước. Một con cá kình đã nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô em lại lấy dao khoét bụng cá chui ra, lấy hai hòn đá đánh bật lửa lên, rồi xẻo cá nướng ăn, sống cho qua ngày, chờ có thuyền đi qua thì gọi vào cứu. Hai quả trứng cũng nở thành một đôi gà đẹp làm bạn với cô giữa cảnh đảo hoang vắng.
 Một hôm, có thuyền quan cắm cờ đuôi nheo lướt qua đảo. Con gà trống thấy, gáy to ba lần: Ò...ó...o... Phải thuyền quan Trạng rước cô tôi về. Quan Trạng cho thuyền vào xem, vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Về đến nhà, quan Trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại dấu vợ trong buồng không cho ra mắt.
Hai cô chị không hay biết gì hết, khấp khởi mừng thầm, chắc chuyến này được thay em làm bà Trạng. Hai cô chị tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro, khóc nức nở ra chiều thương tiếc lắm. Quan Trạng không nói gì. 
Tiệc xong, quan Trạng liền gọi vợ ra giới thiệu với mọi người. Hai người chị xấu hổ quá, lén ra về lúc nào không hay và từ đó bỏ đi biệt xứ.

16. CHIẾC ÁO TÀNG HÌNH
Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay đây mai đó làm nghề chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài bộ đồ nghề làm ăn. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vây, người nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh.
Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu mọi người không tiếc sức. Một hôm, anh không đánh được mẻ cá nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy ông lão ăn mày trần truồng đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.
Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua. Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết tìm cho ra người gảy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá. Ông cụ mê mải gảy đàn không biết có ngừơi tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi: - Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây? Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo: - Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tý. Triều vừa đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi: - Con có nhớ ta không? - Có - Triều đáp ngay - Cụ có phải là người năm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không? - Đúng - Ông cụ trả lời - “Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền ơn con một chiếc áo khác.”. Nói xong ông cụ cởi ngay chiếc áo đang mặc rồi biến mất.
Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy là một bảo vật, có phép làm cho ngừơi ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường hoàng đi vào tận buồng của chúng, lấy tiền gạo ra chia cho những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền ở đâu bay đến trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra giữa công đường mà đánh thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại vẫn không hề tìm thấy một ai. 
Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng trời Phật đã có con mắt.
Cứ như thế, Triều đi khắp mọi nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thỏa mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó khăn nhan nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà vua lấy của ra phân phát cho họ.Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả. Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có mặt, nhưng lại không “xuất đầu lộ diện” bao giờ.
Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý đang ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre ở bờ giậulàm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy bị lộ, nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó hàng ngày anh lại vào kho nhà vua tiếp tục phận sự.
Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra một dấu vết đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới nhạy để chụp vào những nơi mà chúng ngờ.
Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm bướm trắng từ ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại trên những đĩnh bạc trắng xóa, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên vua, vua  sai bỏ ngục để chờ ngày xét xử.
Hồi ấy, có ông vua một nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà vua đã cho quân đội ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch tiến như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác. 
Nghe được tin, Triều liền bảo quan coi ngục tâu vua cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho anh, và gọi anh đến hỏi: - Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã? - Tâu bệ hạ - Anh đáp, - Chỉ cần một mình tôi cũng có thể đuổi được giặc giữ. Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm. Vua liền tháo gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân, vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.
Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ từ lâu được Triều cứu giúp, nay nghe tin anh được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.
Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng, Triều mặc ngay chiếc áo tàng hình vào người rồi cầm gươm đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy toán loạn. Những người đi theo Triều chỉ có việc chia nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình đều bị chém đầu. 
Thấy quân sĩ ngã lòng, tên vua láng giềng đành hạ lệnh rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy đều ca tụng công lao của Triều.
Lúc Triều kéo quân khải hoàn, vua khen ngợi anh hết lời. Vua phong cho anh làm quan đại thần, cắt đất hai huyện cho anh ăn lộc, lại gả con gái cho anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay ở Cao Bằng và Thái Nguyên còn có đền thờ.

17. NGƯỜI THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG
Ngày xưa, ở huyện Nam Xương tỉnh Nam Hà, có một người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết, chồng là Trương Sinh, người cùng làng. Hai vợ chồng yêu nhau, tuy trong cảnh túng thiếu nhưng hai người không bao giờ có điều tiếng qua lại. Chỉ có điều là chàng Trương hay đa nghi, làm cho vợ lúc nào cũng phải ý tứ giữ gìn.
Lấy nhau chưa được bao lâu thì Trương bị gọi đi lính. Lúc ấy, vợ chàng có mang sắp đến ngày sinh. Trương Sinh đi chưa được nửa tháng thì nàng sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Một mình nuôi con mọn, lại có mẹ chồng già, nàng thay chồng làm đủ mọi việc. Mẹ chồng ốm nặng, nàng hết sức chạy chữa trong nửa năm trời nhưng bà cụ không qua khỏi được. Nàng làm ma cho mẹ chồng rất chu đáo, xóm làng ai cũng khen.
Hơn một năm sau, quân lính đều trở về làng. Trương Sinh về thì đứa con trai đã bập bẹ nói. Trương giơ tay bế con thì thằng bé không chịu theo. Anh hỏi nó: "Bố đây mà, sao con lại không cho bố bế?" Thằng bé bập bẹ nói: "Bố tối mới đến kia." Trương Sinh tính đa nghi, trong lòng bực tức, nhưng không nói ra. Đợi khi đứa bé ngồi một mình, chàng gạn hỏi thì thằng bé lại nói: "Đến tối bố mới đến, hễ mẹ đi, bố cũng đi theo,  mẹ ngồi, bố cũng ngồi theo..." Nghe con nói, Trương Sinh yên trí vợ mình đã tằng tịu với một kẻ nào đó trong khi mình đi vắng và kẻ ấy rất say mê vợ mình, nên mới không rời được ra như thế. Thấy vợ xinh đẹp, tươi giòn "gái một con trông mòn con mắt", máu ghen của chàng lại càng xung lên. Trương tra hỏi vợ và giữ kín là không phải do con nói. Nàng một mực chối cãi nhưng chàng không tin, mắng chửi, đánh đập vợ tàn nhẫn.
Làng xóm, họ hàng biết chuyện đến can ngăn, chàng nhất định không nghe, cho là vợ quá khéo cái mồm nên mới được lòng mọi người. Người thiếu phụ uất ức, ôm con khóc nức nở, rồi thừa lúc chồng sang hàng xóm, chị đặt con xuống giường, chạy ra sông, đâm đầu xuống dòng nước chảy xiết. Chồng về, biết sự chẳng lành, vội chạy ra sông, nhưng mò mãi không thấy xác vợ đâu. Đến tối, đứa trẻ khóc, Trương bế con, thắp đèn dỗ con nín. Thốt nhiên, đứa trẻ chỉ vào cái bóng của Trương trên vách và nói: - Bố kia kìa! Thì ra trong những ngày Trương đi vắng, buổi tối đứa trẻ hay hỏi mẹ "bố đâu?", người thiếu phụ thường chỉ vào cái bóng của mình trên vách, nói đùa với con "bố kia kìa". Bây giờ người chồng mới hiểu lời con nói. 
Về sau nhân dân mới dựng miếu thờ nàng họ Vũ gọi là "Miếu vợ chàng Trương".

18. YẾT KIÊU
Ngày xưa có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ Bì làm nghề đánh cá. Một hôm, trời đã tối, Yết Kiêu đi dọc theo bờ biển về làng bỗng nhiên thấy trên bãi cỏ có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau dưới bóng trăng. Sẵn đòn ống, ông xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng. Tự dưng hai con trâu chạy xuống biển, rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc đoán biết là trâu thần. Khi nhìn lại đòn thì ông thấy có mấy cái lông trâu dính vào. Ông mừng quá bỏ vào miệng nuốt đi. Từ đó sức khoẻ của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không một ai dám đương địch. Đặc biệt ông có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt cá, người ta cứ tưởng như ông đang đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới nước luôn sáu bảy ngày mới lên.
Hồi ấy, có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh, vây bắt tất cả thuyền bè, đốt phá chài lưới. Đi đến đâu, chúng cũng cướp của giết người gây tang tóc khắp mọi vùng Duyên Hải. Chiến thuyền nhà vua bị quân giặc đánh đắm mất cả. Nhà vua rất lo sợ, sai sứ giả loan tin trong thiên hạ ai có cách gì lui được quân giặc sẽ phong cho quyền cao chức trọng. 
Yết Kiêu đến tâu với vua rằng: - Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng xin quyết tâm cho lũ chúng nó vào bụng cá. Vua hỏi: - Nhà ngươi cần bao nhiêu người? Bao nhiêu thuyền? Yết Kiêu tâu rằng: - Tâu bệ hạ, chỉ một mình tôi cũng có thể đương đầu với lũ chúng nó. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông làm Đô Thống, chỉ huy thuỷ quân đánh giặc. 
Ông đến Vạn Ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi. Đoạn ông bảo họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa, rồi một mình lặn xuống đáy biển, tiến ra chỗ tàu giặc, tìm đến đáy tàu vừa khoan vừa đục. Ông làm rất lẹ và rất im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Trong một hôm, chúng bị đắm luôn một lúc hơn hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng hốt rối rít cả lên. Chúng sai những tên quân tài bơi lội xuống nước do thám. Mấy tên quân dò tìm mãi mới thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc tàu. Bọn chúng xông lại nhưng ông không để cho một đứa nào trở về.
Quân giặc vô cùng sợ hãi. Về sau tên tướng giặc đem một cái ống nhòm bằng thuỷ tinh có phép nhòm được thấu qua nước đến đáy biển. Chúng thấy ông đi lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó bằng sắt nhè lúc ông mải đục một chiếc tàu, buông xuống chụp lấy ông. 
Quả nhiên chúng vớt lên và bắt sống được Yết Kiêu, lập tức chúng tra khảo ông:- Trong nước mày những người lặn như mày có bao nhiêu người? Ông bảo chúng: - Không kể những người đi lại dưới nước suốt mười ngày không lên, còn như hạng ta thì một trăm chiếc tàu của chúng mày cũng không chở hết. Hiện giờ ở dưới đó hết lớp này xuống lại lớp kia lên không mấy khi vắng người. Nghe nói thế, bọn giặc kinh sợ, chúng dỗ dành:- Mày muốn tốt phải đưa chúng tao đi bắt, sẽ có hậu thưởng, nếu không chúng tao sẽ giết chết. Làm ra vẻ đắn đo vì tính mạng, ông gật đầu: - Được, ta sẽ chỉ cho.
Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông nhảy tòm xuống nước trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân giặc đã bị thiệt hại nặng, lại nghe Yết Kiêu nói nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy nhiễu nữa.
Nhà vua mừng quá khen ngợi Yết Kiêu vô cùng, phong ông làm Đại Vương. Sau khi ông mất, mọi người nhớ ông lập đền thờ ở cửa Vạn Ninh và ở nhiều cửa biển khác.

19. CÂY TRE TRĂM ĐỐT
Đời xưa có một trưởng giả gian ác, xảo trá. Hắn ta dùng mọi thủ đoạn để bóc lột người ở và người làm thuê cho nó, nhờ đó mà hắn trở nên giàu có nhất vùng. Hắn có người con gái út, có nhan sắc, chưa chồng. 
Trong nhà có anh Khoai, ở với hắn từ thuở nhỏ, làm đủ trăm công ngàn việc nhọc nhằn. Năm anh mười tám đôi mươi, vì sợ anh đi nơi khác, một hôm hắn gọi anh lên bảo: - Mày chịu khó ở với tao làm lụng cho thật giỏi, thức khuya, dậy sớm, siêng năng, rồi tao gả cô út cho mày. Anh Khoai nghe nói tưởng thực, mừng lắm từ đó lại làm việc gấp năm gấp mười lần. Được ba năm, bấy giờ cô út đã lớn lắm rồi. Nhân trong vùng có một cai tổng khét tiếng giàu có đến hỏi cô con gái cho con trai nó, lão trưởng giả nhận lời chuẩn bị làm lễ cưới linh đình. 
Thấy mình bị lừa, anh Khoai bực lắm, lên hỏi lão trưởng giả: - Ông đã hứa gả cô út cho tôi, sao bây giờ nuốt lời mà lại gả cho kẻ khác? Hắn ta hầm hầm nổi giận, định đánh cho anh ta một trận, song nghĩ thế nào hắn lại thôi. Hắn trả lời anh rằng: - Ấy! Tao thấy năm nay cô út cũng đã lớn rồi, cho cưới đi thì vừa. Tao chuẩn bị đám cưới là chuẩn bị cho mày đấy chứ! Nhưng mày mà muốn cưới ngay thì mày phải làm cho tao cái việc này: Mày chịu khó lên rừng tìm lấy một cây tre có một trăm đốt, mày gánh về đây để vót đũa dùng trong cỗ cưới, làm xong thì tao cho mày cưới cô út ngay. Khoai thật thà tin, lập tức vác dao lên rừng. Nhưng hết ngày nọ đến ngày kia, hết khu rừng này đến khu rừng khác anh tìm đâu cũng không ra cây tre có đủ trăm đốt. Thất vọng, anh ngồi trong khu rừng khóc hu hu. Bỗng anh thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, da đỏ hồng hào, mắt sáng, miệng tươi, khoan thai chống gậy đến gần anh hỏi:- Làm sao con khóc? Khoai thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Ông lão nghe xong bảo rằng: - Con đi chặt cho đủ một trăm đốt tre, mang về đây cho ta. Anh nghe lời, vác dao chặt bên tả, bên hữu, chỉ một loáng đã đủ một trăm đốt tre. Ông lão khẽ bảo: - "Khắc nhập ! Khắc nhập". Vừa đọc xong, thì trăm đoạn tre đang nằm ngổn ngang, tự nhiên chạy tới với nhau, nối liền lại thành một cây tre đủ trăm đốt. Khoai mừng quá, toan sụp xuống lạy tạ ông lão nhưng ông cụ đã biến mất rồi. Lúc này anh mới biết đó là ông Bụt.
Anh ghé vai định vác tre về nhà, nhưng không làm thế nào mà đi được vì tre dài quá, nó cứ vướng vào cây này, cây khác giữa rừng. Lo buồn, anh lại ngồi xuống và khóc hu hu. Tức thì anh lại thấy ông Bụt hồi nãy hiện lên. Ông hỏi: - "Làm sao con khóc?". Anh kể rõ sự tình. Bụt đưa tay chỉ vào cây tre mà đọc: - "Khắc xuất ! Khắc xuất". Tự nhiên cây tre lại rời từng đốt. Anh bó lại làm hai bó, gánh về nhà.
Lúc về tới nơi thì thấy hai họ đông đảo đang ăn uống ồn ào và đầy sân bày cỗ đang trực sẵn để rước dâu đi. Anh tức quá xông thẳng tới trước mắt lão trưởng giả mà hỏi, thì hắn cười bảo anh rằng: - Tao bảo mày đốn cho được một cây tre có một trăm đốt, chứ tao bảo mày đốn một trăm đốt tre đâu. 
Cả hai họ ngừng tay đũa, đều cười theo chế nhạo anh Khoai khờ khạo. Anh bảo lão trưởng giả ra sân mà xem. Rồi anh khẽ đọc: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Tức thì trăm đốt tre dính liền nhau thành một cây tre dài và dính luôn cả lão trưởng giả vào đấy, hắn cố dứt mấy cũng không ra. 
Lão cai tổng thông gia và con trai lão thấy thế cũng chạy ra định gỡ, anh Khoai đợi hai đứa tới gần, lại khẽ đọc: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Lập tức lão cai tổng và con trai đều dính vào với lão trưởng giả, càng giãy càng đau, cả ba ôm nhau kêu khóc.
Cả hai họ lúc bấy giờ tái mặt, dựng tóc gáy, không còn ai nghĩ đến chuyện ra gỡ hoặc chế nhạo nữa. Họ mặc áo rộng, đứng sắp hàng van xin anh Khoai thả ba người kia ra. Chờ một lúc lâu, anh Khoai mới đọc khẽ: - "Khắc xuất! Khắc xuất!". Bấy giờ hai thông gia và chú rể mới rời nhau ra được và cây tre cũng đổ xuống, chia làm trăm đoạn.
Nhà trai thoát nạn cuốn gói ra về và lão trưởng giả ngay ngày hôm sau phải gả cô út cho anh Khoai.

20. CÔNG CHÚA BÁN THAN
Ngày xưa có một ông vua sinh được ba nàng công chúa. Ba nàng đều xinh đẹp như nhau, nhưng tính tình lại rất khác nhau. Hai công chúa lớn chỉ sống ỷ lại. Cả hai đều lấy được chồng con nhà quan, giàu có. Sẵn có vàng bạc của cải, ngày ngày hai nàng chỉ ngồi ăn chơi. Công việc nhà cửa đều phó thác cho người làm, người ở. Còn công chúa Ba thì nghĩ và làm khác hai chị. Nàng không sống dựa vào giàu có mà trái lại rất siêng năng làm việc và nhất định không chịu lấy chồng con nhà giàu.
Một hôm, vì không nhận lời con trai quan tể tướng nên công chúa Ba bị vua cha đuổi ra khỏi cung. Nhà vua sai người trao cho nàng một con ngựa mù và nói: - Mày đã không muốn sống giàu có thì hãy đi ra khỏi nhà này. Ta muốn xem mày làm giàu cách nào bằng hai bàn tay kia và cấm không được trở lại cung điện chừng nào chưa có nhiều tiền bạc của cải hơn hai chị gái. Công chúa Ba không chút buồn rầu, nàng vỗ về con ngựa mù và nói: - Sau này ta sẽ trở nên giàu có và chữa cho ngựa khỏi mù. Nói rồi nàng nhảy lên lưng ngựa, lặng lẽ lên đường. Con ngựa tuy mù cả hai mắt nhưng đi rất đều chân. Đến lúc xẩm tối, ngựa dừng lại trước một túp lều nho nhỏ ven đường mòn bên một cánh rừng. Công chúa xuống ngựa vào bước vào lều. Nàng hỏi ra mới biết đây là nhà của một bà già goá chồng. Bà cụ đã ngoài sáu mươi tuổi, có một người con trai vừa tròn ba mươi, chuyên làm nghề đốt than. Vì vậy người ta quen gọi chàng là chàng Đốt Than.
Sau một hồi chuyện trò thăm hỏi, công chúa tự xưng tên và hoàn cảnh của mình và nàng có ý xin ở lại làm dâu bà cụ. Nghe nói vậy bà cụ sợ hãi chắp tay vái lạy công chúa và hết lời từ chối. Chàng Đốt Than cũng không dám nhận lời. Chàng mời công chúa nghỉ lại một đêm rồi sáng sớm mai công chúa định đến đâu chàng dẫn đi đến đó. Công chúa Ba hết sức thành thực xin ở lại làm dâu bà cụ và làm vợ chàng Đốt Than. Bà cụ không còn cách nào từ chối, đành phải nhận lời. Sau bữa cơm rau bình thường, công chúa hỏi han mọi việc làm ăn và mọi sinh hoạt sớm tối ở trong nhà. Ba mẹ con thân mật trò chuyện mãi tới khuya.
Sáng hôm sau, hai mẹ con bà cụ lại mỗi người mỗi việc như thường lệ. Bà cụ dậy sớm nấu cơm cho con trai ăn trước khi đi làm. Chàng Đốt Than cũng dậy rất sớm quẩy sẵn hai gánh nước cho mẹ. Công chúa cũng bắt tay vào công việc. Nàng dậy sớm hơn mọi hôm ở trong cung điện để dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân ngõ, thả ngựa đi ăn cỏ. 
Sau bữa cơm sáng, chàng Đốt Than lại đeo dao, quẩy sọt vào rừng. Công chúa Ba ngỏ ý muốn đi theo nhưng bà cụ bảo nàng ở lại cùng cuốc vườn để kịp trồng ngô đúng ngày đúng vụ. Nàng làm việc suốt từ sáng đến chiều nên rất mệt. Đến cuối buổi nàng còn tranh thủ cắt thêm một gánh cỏ cho ngựa ăn đêm. Chiều tối, chàng Đốt Than quẩy một gánh than về. Công chúa ra tận ngõ đón chồng. Từ khi có vợ, chàng không phải đi chợ bán than như mọi khi nữa. Việc bán than đã có vợ giúp nên chàng có nhiều thì giờ vào rừng và đốt ngày càng được nhiều than hơn.
Công chúa Ba đã quen dần với công việc. Sau mỗi buổi đi chợ về, nàng lại vác cuốc ra làm vườn. Một hôm, nàng cuốc phải một vật rất cứng màu vàng, to bằng quả trứng, nhặt lên xem thì đó là một cục vàng, thấy con dâu nhặt hòn đá cho vào túi bà cụ phì cười cho là người cung các muốn chơi đá làm cảnh và cũng không hỏi nàng. Sáng hôm sau công chúa lại cuốc được một cục vàng giống như hôm trước, nàng lại nhặt bỏ vào túi rồi đem cất vào đầu giường nằm. Ngày ngày nàng vẫn cùng mẹ chồng cuốc đất rồi tiếp tục cùng bà cụ gieo trồng. Chàng Đốt Than vẫn vào rừng làm than và quẩy về mỗi ngày một gánh nặng.
Tuy bận việc suốt ngày nhưng công chúa không lúc nào quên con ngựa. Hôm nào nàng cũng dành thì giờ cắt thêm cỏ, hái thêm lá rừng cho ngựa ăn đêm. 
Một hôm dắt ngựa đi uống nước nàng gặp một đạo sĩ. Thấy con ngựa béo đẹp nhưng lại mù, đạo sĩ đứng lại hỏi chuyện. Công chúa ngỏ ý muốn chữa mắt cho ngựa. Đạo sĩ mách, muốn chữa cho ngựa khỏi mù thì phải lấy lá mản ở trên đỉnh núi Tiên cho ăn và lấy nước giếng phun ở trên đỉnh núi Tiên cho uống trong ba tháng liền. Công chúa cảm ơn đạo sĩ. Rồi từ đấy, chiều nào, sau khi làm vườn xong nàng cũng nhanh chân leo lên đỉnh núi Tiên hái lá mản và múc nước thần về cho ngựa. Nàng kiên trì làm công việc này trong suốt ba tháng ròng. Quả nhiên con ngựa đã khỏi mù.
Một hôm, nàng ngỏ ý muốn theo chồng vào rừng đốt than nhưng chồng không ưng vì sợ vợ không leo được lên dốc. Chờ chồng đi khỏi, nàng lén theo sau. Tới nơi, công chúa hỏi chồng cách đốn cây chặt cành rồi nàng bắt tay vào công việc. Công việc chặt cây rồi cũng quen dần. Chẳng bao lâu những khúc cây chặt xếp đống chật xung quanh lò than. Công chúa bàn với chồng đào thêm một hai cái lò nữa.
Sáng hôm sau, vừa coi lò, chàng Đốt Than vừa cùng vợ đào thêm cái lò thứ hai. Đang đào, chợt công chúa thấy hai cục vàng, rồi bới lại được thêm hai ba cục nữa. Nàng kêu lên sung sướng. Sau đó hai vợ chồng còn tìm thêm được rất nhiều vàng nữa. Công chúa dặn chồng phải giữ kín chuyện và tìm cách chuyển vàng dần về nhà. Từ hôm ấy, chiều nào hai vợ chồng cũng gánh về một gánh than và cho ngựa thồ thêm một gánh. Trong thồ và gánh than nào cũng có mươi, mười lăm cục vàng. Suốt ba tháng trời, hai vợ chồng nàng đã chuyển hết hang vàng về nhà, chôn giấu cẩn thận.
Vườn ngô do hai bàn tay nàng và bà mẹ vun trồng đã tới vụ bẻ. Nàng phải cùng chồng dựng thêm lều chứa ngô thu hái về. Từ đấy, trong nhà đã có đủ ngô ăn quanh năm và có vàng chi dùng.
Thấy trong nhà đã có vàng gấp năm gấp mười kho vàng của vua cha, công chúa bàn với chồng và mẹ dựng nhà tậu trâu, mua ruộng. Nàng bảo chồng vào cung đo nhà của nhà vua để làm một cái nhà y như thế. Chàng Đốt Than theo lời vợ dặn vào cung đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của cung vua. Nhà vua thấy vậy liền quát hỏi chàng Đốt Than. Chàng không chút sợ hãi đáp: - Tôi là người đốt than, chồng của nàng công chúa Ba, là con rể của vua. Theo lời công chúa, tôi vào đây đo đạc cung vua để về dựng một cái nhà to cao như vậy.  Nghe xong nhà vua giận lắm, lớn tiếng quát tháo và sai lính đuổi chàng Đốt Than. Hai công chúa lớn cũng ra sân xỉa xói, xỉ vả, mắng nhiếc chàng thậm tệ. Chàng Đốt Than không nói không rằng, bình thản đi ra cổng thành. Về đến nhà, chàng kể lại cho vợ nghe câu chuyện vừa xảy ra ở trong cung điện. Công chúa an ủi chồng: - Sau này ta sẽ làm vua cha và hai chị biết. Bây giờ chàng hãy chịu khó ít lâu.
Chàng Đốt Than vào thành thuê một đoàn thợ về xây nhà. Đoàn thợ làm ngày làm đêm, chỉ trong vòng hai tháng, toà nhà đã dựng xong. Ngày về nhà mới, nàng bảo chồng sang mời vua cha và hoàng hậu sang chơi. Lần này vua không quát như trước nhưng vua mỉa mai bảo chàng Đốt Than về làm kiệu bằng vàng và võng vàng sang đón thì vua và hoàng hậu mới đi. Công chúa Ba cho thợ đúc ngay một cái kiệu vàng và một cái võng vàng sang đón vua và hoàng hậu. Thấy vậy, nhà vua lấy làm lạ lắm. Tuy vua không ưa gì nàng công chúa ngang ngạnh, khó bảo nhưng cũng muốn đến tận nơi xem công chúa làm ăn như thế nào. Vua cùng hoàng hậu và hai công chúa lớn sang bên nhà công chúa Ba.
Bốn người đến nhà công chúa Ba giữa lúc trong nhà đang đông nghịt những khách đến chúc mừng nhà mới. Ngắm nhìn toà nhà đồ sộ, cột, kèo, xà đều chạm trổ rồng phượng công phu, lại sơn son thiếp vàng sáng chói, nhà vua càng ngạc nhiên. Hai công chúa chị ngẩn người, hết ngắm nhà cửa lại nhìn mâm bàn rồi cùng nhau gật gù thầm khen em gái mãi. Cùng lúc ấy, con ngựa trong tàu hý vang. Chàng Đốt Than dắt con ngựa ra sân. Con ngựa ngẩng cao đầu, vểnh đôi tai, đập bốn vó thình thịch, hý vang như có ý chào mừng nhà vua, hoàng hậu và hai công chúa chị. Nhìn con ngựa tốt, khoẻ mạnh, hai mắt lành lặn và sáng ngời, nhà vua vô cùng cảm động, đến bên ôm lấy cổ ngựa vỗ về.
Sau ba ngày ăn uống linh đình mừng ngôi nhà mới, nhà vua cùng hoàng hậu và hai công chúa chị ở lại chơi thêm vài ngày. Người nào cũng hỏi han đủ điều. Nghe công chúa Ba kể đầu đuôi mọi công việc làm ăn trong những tháng năm qua, nhà vua hết lời khen ngợi. Biết hai công chúa chị ngồi ăn núi lở, vốn liếng đã cạn nhiều, công chúa Ba tặng mỗi chị vài chục cục vàng. Nàng tha thiết khẩn khoản mời hoàng hậu ở lại với nàng cho vui. Từ đó vợ chồng nàng cùng sống với hai bà mẹ những ngày tháng yên ấm, hạnh phúc.

21. HAI ÔNG TRẠNG NHỎ
Xưa, có một tên vua kiêu căng, tự cho mình là thông minh nhất thiên hạ, thường bày các trò chơi hay câu đố theo ý thích để cuộc với người khác, cốt để khoe khoang tài mình.
 Một hôm, vua sai người bếp phải đi tìm cho được giống dưa đỏ ruột. Người bếp rất lo sợ vì ở miền núi này có bao giờ ai biết tới giống dưa lạ kỳ đó. Thậm chí anh cũng chưa thấy ai nhắc đến bao giờ. Mặc dầu vậy anh vẫn phải đi tìm dưa đỏ ruột vì lệnh vua như lệnh trời. Anh lang thang dọc đường, buồn lắm. Có hai em học trò nhỏ thấy vậy, hỏi chuyện anh. Nghe rồi, các em nói: - Anh đừng lo, anh bế chúng em qua chỗ cây đổ chắn đường này, chúng em sẽ mách anh nơi có dưa đỏ ruột. Qua được chỗ khó đi, các em cười nói: - Anh cứ mua trứng gà, trứng vịt cho vua ăn là đúng ý. Người bếp như chợt tỉnh, mừng quýnh, tìm mua ngay trứng gà, trứng vịt về trình vua. Vua gật đầu khen ngợi.
Mấy hôm sau, vua lại muốn ăn món râu tôm trên cạn. "Phải tìm mua được", lệnh vua ban. Người bếp lần này lại lúng túng, lo sợ không kém lần trước. Đi hỏi ai người ta cũng chế giễu anh. Anh chán nản, lang thang trên rừng, định bụng nếu không làm vừa lòng vua thì không về nữa. Anh lại gặp hai em bữa trước. Hai em đang chơi, lại đòi anh bế qua chỗ cây đổ, các em sẽ mách nơi có giống tôm trên cạn. Anh bếp vui lòng giúp các em. Hai em hồn nhiên cười nói: - Cái ấy có gì khó, anh cứ mua kiệu về cho vua ăn là đúng thôi! Lần này thì tên vua ngạc nhiên lắm. Hắn chịu anh bếp là người thông minh. Nhưng thấy có người đoán biết ý mình, tự nhiên lòng hắn không vui. Hắn nghi ngờ, gọi người bếp lên tra hỏi xem ai đã mách nước. Người bếp phải thú thật. Tên vua tức lắm, cho hai đứa trẻ như thế là hỗn láo.
Vua sai người mang hai gói thuốc độc tới bắt hai em phải uống để trừng phạt, nhưng lại nói dối là hai gói thuốc bổ vua thưởng cho người thông minh. Các em biết dã tâm của vua nhưng không cưỡng lại được đành cầm lấy thuốc. Các em xin phép được nói chuyện với mẹ trước khi uống thuốc. Các em dặn mẹ: - Tên vua độc ác, định hại chúng con. Nếu chúng con chết thì mẹ đừng chôn vội, cứ đặt chúng con nằm trên gác, bắt hai tổ ong về, để hai cuốn sách bên cạnh cửa sổ. Khi nào được tin vua chết thì mẹ gọi một người mù và một người què đi chôn chúng con. Mẹ bảo người mù đi trước, người què đi sau. Xong đâu đấy, các em uống thuốc ngay trước mặt người nhà vua cử đến. Thấy các em uống rồi họ mới ra về. Thuốc ngấm, chỉ lát sau các em chết. Bà mẹ đau đớn thương xót hai đứa con kháu khỉnh, thông minh của mình mà chỉ dám lau nước mắt khóc thầm. Bà làm đúng như lời các con dặn.
Trên gác, từ lúc đó có tiếng ong kêu, như trẻ con khóc. Cơn gió nhẹ thổi qua cửa sổ lật đi lật lại những trang giấy như có người đang giở sách. Tên vua sai người đến dò chuyện. Quân hầu về báo với vua rằng hai đứa trẻ vẫn còn sống. Lúc thì chúng khóc, lúc thì chúng giở sách đọc ê, a... Vua nghe tức lắm, cho là thuốc không hiệu nghiệm, liền lấy chỗ còn thừa uống thử. Vua bị nhiễm độc, chết ngay tức khắc.
Tin vua chết lan nhanh khắp nơi. Bà mẹ nhớ lời hai con, đi gọi ngay anh mù và anh què đến giúp việc. Mù khiêng áo quan đi trước, què khiêng sau. Mù không thấy đường, vướng phải sợi dây rừng. Anh què chặt luôn dây, sợi dây bật mạnh đúng khớp xương tàn tật của anh. Khớp xương tự nhiên nhập vào nhau, anh què khỏi què. Cầm dây lên xem anh mù lấy nhựa xoa vào mắt, dụi mấy cái bỗng nhiên thấy mắt sáng, nhìn rõ trời đất như mắt người thường. Cho đó là thuốc quý, hai anh liền đặt áo quan xuống, mở ra lấy nhựa cây rừng xoa lên khắp mình hai em. Da dẻ các em tự nhiên hồng hào trở lại. Đôi mắt các em chớp chớp rồi mở hẳn. Mũi các em phập phồng. Hai em đã sống lại.
Bốn người may mắn, lành lặn, rủ nhau trở về làng.

22. LÁ THUỐC
Có một bà goá nghèo sống trong một túp lều rách nát, tần tảo nắng sương nhịn ăn, nhịn mặc dành dụm nuôi ba đứa con trai từ tấm bé cho đến lúc lớn khôn. Năm tháng làm lụng vất vả, bữa đói bữa khát, sức bà mỗi ngày một yếu và rồi bà lâm bệng nặng. Thấy mẹ lâm bệnh nặng, người con út lo lắng, anh đi hết thôn nọ đến bản kia tìm thuốc, kiếm thức ăn về cho mẹ. Trong lúc ấy thì người anh Cả, anh Hai thì thậm thụt bàn nhau. Anh Cả nói: - Bố chết, để lại cho chúng ta chỉ có một cái nỏ và ống tên, một cái ninh đồng đồ xôi, một cái chài. Bây giờ mẹ chết, tao là anh Cả, tao phải lấy cái nỏ và ống tên, cái ninh, còn cái chài thì phần chú. Anh Hai nói: - Không được rồi, nỏ và tên còn mới, ninh bằng đồng, còn cái chài kia chỉ là sợi gai và nó đã rách. Còn hai thứ ninh và nỏ, anh phải chia thêm cho tôi một thứ.
Thế rồi, người nhận nỏ, kẻ nhận ninh mãi vẫn không ngã ngũ. Cuối cùng anh Cả lấy quyền của mình và gọi cả chàng út đến nói: - Tao là anh Cả, tao lấy cái ninh, thằng Hai lấy cái chài và nỏ, thằng út lấy cái lều này mà ở. Chàng út buồn rầu bảo hai anh: - Các anh thích cái gì thì cứ việc lấy, còn tôi, tôi chỉ cần lo cho mẹ qua được cơn bệnh nặng này. Người mẹ thấy các con bàn tính nhau chia của trong lúc mình chưa qua khỏi liền uất lên và tắt thở. Ba anh em lo khâm niệm mẹ, nhưng khi mọi việc đã xong thì tạo bản không cho chôn trong nghĩa địa của bản vì tang chủ không có đủ rượu, thịt, gạo làm lễ cúng nhập hồn với ma bản, ma rừng. Tạo bản bắt ba anh em phải khiêng mẹ đi một ngày đường mới được chôn cất. Thấy vậy, anh Cả vội phân chia việc: - Tao đưa mẹ đi từ sớm đến trưa, thằng hai đưa mẹ từ trưa đến chiều, thắng út đưa mẹ từ chiều đến tối.
Khi đưa người xấu số về nơi an nghỉ cuối cùng, bà con dân bản đều có mặt đông đủ để tiễn đưa. Người anh khôn ngoan nhờ các trai bản khiêng giúp linh cữu, tới lúc mọi người khấn chào người quá cố ra về thì anh Cả nói với hai em: - Tao đã hết phận sự và phải quay về lo liệu nhà cửa, chúng mày hãy đưa mẹ đến nơi an táng. Người anh Cả ra về, còn lại hai anh em, họ vất vả lắm mới khiêng được quan tài mẹ đi. Tới chiều, anh Hai nói: - Út ơi! Tao đã hết phần việc của mình, mày hãy đưa mẹ đi tiếp lo chôn cất cho mẹ. Nói xong, anh quay về.
Mặt trời sắp hết nắng, còn lại một mình giữa rừng sâu, anh út ôm lấy quan tài mẹ khóc thảm thiết. Các loài chim nghe thấy tiếng khóc của người con trai gọi mẹ, chúng thấy lạ, hết đàn nọ đến đàn kia bay lại quanh anh. Khi biết rõ sự việc, chúng đồng thanh hót theo những giọng trầm buồn. Bỗng một con chim mỏ vàng, chân bạc bay tới sau cùng, nói được tiếng người, bảo anh: Đừng khóc! Chàng trai! Theo đường thẳng đó, gặp cây hoa đỏ, lá óng ánh xanh, hái về cho nhanh, đắp lên miệng mẹ. 
Theo lời chim mách, chàng út lần ngược theo khe nước gần đấy, anh gặp những cây có lá xanh óng ánh, hoa đỏ rực rỡ, anh hái lấy ba lá, đem về nhai ra rồi đắp lên miệng mẹ. Một lúc sau người mẹ từ từ mở mắt, anh mừng quá gục đầu vào lòng mẹ thổn thức. Chàng út đưa mẹ về đến nhà thì gà đã gáy sáng lần thứ nhất. Lúc ấy, anh Cả, anh Hai vẫn chưa ngủ vì họ còn cãi nhau ai lấy nỏ, ai lấy ninh, lấy chài. Người em gọi mở cửa. Họ tưởng mẹ đã hoá thành ma hiện về, người anh Cả hốt hoảng tay vái lia lịa, miệng líu ríu khấn: Ơi mẹ thương! Mẹ quý! Vắng mẹ có một đêm chúng con thương mẹ không tài nào nhắm mắt được. Chúng con đã lo liệu cho mẹ mồ yên mả đẹp, mẹ hãy trở về trời của mẹ đi, ngày mai chúng con sẽ mua trâu mổ để cúng mẹ! Người anh Hai cũng vội vàng chắp tay lạy và nói theo: Lạy mẹ thương! Lạy mẹ quý! Chúng con đang bàn lấy những thứ còn lại để mua trâu cúng cho mẹ đấy, mẹ hãy phù hộ cho chúng con. Người mẹ mệt mỏi, đưa mắt nhìn hai người con rồi bảo: - Đủ rồi! Đủ rồi! Chúng mày hãy xéo đi đâu thì đi đi. Út ơi! Vào trải đệm cho mẹ ngủ, mẹ mệt lắm rồi. Thấy chàng út vào, hai người anh ngơ ngác, mặt cắt không ra một giọt máu và đến lúc ấy họ mới tin được là mẹ sống lại.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Tiếng lành chở bằng thuyền xuôi tận mường Kinh vùng biển, thồ bằng xe ngựa lên đến ngọn núi cao người Mèo, rằng "Có ba anh em nhà nọ, người em út thương mẹ, thương từ trong lòng thương ra và được chim thần mách cho thuốc thần để cứu sống mẹ. Còn hai người anh thương mẹ chỉ thương cửa miệng nên đang ế vợ!". Tiếng đồn đi xa, rồi tiếng đồn lại trở lại chui vào tai hai người anh kia. Chỉ nghe lời đồn, hai người anh đã thấy bực bội trong người. Không những thế, họ đi đến đâu các cô gái mường, gái bản cũng đều tránh mặt họ và còn nói bóng gió: "Hổ vằn ngoài da, con người ta vằn trong bụng". Suy đi tính lại, nếu không có thằng út kia thì họ đâu đến nỗi thành tiếng thành tăm như thế, tất cả là do thằng út và họ căm ghét đứa em mình thật sự.
Năm ấy, cô con gái của chẩu mường ở mường nọ không may bị bệnh nặng và khó qua được cái chết. Chẩu mường cho loan báo: Nếu ai chữa khỏi bệnh cho con gái thì chẩu mường sẽ gả cho làm vợ và cho cai quản nửa mường.
Nghe được tin đồn đó, người anh Cả dỗ ngon dỗ ngọt chàng út: - Út ơi! Em hãy giúp anh nhé! Em chịu khó vào rừng lấy cho anh nắm lá thuốc cứu sống người để anh đến chữa cho con gái chẩu mường. Anh đã đến tuổi lấy vợ và khi anh được cai quản nửa mường thì em và mẹ cũng được nhờ. Người anh Hai cũng thì thầm với chàng út: - Này út ơi đừng lấy lá thuốc cho anh Cả nhé! Bình thường anh ấy còn đối với mẹ như thế, huống chi anh ấy được cai quản nửa mường. Còn anh, anh luôn nghĩ tới mẹ và em, vậy em hãy giúp anh mà lấy cho anh nắm lá thuốc, khi anh được cai quản nửa mường thì mẹ và em sẽ được sung sướng.
Chàng út trả lời chung cho cả hai anh: - Việc gì tôi phải lấy cho các anh? Tôi lấy cho tôi thì sao? Hai người anh vội gắt: - Mày còn bé, chưa xứng làm chồng cô gái chẩu mường. Chàng út trả lời: - Thôi được, tôi sẽ giúp các anh, còn tôi không cần một thứ gì cả. Chàng út nói lại điều đó với mẹ, mẹ anh bảo:- Cứu giúp người là một điều tốt nên làm, nhưng đừng bắt người ta phải cho mình cái này, cái kia để mình làm giàu. Còn con lấy lá thuốc cho hai thằng anh con thì con phải ngậm sẵn ba lá thuốc ở dưới lưỡi.
Sáng hôm sau, chàng út vào rừng lấy lá thuốc. Hai người anh đòi đi theo cùng nhưng chàng út dứt khoát không cho đi. Chàng út vừa đi được một lúc thì anh Cả đã lẻn xuống cầu thang phải, anh Hai lẻn xuống cầu thang trái đuổi theo. Mỗi người đi một đường, họ đuổi mãi mà không gặp chàng út. Đến một bờ vực, anh Cả dừng lại nghỉ thì cũng vừa gặp anh Hai đến. Vừa mệt, vừa lo người này sẽ cướp phần của người kia, hai người quay ra cãi nhau, cãi nhau không xong, họ đánh nhau. Người anh Cả khoẻ hơn, đẩy ngã anh Hai xuống vực. Vừa lúc ấy chàng út đi tới. Anh Cả tươi cười hỏi: Lá thuốc đâu đưa cho anh. Chàng út vừa đưa lá thuốc cho anh vừa hỏi anh Hai đi đâu? Anh Cả chỉ tay xuống vực thản nhiên nói: Nó trượt chân ngã xuống vực rồi, mày hãy xuống cứu nó đi. Chàng út ra mép vực nhìn xuống, người anh Cả đẩy nhẹ tay một cái, chàng út mất đà ngã luôn xuống. Nhưng nhớ lời mẹ dặn, trước khi đưa thuốc cho anh chàng út đã ngậm sẵn ba lá thuốc dưới lưỡi nên anh không bị làm sao cả. Nhìn thấy anh Hai nằm chết trong một vũng nước, chàng út vội vớt lên và lấy ba lá thuốc vắt nước vào mũi, vào mồm anh. Một lúc sau anh Hai tỉnh dậy và hai anh em tìm đường về nhà.
Nói về người anh Cả, sau khi được ba lá thuốc, hắn vội vã chạy thẳng đến nhà chẩu mường. Hắn khoác lác là hắn đã chữa cho mẹ, cho các chẩu mường. Chẩu các mường ấy đã biếu hắn nhiều vàng bạc và gả con gái cho hắn nhưng hắn đều từ chối. Hắn khoa chân múa tay làm phép, rồi làm thuốc cho con gái chẩu mường, quả nhiên một lúc sau con gái chẩu mường tỉnh dậy và ba ngày sau cô gái đã khoẻ mạnh như trước. Giữ đúng lời hứa, chẩu mường chia cho hắn một nửa mường để hắn cai quản, còn việc gả con gái, chẩu mường hứa khi nào cô gái thật khoẻ mạnh sẽ nói chuyện sau.
Nhưng một điều không may cho chẩu mường và cũng cho người anh Cả kia. Vợ chẩu mường lại sinh bệnh nặng, chẩu mường gọi anh Cả kia đến giao cho việc lấy thuốc lá để chữa. Hắn đâm ra hoảng sợ vì nghĩ rằng chàng út đã chết rồi, không thể nhờ chàng út được nữa, hắn tìm cớ chối quanh. Thấy vậy, chẩu mường sinh nghi ngờ và nói nếu không chữa được sẽ chém đầu. Hắn càng lo sợ và vội vã đi vào rừng tìm thuốc. Nhưng một ngày đi, rồi hai, ba ngày... hắn vẫn chưa tìm được thuốc, trong khi đó vợ chẩu mường bệnh càng tăng. Chẩu mường vội loan báo, nếu ai chữa được cho vợ chẩu mường khỏi bệnh thì chẩu mường nhường lại chức.
Nghe được tin loan báo của chẩu mường, anh Hai bảo chàng út: Ở đời này người ta chỉ lừa nhau được một lần. Chú có lòng thương người, tính thật thà ngay thẳng, chú đáng làm chẩu mường lắm, chú hãy đi lấy lá thuốc đi. Chàng út cảm động nhìn anh Hai rồi lẳng lặng đi vào rừng lấy thuốc. Khi lấy được thuốc, chàng út không cầm đến nhà chẩu mường mà đem về đưa cho anh Hai mang đến chữa. Người anh Cả không tìm được thuốc đang nói dối quanh với chẩu mường thì gặp anh Hai đến. Mặt hắn tái đi như gà cắt tiết. Chẩu mường nhận ra điều đó và gặng hỏi nguyên do. Người anh Hai nói xin chữa khỏi bệnh cho vợ chẩu mường đã rồi mọi chuyện sẽ nói sau.
Trong lúc người anh Hai chữa bệnh cho vợ chẩu mường thì anh Cả vội tìm đường lẩn trốn. Nhưng hắn đi đến đâu mọi người cũng đều xa lánh. Vừa uất ức, vừa xấu hổ hắn vào rừng thắt cổ tự tử.
Sau khi nghe anh Hai kể rõ mọi việc, chẩu mường cho mời chàng út đến gả con gái và chia cho nửa mường để chàng cai quản. Chàng út cảm ơn và từ chối tất cả, chàng chỉ xin chẩu mường được quyền đi khắp mọi nơi để chữa bệnh cho tất cả mọi người. Những lá thuốc quý ấy do chàng út truyền lại được lưu truyền đời này đến đời khác và bản mường nào cũng biết.

23. HAI ÔNG QUAN VÀ NGƯỜI TỬ TÙ
Thuở xưa có hai ông quan, một người là quan bộ hình và một người là quan bộ binh. Quan bộ binh là người ích kỷ, lúc nào cũng muốn kiếm cớ hại quan bộ hình.
Một ngày nọ có một người phạm tội nặng bị xử tội chết chém. Nằm trong ngục chờ sáng mai thọ hình, anh ta khóc lóc than vãn: "Ôi, cuộc đời ta đến mai đây là chấm dứt. Làm người ai không khỏi một lần chết, ta đâu có tiếc gì. Ta chỉ tiếc ta có cái nghề quý chưa truyền cho ai được mà phải chết. Rồi đây nghề ấy thất truyền và loài người không ai nối nghiệp nữa..." Người gác ngục nghe tử tù than vãn như vậy, tò mò hỏi: - Này, anh có cái nghề gì mà quý đến vậy? Người tử tù ra vẻ đau đớn, trả lời: - Nghề gì ư? Nghề nghe hiểu được tiếng chim hót. Trên đời này ngoài tôi ra không ai biết được. Ôi, thật tiếc quá.
Người gác ngục nghe thế bèn vào thưa lại với quan bộ hình. Quan bộ hình nghe qua nhủ thầm: "Đúng! Nghề ấy quý thật", rồi cùng người lính đến gặp tử tù. Quan bộ hình hỏi chuyện tử tù một lúc và tử tù đồng ý truyền lại nghề nghe được tiếng chim cho ông. Tên tử tù bảo quan bộ hình đưa mình vào chùa, đến trước mặt Phật đài để mình làm lễ Phật và truyền nghề cho. Ngay đêm đó, quan bộ hình sai lính canh đưa tên tử tù đến chùa. Khi đèn nhang đã được đốt lên, hai người cùng quỳ trước mặt Phật đài đảnh lễ. 
Đảnh lễ xong tên tử tù bèn nói: Xin đức Phật hãy cứu giúp chúng con. Con tên là tử tù, ngày mai quan bộ hình sẽ đem con ra chém. Con thấy lòng mình quá sợ hãi và tiếc cho mạng sống của mình. Xin đức Phật từ bi ban cho con sống. Sự sống của con ở nơi quan bộ hình này... Nói rồi, tên tử tù quỳ lạy quan bộ hình xin ông tha chết cho mình và hắn thú thật là mình đã nói dối để được gặp quan chứ không biết nghe tiếng chim gì cả. Quan bộ hình khi nghe lời thỉnh cầu của tên tử tù thì thở dài, cảm động nói với người lính gác ngục: - Ôi, ta gặp phải tình huống thật khó xử. Nó đã xin đức Phật sự sống của nó trong tay ta, nếu ta không tha cho nó thì hoá ra ta không có từ tâm và như vậy đã phụ lòng đấng từ bi. Thôi được, ta và ngươi vào lạy trước Phật đài, bằng lòng trả lại sự sống cho nó. Từ đây ngươi phải giữ kín việc này, nếu không ta và ngươi sẽ bị họa lớn.
Lạy xong, quan bộ hình sai lính canh mở trói cho tên tử tù, ông dặn hắn từ nay về sau đừng làm điều tội lỗi nữa và đừng cho ai biết việc này. Tên tử tù cúi đầu tạ ơn và vội vàng đi khỏi xứ ấy, tìm đến một xứ xa sinh sống. Còn quan bộ hình trở về phao tin là tên tử tù đã vượt ngục. Chẳng bao lâu câu chuyện quan bộ hình tha chết cho tên tử tù đến tai quan bộ binh. Quan bộ binh mừng rỡ vì đã có cớ để trừ khử quan bộ hình.
Một hôm, đến ngày lễ lớn, vua và các quan đang đặt bát cho các nhà sư thì có một đàn quạ bay đến hoàng cung. Chúng đậu trên nóc hoàng thành và kêu ầm ĩ những tiếng kêu buồn bã. Vua lấy làm lạ, hỏi bá quan. Quan bộ binh được dịp bèn tâu: - Muôn tâu thánh thượng. Tất cả mọi người không ai có thể nghe được tiếng của loài chim nên không sao rõ được. Ở đây chỉ có quan bộ hình đã học được nghề ấy của tên tử tù và quan đã tha "ông thầy" của mình trốn khỏi tội chết chém. Nếu bệ hạ không tin điều đó xin cho đòi quan bộ hình đến thì biết ngay.
Vua truyền lệnh đòi quan bộ hình đến hỏi lại sự việc cũ rồi bảo quan bộ hình đi nghe đàn quạ nói những gì. Quan bộ hình thoạt tiên rất lo lắng nhưng ông giả vờ đi ra sân lắng tai nghe tiếng quạ. Biết quan bộ binh hại mình, lát sau ông trở vào tâu: - Muôn tâu thánh thượng, đàn quạ đậu trên nóc hoàng thành là đàn quạ ở trong thành từ trước đến nay. Còn quạ đậu trên cành cây là đàn quạ từ các tỉnh thành mới bay về đây. Chúng nói với nhau và than trách rằng năm nay cuộc sống của người dân ở các tỉnh thành rất khốn khổ nên họ không đi làm phước ở chùa như mọi năm. Chúng bảo mấy năm trước dân chúng no đủ nên đem bánh trái dâng cho sư sãi ê hề. Phần còn dư người ta lại đem bố thí cho loài vật, trong đó có cả quạ. Nhưng năm nay quan bộ binh lộng quyền cho lính đi thu vén hết tất cả lúa, ngô, khoai của dân. Dân chúng không dám chống lại nên đành phải chịu đói khổ cùng cực. Do vậy đàn quạ ở các tỉnh mới bay về đây nhờ đàn quạ ở hoàng thành tâu lên với hoàng thượng.
Vua nghe qua cả giận cho người đi dò xem thực hư ngoài dân dã thì quả đúng như lời tâu của quan bộ hình. Vua truyền lệnh cắt chức quan bộ binh đuổi về quê cày ruộng và phong cho quan bộ hình làm thừa tướng.

24. NGẬM NGẢI TÌM TRẦM
Ngày xưa, trên một vùng núi cao tại một tỉnh Đàng trong, có hai vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa bắp, chăn nuôi gà lợn và săn chim bắt thỏ như những nhà khác. Nhưng nhờ của cải của bố mẹ để lại họ sống vui vẻ phong lưu. Vì thế tuy có vất vả, hai vợ chồng vẫn vui thú với đứa con trai lên năm tuổi. Đột nhiên, một hôm có một người bạn cũ đến thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp, tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: "Nghe nói anh chị rời đến đây ở đã lâu, nay có việc đi qua lối này tôi mới ghé qua thăm được. Sẵn có cặp ngỗng mang đến biếu anh chị". Chủ nói: "Bấy lâu nay vợ chồng chúng tôi ở đây không hề có tin tức gì của anh cả?". "Tôi chẳng nghề ngỗng gì cả. Chẳng giấu gì anh từ lâu tôi đã tu tiên để mong đắc đạo. Trong năm năm ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên núi". "Lên núi để làm gì". "Để tìm trầm, phải có trầm đốt khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Trầm sẽ đưa lời cầu nguyện đến cung Tam Thanh. Nhờ đó "Chư tiên" mới biết được điều ước của mình và sẽ cho mình như nguyện". Chủ lại hỏi: "Núi rừng trùng điệp, cây cối hàng ngàn, làm sao mà tìm cho ra trầm?" Khách đáp: "Khó gì, tìm trầm phải ngậm ngải". Nói rồi khách móc trong tay ra gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem rồi nói: "Đây! Ngải tôi đã luyện, trải qua bao nhiêu năm nay mới thành. Chỉ cần ngậm một tí ngải này, có thể đi suốt năm trong rừng sâu, không sợ hùm beo rắn rết làm hại, không cần phải ăn uống gì cả, lại có hy vọng được "Chư tiên" phù hộ giúp cho tìm được trầm. Lúc đó thì có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão".
Chủ nhân thấy bạn cũ tu luyện sắp thành công, có thể cầm chắc sự phú quý trong tay, thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: "Chà, chỉ cần một tí thuốc này có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiều". Vui, hắn cũng kể cuộc sống của mình trong mấy năm qua cho bạn nghe, rồi giục vợ làm khoản đãi. Trong mấy ngày cầm khách ở lại, vốn biết tính khách thích chơi cờ, chủ nhân lấy ra một bộ cờ bằng ngà rồi mời đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, rồi nói: Bộ cờ này của tiền nhân tôi để lại bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không mảy may tì vết, mà bao giờ cũng sáng óng ánh, kể cả khi để trong xó tối. Khách cầm lấy con cờ bằng ngọc xem đi xem lại, thấy quả là của quý, hiếm có ở trên thế gian thì tắc lưỡi khen thầm, đoạn nhủ: "Làm sao ta có được một viên như thế để dâng lên lão tổ..." Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng trong bụng người nào cũng tìm mưu lập kế chiếm đoạt của nhau: một bên muốn làm chủ gói ngải, một bên muốn có con cờ bằng ngọc bích.
Ngày chia tay đã đến. Giữa hai chủ khách đang "vượt xe, thách pháo" thì bỗng có tiếng gọi của vợ, chủ vội đi vào nhà trong. Sau đó một tiệc rượu bưng ra, trong khi thu dọn cờ, khách đã giấu biến con cờ bằng ngọc vào trong tay áo. Nhưng khách không ngờ chính mình cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú, chén anh được một chốc, khách nằm vật xuống bên trường kỉ. Thấy người bạn đã bị mấy chén rượu pha thuốc của mình làm gục, chủ nhân bèn lục tay nải chọn lấy gói ngải, rồi lật đật đi ra không kịp giã từ vợ con.
Khách ngủ một giấc đến hai ngày sau mới tỉnh dậy. Hắn ta giật mình khi sờ vào tay nải không thấy gói ngải quý đâu nữa, tìm bạn, bạn cũng đi mất đường nào, hỏi vợ con bạn cũng không ai biết đâu mà trả lời, khách bèn lủi thủi ra đi, quyết tìm bạn để đòi lại vật quý. Từ núi này sang núi nọ, khách trèo không nghỉ, nhưng tuyệt nhiên không thấy kẻ bất lương. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng tầm mắt nhìn ra xa, nhưng chẳng may trượt chân rơi xuống dốc, viên ngọc văng ra hoá thành đá, thân hắn hoá thành cây, rễ cây luôn luôn quặp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý.
Còn về phía chủ nhân khi bước chân ra đi, nghe theo cách bày vẽ của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng để tìm trầm nhưng hắn đi mãi, vượt qua trăm núi ngàn khe mà trầm đâu chẳng thấy. Khi bụng đã chán nản muốn quay trở về thì khốn nỗi lại quên mất lối. Năm này qua năm khác, gói ngải dần dần chỉ còn lại có một tí bằng cái móng tay. Hắn đâu có ngờ rằng nếu ngải tan hết thì con người sẽ hoá thành hổ. Lúc này da hắn lông đã mọc tua tủa thay cho những chỗ quần áo rách bươm, rồi một hôm hắn biến thành một con hổ xám.
Lại nói chuyện vợ con hắn ở nhà trông đợi mỏi mắt. Nước mắt của hai mẹ con mỗi ngày chảy một ít đã xói đất thành suối. Cuối cùng, ngày lụi tháng qua, hai mẹ con đã biến thành đá cùng với gia súc và các đồ dùng quen thuộc.
Về sau, hổ xám ta cũng tìm được về nhà cũ. Từ đằng xa nhìn thấy bóng vợ con, cả con chó, con gà đang quanh quẩn bên cạnh, hổ lấy làm mừng rỡ, bèn ba chân bốn cẳng chạy nhanh. Nhưng khi biết vợ con và gia súc đã hoá thành đá thì nó lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót, rồi bỏ đi biệt.
Ngày nay ở quận Khách Dương, tỉnh Khánh Hoà, còn có núi đá gọi là núi mẫu tử. Nổi bật là một hòn đá dựng bên cạnh có một hòn nhỏ hơn. Người ta nói đó là hai mẹ con. Xung quanh còn có nhiều hòn khác nằm rải rác, người ta nói đó là con chó, con gà, cái rổ may, và sợi chỉ, cái cối xay, cối giã, cái chày, cái sàng, cái chổi... lại còn một tảng đá khác vuông vắn, người ta gọi đó là bàn cờ có nhiều quân nhưng thiếu mất con tốt. Gần đấy có một dòng suối gọi là suối Tên, nước không bao giờ cạn, người ta nói đó là do nước mắt của hai mẹ con khơi thành, trên dòng suối thỉnh thoảng có bóng một cặp ngỗng vùng vẫy, người ta cho rằng dòng dõi của cặp ngỗng mà khách mang đến biếu, sở dĩ chúng không hoá đá là vì gia súc quen thuộc của chủ.
Còn ở tỉnh Phú Yên, trên núi Tịnh Sơn có một hòn đá gọi là con cờ, người ta cho đó là con tốt bằng ngọc trong tay áo khách văng ra. Bên cạnh là một cây cổ thụ to, rễ mọc chi chít, nhưng rễ cây bao giờ cũng quấn chặt lấy đá, người ta nói đá là người bạn biến thành.

25. TẤM CÁM
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi. Sau đó ít năm, người cha cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Tấm làm lụng suốt ngày, còn Cám được mẹ nuông chiều, chơi dông dài ngày nọ qua ngày kia.
Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi chị em một cái giỏ, ra đồng hớt tép, ai đầy giỏ thì được thưởng một cái yếm đỏ. Tấm ra đồng không quản trời nắng, mải miết hớt được đầy một giỏ vừa tôm vừa tép. Còn Cám nhởn nhơ hết bờ này bụi nọ, hái hoa, bắt bướm, trời đã về chiều mà giỏ của Cám vẫn chưa có tí gì. Thấy Tấm giỏ đầy tép, Cám bảo chị: Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm, chị hụp cho sâu kẻo về dì mắng. Tấm tin là thật, xuống ao, ra tận chỗ sâu tắm rửa. Tắm xong, Tấm lên bờ, sờ đến giỏ tép chỉ còn giỏ không. Cám đã trút hết giỏ tép của Tấm vào giỏ của mình và về trước mất rồi.
Tấm ngồi xuống bờ ruộng, bưng mặt khóc nức nở. Thốt nhiên, Tấm thấy ánh sáng ngời trước mặt... Bụt hiện lên hỏi: Làm sao con khóc? Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: Con thử tìm xem trong giỏ còn gì không? Tấm nhìn vào giỏ và thưa: Chỉ còn một con cá Bống thôi ạ. Bụt bảo Tấm: Con đem cá Bống về thả xuống giếng mà nuôi: mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai bát, còn một thì đem cho Bống. Mỗi lần cho ăn thì con nhớ gọi: "Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người". Dứt lời, Bụt biến mất. Tấm theo đúng lời Bụt dặn, mỗi bữa ăn, Tấm bớt một bát cơm, giấu đi đem cho Bống ăn. Mỗi lần nghe tiếng gọi là Bống lại ngoi lên mặt nước, đớp kì hết cơm rồi mới lặn. 
Thấy sau bữa ăn nào Tấm cũng ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, sai con đi rình. Một lần kia, sau bữa ăn, Cám ra giếng, nấp sau một bụi cây. Nghe Tấm gọi Bống, Cám nhẩm cho thuộc, về kể cho mẹ nghe. Sáng hôm sau, mẹ Cám nắm sẵn một nắm cơm, gọi Tấm đến đưa cho và dặn rằng: Con ơi, con! Hôm nay, chăn trâu thì chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu. Tấm vâng lời dì ghẻ, cho trâu đi ăn thật xa, ở nhà hai mẹ con Cám đem bát cơm ra giếng, cũng gọi Bống như Tấm đã gọi. Bống nổi lên mặt nước, hai mẹ con Cám vội bắt lấy đem về nhà làm thịt. Đến chiều Tấm dắt trâu về. Cũng như mọi lần ăn xong, Tấm đem cơm cho Bống. Tấm đứng bên bờ giếng gọi mãi mà mặt nước vẫn phẳng lặng, không thấy Bống đâu cả. Một lúc sau, một cục máu nổi lên, Tấm bưng mặt oà khóc. Giữa lúc ấy, Bụt hiện lên, hỏi Tấm: Sao con khóc? Tấm kể hết sự tình, Bụt bảo: Con Bống của con, người ta ăn thịt mất rồi. Con về nhà nhặt lấy xương nó, kiếm một cái lọ mà đựng, rồi đem chôn ở bốn chân giường. Về nhà, Tấm tìm mãi không thấy được cái xương nào. Con gà thấy thế, kêu: Cục ta cục tác cho ta nắm thóc ta bới xương cho! Tấm bốc một nắm thóc cho gà. Gà vào bếp bới một lúc thì xương Bống phơi lên hết trên mặt tro. Tấm nhặt bỏ vào bốn cái lọ, đem chôn ở bốn chân giường.
Dì ghẻ bắt Tấm làm việc mỗi ngày một nhiều, còn hai mẹ con mụ thì ăn trắng mặc trơn, không hề nhúng tay vào một việc gì cả. Được ít lâu, có tin vua mở hội. Hai mẹ con Cám hí hửng sắm sửa quần lành, áo tốt, còn Tấm thì vẫn quần áo rách mướp. Đến ngày hội, mẹ con Cám lấy một đấu gạo trộn với một đấu thóc, bảo Tấm rằng: Phải nhặt cho xong mớ gạo lẫn thóc này mới được đi xem hội. Dặn xong, mụ tất tả đưa con gái đi ngay.
Ngồi nhặt thóc được một lúc, Tấm bực dọc, tủi thân, oà lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: Sao con khóc? Tấm thưa: Hôm nay là ngày hội, dì con đem thóc trộn với gạo, bắt con nhặt hết thóc rồi mới được đi xem... Bụt bảo Tấm: Để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt thóc giúp con. Đàn chim sẻ sà xuống kêu ríu rít, nhặt thóc ra đằng thóc, gạo ra đằng gạo. Chỉ trong chớp mắt đàn chim đã nhặt xong. Nhưng nhìn thấy bộ quần áo rách như xơ mướp của mình, Tấm tủi thân muốn khóc. Bụt lại hiện lên bảo Tấm: Con hãy đào bốn cái lọ ở dưới chân giường thì sẽ có quần áo để mặc. Tấm đào các lọ lên thì thấy có đủ cả quần áo, khăn, giày đẹp đẽ. Một bộ quần áo mới ba màu quan lục, màu hoa đào, màu hoàng yến, một cái yếm màu hoa hiên, một cái quần nhiễu điều, rồi nào thắt lưng hoa đào, khăn nhiễu tam giang. Đến đôi giày văn hài thì thật xinh xẻo, chỉ đôi chân bé nhỏ của Tấm thì mới đi vừa. Tấm mặc cả quần áo, nong giày vào chân, thấy thứ nào cũng đều vừa cả. Tấm lại lấy ở trong lọ ra một con ngựa bé tí tẹo. Tấm vừa đặt con ngựa xuống đất thì nó hí lên một tiếng rồi lớn lên bằng con ngựa thật, có đủ cả yên cương.
Vui sướng quá, Tấm tắm rửa sạch sẽ, rồi thay bộ quần áo mới vào, cưỡi ngựa đi xem hội. Đến chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước, Tấm vội xuống ngựa mò mãi mà không thấy. Một lúc sau, voi của vua đi đến chỗ lội, cứ gầm lên không chịu đi. Vua sai lính hầu thử xuống nước mò xem thì nhặt được một chiếc giày văn hài thật xinh xẻo. Vua ngắm nghía chiếc giày thấy rất vừa ý. Vua truyền lệnh hễ trong đám đàn bà, con gái đi xem hội, ai ướm thử vừa chiếc giày này thì vua sẽ cưới làm vợ.
Đàn bà, con gái trong đám đi xem hội chen nhau đến ướm thử chân. Cả hai mẹ con Cám cũng đến thử, nhưng không vừa chân ai cả. Đến lượt Tấm xin đến thử, thì vừa vặn xinh. Chiếc giày văn hài mà lính của nhà vua nhặt được cùng với chiếc giày mà Tấm cầm ở tay cùng đúng một đôi.
Cám đứng ngoài xem, thấy một người con gái tươi giòn rõ là Tấm, liền gọi mẹ bảo rằng: Mẹ ơi mẹ, trông ai như chị Tấm nhà ta! Mẹ nó bảo: Chuông khánh còn chẳng ăn ai, Nữa là mảnh chĩnh ném ngoài bờ tre. Chị Tấm nhà mày làm gì có quần áo đẹp mà đến đây! Đến khi quân lính đem kiệu đến rước Tấm về cung, hai mẹ con Cám sán đến gần xem, mới biết đích là Tấm. Hai mẹ con đều lấy làm lạ, không biết Tấm đã lấy được quần áo ở đâu mà đẹp thế.
Vào cung vua, Tấm rất sung sướng, nhưng Tấm vẫn còn nhớ con trâu mình thường chăn dắt trên đồng cỏ xanh, nhớ ruộng vườn mình còn chăm sóc những ngày sương thu, nắng hạ. Nhân ngày giỗ cha, Tấm xin phép vua về thăm nhà.
Thấy Tấm bây giờ sung sướng, mụ dì ghẻ rất ghen ghét, nhưng ngoài miệng thì niềm nở, vui cười. Mụ bảo Tấm: Con trèo lên cây cau, xé lấy một buồng để cúng bố. Tấm vâng lời, trèo lên cây. Tấm đang mải với tay để xé buồng cau thì mụ dì ghẻ ở dưới chặt gốc cây. Thấy cây rung mạnh, Tấm hỏi, mụ trả lời: Dì đuổi kiến cho con đấy mà! Cây cau gãy, Tấm ngã lộn xuống ao chết. Mụ dì ghẻ lột hết quần áo của Tấm, mặc vào cho Cám và đưa con gái mình vào cung vua, nói Tấm không may bị ngộ cảm chết, nên đưa em vào thay chị.
Tấm hoá thành chim vàng anh, bay thẳng vào cung vua. Vua đi đâu, chim cũng bay theo. Thấy Cám thua chị đủ mọi bề, và thấy con chim quấn quýt quanh mình, vua thương nhớ Tấm, bảo chim vàng anh rằng: Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo. Vừa dứt lời, chim vàng anh chui tọt vào tay áo vua. 
Một hôm, trong khi Cám giặt quần áo cho vua, chim vàng anh đậu ở cành cao, bảo nó: Giặt áo chồng tao, thì giặt cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao. Nghe chim kêu, Cám vừa lo sợ vừa tức giận. Vua rất yêu chim, cho chim ở trong lồng son, đi đâu cũng xách đi theo. Thấy thế, Cám càng thêm ghét chim.
Một hôm, Cám về nhà chơi, đem chuyện kể với mẹ. Mẹ nó bảo: bóp chết con chim đi, đem nướng cho mèo ăn, rồi chôn lông chim đi cho mất tích. Về cung vua, Cám rình lúc vắng, bóp chết chim vàng anh, nướng cho mèo ăn, còn lông chim đó đem chôn sâu ở ngoài vườn, đúng như lời mẹ nó dặn. Chẳng bao lâu, ở chỗ chôn lông chim mọc lên một cây xoan đào, cây lớn rất mau, cành lá sum suê. Vua thấy cây xoan đào đẹp liền mắc võng vào cây nằm nghỉ. Cứ mỗi khi nằm dưới cây xoan đào, vua như thấy hình ảnh của Tấm hiện ra trước mắt, nên càng vấn vít với cây, không thiết gì đến Cám. Cám không nói nhưng trong lòng ghen lồng ghen lộn. Nhân một ngày vua lại đi vắng, Cám chặt cây đi, lấy gỗ xoan đóng khung cửi. Trong khi Cám ngồi dệt vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: Cót ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra! Nghe con ác kêu, Cám sởn cả tóc gáy, vội ném thoi đi không dám dệt nữa. Cám lại kể với mẹ, mẹ nó bảo: - Đốt khung cửi đi và đem tro đi đổ thật xa. Cám đốt khung cửi đi, rồi đem đổ bên đường thật xa cung vua.
Ở đống tro bên đường, không lâu sau mọc lên một cây thị lớn, cành lá sum suê. Cây thị ra nhiều hoa, nhưng chỉ đậu có một quả to ở một cành cao vút.
Gần đó, có một bà cụ bán hàng nước rất hiền hậu, mỗi khi đi qua dưới gốc cây thị, bà lại ngửng đầu lên nhìn quả thị tấm tắc khen: Sao mà thị đẹp thế. Một hôm, bà thấy quả thị đã chín vàng, bà cụ đứng tần ngần dưới gốc cây giơ bị ra hứng, nói lầm rầm: Thị hỡi Thị hời! Thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi, chứ bà không ăn. Bà cụ nói dứt lời thì quả thị rụng ngay vào giữa bị. Bà cụ đem thị về nâng niu trên tay. Đêm ngủ, bà để thị ở đầu giường. Ngày nào đi chợ bà cũng dặn: Thị ở coi nhà, để bà đi chợ, mua quà Thị ăn. Bà cụ vừa đi khỏi nhà thì một cô gái bé tí từ trong quả thị chui ra, và trong phút chốc, cô bé đã trở thành cô Tấm xinh đẹp. Tấm quét dọn nhà cửa sạch sẽ, làm cơm canh để phần bà cụ. Lần nào đi chợ về, bà cụ thấy mọi thứ đều ngăn nắp, có sẵn cơm dẻo, canh ngọt để phần.
Một hôm bà cụ giả vờ đi chợ, rồi rón rén trở về nấp ngoài cửa. Tấm lại ở trong quả thị chui ra như mọi lần, thu va thu vén trong nhà. Nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mà lại hay làm như thế, bà cụ sung sướng quá, chạy ngay vào ôm chầm lấy Tấm và xé toạc vỏ thị đi. Từ đó, Tấm ở lại với bà cụ hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con, người ngoài không ai hay biết, tưởng Tấm là con gái bà cụ mới ở xa về. Bao nhiêu công việc gói bánh, têm trầu, Tấm đều làm hết. Chỉ riêng việc bán hàng, mời khách là Tấm để bà cụ trông coi.
Một hôm, vua đi qua, thấy quán nước sạch sẽ, ghé vào ngồi nghỉ. Bà cụ rót nước, đưa trầu vua ăn. Thấy trầu têm cánh phượng rất khéo, giống hệt như miếng trầu vợ mình têm ngày xưa, vua liền hỏi bà cụ: Trầu này ai têm? Bà cụ đáp: Con gái già têm. Vua ngỏ ý muốn gặp con gái bà cụ. Bà cụ gọi Tấm ra, vua nhận ra ngay vợ mình. Vua kể rõ sự tình với bà cụ và xin đón Tấm về cung. Còn mẹ con mụ Cám, do sợ vua trừng trị nên vội dắt nhau bỏ trốn, giữa đường cả hai mẹ con đều bị sét đánh chết.

26. CHUYỆN CHÀNG TỪ THỨC
Thời xưa ở Thanh Hoá, có một người tên là Từ Thức, vốn con quan nên được bổ nhiệm làm một chức quan nhỏ ở một địa hạt thuộc xứ Kinh Bắc. Cạnh huyện có một ngôi chùa to, trong chùa có một cây mẫu đơn lớn. Cứ đến mùa xuân hoa nở thì khách bốn phương đến chùa xem hoa đông như hội.
Một hôm, có một thiếu nữ tuổi chừng mười sáu, mười bảy, nhan sắc xinh đẹp, đến xem hoa, nhỡ tay vịn gãy một cành, không có gì để đền, nên bị nhà chùa bắt giữ lại. Từ Thức đi qua trông thấy, liền cởi áo mặc ngoài chuộc cho thiếu nữ. Mọi người đứng xem đều khen Từ Thức là người nhân đức.
Đi ngao du, xem phong cảnh đẹp và làm thơ thì Từ Thức rất ưa thích, còn việc quan thì chàng thường bỏ mặc, nên bị quan trên quở trách. Chẳng bao lâu Từ Thức xin từ quan. Thấy huyện Tống Sơn có nhiều núi đẹp, chàng đem theo một tiểu đồng và một túi đàn đến dựng một nhà nhỏ ven chân núi để ở. Từ ấy, những nơi phong cảnh đẹp quanh vùng không nơi nào là không có vết chân của Từ Thức.
Một hôm, dậy sớm, trông ra cửa Thần Phù thấy có mây ngũ sắc kết thành hình hoa sen. Từ Thức một mình chèo thuyền ra phía ấy. Đến chân một dãy nũi cao ngất, chạy sát mặt biển, Từ Thức buộc thuyền lên bờ và trèo lên một mỏm đá cao, chợt trông thấy một cái hang bên sườn núi, cửa hang tròn và rộng, chàng thử vào hang xem sao. Từ Thức mới đi được vài bước thì cửa hang bỗng đóng sập lại. Hang tối mịt mùng, không còn biết đường lối nào, Từ Thức phải lần theo khe nước mà đi. Đi được một lúc lâu, thấy có ánh sáng, chàng lần ra khỏi hang và đi đến một chân núi khác. Thấy núi cao vời vợi, sườn núi dốc ngược, Từ Thức cố bám vào hốc đá và leo lên. Lên cao, chàng thấy có đường rộng, rồi lên đến đỉnh núi thì trời quang đãng, ánh sáng rực rỡ, xa xa có lâu đài cung điện nhấp nhô bên những lùm cây xanh. Từ Thức đi theo đường lớn đến một lâu đài. Bỗng có hai thiếu nữ mặc áo xanh chạy ra, bảo với nhau rằng: "Chú rể nhà ta đã đến kia kìa!" Rồi hai người chạy vụt vào toà nhà lộng lẫy. Một lúc sau, hai người lại ra, nói với Từ Thức rằng: - Phu nhân sai chúng tôi ra mời người vào chơi.
Từ Thức đi vào theo hai người con gái, thấy lầu son gác tía, tường gấm, bậc đá xanh, trước kia chàng chỉ thấy nói trong sách, bây giờ mới trông thấy tận mắt. Trên mấy cửa đi qua, chàng thấy có đề chữ "Điện Quỳnh Hư", "Gác Giao Quang", chàng theo hai thiếu nữ lên gác, thấy một phu nhân mặc áo lụa trắng ngồi trên sập thất bảo, trước có kê đôi kỉ gỗ đàn hương. Phu nhân mời Từ Thức ngồi và hỏi: - Ông vốn hay đi xem cảnh lạ, có biết đây là chốn nào không? Từ Thức đáp: - Tôi đã đi nhiều nơi, nhưng không biết vùng này lại có cảnh tiên, xin phu nhân chỉ bảo cho tôi được biết. Phu nhân cười, rồi nói: - Ông biết đâu được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phi Lai, tôi là Nguỵ phu nhân, địa tiên núi Nam Tạc. Vì thấy ông có cao nghĩa nên mới mời đến chơi. Phu nhân bảo thị nữ gọi một tiểu thư ra. Vừa trông thấy, Từ Thức nhận ra là người con gái đánh gẫy cành hoa mẫu đơn trong chùa ngày nọ. Phu nhân chỉ vào người con gái bảo Từ Thức rằng: - Em nó tên là Giáng Hương, dạo nọ đi xem hoa gặp nạn, may có ông cứu cho, tôi vẫn còn hàm cái ơn ấy. Nay tôi muốn cho em nó kết duyên với ông để đáp lại ơn sâu. Ngay đêm hôm ấy, phu nhân sai mở tiệc hoa cho hai người làm lễ thành hôn.
Từ Thức ở được chừng một năm, có ý nhớ nhà, nói với Giáng Hương rằng: Tôi đi xa nhà đã lâu, lắm lúc nhớ quê cũ, muốn về thăm một chút. Giáng Hương tần ngần, không đáp. Từ Thức lại nói: Tôi chỉ về chơi ít bữa lại đến đây với nàng. Giáng Hương khóc mà nói rằng: Thiếp không phải vì tình lưu luyến hẹp hòi mà ngăn trở ý định của chàng, chỉ vì ở trần gian ngày tháng ngắn ngủi, sợ chàng về nhà không thấy còn như trước nữa. Giáng Hương đem chuyện nói với phu nhân. Thấy Từ Thức trần duyên chưa dứt, phu nhân mới sai người lấy xe để tiễn đưa chàng. Giáng Hương lấy một phong thư dán kín đưa cho chồng, dặn đến nhà hãy mở ra xem. 
Từ Thức từ biệt Giáng Hương và phu nhân, rồi lên xe, chỉ trong chốc lát đã trở về đến làng cũ. Nhìn phong cảnh chàng thấy khác hẳn xưa, chỉ còn hai bên khe núi là vẫn như xưa. Chàng đem tên mình hỏi thăm các cụ già trong làng thì có một cụ trả lời: Hồi nhỏ, tôi cũng nghe có một cụ tổ bốn đời nhà tôi họ tên cũng như thế, nhưng lạc vào hang đá cách đây đã hai trăm năm rồi. Từ Thức buồn rầu, muốn lại ngồi lên xe tiên để đi, thì xe đã hoá thành con chim Loan bay đi mất rồi. Mở bức thư của Giáng Hương ra xem, chàng chỉ thấy có một dòng chữ vắn tắt: "Ở nơi tiên cảnh, cùng nhau kết bạn, nay duyên xưa đã hết, không còn mong hội ngộ".
Về sau, người ta thấy Từ Thức đội cái nón nhỏ vào núi Hoàng Sơn (Nông Cống - Thanh Hoá), không thấy trở về nữa.

      27. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT   
Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao. Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang tận nước Trung Quốc. Thời ấy ở Trung Quốc có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách khăn gói sang nước Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai người đo tài với nhau hai ván liền không phân thắng thua. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo: Nước cờ này dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng hòng gỡ nổi. 
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ, ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút chốc Kỵ Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng xoá, mặt mũi không có vẻ là người trần chàng chợt hiểu, liền sụp lạy nói rằng: "Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi là người trần mắt thịt không biết, xin thứ lỗi". Đế Thích cười bảo: "Ta nghe nhà ngươi tự phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết". Trương Ba liền giữ Đế Thích lại mua rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến Trương Ba. Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình. Đế Thích bảo: "Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một bó hương này, mỗi lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống". Nói đoạn, cưỡi mây bay về trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà cửa. Thấy có nén nhang giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm trước bàn thờ chồng, ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương liền xuống. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: Trương Ba đâu? Vợ Trương Ba sụt sùi: Nhà tôi chết đã gần một tháng nay rồi! Đế Thích bực tức: Chết nỗi! Sao lúc mới tắt thở không gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa. Suy nghĩ một lúc, Đế Thích lại hỏi thêm: Trong xóm hiện nay có ai mới chết không? Vợ Trương Ba đáp: Có một người hàng thịt mới chết hôm qua. Thần Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị:"Ta sẽ kiếm cách làm cho chồng chị sống lại". Nói xong thần hoá phép rồi trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi nhỏm dậy. Anh ta vét tất cả mọi đồ khâm niệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt biết là thần Đế Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào ngay. Giữa lúc đó thì vợ con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những họ bị vợ Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng họ cũng nhất định không chịu về. Đôi bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành một cuộc ẩu đả rất kịch liệt. Xóm làng không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó đến quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất định nhận là chồng mình. Quan hỏi rằng: "Chồng chị ngày thường làm gì?" Đáp: "Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ thôi". Quan lại hỏi vợ hàng thịt: "Chồng chị ngày thường làm gì?". Đáp: "Chồng tôi chỉ thạo nghề mổ lợn".Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công đường cho anh hàng thịt mổ. Nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả. Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì không ngờ con người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà Trương Ba.
Vì thế mới có câu hồn Trương Ba, da hàng thịt.

28. AI MUA HÀNH TÔI
Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ, sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ, anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu trên một phiến đá ở gần chỗ mình làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt qua miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên.  Tức mình vì hỏng ăn, quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: "Đồ chim dữ, hãy cút đi!". Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe doạ sẽ báo thù. Anh chàng chạy lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật. 
Một lát sau, con chim đã bay trở lại, miệng ngậm một cái lọ nước thần "Có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ thì lớn thêm, trần gian không ai có". Nói rồi, nó vỗ cánh bay đi. Anh ngồi lại tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt. Anh nghĩ bụng: "Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm", rồi gánh gánh củi về, treo lọ lên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.
Ít năm sau, chật vật mãi anh mới cưới được vợ. Vợ anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn nên đen đủi, xấu xí. Nhưng hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau.
Một hôm, chồng đi vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi. Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem. Khi ngửi, thấy mùi thơm, chị ta cho là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị lấy nước tắm gội rồi tiện tay đổ nước ra bôi khắp tóc tai, mình mẩy. Không ngờ, sau khi tắm gội xong, chị ta tự nhiên xinh đẹp, trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường. Củ to như bình vôi, dọc hành dài bằng đòn gánh. 
Khi người chồng đi cày về, nhìn mặt vợ thì ngẩn cả người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh ta không nhận ra vợ mình nữa. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân, anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.
Từ đấy, anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công việc đồng áng vì thế cũng một phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê một người vẽ hình vợ, mỗi khi anh ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thoả.
Một hôm, anh đang cày ruộng, bức tranh được treo lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy, bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp. Quạ đã cất cánh bao cao và bay đi rất xa, chỉ một thoáng là mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó năm xưa, quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống giữa sân rồng. Bọn lính thị vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần, vua ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: "Trong ba cung sáu viện của ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây".
Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như đã vẽ trong tranh mang về. Quan đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.
Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận, nhưng anh không ngờ là bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc.
Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền vì mọi thứ dỗ dành, doạ nạt đều không làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua bèn hạ lệnh hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người từ những vai hề nổi tiếng, những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thuỷ... đua nhau trẩy kinh, hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.
Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở cung vua, bèn quyết vào cung tìm vợ. Trước khi đi anh nhổ mấy củ hành ở cạnh giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại trước cửa hoàng cung rao to lên những câu: Dọc bằng đòn gánh, củ bằng bình vôi. Ai mua hành tôi, thì thương tôi với.
Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn. Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc một tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo thị nữ: Hãy gọi người hàng hành vào cho ta! Khi nhìn thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng, lại thấy những cây hành to lạ thường thì lấy làm kinh ngạc. Vua liền nảy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng: Hãy đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!
Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quảy gánh qua lại trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành cười ngặt ngẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy sổ tới cắn chết. Người đàn bà vội bảo chồng: Mình hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi! Anh chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.

29. CÔ GÁI LẤY CHỒNG HOÀNG TỬ
Ngày xưa, ở một làng nọ có một cô gái đẹp. Thấy mọi người trầm trồ về nhan sắc của mình, cô bỗng có cái nguyện vọng thầm kín là lấy được hoàng tử làm chồng. Ngày ngày cô đi chợ mua hương đến một ngôi đền trong vùng cầu thần phù hộ cho mình lấy được chồng như nguyện. Ở chợ hồi ấy có một người lái buôn hương. Thấy cô gái xinh đẹp lui tới gánh hàng của mình, hắn thường thả lời chòng ghẹo, nhưng lần nào cũng bị cô nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Tuy vậy, hắn vẫn tìm cách lân la gạ chuyện không nản. Một hôm, hắn chợt có ý muốn tìm hiểu để biết ngày nào cô gái cũng chịu khó mua hương để làm gì. Nhân khi cô vừa mua hương xong, sắp sửa ra về, hắn vội gửi gánh hàng cho người quen rồi lén đi theo bén gót. Thấy cô gái đi vào trong đền, hắn cũng vào theo. Nấp sau một cánh cửa hắn nghe được tất cả những lời khấn rì rầm của nàng và hiểu được điều nàng muốn.
Lần khác, khi cô mua hương xong hắn ba chân bốn cẳng chạy trước tới đền, nấp sau pho tượng thần. Khi nghe cô khấn vừa dứt, hắn nói vọng xuống giả lời phán của thần: Con gái như thế kia làm sao dám đòi lấy chồng hoàng tử. Trên thiên đình đã định cho con làm vợ người lái buôn hương ở chợ. Số là thế, không thể khác được. Nghe lời truyền phán rõ ràng, cô gái lủi thủi ra về, trong bụng đinh ninh không thể tránh khỏi số trời đã định. Ngày hôm sau, khi cô đi chợ, người buôn hương lại thả lời ong bướm, nhưng khác với các lần trước, lần này, hắn được cô gái bắt lời. Biết mưu mẹo của mình có kết quả, hắn hết sức tán tỉnh và cuối cùng cá đã cắn câu. Nhưng người buôn hương nghĩ rằng mình đã luống tuổi, nếu đưa người đến dạm hỏi, chắc chắn bố mẹ nàng sẽ không đời nào chịu gả nên tìm cách dỗ dành cô gái theo không, rồi kín đáo đưa nàng trốn về quê. Khi thấy mười phần đã chắc ăn cả mười, hắn bèn hẹn nàng một ngày nọ tới chờ mình ở một cái lùm cây sau chợ, hắn sẽ đưa đi trốn.
Đúng hẹn, hai người gặp nhau ở lùm cây. Người buôn hương bảo cô gái ngồi vào trong một chiếc bồ lớn đạy mẹt và buộc chặt lại để hắn gánh đi cùng với một bồ khác đựng hàng. Hắn ghé vào tai dặn nàng: "Làm như thế sẽ không bị lộ, qua một thời gian anh sẽ về thú thật với bố mẹ sau''. Cô gái nọ cả tin ở số phận nên vâng lời theo hắn không chút ngần ngại.
Đường đi phải băng qua một khu rừng vắng, có nhiều thú dữ nhưng vì rút ngắn được khá nhiều thời gian nên gã buôn hương đành tặc lưỡi. Trong khi người lái buôn lòng mừng khấp khởi với gánh hàng quý trên vai, thì tiếng thét của toán lính làm cho hắn giật nẩy mình. Hắn không ngờ rằng ngày hôm ấy, có một hoàng tử đang đi săn ở khu rừng này. Đầu cửa rừng, người ngựa, chó săn đang vây bọc các ngả đường. Vì đang làm việc gian lận, lái hương ta sợ quá, vội quẳng cả gánh hàng bỏ chạy. Sau đó, có mấy con chó săn đi qua bồ ngửi thấy hơi người bèn lên tiếng cắn inh ỏi. Nghi ngờ, bọn lính dừng lại lục soát. Khi thấy cô gái xinh đẹp ở trong bồ, bọn chúng rất đỗi kinh ngạc, vội dẫn nàng đến gặp hoàng tử lúc đó cũng vừa phi ngựa tới nơi.
Hoàng tử bàng hoàng vì từ trước tới giờ chưa gặp một cô gái nào lại xinh đẹp đến thế, bèn xuống ngựa bảo nàng ngồi lại chuyện trò. Nghe cô gái kể hết nỗi lòng, hoàng tử ngỏ ý đưa nàng về cung làm vợ. Nhân săn được con hổ, hoàng tử bèn sai bỏ con thú vào bồ đậy mẹt và buộc chặt lại như cũ. Đoạn, ra lệnh cho mọi người trở về kinh thành.
Sau khi hoàng tử và quân lính đi xa, người buôn hương từ chỗ trốn quay về tìm gánh hàng quý của mình. Thấy cặp bồ vẫn còn nguyên chỗ cũ, hắn vội vã đặt gánh lên vai và vội rảo bước về nhà. Đến nơi, người nhà xúm vào hỏi: Bồ chứa gì mà nặng thế? Hắn đáp đùa để hù doạ: Đừng có nhìn mà chết. Hổ đấy! Nói đoạn, hắn vội vào buồng đóng cửa lại. Nhưng vừa mở mẹt thì con hổ từ trong đã nhảy ra, vồ hắn ăn thịt.

30. CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA
Ngày xưa, có hai người chuyên cày thuê cuốc mướn ở cùng một làng tên là Thiên và Địa. Họ giống nhau ở chỗ anh nào cũng nghèo rớt mùng tơi và đều mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, Thiên rất sáng dạ, bảo gì hiểu nấy. Một hôm Địa bảo Thiên: Nếu chúng ta cùng như thế này cả thì không biết bao giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh là người có khiếu thông minh, nếu được học hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ chung hưởng phú quý. Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn: Lúc nào hiển đạt, anh đừng có quên tôi nhé! Từ đó Địa trần lực ngày đêm làm thuê để nuôi bạn. Thấy Thiên học mỗi ngày một tiến, anh chàng lại càng hăng hái làm việc, không quản gì cả. Cứ như thế, sau mười năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi hương rồi vào thi đình đậu luôn Trạng nguyên. Hắn được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hầu người hạ đông đúc, có dinh thự nguy nga, được mọi người trọng vọng.
Được tin, Địa rất sung sướng, lập tức anh chàng đem trâu và cày về trả chủ. Rồi anh bán phăng cái nhà ở, lấy một số tiền mua đồ lễ tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu khi tìm đến Thiên thì Thiên đã thay lòng đổi dạ. Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân, lủi thủi ra về. Vừa đến bờ sông anh ngồi lại nghỉ, nước mắt rơi lã chã, nghĩ đến lòng người đen bạc, số phận hẩm hiu và bây giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa vì nhà đã bán mất rồi. Địa lại càng buồn tủi, càng khóc hơn. Động lòng đến tai ông Bụt. Bụt hiện lên giả làm người khách qua đường đứng lại hỏi: Con làm sao mà khóc? Địa kể lại đầu đuôi câu chuyện cho ông nghe. Bụt bèn hoá phép cho anh một chiếc đò và dặn rằng: Con cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn, không phải đi làm thuê nữa.
Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang. Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng, không để dành được đồng nào cả, đến cả ngày giỗ cha mà Địa cũng chẳng có gì để cúng. Buổi chiều hôm ấy sau khi chở mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo thuyền về đến nửa sông thì lại nghe có tiếng gọi đò. Anh cho đò quay trở lại. Người khách đó là một cô gái rất trẻ và xinh đẹp. Trời lúc ấy nhá nhem, người con gái đó nói với Địa: Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm. Nhà Địa chỉ là túp lều bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng nhưng anh cũng nhường cho người con gái đó nằm. Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người đó bỗng hỏi anh: Anh đã có vợ chưa? Địa trả lời: Chưa. Người con gái đó liền nói: Tôi xin nguyện làm vợ anh! Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không biết trả lời thế nào thì nàng lại nói: Tôi là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ sở đã nhiều rồi nên cho tôi xuống giúp anh.
Nói rồi nàng hoá phép biến túp lều bên bờ sông thành một dinh cơ rất đẹp: Nhà ngói, tường dắc, hành lang, sân gạch, trong nhà đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng đoàn. Địa vừa kinh ngạc vừa vui sướng, nàng tiên lại hoá phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho anh chàng làm giỗ cúng cha. Sáng hôm sau nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc, ngồi kiệu đến mời Thiên sang nhà mình ăn giỗ. Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tử tế. Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ, hắn cười khẩy bảo Địa: Chú muốn ta đến nhà chơi thì hãy trải chiếu hoa từ đây về tới nhà, ta sẽ đến.
Địa về kể chuyện lại cho vợ nghe. Nàng tiên lại hóa phép chiếu hoa trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở. Thiên không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho biết sự tình. Đến nơi, hắn rất làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của Địa ít có một nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ Địa thân hành ra mời rượu, thấy nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ghen tị với hạnh phúc của Địa. Rượu say, hắn nói: Chú đổi vợ chú và cơ nghiệp của chú cho tôi thì tôi nhường chức quan và dinh cơ của tôi cho chú. Địa không bao giờ muốn như vậy, nhưng nàng tiên xui Địa bằng lòng. Hai bên cùng làm cam kết và sau đó Địa lên võng về dinh, còn Thiên say rượu nằm ngủ một giấc li bì. Sáng hôm sau, khi bừng tỉnh giấc, hắn ngạc nhiên thấy mình nằm ở giữa một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng dinh cơ của hắn biến đâu mất cả. Từ đó hắn làm chèo đò thay Địa. Còn Địa, từ đó khôn ngoan hơn, thông minh hơn và sống cuộc đời tràn đầy hạnh phúc.
Câu của Thiên trả Địa là do sự tích trên mà có.

31. NỢ NHƯ CHÚA CHỔM
Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó, nhưng thế lực của Mạc rất lớn, hắn cầm binh quyền, lại bè đảng đông nên không thể làm gì được. Cuối cùng nhà vua lẻn trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng Dung bắt đem về giam lại.
Hồi ấy ở gần trại giam có một cô hàng rượu vẫn thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán, thấy có một phạm nhân mới, mặt mũi khôi ngô, bị giam riêng ra một nơi. Khi biết người đó là vua, cô hàng có ý muốn làm quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt nàng đều rót rượu cho vua uống. Dần dần giữa hai người có một tình yêu nhen lên. Một hôm, cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon, lại có pha thuốc mê đến cho quân canh uống. Khi thấy họ nằm gục xuống, nàng bèn vào tình tự với vua.
Từ đó cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không thoát khỏi bàn tay tàn bạo của nhà Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói: "Nàng giữ vật này làm dấu tích, nếu sau này đẻ con trai, nó sẽ có ngày phục thù cho cha". Không bao lâu nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào ngục giết chết. Tất cả những hoàng hậu, thái tử, công chúa, phi tần của nhà vua cũng đều bị chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi nhà Lê làm vua nước Đại Việt. Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi một nơi khác làm thuê, làm mướn sống cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh được một người con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch Toàn học kinh kệ. Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm không ai bằng.
Một hôm, đi chơi về thấy đói, Chổm thấy trước tượng Mụ Thiện có bày một mâm bồng đầy chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ra ăn. Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền nọc cổ Chổm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư cụ đi vắng lấy giấy viết mấy chữ: "Mười tay, mười mắt không giúp được gì cho ta. Thật là vô ích. Phải đày đi phương xa". Viết xong dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy sư cụ mộng thấy Mụ Thiện bảo rằng: "Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh ngài để ngài đuổi ta đi. Vậy phải xin lỗi ngài để ngài tha cho ta". Tỉnh dậy, sư cụ rất phân vân mới gọi chú tiểu Chổm vào và kể chuyện cho biết và bảo bóc giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng: "Cha mày đâu?". Chổm đáp: "Tôi lớn lên chưa từng nghe nói có cha". Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ: "Cha con đâu?". Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp: "Cha con họ Lê, bị hổ ăn thịt chết rồi". Nghe nói Chổm rất buồn. Từ đó anh chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha.
Một hôm, Chổm đi chơi thấy một con hổ đang ngủ dưới hốc cây, liền cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Đang nắm đuôi hổ về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá quẳng xác hổ cắm đầu chạy. Khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm côn sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già. Ông già trao cho chàng cái côn, bảo: "Con hãy học một ít miếng võ mà hộ thân". Chổm sung sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn rồi đi mất.
Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tuỳ thân. Một hôm đi qua một cái miếu. Chổm từng nghe nói có nhiều yêu quái hại người, bèn cầm côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái. Một lát sau ở trong hang sâu bò ra một con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí độc toan vồ lấy Chổm, Chổm giơ thẳng côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó trong xóm được yên ổn.
Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ. Hàng ngày anh chàng đi kiếm củi làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc đói, Chổm thường vào ăn cơm hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô. Hàng nào được Chổm vào ăn là hôm đó đắt hàng như tôm tươi, còn các nhà khác thì chỉ ngồi xua ruồi. Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng mời anh vào ăn, dù bán chịu cũng được. Chổm được thể, ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng. Toàn là ăn chịu, mua chịu, ai hỏi nợ, hắn cũng bảo: "Đến ngày tôi làm nên, sẽ xin trả chu tất!".
Hồi bấy giờ có một ông quan khác tên là Nguyễn Kim trốn sang Lào mưu đồ diệt Mạc. Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm Châu làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa. Qua mấy năm chiêu quân mãi mã, Nguyễn Kim đã gây dựng được lực lượng. Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính thống để bố cáo với thiên hạ. Khốn nỗi con cháu vua Lê đã bị nhà Mạc sát hại hầu hết. Một đêm nọ Nguyễn Kim thấy một vị thần nhân hiện ra trong giấc mộng bảo "Thiên tử xuất thế đã lâu sao không đón về còn chờ gì nữa". Ông hỏi: "Ở đâu?". Vị thần nhân bảo: "Cứ đi về phía Tây kinh thành ở dãy hàng cơm đúng ngày thìn giờ ngọ, hễ thấy rồng đen quấn quanh cột là chính thị Thiên tử". Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời thần nhân đã mách. Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng cơm, thấy mấy người khách lạ đi qua, bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra, Nguyễn Kim rảo qua một lượt chỉ thấy quấn cột là một một chàng trai đen sì, nhưng thấy dáng điệu hèn hạ nên không để ý nữa.
Đêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần nhân trách: "Ta mách cho biết Thiên tử mà không nghe, ngày mai ra bờ sông hễ thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là đúng". Hôm sau, Nguyễn Kim trực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại nhưng chờ mãi chả thấy ai đội mũ sắt cả. Mãi đến gần tối có một chuyến đò ngang, trong có Chổm và một người bán chảo gang. Gặp khi trời đổ mưa Chổm không có nón, phải mượn chiếc chảo úp lên đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý vì thấy y không có vẻ là người quyền quý. Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim trách ông ta không nghe lời mình rồi lại bảo: "Ngày mai cứ đến quán cơm cũ tìm người nào đi chữ đại, trở lại chữ vương thì đón về".
Qua ngày sau Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi tìm. Họ quả thấy anh con trai hôm nọ bây giờ đang rượu say nằm trong quán cơm, đầu gối trên ngọn côn, hai tay bỏ xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên. Bỏ đi một chốc, đến lúc trở lại thấy Chổm đã cựa mình, lúc này ngọn côn trượt lên khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực còn hai chân thì xếp bằng tròn. Bấy giờ Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người mà thần nhân có ý mách bảo cho mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ Chổm dậy sẽ tiến đến làm quen.
Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền quý đến sát chỗ mình nằm thì cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm lại thưa rằng: "Xin điện hạ đừng sợ" - "Ơ hay, điện hạ nào. Tôi là Chổm đây!". Thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an tâm trả lời: "Tôi họ Lê, cha tôi bị hổ ăn thịt, mẹ ở nhà". Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc đến bảy tám, liền theo Chổm về đến tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm nửa mừng nửa sợ. Khi biết bọn họ có thiện ý, mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ đầu đuôi. Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại ô lên đường đến Sầm Châu lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi ngày một to. Vua Mạc nghe tin sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến, quân Lê đại thắng, rồi không bao lâu quân Chổm lại đánh tiến ra Bắc, quân Mạc hễ thấy quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt.
Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy lừng. Khi quân gia trên đường tiến vào cửa ô bỗng có một số người chủ hàng cơm ngày xưa bán chịu cho Chổm đã trực sẵn để chào hỏi người quen và đòi nợ cũ. Thấy thế, bọn lính tiền đại quân toan bắt bọn vô lễ. Chúa Chổm ngăn lại và kể chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng nghe, đoạn bảo quân hầu lấy tiền ra trả nợ. Lúc đó, có nhiều người thấy kẻ kia đòi được nợ cũng xúm lại kể ơn nghĩa cũ, kẻ tính thành năm quan, người kể thành mười quan... thành ra một cuộc truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết vì con số chủ nợ mỗi lúc một tăng dần. Sau đó, bọn họ nghĩ ra được một kế là đứng trên kiệu vung tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế đổ xô ra cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cũ mà bây giờ là vườn hoa Cửa Nam. 
Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế kia thì còn ra thể thống gì nữa, mới viết vào tờ giấy hai chữ "Cấm chỉ" dán ở phố và sai một toán quân đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa nữa sẽ chém đầu. Nhờ thế người ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe chúa Chổm.
Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy văn võ bá quan ai cũng mong mình lên ngôi tôn ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm bèn ngửa mặt khấn trời rằng: Hỡi thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại chính ngọ, bằng không thì thôi, tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền lại cho người khác. Khấn được một lúc, quả nhiên trời bỗng sáng hẳn, mặt trời treo giữa đỉnh đầu. Chổm đường hoàng bước lên làm lễ đăng quang, tự xưng là Hoàng đế. Lễ hoàn tất, mặt trời tự nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời tối sầm lại như mực, lúc mọi nhà thắp đèn lên thì gà vừa gáy.
Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như chúa Chổm và ở chỗ vườn hoa Cửa Nam bây giờ cũng do sự tích trên mà người ta gọi là "Ngã tư Cấm Chỉ".

32. GIAO LONG VÀ HỒ BA BỂ
Vào hồi đó xã Nam Mẫu có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem, ai nấy một lòng ăn chay niệm Phật, thả cá, thả chim... làm những việc cầu phúc cho ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu lại, bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối sông ra rất khó chịu. Đến đâu mụ cũng thều thào mấy câu: "Đói lắm các ông bà ơi!". Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra bốn bề đầy vẻ cầu khẩn. Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chẳng được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi, bọn thanh niên cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là chúng xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng "Nam mô đà Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy tiến vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giầu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp mẹ con nhà kia vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mặc tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà mình lấy cơm nguội cho ăn.
Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ người ta đều cấm lửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở một cái chõng cho mụ ngả lưng, còn mẹ con thì ngả lưng ở chỗ khác.
Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền, tiếng mụ gáy như sấm. Hai mẹ con nhìn thấy cái chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang quận mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với xóm không biết kêu cứu ai, đành chùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi.
Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chẳng thấy giao long đâu cả. Trên chõng, người đàn bà đã dậy và sắp sửa ra đi. Khi họ gặp nhau, người đàn bà nói: - Chúng nó thờ Phật, mà kì thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong ngày đêm hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh. Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được? Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo ra một hạt thóc cắn ra đưa đôi vỏ trấu cho hai mẹ con rồi nói: - Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp cho hai mẹ con làm việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì tự nhiên có một dòng nước từ dưới đất phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên lại càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa, ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm phát ra: đất đá, nhà cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước tung toé mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước hiện ra bay vòng quanh xã Nam Mẫu. Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện mỗi lúc một cao hơn mức nước.
Đau xót trước cảnh nước lụt hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ trấu biến ngay làm hai chiếc thuyền. Thế rồi mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo nhỏ trong đó mà người địa phương thường gọi đó là Pò Già Mải.

33. CON CHÓ CON MÈO VÀ
ANH CHÀNG NGHÈO KHỔ
Ngày xưa, có hai mẹ con nhà kia sống trong cảnh rất nghèo khổ. Người mẹ thì già yếu, đứa con tuy khoẻ mạnh nhưng tìm việc mãi mà cũng không có ai thuê mướn. Mãi về sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh ta mạnh khoẻ và bơi lội giỏi nên thuê làm thuỷ thủ. Anh ta nói: - Nghề thuỷ thủ phải đi xa, mà mẹ tôi thì già nua, ở nhà một mình thì không tiện. Chủ thuyền buôn thương tình trả trước tiền thuê cho anh cả một năm bốn mươi quan để cho mẹ già có tiền nuôi sống. Anh ta mừng rỡ, cầm ba mươi quan về đưa cho mẹ, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.
Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn, bọn thuỷ thủ bảo chàng: - Ở đây thứ gì cũng buôn được, cứ mua một chút ít đem về quê thì tức khắc có lời. Anh chàng xưa nay không quen buôn bán, nên cầm mười quan tiền trong tay đi khắp nơi mà chưa biết mua thứ gì. Bỗng anh ta thấy một người mang ra bến một con chó bị trói, toan vứt xuống sông. Thấy thương hại, anh chàng vội ngăn lại, nói: - Tại sao con chó này lại bị thả sông? Người kia nói: - Đây là một con chó có tính ăn vụng. Chủ tôi đi chơi mua thịt về chưa kịp nấu nướng, nó tha đi mất nên chủ tôi tức giận bắt trói đánh một trận thừa sống thiếu chết và sai tôi ném nó xuống sông. Anh chàng thuỷ thủ nói: - Thôi, ông bạn đừng giết nó tội nghiệp, tôi sẽ mua nó. Người kia vừa cười vừa nói: - Đồ chó ăn vụng anh mua làm gì? Anh chàng đáp: - Thây kệ, cứ bán cho tôi đi. Cuối cùng anh chàng chìa ra ba quan mua con chó, cởi trói cho nó, đem về để nơi chỗ làm việc.
Sau đó một lúc, anh lại trông thấy một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại hỏi duyên cơ. Khi biết được tội trạng của con mèo cũng do ăn vụng, anh liền bỏ tiền ra mua luôn. Thế là hai con vật thoát chết. Người chủ mới của nó cho nó ăn uống tử tế rồi cột nơi khoang thuyền.
Bỗng chốc, anh ta lại thấy ba đứa trẻ chăn trâu, bắt được một con rắn nước, toan dùng cây đập nát đầu. Chàng vội chạy đến cản lại nói: - Các em đừng giết nó! Nó là rắn nước, nó có làm hại ai đâu? Mấy đứa trẻ nói: - Mặc kệ chúng tôi! Chúng tôi bắt được nó thì chúng tôi đánh,  can gì đến ông? Thấy bọn trẻ cố tình giết rắn, anh ta phải bỏ tiền ra mua để cứu con rắn. Mua được con rắn, anh ta lập tức thả xuống nước. Thế là số tiền anh ta định mua hàng đem về bán đã hết trơn. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán vừa rồi thì bụm miệng cười ngất, cho là một anh chàng khờ khạo chưa từng thấy. Nhưng anh ta chỉ ngồi lặng thinh không tỏ ra tức giận gì cả. Khi thuyền sắp trở về, vào lúc nửa đêm, chàng đang vuốt ve hai con chó và mèo thì rắn nước từ đâu bơi tới ném cho chàng một viên ngọc, và nói: - Cha tôi là Long Vương, cảm ơn anh cứu mạng tôi nên cho tôi đem đến biếu anh viên ngọc "băng xuyên". Viên ngọc này có thể rẽ nước để tôi mời anh xuống thuỷ cung chơi một chuyến. Anh chàng nghe nói chuyện lạ, muốn thử xem, liền cầm ngọc lội xuống nước, quả nhiên nước rẽ ra hai bên, chừa chỗ cho anh chàng đi dưới nước như đi trên bộ vậy.
Chàng theo rắn nước vào đến thuỷ cung, được Long Vương tiếp đãi rất hậu, đem tặng châu báu, vàng ngọc rất nhiều, rồi cho người tiễn chàng về đến tận nhà. Chủ thuyền thấy mất hút anh ta, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại, lên bộ trình với xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương lại thấy anh ta về trước đó hơn ba ngày rồi.
Từ đó anh trở nên giàu có, nhưng anh vẫn sống cuộc đời bình thường cùng với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu sống vẫn theo anh không rời.  Sau đó, anh ta lấy một cô vợ rất trẻ đẹp, nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" để ở góc tủ chói sáng, nàng thích lắm nên lấy trộm đem đến người thợ kim hoàn đánh cho mình một chiếc nhẫn ngọc. Người thợ kim hoàn biết là ngọc quý, hiếm có trên đời nên đã đánh tráo một viên ngọc khác, cướp lấy bảo vật. Anh chàng thuỷ thủ biết được câu chuyện trở nên buồn bã, hàng ngày ra đứng ở nơi bờ sông để mong gặp được rắn nước, nhưng không làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ buồn bã, nói với nhau: - Chúng ta sẽ đi tìm lại viên ngọc cho chủ. Thế rồi mèo, chó ra đi.
Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng, mà chúng không có cách nào để vượt qua sông cả, nên hai con vật cứ chạy loanh quanh. Bỗng con mèo nhìn xuống nước và thấy một con rái cá đang bơi lội, con mèo gọi lớn:- Kìa anh rái cá! Anh có cách nào giúp chúng tôi sang sông không? Rái cá nói: - Chị mèo ơi! Đừng có phỉnh phờ chúng tôi. Nếu chị có thèm thịt chúng tôi thì đi tìm nơi khác. Mèo vội vã kể cho rái cá nghe câu chuyện đau thương của người chủ mà hiện nay mèo và chó muốn sang sông tìm ngọc để trả ơn cho chủ. Rái cá động lòng, gọi cả bầy rái cá lại kết thành một cái bè đưa mèo và chó sang sông.
Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó: - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong nhà xúm lại sủa, rồi mày lẻn vào cổng không ai biết. Quả nhiên bầy chó của người thợ kim hoàn nghe mèo kêu, bèn ra đuổi. Mèo dẫn theo bầy chó chạy ra một khoảng xa rồi nhảy trở lại. Hai con vật gặp nhau, chúng tìm khắp nhà. Tất cả các báu vật của người thợ kim hoàn đều bỏ vào trong một cái rương bằng gỗ, khoá lại. Mèo cố sức tìm tòi nhưng không có cách nào mở được khóa. Mèo bỗng bắt được một con chuột. Chuột năn nỉ tha mạng. Mèo bảo chuột dẫn mình đến gặp chuột chúa và nói rõ mục đích của mình đến đây cho chuột chúa nghe, nhờ chuột khoét rương gỗ lấy viên ngọc. 
Chuột chúa vâng lời, huy động lũ chuột khoét rương của chủ kim hoàn. Nhưng đến khi lọt được vào rương, chuột tìm mãi mà vẫn không thấy ngọc đâu. Chuột nói với mèo: - Trong rương này có hộp bằng bạc không lớn lắm, có lẽ ngọc giấu trong đó, nhưng cái hộp bằng bạc thì không thể khoét được. Mèo bối rối hỏi: - Như vậy thì làm sao bây giờ? Chuột nói: - Chỉ có cách là chúng tôi huy động cả làng chuột hợp lực khoét lỗ rương thật lớn, kéo chiếc hộp bạc ra. Mèo nói: - Thế thì hay lắm! Hãy làm gấp đi!  Rồi chỉ trong một đêm cả làng chuột đã khoét xong, lấy được cái hộp đem ra cho mèo. Con chó bây giờ mới tìm cách phá hộp, quả nhiên, trong hộp có viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.
Sau khi được ngọc, chó tranh với mèo tha ngọc đi. Nhưng đến lúc sắp sang sông, chó thấy con chó lạ vội đuổi cắn làm cho viên ngọc băng xuống sông. Một con cá thấy ngọc đớp ngay, nuốt vào bụng.
Thấy chó làm mất ngọc, mèo giận dữ mắng cho một trận nên thân. Chó biết lỗi lặng thinh không dám cãi, chỉ buồn than: - Biết làm sao bây giờ? Mèo suy nghĩ một lúc, tìm được một kế bảo chó: - Chúng ta tìm đến nhà người đánh cá, xin ở với họ. Chờ cho họ bắt được con cá đó thì sẽ tìm cách đem nó về. Chó khen phải, cùng mèo đi tìm một gia đình đánh cá để nương tựa. Hai con vật rất ngoan làm cho người đánh cá rất mến. Hôm sau, người đánh cá thả lưới bắt được một con cá khá lớn, mổ ruột ra thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm.
Trong khi cả nhà người đánh cá đang trao ngọc cho nhau để xem thì mèo đến cọ vào chủ mình, rồi nhân lúc vô ý, mèo nhảy phốc lên, ngoạm lấy viên ngọc rồi chạy mất. Thấy thế chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo. Ra khỏi nhà người đánh cá, mèo bảo chó: - Lần trước ngậm ngọc bị rơi, lần này thì đội ngọc lên đầu, chẳng sợ gì nữa. Nào ngờ, mèo mới chỉ đi được một đoạn đường thì bị con quạ từ đâu bay tới, thấy có cái gì nhấp nháy trên đầu mèo vội xà xuống đớp lấy rồi bay đậu trên cành cao. Thấy lại mất ngọc, lần này chó lại mắng chửi mèo thậm tệ: - Ngọc rơi xuống nước thì có thể tìm lại được, chứ bay lên trời thì còn làm gì được. Mèo buồn rầu, nhưng lại nghĩ ra một kế, nói: - Để tao giả chết, bắt quạ cho! Nói xong, mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước cho phình bụng ra, rồi trở về bảo chó trốn vào một chỗ, con mèo thì nằm dưới gốc cây, phơi bụng giả chết. Quạ đang ngậm ngọc đậu trên cây cao nhìn xuống thấy có bóng con vật nằm chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy lên vồ lấy quạ. Quạ van lạy xin trả viên ngọc cho mèo để mèo tha mạng. Mèo chấp thuận, lấy ngay viên ngọc rồi thả quạ bay đi. Lần này cả hai con hỗ trợ cho nhau, đưa được ngọc về đến nhà an toàn.
Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được viên ngọc của Long vương tặng, hết sức vui mừng càng quý mến tình nghĩa của hai con vật trung thành với chủ.

34. HŨ BẠC
Ngày xưa, có một ông nông dân chịu khó làm ăn. Ông có một đám rẫy lớn nhưng không lúc nào đất bị bỏ hoang cả. Hết trồng bắp, ông lại trồng ngô, trồng khoai, trồng lúa… Làm ăn quanh năm vất vả, đất không phụ công ông nên năm nào thóc cũng đầy bồ, bắp treo đầy bếp còn khoai, sắn thì đầy gầm giường. Làm mùa xong ông lại lên rừng chặt củi đốt than đem bán. Mỗi lần bán than, ông giấu vài hào cất riêng một nơi. Đến lúc tuổi già sức yếu, ông đã để dành được một hũ bạc. Tuy nhà làm ăn no đủ nhưng lúc nào ông cũng buồn phiền vì đứa con.
Đứa con này được mẹ cưng chiều hết mức thành ra hư hỏng, lười biếng. Lúc nhỏ suốt ngày chỉ biết chơi bời, lêu lổng. Lớn lên, anh ta cũng chỉ có mặt ở nhà vào 2 bữa cơm, thời giờ còn lại, anh ta theo đám trai làng tụ tập rong chơi, uống rượu. Ông già nhắc con rất nhiều, bảo con điều hay lẽ phải, anh ta chỉ vâng dạ lấy lệ rồi vẫn chứng nào tật ấy.
Đến khi lâm bệnh, ông gọi vợ bảo: “Sức tôi chẳng sống được bao lâu nữa, bà cũng chẳng thể sống với con mãi được. Trước khi nhắm mắt, tôi muốn trông thấy nó kiếm nổi bát cơm. Xưa nay tôi giấu bà để dành được hũ bạc. Tôi muốn cho con nhưng cho bây giờ e hại nó. Bà hãy bảo nó đi làm, bao giờ kiếm được ít bạc vụn về đây thì tôi cho nó hũ bạc đó.” Nghe chồng nói, người vợ ngậm ngùi nhưng bảo con trai đi làm thì bà không muốn vì thương con, sợ con vất vả. Ngẫm nghĩ, bà dồn số tiền chắt bóp được, gọi đứa con vào “bảo nhỏ” và đưa cho số tiền đó.
Anh kia mang số tiền mẹ cho đi chơi lang thang, đến khi trong túi chỉ còn vài hào lẻ mới trở về đưa cho cha. Hôm đó, ông lão đang ngồi cạnh bờ ao đan rổ rá, vợ ông cũng ngồi đó vót nan. Nghe đứa con trai nói và đưa tiền, ông lão chìa ta cầm mấy hào bạc vứt thẳng xuống ao. Vợ ông tiếc tiền tái mặt, còn anh con trai tỉnh bơ nhìn đi chỗ khác. - Tiền này không phải tiền nó tự kiếm. Ông lão chỉ nói vậy rồi bỏ vào nhà nằm. Bấy giờ bà mẹ lại to nhỏ với con: Cha con sống lâu, khôn nhiều, không thể lừa được. Bây giờ mẹ cho con đồng tiền cuối cùng của mẹ, con kiếm nơi mà làm ăn. Khi nào kiếm được tiền con hãy về. Cha con nói phải… Cha mẹ đâu có sống đời để nuôi con mãi được.
Người con trai nhận tiền của mẹ cho, nhưng lần này ít tiền lắm vì có bao nhiêu bà đã cho anh lần trước hết rồi. Anh cầm số tiền ít ỏi đó ra đi được mấy ngày đã hết sạch. Bụng đói, anh đi xin ăn nhưng mọi người không cho, thậm chí còn dè bỉu, mắng nhiếc anh là sức dài vai rộng mà lại lười, làm kẻ ăn xin. Chợt thấy giữa đồng có hai người đang tát nước, anh chàng lần đến, trông thấy rá cơm hẩm với mấy quả cà thâm của hai người để trên bờ, anh ngửa tay xin nhưng hai người tát nước đáp: Rá cơm ấy là công tát cạn cái đầm này. Nếu anh muốn ăn cơm thì hãy vào đây tát nước cùng chúng tôi. Đói quá anh đành phải chịu tát nước để kiếm lưng cơm. Lúc đầu anh ngã xiêu ngã vẹo nhưng sau cũng tát được lưng gầu nước. Đến lúc ăn cơm, anh ngồi khóc. Nhìn hai bàn tay phồng rộp, anh đã biết muốn có bát cơm ăn phải tốn bao nhiêu sức lực, phải đổ bao nhiêu mồ hôi, thậm chí phải đổi cả tính mạng. Xong việc tát nước, anh vào làng xin việc. Thấy anh khỏe mạnh, người ta thuê anh chẻ củi, gánh nước… Gặp gì anh làm nấy. Công việc nặng nhọc mà tiền công chẳng đáng là bao nên anh chẳng dám ăn nhiều, cố gắng dành dụm để mang tiền về cho cha.
Sau ba tháng lao động cực nhọc, anh đã có chút tiền, lòng vui như mở hội, anh vội vàng về gặp cha. Bấy giờ đã sang mùa đông, ông già ngày càng yếu mệt. Hôm ấy, ông đang ngồi bên bếp lửa thì anh con trai đưa tiền. Tiện tay, ông ném luôn mấy hào bạc vào lửa. Anh con trai giật thót, không sợ bỏng, vội cho tay vào bếp cào than lấy mấy hào bạc ra. 
Ông già sung sướng đến chảy nước mắt. Ông nắm tay con và bảo: Con ơi, cha mãn nguyện lắm rồi. Bây giờ cha đã tin con trưởng thành. Tiền đó mới đích thực là tay con làm ra. Khi nào làm lụng vất vả mệt nhọc, người ta mới biết quý trọng đồng tiền.  Ông đưa hũ bạc cho con trai và dặn: Nếu con không chịu làm lụng thì dù cha có cho con hàng ngàn hũ bạc thế này vẫn thiếu. Nay con đã biết kiếm ra bạc thì hũ bạc này của con mãi mãi có thừa. Hũ bạc đầy không bao giờ vơi chính là hai bàn tay con đó.

35. MIẾNG TRẦU KỲ DIỆU
Ngày xưa có một anh học trò tầm thường tên là Hồ Sinh. Gia đình của hắn cũng không lấy gì là thiếu thốn nhưng ngày đêm hắn chỉ những mong muốn một chút danh phận. Vì thế, khi nghe nói ở huyện có khuyết chân thơ lại là hắn vội bán ruộng, cố đi lo lót cho được. Sau mấy phenn chạy vạy không xong, hắn sực nhớ đến một người bạn học cũ có người thân quen với cụ Thượng, bèn tìm đến nhờ vả. Người bạn của Hồ Sinh khi nghe hắn bày tỏ ý định của mình, liền bảo: “Sao bác không giữ ruộng lại để cầy cấy làm ăn, có hơn lại phải quỵ luỵ để mua cái lo vào thân cho khổ?” Nhưng sau mấy lần khuyên, hắn vẫn không thay đổi ý định, người bạn mới giới thiệu cho hắn một người bạn khác của mình và nói: “Người quen của tôi chả có thế lực gì đâu. Sắn có quen một vị đạo sỹ trên núi Ba Vì, ông ấy quen biết rất nhiều vị quyền cao chức trọng, có thể hơn cả cụ Thượng nữa. Ông ấy có cách làm cho bác nên công danh. Để tôi viết mấy chữ, ông ấy sẽ vì tôi mà giúp bác hết sức.” 
Hồ Sinh cầm thư của bạn tìm đường lên núi Ba Vì. Hắn hỏi thăm mãi, quả đến một cái hang, cửa hang có một viên đá lớn lấp kín. Theo lời dặn, hắn kêu to: “Có phải đây là hang của đạo sĩ  không? Nếu phải xin mở cửa cho vào!” Tự nhiên hòn đá xoay ra mở lối cho hắn vào. Phía trong rất im lặng nhưng sáng sủa. Hắn bước vào chừng chục bước đã thấy vị đạo sỹ đang nằm trên một một cái chõng, miệng nhai trầu, mắt lim dim nghĩ ngợi. Bên cạnh đó có một cái chõng khác, trên có một cơi trầu chỉ còn hai miếng. Tuy có khách mà đạo sỹ cũng không ngồi dạy, chỉ với tay cầm lá thư đọc, miệng vẫn nhai trầu bỏm bẻm. 
Một lát, nhìn trừng trừng vào mặt khách rồi nói: “Ta sẽ cho anh được làm quan. Nào anh muốn quan to hay quan nhỏ? Như thế nào?” Hắn vội đáp: “Tôi học hành ít ỏi, chỉ muốn làm một chân thư lại cũng đủ mãn nguyện rồi.” Đạo sĩ gật gù: “Được! Anh hãy ngồi nghỉ, ăn miếng trầu đã rồi ta sẽ liệu.
Hồ Sinh rón rén lại ngồi ở chõng, lấy một miếng trầu trong cơi ra ăn. Miếng trầu rất ngon nhưng vừa nhai giập bã trầu thì hắn đã thiu thiu ngủ.
Trong mơ hắn thấy: Sau khi về nhà mấy ngày, bỗng một hôm có một người lính lệ mang tráp đến đòi. Hắn sợ quá, tưởng có việc gì xảy ra. Nhưng khi vào dinh cụ Thượng, hắn được đón tiếp rất niềm nở. Người ta để dành cho hắn không phải chức thư lại ở hưyện mà là một chân thông biện ở dinh quan bố tại tỉnh nhà. Công việc cũng chẳng có gì là khó khăn và tốn kém vì có “tay trong” của nhà đạo sĩ, làm cho hắn hết sức sung sứóng. Thế là từ đó, Hồ Sinh hằng ngày ra vào công đường, dạ dạ bẩm bẩm, khúm lúm trước mặt các quan. Ban đầu hắn cảm thấy nhục, nhưng mỗi lần đứng trước bọn tổng lý và những người dân có việc đén cửa quan thì hắn lại cho là một sự vinh hiển. Ban đầu hắn ngần ngại chối từ cả lễ lạt của những người có việc đưa đến lo lót, nhưng dần dần hắn bạo dạn và khôn ngoan hơn. Chẳng những hắn thành thạo trong nghề bóp nặn mà còn học được nhiều mánh khoé kiếm tiền kỳ lạ, là tạo ra những vụ án bất ngờ mà kết quả là cả nguyên cáo và bị cáo tiền bạc xủng xẻng dắt nhau đến công đường đút cho hắn và quan trên của hắn. Vì thế, chỉ trong vài năm, tiền bạc của hắn bộn bề. Hắn làm nhà, mua trâu, tậu ruộng và cuộc sống xa xỉ hơn trước. Hắn lại được một phú thương trưởng giả trong hạt gả con gái cho. Mười năm sau, hắn đã được hai trai hai gái và được cất nhắc làm một quan nhỏ. Cuộc đời hắn cứ lên như diều, không có ai theo kịp.
Nhưng một ngày kia, giữa lúc Hồ Sinh đang ngồi cho vợ chải đầu, thì bỗng có lính lệ cầm trát đến đòi. Hắn không nghi ngờ gì cả. Nhưng khi đến dinh cụ Thượng, hắn liền bị bỏ ngục. Một viên khâm sai đặc phái cải trang đi thanh tra đã tìm ra nhiều chứng cớ về những vụ tham tiền hối lộ của bọn quan tỉnh, mà tất cả đều có liên quan tới hắn. Thế rồi, trong khi chờ xét xử, thì những người dân bị vu oan giá họa ngày trước đều đổ xô tới quan khâm sai kiện hắn. Đơn kiện cao kể tội hắn chất thành đống. Ngày xử hắn là ngày đông hơn hội. Hắn bị tử hình không cần tâu về triều vì quan khâm sai có quyền “tiền trảm hậu tấu”. Trước khi ra pháp trường hắn hồi tưởng lại chuyện cũ và ăn năn rằng phải chi hắn đừng đến hang đạo sĩ nhờ chạy chọt chức quan thì có đâu đến nỗi này.
Hồ Sinh bỗng choàng tỉnh vì có một tiếng động rất dữ dội. Hắn hé mắt thì té ra mình vẫn còn nằm trên chiếc chõng thứ hai của nhà đạo sĩ, chân đạp phải cơi trầu lăn xuống đá đánh choảng một tiếng, miếng trầu còn lại vẫn nằm lăn lóc trên chõng. Còn đạo sĩ vẫn lim dim mắt, bỏm bẻm nhai trầu. Chợt đạo sĩ ngồi dậy hỏi hắn: Bây giờ chúng ta sẽ bàn một chút. Anh sẽ cầm lá thư của tôi đến cụ Thượng…
Nhưng lúc này Hồ Sinh không còn đủ can đảm để tính chuyện danh phận nữa. Hắn vội nhả miếng trầu đang ngậm ở miệng và cáo từ ra về. Từ đó, hắn trở nên một người chí thú làm ăn trên ruộng đất của mình.

36. GÁI NGOAN DẠY CHỒNG
Ngày xưa, có một người giàu, vợ chết sớm, chỉ có độc một con trai. Đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu lổng không chịu học hành làm ăn gì cả. Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người nhà giàu rất buồn phiền, biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra đi. Bởi vậy, ông mới tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang, để may chi nó sẽ ngăn chặn chồng, bảo vệ một phần nào cơ nghiệp. Nghĩ vậy ông cất công đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng đi đã được nhiều nơi mà chưa thấy một người nào vừa ý.
Một hôm, đến một vùng kia, mỏi chân, ông nghỉ lại ở một quán nước bên đường. Ông bỗng thấy một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang tranh nhau trẩy ăn. Một chốc sau, một cô gái chừng đôi tám cũng đến trẩy táo. Ông lân la hỏi xin ăn, lúc này táo chín đã bị bọn trẻ trẩy hết, chỉ còn lại những quả xanh, nhưng cô gái cũng cố chọn những quả ngon nhất đưa cho khách.
Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ: "Sởi lời trời gởi của cho, quanh co trời gò của lại. Chỉ có người nào tốt bụng với mọi người mới xứng đáng được hưởng giàu sang sung sướng". Bởi vậy, ông tìm đến nhà cô gái, giả làm người lỡ lộ đường xin nghỉ trọ một tối. Và rồi ông được gia đình cô gái ân cần tiếp đãi. Để thử xem cô gái có khôn ngoan không, ông lân la làm quen với nàng. Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa một quan tiền nhờ mua hộ mình "Một nắm gió, một bó lửa". Cô gái chẳng nói chẳng rằng, mua về cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa. Thấy thế ông thầm khen ngợi, nhưng vẫn định thử thêm cho biết.
Qua ngày mai, ông dậy sớm, giở tay nải đưa cho cô gái mấy bát gạo nếp, nhờ nàng thổi giúp mình vừa cơm, vừa bánh để đem đi ăn đường. Cô gái không từ chối, vội lấy gạo ra vo. Trước khi cho vào nồi, nàng bớt lại ít gạo làm vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm. Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm vừa ý, cho là con người đủ đức hạnh, khôn ngoan, đảm đang ít có. Bèn quyết định trở về sửa lễ hỏi cho con trai làm vợ.
Đứa con trai ông từ ngày có vợ lại càng lêu lổng, hắn thường bỏ nhà đàn đúm với bọn vô lại làm cho ông hết sức buồn. Và điều làm ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông, khi dăm bảy quan, khi một vài vác, tung vào cuộc đỏ đen. Mặc dù ông đánh đập, mặc dù vợ hắn khuyên bảo, nhưng hắn vẫn chứng nào tật ấy. Dần dần ông buồn phiền thành bệnh. 
Một hôm, biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến bên giường dặn nhỏ:- Nay cha đã gần đất xa trời, chồng con là một thằng "phá gia chi tử" cơ nghiệp này chỉ có một sớm một chiều mà thôi. Cha rất thương con xấu số. Từ lâu cha làm ăn dành dụm, có để được hũ vàng chôn sau vườn. Vậy cha cho riêng con hũ vàng đó, đừng cho chồng con biết. Sau này chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp nó làm lại cuộc đời.
Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời lại càng chơi bời mặc sức. Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn, hắn chẳng những không nghe, lại còn phũ phàng với vợ. Mỗi lần thua bạc, hai người lại càng xô xát. Nhiều lần bị vợ cản trở, hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt mọi người. Một hôm, để khỏi vướng, hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi đuổi nàng ra khỏi cửa. Từ đó, hắn phỉ chí tung hoành không một ai dám cản. Quả như lời đoán của bố hắn, mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt "nướng" vào sòng bạc. Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cái cơ nghiệp mấy đời lưu truyền lại đều sạch sành sanh, hắn bỏ làng mạc quê hương đi lang thang, khắp đầu đường xó chợ, ngửa tay xin ăn qua ngày.
Lại nói chuyện người đàn bà sau khi bị chồng đuổi, mới đổi tên tìm đến thị trấn mở một quán hàng nước, sau ít lâu kiếm được một số vốn nhỏ, nàng bắt đầu buôn hàng tấm. Số vốn của nàng ngày một lớn dần lên. Một hôm, gặp hai em bé mồ côi đi ăn xin, nàng thương tình đưa về nuôi, coi như ruột thịt của mình. Trong một dịp đi kiếm củi, hai con nàng nhặt được khúc gỗ mục, về chẻ ra bỗng thấy có mấy thoi vàng bên trong. Có vốn lớn lại có tài kinh doanh nên chẳng bao lâu nàng trở nên giàu có, nổi tiếng trong thị trấn. Tiền bạc tuôn về như nước. Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở một thân một mình. Thấy nàng giàu có, nhiều kẻ ngấp ngé muốn "gá nghĩa châu trần" nhưng người đàn bà ấy nhất định từ chối mọi lời đường mật. Mặc dầu người chồng bạc bẽo đã mười lăm năm xa cách nhưng nàng vẫn không quên tình vợ chồng xưa cũ. Đã nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa, phố phường dò hỏi, nhưng tin tức của chồng càng dò hỏi càng bặt tăm.
Năm ấy, sau mấy tháng hạn, lúa khoai chết dần chết mòn, những cánh đồng nứt nẻ. Giá gạo lên vùn vụt. Ngoài đường người đi ăn xin kéo đến hàng đoàn. Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu. Bà xin phép quan trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó. Làm như thế, nàng còn mong thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình nếu còn sống tất sẽ lần mò về. Y như thế thật, ngày bắt đầu phát, nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở hàng cuối đội ngũ lĩnh chẩn. Đúng là hắn. Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay, hắn chưa có cách gì để sống khá hơn, và đỡ hèn hạ hơn trước. Bây giờ nghe nói có phát chẩn, hắn vội mò đến đây và ngồi hàng phía tả. Thế nhưng khi phát, những người giúp việc của bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lại. Khi sắp sửa đến hắn bọn họ tự nhiên nói lớn: "Hôm nay hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai!". Hắn buồn bực trở về, qua ngày mai hắn cố tìm đến thật sớm, ngồi vào hàng đầu bên hữu, nhưng hắn không ngờ người phát chẩn lại phát từ đầu bên kia. Lúc sắp đến hắn thì họ lại giơ thúng không lên: "Hôm nay hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai!". Hắn ra về, thở than cho số đen đủi. Hôm sau hắn lại mò đến thật sớm, lần này hắn leo đúng vào chính giữa đội quân lĩnh chẩn. Trong bụng hắn nghĩ, lần này thì không thể để mất phần được. Nhưng đến giờ phát, hắn không ngờ người nhà bà chủ hiệu lại phát từ hai đầu lại và cuối cùng người không được gì cả lại vẫn là hắn. Ba lần hỏng cả ba, hắn rất ngao ngán, bèn đánh liều đi tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn. 
Gặp hai đứa con gái nuôi của vợ, hắn ngả nón kêu van hết lời. Ở trong nhà người đàn bà nhìn ra biết là do mưu của mình mà đến đây, bèn sai người hầu ra hỏi xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mướn. Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời: Xin ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương cho tôi được ở hầu bà, rửa bát, quét nhà, mọi việc tôi đều làm được hết. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi. Người nhà trở ra cho hắn biết là bà chủ nhận lời. Từ đó, hắn chăm chỉ làm lụng, cố vừa lòng chủ. Nhưng chung quy hắn không biết chủ chính là vợ cũ của mình. Về phần người vợ cũng không để lộ tí gì cho hắn biết, chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử tế mà thôi.
Sau một thời gian, thấy hắn chịu khó làm ăn, người đàn bà mừng lắm. Một hôm, nàng gọi hắn lên mà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì không. Hắn đáp: Tôi lúc nhỏ đi học có biết ít nhiều. - Vậy từ mai trở đi, anh không phải hầu hạ nữa, cho anh ở gian nhà khách dạy đám trẻ học, tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan. Nghe nói, hắn tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa, cảm thấy lòng nhân đức của bà chủ đối với mình bằng trời bằng biển, vội nhận lời ngay. Từ đó hắn đóng vai thầy đồ, cố sức làm cho chủ tin cậy. Người vợ vẫn thử mãi không thôi.
  Một lần, gặp ngày tết, vợ sai lấy tiền ra cho kẻ hầu người hạ. Nàng nói: "Ta cho mỗi người năm quan, hãy mang đi đánh bạc cho vui, nếu ai hết sẽ cho thêm". Thầy đồ ta cũng được năm quan tiền. Nhưng trong khi mọi người nướng vào xóc đĩa bài mười, thì trái lại, hắn mang nguyên vẹn số tiền đó về gửi cho chủ. Vợ hắn hỏi: Tại sao anh không thích đánh bạc? Hắn trả lời: Bẩm bà, tôi ngày xưa vì cờ bạc mà đến nông nỗi này. Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không dùng đến nó. Thế là hắn luôn miệng kể hết cho chủ nghe, từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều, vợ ngoan như thế nào, rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách, và ngày nay đã ăn năn hối lỗi... Vợ hắn hỏi: Anh còn thương vợ nữa không? Hắn rầu rĩ: Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấy. - Nghe anh nói tôi rất thương tình. Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ. Nếu hết tiền mà vẫn chưa thấy, anh cứ đi về đây, tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra.
Hắn mừng rỡ vâng dạ, mang tiền đi tìm. Nhưng sau ba tháng trở về với bộ mặt thiểu não, hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích đâu cả, chắc là vợ đã chết. Từ đấy vợ thấy hắn chí tình, lại có lòng tu tỉnh, nên rất mừng. Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội, chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây, may chi sẽ có ngày hội ngộ.
Một hôm, nhân ngày giỗ cha chồng, người đàn bà nhờ thầy đồ chép bài văn tế. Hắn ta ngạc nhiên và bội phần mừng rỡ khi thấy bài vị tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên mình. Lập tức hai vợ chồng ôm nhau khóc lóc. Rồi sau khi cúng xong, họ mời hàng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự tình. Ai nấy đều cho là một cuộc tái ngộ hiếm có.
Về sau hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con nuôi, giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản. Sau đấy họ dắt nhau trở về quê hương xưa, chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ. Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà, vợ mới sai đào hũ vàng của bố chồng cho mình ngày xưa lên. Nàng nói: Có vàng chưa chắc có hạnh phúc. Cho nên trong những lúc túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó. Nói đoạn, đem số vàng ấy cúng cho đền chùa, bố thí cho người nghèo. Từ ấy hai vợ chồng sống với nhau đến đầu bạc.
Có câu tục ngữ: Làm trai rửa bát quét nhà / Vợ kêu thì.... Dạ, bẩm bà tôi đây!.. .Là do truyện này mà ra. 

37. CHIM SƠN CA
Ở bản nọ có một chàng trai khôi ngô tuấn tú làm nghề thợ săn. Anh là một thợ săn giỏi, đã vào đến rừng là có thú mang về. Một lần vào rừng săn thú, chàng đi từ sáng đến chiều mà chẳng gặp con thú nào. Chẳng lẽ hôm nay mình về tay không? Anh đang nghĩ ngợi nên về hay đi vào rừng để tìm thú. Vừa lúc ấy, anh thấy một con chim sơn ca bé nhỏ bị gãy một bên cánh đang mắc ở bụi gai. Thương tình, anh nhặt chim rồi đem về nhà đắp thuốc. Chim sơn ca được anh chăm sóc nên chỉ ba ngày vết thương đã lành. Từ hôm đó sơn ca ở lại làm bầu bạn với anh. Có chim sơn ca nhà anh vui vẻ hẳn lên, suốt ngày chim nhảy nhót và cất tiếng hót véo von. Anh thợ săn quý chim lắm, anh làm một cái lồng đẹp lộng lẫy cho chim ở.
 Thực ra, con chim sơn ca luôn nhảy nhót và hót véo von kia là nàng tiên trên trời cao lạc đường bị diều hâu đuổi bắt và mổ gãy cánh. Được người thợ săn trẻ thương tình cứu chữa, sơn ca biết ơn chàng nên muốn giúp chàng làm các công việc lặt vặt trong nhà để chàng đỡ vất vả. Khi chàng thợ săn trẻ ra rừng làm nương thì ở nhà chim sơn ca hoá thành một cô gái xinh đẹp. Cô dọn dẹp nhà cửa, lấy nước, dệt vải, nấu cơm. Công việc xong xuôi cô lại biến thành chim sơn ca chui vào lồng ca hót. Ngày đầu tiên đi làm về chàng ngạc nhiên không hiểu ai tốt bụng đã giúp mình thế này. Chàng gọi to xem có ai không. Chờ một lúc chẳng có ai trả lời chàng ngồi xuống ăn cơm. Cơm ngon quá, chàng vừa ăn vừa tấm tắc khen. Ngày thứ hai, chàng thợ săn đi rẫy về lại đã thấy cơm canh dọn sẵn, còn có cả chăn màn quần áo sạch đẹp cho mình. Chàng ngạc nhiên quá bèn đi hỏi khắp làng xem ai đã giúp mình cơm nước lại còn gửi bao nhiêu đồ quý giá cho nữa. Nhưng tất cả dân làng đều kinh ngạc vì làm sao người thường dệt được vải đẹp như thế. Phân vân trong lòng, chàng quyết rình xem. 
Sáng ngày thứ ba, như thường lệ, chàng thợ săn vác dao vào rừng. Đi được nửa đường, chàng quay về đứng nấp sau nhà xem thử. Vừa lúc ấy chàng nghe thấy tiếng động ở lồng chim. Trong phút chốc không thấy chim sơn ca đâu cả mà là một cô gái xinh đẹp, da trắng, tóc dài bước đi mềm mại, uyển chuyển. Nàng bắt đầu công việc hàng ngày, nàng nấu nướng, đan dệt quần áo. Bàn tay nàng thoăn thoắt, mắt nàng rạng rỡ. Chàng thợ săn nhìn nàng một cách say sưa, bỗng có một con kiến vàng cắn vào bắp vớ của chàng khiến chàng thợ săn giật mình làm rơi con dao xuống đất. Thấy động, nàng định biến thành chim sơn ca chui vào lồng nhưng không kịp nữa. Chàng thợ săn trẻ chạy lại nắm tay nàng và hỏi: Nàng là ai? Sao lại đến đây giúp ta? - Thiếp là con gái Ngọc Hoàng, hôm nọ đi chơi chẳng may bị thương đã được chàng cứu giúp. Thiếp nguyện làm người vợ hiền dịu của chàng, nếu chàng ưng thiếp thì hãy đốt bỏ xác chim kia đi. Chàng trai trẻ nghe lời cầm xác chim sơn ca ném vào bếp lửa. Hôm ấy chàng thợ săn trẻ cùng nàng tiên xinh đẹp từ trời cao xuống tâm sự suốt đêm. Hôm sau, họ thành vợ thành chồng. Chẳng bao lâu nàng sinh được một đứa con bụ bẫm. Họ sống với nhau thật đầm ấm, tràn đầy hạnh phúc.
Một hôm, người vợ gùi nước, không may gặp phải một đàn trâu uống nước đầu nguồn suối, nàng phải chờ cho nước trong mới múc được. Vắng mẹ đứa con khóc ra rả, khóc đến nỗi người chồng không làm sao dỗ được, người chồng bực mình lắm nên người vợ vừa về đến nhà, chưa kịp hỏi han gì người chồng đánh ngay vợ. Người vợ không nói gì chỉ ôm con ngồi khóc. Nàng ôm con ngồi khóc ba ngày ba đêm.
Một buổi sáng thức dậy, người vợ buồn bã nói: Bây giờ chàng không còn yêu thiếp, chàng không muốn ở với thiếp nữa, thiếp phải về với cha mẹ. Thiếp không thể mang theo con được, thiếp để con lại cho chàng. Nước mắt ròng ròng, nàng trao con cho chồng. Người chồng chưa kịp đỡ con thì nàng oà khóc, tiếng khóc nức nở bay vút lên, nàng biến thành con chim sơn ca bé nhỏ bay về trời cao. Người thợ săn trẻ cứ bế con đứng nhìn theo mãi đến khi chỉ còn thấy ánh sáng lấp lánh ở chiếc vòng nơi cổ chân chim. Chàng gục đầu xuống hối hận vì việc làm nóng nảy của mình và ôm con ngồi khóc.
Đêm ấy chàng thợ săn trẻ nằm trằn trọc mãi không sau ngủ được. Cảnh nhà vắng vẻ, con nhớ mẹ khóc nỉ non. Chàng quyết định ôm con đi tìm vợ. Trên đường đi chàng gặp một chú chuồn chuồn đỏ thắm đang đậu trên cành cây ở giữa lối đi. Thấy chàng, chuồn chuồn hỏi: Kìa anh thợ săn, anh có khoẻ không? Sao trông anh buồn quá vậy? Chàng thợ săn buồn bã trả lời: Tôi khổ lắm chuồn chuồn ơi, vợ tôi đã bỏ đi rồi. Chuồn chuồn bảo: Nếu cần gì thì anh bảo tôi, giúp được tôi sẽ giúp anh! Người thợ săn thổn thức: Tôi mất vợ, con tôi mất mẹ, tôi muốn chuồn chuồn đưa tôi lên trời để tôi đón vợ về. Chuồn chuồn giúp tôi nhé! Chuồn chuồn nhận lời đưa chàng đi. Chàng ngồi lên lưng chuồn chuồn, đang bay thì bỗng gặp một cơn mưa ập đến, chuồn chuồn ướt cánh không bay được nữa, thế là chàng đành phải quay về. Trên đường về nhà, chàng vừa đi vừa khóc, gặp chim gáy, chim hỏi: Chào anh thợ săn! Lâu lắm mới gặp anh, mà sao anh lại vừa đi vừa khóc, có chuyện gì mà đau lòng thế? - Chim gáy ơi! Vợ tôi đã bỏ tôi mà đi rồi, tôi sống làm sao được nếu không có nàng ở bên cạnh? - Thế vợ anh đi đâu? - Cô ấy giận tôi nên về ở với cha mẹ ở trên trời kia. Vừa nói, người thợ săn vừa chỉ lên trời xanh nơi có những áng mây trắng, mây hồng đang bay lãng đãng. Chim gáy thủng thỉnh nói: Tôi cũng muốn giúp anh lắm, nhưng bụng đang đói meo đây, làm gì được bây giờ. - Tôi cho chim ăn rồi chim giúp tôi nhé. Ăn xong chim gáy để chàng thợ săn ngồi lên lưng, tay ôm cổ chim, nhưng sức yếu, chàng thợ săn lại nặng quá nên chim không đủ sức đưa chàng đi. Một lần nữa chàng lại phải quay về.
Lần thứ ba, người thợ săn gặp đại bàng. Đại bàng nhận lời đưa anh đi. Nhưng để có đủ sức khoẻ chàng phải cho đại bàng ăn ba cân thịt bò và một chục chú gà con. Anh thợ săn đi tìm đủ cho đại bàng ăn để đại bàng lấy sức đưa chàng đi. Trước khi đi, đại bàng dặn anh phải làm thịt một con lợn dài bảy gang để khi bước chân đến cổng nhà, nàng phải ném thịt cho lũ chó ngao ăn thì mới vào nhà được. Chim bay qua ba sông, bảy núi, bốn đèo rồi lại qua bao nhiêu núi non trùng điệp. Đến ngày thứ hai mươi thì đến được cổng trời. Đại bàng bảo: Đấy, vợ anh đang ngồi dệt vải bên cửa sổ trong toà nhà to nhất kia kìa!
Cám ơn đại bàng, chàng thợ săn cắm cúi bước đi, bỗng một đàn chó ngao ở đâu nhảy bổ ra nhe những cái răng trắng nhởn, nhọn hoắt chực lao vào xé xác chàng. May quá có thịt con lợn bảy gang, anh thợ săn ném cho lũ chó, bọn chúng tranh nhau vồ thịt mà không để ý đến chàng nữa. Nhân cơ hội ấy chàng ba chân bốn cẳng chạy thẳng đến nhà nàng. Anh chàng thợ săn phân vân mãi không biết mình có nên gặp vợ hay không? Liệu gặp mình vợ có thèm nhìn mặt nữa không? Cũng may lúc đi chàng đem theo chiếc lược của nàng thường chải tóc ngày xưa, chiếc trâm cài đầu và cái khăn tay thêu tên nàng. 
Người thợ săn đứng bên ngoài cửa sổ lén đặt cái lược vào khung cửi. Người vợ trông thấy, cầm lên ngắm nghía hồi lâu rồi nói một mình: "Đây đúng là cái lược của tôi ngày trước đã dùng, nhưng tôi đã để lại cho chồng tôi rồi cơ mà". Người thợ săn lại lén để chiếc trâm cài tóc vào khung cửi, người vợ reo lên: "Sao chiếc trâm cài tóc của tôi lại ở đây? Tôi tặng chiếc trâm này cho chồng tôi ngày mới cưới cơ mà". Đến khi người thợ săn để chiếc khăn tay có thêu tên nàng lên khung cửi, thì nàng nước mắt lưng tròng nói: Nếu chàng thật tình thương thiếp thì hãy đón thiếp về. Thiếp nhớ chàng và thương con lắm! Nghe vợ nói thế, chàng thợ săn đặt con xuống đất, thằng bé nhìn thấy mẹ, nó lẫm chẫm đi vào, miệng líu lo: Mẹ, mẹ. Người mẹ ôm chầm lấy con hôn hít vuốt ve sung sướng. Tuy vậy, lúc người thợ săn bước tới nàng vẫn còn hờn giận cố giữ kín sự sung sướng của mình và nói: Chàng đã biết hối hận việc cũ rồi thì hãy nghe lời thiếp. Nếu muốn chung sống cùng thiếp thì phải làm bảy gian nhà gỗ, cột nhà phải to như cột đình và phải cao chạm đến đám mây kia. Bao giờ làm xong thiếp sẽ về ở cùng chàng. Lần này người thợ săn chiều theo ý vợ. Chàng chặt cây đẽo cột nhưng cây to nặng quá chàng không sao đưa được chúng ra khỏi rừng. Thất vọng người thợ săn ôm mặt buồn rầu. Lúc ấy có một đàn voi đi ngang qua thấy chàng buồn rầu, chúa voi hỏi duyên cớ làm sao? Chàng thợ săn kể lại chuyện phải làm nhà để đón vợ về ở mà bây giờ không sao đem được gỗ ra khỏi rừng. Nghe xong chúa voi nói: Tưởng chuyện gì chứ chuyện kéo gỗ chúng tôi có thể giúp anh chỉ một loáng là xong. Thế rồi chúa voi huy động cả đàn voi của mình kéo chỉ một loáng là xong.
Bây giờ đến lúc dựng nhà. Thật là khó khăn vì gỗ dài quá, một mình chàng không sao đóng được cọc. Một ngày, hai ngày, ba ngày trôi qua mà không sao dựng được. Chàng buồn quá ngồi khóc, một đàn khỉ đi qua trông thấy, nghe chuyện của chàng chúng giúp chàng dựng cột buộc sườn. Buộc đến đâu thì có loài sóc vàng lợp nhà cho đến đó.
Ngắm từ xa, người vợ thương chồng lắm, nàng vội vã bế con về. Từ đó họ ăn ở hoà thuận, thương yêu nhau và sống hạnh phúc trong căn nhà mới đó.

38. RẮN BÁO THÙ
Ngày ấy, trong một gò đất cây cối mọc um tùm ở làng Nhị Khuê, gọi là gò Rùa, có một con rắn mẹ sống với một đàn con. Con rắn làm tổ ở đó đã ngót một trăm năm, chỉ còn chờ ít lâu nữa là trở thành xà tinh, có thể đi mây về gió, biến hoá huyền diệu. 
Vào thời ấy có một ông đồ họ Nguyễn mở trường dạy học trong làng. Thấy đám đất ở gò Rùa có mạch rất đẹp: Trước mặt là đầm làm minh đường, sau lưng là gò làm án, ông đồ bèn xin làng cấp cho mình đám đất để dựng một ngôi nhà, làm nơi tĩnh mịch dạy học. Được phép làng, một buổi chiều nọ, trước khi tan lớp, thầy bảo trò: - Từ mai các con tạm nghỉ học một vài ngày, rồi đến phát dọn hộ cho thầy đám đất bên gò Rùa kia. Nghe tin ông thầy đồ sắp cho người đến phá phách chỗ ở của mình, đêm ấy, rắn mẹ bèn báo mộng cho ông thầy đồ biết. Ông đồ đang ngủ bỗng mơ màng thấy một người đàn bà vẻ mặt hầm hầm đến sừng sộ. - Này ông kia! Nào ta có gây thù, chuốc oán gì với nhà ngươi mà nhà ngươi lại toan phá nhà phá cửa của ta. Muốn tốt thì chớ có động đến, nếu không thì đừng mong được ăn ngon, ngủ yên với ta đâu. Nói xong quay ngoắt trở ra. 
Ông đồ giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng. Suy nghĩ mãi về giấc mộng lạ, ông chưa hiểu thế nào cả. Sực nhớ hôm nay là ngày học trò mình bắt tay khai phá đám đất hoang, ông cho rằng hẳn có ma quỷ gì ở đây muốn ngăn cản không cho mình tới ở. Sợ tai vạ, ông đã toan bảo học trò ngừng tay, nhưng suy đi nghĩ lại, ông thấy không nên: Ồ, mộng mị vô chừng, tội gì phải bận tâm cho mệt. Rồi đó, ông đồ chống gậy đi đến khoảng đất mới, xem học trò làm việc. Đến lúc đến nơi, thì thấy học trò đã dọn quang một đám khá rộng. Ông đồ hỏi: - Các con có thầy gì lạ không? Trò đáp: - Nếu có gì lạ, chúng con sẽ báo cho thầy biết!
Đêm hôm sau con rắn lại báo mộng. Ông đồ đang mơ mơ, màng màng, bỗng thấy người đàn bà hôm trước lại đến, tay bê ba đứa con nhỏ, nhưng lần này vẻ mặt thay đổi hẳn: - Xin thầy hoãn cho ba hôm nữa, để cho đàn con tôi cứng cáp đã, rồi sẽ xin đi. Thấy người đàn bà vật nài mấy lần thì động lòng trắc ẩn, ông nói: - Được, được, tôi sẵn lòng để cho nhà chị nán lại ít hôm. 
Sáng dậy, ông đồ nghĩ mãi vẫn chưa hiểu ra thế nào. Ông bèn đến thăm đám đất đã được phát dọn xem sao. Vừa đến nơi, người trưởng tràng đã đến nới ông: - Thầy ạ, vừa rồi có một con rắn lớn, tiếc rằng chúng con mới chém phải một nhát ở đuôi thì nõ đã chạy mất. Trong hang có một ổ ba con rắn con, chúng con đều đánh chết cả. Ông đồ chợt hiểu ra, bèn tắc lưỡi ân hận: - Đúng là người đàn bà ở trong con rắn đã đến cầu khẩn với ta. Và ta đã không kịp cứu bầy con như ta đã hứa.
Lại nói con rắn mẹ bị mất cả đàn con, lại bị thương tích nặng nề, thì căm tức ông đồ vô hạn. Nó quyết tìm dịp báo thù. Một hôm, trong khi ông đồ đang đọc sách ở ngôi nhà mới dựng xong, con rắn lén rò vào mái tranh đến sát gần chỗ ông ngồi, toan sự cắn chết. Nhưng ông đồ vừa liếc thấy đã kịp hô hoán cho người nhà chạy lại. Rắn ta hoảng hốt bỏ trốn, chỉ kịp nhỏ xuống trang sách một giọt máu. Ông đồ kinh hãi nhìn lại trang sách, thì thấy giọt máu nhỏ thấm xuống đến tờ thứ ba. Thở dài, ông lẩm bẩm: “Chắc nó sẽ báo oán đến đời con cháu ta chứ không sai”.
Mấy chục năm trôi qua. Con rắn ẩn nấp trong chằm lúc này đã lành vết thương và đã trở thành xà tinh. Nhớ lại món nợ cũ nó bèn hoá thành một người con gái rất đẹp đi tìm kẻ thù. Lúc này ông đồ đã mất, con ông cũng lưu lạc chết ở quê người, chỉ còn cháu bé lúc này là Nguyễn Trường, bấy giờ đang làm quan đại thần ở kinh đô, chức cả quyền cao, vua quan đều trọng vọng. Một hôm, Nguyễn Trường nhân thong thả đi chơi chợ ở ngoài kinh thành. Con rắn biết tin, bèn hoá làm một người con gái, gánh một gánh chiếu đi chợ bán. Cho nên, lúc ông vào đến chợ đã trông thấy một cô gái trẻ tuổi đang đặt gánh chiếu đứng đọc tờ cáo thị dán ở cổng. 
Thấy người con gái bán chiếu ăn mặc nghèo khổ mà mặt mũi đẹp tựa trăng rằm, lại dáng điệu thanh tú, chẳng có gì lam lũ, ông sai dừng cáng, bảo người lính hầu gọi cô tới và hỏi: - Ả tên là gì, con cái nhà ai, tại sao lại làm nghề này? Nàng đáp: - Thiếp tên là Nguyễn Thị Lan, vì bố mẹ mất cả. Không biết nương tựa vào ai nên đi ở với một người làm nghề dệt chiếu. - Làm sao lại biết chứ? - Hồi còn nhỏ, cha mẹ thiếp có cho theo đòi bút nghiên. - Nếu vậy thì ta có bài thơ này, thử hoạ xem: Ả ở đâu bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu đã hết hay còn? Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi? Đã có chồng chưa? Được mấy con? Cô gái liền đọc bài thơ hoạ: Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon, Cớ chi ông hỏi hết hay còn. Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ. Chồng còn chưa có, hỏi chi con. Nguyễn Trường tấm tắc khen: - Chao ôi! Tài này thật nàng Ban, ả Tạ dễ không sánh kịp! Ta đang cần một người hầu bút nghiên, chẳng hay nàng có muốn bỏ nghề bán chiếu, về ở với ta trong phủ không? Biết mưu đã đắt, cô gái gật đầu. 
Sau lần đi dạo chợ ấy, Nguyễn Trường đưa Thị Lan về làm hầu gái. Càng ngày ông càng yêu vì nết, trọng vì tài. Với ông, Thị Lan vừa là người vợ, vừa là người bạn văn chương. Sắc đẹp của nàng làm cho cả phủ nổi ghen. Nhưng nàng rất khôn ngoan, biết lấy lòng tất cả mọi người. Đối với Nguyễn Trường thì hết sức chiều chuộng, lại giúp ông thảo các giấy tờ việc quan rất trôi chảy, nên ông rất yêu dấu.
Tiếng đồn về người hầu gái của Nguyễn Trường chẳng mấy chốc vang đi khắp nơi. Buổi ấy, nhà vua đang cần một người hầu giảng sách, nghe tiếng Thị Lan tài sắc hơn đời, vua bèn buộc Nguyễn Trường dâng luôn cho mình. Thị Lan lại trở tài và chiều chuộng rất mực ông vua trẻ. Càng ngày vua càng yêu mến không rời, phong làm nữ học sĩ.
Một hôm, mẹ vua bị bệnh đau mắt nặng thái y viện không có cách gì chữa khỏi. Nghe tin này, Thị Lan bèn tây vua: - Thiếp ngày trước ngoài việc học chữ còn võ vẽ đôi chút về nghề y. Nếu được phép bệ hạ, thiếp xin thử chữa cho hoàng thái hậu xem sao. Vua không ngờ nữ học sĩ lại lắm tài nghề, bèn y cho. Thị Lan đến nơi, chỉ dùng lưỡi mình liếm vào con mắt của mẹ vua, tự nhiên bệnh đau mắt của mẹ vua khỏi hẳn, không cần tra thuốc men gì. Sau việc đó, vua lại càng yêu dấu và tin cậy.
Một hôm, vua bị đau lưỡi. Sực nhớ tới Thị Lan, nhà vua bèn đòi nàng vào cung để chữa cho mình. Thấy đúng là cơ hội đến nơi, Thị Lan liền bảo nhà vua thè lưỡi cho mình chữa. Vua thè lưỡi ra, rắn bèn cắn vào lưỡi một cái. Vua ngã chết ngay, không kịp kêu lên một tiếng. Triều đình lập tức bắt giam Thị Lan và bắt giam luôn họ nhà Nguyễn Trường để xét xử. 
Chẳng mấy chốc mà cái án giết vua đã thành. Thị Lan bị trảm quyết. Khi đao phủ sắp sửa đem xử tù, thì nàng xin phép được xuống sông tắm gội lần chót. Người ta y theo lời xin, cho một người lính gác tù đi theo canh giữ. Nhưng khi vừa bước xuống nước, rắn lập tức trở lại nguyên hình và trườn xuống sông mất tích. Người lính gác để sổng mất nữ tù, liền bị bắt giam và theo luật phải chết thay.
Vụ án Thị Lan vì chính phạm trốn mất nên búa rìu pháp luật tự nhiên giáng xuống đầu cả họ Nguyễn Trường. Theo lệnh triều đình, bà con thân thích của ông bất kể nam nữ già trẻ, tất cả đều bị xử giảo. Riêng có Nguyễn Trường và người lính gác tù thì đem chôn sống. Hôm thi hành bản án, người lính gác là kẻ chịu cực hình đầu tiên. Khi sắp đến lượt Nguyễn Trường, bỗng có một người đàn bà vợ anh lính, ở đâu chạy tới nhảy chồm lên mộ chồng gào khóc thảm thiết, đòi một hai chết theo cho trọn đạo. Trước cảnh thương tâm, Nguyễn Trường khuyên chị: - Ta vì một thiếp mà bị chết oan cả họ, còn chồng nàng thì lại vì ta mà bị thiệt thân. Thôi, nàng lãy coi đó là số mệnh, đừng khóc nữa. Hãy ngửa bàn tay cho ta ghi lại một chút dấu tích. Sau này nếu có việc gì thì đừng quên ta!
Vợ người lính gác vừa hứng lấy bãi nước bọt thì bỗng nhiên rùng mình cảm động. Từ đấy, nàng có mang, đủ chín tháng mười ngày, sinh được một người con trai rất khôi ngô. Nàng đặt tên là Anh Vũ. Và nghĩ rằng đó là dấu tích của vị đại thần chết oan, nên tuy mình họ Phạm, nàng cũng khai cho con họ Nguyễn. Khi con lớn khôn, nàng cố gắng cho nó đi học. Anh Vũ thông minh, học chóng tấn tới. Năm Anh Vũ hai mươi tuổi cũng là năm có lệnh ân xá cho cả nhà Nguyễn Trường, vì đức hoàng đế mới lên ngôi đã thấu rõ mối oan tày trời của bậc công thần. Tất cả những của cải, ruộng đất, nô tì trước đây triều đình tịch thu đều trả lại cho dòng họ của ông. Nhưng dòng dõi của Nguyễn Trường thì chẳng còn một ai. Thấy thế, vợ người lính gác bèn đưa Anh Vũ đến kinh thành đánh trống đăng văn. Nhà vua cho gọi vào. Trước sân rồng, nàng kể lại lúc Nguyễn Trường nhổ bãi nước bọt vào tay đến lúc mình nuôi khôn lớn. Vua nghe đoạn trầm ngâm một hồi, rồi phán rằng: “Đúng đây là dấu tích của Nguyễn Trường. Chưa nói đến sự hiển ứng, chỉ xem nét mặt cũng phảng phất giống vị công thần”. Anh Vũ bèn được coi là con đẻ của Nguyễn Trường và được bổ làm quan. Càng ngày lòng vua thương xót vị đại thần chết oan càng dồn vào Anh Vũ. Sau một thời kỹ bước dần lên nấc thang danh vọng, Anh Vũ được cử đi sứ Trung Quốc vì nhà vua biết chàng không những có tài văn chương mà còn có tài hùng biện.
Lại nói chuyện con rắn từ ngày báo được thù cũ và trốn thoát thì nó ngao du trên mọi ngã sông hồ, không có chỗ ở nhất định. Một hôm, nghe tin dòng dõi của Nguyễn Trường vẫn còn, lòng căm tức của nó lại bừng bừng bốc lên. Lúc thuyền sứ bộ đi qua hồ Động Đình, thì bỗng dưng mọi người thấy có một con rắn rất lớn đuổi theo thuyền; đuôi nó như cột buồm quẫy sóng rất dữ làm cho thuyền tròng trành cơ hồ muốn chìm nghỉm. Cả đoàn sứ bộ và thuỷ thủ đều sợ xanh mắt. Một lúc sau, con rắn vừa lội theo thuyền vừa ngóc đầu lên khỏi mặt nước réo tên Anh Vũ. Thấy vậy, Anh Vũ biết là món nợ của tổ tiên hãy còn dai dẳng chưa thôi. Ông phải tính liệu một bề để cứu lấy mọi người trên thuyền. Suy nghĩ một chốc, ông bèn đứng ra ở mũi thuyền nói to: - Hỡi rắn thần, nghe ta đây! Hãy để cho ta làm tròn sứ mạng của nhà vua. Xong việc nước, ta sẽ về đây nộp mình. Nói đoạn, tự nhiên sóng êm, gió lặng. Con rắn đã biến mất.
Mấy tháng sau, công việc giao thiệp đã xong, thuyền sứ bộ lại trên đường về qua hồ Động Đình. Rắn lại hiền ra đằng mũi thuyền réo tên Anh Vũ. Sau khi dặn dò sứ bộ mọi điều, Anh Vũ cầm một con dao nhọn vào tay và nói: - Tôi phải xuống để báo thù cho cha tôi! Đoạn từ mũi thuyền, chàng lao thẳng xuống mặt hồ. Cả đoàn sứ bộ nhìn theo ứa nước mắt khi thấy vị chánh sứ trẻ tuổi của mình một đi không trở lại. Nhưng lúc ấy bọt tung sóng vỗ, rồi máu đỏ lênh láng trên mặt nước.

39. CHUYỆN NÀNG CÓC
Ở làng nọ có một gia đình người nông dân đã già mà chẳng có được một mụn con. Hai vợ chồng cầu trời khấn Phật mãi, cuối cùng người vợ cũng có thai. Sau chín tháng mười ngày, bà vợ trở dạ nhưng lại sinh ra một con Cóc xấu xí. Hai vợ chồng thất vọng, thở ngắn than dài cho là trời không thương, cho họ con thì chẳng cho lại cho một con vật xấu xí. Lúc đầu, họ định vứt Cóc đi nhưng nghĩ đi nghĩ lại, họ thấy dù sao cũng là khúc ruột của mình nên để Cóc lại trong nhà và nuôi nấng chăm sóc như một đứa trẻ. Ngày qua tháng lại, dù cho Cóc ăn uống bao nhiêu thì Cóc vẫn cứ bé như lúc mới sinh. Được cái Cóc cũng bi bô nói được tiếng người nên ngôi nhà của họ cũng đầm ấm hẳn lên.
Một hôm, người vợ ở đồng về phàn nàn với chồng: Lúa nhà ta chín rồi, mọi người qua lại giẫm bừa lên, nhà chẳng có ai trông nom, sinh được một mụn con thì lại là Cóc, còn trông mong được gì. Nghe mẹ than vãn, Cóc liền thưa: Cha mẹ để con ra đồng trông lúa cho. - Mày là Cóc, người ta qua lại dứt lúa còn giẫm cho bẹp gí chứ nom được gì. - Cha mẹ yên tâm, con ở dưới ruộng, nếu thấy ai dứt lúa thì nói thiệt hơn chắc  họ sẽ nghe thôi. Cóc năn nỉ mãi, cuối cùng cha mẹ đành phải bằng lòng.
Ở làng bên có anh học trò nghèo nhưng rất đẹp trai, ngày hai buổi đi qua con đường có ruộng lúa của nhà Cóc. Cóc ở trong ruộng trông thấy có ý phải lòng anh ta nên lần nào thấy anh, Cóc cũng chọc ghẹo: "Anh đồ ơi, anh đồ ơi!". Anh học trò ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai, lần thứ hai, thứ ba thì nghe thấy tiếng người mời ngồi xuống ruộng nói chuyện. Tò mò, anh học trò xuống ruộng, anh kêu lên kinh ngạc vì trước mắt là một con cóc xù xì nói tiếng người: Tôi thấy anh là một người học trò chăm chỉ, tôi muốn kết duyên cùng anh, chẳng hay anh có bằng lòng không? - Tôi và cóc khác nhau thì làm sao chung sống? - Tuy tôi là cóc nhưng tôi làm được mọi việc như những người vợ đảm đang, anh cứ lấy tôi rồi mọi việc sẽ được như ý.
Trên đường về nhà, anh học trò phân vân ngẫm nghĩ: Có lẽ là duyên số. Cóc mà biết nói như người hẳn không phải là chuyện bình thường. Ta lấy Cóc về để nàng giúp đỡ mẹ già chẳng tốt sao? Anh liền thưa với mẹ đến nhà Cóc xin lấy Cóc về làm vợ. Nghe bà cụ trình bày, cha mẹ Cóc đều từ chối: Con tôi là Cóc, bà hỏi làm gì cho vợ chồng tôi thêm tủi. Cóc ngồi trong buồng nghe chuyện, thưa vọng ra: Bà cụ đã có lòng đến hỏi, cha mẹ cứ nhận lời đi cho bà vui. Về làm dâu con sẽ chăm chỉ làm việc. Thấy Cóc nói vậy, cha mẹ đành nhận lời. Hôm cưới, hai họ đưa đón, cô dâu nhảy lóc cóc đằng sau, về đến nhà chồng, cô dâu nhảy ngay vào buồng.
Từ đó, ngày ngày mẹ chồng ra đồng, chồng đi học, Cóc ở nhà trút bỏ lốt cóc hiện thành người dọn dẹp cửa nhà, thổi cơm nấu nước, cơm dẻo canh ngọt. Công việc xong xuôi, Cóc lại lấy da cóc mặc vào. Khi mẹ và chồng về thì công việc đã xong đâu vào đấy. Gia đình sống rất đầm ấm và vui vẻ.
Các bạn của anh học trò nghèo thấy anh lấy vợ cóc thì đều chê cười, khinh bỉ. Một hôm, sắp đến ngày nhà thầy đồ có giỗ, bọn học trò bẩm với thầy rằng: Nay mai nhà thầy có giỗ cụ, chúng con muốn mỗi người có một mâm cỗ để tỏ lòng thành kính, nhân thể nhờ thầy chấm cho xem ai làm cỗ khéo. Thầy đồ bằng lòng, cả bọn hỉ hả chắc mẩm phen này anh chàng có vợ cóc chắc chắn phải tìm kẽ nẻ mà chui xuống. Anh học trò có vợ cóc lấy làm lo lắng, về đến nhà anh liền lăn ra giường thở ngắn than dài. Vợ hỏi nguyên do, anh chồng nói cho Cóc nghe chuyện phải làm. Nghe xong, Cóc nhỏ nhẹ bảo chồng: "Chàng cứ an tâm đi học, lúc nào người ta bưng cỗ đến thì chàng về nhà, sẽ có cỗ ngon cho chàng đem thi".
Ngày giỗ đã tới, các trò tới tấp bưng cỗ đến nhưng mâm nào thầy cũng chê, đến mâm cỗ của anh chàng có vợ cóc thì thầy khen nức nở. Mâm cỗ ấy được thầy chấm cho giải nhất, không những cỗ trông đẹp mắt mà ăn lại rất ngon miệng. Bọn học trò thua cuộc lấy làm tức tối, không ngờ cóc lại giỏi đến thế. Bọn chúng lại nghĩ ra trò mới để hạ nhục đồng môn. Chúng thưa với thầy cho thi may áo mừng thầy.
Anh học trò có vợ Cóc lo lắm, bồn chồn đứng ngồi không yên. May áo là một việc rất khó, cóc làm sao mà may được. Về đến nhà, anh đưa bộ mặt ủ rũ kể chuyện cho vợ nghe. Cóc nghe xong liền vui vẻ bảo chồng: "Chàng cứ yên tâm đi học, lúc nào người ta mang áo đến nhà thầy, chàng về nhà sẽ có áo đẹp cho chàng đi thi". Bọn học trò háo hức đem áo đến nhà thầy, nhưng khi thầy mặc vào, cái thì dài lê thê, cái thì ngắn cũn cỡn, cái thì rộng thùng thình, cái lại hẹp bó lấy người, thầy chẳng ưng cái nào cả. Cuối cùng, thầy thử đến cái áo của anh học trò có vợ cóc thì áo vừa như in. Thầy tấm tắc khen áo may khéo đến thế và lần này, anh học trò có vợ cóc lại được giải.
Bọn học trò cay cú bàn nhau:- Vợ nó là cóc, tuy có tài nhưng nhất định không đẹp. Lần này, đến đúng mùng một tết, ta xin với thầy, tất cả học trò phải đưa vợ đi cùng để mừng tuổi thầy và thi xem học trò nào có vợ đẹp nhất. Vợ chúng ta dù xấu hay đẹp cũng là người, lẽ nào lại không hơn vợ nó.  Anh học trò có vợ cóc nghe tin này thì bạt vía kinh hồn, anh ta chạy một mạch từ nhà thầy về nhà mình hổn hển than với vợ. Chàng quả quyết rằng tết năm nay chàng xin khất không đến mừng tuổi thầy vì chàng nghĩ vợ mình dẫu sao cũng chỉ là cóc. Cũng như những lần trước, Cóc khuyên chồng yên tâm học tập, mọi việc đã có nàng lo liệu.
Rồi ngày tết cũng đến, học trò đua nhau đưa vợ xúng xính trong bộ váy áo sặc sỡ đến chúc tết thầy. Cóc giục chồng đi trước rồi lóc cóc nhảy theo sau. Anh chàng thấy vợ mình như thế thì chán quá, dừng lại không đi, đành chịu thất lễ với thầy vậy. Thấy chồng chán nản, Cóc động viên: Chàng cứ đi đi, rồi đâu sẽ vào đấy. Đến gần cổng nhà thầy, cóc nhảy vào bụi cỏ trút lốt cóc, hiện ra là một cô gái xinh đẹp nõn nà. Anh chồng vội lấy lốt cóc xé đi rồi dẫn vợ vào nhà thầy. Tất cả mọi người có mặt đều ồ lên ngạc nhiên, không ngờ chị Cóc lại xinh đẹp đến thế, hai vợ chồng họ thật là đẹp đôi và lần này chị Cóc lại được giải nhất. Bấy giờ bọn học trò mới lấm lét nhìn nhau chịu thua và cũng từ đấy chúng không còn dám khinh thường anh chàng lấy vợ cóc nữa.

40. HUYỀN QUANG
Vào thời nhà Trần có một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không đất cắm dùi nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để nuôi con ăn học. Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái con một nhà khá giả trong vùng.
Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá vất vả. Cho đến ngày gia đình sắm sanh lễ vật xin cưới thì đột nhiên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ hôn. Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở, chàng càng thấy đau lòng hơn khi cô gái thuận lấy người cháu họ một viên án phủ sứ. Sau đó cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không có mả mà nên, không phải là nơi nương tựa. Vì vậy cho đến năm ngoài hai mươi tuổi, Huyền Quang vẫn một thân một mình.
Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang lại càng quyết chí về đường kinh sử. Năm hai mươi tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào triều đình đậu Trạng nguyên. Nghe tin Huyền Quang đậu Trạng, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin có con gái đến tuổi lấy chồng, kèm theo cả một tư cơ đồ sộ. Một ông quan lớn ở kinh kì cũng mời quan tân khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám. Tiếp đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhận chức, một viên nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ vào tai: Hoàng hậu đang kén phò mã cho công chúa ba đấy, nếu quan Trạng muốn thì việc tốt đẹp nhất định phải thành. Thấy tình đời như vậy, Huyền Quang than: Khó khăn thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên. Than đoạn, chàng nguyện suốt đời sẽ không lấy vợ. Thế rồi người ta thấy chàng nhất quyết từ chối mọi hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng cuộc đời danh vọng cũng không làm cho chàng vui lòng. Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng ghê tởm. Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời. Làm quan chưa được bao lâu chàng đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu. Bấy giờ cha mẹ chàng đã nối gót nhau qua đời.
Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được. Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ. Chẳng bao lâu chàng đã thuộc tất cả các kho tàng kinh sách của nhà Phật. Rồi nhờ có học vấn không ai bì kịp, Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư. Vua còn cho chàng trông nom viện Trúc Lâm và cho trụ trì ở một ngôi chùa lớn cai quản hàng mấy nghìn tăng ni. Còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc giáo chủ, đời bấy giờ coi là việc hiếm có.
Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng. Thấy vị tổ Trúc Lâm là người còn ít tuổi, vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt dục khổ hạnh, "cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã".
 Nghĩ vậy, vua có ý định thử xem đạo đức của vị sư tổ trẻ tuổi này như thế nào. Nhân mấy ngày hoàng hậu se mình vua cho triệu sư tổ về kinh làm lễ cầu siêu. Sau mấy đêm việc cầu siêu đã xong, trước khi chàng trở về chùa, vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền công khó nhọc. Huyền Quang không tiện chối từ đành phải cầm lấy, nhưng chàng đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.
Sau đó ít lâu, vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp tên là Điểm Bích tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được. Vua còn dặn Điểm Bích làm sao lấy được ở nhà sư ít nhất một lạng vàng đưa về làm tang chứng.
Biết Lại nói chuyện Huyền Quang hôm ấy nghỉ tại một thiền trai cất trên một ngọn đồi cách viện Trúc Lâm chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ rất tĩnh mịch mà vua sai xây cho chàng để nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc. Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo sống tơi tả: Bạch thầy, người này bị cướp đuổi, vừa gọi kêu cứu. Đó là Điểm Bích lúc này cải trang thành một cô gái quê mùa. Nàng khóc sướt mướt, một hai xin nhà chùa cho ở trọ một đêm nay. Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy trốn vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang không thể từ chối được. Cuối cùng theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài thiền trai.
Sự việc xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh. Chàng để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi dở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya. Sắp sửa đặt lưng xuống giường, chàng bỗng nghe thấy tiếng rên rỉ của người đàn bà. Chàng lại phải đánh thức chú tiểu dậy xem như thế nào. Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong thiền trai vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối. Nhà hẹp có ba gian, và chỉ có hai thầy trò, các tăng chúng đều ở xa không kịp gọi. Suy nghĩ giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào trong phòng khoá cửa lại. Nhưng vừa chợp mắt được một lúc thì lại nghe thấy tiếng rên rỉ ở phía ngoài. Chàng lại ngồi dậy cầm lấy tràng hạt và quyển sách. Nhưng khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng đã thấy người đàn bà nằm loã lồ trên bộ vách. Chàng quyết định ngồi trên giường tụng niệm cho tới sáng để chống lại sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm vừa cất lên, thì Điểm Bích ở đâu đã sán lại ngồi cạnh chàng, nói những câu cám ơn nhưng lại xen những lời khêu gợi.
Người đàn bà đến đây có mục đích không lương thiện, Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại: A di đà Phật. Nàng là ai? Tại sao lại tìm đường vào đây để quấy rối những người tu hành? Nếu không mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện. Thấy Huyền Quang không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ. Nàng chuyển sang bộ mặt rất rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn. Nàng nói: Thiếp vốn là con nhà thế phiệt. Cha thiếp làm quan huyện ở vùng biển. Mùa tháng năm vừa rồi nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phu đài tải về kinh. Không ngờ bị bọn cướp đường, đón lấy mất cả. Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm. Hiện nay cha thiếp thu gom tư trang chừng một nửa. Bởi vậy thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu. Hôm nay đánh bạo đến đây định xin hoà thượng rủ lòng thương xót quyên cấp cho ít nhiều. Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mưu mẹo nhỏ để gặp hoà thượng, sau đó mới bày tỏ mục đích. Dám xin hoà thượng mở lượng hải hà cứu vớt lấy cha thiếp và cả nhà thiếp. Thiếp nguyện đưa thân nữ tì hầu hạ suốt đời. Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động. Chàng vội trả lời: Nàng đừng có lo lắng gì cả. Ngày mai ta sẽ tiến triều, tâu với vua xin tha tội cho cha nàng. Sợ Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói: Bạch hoà thượng, việc của cha thiếp nay còn chưa đến tai Thánh vương, hoà thượng về tâu giúp cho, thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền hoà thượng phải xuống núi nhọc sức. Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của vua còn bày ở trai phòng. Chàng vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng: Ta biếu nàng tất cả, nàng đem về mà chuộc tội cho cha.
Lại nói chuyện khi trở về cung, Điểm Bích liền đưa nộp mười nén vàng và tâu với vua rằng mình đã cám dỗ được con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới: Vằng vặc trăng mai ánh nước / Hiu hiu gió trúc ngầm sinh / Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ / Mầu Thích Ca nào chẳng hữu tình. Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy nén vàng, nhà vua thở dài hối hận: Chao ôi! Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi. Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định con chim khó tránh được. Biết làm thế nào bây giờ? Nghe nói thế, một viên quan ghé vào tai vua hiến kế: Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật dọn toàn cỗ mặn rồi mời thầy về làm lễ. Nếu quả là thầy còn trong sạch thì chư Phật sẽ độ cho cỗ mặn hoá ra chay, nhược bằng hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ. Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều để làm một lễ chay trọng thể vào dịp rằm tháng bảy sắp tới. Vua còn bắt quân hầu dựng một đàn tràng nguy nga, các rạp đều trần trướng toàn bằng lụa hoàng quyến. Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Khi sắp bước vào rạp, Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình. Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên bàn kia nếu không phải là một sự xỉ vả thì còn là gì nữa. Lụa hoàng quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ tiếng "Huyền Quang". Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn: Kẻ đệ tử này nếu có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống âm ti địa ngục, còn không thì xin cho những cỗ mặn kia hoá thành chay tất cả! Tự nhiên một trận gió mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại. Một chốc gió tan, mọi người nhìn lên đàn tràng thì lạ thay tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành mâm cỗ chay tinh khiết, thơm tho, mọi mùi tanh tưởi đều bị quét sạch từ bao giờ. Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của chúng tăng và mọi người. Vua Anh Tông được tin, lập tức bắt Điểm Bích tra hỏi cho ra sự thật. Biết là bại lộ, người cung nữ cúi đầu thú nhận hết tội lỗi. Vua truyền bắt Điểm Bích bỏ ngục chờ ngày phán xử rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi. Câu nói đầu tiên của Huyền Quang khi gặp nhà vua là xin tha tội cho Điểm Bích.

41. ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH
Ngày xưa, có một lái buôn tên là Vạn Lịch. Anh ta có ngót đến một trăm chiếc thuyền dùng để chở hàng. Buôn to lãi lớn, anh ta là một trong những người giàu có nhất nước. Do phải lênh đênh sông nước quanh năm suốt tháng nên thuyền riêng của Lịch cũng có buồng ăn buồng ngủ... không khác gì trên mặt đất. Trong khoang thuyền, quanh chỗ nằm, chỗ nào chỗ nấy đầy ắp lụa là gấm vóc và rất nhiều vàng bạc. Lịch có một người vợ rất trẻ và xinh đẹp tên là Mai thị. Do hay phải đi buôn bán xa, vợ lại trẻ đẹp nên lúc nào Lịch cũng ngờ vực vợ mình không thực lòng với mình. Lúc nào hắn cũng tìm cơ hội đay nghiến, xét nét nàng từng ly từng tí khiến nàng rất khổ tâm.
Một hôm, thuyền của Lịch đậu ở một bãi vắng. Lúc đó, vợ Lịch lại đang ngồi têm trầu ở trước mui thuyền. Bỗng đâu có một anh đánh giậm mình mẩy lấm láp đến cạnh thuyền xin một miếng trầu. Mai thị thấy người nghèo khổ thì thương hại, hỏi thăm mấy câu rồi lấy miếng trầu trong cơi vàng đem cho. Lịch đang ngủ trong khoang thuyền chợt tỉnh giấc. Bắt gặp cảnh tượng đó, hắn gây chuyện với Mai thị rồi xỉ vả nàng thậm tệ mặc cho nàng đã hết lời thề thốt van xin. Đoạn hắn vứt trả xống áo cho nàng cùng với một thoi vàng, một thoi bạc rồi đuổi nàng đi.
Mai thị bơ vơ một mình trên bãi biển vắng không biết đi đâu. Đang hoang mang, nàng gặp lại người đánh giậm khi nãy. Nàng khóc lóc kể lể sự tình, còn anh đánh giậm thì chẳng hiểu sao cứ ngẩn cả người ra. Khi biết anh ta chưa có vợ, Mai thị nói: Hắn đặt điều bảo tôi gian díu với anh, âu cũng là cái số tôi nó khổ, không lấy được kẻ giàu sang. Tôi xin theo anh về làm vợ, dẫu có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Hai ta sẽ làm ăn nuôi nhau. Anh chàng đánh giậm nghe vậy cũng không biết từ chối thế nào. Sau một hồi ngẩn ngơ, cuối cùng chàng dẫn Mai thị về túp lều của mình bên bờ sông. Họ trở thành vợ chồng từ đấy. Anh chồng vẫn làm nghề cũ, còn chị vợ ở nhà chăn nuôi, tuy cuộc sống nghèo nàn nhưng họ sống rất hạnh phúc.
Ba năm trôi qua, hôm ấy trời mưa rất to, anh chồng rỗi việc ngồi nhà. Thấy đàn gà thi nhau mổ thóc trong thúng, lại sẵn có thoi vàng trong thúng khâu của vợ, anh ta không biết là vật gì liền cầm ném đàn gà. Chị vợ đang ngồi vá áo, trông thấy, chưa kịp ngăn lại thì chồng đã ném đi. Thấy vậy, vợ trách chồng: Ô kìa! Người sao mà ngu thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không? Anh chàng đáp, mặt tỉnh bơ: Không biết! - Đấy là vàng, quý lắm đấy biết không? - Ôi dào, thứ ấy thiếu gì. Những lúc đi bắt cá ở vũng kia, tôi nhặt được luôn nhưng chẳng biết dùng làm gì nên lại vứt bỏ. Chị vợ nghe chồng nói bỗng ngẩn cả người. Bán tín bán nghi, chị giục chồng đi lấy về. Quả nhiên, đó là vàng thực, rất nhiều vàng. Điều khiến chị ngạc nhiên hơn, đó là trên mỗi thỏi vàng đều có dấu hiệu của Vạn Lịch. Nguyên Vạn Lịch từ ngày đuổi vợ đi, buôn bán có phần thua lỗ. Trong một chuyến đi gần đây, thuyền của Vạn Lịch gặp bão bị đắm. Lịch may mắn thoát chết nhưng của cải vàng bạc đều trôi theo dòng nước và dạt vào chỗ gần hai vợ chồng Mai thị. Thế là một cách ngẫu nhiên, kho vàng của Lịch lại thuộc về vợ chồng Mai thị.
Từ khi có của, Mai thị xây dựng nhà cửa, sắm sửa may mặc cho chồng. Hai vợ chồng họ trở nên giàu có và nổi tiếng trong vùng. Phải cái anh chồng quá ngờ nghệch, giàu có mà vẫn không mở mặt được với đời. Vợ anh luôn mồm bảo anh phải năng chơi bời với người ta để mà học khôn thì mới mong ngẩng mặt lên được. Chồng nghe lời vợ, vào xóm gạ chuyện với mọi người để làm quen kết bạn nhưng chẳng ai thèm chơi với một thằng đần độn như anh. Cứ thế, mấy hôm liền anh chồng chẳng chơi được với ai. Hôm anh về, chị vợ hỏi: Đã chơi được với ai chưa? - Chưa. Mai thị ngán ngẩm: Người đâu mà cứ như trên trời rơi xuống, u mê thế là cùng. Thế này thì chơi được với ai, hoạ có chơi với phỗng thì được. Chồng nghe vợ nói thế thì tưởng mình chỉ được chơi với phỗng bèn tìm một ngôi đền vắng ít người qua lại. Anh lân la làm quen và nói chuyện rất say sưa với mấy bức tượng phỗng đặt hai bên sân đền. Anh chơi đùa, cười nói vui vẻ, lại còn bá vai bá cổ mấy bức tượng như chơi đùa với người thật. Sau đó, anh đi mua bún lòng về mời mấy bức tượng ăn. Thấy mấy bức tượng không nhúc nhích, anh nhét cho mỗi tượng một miếng vào miệng. Vậy mà cũng chẳng thấy tượng nói gì. Anh tức mình xô phỗng từ trên bệ lăn kềnh xuống đất rồi bỏ về. Về đến nhà, vợ hỏi, anh trả lời thực tình. Mai thị nghe xong ngán ngẩm đành giữ chồng lại ở nhà dạy khôn.
Thật không ngờ là ngôi đền mà anh đánh giậm đến chơi lại là nơi phát tích của nhà vua. Từ sau hôm anh đánh giậm xô đổ pho tượng, vua bỗng bị liệt nửa người. Bao danh y trong nước đã triệu vào cung chữa bệnh cho vua nhưng vị nào cũng bó tay. Cuối cùng một vị quan trong triều gieo quẻ báo tin là ngôi đền này có động. Lập tức vua truyền lệnh từ kinh đô cho quan tỉnh về làm lễ tạ. Đang lúc tiến hành làm lễ, quan trên bỗng chú ý đến pho tượng phỗng bị đổ. Quan truyền lệnh cho mọi người dựng tượng dậy, nhưng kỳ lạ thay hàng chục người xúm lại đều không nâng nổi, bức tượng không hề nhúc nhích. Mặc cho họ đã làm đủ cách nhưng bức tượng vẫn trơ như đá. Nhà vua nghe tin thì càng lo lắng hơn, vì thế bệnh tình cũng ngày một nặng hơn. Vua bèn sai yết bảng cho tất cả thần dân trong nước, ai có phép gì dựng được tượng phỗng lên thì sẽ hậu thưởng. Qua mấy hôm yết bảng, hôm ấy, Mai thị đi chợ qua tình cờ nhìn thấy. Nhớ ra đó chính là ngôi đền mà chồng mình đã tới trước đó, nàng về hỏi chồng: Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho tượng đó? Anh chồng đáp: Chẳng có gì cả. Tôi chỉ đẩy nhẹ là nó đã đổ - Bây giờ anh có dựng được lên không? - Có gì mà không được. Hai vợ chồng bèn ra giật bảng xin quan vào nâng thử. Quả nhiên, anh đánh giậm chẳng tốn mấy sức đã nâng được pho tượng lên. Ngay lúc đó, nhà vua cũng khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ chồng Mai thị nhưng họ không nhận. Họ chỉ một mực xin làm một chân tuần ty, ngồi thu thuế ở bờ sông Cả. Nhà vua rất ngạc nhiên, tuy vậy vẫn ưng thuận. Hai vợ chồng đi nhậm chức ngay. Sẵn nhiều vàng bạc, họ bỏ ra xây dựng nhiều nhà cửa rất nguy nga ở cửa sông.
Một ngày nọ, thuyền của Vạn Lịch đi qua đấy đỗ lại để nộp thuế. Mai thị chỉ chờ có vậy liền bắt chủ nhân phải đích thân nộp thuế. Lên công đường, Lịch sửng sốt khi nhìn thấy người ngồi trước án chính là vợ cũ của mình và anh đánh giậm. Lịch cúi mặt không nói câu gì, còn Mai thị mỉa mai bảo hắn: Biết rằng anh vẫn đi buôn / Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần / Dù anh buôn bán xa gần / Làm sao tránh khỏi cửa tuần của em. Vạn Lịch nghe xong thì vô cùng xấu hổ. Trở về thuyền, hắn vừa uất vừa hối hận. Đoạn hắn làm giấy kê khai toàn bộ tài sản cho Mai thị để gọi là chuộc lại lỗi lầm năm xưa rồi đâm cổ tự vẫn. Đến lúc đó, Mai thị hối hận thì đã muộn. Nàng bèn đem tất cả tài sản của Vạn Lịch xin vua đúc một thứ tiền gọi là "tiền Vạn Lịch" rồi đem phân phát cho người nghèo làm phúc.
Người đời về sau có câu hát:
Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng
Anh tiếc công anh gian díu với nàng bấy lâu.

42. CHUYỆN THẦN GIỮ CỦA
Ngày xưa, ở Vạn Lai Triều, thuộc trấn Sơn Nam có người lái buôn từ nước ngoài sang lập nghiệp. Sau mấy chục năm, nhờ có óc kinh doanh, tích trữ lương thực, đầu mùa rẻ, cuối mùa bán mắc, lãi mẹ đẻ lãi con, trở nên giàu có phi thường, trong nhà vàng bạc, châu báu không kể xiết. Khi đã giàu có, phú thương này định chuyển của về nước để cho con cháu thụ hưởng, nhưng luật lệ triều đình lúc đó nghiêm cấm ngặt, không cho khách buôn nước ngoài chuyển đi ra khỏi bờ cõi. Đã có nhiều người lén lút đưa của đi nhưng không thoát khỏi sự kiểm soát quốc gia. Vì thế, người phú thương tìm cách chôn giấu một số của cải quý báu để mai sau chờ cơ hội mách cho con cháu sang lấy về. Việc này hắn chuẩn bị rất kỹ lưỡng, lấy cớ xây cất chùa phật trên một đồi hang ở gần nhà để giấu của.
Trong lúc đào móng, xây nền chùa, hắn bí mật xây một cái hầm ăn sâu dưới đất rất kiên cố. Nhưng để bảo đảm cho khỏi mất của hắn định tìm một người con gái đồng trinh chôn luôn bên cạnh kho vàng để làm thần giữ của cho hắn. Hắn tin tưởng vị thần con gái này khi đã phục dịch, nếu người lạ đến lấy của, không phát ra đúng tín hiệu thì thần sẽ vật chết. Khi mưu tính đã kỹ lưỡng hắn lặn lội đi tìm một cô gái đồng trinh mà hắn vừa ý nhất.
Hồi ấy, ở trong vùng có một giám sinh nhà rất nghèo nhưng có một cô con gái tuổi mới mười tám và chưa có chồng. Nghe tin người khách buôn đem vàng bạc đến gạ hỏi cô con gái, xin cưới làm vợ lẽ. Tuy nhiên, người khách buôn giàu có vô cùng nhưng cha cô gái không có ý định gả con bởi lẽ ông ta không thích có chàng rể người nước ngoài, lại không thích lối buôn bán làm ăn của những người khách thương. Ngược lại, người khách thương thì cũng đến tìm đủ cách dò la xem cô con gái ông ta có phải thực sự đồng trinh không đã rồi mới quyết định.
Người khách buôn trước đó một thời gian bỏ tiền thuê bọn trai làng chọc ghẹo cô gái nhiều lần, đem bạc tiền đến quyến rũ để dò la tính nết, nhưng cuối cùng cô gái quả nhiên không chịu dan díu với ai. Biết được cô gái tính tình trinh bạch, người phú thương đem vàng bạc dụ dỗ ông giám sinh là cha của nàng. Gặp lúc gia đình túng quẫn, nợ nần chồng chất không có tiền trả, người con gái xin với cha nàng liều thân để cứu vãn cảnh khó khăn túng thiếu của gia đình. Ông giám sinh bất đắc dĩ phải nhận lời gả con cho hắn. 
Từ khi lấy vợ về, người khách luôn cho nàng ở một ngôi nhà riêng. Chẳng bao giờ nằm chung hay động chạm đến xác thịt của nàng. Cả đến thịt, cá, hành, tỏi hắn cũng cấm nàng ăn, lấy cớ là trong lúc xây chùa phải ăn chay niệm Phật. Cứ như thế, qua một thời gian khá lâu, ngôi chùa đã sắp hoàn thành, cô gái vẫn ở riêng một mình trong cảnh phòng không lạnh lẽo.
Một hôm nàng xin phép chồng về thăm cha. Người khách thương không cách gì từ chối được, đành phải thuận lòng. Cha con lâu ngày gặp nhau mừng rỡ vô cùng. Ông giám sinh tỉ tê hỏi việc vợ chồng, nàng thuật lại mọi việc đầu đuôi.  Ông giám sinh tỏ ra rất kinh ngạc, nói: - Thôi rồi! Hắn lấy vợ lẽ với mục đích gì đây, chắc là nó có một âm mưu gì kỳ bí. Vậy con có thấy trong nhà hắn có gì lạ không? Cô con gái nói: - Trước kia khi ăn cơm tối xong là nó đuổi con vào phòng, khoá cửa ngay. Nhưng độ vài tháng nay, tối nào hắn cũng vác cuốc thuổng đi đến mờ sáng mới về. Nghe nói, ông giám sinh kêu lên: - Thế là việc sắp tới rồi đó. Chắc là hắn đang chôn của cải và bắt con làm thần giữ của cho nó. Suy nghĩ một lúc, ông giám sinh lấy các vật liệu trong nhà chế ra một chiếc mặt nạ có để một ống thông hơi dài và dặn đứa con gái: - Nó sẽ đem con chôn ở hầm giấu của, vào lúc ban đêm, lúc chúng lấp đất con mang chiếc mặt nạ này vào và chú ý để cho ống thông hơi ló lên trên mặt đất để khỏi chết ngạt. Cha giao cho con hai gói hột cải và hột mè, chúng nó dẫn con đi đến đâu thì con rắc loại hột này lên đó. Từ đó ông giám sinh đến thăm con luôn, có khi ba ngày một lần, có khi năm ngày một lần. Ông không vào nhà người con rể, chỉ đứng bên ngoài nhìn vào, hễ thấy mặt con gái là ông yên tâm lui gót.
Một hôm, ông đến thăm thì không thấy con gái đâu nữa. Chờ lâu sốt ruột, ông bước vào nhà người con rể, làm bộ đến thăm. Người khách buôn thấy ông đến thăm lăng xăng tiếp đón. Hắn nói dối vợ mình còn bận đi cất hàng ở kinh đô nên chưa về kịp. Ông giám sinh vẫn giữ vẻ mặt bình thản, nhận lời mời của con rể ngồi lại ăn cơm.
Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn quanh quất, quả thấy hai lối đi lên đồi, sau nhà có rắc hột mè và hột cải, hột đã nảy mầm. Lập tức ông đi một mạch đến dinh quan trấn Sơn Nam trình bày mọi việc xảy ra. Quan trấn thủ liền điểm năm trăm quân đi đến Vạn Lai Triều, cho đòi người khách buôn đến đối chất. Người khách buôn chối lấy chối để. Quân sĩ theo chân ông giám sinh lần theo con đường có rắc hột cải, hột mè cách nhà người khách buôn chừng nửa dặm thì thấy một cái am nhỏ vừa mới xây xong trên ngọn đồi hoang. Ông giám sinh nói: - Hẳn là chỗ này chứ không sai. Xin quân gia cho đào lên để khám xét. Người khách buôn không cho đào, lấy cớ là động mạch đất có quan hệ đến vận mệnh đời hắn.
Quan trấn thủ bắt hai bên làm cam kết. Nếu đào không thấy gì thì ông giám sinh phải bỏ tiền ra xây lại cổ am và phải bồi thường thiệt hại cho chàng rể, ngược lại, nếu phát hiện được tiền nong, của cải gì thì người chủ cái am đó không được nhận của cải của mình đã giấu. Giấy cam kết làm xong, người khách buôn không chịu ký. Quan trấn thủ nghi ngờ, ra lệnh cho quân sĩ cứ việc đào lên, dù người khách buôn không đồng ý cũng mặc kệ. Mới đào được một khoảng rộng bằng cái nong đã thấy đường hầm xây chìm, bên trên lát gạch bát tràng rất kiên cố. Lớp gạch vừa đổ xuống thì nghe tiếng kêu của người con gái. Quân sĩ vội chạy vào đường hầm, phát hiện người con gái của ông giám sinh bị trói trong một chiếc ghế đá, ngồi giữa hai ngọn đèn trong hầm đất, có đeo mặt nạ, dây thông hơi ăn thông ra ngoài, hai chân nàng dang ra, mỗi chân đạp lên một cái chum bằng vàng rất lớn. Miệng cô gái có ngậm một củ nhân sâm chưa tan hết. Ngực nàng còn đang thở thoi thóp vì không đủ dưỡng khí. Người ta vội mở trói, bốc nàng lên cứu chữa, đồng thời gông tên lái buôn gian ác, giải đi.
Nhờ được sự chăm sóc chu đáo, cô gái dần tỉnh lại. Quan trấn thủ chia số tài sản đã đào được của tên lái buôn ba phần: Cha con ông giám sinh được một phần, còn lại hai phần sung vào công quỹ. Người lái buôn bị đem ra pháp trường xử trảm.

43. QUAN ÂM THỊ KÍNH
Ngày xưa, có một người hiền đức, đã trải qua nhiều kiếp, mà kiếp nào cũng giữ được đức hạnh, chân tu. Cứ luân hồi mãi, liên tiếp đến chín lần, nhưng chưa kiếp nào được thành Phật. Đến kiếp thứ mười, người này được thác sinh ở Cao Ly, làm con gái nhà họ Mãng, có tên là Thị Kính. Thị kính vóc người đầy đặn, mặt mũi đoan trang, tính tình điềm đạm, nhân hậu. Lớn lên nàng thờ cha mẹ rất hiếu thảo, việc nhà cửa rất đảm đang, ăn ở với làng xóm đều hoà nhã, trong gia đình, ngoài xã hội ai cũng khen. Khi đến tuổi lấy chồng, cha mẹ nàng gả cho một chàng học trò họ Sùng, tên Thiện Sĩ, nhà cũng không khá giả gì, nhưng Thiện Sĩ tính chăm học, không lêu lổng chơi bời. Thị Kính cũng chẳng ước ao gì hơn, nàng tần tảo làm lụng giúp chồng ăn học.
Một đêm bên cạnh án thư, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may áo một bên, hai người chung nhau một ngọn đèn dầu. Chồng học mãi thấy mỏi mệt, ngả lưng xuống giường, kê đầu trên đầu gối vợ, trò chuyện một chốc rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính cố giữ yên lặng cho chồng yên giấc và ngắm nghía khuôn mặt tuấn tú của chồng. Bỗng nàng nhận ra ở dưới cằm của chồng có một sợi râu mọc ngược. Nàng nhủ thầm: - Ồ, sợi râu mọc ngược là không tốt. Đó là tướng bạc ác! Ta phải nhổ đi cho chàng mới được. Nghĩ vậy, Thị Kính liền lấy con dao nhíp trong rổ đựng đồ may, mở ra định nhổ sợi râu, không ngờ lưỡi dao sáng loáng vừa đưa đến thì Thiện Sĩ cũng vừa chợt tỉnh, thấy vợ cầm dao trên tay chĩa vào cổ mình, trong lúc đang ngủ, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay vợ la lên: - Ôi chao! Nàng định cầm dao giết ta trong lúc ta ngủ ư? Thị Kính đáp: - Không phải đâu! Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tâm lén nhổ đi kẻo trông nó xấu xí lắm. Nhưng trong cơn hoảng hốt, chồng nàng không tin như vậy, la lên: - Thôi thôi! Đừng khéo bịa chuyện! Làm gì lại có chuyện nhổ râu khi ta đang ngủ. Sao không đợi ta thức dậy đã.
Giữa lúc ấy, mẹ Thiện Sĩ nằm ở buồng bên cạnh nghe tiếng cãi vã nhau vội xô cửa chạy sang, nghe con trai kể lại câu chuyện, bà lớn tiếng rủa: - Trời ơi! Đồ chết dịch, to gan dám giết chồng. May mà con ta tỉnh dậy, nếu không thì còn gì tính mạng. Thị Kính nước mắt giàn dụa, cố sức phân trần: - Mẹ nghĩ xem, con có thù oán gì chồng con mà lại làm như vậy, chẳng qua là con muốn làm đẹp mặt chồng con mà thôi. Bà mẹ chồng hét lên: - Rõ ràng mày định giết chồng! Đã bắt được rõ ràng còn lẻo mép. Thị Kính cố giãi bày, nhưng chẳng ích gì, nên chỉ còn biết ngồi sụp xuống đất, cúi đầu nức nở.
Sau đó, gia đình họ Sùng không muốn sinh ra những đứa con cháu sau này có ác tâm như vậy, họ đã đuổi Thị Kính ra khỏi nhà. Buồn chán với số phận éo le, Thị Kính cải trang làm một chàng trai, cạo đầu vào tu ở chùa Vân, một ngôi chùa thật xa quê hương, để xóa bỏ những ký ức đau buồn đã qua. Sư cụ trong chùa cũng không biết nàng là gái giả trai, nên nhận làm chủ tiểu, đặt hiệu là Kính Tâm. Sự đời như đã tắt lửa lòng, tiểu Kính Tâm chỉ còn biết làm bạn cùng kinh kệ. Nhưng nàng tu ở chùa Vân chưa được bao lâu thì chuyện đời lại xảy đến với nàng.
Tuy ăn mặc nâu sồng, đầu cạo trọc, nhưng vẻ mặt của tiểu Kính Tâm lại làm cho trái tim cô con gái trong làng thổn thức. Trong làng có con gái phú ông tên Thị Mầu nhiều lần đi lễ chùa, thấy tiểu Kính Tâm đem lòng yêu trộm nhớ thầm. Tuy Kính Tâm nhiều lần khước từ cử chỉ trêu ghẹo của cô ta, nhưng Thị Mầu quyết không từ bỏ tình cảm say mê, quyến rũ trước vẻ mặt xinh xắn của Kính Tâm. Thị Mầu là cô gái lẳng lơ, quen thói gió trăng, nên đã tư thông với một người đày tớ trai trong nhà rồi mang thai, bụng càng ngày càng lớn. Thị Mầu không chồng mà chửa, vi phạm lệ làng, nên bị làng phạt vạ. Nàng thấy nếu khai thật sẽ không hay ho gì, nên đổ tội cho chú tiểu Kính Tâm ở chùa Vân. Vì thế Kính Tâm cũng bị làng bắt đến tra khảo, nhưng dù bị đánh tơi tả, nàng vẫn không tiết lộ mình là gái. Sư cụ chùa Vân thấy Kính Tâm bị đòn đau nên thương tình, kêu xin với làng nộp vạ, bảo lãnh cho chú tiểu được tha về. Nhưng sợ tiếng thế gian mai mỉa, nên sư cụ bắt chú tiểu phải ở một cái lều, cư ngụ bên ngoài cổng chùa, để khỏi mang tiếng. Nàng cam tâm chịu đựng sự hành hạ này, cắn răng không hề có một lời than thở.
Thị Mầu sau đó sinh được một bé trai, đã trót đổ vạ cho tiểu Kính Tâm, nên đem con giao cho Kính Tâm nuôi nấng. Kính Tâm lại một phen bối rối, nhận lấy đứa bé không khác nào hành động thú tội mà không nhận thì thương hại cho một đứa bé vô tội bị bỏ rơi. Nàng bế đứa bé vào nuôi và hàng ngày nàng phải đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm. Mặc dù dân làng kẻ cười, người chê nhưng nàng vẫn âm thầm chịu đựng, không hề tiết lộ nỗi oan ức của mình. Cứ thế, sau sáu năm nàng trông nom đứa bé như con đẻ. Trong khi đứa bé ngày càng khôn lớn thì sức nàng ngày càng kiệt quệ, mỏi mòn. Một hôm biết mình không thể sống được nữa, tiểu Kinh Tâm bèn viết một phong thư để lại cho cha mẹ mình, trong đó nàng thuật hết đầu đuôi nỗi mình nhẫn nhục bấy lâu, lại dặn dò đứa bé sau khi mình chết thì trao thư cho sư cụ trong chùa. Khi khâm liệm, mọi người mới hay tiểu Kinh Tâm là đàn bà và ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng của nàng từ trước đến nay quả là cùng cực.
Để tỏ lòng hối hận, sư cụ chùa Vân bèn cho lập một đàn chay, cầu cho nàng được siêu độ. Hôm cử hành đàn chay thì trên trời, giữa một đám mây năm sắc, đức Phật Thiên Tôn hiện ra, phán truyền cho Kính Tâm thành Phật Quan Âm.

44. BÀ CHÚA ONG VÀ ANH HỌC TRÒ
Ngày xưa, có một anh học trò sống với bà mẹ già trong một ngôi làng nhỏ. Nhà anh nghèo lắm, mẹ anh thì đã già lụ khụ, mắt loà, chân chậm chỉ ngày ngày quanh quẩn ở nhà, không đi được đâu cả. Để kiếm sống cùng mẹ rau cháo qua ngày, anh phải làm đủ nghề, ai có việc thì anh làm, từ làm thuê, chăn trâu đến đốn củi... Anh cũng muốn lấy vợ để đỡ đần phần nào công việc cho anh và phụng dưỡng mẹ già nhưng anh nghèo thế, ăn còn chẳng đủ thì làm gì có nhà nào chịu gả con gái cho anh. Biết vậy, anh tu chí học hành, cả ngày anh làm việc, tối đến lại đèn sách đến khuya.
Ngày tháng trôi đi, nhờ học hành chăm chỉ, chẳng bao lâu anh đã học thành tài. Khoa thi năm ấy, anh quyết lên kinh dự thi. Song nếu anh đi thì mẹ già ở nhà không ai chăm sóc. Hơn nữa, anh cũng chẳng kiếm đâu ra tiền. Không có tiền nuôi mẹ, anh nào dám nghĩ đến tiền ăn tiêu dọc đường. Anh lo lắng suốt mấy ngày liền mà vẫn không tìm ra phương cách nào. Gần đến kỳ thi, khi bạn học của anh đã lần lượt lên đường, có mấy láng giềng tốt bụng nhận chăm sóc mẹ già giúp anh để anh yên tâm ra đi. Anh cũng bớt lo phần nào nhưng còn phía anh, lấy gì ăn tiêu dọc đường. Anh rất băn khoăn. Chẳng lẽ lại bỏ phí bao năm dùi mài kinh sử? Nghĩ thế, cuối cùng anh cũng đánh liều cất bước lên đường dù trong túi không có một đồng.
Trên đường đi, anh phải tìm đủ mọi cách để kiếm sống. Từ việc gánh hàng thuê cho bọn lái buôn đến việc phục vụ trong một quán rượu. Làm bở hơi tai liên tục trong hai ngày anh nhận được một ít cơm ăn và một quan tiền. Dù ăn tiêu rất dè sẻn, một quan tiền ấy cũng giúp anh cầm cự được trong hai ngày. Những ngày sau đó, anh chỉ có nước uống cầm hơi. Nhưng dù thế nào anh cũng quyết không bỏ cuộc với hy vọng sẽ kiếm được ai đó thuê mướn, kiếm được miếng ăn dọc đường. Vậy mà rủi thay, mấy ngày sau đó trời mưa rất to, không có ai thuê mướn gì cả. Anh đói lả đi nhưng cũng không thể nấn ná được vì thời gian không còn nhiều. Anh lê từng bước nặng nề rồi không biết thế nào anh đã lạc vào một khu rừng. Khu rừng vắng lặng đến ghê người, ngoài tiếng lá cây xào xạc, anh không còn nghe thấy một âm thanh gì khác. Quanh quẩn mãi như thế anh sẽ chết đói trong rừng mất. Nhìn thấy một cái cây cổ thụ, anh thu hết sức lực trong người trèo lên, định nghỉ tạm trên đó tránh thú rừng, sáng mai tính sau. May sao, từ trên cây cao anh nhận ra ánh đèn thấp thoáng đằng xa. Vui mừng không tả xiết, anh tụt từ trên cây xuống đi về hướng có đèn ấy. Tới nơi, anh nhận ra đó là một ngôi nhà nhỏ, khắp người run lên vì lạnh và đói, vui sướng lẫn lộn, anh hồi hộp giơ tay gõ cửa. Lạ thay, anh vừa chạm tay vào cửa, cánh cửa mở ngay như có người chờ sẵn. Một cô gái bước ra, tay cầm cây nến. Dưới ánh đèn, anh nhìn rõ cô gái. Đó là một cô gái rất xinh nhưng hai mắt cô bị mù. Cô gái có vẻ rất hiếu khách:- Chào thầy khoá, thiếp chờ thầy nãy giờ, mời thầy vào trong này, ngoài trời lạnh lắm.
Anh không còn hồn vía nào nữa. Thật quá bất ngờ! Làm sao cô gái mù này lại biết anh là học trò, biết anh sẽ tới đây. Hoạ chăng chỉ có yêu ma quỷ quái thì mới như vậy. Anh ngần ngại, toan bỏ đi nhưng lúc đó anh đói quá rồi, hai mắt tưởng như mờ đi, hai chân không vững nữa. Nếu anh rời khỏi ngôi nhà này, có lẽ anh sẽ không còn đủ sức để lê bước trở về cái cây ban nãy. Hơn nữa, đêm đến, sương đã ướt đẫm áo anh rồi, lạnh thấu xương. Thế là anh đánh liều bước vào nhà, tặc lưỡi phó mặc cho số phận. Tất nhiên anh cũng rất cảnh giác đề phòng xung quanh. Trong nhà chẳng có ai ngoài người bõ già và cô gái mù. Cô gái đon đả mời anh ngồi, còn bõ già thì đốt lửa cho anh hong quần áo và sưởi ấm. Anh cảm thấy trong người bắt đầu ấm lên, bõ già bưng lên một mâm cơm, cô gái ngồi cạnh mâm mời mọc: - Nhà thiếp thanh đạm, khách đến cũng chẳng có gì hơn để tiếp đón. Vậy xin thầy khoá cứ thực tình cho.
Ngồi một lúc ấm chỗ, anh cũng bớt lo phần nào. Nay cơm canh bưng lên anh đâm ra nghi hoặc:- "Trong cơm này có gì mờ ám chăng?" - Anh tự nhủ nghĩ là nghĩ vậy, chứ cơn đói cũng không cho phép anh do dự. Và lại một lần nữa anh phó mặc cho số phận, cầm đũa cắm đầu ăn. Bữa cơm quả là thanh đạm nhưng anh đang rất đói lại thêm cơm nóng, canh sốt anh cảm thấy trong đời chưa bao giờ ăn một bữa cơm ngon như thế. Ăn xong, anh đã thấy ổ rơm được sắp sẵn từ bao giờ. Mệt quá, anh vừa nằm xuống đã thiếp đi. Trông thì có vẻ anh ngủ rất say nhưng thực chất anh còn nhiều phân vân nên giấc ngủ cứ chập chờn. Cho đến nửa đêm, có lẽ do quá mệt anh ngủ thiếp đi.
Đang ngon giấc, anh bỗng giật mình tỉnh dậy bởi cơn gió mạnh đang hoành hành dữ dội ngoài kia. Từng đợt gió quất vào khiến căn nhà mái lá đơn sơ rung lên run rẩy. Tiếng lá cây ào ào khiến anh cảm thấy một trận bão lớn sắp xảy ra. Bỗng anh nghe thấy tiếng cô gái mù:- Bõ già ơi, gió đổi hướng sang phía Bắc rồi. Gió rít mạnh thế này thì cái tổ nhỏ ở cành thứ ba đổ mất thôi. Ấy kìa, đổ rồi đấy, bõ ra xem thử đi, bõ nhanh lên, bõ ơi! Anh lấy làm lạ là tại sao cô gái mù ấy ăn nói như một người sáng mắt vậy. Đang suy nghĩ vẩn vơ, anh thấy hình như gió đã bớt gầm rú hay tại anh đã quen với tiếng gió ấy rồi cũng nên, anh lại ngủ thiếp đi.
Một lúc sau, anh lại cảm thấy gió đập ầm ầm, cảm giác căn nhà lại rung lên dữ dội hơn. Rồi anh nghe thấy cô gái nói: -  Bõ già ơi, gió mạnh quá bõ nhỉ? Thế này thì chắc chúng nó lạc nhiều đấy. Nhưng không sao, mai kia thế nào chúng cũng về, ở cái tổ thứ bảy, nhiều con đang đợi lắm mà chưa vào được. Ngay sau đó, anh nghe tiếng bước chân mà anh đoán chắc là của bõ già đi ra vườn. Ngoài đó, gió vẫn dữ dội. Trong nhà, trong ổ rơm của mình, anh lại băn khoăn không hiểu cô gái mù ấy đang nhắc đến những con gì vậy. Con gì mà lạc rồi mai kia lại tìm đường về được? Phần vì tò mò muốn biết, phần vì đã tỉnh giấc, anh bước chân ra cửa. Dưới ánh chớp, anh nhìn thấy cô gái mù đang đứng dưới gốc cây. Có rất nhiều tán lá xoè rộng. ở những cành thấp, ong vàng đậu chi chít, chúng đậu cả lên nón, lên áo cô gái. Xung quanh cô, ong vàng nhiều vô kể, tiếng ong bay vù vù cơ hồ át cả tiếng gió bão, sấm chớp.
Quan sát xong cảnh tượng lạ lùng đó, anh lặng lẽ quay trở vào nhà, lòng vẫn đầy mối hoài nghi. Quanh quẩn trong nhà, giữa lúc đang không biết phải làm gì, anh tình cờ bắt gặp một quyển sách trên án thư ở đầu ổ rơm. Sẵn có cây nến đang cháy, anh giở ra xem. Đó là một quyển sách nói về đạo Phật, anh đọc rất mải mê, quên cả thời gian.
Khi cơn bão đã bắt đầu tạnh, cô gái cùng bõ già bước vào nhà, khi đó anh mới chợt nhận ra trời đã tảng sáng. Thấy không thể giữ mãi mối nghi hoặc trong lòng, anh bèn đánh bạo hỏi cô gái: Đa tạ cô và bõ già đã cho kẻ nhỡ bước độ đường này ăn nghỉ đêm qua. Nhưng tôi có một số điều rất lấy làm khó hiểu. Nếu không ngại, xin cô giải đáp giúp tôi.  Cô gái đáp: Thiếp rất vui lòng. - Tôi mạn phép xin hỏi tại sao hai người lại sống trơ trọi trong khu rừng này? Hai người lấy gì để nuôi thân? Tại sao hôm qua cô lại biết tôi sắp đến đây...?
Cô gái khẽ cười, rồi chậm rãi nói:- Trước đây thiếp không sống ở đây. Cha mẹ thiếp làm nghề nuôi ong, vì ghét bọn quan trên hống hách cửa quyền, cha mẹ thiếp mới tìm đến đây dựng lên ngôi nhà này. Cách đây năm năm cha mẹ thiếp lần lượt qua đời, chỉ còn lại thiếp cùng bõ già và đàn ong ở chốn núi rừng này. Đàn ong cho mật và sáp, bõ già mang ra chợ đổi lấy gạo, muối... Về phần thiếp, sau khi cha mẹ qua đời, mắt thiếp bị đau rồi đột nhiên mờ đi, dần dần thiếp không còn nhìn thấy gì nữa, nay thì đã mù hẳn. Nhưng cũng từ lúc đó, thiếp lại có linh tính rất nhạy về mọi chuyện. Nếu thiếp có linh tính đàn ong bị nạn thì quả nhiên bị nạn thật. Cũng như vậy, hôm qua, tự nhiên thiếp linh tính có một thư sinh đi thi lỡ độ đường đang cần sự giúp đỡ. Quả nhiên, thiếp vừa thắp đèn lên thì thầy khoá đã gõ cửa.
Nghe đến đó, anh thấy thương cho cảnh ngộ của cô gái mù tội nghiệp. Thì ra, trên đời này còn những cảnh ngộ gian nan hơn anh. Anh toan hỏi về cuốn sách thì cô gái lên tiếng: - : Quyển sách đó là của cha thiếp để lại, thầy khoá cứ đọc đi, còn bảy ngày nữa mới đến kỳ thi, thầy cứ thong thả. Anh cảm ơn cô gái rồi cầm sách đọc tiếp cho đến sáng. Gần đến ngày thi, khi anh khăn gói từ giã cô gái và bõ già để lên đường thì cô gái giữ anh: - Thế nào kỳ thi năm nay cũng hoãn lại dăm hôm. Thầy hãy nghe thiếp ở lại vài hôm nữa rồi hãy lên đường. Thấy anh vẫn nhất quyết cáo từ, cô gái không nài ép nữa. Trước khi anh lên đường, cô đưa cho anh một nắm cơm và một quan tiền. Tiền thì anh từ chối không nhận, chỉ nhận nắm cơm rồi nói, giọng rất cảm kích: Đa tạ tấm lòng của cô và bõ già, sau này nếu có tên trên bảng vàng, tôi sẽ không bao giờ dám quên ơn hai người.
Đi miết hơn một ngày đường, anh mới đến trường thi. Nhưng vừa đến nơi anh mới giật mình được tin kỳ thi đã hoãn lại năm ngày đúng như lời cô gái mù nói. Nguyên nhân do hoàng đế bị mệt đột ngột.
Năm ngày sau, kỳ thi bắt đầu. Năm ấy, đề do nhà vua ra có nhiều điển tích về đạo Phật. Sĩ tử bốn phương đều bị bất ngờ vì không có mấy người đọc sách Phật. Chỉ có anh học trò nhà nghèo, nhờ vô tình đọc quyển sách ở nhà cô gái mù giữa đêm giông bão đã làm bài trôi chảy. Anh đỗ Tiến sĩ, được vua ban cờ quạt, áo mũ, tiền bạc vinh quy. Trên đường về, anh lệnh cho đám lính hầu rẽ vào khu rừng để tạ ơn cô gái mù. Nhưng khi đoàn người vừa lên đèo, chuẩn bị rẽ vào khu rừng, anh thoáng trông thấy một cô gái đứng đợi ở chân đèo. Đến gần, anh mới nhìn rõ cô gái rất xinh đẹp, tay bê một rổ hoa, trên áo cô, ong vàng bám chi chít như thêu kim tuyến. Anh nhớ lại đêm mưa gió ở nhà cô gái mù, ong cũng bám vào người cô như vậy. Đúng là cô gái ấy. Nhưng lạ chưa? Cô gái ấy đâu có nhìn thấy đường đi. Còn cô gái này lại có đôi mắt đen láy, đang mỉm cười với anh. Anh vội bước xuống, chạy lại phía cô: -  Có phải nàng đấy không? Ai đã giúp nàng sáng mắt lại thế? Ôi, tôi phải đa tạ nàng lần nữa, nếu không có quyển sách của cha nàng thì có lẽ tôi đã hỏng thi rồi. Cô gái mỉm cười đáp: - Nhờ ong chúa hút được nhị hoa thần rồi thả nhị đó vào mắt nên thiếp đã sáng trở lại. Hôm nay, thiếp cảm thấy quan tân khoa sắp về nên đã vội vàng ra đón.
Hai người nhìn nhau, ánh mắt tràn đầy hạnh phúc. Rồi không nói gì, quan tân khoa, cô gái nuôi ong và đoàn tuỳ tùng kéo về ngôi nhà nhỏ của cô. Mấy ngày sau đó, chàng đưa cô gái cùng bõ già về quê rồi xin phép mẹ cho lấy cô gái làm vợ. Đám cưới được tổ chức linh đình. Đặc biệt, đám cưới còn có sự góp mặt của đàn ong, mỗi con ong vàng ngậm một bông hoa bay trên đầu bà chúa của nó, trông như một đám mây lung linh sắc màu.

45. DÃ TRÀNG XE CÁT
Có hai vợ chồng ông già tên là Dã Tràng, trong vườn họ có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông vẫn thấy một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.
Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình, ông nhìn vào thấy rắn vợ đang nằm cuộn ở trong. Vì mới lột lên mình mẩy của nó yếu ớt, không cựa quậy được. Một lúc sau, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn. ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình, lần này rắn chồng đến kỳ lột xác, nằm im thin thít, da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ có một con rắn đực khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang.
Dã Tràng biết con đực này toan làm gì rồi. Tự nhiên ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó để cứu con rắn chồng đang suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng thương cái thành có lẫn cả giận nên ông chán nản bỏ về nhà. Từ đó ông không thèm để ý đến hang rắn nữa.
Chừng tuần sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng rắn cho vợ nghe và kể những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể vừa dứt lời thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì phì. Cả hai hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn xuống gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên mái nhà chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng nãy nghe ông kể chuyện, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình có thể nghe hiểu được mọi tiếng chim muông ở trên thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.
Một hôm, Dã Tràng đang hái dâu, tự dưng có một bầy quạ đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng rằng: Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy đến đó mà lấy về ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà  ông vội mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng còn thừa tí nào.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình ông bèn lấy cung tên ra bắn chúng, chủ ý muốn chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy oán trả ơn, liền cắp lấy mũi tên có để tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên liền đoán ngay Dã Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để Vua xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điều đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng xích nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau: "Nhanh lên, chuyến này sẽ không lo đói nữa, mà cũng chẳng sợ ai đánh đuổi cả". Một con khác hỏi: "Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?" - Con nọ trả lời: "Của Vua nước bên kia, họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp đổ hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha hồ chén". Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ: "Xin các ông bẩm lại với quan rằng, việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm và giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, mà còn cấp bách nữa là khác". Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài nỉ hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng.
Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ biết rằng Vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai tướng đem quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận chuyển thêm lương, chờ đầy đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan quân tỉnh lấy làm lo lắng nhưng vẫn cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoán rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Và nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách bảo của ông quả không sai, và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà, bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa, ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Khi gặp bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết, nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì cả, Trần Anh xuống bếp bảo vợ: "Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con ngày mai đãi bạn lên đường”. Người vợ đồng ý nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và vặt lông giúp một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: "Mình ơi! Mình hãy ở lại nuôi các con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt". Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất định hy sinh, chạy ra sân từ giã đàn con: "Con ơi! Các con ở lại với mẹ nhé, cha sẽ không bao giờ gặp các con nữa". Nhưng bỗng ngỗng mái lạch bạch chạy theo, đòi chết thay cho chồng bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên ván đặt kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà ngỗng phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm hôm đó, tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng, ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói "Xin bạn thả nó ra, tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta đâu phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết thịt nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này". Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng trực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói: "Đa tạ ân nhân cứu mạng, không biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng như không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển". Ngỗng nói tiếp: "Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn!". Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy viên ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Tự nhiên nước rẽ ra cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào. Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai đấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ gì. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.
Bộ hạ Long Vương theo đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thuỷ phủ. 
Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó chính là mình chỉ mới làm để thử phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thuỷ phủ sẽ còn gì nữa. Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy, cho đến lúc ra về, Long Vương còn đem vàng bạc tống tiền rất nhiều để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không làm việc gì mà trở nên giàu có ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông mang một cái túi đựng nó và luôn đeo nó ở cổ.
Một hôm, Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi ông sờ tay lên cổ thì giật mình mới nhớ là vì vội quá nên đã bỏ quên túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi không thấy ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi, cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy gài ở chỗ treo áo. Trong đó vợ ông có nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được làm Hoàng hậu. Bởi vậy, bà đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi, ông không ngờ vợ ông lại có thế đối xử với ông như vậy. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp bể thành một con đường xuyên thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lên xuống thuỷ phủ của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng vẫn dọn nhà ra bờ biển để làm việc đó. Ngày ngày xe cát chở đến bờ, quyết lấp cho bằng được.
Cho đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ công việc. Chết rồi, ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi là Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển. Tục ngữ có câu: Dã  Tràng xe cát biển đông / Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Người ta nói loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên của mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang Dã Tràng vì nhớ ơn cứu mạng.

46. KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG
Vào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng Lồ, vì thân thể người ấy to lớn, đến nỗi các tay lực sĩ trong triều trông thấy đều khiếp sợ. Từ lúc tuổi trẻ, Khổng Lồ đã đi tu, và chu du khắp thiên hạ với một cây sắt trong tay, sức nặng không ai tưởng tượng nổi. Ông ta còn có một cái đẫy rất màu nhiệm. Bề ngoài không khác gì một cái túi vải thường, nhưng bỏ lọt vào đấy bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh, chất chứa thế nào cũng không đầy và cũng không bao giờ  to thêm.
Bấy giờ, nhà vua cần rât nhiều đồng đen để đúc tượng và các vật dụng thờ Phật, nhưng ngặt vì nước Nam không có đồng đen. Nghe tiếng Khổng Lồ có sức mạnh phi thường, thân mình lực lưỡng, nhà vua đòi vào triều và sai đến Trung Quốc quyên giáo. Khổng Lồ vâng lệnh xách đẫy sang Trung Quốc. Sau bao ngày lặn lội, trèo non, lội suối Khổng Lồ đến được kinh đô nước Trung Quốc, xin vào yết kiến.
Quân sĩ canh gác thấy Khổng Lồ một nhà sư to lớn phi thường xin vào yết kiến, lấy làm lạ hỏi: - Hoà thượng từ đâu đến đây, mục đích để làm gì? Khổng Lồ chắp tay niệm phật, nói: - Bần tăng đến đây chỉ cầu xin bệ hạ cho bần tăng một ít đồng đen đem về đúc tượng phật ở nước Đại Việt. Nhà vua ngỡ là có nhiều vị tăng già theo ông, nên hỏi: - Quý quốc cần bao nhiêu đồng và có bao nhiêu đệ tử đi theo hoà thượng? Khổng Lồ giơ cao đẫy lên, tâu: - Kẻ hạ thần chỉ có một mình và chỉ xin một cái đẫy này là đủ. Thấy cái đẫy có chút xíu, vua Trung Quốc mỉm cười nói: - Hoà thượng có lấy trăm đẫy như vậy trẫm cũng không từ chối. Đoạn nhà vua sai một tên thị vệ dẫn Khổng Lồ đến quan giữ kho, bảo mở kho đồng đen cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiều thì lấy.
Trước khi vào kho, phải đi qua một cái sân rộng, ở đó dựng tượng một con trâu bằng vàng, to như cái nhà, sáng chói cả một vùng trời. Quan giữ kho chỉ vào tượng con trâu, nói đùa với Khổng Lồ: - Hoà thượng có cần dùng cả con trâu này không? Khổng Lồ đáp: - Không! Tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi. Khổng Lồ vào kho, trút tất cả đồng trong kho vào cái đẫy vẫn không đầy. Sau đó, Khổng Lồ gút miệng đẫy, mắc dây vào đầu gậy, quảy về nước.
Quan giữ kho xem thấy Khổng Lồ chỉ dùng cái đẫy rất nhỏ mà lấy được hết số đồng đen chứa trong kho, lấy làm lạ tâu với vua. Vua Trung Quốc không ngờ xảy ra chuyện phi thường như vậy, truyền quân đuổi theo bắt lại để xét rõ sự tình. Lúc ấy, mặc dù gánh nặng đè lên vai, nhưng Khổng Lồ đã đi được hơn ba trăm dặm rồi vừa đến một con sông rộng, bỗng nghe có tiếng ngựa hí, quân reo ở đằng sau, ông biết có quân triều đình đuổi theo liền thả chiếc mũ tu lờ xuống nước, hoá thành chiếc thuyền, vươn gió qua sông.
Quân sĩ nhà vua vừa đến bờ sông thì Khổng Lồ đã tiến ra giữa sông rồi. Bọn chúng tìm lời dối gạt, nói: - Hoà thượng, hãy giúp chúng tôi với. Chúng tôi vâng mệnh vua đi khiêng giúp đồng và hộ tống Hoà thượng về nước. Khổng Lồ nói vọng lên: - Bần tăng gởi lời về cảm ơn Hoàng thượng. Còn cái đẫy này để tự bần tăng mang lấy cũng được, đâu cần phải làm phiền thiên sứ. Bọn lính biết không thể đuổi theo kịp, bèn quay trở lại.
Khổng Lồ sau đó đi dọc theo bờ biển, tìm đường về phương Nam. Đến tận cửa sông, bỗng gặp một chiếc thuyền buôn rất lớn, kéo buồm sang nước Việt. Khổng Lồ xin thuyền quá giang. Chủ thuyền thấy Khổng Lồ chỉ mang một cái đẫy rất nhỏ mà khi xuống thuyền thì nước mấp mé muốn trào vào nên ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ nói: - Các người chớ ngại, tôi quyết không để thuyền chìm đâu. Thế rồi thuyền nặng nề rẽ nước, sóng thuận gió êm.
Được mấy ngày, bỗng xảy ra một trận phong ba dữ dội. Một con Ngô Công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa, đang vẫy vùng giữa sóng gió, tiến tới trước mũi thuyền, toan nuốt các thuỷ thủ. Mọi người trên thuyền đều kinh sợ. Khổng Lồ mới nói: - Cứ ngồi yên! Để tôi trừ con quái vật này. Nó là một loại rít biển, vì to lớn nên hung hăng như vậy. Dứt lời, sẵn có một quả bí chở trên thuyền, ông ta ném vào miệng Ngô Công. Ngô Công vừa đớp lấy quả bí thì Khổng Lồ đã nhảy xuống nước, dùng gậy đánh vào mình nó, làm cho nó đứt làm ba khúc hoá thành ba hòn đảo nổi giữa biển khơi. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng và thuyền lại đi một mạch tới đất Việt.
Về tới kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi việc. Vua sai sư Khổng Lồ đem đồng ra đúc bốn thứ bảo khí thờ Phật, để cho mọi người ngưỡng mộ và truyền lại cho đời sau. Khổng Lồ triệu tập tất cả thợ đúc lành nghề trong nước rồi mở túi lấy đồng ra chia làm bốn phần. 
Đầu tiên, ông đúc một cái tháp cao chín tầng, gọi là tháo Báo Thiên. Tháp đúc xong hình tháp sừng sững giữa kinh thành, đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng Phật cao sáu trượng và một cái đỉnh to vừa bằng mười người ôm. Còn lại bao nhiêu đồng Khổng Lồ cho đúc một quả chuông rất lớn. Chuông đúc xung, đánh thử lần đầu tiếng vang xa bốn cõi, vang đến tận Trung Quốc, con trâu vàng đúc ở trước kho đồng đen là mẹ của vàng cho nên nó  nghe tiếng ngân biết là mẹ nó đã sang nước Việt. Nó liền ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang nước Nam, không một sức mạnh nào có thể cản nổi.
Cuối cùng, trâu vàng tìm đến quả chuông do Khổng Lồ mới đúc. Nó hôn hít hồi lâu rồi nằm bên cạnh. Thấy việc xảy ra bất ngờ như thế, Khổng Lồ tự nghĩ, nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng bốn biển sẽ quy tụ vào nước mình mà như thế thì nguy hiểm và các nước sẽ gây chiến. Ông bèn tâu với vua xin đem quả chuông này ném cho mất tích để tránh việc đao binh có thể xảy ra. Thấy ý kiến của Khổng Lồ có lý, nhà vua truyền đem quả chuông ném xuống nước. 
Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi, xách quả chuông ném xuống Hồ Tây. Chuông bị tung lên không, bay ra giữa hồ, vang lên một tiếng rất dữ dội. Con trâu vàng nghe tiếng vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ.
Từ đó về sau, thỉnh thoảng những lúc thanh vắng, người ta thấy quai chuông nổi lên mặt nước, còn trâu vàng thì đôi lúc lên bờ hồ, đi dạo quanh, hễ thấy bóng người là trâu lặn xuống nước ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà Hồ Tây còn có tên là hồ Kim Ngưu. Riêng Khổng Lồ về sau được thợ đồng thờ làm thần nghề đúc đồng.

47. CHÀNG RỂ CỌP
  Ngày xưa, có một ông vua sinh được ba người con gái xinh đẹp. Có nhiều quan võ đến xin làm rể nhưng người nào cũng không được các cô ưng thuận. Một hôm, vua gọi ba người con gái lại và phán rằng: Trong triều, quan tài tướng giỏi có nhiều nhưng ai hỏi các con cũng không chịu lấy. Từ nay cha để các con tuỳ ý kén chọn, thuận ai thì lấy người ấy làm chồng. Ba cô vâng lời, mỗi người đóng một cái mảng, chở theo dòng sông, đi kén chồng. 
Nàng Cả đi được một quãng thì gặp một chàng trai đứng ở bờ sông, vẫy tay gọi mình: Nàng chở mảng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với! Thấy người ấy đen thủi, đen thui, xấu xí, nàng Cả bĩu môi: Ôi giào, xấu thế kia, ai thèm chở. Nói đoạn đi thẳng. Nàng Hai chở mảng đến nơi, chàng trai lại gọi: Nàng chở mảng kia ơi, cho tôi sang nhờ với! Nàng Hai nhăn mặt: Thứ người xấu xí thế, ai mà thèm chở!  Đến lượt nàng Ba. Mảng vừa trôi tới, chàng trai cũng cất tiếng xin chở giùm. Nàng Ba vui vẻ ghé mảng vào bờ, mời người đó lên. Chàng trai vừa bước lên mảng, bỗng biến thành một con cọp vằn ngồi chễm chệ đằng trước. Nàng Ba vẫn vui vẻ. Nhưng nàng ra sức khoả nước mà mảng vẫn đứng yên, không nhúc nhích. 
Nàng Cả và Nàng Hai xuôi mảng, mỗi nàng tìm được người chồng xinh đẹp, thích lắm, ngược sông trở về. Tới chỗ cũ, hai nàng vẫn thấy em mình loay hoay giữa dòng, trên mảng lại có một con cọp ngồi chồm chỗm, bèn chế nhạo: Chồng người không lấy, quanh quẩn ở đây lấy chồng cọp à? Hai người chị vừa nói, vừa gắng hết sức chở chồng đẹp về nhà. Tiếng nói vừa dứt, thì mảng của nàng Ba tự nhiên rời bến, bơi vượt lên, lướt vun vút như có cánh bay. 
Về đến nhà, hai chị vào cung tâu với vua cha: Hai chúng con xuôi mảng, kén được chồng đẹp, còn em Ba ngại đi xa, nên lấy ngay phải chồng cọp rồi! Vua nói: Ta đã cho các con tự ý đi tìm chồng, ưng thuận ai thì lấy người ấy. Nay nàng Ba đã lấy phải chồng cọp cũng là chồng. Hai nàng cười lui ra. 
Một hôm vua gọi các con rể lại bảo: Trâu bò, ngựa, lợn ta thả ở trong rừng. Rể nào lùa được chúng về chuồng của mình, rể đó làm ăn giỏi, ta sẽ thưởng cho số gia súc đó. 
Hai chàng rể xinh đẹp sai gia nhân làm mỗi người một cái chuồng thật đẹp rồi đi vào rừng. Hai chàng ngợp mắt trước đàn gia súc của nhà vua, nhưng không biết làm cách nào dồn chúng về chuồng mình. Họ vác gậy hò hét, rượt đuổi nhưng hai chàng đuổi ở đầu núi này, thì đàn gia súc lại chạy sang núi nọ, toát cả mồ hôi mà vẫn không lùa chúng về được. Trong khi đó chàng rể Cọp hì hục vác gỗ to cọc lớn, quây một vùng đất rộng làm chuồng. Hàng rào của chàng tuy xấu nhưng chắc chắn, bên trong lại rộng, chiều tối, khi hai người anh đã mệt lử, Cọp mới lững thững đi vào rừng. Lạ thay, vừa trông thấy chàng tất cả, trâu, bò, ngựa, lợn của nhà vua ngoan ngoãn theo chàng về nhà. Thấy vậy, hai chàng rể người chạy về tâu với vua: Hai chúng con có chuồng đẹp, chẳng biết vì sao đàn súc vật không một con nào chạy vào cả. Trâu bò, ngựa, lợn đi vào cái chuồng xấu xí trơ trọi của em rể Cọp hết rồi! Nàng Cả, nàng Hai tức tối nói: Trâu, bò, lợn không được thì thôi, chồng đẹp mới quý! Vua nói: Rể Cọp làm ăn giỏi xứng đáng lấy được nàng Ba. Từ đó vua rất quý Cọp. 
Đến ngày sinh của vua cha, rể Cọp bảo vợ: Hôm nay là ngày sinh của bố, để tôi đi lấy ít cá về làm cơm mời bố ăn. Hai chàng rể người thấy Cọp đi lấy cá cũng đi theo. Ra đến suối, cả ba chung nhau một cái chài. Hai người anh tranh lấy chài, đòi quăng chài trước. Nhưng họ sợ ướt quần áo đẹp, chỉ lội quanh quẩn ở chỗ nước nông lên không lấy được một con cá nhỏ. Hai người anh bèn đưa chài cho Cọp và bảo: Chú Cọp làm ăn giỏi, hãy quăng thử xem có được nhiều cá không? Cọp xách chài lội ra chỗ vực sâu, lấy cành cây vỗ vỗ trên mặt nước dồn cá vào một chỗ rồi quang chài xuống đó. Một lát, Cọp kéo chài lên, bắt được vô số cá. Cọp quăng mấy tay chài, được một mẻ cá đầy, gánh về cho vợ, dặn: Mình đem cá này làm cơm mời bố. Tôi có việc đi vắng vài ba ngày. Khi nào thấy mưa to gió lớn là tôi về đấy. Nói xong, rể Cọp chạy ra bờ sông, nhảy tùm xuống nước biến mất.  Hai chàng rể người thấy vậy, hớt hải chạy về báo với vua: Rể Cọp ngã xuống sông chết đuối rồi. Vua thương tiếc Cọp lắm. Còn rể Cọp, sau khi xuống nước, chàng trút lốt da, trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặc quần áo đẹp, lên ngựa trở về nhà. 
Lúc ấy, trời mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng. Mọi người bỗng thấy một chàng trai da trắng, môi hồng, mắt chàng sáng như sao, cưỡi ngựa từ xa đi lại. Biết là chồng mình, nàng Ba vui mừng chạy ra đón. Bấy giờ mọi người mới biết đó là rể Cọp, vô cùng kinh ngạc. Ai cũng trầm trồ ngắm nghía. Riêng hai người chị thì vừa ghen tức, vừa xấu hổ. 
Chàng Cọp đón vợ về nhà. Khi hai vợ chồng vừa đến nơi, căn nhà cũ bỗng biến thành một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn, có ao, có nương, có ruộng. Hai vợ chồng Cọp ở khu nhà ấy, ngày ngày cùng nhau làm nương phát rẫy, sống cuộc đời đầm ấm, hạnh phúc. Họ nuôi được nhiều trâu, bò, ngựa, lợn. Đến mùa thì thóc lúa đầy vựa, đầy bồ. Còn hai cô chị, tuy lấy được chồng đẹp nhưng không làm ra được gì cả.

48. CẬU BÉ NGHÈO KHỔ VÀ CÂY BẬT LỬA THẦN
Xưa, có một đứa bé mồ côi, không anh em, cũng chẳng có họ hàng thân thích. Mồ Côi phải đi xin ăn. Nhưng lang thang hết làng nọ sang xóm khác, chẳng mấy khi Mồ Côi được no bụng. Một hôm, Mồ Côi gặp thầy mo già đi cúng ở làng bên đang trên đường về. Thầy mo thấy Mồ Côi quần áo rách rưới, mặt mày hốc hác, bèn hỏi: Này thằng bé nghèo khổ kia, mày muốn có nhiều tiền tiêu không? Cậu bé Mồ Côi buồn bã đáp: Sao cụ lại hỏi thế? Cháu cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, bây giờ có tiền tiêu sao lại không muốn. Nhưng làm thế nào lại có được hả cụ? Thầy mo bảo: Cứ theo lời tao bảo mà làm thì tức khắc có nhiều tiền. Tao biết ở dưới hang núi sâu kia có rất nhiều vàng bạc. Mày vào lấy ra. Nhưng mày hãy nghe cho kỹ mà nhớ lấy điều này: vàng bạc thì cho tha hồ, mày muốn lấy bao nhiêu cũng được. Nhưng còn chiếc hộp nhỏ nằm trên phiến đá vuông thì đấy là của tao. Mày cầm ra cho ta thì khắc sung sướng. Mồ Côi nghe theo lời dặn, cố lần theo đường hang tối dưới nước đi tìm cái hộp. Hang sâu lắm, càng đi sâu vào càng thăm thẳm. Mồ Côi vẫn cố dò dẫm tiến vào. Một lúc sau, trong hang bớt tối, lại còn ít ánh sáng mờ mờ ở góc hang. Mồ Côi liền mạnh bạo đi đến, thì thấy một con chó đá ngồi sừng sững trong hang. Mồ Côi sợ quá, nhìn quanh lại chẳng thấy vàng bạc đâu cả. Nó bèn lên tiếng hỏi chó đá: Chó đá ơi! Chó đá ngồi đây canh giữ hang, có thấy vàng bạc ở đâu chỉ giúp tôi với. Mồ Côi vừa nói dứt lời thì bỗng nhiên chó đá cất tiếng nói: Bạc thì phía sau lưng ta đây rồi. Còn vàng thì ở sâu phía trong kia, cứ việc vào mà lấy. 
Mồ Côi mừng rỡ đi vào trong trước, lấy vàng đã. Vừa bước vào phía trong hang sâu, nó giật mình vì lại thấy con chó đá vừa rồi. Mồ Côi hết sợ, lên tiếng hỏi xin, con chó đá lại chỉ ra phía sau: Vàng ở sau lưng ta ấy, vào mà lấy. Mồ Côi nhanh nhẹn giắt vàng vào người rồi quay trở ra. Mãi đến lúc này nó mới chợt nhớ đến cái hộp thầy mo dặn. Nhưng chiếc hộp ấy nằm ngay trên lưng phiến đá, chẳng phải tìm lâu. Nó nhặt chiếc hộp rồi tìm đường ra khỏi hang. Bao nhiêu vàng bạc, Mồ Côi không quên khuân hết ra cửa hang, lão thầy mo vội vã giục: Cái hộp đâu? Đưa ngay cho tao đi đã! Thầy mo cuống quýt vì cái hộp, cậu bé Mồ Côi giấu đi và nói: Trong hang chỉ toàn là vàng bạc thôi, chẳng thấy cái hộp ở đâu cả! Không tin ông thử lần vào hang mà xem. Thầy mo nghe thế thì giận lắm. Vừa tiếc, vừa chẳng biết làm thế nào hơn, lão đành bảo: Mày thật là đồ ăn hại! Thôi thế này vậy: không tìm thấy cái hộp thì mày phải nhường hết vàng này cho tao. Còn bạc thì phần mày. Thế là may lắm rồi đấy! Nói rồi thầy mo lấy vàng, Mồ Côi lấy bạc, đường ai nấy đi. 
Mồ Côi được bạc trở nên giàu có. Nhưng cậu không giữ lấy một mình. Cậu đi khắp thiên hạ, thấy ai nghèo khổ thì lại lấy bạc đem cho. Chẳng bao lâu số bạc đã hết sạch, Mồ Côi lại trở nên nghèo túng. Một hôm trong lúc vét túi, Mồ Côi mới sực nhớ ra có cái hộp mà bấy lâu nay quên bẵng. Cậu vội mở hộp thì bên trong có một chiếc bật lửa, cậu lấy tay thử bật một lần đầu. Chiếc bật lửa vừa kêu "xạnh" một tiếng thì xung quanh sáng loé lên: Tiền bạc ở đâu đã theo lửa bắn ra tung toé. Cậu lấy tay bật liên hồi một lúc thì đã đầy vàng bạc. Mồ Côi lại lấy tiền vàng bạc đi khắp nơi cho người nghèo, và ai ai cũng yêu quý cậu. Mồ Côi trở nên giàu có nhưng vẫn không quên cuộc sống nghèo khổ cũ. Vì thế hễ thấy các em bé đói rách, bao giờ cậu cũng mua quần áo và cho ăn uống. Các em bé nghèo rất quý bạn mới của mình, trong số đó có một em bé nhà nghèo thấy Mồ Côi, cứ đi theo không rời nửa bước. 
Tin đồn về cậu bé có bật lửa quý xôn xao đến tai vua. Vua sai lính bắt Mồ Côi đến. Nhưng Mồ Côi đoán biết được mưu mô nên đã để bật lửa ở nhà. Vừa nhìn thấy Mồ Côi, vua đã vội vã hỏi ngay: Nghe nói mày có bật lửa quý bật ra tiền và bạc phải không? Mày hãy nộp cho tao. Mồ Côi không chịu. Vua sai quân lính bắt nhốt Mồ Côi, đánh đập rất đau. Tin đó lan truyền đi trong dân chúng, cậu bé nhà nghèo chạy về nhà lấy chiếc bật lửa ra. Cậu bé bật lên hai cái thì hai con hổ xông ra chỗ nhà vua. Cả lũ quan cũng bị hổ cắn chết. Từ đấy Mồ Côi lại lang thang khắp các bản làng, với chiếc bật lửa thần trong tay, cậu mang đến sự no ấm và bình yên cho mọi người.

49. CHUYỆN CHÚ CUỘI
Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé tên là Cuội, Cuội là một đứa trẻ thông minh, nhưng như cái tên của nó gợi cho bạn thấy, nó dùng trí thông minh để nói dối. Nó rất khoái đánh lừa những người xung quanh. Không một ai tránh khỏi bị nó lừa dối. Thậm chí cả chú thím nó là những người đã mang nó về nuôi sau khi cha mẹ nó qua đời, nó cũng không tha.
Một hôm, chú nó đi cày ở cánh đồng xa, còn thím nó thì ở nhà lo toan công việc nội trợ. Nhìn thấy thím nó bận rộn, Cuội chợt nghĩ ra một trò dối trá để trêu trọc cả ông chú lẫn bà thím. Nó lẻn ra khỏi nhà, chạy thẳng ra đồng, nơi chú nó đang cày, vừa chạy đến ruộng, nó đã gọi giật giọng: - Chú ơi! Chú! Chú về nhà ngay! Thím bị ngã thang, máu chảy đầm đìa chẳng biết xoay sở thế nào. Chẳng kịp nói năng, chú nó lao về nhà. Thằng Cuội theo đường tắt chạy tót về trước, nó nhảy bổ vào nhà kêu tướng lên: - Thím ơi ! Thím! Chú bị trâu húc ở ngoài đồng. Sừng trâu đâm xọc vào bụng chú. Thím đi nhanh lên không chú chết mất! Cuội nói chưa dứt lời, thím nó đã chạy ra khỏi nhà. Cuội nhìn theo, toe toét cười khoái trá và đứng nấp đằng sau nhà. Thím nó chạy vắt chân lên cổ mà vẫn sợ không kịp. Thế rồi đúng vào lúc thím nó vừa đến chỗ đường ngoặt thì đâm sầm phải một người, hoá ra đó chính là chồng mình đang thở hồng hộc và đầm đià mồ hôi. Hai người nhìn nhau lặng người đi.
Cái thằng Cuội! Hai người hiểu ngay ra là họ lại bí mắc lừa thằng cháu. Chú thím nó nổi cơn thịnh nộ. Ông chú nói: - Từ nay về sau, chúng ta sẽ quyết không để thằng nhãi con ấy đánh lừa nữa! Hai vợ chồng trở về nhà và tìm thấy Cuội đang nấp ở sau nhà. Hai người đem nhốt nó vào trong một cái sọt tre to, buộc chặt nắp lại cho chắc chắn. Ở đấy cho đến tối - chú nó đe - rồi thím mày và tao sẽ mang cái sọt này ra sông quẳng xuống nước để mày chẳng còn bao giờ nói dối được nữa. Đến chiều, chú thím nó mang sọt ra sông. Nhưng đúng vào lúc họ định quẳng nó xuống nước. Cuội kêu lên: - Chú thím ơi! Cháu biết mình có lỗi rồi. Cháu xin sẵn lòng chịu tội. Nhưng xin chú thím cho cháu một ân huệ cuối cùng: Cháu có một quyển sách dạy nói dối giấu kín ở đằng sau bồ thóc trong nhà. Nay cháu muốn mang theo để đọc ở dưới âm ti. Cả chú và thím nó đều không nỡ chối từ. Vả lại, chú nó cũng còn tò mò muốn biết quyển sách đó nói gì. Thế là ông ta về nhà lục tìm.
Giữa lúc Cuội ngồi trong sọt chờ đợi, thì một người mù đang dò dẫm dọc bờ sông. Thằng bé liền gọi to. - Ông mù ơi! Ông mù! Nếu ông muốn sáng được mắt thì hãy đến đây! Nghe thấy thế, người mù liền dò đường đến chỗ cái sọt: - Nhanh lên nào, nhanh lên - Cuội nói - Ông hãy tháo cái nắp sọt này ra, rồi tôi sẽ bảo cho ông biết cách chữa bệnh mù. Người mù dò dẫm quanh cái sọt và rốt cuộc cũng tìm cách mở được cái nắp ra. Nắp sọt vừa bật mở, Cuội nhảy vọt ra ngoài chuồn thẳng. Khi chú thím nó trở lại sông để nói cho nó biết là họ chẳng tìm thấy quyển sách đâu cả, thì thằng bé đã không còn ở trong sọt nữa. Chỉ có một người mù tội nghiệp đang đứng đợi để học cách chữa cho mắt mình khỏi mù. Chú thím nó lại bị lừa một lần nữa.
Thằng Cuội chạy đến bụi tre dày đặc ở gần bờ sông. Trong lúc đang tha thẩn quanh bụi tre, nó vớ được một cái hũ cổ đựng đầy vàng. Thật là may biết mấy. Cuội liền mang về nhà cho chú thím. Nhờ có hũ vàng, gia đình chú thím trở lên giàu có. Chú thím nó giờ đây hiểu rằng có mắng mỏ mấy cũng không làm thằng bé thay đổi được tính nết. Họ nghĩ: hay cưới cho nó một cô vợ tử tế, có thể nó sẽ thôi nói dối và bỏ cát tật ăn không ngồi rồi. Vì vậy hai người cưới cho Cuội một cô gái người làng. Dường như trong một thời gian, việc cưới xin đó có làm cho Cuội đỡ nói dối đi, nhưng chỉ mấy tháng sau, khi thím nó chết, Cuội lại tiếp tục nói dối và đánh lừa mọi người như trước.
Một hôm, Cuội đi lang thang trong rừng bắt gặp mấy con hổ con đang nằm trên cỏ. Cuội bắt đàn hổ con bẻ gẫy chân của chúng. Đau quá, lũ hổ con kêu lên, liền nghe có tiếng gầm kinh rợn từ một nơi nào đó. Chắc là hổ mẹ. Cuội vội lẩn ngay vào đằng sau một bụi cây. Một lát sau, hổ cái xuất hiện. Khi thấy con bị đau, nó cắp từng con đến dưới một gốc cây non cành lá xanh tốt. Nó bứt vài chiếc lá rồi nhai nhỏ và rịt vào chỗ chân bị gãy của đàn con. Cuội vô cùng sửng sốt, lũ hổ con chỉ sau một ít phút đã lành lặn. Cuội rình cho đến khi đàn hổ đi hết, rồi đào cây vác về nhà. Cuội trồng cây đó ở trong sân và đặt tên cho nó là cây đa. Từ đấy trở đi, Cuội chăm bón cây rất cẩn thận. Cuội nói với vợ rằng, cái cây này là của một vị thần cho, lá cây có thể chữa lành các vết thương, chữa khỏi mọi chứng bệnh và còn có thể cải tử hoàn sinh. Cuội dặn vợ phải giữ cho cây đa luôn được sạch sẽ. Nhiều lần Cuội đe vợ: - Cấm có đổ rác vào gốc cây, kẻo nó bay đi mất! Thoạt đầu vợ Cuội làm theo đúng lời chồng dặn. Nhưng dần dần về sau, ả đâm bực mình với chồng vì thấy Cuội tỏ ra quý cây hơn cả vợ, ả cũng phát ngấy về những lời chồng răn dạy. Thế rồi một hôm, xảy ra chuyện cãi cọ về cái cây, ả không còn kiềm chế được nữa, hét lên: - Tôi cứ đổ rác vào gốc cây nếu tôi muốn. Tức tối, ả mang một thúc rác đầy từ trong nhà bếp ra đổ cả đống vào gốc cây. Đột nhiên, cây đa bắt đầu lung lay, rồi từ từ bật rễ khỏi mặt đất và bốc lên cao. Nhìn thấy sự thể xảy ra, Cuội lao sấn đến cây đa, bám chặt vào một cái rễ. Nhưng cây đa cứ tiếp tục bốc lên cao. Nó cứ bay lên mãi, cao vút lên bầu trời cùng với chú Cuội bím chặt lấy rễ.
Cây đa bay mãi, bay mãi cho đến khi tới mặt trăng và đứng ở đấy suốt từ đó cho đến bây giờ.
Nếu bạn nhìn kỹ mặt trăng, bạn vẫn có thể trông thấy bóng cây đa ở trên đó, có chú cuội ngồi dưới gốc cây, nhất là vào lúc trời quang và gặp khi trăng tròn và sáng.

50. CHƯA ĐỖ ÔNG NGHÈ ĐÃ ĐE HÀNG TỔNG
Ngày xưa, có một anh học trò nghèo nhưng học giỏi, trong sổ thiên tài hồi đó có ghi tên anh sau này đỗ tiến sĩ, làm quan to. Nhà anh ở gần miếu Thổ thần, mỗi lần đi học, anh ta đều đi ngang qua ngôi miếu đó. Vị Thổ thần ở miếu nhân một bữa về chầu thượng đế, có xem sổ Thiên tài, nên biết được, báo mộng cho người giữ đền phải tỏ ra cung kính với anh ta.
Một hôm, người giữ đền nằm mơ, thấy Thổ thần bảo: - Ngày mai phải quét dọn sạch sẽ, có khách quý đến chơi. Người giữ đền y lời suốt ngày đứng ngoài cửa cổng chờ đón khách quý, nhưng đợi mãi chỉ thấy anh học trò nghèo xơ xác ghé vào nghỉ chân một lúc rồi ra đi. Ít lâu sau, người giữ đền lại nằm chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này người giữ đền cũng không thấy ai lạ hơn người học trò nghèo hôm trước. Anh học trò nghèo này chỉ ghé vào ngâm một bài phú rồi ra đi. Người giữ đền lấy làm lạ, nhưng không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bấy giờ người giữ đền mới tin chắc anh học trò nghèo là người khách quý, có tên trong sổ Thiên tài, mai sau đỗ tiến sĩ làm quan lớn, nên kể lại với người học trò. Người học trò nghe nói như mở cờ trong bụng, biết chắc sau này sự vinh hoa, phú quý sẽ được hưởng thụ suốt đời. Ước mơ chồng chất trong lòng những gì tươi đẹp nhất.
Một hôm, anh nằm dưới ánh trăng, mơ tưởng đến một người đẹp tuyệt trần rồi ngắm lại vợ mình, thấy vợ mình không có chút nhan sắc gì, thở dài thầm nhủ: - Rồi ta sẽ bỏ nàng thôi! Một khi ta đã đỗ đạt, giàu sang thì thiếu gì con vua cháu chúa sắc nước hương trời. Lúc đó ta tìm một mỹ nữ vừa đẹp vừa giàu sang không khó. Nghĩ thế qua ngày hôm sau, hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đuổi đi. Mọi người hàng xóm đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ hắn là một người có học hành mà nhẫn tâm đến như vậy. Nhưng hắn chỉ cười ngạo nghễ mà không để ý đến dư luận. 
Hôm khác, có người đến đòi nợ, vừa bước chân vào sân hắn đã chỉ tay vào mặt mắng nhiếc: - Ta chưa trả, không khéo ngày mai ta sẽ cắm đất vào vườn của mày cho mà xem. Sở dĩ hắn nói câu này là vì theo lệ xưa hễ đỗ tiến sĩ thì được gọi ông nghè, và nhà vua thưởng ba mẫu đất làm nhà ở, muốn cắm đất nơi nào cũng được. Hắn còn đe nhiều người nữa, gặp ai không vừa lòng là hắn dọa: - Rồi chúng bay sẽ biết tay ông. Những hành động của người học trò đều được tâu lên thiên đình. Ngọc Hoàng phật ý truyền bôi tên hắn trong sổ Thiên tài. Một thời gian sau, người giữ đền lại nằm mộng thấy ông thần cho biết là không còn phải kính trọng người học trò đó nữa. Người giữ đền hỏi: - Tội nó như thế nào? Thổ thần đáp: - Nó bị kết án: "Dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Quả nhiên, người học trò ấy thi mãi vẫn không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu: "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng".

51. CÔNG CHÚA THỦY TỀ
Ngày xưa, trên đất Mường Ai có hai anh em mồ côi cha mẹ từ lúc còn nhỏ, người anh tên Cả, người em tên Hai. Hàng ngày hai anh em vác cần câu ra suối. Câu được cá đem đi đổi quần áo để mặc, đổi cơm gạo để ăn. Ngày nào Cả và Hai cũng câu được rất nhiều cá. 
Một hôm, câu từ sớm đến trưa mà chẳng được con cá nào, Hai bàn với anh: - Anh ạ, ta đi về thôi. Cả rút dây câu, lại thấy lưỡi câu động đậy, cái phao chìm nghỉm. Anh giật cần câu nhưng không kéo nổi. Hai lội xuống mò thì thấy lưỡi câu bị một hòn đá như cái trứng gà đè lên. Tưởng là có cá to, họ lại câu nữa. Nhưng mỗi lần phao chìm là lưỡi câu lại mắc vào hòn đá nọ. Lần này, Hai mò hòn đá lên nhìn kỹ rồi reo to: - Ồ, quả trứng.
Ngồi câu suốt buổi mà chỉ được mỗi quả trứng lạ, họ bèn quay về nhà. Hai bèn bỏ cái trứng vào nồi đem luộc. Nước sôi lâu lắm mà quả trứng vẫn nổi lên kêu loong coong. Anh Cả bàn nên đập quả trứng ra xem, Hai ngăn lại, nói: - Ta đem cho gà ấp thử coi. Gà mái ấp được nửa tháng, quả trứng vẫn không nở. Cả lại toan đập trứng, Hai lại ngăn lại, và họ đem quả trứng cất lên gác. Hai bàn với Cả: - Trời mưa, ta không đi câu được, ta sẽ đi phát rẫy để có ngô, lúa. Hôm sau, họ đã phát xong đám rẫy to bằng mười gian nhà thì chợt có con quạ đậu ở chót ngọn cây kêu: - Ta khát quá! Người ơi cho ta uống nước ta sẽ đáp ứng những gì mà người muốn. Nghe quạ kêu vậy, Hai mừng lắm, cầm vòi nước giơ lên nói: - Ta cần hạt thóc, hạt ngô để làm giống gieo trồng, nếu quạ cho ta hạt giống thì mời quạ xuống đây uống nước. Quạ liền sà xuống uống một hơi cạn cả vòi nước, rồi nó vỗ cánh bay đi. 
Hôm sau Cả và Hai lên rẫy thì thấy một đống ngô vàng và một gùi lúa. Họ liền lấy hạt ngô trỉa xuống rẫy, hạt thóc gieo xuống nương. Ngày tháng trôi đi, ngô đã vàng áo, lúa đã trổ bông. Cả và Hai gánh ngô lúa được xếp vào gác cẩn thận. Lại có hôm, họ thấy có nhiều đong lúa được vò sẵn thành hột, có cả gạo giã đầy cót, đầy nong. Hai chàng ngạc nhiên lắm. Lạ hơn nữa là buổi chiều nào về nhà cũng thấy cơm canh dọn sẵn. Hai chàng chưa biết người nào đã tốt bụng giúp mình để đền ơn, hỏi nhà nào họ cũng lắc đầu không biết.
Hôm ấy, Cả ra rẫy, Hai ở nhà rình, nhưng chẳng thấy gì lạ. Chiều họ bèn lên nương. Xẩm tối về nhà lại thấy cơm canh dọn sẵn. Sáng hôm sau hai chàng lại lên nương, đến nửa đường. Hai lại trở về núp kín sau những tàu lá cọ che cổng. Đứng nhìn lâu, bỗng anh thấy một cô gái đẹp trong quả trứng chui ra. Cô gái nhìn ngó chẳng thấy ai, bèn lấy lúa ra vo, lấy gạo ra nấu cơm. Hai vừa sợ, vừa mừng, anh đoán đó là người tốt thương hai anh em, nên yên bụng. Cô gái làm xong việc, định trở lại vỏ trứng, thì Hai chạy bộ ra nắm chặt vỏ trứng bóp nát.
Mất vỏ trứng, cô gái đành đứng run sợ. Hai hỏi: - Nàng là ai? Cô gái trả lời: - Tôi là con út vua Thuỷ Tề. Vua cha thấy hai chàng nghèo khó, siêng năng chăm chỉ nên sai tôi lên giúp việc cửa việc nhà. Từ hôm có nàng Vỏ Trứng ở trong nhà, hai chàng làm ăn mỗi ngày mỗi khấm khá. Hai bàn với anh là nàng Vỏ Trứng nên kết làm vợ chồng với anh mình. Nàng Vỏ Trứng trồng một cây cam trước cổng nhà. Chẳng bao lây câu cam có quả sai và to.
Tin đồn anh Cả có vợ đẹp vang đi khắp Mường Ai. Tạo Nòi con lão lang lấy cớ đi săn nai ghé qua nhà Cả và Hai. Hắn thấy quả là cô gái đẹp nhất vùng. Hắn liền sắm trâu, bò, lợn, rượu khiêng đến nhà Cả và Hai. Tạo Nòi nói: - Tao thương các anh siêng năng nên đem ít vốn này đến giúp đỡ. Anh Cả định nhận lấy, thì nàng Vỏ Trứng ra hiệu cho anh biết. Biết ý nàng, Cả liền nói: - Nhà tôi đã có hạt ngô, hạt thóc rồi! Xin ông Tạo Nòi chở các thứ này vào nhà khác. Nói rồi, Cả bảo vợ làm thịt gà, dọn cơm rượu cho Tạo Nòi ăn no, uống say.
Hôm sau, Tạo Nòi ốm liệt giường. Nhà lang chạy đến chữa hết thuốc này đến thuốc nọ, bệnh của Tạo Nòi càng tăng lên. Nhà lang vội kéo đến bắt vạ anh em Cả. Lão lang nói: - Thằng Tạo Nòi chết, tao sẽ chặt cổ cả nhà. Hai nhìn chị dâu, nàng Vỏ Trứng lễ phép nói: - Tôi cho thuốc sẽ lành bệnh ngay nhưng nhà lang không được đến nhà tôi làm tình làm tội nữa. Lão lang ngậm miệng chịu lời.
Tạo Nòi uống thuốc khỏi ngay. Nhưng vài hôm hắn lại ốm nặng hơn. Nhà lang lại kéo đến bắt vạ anh em Cả. Không chịu nổi cảnh ức hiếp này nữa. Hai giương ná, lắp tên chỉ thẳng vào lão lang, nói: - Nhà lang chém anh em tôi thì cái ná này sẽ cho các ông chết trước. Lão lang vốn nhát gan, sợ tên thuốc độc, bèn gọi quân lính kéo nhau trở về.
Một hôm, hai chàng lên nương làm cỏ lúa, nàng Vỏ Trứng ở nhà làm cơm nấu canh. Bỗng con trâu cột dưới sàn giẫm chân thình thịch. Nàng nhìn xuống chân thì thấy các góc nhà có người cầm dao nhọn. Nàng vừa ló mặt ra cửa, họ xô đến bắt nàng bỏ vào võng khiêng đi. Nghe trâu ò ọ. Cả và Hai bỏ công việc về ngay. Đến nhà, thấy nhà cửa tan nát, họ xộc lên nhà thì chẳng thấy nàng Vỏ Trứng đâu nữa.
Từ hôm bắt nàng Vỏ Trứng mang về, Tạo Nòi cứ quẩn quanh chỗ nàng. Nhưng lạ thay, tối nào cũng có con rắn nằm ở xà ngang giữ cửa cho nàng. Tạo Nòi vừa xô cửa định vào buồng nàng thì con rắn lao vút xuống Tạo Nòi lăn đùng ra chết ngất.
Nàng Vỏ Trứng bắt buộc phải ra đỡ Tạo Nòi dậy. Con rắn xanh tự nhiên cũng biến mất. Thế nhưng hễ xẩm tối là con rắn lại xuất hiện. Tạo Nòi tức lắm, hắn tìm đủ cách để giết rắn mà không nổi. Tạo Nòi bèn nói với cha là phải tìm cách giết chết anh em Cả. Rắn xanh mách tin này vào tai nàng Vỏ Trứng. Nàng Vỏ Trứng nói với Tạo Nòi rằng: - Chàng thương tôi xin chàng chớ giết anh em Cả và Hai. Hắn chiều lòng nàng, nhưng lại sai người đến nhà họ đào tróc lấy cây cam quý. Tạo Nòi lấy được cây cam thì thực là hê hả trong lòng. Nhưng cây cam mỗi ngày một héo úa. Tạo Nòi định đẵn cam, nàng Vỏ Trứng ngăn lại nói: - Để tôi tưới xem cam có sống lại không. Nàng liền vác nước suối ra tưới cam, cây cam xanh tươi trở lại.
Hôm nữa, Tạo Nòi lại ra suối xem nàng vác nước, chợt thấy nàng trượt chân ngã xuống nước, Tạo Nòi liền nhảy theo để vớt nàng. Nước xoáy cuốn cả hai người chìm nghỉm. Nghe người làng kêu là Tạo Nòi và Vỏ Trứng chết đuối, lão lang từ trong nhà cũng nhảy xuống nước, hắn cũng bị nước cuốn phăng luôn. Lúc ấy, nàng Vỏ Trứng rẽ nước về thăm vua cha. Vua Thuỷ Tề cho nàng rất nhiều vàng, bạc, nhưng nàng nói: - Hàng năm xin cha cho mưa nắng thuận hoà. Vua Thuỷ Tề gật đầu, rồi trao thêm cho nàng một giọt nước: - Cha cho con cái ao cá thần để con làm ăn sinh sống. Nàng nhận giọt nước ao thần và từ biệt vua cha trở về trần gian.
Từ hôm nàng Vỏ Trứng ngã xuống nước. Cả và Hai tưởng nàng đã chết, lòng họ buồn hơn. Một đêm nghe thấy tiếng gõ cửa. Hai ra mở thì thấy nàng Vỏ Trứng trở về mừng lắm. Cả nắm tay vợ mà rơi nước mắt. Lúc ấy, nàng mở bàn tay trao cho em Hai một giọt nước ao thần và nói: - Chị cho em cái ao cá thần của vua cha trao cho chị, em hãy chăm nom đàn cá cho nhiều. Hai giơ tay đỡ lấy giọt nước thần. Giọt nước liền nở tung ra thành cô gái xinh đẹp như nàng Vỏ Trứng, e lệ bên cạnh bờ ao trong xanh. Nàng Vỏ Trứng bảo:- Đó là vợ của em đấy. Hai nắm tay vợ và đưa về nhà. Từ đó bốn anh chị em cùng đi nương, phát rẫy, nuôi cá, làm ăn sinh sống. Còn của cải nhà Tạo Nòi thì nàng Vỏ Trứng bàn rằng: - Người trong Mường ai thiếu trâu bò cứ lấy mà chăn dắt cày bừa. Lúa ngô chia đều cho các bếp.
Dân Mường ai nấy được sống yên vui, ai cũng mến thương, quý trọng nàng Vỏ Trứng.

52. CHÀNG GÙ
Cách đây chín mười đời, có hai vợ chồng người nghèo tính nết hiền lành, ăn ở ngay thật, rộng rãi với tất cả mọi người. Hai người lấy nhau đã ba mươi năm mà chưa có con. Dành dụm được bao nhiêu, vợ chồng đều bỏ ra làm phước, bắc cầu qua mương, để nước uống ở truông vắng, lại đi cầu các miếu đền, chùa chiền. Mãi cho đến khi mái tóc lốm đốm bạc thì người vợ mới đẻ được một đứa con trai. 
Em bé lọt lòng mẹ, mắt đã sáng như sao, mặt đẹp như ngọc, lại biết làm mọi việc trong nhà. Hiềm một nỗi, em đã lùn lại còn lưng bị gù, chân tay ngắn ngủi. Vợ chồng nhà kia chưa vui mừng đã phải lo lắng vì đứa con "một nửa đẹp, một nửa xấu" ấy. Bố em buồn đến nỗi chẳng thiết cày cấy. Bà mẹ cũng nản bỏ bê cả việc canh cửi, bếp núc. Chẳng bao lâu, nhà này đã nghèo, lại càng nghèo. Thấy vậy, em Gù xin đi ở đợ kiếm thóc gạo về nuôi cha mẹ. Chủ nhà của Gù rất giàu, ruộng rẫy mênh mông, phải đi ngựa mới thăm xuể. Nhưng đàn trâu của nhà này con nào con ấy gầy teo vì phải kéo cày quá sức. Gù đến ở, xin chăn đàn trâu đó. Người chủ nhà chê: Trâu tao thiếu người chăn thật. Mày đã lùn lại gù sao theo kịp trâu mà đòi ở, đòi chăn! - Tôi không lấy thóc công trước đâu. Nếu tôi để mất trâu, để trâu đói thì ông cứ trừ công. 
Nhà giàu bằng lòng cho Gù ở, ngày ngày Gù đuổi đàn trâu ăn tít trên núi, chỗ ngày xưa chưa có trâu đến ăn nên cỏ còn nguyên. Trâu đói, gặp cỏ non, con nào cũng cúi đầu ăn từ sáng đến chiều. Gù lại còn tranh thủ kiếm thêm củi, bó lại thành bó buộc vào lưng trâu mỗi con hai bó. Chẳng bao lâu, đống củi Gù đem về cho nhà chủ cao bằng mấy ngôi nhà, đàn trâu cũng lại sức, con nào cũng béo tốt, da căng, lông mượt. Chủ nhà bằng lòng lắm. Nên hôm Gù đòi thóc công, chủ nhà vui vẻ bảo: Tao cho mày vào kho thóc, gánh ba gánh. Gánh được càng nhiều càng được nhờ. Thấy Gù siêng việc, lấy được nhiều củi, giỏi chăn trâu, người Gù lại lùn, sức chẳng gánh được bao nhiêu nên chủ nhà dễ dãi bảo vậy. Không ngờ Gù chìa bàn tay lên, nắm lại nói: Tôi chỉ lấy thóc đủ đổ đầy lòng bàn tay thôi!
Gánh ba ngày, chủ nhà còn cho huống hồ chỉ đổ đầy lòng bàn tay! Người chủ đưa Gù vào kho. Gù nắm lòng bàn tay, để ở giữa một lỗ trống, đưa cho nhà chủ đổ thóc vào. Bỗng bao nhiêu thóc trong nhà kho đổ rào rào, rồi xếp thành hàng, dựng đứng chui vào lòng bàn tay Gù và chui ra phía bên kia, cuộn lăn miết về nhà cha mẹ em! Ba vựa thóc hết nhẵn trong chốc lát. Chủ nhà ngẩn ngơ, nhưng đã muộn rồi lão đành bấm bụng chịu. 
Nhà đã thừa thóc ăn, Gù bảo cha mẹ đi hỏi vợ. Nhà giàu ở làng bên, có ba cô gái đẹp chưa chồng, Gù bảo cha mẹ đi hỏi một trong ba cô ấy. Nghe con nói, vợ chồng ông già lại cười: Con còn ít tuổi, người vừa lùn vừa gù. Họ giàu có sang trọng, mạnh khoẻ. Ai bằng lòng lấy con mà hỏi với cưới. Gù không nghe: Con chưa vợ, họ chưa chồng cha mẹ cứ đi hỏi. Ông bà không chắc hỏi được, nhưng chiều con nên phải liều. Người nhà giàu kia chẳng thương gì Gù nhưng biết em giỏi việc, siêng năng, nên nhận cho ở rể, để lấy người làm rồi sau sẽ tìm cách đuổi ra. 
Muốn cho Gù yên lòng, lão gọi ba đứa con, hỏi đứa nào thương nó thì lấy nó. Cô cả đến, đạp Gù một đạp: Mày đứng chưa đến đầu gối tao, mà muốn chơi trèo. Cô thứ hai cũng đến bĩu môi, nhổ nước bọt vào đầu Gù. Cô thứ ba bước ra can hai chị: Người ta đi hỏi vợ, mình không lấy thì thôi, sao lại đánh người ta. Hai cô chị mắng em: Mày muốn lấy nó hay sao mà bênh nó? - Nó chưa vợ, tôi chưa chồng, lấy nó cũng được chứ sao? Hai cô chị bĩu môi, nhổ nước bọt vào người em rồi bỏ đi. Gù ở đấy làm rể. Em dỡ nhà ra dựng lại cao hơn và rộng hơn, xây cửa đúng hướng gió. Cái sân đang méo, em sửa lại cho vuông. Mọi việc trong nhà đều được Gù sắp xếp đâu vào đấy. Cô gái út cũng thương Gù nhiều hơn. 
Được ba năm, Gù xin cưới. Con gái đã thương người đày tớ, không thể lừa được, chủ nhà thách cưới cao, cho Gù không lấy được vợ: Mày giỏi đấy. Nhưng nhà tao giàu. Họ tao đông, mày phải lo đủ ngựa đi cho hai họ. Ngựa phải đủ yên cương, roi da, bịt bạc, người phải có đủ nón dấu, nón gò găng (loại nón đắt tiền). Phải như vậy mới xứng với con gái tao. Thiếu một thứ, tao không cho cưới. Lão nhà giàu tưởng thách cưới cao như vậy, Gù không thể nào lo nổi, phải bỏ cuộc. Em lặng thinh về nhà nói với cha mẹ. Vợ chồng ông già càng lo, ăn không ngon, ngủ không yên. Gù bảo cha mẹ: Cha mẹ cứ ăn ngon như mọi bữa, ngủ ngon như mọi đêm. Việc của con, để con tự lo lấy. 
Gù nói vậy, song cha mẹ không yên lòng. Ông bà trách mắng nhà giàu kia xảo quyệt, muốn đặt điều để cướp không ba năm ở rể của con mình. Gù thản nhiên, không hề bận bịu lo lắng. Gần ngày cưới, lúc nửa đêm, em lấy gậy chọc vào chiếc thờ (đan bằng tre, hình vuông, có nắp dùng đựng đồ dùng) treo giữa nhà. Chiếc thờ xưa nay im lìm, bỗng rục rịch, cựa quậy. Ngựa ở đó giậm chân, khua nhạc vang nhà. 
Bà tỉnh giấc, gọi ông dậy. Hai người rình xem ngựa hồng, ngựa ô, ngựa kim, ngựa bạch từng đàn từng lũ trong chiếc thờ nhảy xuống, đứng chật sân, chật nhà. Chàng Gù cầm roi, đứng đếm từng con. Bỗng lông đuôi con ngựa chui ra cuối cùng bị rối, cuốn vào kẽ chiếc thờ. Con ngựa bị treo lủng lẳng giữa nhà. Gù bắc thang lên gỡ, cái thang bị trượt. Gù phải ôm cổ con ngựa. Con ngựa lắc lư, người Gù lắc theo. Rồi lưng Gù thẳng dần và dài ra, cân xứng với thân thể, Gù cùng với con ngựa nhảy xuống cùng một lúc. 
Gù trở thành một chàng trai xinh đẹp. Vợ chồng ông già ôm lấy cổ con, mừng rỡ khôn xiết. Gù lại lấy chiếc thờ xuống, mở nắp ra xem. Bên trong có rất nhiều khăn thêu, áo mới, chuỗi ngọc, chuỗi vàng, roi da, nón dấu, nón gò găng. Chiếc thờ chỉ to bằng quả bí, mà lấy mãi không hết của cải, đồ đạc. Ông bà đem những thứ đó xếp chật nhà. Sáng hôm sau, chàng Gù dắt ngựa xếp hai hàng dài, thẳng như kẻ chỉ, rồi cùng cha mẹ cưỡi ba con ngựa trắng đi trước. Đàn ngựa kia theo sau, thẳng cổng nhà giàu nọ.
Nghe tiếng nhạc ngựa, lão chủ ghé mắt nhìn ra. Thấy một đàn ngựa đủ màu sắc, đủ cả yên cương, quá sự thách thức của lão, lão gọi cả nhà ra rước. Hai cô chị láo xược, thấy chàng Gù đẹp như tiên, thấy đàn ngựa đứng chật cổng, chật đường, vội che mặt, bỏ chạy trốn vào trong kho thóc. Chàng Gù mời hết cả hàng xóm đến ăn uống rượu, thịt cưới liền trong ba ngày. Tiếng cười đùa, chúc tụng vang nhà dậy cửa. 
Hai cô gái láo xược kia bị đói mà xấu hổ, không dám ra ăn cơm, phải ngồi cắn từng hạt thóc lấy gạo ăn sống. Tan tiệc cưới, chàng Gù cho mỗi người khách một con ngựa có đủ yên cương. Hai cô gái kia tủi thân, ôm nhau khóc, rồi cùng chết hoá thành những con mọt thóc. Lũ mọt đó, mãi mãi không dám ra ngoài, mà cứ rúc vào xó tối, đục thóc ăn, để sống qua ngày.

53. NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI
  Ngày xưa, ở huyện Đông Sơn có anh chàng họ Hồ. Anh đẹp trai sáng dạ, chỉ phải mỗi tội là nhà rất nghèo. Thường ngày, anh vừa làm thuê vừa học hành ở nhà một thầy đồ làng bên. Cuộc sống bữa no bữa đói thật vất vả. Trong mấy năm trời, mặc cho ai nấy dè bỉu, anh vẫn vừa làm vừa học không chịu bỏ dở. Thấy anh chăm chỉ chịu khó, một cô gái con nhà khá giả ở cạnh nhà thầy đồ đem lòng yêu anh và cũng được anh yêu lại. Mối tình kín đáo của họ cứ thế kéo dài được hai năm.
Một thời gian sau, anh chàng họ Hồ mượn mối đến dạm hỏi cô gái, nhưng cha mẹ cô gái chê anh nghèo không gả. Họ nói thẳng: Anh có một thân một mình mà sống còn chật vật, nếu lấy vợ về thì lấy gì mà nuôi vợ. Nếu thật sự anh có tài chữ nghĩa thì hãy đợi đến lúc ngựa xe võng lọng trở về hãy hay. Nghe cha mẹ cô gái nói, anh chàng họ Hồ vừa giận vừa xấu hổ. Anh nghĩ bụng quyết ra đi tạo lập công danh để khi về bố mẹ cô gái không khinh mình được. Nghĩ vậy, anh bỏ nhà lên kinh đô vừa làm thuê, vừa học. Nhờ có đầu óc thông minh, anh học rất giỏi. Sau năm năm, anh đi thi và đã đỗ cử nhân. 
Hôm vinh qui trở về quê nhà, lòng anh khấp khởi mong được gặp người yêu và tỏ rõ cho mọi người biết mình là một người có trí, hơn nữa cũng là báo cho cha mẹ cô gái biết là mình đã thành đạt để ông bà khỏi khinh mà gả con gái cho mình. Nhưng không ngờ, khi anh đến chào người thầy học cũ thì anh được biết, sau khi anh bỏ làng ra đi cô gái đã bị ép gả cho một anh chàng cùng làng, mặc dù cô không ưng thuận và vẫn có ý định chờ anh. Nghe đến đây, anh chàng họ Hồ thở dài thất vọng. Anh nghĩ giờ ván đã đóng thuyền rồi, gặp gỡ mà làm chi, vì gặp lúc nào chỉ làm cho anh đau khổ mà lại khiến chồng nàng ngờ vực. Thế nhưng khi trở về đến con đường làng ngày nào, anh gặp nàng mang cơm cho chồng đang làm nghề mộc ở khu nhà giữa làng. Gặp lại nhau, họ e lệ nhưng cũng đứng lại hàn huyên. Họ bày tỏ những trắc trở, éo le của duyên phận. Hai người chia tay nhau, cô gái gạt nước mắt nhìn theo tủi cho số kiếp của mình. Nàng đâu có ngờ anh chồng thô kệch của mình đã nhìn thấy được cảnh trò chuyện, cơn ghen và tính đa nghi của hắn bốc lên bừng bừng. Nàng vừa đến nơi, hắn lấy cớ đưa cơm chậm liền lên tiếng chửi mắng. Người vợ chưa kịp thanh minh thì đã bị kẻ vũ phu đó cầm cái đục phang ngay vào chỗ hiểm, người vợ gục xuống bất tỉnh. Hắn lo sợ vội đưa vợ về nhà nói dối là ngộ cảm, rồi sau đó cử hành chôn cất không để cho ai nghi ngờ.
Về đến nhà mình, chưa kịp ngồi nóng chỗ, chợt nghe tin người yêu chết đột ngột, anh chàng họ Hồ không khỏi kinh ngạc. Anh thương nàng vắn số và ngay sau đó làm một mâm cơm cúng nàng để nàng khỏi tủi. Rồi không tiện đến nhà, chàng đem ra cúng ở mộ nàng. Nhưng thật lạ, khi anh đang sụt sùi khấn vái thì nghe thấy trong mộ có tiếng nói phát ra. Anh vội vã trở về nhà gọi người đem cuốc thuổng đến đào lên. Khi bật nắp quan tài mới biết là người chưa chết. Nguyên do là cô bị chồng ném cái đục vào đầu nên ngã xuống ngất lịm nhưng không chết. Còn người chồng thì sợ mang tội giết người nên vội vàng khâm liệm rồi chôn cất sơ sài. Sau khi bị chôn xuống đất, người chết dần dần tỉnh lại và đạp vào thành áo quan cầu cứu đúng vào lúc người yêu đang cúng khấn ở mộ nàng.
Anh chàng họ Hồ mừng rỡ vô cùng, suýt nữa người yêu bị chết oan. Anh cùng người nhà đắp mộ lại như cũ rồi vực nàng về nhà chạy chữa thuốc thang. Khi đã bình phục, cô gái kể hết đầu đuôi sự việc cho anh nghe. Anh dặn người nhà giữ kín việc này rồi sau đó bí mật đưa người yêu đến dinh cơ của mình ở chỗ làm việc. Hai người chung sống như vợ chồng.
Bên gia đình nhà chồng và bà con xóm giềng không ai biết chuyện người chết sống lại, nên hàng năm hắn vẫn cúng theo đúng ngày, đến hôm nay nàng chết đã được ba năm.
Môt hôm, ở đàng ngoài có lễ hội, hắn chuẩn bị thật chu đáo để đi xem. Trên đường đi đến hội, hắn bỗng thấy một người đi cáng trông nét mặt giống vợ mình. Hắn lấy làm lạ vội đuổi theo để nhìn cho thật kỹ. Hắn đứng nấp sau một đám đông, thấy bà quan từ trên cáng bước xuống cùng đi xem hội, hắn thấy từ vóc dáng hình hài đến lời ăn tiếng nói quả đúng là người vợ cũ của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, hắn bèn lân la hỏi thăm mấy người lính hầu thì được biết chồng của nàng không phải ai xa lạ, chính là anh học trò thi đậu cử nhân ở làng bên đã đến thăm trò chuyện với vợ mình trước khi bị hắn ném cái đục vào đầu vợ. Nhưng tại sao hắn đã chôn hai năm rõ mười mà bây giờ nàng lại sống đàng hoàng vui vẻ như thế kia? Trong bụng hắn nghi nghi hoặc hoặc, đoán chắc là có uẩn khúc gì đây. Cho nên khi vừa về đến làng, hắn bèn bày đặt ra chuyện bói toán cải táng để đào mộ vợ lên xem cho rõ sự thật. Và khi thấy áo quan rỗng, hắn vội phát đơn kiện anh chàng họ Hồ đã quyến rũ vợ mình.
Nhưng sau khi đã nắm được uẩn khúc với đầy đủ tang chứng do hắn tự khai ra, quan xử cho hắn không những mất vợ mà còn bị án khổ sai chung thân về tội đã phũ phàng đánh chết vợ và lén lút đem chôn. Còn vợ hắn thì được phép lấy anh chàng họ Hồ, người đã có công giành lại nàng từ tay thần chết.

54. BÀ GOÁ NHÂN TỪ
Ngày xưa, dân làng Thông Hoà và các làng sống rất sầm uất, làm ăn đông vui và thịnh vượng. Vì làng ở gần sông nên dân chúng thả cá nuôi vịt rất thuận tiện dễ dàng.
Bỗng một hôm có đôi thuồng luồng to bằng cái cột nhà, dài bằng cây tre, mình đốm đem đốm trắng, mào đỏ xù xì ở trên đỉnh đầu, không biết từ đâu đến sống ở cái vực nước sông dưới dòng Thông Hoà. Ngày nào đôi thuồng luồng cũng xuất hiện, nó bắt vịt của dân làng thả trên sông để ăn thịt. Thấy vịt mất dần mất mòn, dân làng bảo nhau theo dõi. Sau một thời gian theo dõi, dân làng phát hiện ra đôi thuồng luồng. Có lần thuồng luồng nổi lên, họ đã đâm lao làm một con bị thương, máu nó loang đỏ cả một khúc sông. Từ đấy, đôi thuồng luồng càng trở nên dữ tợn hơn. Chúng tìm đủ mọi cách để trả thù. Ngoài những lúc bắt vịt ngan của dân làng, nó còn rình bắt trẻ em khi chúng ra sông tắm. Có nhiều khi thuồng luồng lao lên bờ bắt cả những người đang cày cuốc ở cánh đồng ven sông. Cuộc sống của dân làng ở đây tự dưng bị xáo trộn, ai cũng nơm nớp lo sợ.
Trong làng Thông Hoà có một bà goá nhà rất nghèo, chồng lại mất đã lâu và bà cũng chẳng có đứa con nào. Ngày ngày, bà phải ra sông mò cua bắt ốc đem bán để lấy tiền đong gạo. Trong làng ai cũng sợ thuồng luồng dữ tợn, ít người dám ra sông. Nhưng bà goá vì nghề làm ăn nên lúc nào cũng phải len lỏi ngoài bến sông nhặt ốc và bắt cua, mặc dù bà cũng sợ thuồng luồng nhưng vì kế sinh nhai nên phải liều thân.
Một hôm, khi xúc tép ở sông, bà xúc được một quả trứng to như quả trứng ngỗng trông rất trong và đẹp. Bà đem trứng về để vào rổ cám định để bữa sau sẽ đem luộc ăn. Nhưng khi đến bữa bà lại quên trứng, đến bữa sau bà nghĩ phải cố nhớ luộc trứng để ăn. Thế rồi cứ quên quên nhớ nhớ như vậy hết ngày này sang ngày khác, quả trứng vẫn cứ nằm gọn trong rổ cám gà.
Ngày qua tháng lại, một hôm quả trứng tự mổ vỏ và nở ra một con rắn con. Mình nó bé như cái đũa và cũng đốm đem, đốm trắng, đốm vàng. Bà goá không đánh chết mà để ra vườn cho nó bò đi. Nhưng con rắn không bò đi, nó bò từ vườn vào sân rồi từ sân bò vào nhà, rồi lại bò vào rổ đựng cám. Bà goá lấy làm lạ, thấy con rắn non yếu ớt bà lấy rơm phủ lên người nó cho ấm áp. Rồi bà đi bắt cua, đến chiều đi làm về, nhìn thấy rắn con đầu gục xuống im lìm, bà nghĩ chắc là nó đói. Đến bữa, bà gọi rắn ra ăn cơm. Con rắn nhoai mình từ từ bò ra khỏi rổ cám thong thả tiến lại gần mâm cơm, nhặt từng hạt cơm mà bà goá gẩy cho nó. Ăn no, nó lại từ từ bò vào rổ cám. Thấy con rắn hiền lành, bà goá chơi với rắn cho vui.
Từ đấy, hàng ngày những lúc rảnh rỗi bà goá lại chơi với rắn con một lúc. Rắn con ngoan ngoãn bò quanh quẩn bên bà goá, và cứ như vậy, bà đã nuôi nó trong nhà. Rắn con ngày một lớn, ở với người lâu ngày rắn còn biết nói cả tiếng người, nó không nằm trong rổ nữa mà bò vào gầm giường để nằm. Bà goá đặt cái nong cho rắn con nằm trong đó.
Chuyện bá goá nuôi rắn ở trong nhà làm nhiều người tò mò rủ nhau đến nhà bà goá để xem, họ thủ thỉ hỏi có phải con rắn đó được nở ra từ quả trứng bà nhặt ở bờ sông phải không? Bà goá gật đầu kể lại mọi chuyện cho dân làng nghe.
Mỗi khi có người lạ đến chơi với bà goá, rắn con từ trong gầm giường từ từ bò ra sân ngẩng cao đầu rồi gật gật như muốn chào. Những vị khách nhìn kỹ con rắn thấy nó có vẩy đen, vẩy trắng, có cái mào nhu nhú ở trên đầu như mào gà, ai cũng nghĩ nó là con thuồng luồng con. Nhiều người thẽ thọt khuyên bà goá đem thả nó ra sông, có người xui bà goá đem giết nó đi cho đỡ sợ, nhưng bà goá không nghe lời ai cả. Bà vẫn âu yếm nuôi con rắn và quyến luyến vui chơi với nó.
Có một điều thật lạ là từ khi bà goá nuôi con rắn con ở trong nhà thì đôi thuồng luồng kia không xuất hiện bắt ngan vịt trên sông nữa. Những đàn vịt của mọi người thả trên sông không có con nào bị thất lạc. Thỉnh thoảng họ có thấy đôi thuồng luồng xuất hiện nhưng chúng chỉ nổi lên bơi đi bơi lại một lúc mà không thấy chúng quấy nhiễu gì cả. Trẻ con ra sông tắm không sợ thuồng luồng bắt, người cày cuốc ven sông cũng không bị đe doạ tính mạng. Bà goá vẫn ngày ngày ra sông mò cua bắt ốc, rắn con ở nhà trông nhà chờ bà đi làm về. Bây giờ rắn đã lớn, cái mào trên đầu nó đã nhú cao đỏ như mào gà. Rắn con ngày càng to, ăn ngày càng nhiều. Bây giờ nó đã to gần bằng cây mai, dài bằng con sào. Bà goá phải chạy gạo cho mình và nuôi rắn khá vất vả. Có ngày mưa to, không bắt được tôm tép, cả bà và rắn đều phải nhịn đói. Tuy vậy bà goá không phàn nàn gì và cũng không có ý gì khác đối với con rắn. Tối hôm đó, trong lúc vui chơi với rắn, bà goá thủ thỉ tâm sự: Hôm nay trời mưa to lũ lớn, mẹ không kiếm được gì nên không có tiền đong gạo. Ngày mai nước sông rút, mẹ bắt được cua, cá đem bán đong gạo mẹ con ta ăn bù. Rắn con mắt đỏ hoe nhìn ra ngoài trời. Trời vẫn mưa rả rích. Đêm hôm đó, rắn con lặng lẽ trườn ra sông lặn bắt cá đem về bỏ ở sân nhà bà goá. Bà goá không hay biết gì, sáng hôm sau như thường lệ, bà dậy thật sớm. Vừa mở cửa nhìn ra sân bà ồ lên kinh ngạc vì thấy ở sân nhà có nhiều cá quá. Rắn con bò đến bên bà nhỏ nhẹ: Con bắt cá về cho mẹ đem bán.
Rồi từ đấy, đêm nào rắn con cũng ra sông bắt cá đem về nhà. Bà goá vừa có cá ăn, vừa có cá đem bán và được rất nhiều tiền đong gạo. Cuộc sống của người và rắn ngày một khá hơn. Bà goá rất vui và rắn cũng rất vui. Rắn con ngày một lớn, bây giờ không ai gọi nó là rắn nữa mà đều gọi nó là thuồng luồng con. Và nó cũng giống hệt như đôi thuồng luồng ngày trước xuất hiện ở khúc sông này. Người làng rất ngại khi đến chơi nhà bà goá vì họ trông thấy thuồng luồng con thì rất sợ. Bà goá cũng phải công nhận rắn con nay đã trở thành thuồng luồng con thật. Thấy xóm giềng ít đến chơi với mình, bà goá nhiều lúc cũng băn khoăn nghĩ ngợi. Tuy vậy, bà vẫn vui vẻ âu yếm thuồng luồng con và thuồng luồng con cũng rất quý bà.
Một hôm, sau bữa cơm chiều, bà goá ôn tồn nói với thuồng luồng con: Đã mấy năm trôi qua, con ở với mẹ, mẹ rất yêu quý con. Nhưng nay con đã lớn, ban ngày con hãy ra vực sâu chơi cùng đàn thuồng luồng, đến tối con hãy về nhà để bà con dân làng đỡ sợ. Thuồng luồng con gật đầu nhỏ nhẹ: Con xin vâng lời mẹ. Sáng hôm sau, nó nhoai ra vực sâu thật. Lúc ngủ dậy không thấy thuồng luồng đâu, bà goá liền ra bờ sông thì thấy bốn con thuồng luồng đang vùng vẫy bơi lội. Hai con to và hai con nhỏ. Tối hôm ấy, thuồng luồng con về nhà bà goá và bò vào nằm dưới gầm giường. Bà gọi nó ra ăn cơm, thuồng luồng con ăn rất ngon lành.
Sau khi bà goá ngủ say, nó lẻn ra sông. Rồi đêm ấy, cả bốn con thuồng luồng cùng bắt cá đem về để ở sân cho bà goá. Hai bố mẹ thuồng luồng còn để lại hai viên ngọc ở trước cửa nhà bà. Trời gần sáng, ba con thuồng luồng kia trở lại vực sâu, còn thuồng luồng con lại chui vào gầm giường như mọi khi. Bà goá ngủ say không biết việc gì xảy ra trong đêm đó. Sáng sớm tỉnh dậy, mở cửa nhìn ra sân, bà thấy một đống cá to lù. Quay vào nhà, bà trách yêu thuồng luồng: Làm cách nào mà con bắt được nhiều cá thế. Con đi sao không cho mẹ biết? Thuồng luồng con trườn ra sân nhìn đống cá rồi cặp hai viên ngọc vào mồm đến nhả trước mặt bà goá. Nó gật gật đầu như có ý chào. Bà goá âu yếm vuốt ve cái mào đỏ tươi trên đầu nó. Thuồng luồng con nhìn bà rồi nhẹ nhàng nói: Đống cá kia là bố mẹ và anh con bắt về giúp mẹ đấy. Đây là hai viên ngọc quý, bố mẹ con biếu để mẹ dùng. Nói xong nó bò quanh nhà, quanh sân, quanh cái nong nó đã nằm trong mấy năm trời, rồi bò đến bên bà goá, bà mẹ đã nuôi nấng, nâng niu nó từ thuở trứng nước, nó nhìn bà với đôi mắt buồn rầu. Bà bảo nó: Ban ngày con ra vực chơi, tối lại về với mẹ.
Buồi chiều, bà goá lững thững ra bờ sông, thấy bà đến, cả bốn con thuồng luồng từ từ bơi đến trước mặt bà, nghển cao đầu chào bà rồi lao nhanh rẽ sóng xuôi dòng từ biệt. Con thuồng luồng con bơi đến ghé đầu vào lòng mẹ nhỏ nhẹ: Đội ơn mẹ đã nuôi con lớn. Nay con phải theo bố mẹ con đi kiếm ăn nơi khác. Mẹ ở lại mạnh khoẻ nhé. Nói rồi nó lao nhanh, xuôi dòng theo ba con thuồng luồng nọ. Bà goá tần ngần nhìn theo mãi cho đến khi không còn trông thấy thuồng luồng con đâu nữa. Bà cảm thấy hụt hẫng như vừa đánh mất một vật gì quý nhất. Về đến nhà, bà mời dân làng đến chơi, kể lại cho mọi người nghe câu chuyện vừa xảy ra lúc sáng rồi bà chia hết đống cá cho mọi người. Từ đấy, trong lưu vực sông Thông Hoà không còn có thuồng luồng đến quấy phá nữa. Người ta ca ngợi bà goá đã có công nuôi thuồng luồng con nên họ hàng nhà thuồng luồng biết ơn và từ đấy không đến quấy nhiễu dân làng. Cuộc sống của họ nay được yên vui, người ta lại nuôi thêm nhiều đàn ngan, vịt trên sông. Bà goá giờ đây không phải mò cua bắt tép nữa. Bà bán ngọc, mua sắm đầy đủ đồ đạc cần thiết, bây giờ bà đã thừa ăn, thừa mặc.
Thấy vậy, ai cũng mừng cho bà ở hiền gặp lành, họ mang ơn bà vì bà đã có công đem lại cuộc sống yên vui cho họ. Sau này bà goá chết, dân làng Thông Hoà rủ nhau lập đền thờ bà để tỏ lòng nhớ ơn đức của bà.

55. CÂY NÊU NGÀY TẾT
Thuở ấy, Quỷ làm chủ trên trái đất, Người chỉ ăn nhờ ở đậu. Hàng năm, Người phải đến xin cấy rẽ ruộng đất của Quỷ. Tính Quỷ vốn tham lam, nên thường đặt ra những luật lệ rất khắt khe ác nghiệt. Năm ấy, lúa Người trồng rất tốt, Quỷ muốn chiếm lấy cả thóc, bèn đặt ra lệnh: "Quỷ ăn ngọn cho gốc". Thế là Người làm quần quật suốt năm, đổ mồ hôi sôi nước mắt, đến mùa chỉ được toàn gốc rạ.
Người đói khổ quá, khấn với Bụt. Bụt hiện lên bảo: -  Nó đặt ra lệ "Ăn gốc cho ngọn", thế thì mùa tới sao các con không trồng khoai lang? Người hiểu ý Bụt, làm theo, đến mùa người cắt ngọn dây khoai nộp cho Quỷ, còn bao nhiêu củ bới lên, Người ăn tất cả. Quỷ thấy vậy, tức tối lồng lộn, đặt ra lệnh mới: "Quỷ ăn cả ngọn lẫn gốc". Người lại khấn với Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Sao các con không trồng ngô? Người mừng rỡ, bỏ khoai trồng ngô, thế là mùa ấy, Người cứ ung dung bẻ bắp ăn, còn bao nhiêu gốc ngô, ngọn ngô dành phần cho Quỷ cả.
Quỷ hai lần bị mắc mưu, căm giận Người lắm! Chúng bàn nhau, bày kế hiểm độc, đòi ruộng đất về, không cho Người cày rẽ nữa. Người lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các con đến hỏi Quỷ tậu lấy một miếng đất đủ trồng một cây tre. Nhưng nhớ phải giao hẹn với chúng: Hễ bóng tre ngả đến đâu là chỗ ấy thuộc về các con. Người vâng lời Bụt, đến nhà Quỷ tậu đất trả giá rất cao, Quỷ thích quá, bằng lòng bán cho Người một miếng đất và nhận luôn cả lời hẹn.
Người đem trồng tre ngay lên miếng đất vừa tậu. Bụt lại hiện lên, lấy áo của mình trùm lên đầu ngọn tre. Cây tre mọc càng cao, bóng chiếc áo ngả xuống mặt đất càng rộng. Bóng đổ đến đâu, Người trồng lúa, trồng ngô, trồng khoai đến đấy. Cây tre cao vút lên mãi, giống tre đẻ lan thêm ra, Người cứ theo bóng tre mà lấn đất, đẩy Quỷ lùi dần. Cuối cùng, Người đuổi được Quỷ ra tít tận ngoài biển.
Từ đấy, đời sống của Người ấm no hẳn lên, còn Quỷ tiếc của, hung hăng đem quân vào định cướp lại đất, thả bầy thú dữ ra tàn hại người. Người họp nhau lại chống giữ. Hai bên đánh nhau hết năm này qua năm khác mà không phân được thua.
Người lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các con cứ lấy cung tên mà bắn, lấy vôi mà rắc, giã tỏi trộn với nước mà phun, lấy lá dứa có gai nhọn mà vụt thì Quỷ và bầy thú dữ có hung hăng đến đâu cũng phải bỏ chạy. Người làm theo lời Bụt. Quả nhiên, Quỷ và bầy thú dữ bị Người đánh cho tan xác, không dám bén mảng vào đất liền nữa. Quỷ chỉ xin mỗi năm, đến dịp tết Nguyên đán, được vào thăm phần mộ tổ tiên vài ba ngày.
Do đó, dân ta có tục ngày tết trồng nêu. Nêu là một cây tre cắm ở giữa sân, có treo chuông khánh. Tiếng chuông khánh kêu leng keng luôn nhắc nhở Quỷ nhớ tới đây là đất của Người.
Mời thư giãn với nhạc phẩm BỐNG BỐNG BANG BANG
của Nguyễn Phúc Thạch (Ongly C) qua tiếng hát Nhóm 365:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét