100 SỰ TÍCH VIỆT NAM HAY NHẤT - Thái Đắc Xuân tuyển chọn và giới thiệu

Leave a Comment
(Thái Đắc Xuân: bút danh của Chủ bút Trang Đặng Xuân Xuyến)
100 SỰ TÍCH
VIỆT NAM HAY NHẤT
Công ty Văn Hóa Bảo Thắng liên kết xuất bản

*
1. SỰ TÍCH LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng Lâm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hoá thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc long quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.
Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu tinh. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu tinh dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thuỷ tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu tinh này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu tinh. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dậy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dậy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay!"
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi. Hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng: - Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói: - Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con toả đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương. Ngôi vua đời đời gọi chung danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.

2. SỰ TÍCH HỒ HOÀN KIẾM
Vào thời giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc. Hồi ấy ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như lệ thường. Tự nhiên trong một lần kéo lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi thò tay bắt cá, Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả lưới ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay. Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba lại vẫn thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ, Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên một mình: - Ha ha! Một lưỡi gươm!
Thận về sau gia nhập đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra có hai chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu vật. Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Lê Lợi trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại câu chuyện. Mọi người nghe xong đều hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ tướng: - Đây là thần có ý phó thác cho "minh công" làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo "minh công" và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc! Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng.
Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoành trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng bao lâu tiếng tăm của quân Lam Sơn ran khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng một tên giặc trên đất nước.
Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng lên và nhận thấy lưỡi gươm thần đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: - Bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra, bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát, thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa ngước đầu lên, há miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Cho đến khi cả gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ biết: - Đức Long Quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

3. SỰ TÍCH THÀNH CỔ LOA
Khi đã chiếm được đất Văn Lang, An Dương Vương đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.
Khu đất chọn để đắp thành là một quả đồi đất rắn như đá. Ðám đông người hì hục đào đất, khuân đất hết ngày nọ sang ngày kia, tòa thành cao dần. An Dương Vương cùng đoàn tùy tùng đến xem rất lấy làm hài lòng, cho là một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, sấm sét không lay chuyển, mưa bão không làm sạt được, và quân giặc cũng không thể phá nổi.
Nhưng một đêm cả bức tường thành quanh co đều đổ sập xuống như đất bằng. Vua An Dương Vương đến xem rất lấy làm tức giận. Ngài hỏi dò dân chúng gần đó, họ kể lại: Ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập ở các khắp ngả kéo đến với những tiếng xì xào có thể là ma quỉ. Người đâu mà lại đông đến thế! Họ sợ quá nên không dám nhìn ra. Rồi họ lại nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.
An Dương Vương sai các tướng lãnh đốc thúc đắp lại thành cho kỳ được. Ðám người hăng hái đắp lại không ngừng. Tường thành mỗi ngày một cao dần và lại cao như tường thành cũ. Nhưng rồi một đêm cả dãy tường thành lại sập xuống như đất bằng. An Dương Vương sai người đi hỏi dân chúng ở gần đó thì họ lại nói như trước. Ban đêm họ cũng nghe thấy những bước chân rầm rập như thiên binh vạn mã trẩy qua rồi lại những tiềng huỳnh huỵch tiếp đến những tiếng ầm ầm như sấm động.
An Dương Vương lại xem chỗ địa thành để cầu trời phù hộ mình đắp cho xong tòa thành. Vua đi vòng quanh chân tường vừa đi vừa suy nghĩ. Ðột nhiên vua thấy một ông già râu tóc bạc từ phía xa đi lại. Ðến gần An Dương Vương ông tự xưng mình là thổ thần của vùng đất này, nói với vua rằng: - Nhà vua đừng lo, sáng mai nhà vua ra đợi ở bờ sông sẽ có sứ giả Thanh Giang đến giúp nhà vua đắp thành. Nói xong ông già biến mất.
Hôm sau mới tờ mờ sáng, An Dương Vương đã ra tận bờ sông để đợi Giang sứ. Vừa bắt đầu tan sương thì có một con rùa vàng rất lớn nổi lên mặt sông từ phía Ðông bơi vào bờ đến gần nhà vua, rùa tự xưng mình là thần Kim Quy sứ giả của vua Thủy Tề. An Dương Vương sai đặt Giang sứ lên một chiếc mâm vàng và khiêng vào cung.
Vua hỏi kế đắp thành, thần Kim Quy bảo rằng: - Ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hoá khôn lường. Nó thường hãm hại khách qua đường và khách ngủ ở quán trọ trong vùng này. Các vua thời trước cùng bọn nhạc công chết đi đều chôn ở núi Thất Diệu, những u hồn ấy từ lâu không tan lẩn khuất trong khe đá ở hang sâu. Những u hồn ấy có thù với nhà vua nên đêm thanh vắng họp thành từng đàn từng lũ đến xúi dục con tinh gà trắng phá thành đang xây của nhà vua. Con tinh gà trắng đã dẫn những u hồn ấy đến chân thành dùng phép ma phá đổ tường thành rồi gần sáng lại bay về núi. Con tinh gà trắng có tiền duyên với con gái lão chủ quán gần chân núi nên hay hiện hình làm khách bộ hành ghé vào nhà lão khi thì nhập vào con gái lão khi thì nhập vào con gà trắng của lão. Muốn đắp cho được thành, trước hết phải trừ cho tiệt giống yêu ma và giết đứa con gái cùng con gà trắng của lão chủ quán kia đi.
Nghe lời thần mách bảo, Vua sai mấy viên tướng đem quân vào rừng mai phục rồi vua cải trang cùng thần Kim Quy giả làm khách bộ hành đến quán xin ngủ trọ. Chủ quán từ chối lấy cớ là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách đi đường. Nhưng An Dương Vương và thần Kim Quy nhất định xin ở. Chủ quán phải chiều theo ý hai người.
Ðêm đêm An Dương Vương nghe thấy những bước chân rầm rập ở ngoài. Những bước chân từ khắp các ngả đi lại rộn ràng rồi thốt nhiên có bàn tay rất mạnh đập vào cái phên nhà lão chủ quán tiếp đến tiếng gọi người con gái lão. Thần Kim Quy lên tiếng nạt nộ, tiếng ngoài im ngay. Những tiếng chân bước cũng xa dần.
Gần sáng lại có những tiếng chân rầm rập ở ngoài, thần Kim Quy bảo An Dương Vương mở cửa phên ra gọi quân mai phuc đuổi theo đám yêu tinh đang rút lui về Thất Diệu, quân lính vừa đuổi vừa giương nỏ bắn theo. Cứ một loạt tên bay đi là lại nổi lên những tiếng ma kêu quỷ khóc rùng rợn. Tiếng rên rỉ khóc than mỗi lúc một thưa dần. Ðến khi mặt trời mọc thì yêu khí tan. Quân lính của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt và nhạc khí cổ trong các hang núi, họ chất thành từng đống cao đốt đi rồi tro than đổ xuống suối cho tan hẳn oan hồn.
An Dương Vương và thần Kim Quy trở về quán trọ bảo chủ quán hiến cho mình con gà trắng để tạ trời đất. Gà vừa bị cắt tiết thì con gái chủ quán cũng lăn ra chết. Giữa lúc ấy có một con chim tứ trong nhà bay vụt ra, thần Kim Quy biết đó là con yêu tinh đã tìm đường chạy trốn, liền tung phép giết chết.
Yêu ma đã trừ xong, thần Kim Quy lại hiện nguyên hình là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một cái móng của mình trao cho An Dương Vương, dặn rằng: - Nhà vua giữ lấy móng chân này để làm lẫy nỏ. Khi có giặc thì đem ra bắn, một phát có thể giết được hàng ngìn quân giặc.
Nói xong, thần biến mất, nhờ có thần Kim Quy trừ hết yêu ma. An Dương Vương ra lệnh cho quân lính và nhân dân xây lại thành. Chẳng bao lâu tòa thành đắp xong, rộng tới ngàn trượng, vừa dầy vừa cao xoáy vòng như hình con ốc, nên gọi là Loa thành.

4. SỰ TÍCH ĐẦM MỰC
Ngày ấy vào đời nhà Trần có một cụ đồ nho ở xã Quang Liệt tên là Chu An. Học vấn của cụ sâu và rộng. Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần đến học rất đông. Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về Kinh giao cho trông nom trường Quốc Tử và dạy thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn một năm đã thấy cụ chống gậy trở về. Cụ bảo mọi người rằng: - Ta không thể chịu được với bảy tên quyền thần dối vua hại nước!
Từ đó người ta thấy cụ trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin "nhập môn" đông vô kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để chứa học trò. Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ đồ, vua Thủy cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt thuồng luồng ở nước rồi lên đất, nói năng cử chỉ không khác gì người trần.
Một hôm cụ đồ đang chấm bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết rằng sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt người, anh có việc đi chợ huyện, đến cầu Bưu tình cờ thấy từ dưới sông có hai người đi trên mặt nước tiến vào bờ: - Đúng là hai anh em nhà Gàn thầy ạ? Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả nhiên họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào? Cụ đồ gật gù đáp: - Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay chứ sao!
Năm ấy vùng Thanh Đàm trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có lấy một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa, đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém. Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo: - Thầy muốn các con thương đến dân một chút. Hai anh em làm bộ ngơ ngác không nói gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói: - Các con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ.
Hai anh em đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu bảo cụ: - Dạ, nhưng hiềm vì sông hồ đều có lệnh "phong bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ. Giọng cụ khẩn khoản: - Các con cố nghĩ thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì ta hẵng tạm cứu ít vậy! Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án thư, bảo cụ đồ: - Dạ, oai trời thì rất nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy. Chúng con sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy. Cụ đồ mừng rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy nước và cả quản bút lông của mình thường dùng, đưa cho họ.
Hai anh em đỡ lấy rồi cả ba người cùng tiến ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả nghiên lẫn bút xuống nước, cúi vái cụ đồ rồi biến mất. Đêm hôm ấy quả nhiên mây mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ, suốt đêm chạy ra chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh Đàm mà thôi. Hơn nữa sắc nước chỗ nào chỗ ấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu là ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân vùng Thanh Đàm lại vui vẻ như xưa.
Nhưng lúc đó ở thiên đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc Hoàng nổi giận sai một thiên thần đi tìm bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả hai anh em đều không thoát lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa của thần sét. Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi mình một nẻo, giạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ bắt tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau cả một bờ sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên cầu và cũng đắp thành nấm như mộ của người.
Cái nghiên mực của cụ đồ Chu An sau đó trôi về làng Quỳnh Đô làm đen cả nước đầm ấy, ngày nay người ta vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì lại trôi về làng Tó cho nên các cụ thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức là làng Tả Thanh Oai bây giờ, có lắm người họ hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con quái vật tức là hai anh em thuồng luồng sau đó người ta lập miếu thờ, ngày nay vẫn còn có tên là miếu Gàn.

5. SỰ TÍCH TRẦU CAU
Ngày xưa, một nhà quan lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Năm hai anh em mười bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau, nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước.
Không còn được cha dạy dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có một cô con gái tuổi chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng.
Từ khi người anh có vợ thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn, nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ với em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay. Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục cố hữu của dân tộc Việt Nam.

6. SỰ TÍCH DƯA HẤU
Đời xưa, thời Vua Hùng Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý.
Thói thường các quan được một chút lộc Vua thì nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai Vua, Vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ xương hay không". Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết. Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu của dân cư cũng không còn, bây giờ chỉ còn thấy trời với nước xanh ngắt một màu.
Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng hàng xóm chia nhau những bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện dưới trăng! Quay vào hòn đảo hoang vu nàng lại càng khiếp sợ, không biết rồi đây lấy gì mà ăn để sống cho qua ngày tháng.
An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chan chát và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé chẳng bắt được con nào. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu. Tuy nhiên An Tiêm vẫn tin là một ngày khi mình có thể làm cho đời sống khá lên.
Một hôm, có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì ra là một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột và đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảng đất và gieo hạt xuống.
Ít ngày sau mấy hạt dưa mọc mầm đâm lá, bò toả ra khắp khoảng đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc mấy dây dưa lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi ra hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.
Một buổi sáng sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng: - Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi, tất là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào !
An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay tan tác, bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ dưa ra, cả nhà loá mắt vì màu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó giữa màu đỏ có những hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé thèm nhỏ nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ và không những không xót ruột lại còn đỡ khát và khoẻ người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả dưa cho con ăn đến no.
Bây giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm màu da đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ chỉ gồm một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống dưa ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao nhiêu lần, trăng non, rồi trăng già không biết bao nhiêu bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi đem về bán trên đất liền. Từ đấy, An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà xinh xinh.
Về phần Vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, Vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, Vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc dưa hấu mà chúng ta ăn ngay nay.
Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, chỉ có nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.

7. SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG NGÀY TẾT
Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Lang Liêu (còn gọi là Tiết Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Lang Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: - "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành."
Lang Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Lang Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Lang Liêu, con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

8. SỰ TÍCH CÂY NÊU NGÀY TẾT
Thuở ấy, Quỷ làm chủ trên trái đất, Người chỉ ăn nhờ ở đậu. Hàng năm, Người phải đến xin cấy rẽ ruộng đất của Quỷ. Tính Quỷ vốn tham lam, nên thường đặt ra những luật lệ rất khắt khe ác nghiệt.
Năm ấy, lúa Người trồng rất tốt, Quỷ muốn chiếm lấy cả thóc, bèn đặt ra lệnh: "Quỷ ăn ngọn cho gốc". Thế là Người làm quần quật suốt năm, đổ mồ hôi sôi nước mắt, đến mùa chỉ được toàn gốc rạ.
Người đói khổ quá, khấn với Bụt. Bụt hiện lên bảo: - Nó đặt ra lệ "Ăn gốc cho ngọn", thế thì mùa tới sao các con không trồng khoai lang?
Người hiểu ý Bụt, làm theo, đến mùa người cắt ngọn dây khoai nộp cho Quỷ, còn bao nhiêu củ bới lên, Người ăn tất cả. Quỷ thấy vậy, tức tối lồng lộn, đặt ra lệnh mới: "Quỷ ăn cả ngọn lẫn gốc".
Người lại khấn với Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Sao các con không trồng ngô? Người mừng rỡ, bỏ khoai trồng ngô, thế là mùa ấy, Người cứ ung dung bẻ bắp ăn, còn bao nhiêu gốc ngô, ngọn ngô dành phần cho Quỷ.
Quỷ hai lần bị mắc mưu, căm giận Người lắm! Chúng bàn nhau, bày kế hiểm độc, đòi ruộng đất về, không cho Người cày rẽ nữa.
Người lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các con đến hỏi Quỷ tậu lấy một miếng đất đủ trồng một cây tre. Nhưng nhớ phải giao hẹn với chúng: Hễ bóng tre ngả đến đâu là chỗ ấy thuộc về các con.
Người vâng lời Bụt, đến nhà Quỷ tậu đất trả giá rất cao, Quỷ thích quá, bằng lòng bán cho Người một miếng đất và nhận luôn cả lời hẹn.
Người đem trồng tre ngay lên miếng đất vừa tậu. Bụt lại hiện lên, lấy áo của mình trùm lên đầu ngọn tre. Cây tre mọc càng cao, bóng chiếc áo ngả xuống mặt đất càng rộng. Bóng đổ đến đâu, Người trồng lúa, trồng ngô, trồng khoai đến đấy. Cây tre cao vút lên mãi, giống tre đẻ lan thêm ra, Người cứ theo bóng tre mà lấn đất, đẩy Quỷ lùi dần. Cuối cùng, Người đuổi được Quỷ ra tít tận ngoài biển.
Từ đấy, đời sống của Người ấm no hẳn lên, còn Quỷ tiếc của, hung hăng đem quân vào định cướp lại đất, thả bầy thú dữ ra tàn hại người. Người họp nhau lại chống giữ. Hai bên đánh nhau hết năm này qua năm khác mà không phân được thua.
Người lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các con lấy cung tên mà bắn, lấy vôi mà rắc, giã tỏi trộn với nước mà phun, lấy lá dứa có gai nhọn mà vụt thì Quỷ và bầy thú có hung hăng đến đâu cũng phải bỏ chạy.
Người làm theo lời Bụt. Quả nhiên, Quỷ và bầy thú dữ bị Người đánh cho tan xác, không dám bén mảng vào đất liền nữa. Quỷ chỉ xin mỗi năm, đến dịp tết Nguyên đán, được vào thăm phần mộ tổ tiên vài ba ngày.
Do đó, dân ta có tục ngày tết trồng nêu. Nêu là một cây tre cắm ở giữa sân, có treo chuông khánh. Tiếng chuông khánh kêu leng keng luôn nhắc nhở Quỷ nhớ tới đây là đất của Người.

9. SỰ TÍCH RÉT NÀNG BÂN
Nàng Bân là con gái của Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình. Chồng nàng Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Nhưng nàng vụng về quá, khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được cái nọ thì thiếu cái kia, xe được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu nàng: "Nàng Bân may áo cho chồng, May ba tháng ròng mới trọn cổ tay". Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng Hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm.
Thấy con âu sầu, Ngọc Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy hôm để chồng nàng mặc thử áo.
Từ đó thành lệ, hàng năm vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu: "Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân" là vì thế.

10. SỰ TÍCH HÒN VỌNG PHU
Ngày xưa, ở thị trấn Kinh Bắc có một người đàn bà goá chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua bắt ốc để nuôi hai con một trai và một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con trai độ mười tuổi và Tô Thị, đứa con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa nghịch với nhau, không ai ngăn nổi.
Một hôm, Tô Văn chơi ném đá rồi không biết ném thế nào trúng ngay vào đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất, ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy một mạch ra đường, không dám ngoái cổ lại. May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm chạy sang lấy lá thuốc dịt cho Tô Thị, cầm ngay được máu. Đến khi người mẹ đi mò cua về thì thấy con gái đã ngồi dậy được.
Nhưng còn Tô Văn thì biệt ăm, ngày một ngày hai cũng không thấy thằng bé trở về, tìm khắp nơi cũng không thấy. Người mẹ nhớ con, sinh ra buồn phiền, ngày một héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi chết, bỏ lại Tô Thị một mình. Đứa con gái được mấy người láng giềng cho ăn trong ít ngày, rồi hai vợ chồng người chủ hàng cơm đem đứa bé về nuôi để sai vặt. Sau đó, hai vợ chồng người chủ hàng cơm lên xứ Lạng mở hàng nem, đem Tô Thị đi theo.
Lớn lên, Tô Thị xinh đẹp, lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít vốn, nàng nghĩ cách tự làm ăn. Bấy giờ hai vợ chồng người chủ hàng cơm đã có con cái đỡ đần, nên khi nàng xin ra ở riêng, bố mẹ nuôi ưng thuận ngay.
Đã học được nghề làm nem Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở Háng Cưa (tức chợ muối, bây giờ là phố Đầu Cầu) tại Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến để thưởng thức nem ngon, cũng có người vừa thích nem vừa mê bóng mê gió cô chủ. Chiều khách thì thật là khéo chiều, nhưng cô hàng rất đứng đắn, làm cho mọi người vị nể.
Thấm thoắt, Tô Thị đã hai mươi tuổi, tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.
Một hôm, có một anh thanh niên tuổi ngoài hai mươi, vẻ người tuấn tú, đem thuốc từ Cao Bằng về Lạng Sơn bán. Nghe nói ở Háng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon, lại có chỗ trọ rộng rãi, chàng liền tìm đến. Chàng thấy, nem quả thật là ngon và cô hàng cũng rất tươi giòn. Biết cửa hàng một lần, hai lần, rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng Sơn bán, chàng lại tìm đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân thiết, trước còn mến, sau yêu nhau...
Lấy nhau được hơn năm thì Tô Thị có mang, sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực, lại được thêm mụn con, mối tình càng khăng khít.
Một hôm, người chồng về nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hiên. Chàng bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt thấy đầu vợ có cái sẹo to, chàng hỏi: - Đầu mình có cái sẹo to, thế mà bây giờ tôi mới biết. - Bây giờ chàng mới biết à, chàng cho là xấu lắm phải không? - Tô Thị hỏi. - Có xấu gì đâu, tóc che đi, có ma mà biết! Khi còn con gái, mình đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to như thế?
Thấy chồng hỏi ân cần, nhân vui chuyện, Tô Thị kể tỉ mỉ cho chồng nghe những chuyện xảy ra hồi nàng còn bé. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn. Chốn Kinh Bắc, nơi quê cũ người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng, rồi ở luôn đây cho đến bây giờ.
Biết bao đau thương, buồn thảm. Chàng tự nhủ: "Sao mình lại không phải là kẻ khác mà lại là Tô Văn! Thôi mình đã lấy lầm em ruột mình rồi..." Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm, cái ngày chàng lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên chạy trốn, đi lang thang không dám về nhà, rồi được một người Trung Quốc buôn thuốc bắc đem về nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là họ Lý, chàng thường đem thuốc xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng, Cao Bằng - Lạng Sơn, chàng cũng không biết đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên chí gia đình mình ở miền xuôi không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng như trong sương mù, không còn tưởng nhớ đến làm gì...
Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ, nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên không biết chồng mình đang ở vào những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị ngây thơ, vui vẻ thế, Tô Văn càng không muốn để nàng biết sự thực. Ai lại để cho người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết một việc loạn luân như thế bao giờ! Một việc loạn luân không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm gỡ mối cho xong. Thôi, hay là lại đi biệt chuyến nữa, em mình trẻ trung, xinh đẹp dường ấy, làm gì chả lấy được chồng khác, Văn nghĩ thế, rồi chàng nghĩ cách để đi.
Giữa lúc tâm trạng Văn như thế thì có việc bắt lính thú, anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời. Mãi đến lúc sắp lên đường, chàng mới nói với vợ: - Anh đi đăng lính rồi, em ạ. Sớm mai thì lên đường, đi chuyến này ba năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn... Mình ở nhà nuôi con, còn về phần mình, mình cứ tự định liệu, nếu nhỡ ra...
Tô Thị nghe chồng nói như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng lại bỏ đi một cách kỳ như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi, không nói nửa lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm, cho việc mình đi như vậy là giải thoát.
Từ ngày chồng đi, Tô Thị chẳng thiết gì đến việc bán hàng. Ngày ngày bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho chồng được tai qua nạn khỏi, chóng được trở về cùng nhau xum họp.
Nhưng ba năm, bốn năm, nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ phao tin là chồng nàng chết, muốn hỏi lấy nàng làm vợ, nhưng nhất định nàng từ chối. Có một tên kỳ hào tiếng là hống hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng thương con còn thơ dại, không dám từ chối ngay, sợ rước vạ vào thân, chỉ tìm cách khất lần. Nhưng khất mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng đành hẹn với hắn một kỳ hạn để sau tìm kế khác. "Biết đâu đến ngày ấy, chồng mình lại trở về" - Nàng nghĩ thế.
Rồi kỳ hạn cũng hết, nàng trông đợi chồng đỏ cả mắt mà chàng vẫn không về. Nàng ôm con lên chùa Tam Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời nổi cơn dông, nàng nhớ chồng, thương thân, bế con ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót, nhìn về hướng chồng đi. Mây đen kéo đầy trời. Gió rít từng hồi qua kẽ lá. Mưa như trút nước, chớp loè khắp núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to, Tô Thị vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao.
Sáng hôm sau, mưa tạnh, gió yên, mặt trời toả ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hoá đá tự bao giờ.
Ngày nay, còn truyền lại câu ca:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.

11. SỰ TÍCH CHÚ CUỘI TRÊN CUNG TRĂNG
Ngày xửa ngày xưa, ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội.
Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: - Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ lát sau, mặt cô gái hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....

12. SỰ TÍCH HAI ÔNG MỘT BÀ
Xưa có hai vợ chồng tên là Trọng Cao và Thị Nhi. Hai người lấy nhau mà không có con. Thị Nhi rất yêu chồng, nhưng chán nỗi tính tình của chồng ngày một bạo ngược, hay gây chuyện đánh đập vợ. Một hôm, không may xảy ra một việc nhỏ Trọng Cao vác gậy đuổi vợ, Thị Nhi đau khổ đành dứt áo ra đi.
Đến một xứ khác, Thị Nhi lấy người chồng mới tên là Phạm Lang. Cuộc ân ái này rất đằm thắm. Hai vợ chồng hoà thuận, chăm lo cày cấy, cửa nhà ngày một khá giả. Tuy nhiên Thị Nhi vẫn không quên được người chồng cũ. Nhiều đêm nàng ngồi một mình thổn thức nhớ Trọng Cao .
Trọng Cao từ ngày đuổi vợ đi, trong lòng hối hận, chàng đau xót về lỗi lầm của mình. Chàng ước được gặp ngay Thị Nhi để nhận tội cùng nàng. Và rồi một buổi chiều, không chịu nổi sự giày vò của lòng mình, chàng bỏ nhà ra đi tìm Thị Nhi. Chàng lần mò đi, đi mãi cho đến ngày hết lương, chàng phải đi xin ăn để độ đường. Song ý chàng đã quyết, chàng vẫn đi.
Một hôm, tình cờ Trọng Cao đến gõ cửa nhà Phạm Lang. Lúc đó chỉ có mình Thị Nhi ở nhà, Thị Nhi vừa nhìn mặt đã biết ngay là chồng cũ. Nhưng Trọng Cao thì trái lại không nhận ra vợ mình.
Đói khát lâu ngày, không ngờ được Thị Nhi đãi cơm rượu, Trọng Cao ăn uống mặc sức. Ăn xong, say quá chàng lăn ra ngủ. Thị Nhi không muốn cho chồng mới biết chuyện, bèn vực Trọng Cao giấu vào đống rơm ở góc vườn rồi phủ rơm lại cho ngủ yên.
Chiều hôm ấy, Phạm Lang đi làm về, trước khi đi ngủ chàng đốt đống rạ ở góc vườn để lấy tro ngày mai bón ruộng. Ngọn lửa bén sang cả đống rơm nơi Trọng Cao đang ngủ say. Đến chừng Thị Nhi mới biết thì Trọng Cao đã bị chết cháy. Thương chồng hoá ra giết chồng, nàng đau đớn quá mà không thổ lộ được. Bèn nhảy ngay vào đống lửa đang bốc cháy ngùn ngụt. Phạm Lang không biết gì về câu chuyện xảy ra. Chàng chỉ một lòng thương vợ, cuối cùng cũng gieo mình chết ngay bên cạnh Thị Nhi.
Việc đó, Ngọc Hoàng ngồi trên soi kính, thấy hết được nỗi lòng của ba người. Cảm nhận mối chân tình của họ, và thấy cần phải làm cho bộ ba ấy được sống gần nhau mãi mãi. Ngọc Hoàng còn phong cho ba người hoá thành ba đầu rau. Nhân thể Ngọc Hoàng còn phong luôn cho họ chức Táo quân, trông nom việc bếp nước đến việc làng giữ trong gia đình. Và hàng năm cứ đến ngày hai ba tháng chạp lại được triệu về trời báo cáo.

13. SỰ TÍCH ĐÈO PHẬT TỬ
Ngày xưa, có bốn người đêm ngày đọc kinh niệm phật quyết tu cho thành đạo. Bốn người có bốn họ khác nhau: Hoàng, Trần, Lý, Lắm. Ba người đàn ông, riêng người họ Lắm là con gái.
Sau hàng chục năm tụng kinh, niệm Phật, ăn chay tu chí trong chùa, họ đều trở thành những tăng ni đắc đạo. Chọn được ngày lành tháng tốt, họ cùng nhau tìm đường lên núi Thiên Sơn để hoá Phật. Đường đi Thiên Sơn xa lắc xa lơ, thành thử họ phải đi ròng rã mấy năm trời mới tới nơi. Đến chân núi Thiên Sơn, cả bốn người đều mệt nhọc không kể xiết. Nhưng ai cũng nghĩ, đã tu thân quyết chí đến được tận giờ phút này rồi mà bỏ cuộc thì uổng quá! Nên dù trời đã gần tối, họ vẫn theo đường mòn để leo lên đỉnh núi. Khi tới đỉnh đèo, đêm đã khuya lắm, trời tối như mực, bụng đói cồn cào, họ kiệt sức, không đi tiếp được nữa.
Cái đói và mệt nhọc buộc họ phải dừng lại nghỉ, nhưng không ai chợp mắt nổi. Bỗng một người trong bọn họ lên tiếng: - Bây giờ có một cây gậy ước thì các bậc đàn anh muốn ăn gì nào? Mọi người đã quá đói và mệt, nên họ không giữ gìn nữa, ai thích gì dù thứ đó người tu hành phải kiêng nay cũng nói toạc ra.
Thoạt tiên người họ Trần nói: - Tôi ước được chén một bữa thịt chó, có đủ gia vị, cúc tần, riềng lát, rau mùi, húng chó. Người họ Trần đang kể lể thì người họ Hoàng ngắt lời: - Tôi ước một bữa thịt trâu. Trâu càng già, càng dai, nhai càng đã răng.  Người họ Lý nói tiếp luôn: - Tôi muốn bữa thịt gà luộc có lá chanh. Sau cùng ni cô họ Lắm nói: - Tôi chỉ thích một bữa rau luộc cho mát ruột và húp cho mát thôi.
Sáng dậy, khi mỗi người đang chuẩn bị xuống đèo đi tiếp, thì có một ông già râu tóc bạc phơ chống gậy từ chân dốc đi lên, vẻ mặt mệt nhọc, nhưng cất giọng sang sảng nói: - Các ngươi ở đâu đến đây?
- Thưa cụ! Bầy tăng chúng tôi đi tìm đường lên núi Thiên Sơn để hoá Phật đấy ạ. Dám mong cụ chỉ đường giúp cho. Nghe xong câu trả lời ông già nói: - Được ta sẽ đưa các ngươi đến núi Thiên Sơn nhưng bây giờ các ngươi hãy nhổ nước bọt xuống lá cây xem đã.
Nói xong, ông già rút từ trong túi ra bốn cái lá bồ đề to như nhau, rồi lại dặt trước mặt cho từng người nhổ vào đấy. Bốn người nhổ xong, đều cảm thấy lợm giọng, ruột gan nao nao buồn nôn. Trong nháy mắt cả bốn người đều nôn thốc nôn tháo. Quái lạ là đêm hôm qua ai ước ăn gì, đều nôn ra thứ đó.
Thấy ba người nôn nào thịt gà, thịt trâu, thịt chó, duy chỉ có ni cô họ Lắm là nôn ra rau xanh. Ông già liền nói:  - Chính đây là đỉnh núi Thiên Sơn, các ngươi đã đến cõi Phật rồi. Nhưng nôn ra toàn những thứ kiêng kị, thì sao gọi là chân tu được. Các ngươi không thể hoá Phật được đâu. Rồi ông già ngoảnh lại chỉ vào ni cô họ Lắm nói: "Người này cứ theo đỉnh chóp mà lên, chớ đi xuống, sắp tới nơi rồi".
Ni cộ họ Lắm theo đường mà lên, rồi hoá thành Phật Bà Quan Âm. Phật Bà có nhiều phép lạ để trị bọn âm binh, giữ gìn phúc lành cho muôn dân. Ngày nay họ Lắm thờ Phật Quan Âm trong nhà và mỗi khi Tết đến cúng Phật Bà đều phải có một bát canh rau.
Còn ba người kia xấu hổ vì không được hoá Phật lại mất bao công sức tu thân, nên buồn rầu mà chết ở giữa đỉnh đèo. Họ chết ở nơi hoang vắng đó, chẳng có ai hay mà chôn cất, nên sau này người đời truyền nhau khi đi qua đèo đều phải mang theo nắm đất hay hòn đá ném vào chỗ đó để đắp mộ. Chỗ đất ấy người ta thường gọi là mô "Phật". Từ đó mô "Phật" ngày một cao lên và tên đèo được đổi thành đèo Phật Tử.

14. SỰ TÍCH TRÁI SẦU RIÊNG
Hồi ấy, vào thời Tây Sơn, tại vùng Đồng Nai có một chàng trai văn võ kiêm toàn. Trước cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn, chàng đã vung gươm hưởng ứng và mấy lần cầm quân khiến bọn tớ thầy chúa Nguyễn vô cùng khiếp sợ.
Hết thời Tây Sơn, chàng lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ để náu mình ẩn tích. Bổng có tin dữ loan truyền làm mọi người xao xuyến. Gia Long trở lại ngôi vua thì cũng bắt đầu giết hại những người đã từng theo Tây Sơn. Hắn dựa vào chức tước lớn hay nhỏ mà gia hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ uý, phân xuất thì đánh gậy, phạt roi… Dân trong xóm sẵn lòng quý mến khuyên chàng trốn đi thiệt xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng trong đó có một chiếc thuyền nhỉ có mui lồng để tiện đi lại. Và không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng đã ra đi. Mượn dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào phía nam đất nước.
Một hôm, chàng cấm sào đậu ghe, lên bờ mua sắm thức ăn. Bước vào một cái quán bên đường, chàng thấy có một bà già ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi về đến đây thì con bệnh nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng ra sức cứu chữa, cuối cùng đã giúp cô gái hồi phục được sức khoẻ. Và sẵn thuyền chàng đưa họ về tận nhà.
Nàng là gái chưa chồng, đã đến tuổi quay xa đạp cửi, lại có vẻ đẹp thuỳ mị, đã làm xao xuyến chàng trai ở tận nơi xa đến ngụ tại nhà nàng.
Sau một tuần chay tạ ơn trời phật, mẹ nàng cho biết là phật báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui vẻ nhận lời và bắt đầu cuộc sống mới ở nơi đất khách quê người. Từ đây chàng có chỗ ở nhất định. Nhà nàng làm ruộng, nuôi tằm. Những việc đó chàng làm được cả.
Mười năm trôi qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quít bên nhau tựa đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ, chàng trồng thứ cây ăn trái gọi là cây “tu-rên” mà ở xứ sở chàng không có. Lần ấy gặp kỳ trái chín đầu mùa, vợ chàng hái xuống một trái, tách vỏ đưa cho chồng ăn. Trái “tu-rên” vốn có mùi vị đặc biệt. Thấy chồng nhăn mặt, người vợ nói:  - Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
 Không ngờ, một năm kia, vợ chàng đi chùa dâng hương về bị cảm. Chàng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu được. Cái chết chia rẽ vợ chồng chàng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tình thương sâu sắc khiến chàng thấy như hồn vợ luôn ở bên mình và chàng hứa trọn đời sẽ không lấy ai nữa. Hai người vẫn thường gặp nhau trong mộng
Sự truy nã và trả thù của Gia Long đã bớt, bà con ở quê nhắn tin bảo chàng về. Những người ở quê vợ cũng muốn chàng đi đâu đó ít lâu để giải khuây. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ chàng báo mộng cho biết sẽ theo chàng đến sơn cùng thuỷ tận. Năm ấy cây “tu-rên” chỉ có một trái. Và trái “tu-rên” đó tự nhiên rụng xuống giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về quê nhà.
Chàng trở lại với nghề cũ. Nhưng nỗi buồn nhớ vợ canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng ươm hột cây “tu-rên” rồi đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đây ngoài việc dạy học, chàng còn có công việc lo chăm sóc cây quý.
Những cây “tu-rên” của chàng ngày một lớn khoẻ. Lại thêm mười năm đã trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng con người ấy trong lòng bỗng thấy như trẻ lại khi thấy những cây quý ấy bấy lâu mình chăm sóc nay đã bắt đầu đơm hoa kết trái. Ông sung sướng mời  bà con lối xóm tới dự đám giỗ vợ và nhân đó thưởng thức một thứ trái lạ lần đầu tiên trong vùng này.
Khi bưng những trái “tu-rên” đặt trên bàn, mọi người thấy mùi khó chịu. Nhưng chủ nhà biết ý nói trước:
Nó xấu xí, mùi vị chưa quen, nhưng những mùi của nó lại đẹp đẽ thơm thoa như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ…Anh vừa nói vừa tách những trái “tu-rên” ra từng múi, rồi chia cho mọi người cùng nếm. Đoạn anh kể hết mối tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay mà anh vẫn giấu kính trong lòng, Anh kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khoé mắt của con người chung tình ấy long lanh ở hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi “tu-rên” đang cầm trên tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi “tu-rên” như vôi gặp nước và thấm vào múi như giọt nước thấm vào đất.
Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng dưng không bệnh mà chết. Từ đấy mỗi lần dân làng ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến người đàn ông chung tình. Họ gọi “tu-rên” bằng hai tiếng “sầu riêng” để ghi nhớ mối tình chung thuỷ của hai người.

15. SỰ TÍCH CÂY XẤU HỔ
Ngày xưa, ở làng nọ có người phụ nữ hiền lành như cục đất. Bà chăm chỉ làm ăn nhưng vẫn nghèo. Sống một mình bà buồn lắm. Nhiều lần bà cầu nguyện Giàng cho một đứa con để hôm sớm tuổi già.
Một hôm trên đường từ rẫy về, bà bị lạc đến một khu rừng lạ. Đói và khát khô cổ mà bà vẫn chẳng tìm ra thức gì để ăn và uống cả. Bà lả người đi. Khi tỉnh dậy, bà thấy trước mặt có một lùm cây: lá xanh chi chít, hoa vàng li ti chen lẫn những chùm trái đỏ mọng. Bà cảm thấy thèm, bèn hái trái ăn. Trái ngọt lịm làm bà không còn thấy đói và khát nữa. Đầu óc bà dường như tỉnh táo hơn. Và bà tìm được lối về nhà. Hôm sau, bà thấy người mình khang khác. Bụng bà cứ ngày một to dần. Đúng mười hai mùa trăng, bà đẻ ra một đứa bé gái. Lũ làng nhìn bà bằng con mắt khinh bỉ. Có người độc miệng nói bà đẻ ra ma núi. Bà vẫn cắn răng chịu đựng. Mặc dù nghèo khổ nhưng bà chăm đứa nhỏ rất chu đáo.
Đứa con gái càng lớn càng rực rỡ và xinh đẹp như đoá hoa trắng trong rừng. Ngày ngày nó vào rừng, ra suối bắt bướm, hái hoa dong chơi, không chịu giúp mẹ. Bà mẹ ngày càng già yếu nhưng vì thương con bà phải cố gắng làm lụng vất vả để có cái ăn cái mặc cho con. Rồi một hôm, bà mẹ nhiễm bệnh và qua đời. Lũ làng xúm xít lo chôn cất bà mẹ và không tiếc lời quở trách đứa con tệ bạc. Quen thói lười biếng nên khi bà mẹ chết đi, đứa con không còn ai chăm sóc nữa, hàng ngày nó tha thẩn tấm thân gầy còm đi ăn xin hết bếp nhà này đến bếp nhà khác. Mới đầu, người ta còn thương hại cho ít nhiều để nó sống qua ngày. Xin hoài người ta cũng chán. Đứa con đến đâu xin xỏ, thiên hạ cũng dè bỉu, mỉa mai. Đến bây giờ nó mới biết ăn năn, hối lỗi. Nó cảm thấy thương mẹ vô cùng và xấu hổ với dân làng. Nó chạy ra mộ mẹ, nằm khóc nức nở và luôn gọi: “Mẹ ơi, tha lỗi cho con!”.
Rồi từ đêm đó, không ai gặp cô bé nữa, chỉ thấy bên mộ bà mẹ mọc lên một cây lạ, lá nhỏ li ti, mỗi khi có ai vô tình hay cố ý đụng đến, cây chợt rùng mình, khép nép như cố né tránh mọi người. Người ta gọi đó là cây xấu hổ.

16. SỰ TÍCH CÂY NHỌ NỒI
Ngày xưa ở một làng kia có một cô gái rất xinh. Cô có dáng người mảnh mai, đặc biệt cô có đôi mắt xanh biếc, dài và nhọn. Cô lại khéo tay, chỉ là quần áo nâu sòng, nhưng cô may rất đẹp. Cô làm lấy những chiếc cúc trai tròn, nhỏ, có những nét chạm, khắc tinh vi. Mỗi chiếc cúc lóng lánh trên áo như một bông hoa phát sáng. Người ta bảo cô mát tay. Khóm rau nào cô trồng cũng xanh mơn mởn. Con gà mái nào cô nuôi cũng đẻ trứng rất sai... Cô lại sẵn lòng chăm sóc, chữa bệnh cho những người đau ốm. Một chút nước suối cô vỗ lên người già, người già lui cơn sốt nóng. Một nắm lá đắp cho trẻ em, trẻ em hết cơn sài đẹn.
Một hôm, có giặc ở nước láng giềng kéo sang xâm lược. Cái làng nhỏ của cô ở gần biên giới bị giặc tràn qua. Chúng chặt phá vườn cây, châm lửa đốt nhà. Tàn lửa bay đầy trời như những đám mây đen dữ tợn. Những chiếc khung nhà rực hồng như làm bằng sắt nung đỏ. Trai làng ra trận hết. Cô gái cùng với một số bạn bè đưa các cụ già và trẻ em đi lánh giặc. Giặc đi qua rồi, một mình cô quay về thu dọn đồ đạc cho xóm làng. Cô đi dập tắt những đám lửa, bới tro than nhặt nhạnh những đồ ăn, thức đựng còn sót lại, bắt nhốt những con lợn, con gà sổng chuồng, chạy lạc. Cô làm suốt ngày không nghỉ, đầu tóc, áo quần phủ đầy tro than…
Trời về chiều. Lúc ấy, có một đoàn quân của ta, người ngựa kéo đến, tìm đường đuổi theo quân giặc. Chính bọn giặc bị quân ta đánh tan, sống sót vừa chạy qua đốt phá làng này. Đoàn quân của ta do một vị tướng trẻ tuổi chỉ huy. Tướng quân mặc áo đen, cưỡi một con ngựa bóng loáng như một tầm lĩnh. Bụi ở vó ngựa bốc lên, trông như ngựa đi trên mây. Tướng quân đầu quấn chiếc khăn xanh màu lá mạ, lông mày đen như hai vết mực tàu đậm nét. Mặt ông vuông, quai hàm bạnh ra như góc chiếc bánh chưng bẻ lá dừa. Hai hàm răng ông nghiến chặt như đang nén một nỗi đau ghê gớm. Mà quả vậy. Kìa, vai áo ông xẻ toang một bên, cánh tay trái của ông để trần, một dòng máu chảy dài từ trên xuống. Và, gần vai, một mũi tên cắm chặt, chiếc vè tên chồng lên như một cái đuôi cá! Thì ra tướng quân vừa bị một mũi tên của kẻ thù bắn trúng, ông mải đuổi tàn quân giặc nên chưa kịp rút ra.
Đến làng này, tướng quân dừng ngựa. Ông cho gọi quan thầy thuốc đến chữa vết thương. Quan thầy thuốc là một vị lão y, tóc bạc, nhưng mắt sáng lạ thường. Lão y đã từng nhiều phen đi chiến trận, đã cứu cho nhiều tướng sĩ bị thương. Lão y chằm chằm nhìn vào mũi tên cắm vào bắp thịt tướng quân. Mỗi nhịp thở của vị tướng máu lại tràn ra xối xả trên cánh tay, máu lại thấm cả vào những thớ tre và dâng lên đỏ cả nửa cây tên. Lão y nhìn thẳng vào mặt tướng quân: - Thưa tướng quân, nếu tôi có thể chặt cánh tay tôi lắp vào cánh tay người, nếu tôi có thể trút cạn dòng máu của tôi sang cơ thể người, tôi không ngần ngại. Còn cây tên này, nếu nhổ ra thì mũi thép sẽ mắc lại, không có cách nào lấy ra được.
Lão y cho báo tin khắp làng ai có thể chữa được vết thương cho tướng quân, sẽ được thưởng rất hậu. Quân lính đi gọi khắp làng, không tìm được ai. Tìm mãi chỉ thấy một cô gái đang dọn dẹp giữa đám tro than, một cô gái dáng thon thả, khắp người đầy than bụi, mặt mũi đen nhẽm như trát nhọ nồi, chỉ có hai con mắt xanh biếc và hàng cúc áo trước ngực lấp lánh. Đó chính là cô gái mát tay.
Tướng quân lúc này đã quá mệt. Mặt ông tái dần, mắt ông nhắm lại. Nhưng giọng nói trong như tiếng đàn bầu của cô gái đã làm ông tỉnh dậy. Ông hé mắt, đôi mắt xanh biếc của cô gái làm ông như thấy một bầu trời xanh dịu mát, có làn gió thổi hiu hiu. Quan thầy thuốc già bảo cô gái: - Em có biết quanh đây ai là người giỏi thuốc, xin mách giùm ta.
- Dạ, xóm làng lánh lạn hết, còn mình cháu. Xin cho cháu được xem thử vết thương của tướng quân.
Cô gái vội vàng rửa tay. Hai bàn tay được rửa sạch bỗng hiện ra trắng ngần, những ngón tay dài mềm mại. Cô gái vừa đặt bàn tay lên vai thì tướng quân bỗng rùng mình thấy khắp người mát rượi. Vết đau vừa rồi cháy bỏng và giật đùng đùng giờ đây dịu hẳn và cơn sốt lùi hẳn đi như cơn oi bức được trận gió nồm thổi bạt. Tướng quân từ từ mở mắt và nở một nụ cười. Những ngón tay cô gái nhẹ nhàng lướt trên bắp vai tướng quân xoa nhẹ và từng li, từng li một đẩy được mũi tên trồi lên dần dần và thoắt một cái, cô đã rút được cây tên ra cả ngạnh. Tướng quân nghiến răng ghìm một tiếng rên rồi bỗng thở phào, sắc mặt ông hồng hào trở lại. Bàn tay cô gái áp chặt cho vết thương khép miệng và dòng máu từ từ cầm lại…
Tướng quân cảm thấy mình khoẻ hẳn lên. Trời vừa tối thì đoàn quân lại lên đường để kịp đuổi giặc. Tướng quân ra đi chỉ còn nhớ cô gái mặt nhọ nhem có đôi mắt dài xanh biếc và hàng cúc áo bằng trai như những bông hoa trắng nhỏ. Mọi người quên không hỏi tên cô và dọc đường khi nhắc đến, ai cũng gọi cô là “cô gái nhọ nồi”.
Mấy năm sau, giặc xâm lược đã bị đánh tan, tướng quân mới có dịp trở lại cái làng nhỏ kia. Tướng quân hỏi thăm cô gái nhưng không biết tên cô là gì. Chỉ thấy xóm làng kể lại rằng có một cô gái mát tay hết lòng chăm sóc cho mọi người đau, ốm. Mấy năm qua, giặc nhiều lần tràn qua cái làng vùng biên giới này. Cô gái đã cứu chữa cho nhiều bà con giữa mũi tên hòn đạn của giặc. Và trong một lần xông xáo giữa trận tiền, không may cô đã hy sinh.
Tướng quân thầm nghĩ đến cô gái chữa vết thương cho mình ngày trước. Bỗng ông thấy, bên bờ rào, ngay dưới chân mình, có một cây nhỏ, thấp độ gang tay. Lá của cây xanh biếc, nhọn dài, như con mắt rất thân thương đang nhìn mình. Mấy chiếc hoa trắng nhỏ xíu như những chiếc khuy trai lấp lánh. Ông bồi hồi đứng hồi lâu. Một cụ già nói với tướng quân: - Đó là cây cỏ nhọ nồi. Lá cây đắp vết thương là cầm máu ngay tức khắc. Chính cô gái mắt xanh đã ngã xuống nơi này, thưa tướng quân.

17. SỰ TÍCH CON BÌM BỊP
Ngày xưa, có một thiếu nữ con nhà khuê các, không hiểu vì duyên cớ gì mà cạo đầu đi tu rồi lặn lội qua Tây phương tìm Phật. Trải qua rừng sâu núi hiểm, thân gái một mình, nàng chịu biết bao gian nguy cực khổ. Thấy nàng mộ đạo, đức Thích Ca hoá ra một người ăn xin để thử lòng nàng. Người ăn xin ấy nhờ nàng cho gói cơm khô duy nhất của nàng mang theo để ăn cho đỡ đói. Nàng cảm cảnh nghèo khổ của người ăn xin, bèn niềm nở cho cả gói cơm khô của mình. Phật động lòng nên trước khi từ biệt, có truyền cho nàng bốn câu kinh và dặn khi nào gặp tai nạn thì niệm lên, tự nhiên sẽ gặp sự may mắn.
Một hôm, trời đã về chiều, chân mệt mỏi, nàng lạc vào khu rừng âm u. Bỗng trước mặt xuất hiện lờ mờ một ánh đèn trong túp lều tranh bên sườn vắng. Nàng hối hả rảo bước đến gõ cửa xin trọ lại qua đêm. Có tiếng lanh lảnh trong lều đưa ra, rồi tiếp đến tiếng cười ròn rã. Mụ Chăn vốn hay ăn thịt người nên khi đánh hơi thấy nàng thì vội há nanh nhọn hoắt lên cười để toan nuốt sống nàng. Nàng bèn niệm bốn câu kinh: Thiên la thần, địa la thần. Nhân li nạn, nạn li thân. Nhất thiết ta ương, hoá vi thần. Nam mô A di đà Phật! Tức thì mụ Chăn sợ hãi đến trước mặt nàng mà năn nỉ. Liền đó, ở ngoài có tiếng gào thét làm rung chuyển cả núi rừng. Đó là con của mụ Chăn sắp về, cũng nghiền thịt như mẹ nó. Chăn con vừa bước vào nhà đã đánh hơi mùi thịt. Khi thấy nàng núp trong buồng, Chăn con lôi ra toan nuốt sống. Nàng nhắm mắt đọc kinh. Bỗng Chăn con thấy ruột gan như bị cào xé, tay chân rụng rời. Chăn con năn nỉ nàng, rồi sau khi nghe nàng thuyết pháp, Chăn con muốn chuộc tội đầy rẫy của nó, bèn móc ruột, lấy trái tim nhờ nàng đem đến dâng Phật, rồi ngã lăn ra chết.
Sáng sau, nàng buộc quả tim vào gánh hành lý rồi nhằm hướng Tây mà đi. Đi độ năm bảy ngày, quả tim sình lên mùi thối, nàng bèn vứt nó vào bụi rậm. Qua nhiều ngày vất vả, ni cô trông thấy trước mắt ánh sáng chói loà trên nóc điện vàng xứ Phật. Mặc dầu gần đuối sức, ni cô bước mau, tới gần thành cực lạc. Đến cửa vào đất Phật, ni cô đã kiệt sức, đưa tay lên gõ, cửa vẫn khép chặt. Gõ mạnh thì thấy một vị Bồ tát hiện ra trước mặt, hỏi: "Nam mô A di đà Phật! Chúng sinh lòng tưởng tới Phật mới xa xôi lặn lội tìm tới Tây phương. Vậy chẳng hay dọc đường có ai nghĩ tới Phật nữa không?". Ni cô bèn đem chuyện Chăn con  gửi trái tim mà kể lại. Bồ tát bảo rằng cửa Phật chỉ mở cửa khi nào ni cô đem đến trái tim đã hứa dâng cho Phật. Nghe vậy, ni cô khóc nức nở, thưa rằng mình không còn sức để tìm trái tim đã vứt dọc đường. Bồ tát nói rằng: "Nếu vậy ta sẽ ban cho cô đôi cánh để bay cho khỏi mệt". Thế rồi Bồ tát niệm một câu kinh, tức thì ni cô biến thành một con chim. Cô gái đang đội mũ đen ni cô nên đầu hoá đen, mắt vừa khóc hoá đỏ, bộ quần áo nâu thành bộ màu đà.
Từ đó con chim bay đi tìm trái tim, hết lùm nọ đến bụi kia, thình thoảng lại than vãn: "Tội nghiệp! Tội nghiệp!" mà không bao giờ kiếm ra vật Chăn con đã giao cho nàng dâng lên Phật. Do tiếng kêu của con chim màu đà, người ta đặt tên cho nó là bìm bịp.

18. SỰ TÍCH CON CÀO CÀO
Cào cào xưa kia là một cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện nhưng vì nhà nghèo nên cô chưa được thỏa ý muốn. 
Một hôm, nhà vua bị lạc mất cô công chúa bèn sai quân lính đi tìm. Lúc đó cô gái đẹp đang kiếm củi dưới gốc cây sấu lớn bên đường. Tốp lính thứ nhất đi qua, hỏi rằng: - Cô có thấy công chúa qua đây không? Cô gái nhìn thấy toán người này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng bay trong gió như tấm lụa màu hồng. Cô thích quá liền bảo: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi sẽ chỉ cho. Tốp lính cho cô một chiếc áo rồi đi theo hướng cô đã chỉ.
Lúc sau có tốp lính khác chạy qua, mặc toàn áo xanh màu lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi: - Cô ơi có thấy công chúa chạy qua đây không? Cô gái nghĩ: "Tốp trước đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh.Ta xin một cái mặc cho đẹp". Nghĩ vậy, cô bảo họ: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi sẽ chỉ cho. Tốp lính bảo nhau cho cô gái cái áo rồi họ tiếp tục đi theo đường cô chỉ. Ðược hai cái áo, cô thích quá, thầm chắc rằng về nhà ai cũng phải khen.
Khi cô chuẩn bị về toán lính nữa mặc toàn áo màu trắng như nước suối. Họ thấy cô gái lại hỏi về công chúa. Quen như hai lần trước, cô đòi một cái áo rồi mới chỉ đường. Thế là cô có ba cái áo: một hồng, một trắng, một xanh. Cái nào cũng đẹp.
Cô khoác cả ba cái vào, ngắm nghía, nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có tiếng sét nổ dữ dội, làm một cành sấu rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết, hóa thành con cào cào, suốt ngày tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu cho đến tận bây giờ.

19. SỰ TÍCH HOA CỎ MAY
Ngày xửa ngày xưa, tại một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác. Có không ít những người môn đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng. Mối tình của họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng.
Vì quá yêu nhau, họ bàn bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Họ chấp nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời. Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng, tự dày vò, trách cứ bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn.
Người con gái ở nhà dệt vải, trồng rau, nuôi trong mình niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng khiến nàng quyết định đi tìm chàng với ước mong về một ngày mai đoàn tụ.
Nàng ra đi, đi đến đâu cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao kiếm tìm hạnh phúc.
Thế nhưng tình yêu, niềm tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay. Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng.
Cảm kích trước tình yêu son sắt thủy chung của cô vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng. Chị gió tốt bụng cảm động trước tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các nẻo đường gần xa. Dù người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng.

20. SỰ TÍCH CON MUỖI
Ngày xưa, có một người nông dân hiền lành tên là Ngọc Tâm, có một người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp. Khác hẳn với tính tình đơn giản của chồng, quanh năm chăm chú làm ăn, người vợ lười biếng xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng.
Trong lúc hai vợ chồng tưởng chung sống với nhau đến răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra chết. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản, mua một chiếc thuyền chở quan tài vợ thả bồng bềnh trên mặt nước.
Một buổi sớm mai thuyền đi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy làm lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng chừng núi, Ngọc Tâm gặp một ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc đang lần bước. Thấy người có vẻ tiên phong đạo cốt, đoán chừng là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi thiết tha xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu. Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm hồi lâu rồi nói:  - Ngươi còn nặng lòng vương vấn trần ai, chưa thoát được vòng tục lụy... Ta có thể giúp cho ngươi đạt ước vọng song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận! Ngọc Tâm theo lời vị thần, dở nắp quan tài vợ ra, chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào thi thể Nhan Diệp, thì người đàn bà từ từ mở mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài.
Trước khi từ giã, vị thần bảo người đàn bà vừa sống lại: - Đừng quên bổn phận của người vợ... Hãy luôn luôn nghĩ đến lòng thương yêu chung thủy của chồng... Chúc cho hai vợ chồng được sung sướng.
Trên đường về quê, người chồng hối hả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền ghé bến, Ngọc Tâm lên bờ mua sắm thức ăn. Trong lúc đó, có một chiếc thuyền buôn lớn đậu sát bên cạnh, chủ nhân là tay lái buôn giàu có chú ý đến nhan sắc lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà rồi ra lệnh cho bạn thuyền dong hết buồm chạy.
Ngọc Tâm quay về thấy mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, ngày đêm đi tìm kiếm, một tháng sau mới gặp. Nhưng người đàn bà đã quen với lối sống xa hoa bên cạnh tay lái buôn giàu có, quên cả tình cũ nghĩa xưa. Thấy rõ bộ mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan Diệp: - Mình được tự do bỏ tôi song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống lại. Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa bắt đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.
Người đàn bà nông nổi, phụ bạc chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày đêm đuổi theo Ngọc Tâm, tìm cách ăn cắp ba giọt máu để trở lại làm người. Con vật này luôn luôn kêu than với chồng cũ, như van lơn, như oán hận, như tiếc thương, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở rất nhiều, người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần, người ta không tiếc tay đập cho nó chết.
21. SỰ TÍCH CON TẰM
Ngày xưa, có người con gái tên là Thị Tơ, cha mẹ đều mất sớm, phải đem thân đi ở cho một bà goá giàu có. Tính tình bà chủ quá ác nghiệt khiến Thị Tơ phải trốn chạy vào khu rừng, nghĩ bụng thà chết bởi thú dữ còn hơn ở mãi trong cảnh bị hành hạ hàng ngày.
Thị Tơ chạy được một quãng khá xa, phần bấy lâu nay ăn uống thiếu thốn đuối sức, phần vất vả băng rừng lội suối, nên ngã ngất nằm trên một tảng đá. Thần núi ở đây thấu rõ tình cảnh đáng thương của cô gái hiền lành thơ ngây mới theo dõi che chở.
Khi Thị Tơ bừng mắt tỉnh dậy tưởng mình như qua một giấc chiêm bao. Cảnh vật xung quanh khác hẳn lúc nàng ngất đi. Nàng nhìn thấy mình nằm trong một cái động, rêu trải mềm dịu như nhung, dưới chân một dòng suối trong chảy qua kẽ đá êm đềm như tiếng nhạc. Trước mắt nàng, vừa tầm tay với vô số những trái cây ngon chín đỏ lủng lẳng ở dây leo, buông xuống như rèm che cửa động. Đang đói khát sẵn, nàng đưa tay lên hái ăn ngấu nghiến ngon lành.
Sau bữa ăn thanh đạm ấy, trong người nàng cảm thấy khoẻ nhẹ khác thường. Thần núi hiện hình một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc bước đến gần nàng. Trông thấy cụ già phúc hậu, Thị Tơ kính cẩn vái chào. Ông lão làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi nàng ở đâu đến đây, làm sao lạc lõng một mình giữa rừng núi vắng. Thị Tơ kể lại đầu đuôi về kiếp sống đày đoạ của mình. Ông lão lắc đầu thương cảm rồi khuyên nhủ:
- Cháu trốn đi là phải, cháu cứ ở lại đây, có lẽ được yên thân hơn, có lão trông chừng cho.
- Thưa cụ, cụ là ân nhân của cháu, xin cụ cho cháu được biết cụ ở đâu?
- Cả khu rừng núi này là của lão. Lão sống bằng nghề đốn củi nên nay đây mai đó luôn. Cháu đừng lo ngại, thỉnh thoảng lão lại thăm. Nếu có việc gì cần đến lão, cháu cứ tới mỏm đá này gọi "Ông Tiểu ơi" là có lão đến ngay.
Sáng hôm sau, ông lão trở lại cho Thị Tơ một bọc quần áo mới để thay bộ đồ cũ rách nát. Từ đó, Thị Tơ sống một cuộc đời thanh nhàn, tự do, không phải lo đến ngày mai, không rầu buồn nghĩ đến ngày qua. Dần dần, chim chóc, các thú trong rừng đến làm quen với nàng, ngày ngày mang lại cho những trái cây ngon ngọt để dùng làm thức ăn. Sống như thế, nhan sắc Thị Tơ ngày một rạng rỡ như một đoá hoa rừng đang độ tốt tươi.
Vào thuở bấy giờ, ở Thượng giới có một vị thần đam mê khoái lạc, sau khi biến cõi Thiên đình thành một chốn trác táng rồi chán những lạc thú trên trời, thần tìm xuống trần gian. Nhờ phép siêu phàm, vị thấn biến hoá ra đủ mọi hình dạng để cám dỗ đàn bà con gái. Thần hiện ra khắp nơi, khi là vị quan trẻ đẹp, tài ba lỗi lạc, khi là một thanh niên tuấn tú, phong nhã, đa tình, để lôi cuốn bao nhiêu người đẹp vào trong vòng sắc dục. Không người đàn bà, con gái nào Thần để ý đến mà tránh khỏi sức thu hút của thần để khỏi rơi vào vòng đam mê, khoái lạc... Một hôm, khi đi tìm lạc thú ở nơi thôn dã qua khu rừng hoang vắng nọ, tình cờ gặp cô gái rừng xanh đang nô đùa với bầy chim cùng muông thú. Sau phút sững sờ trước sắc đẹp của Thị Tơ, lòng dục bùng cháy lên, Thần mon men tiến lại định vồ lấy người đẹp. Một tiếng chim kêu thất thanh, cả cô gái cùng muông thú vội vàng bỏ chạy, thần ra sức đuổi theo. Thị Tơ quen sống giữa thiên nhiên nên nhanh nhẹn khác thường, chạy như gió, thần bèn giở phép phóng theo. Trong lúc thần sắp chụp được nàng thì con nai đến quỳ xuống cho Thị Tơ leo lên lưng mà thoát khỏi tay thần.
Nai đưa tới động, Thị Tơ sợ hãi không dám bước ra ngoài nữa. Nàng trèo lên mỏm đá, gọi "Ông Tiểu ơi" ba lần thì thấy ông lão hiện ra. Ông lão căn dặn nàng cẩn thận và trao cho nàng một chiếc vòng ngọc, đeo vào tay có thể muốn tàng hình lúc nào cũng được. Nhờ thế mà nàng tránh được sự săn lùng của vị thần dâm đãng.
Thấy công theo đuổi của mình không kết quả. Thần nổi giận, thề quyết bắt nàng cho kỳ được. Nhờ phép siêu phàm, thần giăng một cái lưới rộng lớn với những sợi chỉ thật nhỏ và thật chắc bao quanh cả khu rừng. Cô gái không dè chừng nên mắc vào lưới, may thay, một con bạch dương dùng ngà đâm thủng, cứu thoát nàng một lần nữa. Nàng gọi ông Tiểu đến, ông lão hiện ra khuyên nàng lần sau, có bị vướng lưới thì kêu đến tên Phật Bà Quan Âm.
Vì sợ mắc bẫy nên đã lâu Thị Tơ không dám ra khỏi động. Nhưng lòng ham muốn tự do chạy nhảy lại thúc giục nàng. Lần này nàng hướng về phía khác để tránh sự theo dõi của vị thần. Song nhờ phép thần thông, vị thần biết được thời gian nàng đi và nơi nàng đến, nên giăng lưới trước bắt được. Nhớ lời ông lão dặn, nàng kêu đến tên Phật Bà Quan Âm, thì nhiệm màu thay, tất cả các sợi chỉ đều rút gọn lại thu tròn bằng một hạt đậu lạc. Trong lúc nàng mở miệng gọi đến lần thứ hai thì thấy chỉ theo hơi nàng hút vào trong bụng.
Thấy phép tắc thần thông bị cô gái thu mất, vị thần nổi trận lôi đình nghĩ cách trả thù. Lập tức thần gọi ngay Thiên Lôi ở dưới quyền mình trước kia đến. Thần sét rủ các bạn là thần Gió, thần Mưa, thần Sấm chớp cùng đến ra mắt. Vị thần mê gái liền nhờ Thiên Lôi giúp mình đánh cho tan tành quần áo cô gái đang nô đùa với bầy thú giữa rừng kia, song đừng làm hại đến người nàng. Thần Sét vâng lời, rồi chỉ trong nháy mắt, giữa lúc cô gái đang vuốt ve mấy con nai con bên bờ suốt, thì mây đen kéo đến kín trời, gió nổi lên dữ dội, sấm dậy ầm ầm, chớp nhoằng chằng chịt, mưa tuôn xối xả. Thị Tơ bỏ chạy về động, bỗng một tiếng sét nổ vang trời rung chuyển cả núi rừng nhằm bổ xuống người nàng. Thị Tơ không hề hấn gì, song lớp quần áo che đậy người nàng đã tan biến mất. Vị thần đứng trên mỏm đá cao chứng kiến cảnh tượng ấy, phá lên cười đắc thắng, rồi chạy về phía người đẹp. Nhưng thần lại thất vọng lần nữa, vì chiếc vòng ngọc đeo ở tay Thị Tơ đã giúp nàng thành ra vô hình.
Đêm xuống, Thị Tơ khó nhọc mò về đến trong động, nàng thẹn thùng với tất cả xung quanh, tưởng chừng như vật gì cũng có mắt đang tò mò nhìn mình. Trần truồng, nàng không dám gọi đến ông lão hay lũ thú rừng quen biết đến cứu giúp. Nàng lui vào cuối động, rét run lẩy bẩy. Tấm lưới thần đã nuốt vào bụng làm cho nàng khó chịu, nôn ra thành một đống chỉ mềm dịu, bền chắc. Lạnh quá nàng quấn đống chỉ vào người thành một tấm mềm đắp ấm áp. Thế rồi nàng dần dần tắc thở trong đống chỉ êm dịu ấy. Trước khi linh hồn rời khỏi thể xác, nàng nghĩ đến những kẻ nghèo nàn, khốn khổ, thiếu quần áo che thân, phải chết lạnh lẽo như nàng, tự nguyện sẽ giúp cho họ may mặc, đem những sợi chỉ này dệt thành quần áo. Vì thế mà nàng chết đi hoá thành con tằm.
Để thực hiện lời nguyện ước, hồn nàng mang theo đống tơ chỉ đến giăng ở một ngọn cây dâu trong vườn Thượng uyển, nơi Hoàng hậu cùng vua thường tới ngự mỗi chiều. Khi Hoàng hậu ngang qua, hồn nàng mới thả ra các sợi tơ vàng óng ánh tung bay trong gió. Hoàng hậu ngạc nhiên hứng lấy, thấy chỉ tơ đẹp, ánh vàng, mềm dịu, bứt thử mới hay là sợi tơ trông mong manh mà dẻo chắc lạ thường. Dâng lên vua xem, Hoàng hậu ước mong được mặc một chiếc áo dệt bằng những sợi tơ vàng đẹp ấy.
Nỗi mong ước của Hoàng hậu được vua sai thực hiện. Tất cả những sợi tơ vàng trong vườn Ngự Uyển đều được thu góp lại, bao nhiêu thợ dệt tài giỏi trong nước được triệu vào cung, rồi chẳng mấy chốc, một tấm lụa vàng cực kỳ mềm dịu, bền chắc, rạng rỡ dâng lên trước mắt vua. Hoàng hậu vui mừng sai cắt may ngay cho mình một chiếc áo dài để hôm sau ra Triều ngự cạnh vua. Cả triều đình sửng sốt trước vẻ đẹp của chiếc áo mới làm, tăng thêm bội phần nhan sắc của người mặc. Vua mới cho triều thần hay là chính Hoàng hậu đã khám phá ra thứ chỉ tơ quý lạ đó, cho phép các quan cùng nhà giàu có trong nước được bắt chước Hoàng hậu may mặc thứ hàng mới kia.
Từ đó, nghề trồng dâu, nuôi tằm bắt đầu nảy nở, đáp lại nguyện vọng thiết tha của cô gái quê mùa Thị Tơ.

22. SỰ TÍCH CON KHỈ
Ngày xưa có một người con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày, lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại, trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói. Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với trạng mạo một ông cụ già. ạng cụ có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực nước lên cho ông già giải khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn, bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về. Lần sau ra giếng, cô lấy cơm trong thùng đưa cho ông già và nói: - Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo nàng: - Hồi nãy làm sao con khóc? Cô gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.  - Ta là đức Phật - ông cụ nói tiếp - ta thấy con có lòng tốt. Nếu con muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần áo cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tí. Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ đưa xôi thịt ra mời tới tấp: - Này cụ xơi đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với!
Đức Phật cũng bảo họ lội xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước. Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn: "Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!". Nhưng lại có những tiếng khác: "Đánh cho chết chúng nó đi! Sợ gì". Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại. Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng.
Từ đó, cô gái cùng với số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải do chúng để lại. Lại nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về, hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng. Họ bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó chúng kệch không dám về nữa.
Trong những khi lên rừng hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.

23. SỰ TÍCH CÁ HE
Ngày xưa, có một nhà sư trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau ba năm khổ công tu luyện, sư thuộc tất cả kinh kệ nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Sư bụng bảo dạ: "Phải đến đất thánh một phen mới có hy vọng thành Phật". Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Đường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó chưa có cách nào cho thuận lợi. Việc giao thông hầu hết là bằng đường bộ, mà đi bộ thì thật là muôn vàn nguy hiểm. Nhưng nhà sư trẻ tuổi quả quyết nhắm hướng Tây tiến bước.
Cuộc hành trình đã được năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt rét, nhưng chàng vẫn cứ tiếp tục đi thăm đất thánh.
Một hôm, sư đến một khu rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư chưa kịp xin ngủ nhờ một đêm, nhưng bà cụ vừa thấy khách là xua tay rối rít: - Đi mau lên! mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng. Sư đáp: - Tôi bây giờ thật kiệt sức, không thể nào bước được nữa. Nếu không cho nghỉ thì tôi cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi.
Bà cụ bảo: - Chao ôi! Con ta vốn là Ac-Lai hay ăn thịt người, cố đi nhanh lên bây giờ nó sắp về rồi đó. Nhưng sư đã vứt tay lải, nằm vật xuống đất, hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo y phải cố giữ cho thật im lặng để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn bà cụ chất củi phủ lá thật kín đáo.
Trời tối hẳn thì Ac-Lai về đến nhà, tay sách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi. Hắn nói: - Có mùi thịt, mẹ ạ! Mẹ hắn đáp: - Thì chả là thịt mày mang về là gì? Hắn nói:- Không! Con biết rõ lắm có thịt người! Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư đang bất tỉnh từ dưới hầm. Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ac-Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát: - Mày đi đâu? Sư nhìn thấy hắn không khác gì người thường bèn tỉnh táo đáp: - Tôi đi tìm Phật. - Tìm để làm gì?
Sư bây giờ mới rõ mục đích của mình. Rồi luôn miệng sư tuyên truyền đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi, nói mãi, kể bao nhiêu ngày gian khổ của mình dọc đường. Và niềm mong muốn nhìn mặt đức Phật để được thành đạo. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ac-Lai đều cảm động đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết họ cũng sẽ chở nên "vô sinh vô diệt", sẽ sống một đời sống vô cùng sung sướng trên Niết Bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ac-Lai rơi xuống sàn. Những đường nhăn hung ác lúc này dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp sửa lên đường thì mẹ con Ac-Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiễn sư đi qua một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ac-Lai hỏi: - Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp: - Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là đủ. Sư không ngờ Ac-Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói: - Nhờ hoà thượng dâng hộ lên đức Phật. Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ và Ac-Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng, sư ta đành nhìn vào cặp mắt của Ac-Lai gật đầu nhận lời, rồi gói bộ lòng của người đáng thương đó lại và quảy lên đường.
Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm chấm dứt, để lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui một chút nào. Món lễ vật của đức Phật đè nặng lên vai, nếu chỉ có thế thì không có gì là ngại cho lắm. Khổ một nỗi là mùi thối trong bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà mùi nó vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm "Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình". Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vất bộ lòng Ac-Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc, nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên thắc mắc vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: - "Còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả". Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên trên cao, sư thấy đức Phật ngự giữa toà sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa như hai mẹ con Ac-Lai đã thành chính quả Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng thẹn thùng vô kể.
Nhà sư sau đó lại trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông và sâu kín, nhưng cũng cố lặn ngụp để mong lấy lại món quà dâng Phật mà Ac-Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có thể làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ac-Lai và hy vọng gần gũi toà sen đức Phật. Sư bơi lên lặn xuống mãi, sau đó sư hoá làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá he, cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến nay dòng dõi loài cá đó, con nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư mà vẫn làm cái việc của nhà sư nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu nghỉ.

24. SỰ TÍCH CHIM TU HÚ
  Xưa, có hai nhà sư là Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian tu luyện thì bỗng một hôm Năng Nhẫn được đức Phật độ trì cho thành chính quả.
  Bất Nhẫn thấy mình tu hành không kém gì bạn mà không được hưởng cái may mắn sớm như bạn thì rất buồn bực. Chàng đến toà sen hết sức kêu nài với đức Phật bầy tỏ lòng trung thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng: ''Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo, lại là người trong sạch thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà ngươi vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ vẻ nhẫn nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kì rồi sẽ theo bạn vẫn chưa muộn".
Bất Nhẫn nghe lời bèn lên núi chọn một gốc cây, bắt chước ngồi xếp bằng tu theo lối trường định. Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù có phải thế nào cũng không chịu dậy.
Và từ hôm đó Bất Nhẫn như một vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp mình chàng. Những con thú cà vào thân chàng, những con chim ỉa phẹt lên đầu chàng, chàng đều không bận tâm. Chàng chỉ tâm tâm niệm niễm những nghĩa lý của đạo Phật.
Cứ như thế trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết thúc việc tu luyện. Tự dưng một hôm, có hai vợ chồng con chimm chích ở đâu đến làm tổ ngay trong vành tai của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chúng đi về tha rác lên đầu, lên mặt. Rồi chim mái đẻ trứng, rồi cả một thời kì hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Cho đến lúc những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc chỉ còn vài ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm đó, chim vợ đến lượt đi tìm thức ăn cho con. Suốt cả buổi chiều nó không kiếm được chút gì. Mãi gần tối, lúc lượn qua cái hồ, chim vợ thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công tìm mãi. Không ngờ vừa tắt ánh mặt trời hoa sen đã cụp ngay những cánh hoa lại nhốt chim vào trong. Chim cố tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa dày quá, đành chịu nằm lại.
Ở nhà, chim chồng hết bay đi tìm kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm. Mãi đến sáng mai chờ lúc hoa nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc cãi lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng nhiếc vợ hết lời, nhưng chim vợ hết sức bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài suốt cả một buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu, thêm vào đó đàn con khóc đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim tiếp tục cuộc cãi vã, Bất Nhẫn bỏ tay lên tai giật tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói: "Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện đó mà chúng mày làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ". Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành tự dưng vứt bỏ trong chốc lát.
Nhưng Bất Nhẫn không nản chí. Trước toà sen, chàng hứa sẽ kiếm tìm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy siết, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở đến người thứ một trăm mới chịu nghỉ tay. Lần này, Bất Nhẫn tỏ ra là một người rất tích cực. Tuy bến sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sông tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ trận mưa lớn, giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Hắn có vẻ là vợ một tên quan sở taị, chưa bước xuống thuyền đã doạ Bất Nhẫn: - Chú chèo cho vững nghe không? Che mui cho kín. Nếu để chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quất đít đó. Nghe nói thế, Bất Nhẫn bừng bừng nổi giận nhưng chàng nín được và vẫn giữ vững vẻ mặt tươi cười đáp: - Bà và cậu đừng sợ gì cả. Tôi xin cố sức. Rồi chàng vận dụng hết sức tài nghệ để đưa hai mẹ con nhà nọ qua bên kia sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên: - Ta quên khuấy đi mất, có một gói hành lý bỏ quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối, chật vật lắm chàng mới đưa được gói hành lí sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ lại kêu lên: - Thôi rồi còn một đôi giày của thằng bé bỏ ở gậm giường. Thế nào ngươi cũng phải cố gắng lấy cho ta một lần nữa.
Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẫn đã giơ tay chỉ vào mặt: - Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có sinh ra để hầu hạ mẹ con mầy mãi đâu. Nhưng người đàn bà đó vốn là đức Phật Quan Âm hiện hình xuống thử tâm tính người đệ tử khổ tu đó, bấy giờ hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng: - Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như thế thì tu gì mà tu. Có tu hú!.
Phật Bà Quan Âm sau đó bắt Bất Nhẫn hoá thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật Bà.

25. SỰ TÍCH CHIM CUỐC
Ngày ấy có đôi bạn chí thân tên là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại đều mồ côi cha mẹ. Quắc được học nhiều hơn bạn, anh làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi. Sau đó vì sinh kế hai anh phải chia tay mỗi người mỗi ngả.
Trong khi Quắc sống cuộc đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang hết các vùng xa lạ làm thuê làm mướn. Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh vào làm công cho một phú thương. Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân được phú thương gả con gái cho. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở thành một phú ông có cơ nghiệp kha khá trong vùng.
Nhân giàu nhưng không quên tình bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng khổ có nhau" với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng được thấy Quắc còn sống. Tuy Quắc đang dở năm dạy, nhưng Nhân vẫn thương lượng với cha mẹ học trò cho con em chuyển sang học với cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình. Nhân dặn người nhà phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ.
Nhưng tính vợ Nhân xưa nay đối với kẻ rách rưới, chị ta thường có thái độ khinh thị. Và chị ta không cùng sống những ngày hàn vi với Nhân, đâu hiểu tình nghĩa Nhân với Quắc thế nào. Nhưng thấy chồng rất trọng đãi khách nên lúc đầu cũng không dám nói gì. Nhân luôn luôn bảo vợ: "Đây là người thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì chưa chắc tôi đã được sống để gặp nàng". Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: "Khéo! Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại!".
Dần dần vợ Nhân bực mình ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu đến chả giúp ích gì cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân trước còn nói mát nhưng sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà ấy đay nghiến cả chồng lẫn khách: "Chẳng phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng, ăn no lại nằm. Thôi liệu mà tống khứ đi!".
 Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ sợ mất lòng bạn. Nhân một mặt thân hành chăm chút cho bạn, một mặt khuyên dỗ vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả. Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về, nhưng Nhân cố sức giữ lại. Thấy bạn chí tình, Quắc lại nấn ná ít lâu. Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe được những câu nói xúc phạm mình một cách nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không tính kế sớm thì sẽ có ngày bị nhục với người đàn bà này. Mà nếu đi như mấy lần trước thì sẽ bị bạn làm lôi thôi khó thoát.
Một hôm, trời còn mờ sương, Quắc cất lẻn ra đi. Muốn cho bạn khỏi mất công tìm kiếm nên khi đi qua một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường làm như cảnh mình đã chết. Đoạn Quắc lần mò đi xứ khác trở lại nghề gõ đầu trẻ.
Thấy mất bạn, Nhân bổ đi tìm nhưng chả thấy tung tích ở đâu cả. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở mé rừng phía Nam, chàng lật đật đến xem. Nhận rõ đó là khăn áo của bạn. Nhân vô cùng hối hận "Thôi ta làm hại bạn ta rồi! Chắc bạn ta bị cướp giết chết". Nhưng sau đó Nhân lại nghĩ: "Bạn ta trong túi không có một đồng thì dẫu có gặp cướp cũng không can gì. Đây một là bị hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc trong rừng sâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì nhất định bạn ta cũng đi về phương này".
Nhân bắt đầu vào rừng tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Nhân băng hết chông gai, chui hết bụi rậm, luôn luôn cất tiếng gọi "Quắc ơi! Quắc ơi! Quắc! Quắc!… Nhân đi mãi, gọi mãi. Quanh quẩn trong khu rừng mênh mông. Cho đến hơi thở cuối cùng người bạn chí tình ấy vẫn không quên gọi: "Quắc! Quắc!". Rồi đó Nhân chết hoá thành chim đỗ quyên, hay cũng gọi là con chim cuốc.
Lại nói về chuyện sau đó vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm ăn năn về những hành động của mình. Một hôm, chị ta bỏ nhà bỏ cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng phía Nam, nghe tiếng "Quắc! Quắc!" chị ta nhận ra là tiếng của chồng gọi bạn. Chị ta mừng quá kêu to: "Có phải anh Nhân đấy không?" - Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!" của con chim đỗ quyên. Vợ Nhân cứ theo tiếng chim đỗ quyên tiến vào rừng sâu. Sau cùng không tìm thấy được lối ra, tuyệt vọng quá mà chết bên cạnh một gốc cây.

26. SỰ TÍCH ÔNG BA MƯƠI
Ngày xưa, trên Trời có một người khỏe lạ lùng. Những việc dời núi lấp biển, đội đá bẻ cây ông làm băng băng không một ai bì kịp. Ông còn có tài thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị thần trên Thiên đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.
Vốn tính nghịch và hung hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông, chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu nổi một cú đấm, cái gạt của ông. Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng có tài nghệ và sức khỏe gì. Ông lấy làm bực mình vì danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn không được Ngọc Hoàng trao cho một chức vị xứng đáng.
Mỗi ngày lòng kiêu căng tự phục của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc Hoàng, tự nghĩ mình nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi, ông tụ tập quanh mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình. Cuối cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân của mình tiến đến thiên cung đòi hạ bệ Ngọc Hoàng để mình trị vì thiên hạ.
Nghe tin chẳng lành, Ngọc Hoàng vội sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu. Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về. Ngọc Hoàng lại sai năm mươi lực sĩ, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Những cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay.
Quân đội Nhà Trời vốn đông như kiến cỏ, nhưng kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy toán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân, tiến lên vây chặt Thiên cung. Thấy thế Ngọc Hoàng hết sức lo lắng. Ngọc Hoàng vội sai Bắc Đẩu cầu cứu Đức Phật. Nghe tin cấp báo, Đức Phật sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng Đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, cũng lại bị ăn đòn nặng nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi. Cuối cùng, Đức Phật đành phải ra tay.
 Trong lúc Phạm Nhĩ đương hung hăng múa may, chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực, thì Đức Phật đã xuất hiện. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ sa ngay vào túi thần của Đức Phật, toàn thân co rúm không động chân, động tay được nữa. Thế là Phạm Nhĩ bị bắt.
Bộ hạ của Phạm Nhĩ như rắn mất đầu, không ai bảo ai, tẩu tán khắp nơi. Trước khi ra về, Đức Phật giao Phạm Nhĩ cho Ngọc Hoàng xử trí. Ngài căn dặn Ngọc Hoàng phải làm cho Phạm Nhĩ hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp vật. Trước hết để tước bớt sức mạnh của Phạm Nhĩ, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi cánh của ông để ông không thể bay về Thiên đình làm loạn. Ngọc Hoàng còn lo Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện của bốn phương ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy, để làm giảm bớt trí nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép, bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín lại, Tuy nhiên, thể theo lời dặn của Đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm.
Từ khi xuống trần, tài phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh hiệu Chúa tể sơn lâm mà Ngọc Hoàng phong. Cho đến này, dòng dõi như ông vẫn nối nhau làm Chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái tên "Hổ", mà chỉ gọi tránh là "Ông Ba Mươi". Tại sao lại gọi là "Ông Ba Mươi"? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu 30 roi để cho vong hồn Phạm Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Người xưa có câu: "Trời sinh ra hùm có vây, Hùm mà có cánh, hùm bay lên Trời" để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia.

27. SỰ TÍCH HỒ BA BỂ
Vào hồi đó ở xã Nam Mẫu có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả chim ... để cầu phúc cho mấy ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu lại. Bộ dạng thật gớm ghiếc, những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: - "Đói lắm các ông các bà ơi!". Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn. Nhưng mãi đến chiều, người đàn bà đó vẫn chả được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi nhất là các cô gái cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là họ xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng "Nam mô Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan được trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi.
Mấy nhà giàu có đóng chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm nguội cho ăn. Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ, người ta đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở cái chõng cho mụ ngả lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác. Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền, tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy cái chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở cách biệt với làng xóm, không biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi. Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chả thấy giao long đâu cả. Trên chõng, mụ ăn mày đã dậy và sắp sửa ra đi. Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng: - Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật. Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có hai mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong đêm hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh. Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm thế nào để cứu mọi người được? Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo một hạt thóc ra cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói: - Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con làm việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có một dòng nước từ dưới đất phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa. ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh xã Nam Mẫu.
Trong khi đó thì nền nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một nâng cao hơn mực nước. Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc thuyền. Thế rồi, mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy tức là một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương thường gọi là Pò-già-mải.

28. SỰ TÍCH ÔNG BÌNH VÔI
Ngày xửa ngày xưa có một người con gái nhà giàu. Cô rất đẹp nên rất  kiêu. Cô khiến cho các bạn gái xa lánh mình. Các chàng trai ghét cô vô hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, vẫn chưa có đám nào cô vừa ý. Chàng trai nào cũng bị cô khinh, “cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương xườn bày ra”.
Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng! Chồng cô yêu vợ nhưng lại bực mình vì thói hay ghen của vợ. Xóm giềng luôn cau mặt vì lời qua tiếng lại của họ. Cuối cùng hai người phải và ly dị. Buồn bực vì duyên phận, cô bỏ đi tu.
Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi gần hai mươi năm. Những con chim, những con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của sư nữ. Hai mươi năm qua cô vẫn chưa đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn người và chịu đủ mọi sự khổ hạnh của nhà tu. Một ngày kia cô quyết định sang Tây Trúc để tìm cho ra lẽ. Đường sang Tây trúc thiên nguy vạn hiểm nhưng cô quyết đi bằng được.
Một hôm, sau khi vượt qua một trái núi, sư nữ vào ngôi nhà hẻo lánh bên đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhà vốn là kẻ ăn chay niệm phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đón rất hậu. Khi được nghe công trình tu luyện của sư nữ thì họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Đến khi họ biết ý định của sư nữ, thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo để mong được đắc đạo! Nghe họ cầu khẩn, sư nữ cười: “Hai mẹ con nhà này cũng muốn thành Phật ư? Được, cứ đi theo ta!” Nhưng bụng bảo dạ: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”.
Từ hôm đó nhà sư nữ có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt mỏi, đường bớt dài, họ đi chả mấy chốc mà đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau, hai mẹ con nhà nọ vẫn cung kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không được như trước: “Không biết chừng họ được thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta... Bọn này mà đắc đạo, thật là một điều nhục cho thiền môn”.
Lại nói chuyện đức Phật, khi vừa hay tin có người tìm đường đến Tây Trúc cầu đạo, vội hóa thân đi theo dõi. Từ đầu đến cuối, đức Phật không bỏ sót một lời nói một cử chỉ của sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức Phật hóa phép hiện ra ở bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây bồ đề rất lớn, để chờ họ.
Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên khi qua sông, sư nữ giả ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và cây bồ đề bảo rằng: - Kìa, chúng ta đã tới Tây Trúc. Nhanh thật! Chính là cây bồ đề của đức Thế Tôn tu luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông tay rơi xuống là khắc thành Phật!
Tin tưởng lời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo không chút ngần ngại. Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật đã đón họ đưa lên trời. Có bốn vị La Hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người bạn đồng hành.
 “Đúng là họ thành Phật rồi!” Sư nữ vừa kinh ngạc vừa mừng, vội trèo lên cây để làm như họ và mong được như họ. Đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn bà kiêu ngạo và độc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi xuống đất, tan xương vỡ sọ. Sau đó đức Phật lại bắt người khốn nạn ấy hóa thành cái bình vôi.
Tại sao lại cho hóa thành bình vôi? Có người bảo là Đức Phật bắt những kẻ trong lòng bất nhân, nhưng lại đeo bộ dạng từ bi phải để cho người đời luôn luôn móc ruột!

29. SỰ TÍCH CON DÃ TRÀNG
Có hai vợ chồng ông già tên là Dã Tràng, trong vườn họ có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông già vẫn thấy một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình, ông nhìn vào thấy rắn vợ đang nằm cuộn ở trong. Vì mới lột lên mình mẩy của nó yếu ớt, không cựa quậy được. Một lúc sau, rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.
Ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình, lần này rắn chồng đến kỳ lột xác, nằm im thin thít, da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ có một con rắn đực khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang.
Dã Tràng biết con đực này toan làm gì rồi. Tự nhiên ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó để cứu con rắn chồng đang suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng thương có lẫn cả giận nên ông chán nản bỏ về. Từ đó ông không thèm để ý hang rắn nữa.
Chừng tuần sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng rắn cho vợ nghe và kể những việc mình đã thấy và đã làm. Ông vừa dứt lời thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn xuống gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên mái nhà chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể chuyện, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình có thể nghe hiểu được mọi tiếng chim muông ở trên thế gian. Từ kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.
Một hôm, Dã Tràng đang hái dâu, tự dưng có một bầy quạ đậu ở mấy ngọn cau bảo Dã Tràng rằng: Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy đến đó mà lấy về ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông xẻo lấy ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà, ông mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng còn thừa tí nào.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình ông bèn lấy cung ra bắn, chủ ý muốn chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ cho là ông lấy oán trả ơn, liền cắp lấy mũi tên có để tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù. Lúc bay qua sông thấy một xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên liền sai lính bắt ông hạ ngục.
Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để Vua xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điều đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng xích nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau: "Nhanh lên, chuyến này sẽ không lo đói nữa, mà cũng chẳng sợ ai đánh đuổi cả". Một con khác hỏi: "Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?" - Con nọ trả lời: "Của Vua nước bên kia, họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp đổ hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha hồ chén".
Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ: "Xin các ông bẩm lại với quan rằng, việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm và giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, mà còn cấp bách nữa là khác". Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không nói gì thêm, chỉ nài nỉ hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ biết rằng Vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai tướng đem quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận chuyển thêm lương, chờ đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam.
Bọn quan quân tỉnh lấy làm lo lắng nhưng vẫn cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả không sai, và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà, bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa, ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Khi gặp bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn xiết, nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm thương bạn.
Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì cả, Trần Anh xuống bếp bảo vợ: “Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta làm thịt một con ngày mai đãi bạn lên đường”. Người vợ đồng ý nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và vặt lông giúp một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: "Mình ơi! Mình ở lại nuôi các con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt". Ngỗng mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Ngỗng trống nhất định hy sinh, chạy ra sân từ giã đàn con: “Con ơi! Các con ở lại với mẹ nhé, cha sẽ không bao giờ gặp các con nữa". Nhưng ngỗng mái lạch bạch chạy theo, đòi chết thay chồng bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên ván kề cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà ngỗng phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng, chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm đó, tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng, ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói "Xin bạn thả nó ra, tính tôi không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta đâu phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết thịt nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này". Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng bầy con đứng trực ở đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói: "Đa tạ ân nhân cứu mạng, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng như đi trên bộ. Nếu đem ngọc này xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển". Ngỗng nói tiếp: "Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn!". Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy viên ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Tự nhiên nước rẽ ra cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào.
Hôm đó, Long Vương và các triều thần đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai đấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ gì. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.
Bộ hạ Long Vương theo đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thuỷ phủ.
Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết là ông mới làm thử xem có hiệu nghiệm không. Long Vương và triều thần nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thuỷ phủ còn gì? Vì thế, Long Vương đãi ông rất hậu. Lúc ra về, Long Vương còn biếu vàng bạc rất nhiều để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không làm việc gì mà trở nên giàu có ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông mang một cái túi đựng nó và luôn đeo nó ở cổ.
Một hôm, Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi ông sờ tay lên cổ thì giật mình mới nhớ là vì vội quá nên đã bỏ quên túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi đã vội về ngay.
Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi không thấy ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi, cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy gài ở chỗ treo áo. Trong đó vợ ông có nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được làm Hoàng hậu. Bởi vậy, bà đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi, ông không ngờ vợ ông lại có thế đối xử với ông như vậy. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp bể thành một con đường xuyên thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lên xuống thuỷ phủ của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng vẫn dọn nhà ra bờ biển để làm việc đó. Ngày ngày xe cát chở đến bờ, quyết lấp cho bằng được.
Cho đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ công việc. Chết rồi, ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi là Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển.
Tục ngữ có câu: Dã Tràng xe cát biển đông / Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì. Hoặc: Con còng còng dại lắm không khôn / Luống công xe cát sóng dồn lại tan.
Người ta nói ngày nay loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên của mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang Dã Tràng vì nhớ ơn cứu mạng.

30. SỰ TÍCH CHIM NĂM TRÂU SÁU CỘT
Xưa, có bác lực điền tên là Ba, ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có ruộng đất nên phải làm rẽ năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay nhà giàu có nhất tổng, ruộng đất, trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không kể xiết. Thấy bác tá điền thực thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp lúa sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao cho bác nuôi trâu rẽ. Từ đấy công việc của bác Ba thêm bận rộn, bác phải chăn nuôi bầy trâu của phú ông. Từ độ ấy đến giờ sinh được tổng số là năm con.
Tự nhiên ngày nọ, phú ông lăn ra chết, hắn chết hãy còn đang trẻ. Phú ông chưa có con trai, chỉ có một cô con gái nên bao nhiêu ruộng đất, trâu bò đều về tay cô. Mà ruộng đất trâu bò của phú ông giao cho các tá điền nhiều thứ linh tinh phức tạp, có thứ đã làm giấy tờ phân minh, nhưng cũng có thứ vì cái chết đột ngột nên chưa có giấy tờ gì cả.
Con gái phú ông rất giống tính cha, lại là người có mánh khoé vặt, không bao giờ ả chịu mất không cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn. Sau khi làm ma bố xong, ả mới bắt đầu đi kiểm soát một lượt gia sản của bố để lại.
Ả đến nhà bác Ba và một buổi chiều. Lúc đó bác còn đi chăn trâu chưa về. Nhà này có nuôi trâu, ả biết, nhưng tất cả số trâu nuôi, trâu đẻ được mấy con lúc bé như thế nào thì ả còn mập mờ, trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người đầy tớ nhớ mang máng cả mẹ đẻ con đẻ đâu năm sáu con.
Tục ở đây nuôi trâu không có chuồng, người ta đóng ở góc sân những cái cột, tối về buộc mỗi con vào một cột. Thoạt vừa đến, ả đếm ngay số cột, được sáu cái: "Sáu cột vị chi là sáu con trâu" ả tự bảo thế, ả không biết rằng trước đây vì một cột gần gãy nên bác phải đóng cột khác vào và chưa kịp nhổ cột cũ đi.
Lúc bác lực điền trâu về, ả đếm đi đếm lại chỉ có năm con, ả thầm nghĩ: "Có lẽ nghe tin cha ta chết mà việc nuôi trâu từ lâu nay cha ta không bắt làm giấy tờ nên thằng cha này đã bán trộm một con", ả nói to: "Này bác Ba, còn một con nữa đâu?". Bác lực điền ngạc nhiên -"Con nào nữa, tôi nuôi cả thảy chỉ có năm con". Ả cười ranh mãnh. "Năm trâu sao lại sáu cột?". Bác Ba đem việc cột gãy ra phân trần, nhưng ả nào có nghe: "Thôi bác chịu khó đi tìm cho tôi đi, năm trâu sao lại có sáu cột".
Thấy ả lẩm bẩm mãi tiếng "năm trâu sáu cột" bác lực điền nổi xung lên bảo: "Chỉ có bắt cô trói vào cột này thì hoạ chăng mới thành sáu được". Cô gái phú ông không phải tay vừa, hắn nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ vào rừng, ả tiếp theo chân bác. Rồi từ đó hai câu "năm trâu sáu cột" và "bắt cô trói cột" trở nên lời đối thoại duy nhất của hai người.
Bác Ba và cô gái nọ về sau đều hoá thành chim. Hai con chim đó xuất hiện ở vùng núi Thái Nguyên, Bắc Cạn là vùng mà bác Ba sinh trưởng. Hai con chim kiếm ăn từ nhá nhem cho đến tờ mờ sáng, một con đằng này núi, một con đằng kia núi, một con kêu "năm trâu sáu cột" và một con đáp "bắt cô trói cột"…

31. SỰ TÍCH CẦU VỒNG
Xì Pứ là con gái một nhà nghèo. Nàng chỉ có một bộ quần áo bảy màu do tay nàng thêu là đẹp nhất, còn toàn là quần áo vá. Nhưng đôi tay Xì Pứ chăm làm, đôi chân Xì Pứ hay leo rẫy, nên ai cũng mến cũng thương. Nàng đẹp không gì sánh nổi. Tiếng nàng thánh thót hơn tiếng hót của chim mì xí, mái tóc nàng mượt dài hơn dây móc, da nàng trắng hơn gốc cây chuối rừng chớm nở. Nhiều chàng trai khỏe, đẹp, khắp bản gần bản xa kéo đến xin ở rể nhà Xì Pứ nhưng bụng nàng vẫn chưa ưng ai.
Vào một ngày đẹp trời, Xì Pứ cầm dao đi phát rẫy xa. Nàng đi tới đâu dưới chân nàng hoa rừng nở rộ, trên đầu nàng chim chóc hót ca, cảnh vật như thêm sức sống. Đến những sợi nắng vàng rực trong trẻo cũng cố tình đậu mãi trên bộ ngực nở nang và mái tóc xanh đen óng ả của nàng. Vừa tới nương, Xì Pứ gặp một chàng trai trông rất hiền lành mặc một bộ quần áo chàm thô, dáng khỏe mạnh nhanh nhẹn. Sau một lúc ngập ngừng, chàng trai lên tiếng: - Người đẹp ơi! Đừng sợ! Ta chờ người đẹp đã lâu rồi, lòng ta héo như cỏ tranh cắt để lâu ngày vì mong vi nhớ!
Vừa trông thấy chàng lòng Xì Pứ đã như lá rừng gặp gió. Giờ lại được nghe tiếng nói ngọt hơn nước mật ông của chàng, lòng nàng lại càng ưng hơn. Chàng trai giúp Xì Pứ chặt cây to, phát cây nhỏ. Vừa phát, miệng họ vừa nói chuyện vui vẻ. Khi con mắt hai người không dám ngó thẳng nữa thì họ hứa hẹn cùng nhau nên vợ nên chồng. Xì Pứ không ngờ rằng chàng trai kia chính là rắn thần ở núi này. Vì quá mê vẻ đẹp và tính tình của nàng, thần rắn đã hiện thành người để tỏ lòng mến thương của mình. Khi rắn thần kể rõ về mình, lòng Xì Pứ vẫn như ngọn núi không suy suyển. Họ thề thốt một lòng sống bên nhau.
Biết được chuyện, lòng bố mẹ Xì Pứ đau nhiều, vừa thương mà vừa giận Xì Pứ đầy ruột. Đêm nằm hai ông bà to nhỏ bàn tính chuyện giết thần rắn để trừ hậu họa cho con gái. Hai ông bà lấy ba con dao nhọn mài thật sắc cắm cán xuống đất, mũi lên trên giữa lối rắn thường qua lại. Đêm ấy chàng rắn quen lệ bò tới chỗ người yêu để được nhìn, để được nghe giọng nói của nàng. Chẳng ngờ chàng liền bị lưỡi dao rạch bụng, máu túa ra lênh láng. Chàng rắn chỉ kịp kêu lên: - Trời ơi! Sao ai lại nỡ hại tôi thế này.
Giết được rắn rồi bố mẹ Xì Pứ chất củi để đốt. Thấy người yêu bị chết lại bị thiêu xác, lòng Xì Pứ như có ai dội lửa. Không ngăn được ý muốn của bố mẹ, nàng bèn mặc bộ quần áo đẹp nhất có thêu bảy màu sặc sỡ đến bên xác người yêu đang cháy rừng rực khóc lóc: -  Người ta thương đã chết. Lòng ta héo như cánh hoa phơi nắng lâu ngày. Ta không thể sống thêm được nữa, ta phải chết theo người ta thương thôi. Làng xóm ơi! Nếu ai thương tôi, muốn thấy tôi thì ngay sau lúc trời mưa rồi lại nắng tôi sẽ hiện ra! Nói xong nàng nhảy vào đống lửa đang cháy hừng hực. Lửa từ thân chàng rắn quấn lấy người nàng. Hai người ôm nhau chết trong đống lửa rừng rực. Bỗng trời đổ mưa sầm sập. Lửa tắt, mối đùn lên lấp kín xác hai người thành một ngôi mộ lớn. Trời vẫn mưa, nắng bỗng hửng lên. Người ta nhìn thấy hai chiếc cầu vồng rực rỡ bảy màu hiện lên.
Từ đó, nếu trời đang mưa mà lại có nắng hửng lên thì hai chiếc cầu vồng lại cùng hiện lên và cùng biến đi như vậy. Ta thường thấy một chiếc cầu vồng màu đen viền một vết đỏ mờ mờ bên cạnh. Đó là hồn của chàng rắn. Máu đỏ mang màu ngọn lửa thiêu, màu đen là màu áo rắn khoác ngoài lúc bị thiêu. Còn chiếc cầu vồng có bảy màu rực rỡ chính là màu áo quần của nàng Xì Pứ xinh đẹp mặc lúc lao mình vào ngọn lửa.
Ngày nay, mỗi khi cầu vồng hiện ra, người ta đều cho rằng nó đang vươn vòi xuống suối, xuống khe để uống nước cho bõ cơn khát vì bị ngọn lửa thiêu nóng ngày nọ.

32. SỰ TÍCH CON KỀN KỀN
Trong xóm kia có hai sống hai cảnh đời trái ngược. Một người giàu nứt đổ vách, của để tận ngoài ngõ, chê cơm gạo đỏ không ăn, trong nhà thịt rượu ê hề. Lại có một người tàn tật, ít khi được bát cơm nóng. Rau dưa cũng không đủ no lòng.
Lão nhà giàu ra khỏi nhà là thuê người võng người khiêng. Chơi bời vô độ nên tóc còn đen, răng chưa rụng mà người đã gầy khô như xác chết. Anh nghèo mang tật từ lúc bé, chân tay co rúm, lưng còng, cổ quẹo, đi một bước cũng khó khăn. Quanh năm chỉ có hai mảnh quần áo rách,
Một năm kia, tiết nắng kéo dài, rau cỏ cũng khó mọc. Những đám rau già quanh làng chết hết, anh tàn tật cố bò ra cây sung giữa đồng, nhặt quả ăn thay cơm. Đường từ nhà ra đây chẳng xa xôi gì. Người khoẻ, hút chưa chưa tàn điếu thuốc đã đi đến. Nhưng anh tàn tật phải bò suốt từ buổi sáng tinh mơ cho đến nửa buổi chiều.
Cố lê được đến gốc cây sung anh đã mệt rã rời chẳng làm sao nhặt được quả rụng cho vào mồm. Đến chiều, khi mặt trời sắp lặn, có một cơn gió thổi qua rất mạnh. Cành sung oằn xuống, quả rụng chật đất. Anh tàn tật cố gắng gượng dậy, lê đi nhặt thành đống định về ăn dần. Đêm đó anh ngủ bên gốc sung. Sáng ngày hôm sau có một đàn chim từ hướng Đông bay vút đến, đáp xuống ngọn cây sung.
Đàn chim đi tìm quả sung chín, nhưng gió đã thổi rụng cả từ hôm qua nên chúng ngơ ngác tìm kiếm một chốc rồi đáp xuống đất.
Trông thấy đám quả sung của anh tàn tật, đàn chim đứng nhìn nhưng không dám lại gần. Anh tàn tật nhặt sung vãi ra: - Có đói vào đây mà ăn... Nghe anh nói, con chim có một khoang trắng trên cổ, óng ánh như bạc, nói lại rõ như tiếng người vậy: - Chim không có công nhặt, sao người cho nhiều quả vậy?
- Cây trời sinh, tôi không trồng, không tưới. Công nhặt quả có đáng là bao. Có đói thì cứ ăn. Anh tàn tật bốc sung vãi tung ra. Lũ chim không sợ nữa, xúm lại ăn. Ăn xong, con chim có khoang cổ lại hỏi: - Người tàn tật mà tốt bụng. Quả ăn trừ cơm được mà không tiếc. Tôi đền lại một điều ước để trả ơn.
Đàn chim bay đi. Anh tàn tật ngồi một mình, ngẫm nghĩ về điều ước con chim đã cho. Lâu nay anh nghèo khó, chưa được biết cái gì là sung sướng, nên cũng chẳng biết điều gì. Chợt thấy mấy người lính kiệu một ông quan đi qua. Thấy viên quan rất oai vệ, mà lính cũng bảnh bao. Anh tàn tật định ước thành một trong hai hạng người này. Nhưng khi bọn họ đến quãng đường lầy, thì toán lính bị thụt sâu, không đi nhanh được. Còn viên quan thì cau có, quát tháo, cầm gậy vụt toán lính. Thấy vậy anh tàn tật tự bảo: - Làm lính thì bị quan đánh, mà làm quan thì... mặt mũi cau có, đánh người thế kia, chẳng ai thương được. Anh bỏ ý định làm quan, làm lính.
Một chốc có mấy người thầy cúng đi qua. Người nào cũng quảy một xâu thịt, mấy chai rượu, tay chống gậy, đầu đội khăn rằn, khăn đỏ, buông xuống tận vai. Trông có vẻ an nhàn lắm. Anh tàn tật muốn ước làm thầy cúng. Bỗng cái cổ quẹo của anh đau nhói lên. Cái cổ này khi còn tiền của, cha mẹ anh đã mời thầy cúng mãi mà không khỏi rốt cục vẫn tiền mất tật mang. Nhớ việc cũ, anh lại tự bảo: - Thầy cúng là người dối trá. Người ốm mất tiền mà chẳng khỏi bệnh. Làm thầy cúng người ta cũng chửi cho.
Một chốc anh lại thấy lão nhà giàu đi đòi nợ về. Anh tàn tật toan ước thành một người nhà giàu để được ăn no sung sướng. Nhưng lão nhà giàu đi chưa khuất đẫ thấy một toán người đến, tay dắt trâu, vai gánh thóc, mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi hốc hác, khổ sở. Anh bèn hỏi: - Sao có trâu dắt mà không vui, có thóc gánh trên vại và còn khóc? Mấy người kia chỉ lão nhà giàu đang đi: - Sắp đến mùa cày mà lão bắt mất trâu. Lúc giáp hạt mà lão đòi nợ? Ông ấy là chủ nợ. Chúng tôi là con nợ. Cảnh khổ anh đã biết rõ. Anh lắc đầu: - Làm người giàu sẽ gây khổ cho người nghèo.
Đắn đo một lúc, anh tàn tật nhìn lại mình. Thấy cộ quẹo, lưng còng, anh liền ước: - Thôi, chim hãy cho thân tôi lành lặn, có đủ sức khoẻ nhổ tróc gốc cây sung này. Lời ước vừa dứt, lưng anh thẳng ra, cổ hết quẹo, người to lớn lực lưỡng. Anh bước đến ghé vai vào cây sung, hai tay ôm choàng, nhổ thử. Cây sung bật cả gốc rễ. Anh cởi áo túm mớ quả sung còn lại, vác cả cây sung về trồng trước làng. Tên nhà giàu thấy anh tàn tật đã béo tốt phương phi liền đến hỏi: - Mày làm sao mà chóng được khoẻ vậy?
Anh tàn tật kể chuyện được sức khoẻ cho tên nhà giàu nghe. Lão muốn vợ chồng con cái và mẹ nói được béo tốt như anh tàn tật, liền về dắt cả lũ đến nói với anh: - Mày béo khoẻ vậy là tốt lắm rồi. Mớ quả sung còn lại cho tao xin. Người nhà tao ai cũng gầy guộc quá. Tao muốn tao, mẹ tao, vợ con tao đều có sức khoẻ như mày.
Anh tàn tật không định để mớ quả sung lại làm gì, nhưng anh chưa kịp cho thì lũ kia đã xúm lại cướp mỗi đứa một vốc, chạy miết ra đồng. Chúng nó ngồi thu lu bên chỗ cây sung anh đã nhổ trốc gốc chờ chim đến. Đàn chim đến thật. Mẹ, vợ và con lão nha giàu không hiểu đổi trác thế nào, nên cứ trố mắt nhìn. Còn tên nhà giàu thì đưa quả sung như nhử chim, nói: - Cây sung bị thằng tàn tật nhổ mất rồi. Từ nay kiếm được một quả sung chẳng dễ gì! Đây, những quả sung này ngon lắm, ngon gấp mười quả sung của thằng tàn tật! Chim có chịu đổi một trăm điều ước ta mới đổi.
Đàn chim đã đói, nhưng mỗi lần chỉ cho được một điều ước, nên không đổi được cho tên nhà giàu. Khi mặt trời gần lặn, đàn chim chắp cánh sắp bay. Biết không thể đổi được hơn, tên nhà giàu mới chịu đổi. Được điều ước nó cười hả hê, giục cả nhà đứng dậy rồi lớn tiếng: - Cho cả nhà tao trẻ lại.. này, khoẻ..này, béo này..
Nhưng nói chưa hết câu, thì những cái mồm của lũ nó nhô ra nhọn hoắt, tay biến thành cánh, móng biến thành vuốt, lông mọc khắp người, hôi thối khét lẹt. Cả nhà nó hoá thành kền kền, chúng vẫn giữ nguyên như cốt cách lúc còn làm người. Mỗi khi gặp con trâu, con bò chết là cả lũ bâu lại.

33. SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG CẶP
Ngày xưa có hai vợ chồng, vì mỗi người một tính nết nên ít khi sống hoà thuận. Anh chồng thì nghiệp ngập đủ thứ. Ngoài những lúc ăn uống đàn đúm ra, anh ta hết chơi chim khướu lại đến chim mồi. Có lần gặp con chim mồi đẹp anh ta mang cả con trâu đi để đổi. Mỗi lần đi chọi được con chim nào về anh ta lại thịt để nhắm rượu. Quanh năm suốt tháng anh ta toàn bầy những trò ăn chơi như vậy, ít khi ngó ngàng tới công việc làm ăn. Hoạ hoằn lắm, sau khi người vợ phát hết những cây nhỏ của đám nương, anh ta mới giúp được đôi buổi để hạ những cây to. Trong khi đó người vợ lại vụng về không biết khuyên bảo chồng. Mỗi lần người chồng đi ăn uống say sưa đâu về chị ta thường gắt gỏng không tiếc.
Vào một năm nọ, khi ngày tết đã gần đến, làng bản ai cũng tấp nập sắm sửa để đón tết. Con gái ban đêm may cắt những bộ quần áo mới, ban ngày lên rừng kiếm củi, cắt lá dong, rọc lá chuối, ra suối đãi gạo, rửa rau. Trai làng thì sửa sang nhà cửa, quét dọn bàn thờ tổ tiên. Nhà nào nhà nấy đúng là “bận tíu tít như ngày tết”. Riêng chỉ có vợ chồng nhà họ thì vẫn chưa sắm sửa được tí gì. Số là ngày hai mươi chín tết anh chàng vừa đi đâu uống về say mèm, người vợ lại chửi mắng không ngớt. Thế là một cuộc cãi lộn giữa hai vợ chồng lại nổ ra. Thấy vậy đứa con gái nhỏ len lét đến gần mẹ hỏi: - Mẹ ơi sao nhà ta chưa gói bánh trưng hở mẹ? Người mẹ quắc mắt nhìn con trả lời: - Bánh à? Lấy đâu ra thịt mà làm nhân.  Lúc đó thằng con trai lớn vừa đi đâu về hớt hải hỏi bố: - Bố ơi! Nhà chưa thịt lợn à? Khắp bản người ta thịt cả rồi? - Lợn nhà mình bằng con chuột. Thịt lúc nào mà chẳng được. Mẹ mày có bao giờ chăn lợn đâu mà có lợn to?
Tuy đang giận vợ, nhưng sau khi nghe các con hỏi nào bánh nào thịt anh cũng động lòng. Nên sau đó anh ta liền sang nhà hàng xóm ăn vụng một đùi lợn mang về. Chiều tà anh không thể về đến nhà được, nằm vật bên bìa rừng. Người qua đường thấy vậy vội đến bảo chị vợ đi dìu chồng về. Người vợ đang sẵn bực dọc trong mình liền buông lời nguyền rủa: - Kệ xác, để cho hổ tha ma bắt càng tốt?
Nói rồi chị ta điềm nhiên tiếp tục gói bánh, rồi bắc nồi lên luộc. Lúc đó, đêm đã khuya, hai đứa con thấy đợi bánh lâu quá, ngủ say lúc nào không biết. Lúc bấy giờ chị ta mới sực nhớ tới chồng nằm ngoài trời. Chị ta thắp đuốc rồi giục thằng con trai dậy đi tìm chồng. Tới đoạn bìa rừng chị ta gọi chồng mãi nhưng chẳng thấy tiếng thưa. Không có cách nào nữa, hai mẹ con đánh đi sâu vào các lùm cây bụi cỏ để tìm. Bỗng đến một nơi cây cỏ nát lụi, đi bước nữa chỉ thấy vũng máu, rồi tay áo… Người mẹ oà lên khóc: Thôi thế là hổ đã ăn thịt chồng rồi. Hai mẹ con vừa khóc vừa chạy vội về làng. Nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thương của mẹ con nhà họ, cả làng kéo đến giúp tìm thâu đêm nhưng không thấy tăm hơi đâu cả. Hối hận lắm, sáng hôm sau người vợ và đứa con trai bổ đi tìm chồng. Hai mẹ con cứ lần theo các vệt máu và vết chân hổ mà đi. Họ đi mãi đến trưa thì tìm thấy xác chồng ở trong thung lũng nọ. Xác anh ta còn, vì mùi rượu bốc lên nồng nặc hổ không thể nào ăn được.
Người vợ cứ ôm lấy xác chồng mà khóc, mà kể lể mọi nỗi khổ của mình. Chị ta gào thét, vật vã bên chồng, cuối cùng chi ta khóc không thành tiếng nữa. Chị ta nghĩ bây giờ mà về thì cũng nghèo đói, lại bị làng bản chê cười là đã bạc bẽo với chồng, chi bằng chết đi cho rảnh. Nghĩ vậy chị ta tự cắn lưỡi mà chết.
Con hổ đó đang lẩn sau bụi cây, nghe hết mọi điều chị ta than khóc lấy làm thương hại lắm. Nó nghĩ bây giờ làm sao mà đền tội cho vợ chồng nhà nghèo này được. Thế là hổ ta bèn đi bắt lấy hai con lợn, chờ đêm đưa xác vợ chồng nọ cùng hai con lợn vừa bắt về đặt ngay trước cửa nhà nọ.
Người con trai nọ thấy mẹ chết theo bố, sợ quá chạy về nhà. Hai anh em kêu khóc thảm thiết. Chiều ba mươi tết, cả làng người đưa đến cân thịt, kẻ đưa đến chiếc bánh, nhưng hai đứa bé đều không thiết ăn.
Sáng hôm mồng một, từ tinh mơ, người ta thấy xác hai vợ chồng ôm nhau chết ngay trước cửa. Bên cạnh còn có hai con lợn chết lăn ra đấy nữa, cả làng đều lấy làm lạ. Khi họ xúm lại xem thì thấy xung quanh đầy đặc vết chân hổ mới biết là hổ mang đến.
Trước cảnh thương tâm đó, dân làng bỏ cả ăn tết để khâm niệm, chôn cất cho vợ chồng họ. Rồi dùng 2 đầu lợn cúng trước 2 vong linh. Về sau hai đứa con lớn lên, hàng năm cứ đến 30 tết lại nhớ tới ngày giỗ bố, mẹ. Hai đứa gói 2 cái bánh trưng rồi buộc hai cái vào nhau đặt lên bàn thờ cúng cha mẹ. Từ đó người Cao Lan cứ đến tết lại gói bánh chưng, hai cái buộc vào nhau, luộc chín để cúng tổ tiên.

34. SỰ TÍCH CÂY HUYẾT DỤ
Xưa có một bác đồ tể chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư cụ hỏi người đàn bà: "A-di-đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây? " Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: "Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng thiếp rất đội ơn". Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông. Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ đã vãn người rồi.
Tức mình vì lỡ mất một buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình. Nhưng lúc bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn nái mua ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: "Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy con của mình khỏi chết". Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật đài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác đồ tể sau đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.

35. SỰ TÍCH KHỈ ĐÍT ĐỎ
Ngày xưa ở một làng nọ có một cô gái bố mẹ chết sớm, không nơi nương tựa, phải đi ở cho nhà giàu.
Một hôm nhà giàu có giỗ, hắn mổ lợn, giết gà ăn uống rất linh đình. Họ hàng tới uống rượu, cười nói nhộn nhạo. Bỗng có một ông cụ già đầu tóc bạc phơi không biết ở đâu đến chống gậy đứng ở cửa xin ăn. Lão nhà giàu trông thấy tức lắm. Hắn vừa trỏ vào ông cụ vừa chửi: - Thằng già kia! Làm gì có cơm cho mày. Cút đi ngay! Mặc cho tên nhà giàu thét chửi, cụ già vẫn đứng yên, miệng van nài: - Nhà ông nhiều cơm, nhiều thịt ăn không hết. Cho già xin đỡ đói!
Tên nhà giàu lấy làm chướng tai và bực mình, hắn đứng dậy khỏi mâm cơm, vác gậy đuổi đánh. Cụ già bị đánh, tập tễnh đi men theo bờ suối vào trong rừng. Cô gái ở thấy cụ già bị đánh thì thương xót lắm. Cô bèn giấu gói cơm cháy phần của mình đi theo và đưa cho cụ già. Cụ già ăn xong, cụ nói: - Con có lòng tốt, biết thương kẻ nghèo khó. Thật là quý hoá con ạ! Bây giờ con muốn gì, ta sẽ giúp con.
Cô gái nghe cụ già nói thế thì ngạc nhiên lắm. Nhưng cô cũng thử bày tỏ ý muốn của mình. - Thưa cụ cháu chả muốn gì cao sang, chỉ mong khoẻ mạnh làm việc có cơm ăn, áo mặc như người ta thôi. Cụ già nói liền chỉ vào cái hồ nước trước mặt và nói với cô gái: - Ở trong ấy có hai khóm hoa: một khóm trắng, một khóm đỏ. Con xuống đấy hái khóm hoa trắng đem về nhà mà ngửi, con sẽ được đủ ăn, đủ mặc.  Nói xong cụ già biến mất.
Cô gái làm theo lời dặn cụ già. Khi cô ngắt khóm hoa trắng, đưa lên mũi ngửi thì trở thành một cô gái xinh đẹp, da trắng nõn nà. Bộ quần áo cô đang mặc bộ quần áo thêu hoa sặc sỡ.
Trở về nhà, tên nhà giàu không nhận ra. Hắn nhìn cô không chớp mắt, dáng điệu khúm núm: - Xin chào cô. Cô là ai? ở đâu đến? Cô gái thật thà đáp: - Tôi là con ở của ông đây mà. Ông không nhận ra tôi ư? Tên nhà giàu lấy làm lạ càng ngạc nhiên hơn kêu lên: - Mày đấy à? Làm thế nào mà xinh đẹp sang trọng thế? Cô bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho tên nhà giàu nghe. Hắn lại càng tiếc và cũng mong có dịp gặp ông cụ lần trước.
Ba hôm sau, có một bà già đến ăn xin nhà tên nhà giàu. Nhìn bà già ghẻ lở hôi hám không những không cho cơm, mà tên nhà giàu còn sai người cầm gậy đuổi đánh. Bà già chạy vào rừng, nhưng lại men theo bờ suối như ông già lần trước. Khi bà già đi, tên nhà giàu nghĩ bụng: “Có lẽ bà này là lão già trước kia con ở của ta gặp chăng?”. Nghĩ vậy, hắn gọi lũ con và bảo: - Này chúng mày ơi! Lấy ngay cơm thịt, rượu đem vào rừng cho cụ già ăn xin. Sẽ được xinh đẹp và sung sướng, nhưng phải làm ra vẻ quý trọng mụ già ấy mới được! Bọn con làm theo lời mang thịt rượu, cơm vào rừng mời bà cụ. Bà cụ ăn xong mới bảo chúng rằng: - Các con có lòng nhân hậu, thương kẻ nghèo khó là tốt lắm. Bây giờ các con muốn gì ta sẽ giúp cho. Lũ con lão nhà giàu tranh nhau đáp.
Bà cụ chỉ cái hồ hôm nọ và bảo lũ con nhà giàu đến đó thấy khóm hoa đỏ, ngắt về ngửi sẽ được ăn sang, mặc đẹp. Đàn con nhà giàu mừng quá, vội chạy về nhà báo cho bố biết. Lão nhà giàu liền gọi tất cả nhà: già trẻ, lớn, bé đi tới hồ có khóm hoa đỏ. Lạ thay vừa ngửi xong, cả nhà ai cũng ngứa ngáy. Chúng thi nhau gãi, càng gãi càng ngứa. Gãi toạc cả da thịt. Những chỗ gãi ấy mọc lông và càng gãi lông càng mọc. Cuối cùng tất cả họ hàng tên nhà giàu biến thành khỉ.
Cô gái ở nhà trông mãi không thấy gia đình nhà giàu về, sau biết lũ chúng biến thành khỉ, cô bèn lấy thóc gạo, ngô, lợn, gà… chia cho người nghèo, chỉ để lại một ít cho mình.
Mấy hôm sau, tiếc của, đàn khỉ kéo nhau về la thét đập phá cây cối, chúng còn lấy đá ném vào nhà, làm cho cô gái rất sợ hãi. Cô gái không biết làm thế nào, đành ngồi khóc. Ông già lần trước bỗng hiện lên hỏi nguyên do. Cô gái thuật lại câu chuyện. Ông già bảo: - Cứ tối con lấy lưỡi cầy nung thật đỏ để ngoài sân. Khỉ ngồi phải, sẽ sợ không dám đến.
Tối hôm sau, bầy khỉ kéo nhau đến đông hơn, chúng xô nhau la hét ầm ĩ. Thấy có vật gì đo đỏ giữa sân chúng tranh nhau ngồi vào. Vừa đặt đít vào chúng nhảy cẫng lên vì nóng. Cọn nọ tưởng con kia đùa nghịch cuối cùng cả đàn khỉ đều bị cháy xém đít, đỏ loét. Lũ khỉ đau quá bỏ chạy lên rừng không dám về phá phách nữa.
Từ đó đến nay loài khỉ con nào cũng đỏ đít và những chỗ cháy xém không mọc lông.

36. SỰ TÍCH CON ĐỈA, CON MUỖI
 VÀ CON VẮT
Xưa có một loại quỷ chuyên ăn thịt người. Chúng thường đón người trong rừng, rồi từ trong bụi rậm nhẩy ra cắn vào cổ. Ai cũng kinh sợ loài quỷ này.
Ở một buôn làng kia, có một người đàn bà goá chồng, sống với ba đứa con trai còn nhỏ. Con quỷ rất thèm ăn thịt ba đứa trẻ này. Nhưng những đứa trẻ suốt ngày chỉ ở trong nhà chơi. Quỷ bèn nghĩ kế.
Một đêm, quỷ giả dạng một người đàn ông mò đến nhà người đàn bà goá. Người đàn bà hỏi: - Anh đi đâu mà đêm hôm đập cửa? Đến thăm nhà ai hay đi đòi nợ ai vậy? Con quỷ nói dối trơn tru: - Tôi đi thăm họ hàng. Chẳng may trời tối mà chưa đến nơi. Tôi xin ngủ nhờ ở lại đây nhé? Nói rồi, quỷ đem khoai, gạo và cá biếu cho người đàn bà và những đứa trẻ nên cả nhà không ai nghi ngờ con quỷ.
Vài hôm sau, con quỷ lại đến nhà. Lần này, hắn đem đến những chuỗi hạt cườm và những chiếc vòng bạc, xin lấy người đàn bà goá làm vợ. Từ đó, trong nhà có thêm người đàn ông. Người đàn ông này rất chăm chỉ làm ăn, nhưng không hiểu sao, hắn chẳng bao giờ nói với ba đứa trẻ một lời. Những lúc người đàn bà đi vắng, con quỷ nhìn ba đứa trẻ chơi đùa, trong bụng đầy thèm khát, nuốt nước miếng ừng ực. 
Một hôm con quỷ nói với vợ: - Hôm nay tôi sẽ vào rừng đan chiếc bồ đựng bắp. Tôi sẽ đưa thằng lớn vào rừng dạy cách đan bồ. Nó đã lớn rồi, phải dạy nó làm lụng chứ.  Người vợ không nói gì cả.
Rồi con quỷ dẫn đứa bé vào rừng. Hắn chặt nứa đan bồ. Đến trưa, con quỷ bảo thằng bé chui vào trong bồ để rút nan. Thằng bé đang loay hoay chui vào bồ thì con quỷ chụp bồ lên đầu. Quỷ cắn cổ thằng bé hút máu rồi ăn thịt. Buổi chiều thấy chồng về một mình, người vợ hỏi: - Ơ kìa, thằng con đâu rồi? Con qủy giả bộ mệt mỏi nói: - Nó mải chơi, bị lạc trong rừng. Tôi tìm suốt từ sáng đến giờ mà không thấy. Chắc con cọp ăn thịt nó rồi.
Người đàn bà nghe nói vậy, khóc lóc thảm thiết.
Mấy hôm sau, con quỷ lại dẫn đứa trẻ thứ hai vào rừng. Hắn lại ăn thịt đứa bé, rồi trở về một mình. Nghe vợ hỏi con quỷ tìm cách nói dối: - Thằng bé đi đường, gặp dòng suối mát. Nó nhảy xuống tắm, rồi bị nước cuốn trôi mất. Người đàn bà thương con, khóc lóc đến chết đi sống lại.
Mấy hôm sau, con quỷ lại tìm cách đưa đứa bé còn lại vào rừng. Người mẹ sinh nghi, nhất định không cho con đi. Nhưng con quỷ khăng khăng bắt thằng bé đi theo. Người mẹ đợi con quỷ đi khỏi liền lẻn đi theo.
Vào đến rừng, người đàn bà núp trong bụi cây, nhìn chồng và con đan bồ. Đến trưa, người đàn bà hoảng hồn vía thấy con quỷ chụp bồ lên đầu con mình rồi cắn cổ thằng bé. Người đàn bà lăn ra bất tỉnh trong bụi cây. Lúc tỉnh dậy, chị hoảng hốt chạy về nhà, vừa chạy vừa khóc.
Dọc đường về nhà, người đàn bà gặp một người đàn ông bên một gốc đa to. Người ấy xưng là thần cây đa Pọ Đàr. Nghe xong câu chuyện thần Pọ Đàr nói: - Đây là một con quỷ hung ác chuyên ăn thịt người. Muốn giết nó, phải dùng mưu mới được.
Rồi thần Pọ Đàr bày mưu cho người đàn bà.
Người đàn bà về nhà, cố vẻ mặt bình thường.
Đến tối, con quỷ về một mình. Vừa về đến nhà chưa đợi vợ hỏi hắn đã huyên thuyên: - Thằng bé mải nhìn chơi, bị lạc trong rừng. Người vợ nhìn mặt chồng, thốt lên: - Kìa ở mặt anh có vết máu! Anh đi rửa mặt đi đã, em xối nước cho. Con quỷ nghe nói mặt mình có vết máu, giật mình lo sợ, người vợ xối nước cho chồng rửa mặt. Chị trút một bầu nước ớt vào mặt con quỷ. Quỷ bị nước ớt chảy vào mắt cay xè, không làm sao mở được mắt nữa. Vừa lúc ấy, người đàn bà cầm cây xà gạc sắc chém vào cổ con quỷ. Con quỷ rú lên đau đớn. Nó giãy giụa mãi, rồi chết.
Máu con quỷ xuống suối, hoá thành những con đỉa. Máu con quỷ chảy vào khe đá và đám lá mục, hoá thành những con vắt. Máu quỷ còn hoá thành những con muỗi vo ve bay lên cành cây, nấp vào những chùm lá rậm.
Cho đến bây giờ, lũ đỉa, muỗi, vắt vẫn luôn tìm cách hút máu người.

37. SỰ TÍCH CHIẾC KÈN MÔI
Trên ngọn núi cao nọ, có một cái hang lớn. Trong hang có một con quỷ dữ. Ngày nào con quỷ cũng thịt bò, ngựa lấy máu làm rượu uống, lấy thịt làm thức nhắm. Khi hết ngựa hết bò, nó lại xuống các bản quanh vùng bắt trâu, bò, ngựa về ăn. Dân bản quanh vùng căm tức con quỷ lắm, nhưng không ai dám chống lại. Thấy chúng mọi người đều bỏ chạy.
Một hôm, nàng công chúa con độc nhất của vua Mèo vào rừng chơi. Cô đang mải mê hái bông hoa đẹp thì quỷ dữ đã đến sau lưng. Hắn nheo mắt ngắm nàng cười khà khà: - Nàng đẹp lắm! Ta sẽ bắt nàng về làm người hầu ta. Nói xong, hắn liền tung tà áo. Tà áo của hắn như có cánh, bay vù đến nàng công chúa và chụp lấy nàng. Quỷ thổi phù một cái, áo cuốn nàng công chúa bay về hang. . .
Công chúa mê đi, lúc tỉnh dậy, nàng đã thấy mình ở hang quỷ. Chợt nhìn xuống chân nàng thấy sợi dây đã buộc ở cổ chân từ lúc nào rồi.
Quỷ bắt công chúa hầu hạ nó. Ngày ngày, nàng phải xuống suối dưới chân núi vác nước về cho quỷ tắm rửa. Nàng buồn rầu và nhớ nhà lắm nhưng không làm cách nào trốn được, vì hễ động mạnh một cái là sợi dây thừng lại báo cho quỷ biết ngay.
Một buổi sáng kia, nàng xuống suối vác nước thấy một con cá đẹp đang bơi lội tung tăng trước mặt. Thỉnh thoảng, cá lại ngoi lên mặt nước, nhìn nàng bằng đôi mắt óng ánh. Công chúa nhìn con cá tung tăng vui sướng, nghĩ phận mình cực khổ, nàng cất tiếng than: - Cá buồn cá lội tung tăng / Ta buồn ta biết ngỏ cùng ai đây? / Quanh ta trời thẳm đất dày.  / Tấm thân tù tội biết ngày nào vui.
Nghe lời than của nàng, con cá bỗng nổi lên và hoá thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Chàng trai bước lên bờ, đến bên nàng và nói: - Ta là con trai của vua Thuỷ Tề. Nghe tin nàng bị quỷ dữ bắt giam ta vội lên đây để cứu nàng. Chàng trai vội cõng công chúa lên lưng và băng rừng chạy trốn nhưng trong lúc vội vã chàng quên mất sợi dây thừng đang buộc chân. Thấy động, sợi dây báo cho quỷ biết, quỷ tức giận, gầm lên vang động như sấm rền và lấy kính thần ra soi. Chàng trai cõng công chúa đi được một lúc thì bị sợi dây thừng níu lại. Biết không thể đi xa đuợc trong lúc này, chàng liền phù phép biến nàng thành một bông hoa, còn chàng thành cành lá che chở cho nàng. Biết mưu kế của chàng trai, quỷ liền hoá phép thành một đàn ong ào ào bay tới đốt. Cành lá bị ong châm, lá rụng, lá lại thành chàng trai, còn hoa bị ong châm lại thành công chúa. Quỷ nắm dây thừng lôi công chúa về. May chàng trai trốn được. Chàng đi lang thang, lòng buồn rầu, tiên ông hiện đến và cho chàng một con dao, một chiếc lá, rồi ân cần dặn chàng: - Khi nào con muốn nói gì với vợ con, con hãy để chiếc lá này vào miệng và nói, vợ của con sẽ nghe tiếng. Tiên ông lại hiện đến chỗ nàng công chúa, cho nàng chiếc lá và bảo: - Khi nào con muốn nói gì với chồng con, con cứ để chiếc lá này vào miệng mà nói, chồng con sẽ nghe thấy. Nói rồi ông tiên biến mất. Công chúa có chiếc lá nên đã nói với chàng tất cả nỗi đau khổ của nàng và mong chàng mau cứu nàng.
Lần này, hai người hẹn gặp nhau ở ngoài suối. Nhờ có dao của tiên ông cho, chàng chém đứt dây thần và cõng nàng chạy trốn. Dây thừng bị đứt, báo ngay với quỷ. Quỷ liền đuổi theo. Hai người vừa chạy đến bờ sông lớn thì đã thấy bóng quỷ thấp thoáng đằng sau. Thấy vậy, chàng liền quay ra bờ sông, lấy tay vỗ nước và gọi: - Hỡi đàn cá lớn nhỏ! Hỡi cá chép, cá chầy! Hãy đưa ta qua sông!
Vừa dứt lời chàng đã thấy một con cá lớn rẽ sóng lội vào và đưa hai người qua sông. Quỷ đuổi đến bờ sông cởi áo khoác tung lên trời. Tấm áo bay, đưa quỷ vượt qua sông rộng. Hai người đến một ngọn núi. Quỷ đuổi đến ngọn núi cũng tung áo lên và áo đưa qủy qua núi. Quỷ đuổi gần kịp hai người, liền dừng lại, thổi phù một cái, tấm áo bay vù vù và chụp lên đầu hai người và cuốn chặt lấy. Bắt được rồi, quỷ đánh chàng trai chết và bắt công chúa về. Cái chết của chàng trai đến tai tiên ông. Tiên ông liền phù phép cho chàng sống lại và cho chàng một thanh kiếm, một chiếc nỏ, rồi bảo chàng: - Lần này, con hãy cõng vợ chạy vào rừng chuối.
Chàng liền để chiếc lá vào mồm và hẹn vợ ra suối để cùng trốn. Yên chí chàng đã chết, quỷ lại cho nàng đi vác nước dưới suối, chàng liền dùng kiếm cắt dây thần và cõng nàng chạy vào rừng chuối. Quỷ biết, đuổi theo. Chàng vừa chạy vừa chặt chuối chặn đường quỷ. Vướng chuối, quỷ trượt chân ngã. Nó liền hoá ra sấm chớp, thổi mây đen tối mịt để không cho chàng chạy, chàng liền gương nỏ bắn tan những đám mây. Quỷ hoá ra lửa đốt hai người, chàng liền phun nước dập tắt. Cuối cùng, quỷ tung áo lên để bắt chàng. Chàng gương nỏ bắn rách áo. Thế là quỷ hết phép, chàng kết liễu đời nó bằng một nhát kiếm.
Chàng đưa vợ về cung vua. Vua cha thấy thế mừng rỡ, làm lễ cưới cho hai người và phong chàng làm phò mã. Từ đó, mỗi khi vui chơi, chàng lại mang chiếc kèn môi ra thổi, để nhớ lại những kỷ niệm xưa. Dân bản Mèo cảm phục gương anh dũng của chàng nên cũng làm kèn môi để thổi. Và cứ mỗi đôi thanh niên nam nữ yêu nhau, họ lại dùng tiếng kèn môi thủ thỉ tâm tình.

38. SỰ TÍCH TRÂU MỘT HÀM
Một con cọp từ trong rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc nhiên. Đến trưa, mở cày, cọp liền lại gần trâu hỏi: - Này, trông anh khoẻ thế, sao lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?
Trâu trả lời khẽ vào tai cọp: - Người tuy nhỏ, nhưng người có trí khôn, anh ạ! Cọp không hiểu, tò mò hỏi: - Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào? Trâu không biết giải thích ra sao, đành trả lời qua quýt: - Trí khôn là trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!
Cọp thong thả bước lại chỗ anh nông dân, ôn tồn nói: - Trí khôn của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không? Anh nông dân suy nghĩ một nát rồi nói:- Trí khôn tôi để ở nhà. Để tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần tôi sẽ cho anh một ít. Cọp nghe nói, mừng lắm.
Anh nông dân toan đi, lại làm như sực nhớ ra điều gì, bèn nói: - Nhưng mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn thịt mất trâu của tôi thì sao? Cọp đang băn khoăn chưa biết trả lời như thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp: - Hay là chịu khó tôi buộc tạm anh vào gốc cây này cho tôi được yên tâm. Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy thừng trói cọp chặt vào gốc cây. Xong anh nông dân lấy roi quất túi bụi vào đầu, vào lưng cọp, vừa quất vừa thét: - Trí khôn của tao đây! Trí khôn của tao đây. Cũng chưa hả, anh chất rơm chung quanh chân cọp, châm lửa đốt và lại quát:  - Đã thấy trí khôn của tao chưa? Đã thấy trí khôn của tao chưa?
Trâu thấy vậy thích quá, bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc nào.  Mãi sau dây thừng đứt, cọp mới vùng dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoảnh lại nhìn. Từ đó, cọp sinh ra trên mình con nào cũng có vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy, còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.

39. SỰ TÍCH HOA BÍCH ĐÀO
Ngày ấy, người giàu và người nghèo, người vùng thấp và người vùng cao, người thị thành và người nông thôn... còn phân biệt và coi khinh nhau. Họ ít kết bạn, đặc biệt là không kết duyên với nhau.
Một chàng trai người dân tộc thiểu số, con một gia đình nghèo sống trên núi Mẫu Sơn, từ nhỏ đã có năng khiếu đặc biệt về một số mặt. Chàng thường đàn hát, dệt vải, thiết kế nhà cửa, làm cày bừa rất khéo, nên nhiều người hay nhờ chàng giúp. Các phong tục tập quán, các bài dân ca của dân tộc, chàng đều thuộc. Mỗi khi bản có cuộc vui, chàng đều đến kể chuyện và hát cho mọi người nghe. Các cô gái nghe chàng hát ai cũng như muốn nuốt lấy từng lời, đang đi gánh nước cũng phải dừng chân lại nghe, đang trên đường lên nương cũng ngẩn ngơ không muốn bước. Nhiều cô đã mạnh bạo đến nhờ chàng dạy cho bài hát, hướng cho vài điệu dân ca.
Núi rừng Mẫu Sơn không còn đủ để chàng mở rộng tầm nghĩ, tầm nhìn. Chàng xin phép bố mẹ và bà con trong bản xuống thị thành học thêm cái khôn. Ngày chàng ra đi, người thân đưa tiễn, cây rừng cũng lao xao vẫy chào tạm biệt. Các cô gái vừa mừng cho chàng, vừa buồn vì phải xa chàng không được nghe tiếng hát, đặc biệt lo chàng đi xuống thị thành thấy nhiều điều lạ và vui, sẽ quên núi rừng, quên các cô...
Đến thị xã Lạng Sơn, chàng vào trọ một gia đình nông dân cách chợ Kỳ Lừa khoảng hai cây số về phía Lộc Bình - Mẫu Sơn. Gia đình này neo đơn, ít con và khó khăn, ông bà chủ nhà rất tốt bụng, đã nhận chàng làm con nuôi. Chàng vừa học vừa lao động giúp cha mẹ nuôi làm mọi việc. Từ đó, ông bà chủ nhà đỡ vất vả và đời sống dễ chịu hơn. Cả bản mừng cho ông bà gặp may, khen chàng trai khéo tay tốt nết.
Chàng trai vùng cao học rất giỏi. Không chỉ giỏi chữ mà chàng còn giỏi võ, giỏi ứng xử trong giao tiếp, không làm mất lòng bạn bè... Thầy giáo quý chàng, bạn bè kính nể chàng. Trong lớp, có một tiểu thư rất xinh đẹp, con một viên quan lại giàu sang. Nàng học cũng rất giỏi mà lại tốt tính tốt nết, không kiêu căng, hay thương người, chân thành với bạn bè. Nàng cũng được thầy giáo và bạn bè yêu quý.
Chàng trai vùng cao và tiểu thư con quan thường hỏi nhau, bảo nhau học hành, nên họ hiểu nhau, quý tài đức của nhau. Hai người, cũng hay giúp bạn bè học tập. Những ngày nghỉ, sau khi làm xong các công việc nhà, họ rủ nhau leo lên đỉnh các ngọn núi Tam Thanh để ngắm nàng Tô Thị ẵm con chờ chồng, ngắm cảnh thị xã Lạng Sơn có dòng sông Kỳ Cùng chảy qua êm đềm, thơ mộng. Cứ thế, cứ thế, họ kể cho nhau nghe bao truyền thuyết, huyền thoại về Xứ Lạng. Ba năm đã trôi qua một cách nhanh chóng và họ đã yêu nhau thắm thiết. Thầy giáo và bạn bè ủng hộ mối tình trong sáng của đôi bạn.
Nhưng trước mắt họ không phải ngọn núi Chớp Chài hay dãy Mẫu Sơn cao vời vợi ngăn cách, mà là sự cách trở bởi giàu nghèo, bởi dân tộc, bởi ngược xuôI mà cha nàng rất phân biệt.
Biết hai người yêu nhau thắm thiết, cha nàng đã đánh đập nàng thậm tệ. Không những thế, ông ta còn doạ dẫm, khủng bố tinh thần chàng, bắt nhà trường đuổi học. Nàng bị giam trong phòng kín và hai người không được gặp nhau nữa. Chàng rất buồn và nàng rất đau khổ. Nỗi đau của trái tim không được yêu người mình yêu quý còn hơn cả nỗi đau thể xác. Nàng khóc ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, không ăn, không uống, dù ai khuyên nhủ cũng mặc.
Yêu mà không lấy được người mình yêu, chàng viết một tâm thư đẫm nước mắt để ly biệt, tỏ ý cám ơn về tấm lòng cao thượng, tình cảm đẹp đẽ mà nàng đã dành cho chàng và tỏ ý xin lỗi vì đã không đáp lại được tình yêu của nàng...
Nhận được thư nàng khóc thảm thiết. Dòng sông Kỳ Cùng cũng cuộn lên nỗi quặn đau chia xa của đôi trai tài gái sắc. Nàng xé vạt áo trắng đang mặc để viết bức tâm thư bằng máu nói lên mối tình của mình với chàng với những lời thống thiết, xót xa và tuyệt vọng. Nàng hẹn thời gian và địa điểm để gặp chàng lần cuối. Đợi lúc khuya vắng, nàng đã tìm cách ra ngoài và đến với người yêu. Nàng trao bức huyết thư cho chàng và ôm lấy chàng khóc nức nở, khóc rất lâu ở một sườn đồi gần nhà chàng trai trọ học. Hai người cùng khóc, khóc cạn nước mắt, khóc đến nỗi máu mắt cùng bật ra, hoà với huyết thư, rơi xuống đất. Gần sáng họ phải lìa nhau trong tiếng khóc thương thắm thiết. Nàng quay lại nhà. Chàng nặng nề lên bước về với núi rừng Mẫu Sơn. Nước mắt hoà máu của đôi bạn trẻ rơi xuống dọc đường đi về đến tận nhà. Từ đó, hai người nhớ thương sầu thảm rồi lâm bệnh nặng. Họ mất đi trong nỗi tiếc thương vô hạn của người dân bản làng và bạn bè, thầy giáo.
Mùa xuân năm sau, người ta thấy ở nơi đôi trai gái gặp nhau lần cuối (sau này gọi là Kotào - đèo hoa đào) và trên đường đi của hai người về nhà mọc lên một loại cây nở những bông hoa cánh đỏ tươi như máu. Người ta gọi đó là hoa bích đào. Màu đỏ tươi ấy của hoa chính là máu và nước mắt của đôi bạn trẻ viết lên bức huyết thư, đã rỏ xuống đất nơi họ ngồi và rơi suốt dọc đường đi của hai người…

40. SỰ TÍCH HỘI BƯA LỪA
Ngày xưa, tại Pác Cáp, Văn Mịch (xã Hồng Phong, huyện Bình Gia ngày nay) có hai vợ chồng làm nghề đánh cá sống hoà thuận thương yêu nhau, vậy mà trên bốn mươi tuổi vẫn không có một mụn con.
Một đêm, bà vợ nằm mơ về thăm quê ngoại. Đi được nửa đường mưa to ập đến, sấm chớp ầm ầm, một tia sét đánh trúng mạng sườn. Bà giật mình tỉnh giấc và kể lại cho chồng. Họ đều cho là điềm lành, từ đấy bà có thai. Hai vợ chồng vẫn ngày đêm đi đánh cá.
Hôm ấy, họ vẫn đi đánh cá như thường lệ. Mẻ lưới đầu tiên chẳng được con cá nào mà chỉ được một quả trứng. Họ ném quả trứng đi thật xa và xuống Hát Quang đánh cá. Mẻ lưới thứ hai kéo lên lại vẫn được quả trứng ấy. Họ lại ném đi và bơi ngược dòng lên Hát Lải (Hoa Thám) kéo lưới. Lạ thay lần này vẫn được quả trứng ấy. Hai vợ chồng đem về cho gà ấp thử, một thời gian sau trứng nở ra một con rắn có mào đỏ trên đầu, ông bà đánh cá bèn nhận nó là con. Từ lần ấy mỗi lần đi đánh họ thường được rất nhiều cá. Nhờ vậy, chẳng mấy chốc kinh tế gia đình trở nên sung túc. Họ rất biết ơn và quý cậu con rắn của mình.
Bà vợ mang thai đủ tháng, đủ ngày và sinh ra được một cậu con trai. Vì sinh sau rắn nên cậu là em. Ngày tháng qua đi hai anh em lớn lên, càng lớn càng quý mến nhau. Hàng ngày bố, mẹ đi đánh cá, rắn ở nhà trông em. Một hôm bố mẹ đi đánh cá xa, buổi trưa nóng và oi hai anh em vẫn rủ nhau ra sống Văn Mịch tắm. Rắn lặn được sâu và bơi được xa hơn. Cậu em bơi yếu không dám bơi theo, rắn càng bơi càng thích thú. Thừa cơ lúc rắn không chú ý, nàng thuồng luồng bắt mất em của mình. Vô cùng buồn bã, rắn bò về nhà và chui vào chỗ ngủ của mình. Tối đến, bố mẹ về và thấy nhà tối om, cứ tưởng hai con mải chơi ở đâu. Vào nhà chỉ thấy rắn mà không thấy cậu con trai đâu, bố mẹ hỏi rắn: - Em đâu? Rắn giàn dụa nước mắt kể lại: - Em bị thuồng luồng bắt mất rồi.
Ông bà đánh cá kêu trời khóc lóc thương cho số phận hẩm hiu của cậu con trai xấu số. Ông bà buồn bã chẳng thiết làm gì nữa. Rắn thì càng ngày ăn càng khoẻ, càng lớn nhanh như thổi. Chẳng mấy chốc nó dài và to như cột nhà, có mào to như quạt nan đỏ rực. Một bữa ăn của rắn bằng ông bà ăn mấy ngày. Vì thế số của cải làm ra chẳng mấy chốc mà hết. Kinh tế ngày một cạn kiệt không nuôi nổi rắn nữa, ông bà phải nói với rắn rằng: - Nay bố mẹ đã già yếu và nghèo khó quá không nuôi nổi con nữa. Con hãy tự đi kiếm sống ở nơi nào đó cho đỡ khổ. Nhưng nhớ thỉnh thoảng về nhà thăm bố mẹ. Rắn hiểu lòng bố mẹ và rất buồn, mất em rồi lại phải xa cha mẹ.
Dân làng nghe nói ông bà đánh cá có người con bị thuồng luồng bắt, trong nhà lại nuôi một con rắn to nên kéo nhau đến chia buồn và xem rắn. Nhìn thấy con rắn to và có mào đỏ rực, nhiều người đã nhìn thấy thuồng luồng nên họ khẳng định đây là thuồng luồng. Vì thế, nó cũng độc ác như con thuồng luồng khác. Dân làng nghĩ vậy, dù rất lo sợ nhưng vẫn reo hò, cầm dao, nhặt đá đuổi rắn đi để khỏi gây tai vạ cho con người. Ngày ấy là ngày 25 tháng 3 âm lịch rắn bò ra khỏi nhà và đau đớn vì dân làng không hiểu được mình. Buồn bã, rắn đến cây đa to ở Pác Cáp, bò lên ngọn cây treo mình mấy ngày liền làm cho dân làng càng sợ hơn. Họ đi mời thầy về yểm bùa. Rắn trườn xuống dưới gốc nằm một ngày một đêm. Rạng sáng ngày 4 tháng 4 âm lịch, rắn từ gốc đa trườn xuống sông nơi trước đây em trai mình bị thuồng luồng bắt. Rắn vặn mình ba cái và thét lớn rằng: - Tao sẽ giết hết chúng mày, lũ thuồng luồng độc ác. Chúng mày đã gieo tai họa cho con người và làm ta phải vạ lây bị đuổi, xa cha mẹ.
Rắn quăng xuống sông bơi ngược, bơi xuôi vào tất cả các hang hốc giết chết tất cả các con thuồng luồng trên dòng sông Văn Mịch, xong rắn về từ biệt cha mẹ, hẹn cứ ba năm về thăm một lần rồi xuống sông đi theo dòng ra sông Kỳ Cùng. Từ đó người dân Văn Mịch không phải lo sợ thuồng luồng như trước nữa.
Còn hai vợ chồng người đánh cá càng già yếu. Vào một ngày nọ hai vợ chồng ông bà qua đời cùng một lúc. Dân làng chôn ông ở cạnh cây đa Pác Cáp và dựng lên một cái đình gọi là Đình Ông, bà vợ được chôn cất bên kia sông và cũng lập một cái đình đối diện gọi là Đình Bà.
Từ đó trở đi cứ năm nhuận vào ngày 4 tháng 4 âm lịch, rắn lại về Văn Mịch thăm bố mẹ và bà con láng xóm. Biết ơn rắn đã trừ được thuồng luồng độc ác nên vào ngày tháng này bà con Văn Mịch lại tổ chức một lễ hội trọng thể để đón rắn về thăm. Đó là hội Bưa Lừa.

41. SỰ TÍCH HỔ KHÔNG ĂN THỊT MÈO
Ngày xửa, ngày xưa, có chị em hổ dẫn nhau đi tìm cái ăn, nhưng vì mùa đông giá rét không kiếm được mồi ăn nên bụng hai đứa đói cồn cào, chân tay run lẩy bẩy… Và khi qua khỏi eo núi cuối cùng, chị em hổ thấy một nhà đang đun gì đó, lửa than cháy rừng rực và có cảm giác ấm hẳn người lên! Hổ em ngồi sát vào hổ chị, miệng thủ thỉ: “Chị ơi! ước gì mình cũng có được ít lửa đó để sưởi như các em bé ngồi đó!”. Hổ chị nghe thấy hổ em nói hợp ý mình, liền bàn: “Hình như nhà người đang nấu bánh tết đấy! Nhiều lửa lắm em vào nhà xin đi!” Hổ em trông thấy cái thang bắc lên sàn nhà cao quá, một cậu bé lại dùng một con dao lưỡi sáng loáng gọt đẽo gì đó đâm sợ, liền thưa: “Chị lớn chân khoẻ tay chị đi đi! Em đói, chân em nhỏ không trèo nổi cái thang đó đâu!…”
Thích thú và thèm muốn có lửa, chị em hổ cứ dùng dằng, đưa đẩy nhau không ai chịu ai… Mãi tận canh khuya, chúng biết hai đứa bé đã ngủ say, chỉ còn mình bà già canh chừng bếp củi. Con chó mực cũng không còn thấy nằm ngoài sàn nữa, lại bị hổ chị bắt buộc nên hổ em đánh liều mò lên nhà xin lửa… Nhưng trời về khuya, sương đậm nặng hạt nên thân mình hổ em bị ướt sũng, lông bết hết vào da trông nhỏ xíu, răng đánh vào nhau run cầm cập… Bà cụ nhác trông thấy con vật lạ, dáng gầy nhom lại hiền lành như thế, nên bà cụ bế vào cạnh bếp cho nó sưởi, lấy ít bánh mà hai đứa cháu vừa ăn xong cho nó ăn…
Sau khi đã khô lông, bụng lại được no, hổ em nán chờ cho bà đưa hai đứa cháu bé vào buồng xong sẽ lẻn xin ít lửa đem cho hổ chị… thì tiếng chó ở nhà trên xóm dưới sủa ăng ẳng, tiếng pháo giao thừa đã bắt đầu nổ đì đùng… Thấy thế hổ chị liền ba chân bốn cẳng phóng thẳng vào rừng sâu… Khi hổ em lấy được lửa ra tới nơi tìm mãi không còn thấy hổ chị ở eo núi nữa nó đành đem lửa trở lại nhà chủ và xin bà ở sưởi tới đêm sau sẽ lại ra đi tìm…
Từ khi được sống ở trong nhà, lại luôn gần lửa và được hai bé cháu bà cụ yêu chiều - đứa thì cho gặm xương cẳng gà, thằng thì cho cả khúc đầu cá lúc nào cũng no nê, hổ em cứ “khò khè” nằm cạnh bếp suốt buổi - cũng có lúc thấy hổ em kêu “meo meo…” làm cho tụi trẻ càng thêm thích thú...
Mấy đêm liền hổ chị qua tìm hổ em nhưng chó bản dữ quá nên không dám tới gần nhà… Mãi tới tận một đêm, thấy nhà im ắng hổ chị mò vào gần sàn nhà, trông thấy hổ em ngủ ngáy “khò khò” ngon lành bên bếp than hồng, hổ chị khe khẽ cất tiếng “meo meo”… gọi, chợt mấy con chó ở đâu xô tới, hổ chị phải lao ngay lên tảng đá có chùm rễ si thòng xuống mới thoát khỏi đàn chó!  Và cũng từ bữa đó hổ chị rất lấy làm căm hổ em - tức là con mèo nhà ngày nay…!
Do xa xưa quan hệ “chị em” với mèo nhà như vậy cho nên hổ không bao giờ ăn thịt mèo - nếu có cắn chết hoặc bắt sống được mèo, hổ cũng lấy về làm “đệm ngồi” cho tới lúc nào xác mèo lạnh cứng thì hổ mới bỏ đi chỗ khác.

42. SỰ TÍCH MƯA, GIÓ, MẶT TRỜI
VÀ MẶT TRĂNG
Ngày xưa, ở một sóc nọ có một cặp vợ chồng nông dân nghèo. Người chồng bị bệnh qua đời sớm, để lại bốn đứa con thơ. Ruộng rẫy chẳng có là bao, nên người phụ nữ goá chồng ấy phải làm lụng vô cùng cực nhọc, từ việc mót lúa, hái rau, đào củ đến việc đi làm thuê, làm mướn cố gắng nuôi con nên người theo lời dặn của chồng trước khi hấp hối.
Một hôm, có người bà con ở sóc bên mời bà đi dự đám làm phước. Thương các con lâu ngày chưa được miếng ngon, bà nhường cho các con đi thay mình.
Khi đến nhà người bà con, thấy mâm cao cỗ đầy, thịt cá, bánh trái ê hề, ba người anh lớn mải lo ăn uống no nê, vui cười hỉ hả. Riêng người em út, khi ăn miếng ngon vẫn nhớ đến người mẹ tần tảo suốt một đời hy sinh cho con cái ở nhà. Anh ta bèn lấy lá, tìm cách gói riêng một gói bánh để mang về cho mẹ.
Trên đường về nhà, ba người anh lớn phát hiện em mình có gói quà mang về cho mẹ bèn đề nghị đem ra cùng chia nhau ăn nốt. Người em út không chịu. Nhưng ba người anh giật được gói bánh, đem lại gốc cây gần đấy, chia nhau ăn sạch. Người em út rất căm giận sự bất hiếu của các anh, nhưng chẳng biết làm gì hơn nên oà lên khóc. Về nhà, người mẹ thấy người em út đi ăn cỗ về, nhưng sao lại không vui, đôi mắt đỏ hoe, bèn hỏi. Người em út thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người mẹ vừa thương vừa giận. Rồi bà buột miệng trách: “Ba đứa bay, sống chẳng biết nghĩ tới ai, mai sau có chết cũng chẳng ai quý, ai thương đâu. May ra, có thằng út..”
Về sau, ba người anh qua đời, hoá kiếp thành Mưa, Gió và Mặt trời. Bên cạnh sự hữu ích mà nó mang lại cho cuộc sống loài người, thì nó cũng đưa lại lắm tai hoạ. Mưa dầm gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây cối, hoặc nắng hạn đất ruộng không gieo cấy, trồng trọt được gì, nên ai cũng ghét. Đó là dấu ấn về tính cách của ba người anh bất hiếu. Chỉ có người em út, sau khi chết hoá thành Mặt trăng với ánh sáng dịu hiền, toả rộng muôn nơi giống như bản chất của con người biết nhường nhịn, hiếu thảo.

43. SỰ TÍCH THẦN GIỮ CỦA
Ngày xưa ở vạn Lai Triều thuộc trấn Sơn Nam có một người lái buôn người Trung Quốc sang sinh cơ lập nghiệp. Sau mấy chục năm, nhờ mánh khoé đầu cơ: buôn lúc đầu mùa, bán khi giáp hạt, lãi mẹ đẻ lãi con, hắn trở nên giàu có lớn. Vàng bạc từ nhà hắn tuồn ra khỏi bờ cõi nước ta. Đã nhiều lần sai người lén lút đưa vàng ra nhưng không che được mắt nhà chức trách nên của cải bị tịch thu, còn người thì bị đuổi ra khỏi nước. Vì thế, hắn mới nghĩ cách chôn giấu một số vàng bạc ở bên này để rồi ngày sau, chờ khi có cơ hội tốt, con cháu hắn sẽ sang lấy về. Hắn chuẩn bị việc đó rất kỹ lưỡng. Lấy cớ thờ Phật hắn xin phép làng sở tại dựng một ngôi chùa trên một cái đồi hoang ở gần nhà. Và khi đào móng làm chùa, hắn bí mật xây một cái hầm chôn của ăn sâu xuống dưới đất. Còn việc bảo đảm cho của cải khỏi mất, hắn sẽ tìm một người con gái đồng trinh chôn luôn bên cạnh vàng bạc để làm thần giữ của cho hắn. Nếu không phải là người hô đúng tín hiệu mà hắn ước hẹn với thần thì đừng hòng đưa một ly của cải của hắn lên khỏi mặt đất. Thần sẽ vật chết bất cứ một người lạ nào đến cửa hầm. Khi mưu tính đã kỹ lưỡng hắn bèn để ý đi tìm một người con gái đồng trinh.
Hồi ấy ở vùng có một ông giám sinh, nhà không có một mảnh đất cắm dùi. Ông có một người con gái tuổi mười tám, chưa có chồng. Nghe tin, người khách buôn vội mang cau rượu đến hỏi cô gái về làm vợ lẽ. Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể được nơi nương tựa, nhưng ông giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con cho người nước ngoài mà ông còn ghét thói con buôn, cho vay nặng lãi của những bọn như hắn. Hắn cũng biết thế, bèn đặt lên mâm một trăm lạng vàng, nói là xin đưa làm sính lễ. Trông thấy những nén vàng sáng chói, ông giám sinh nghĩ đến những món nợ chưa cách gì trả được. Cuối cùng ông đành nhận lời gả con cho hắn.
Từ khi lấy vợ về, người khách luôn cho nàng ở một buồng riêng. Hắn rất chăm chút, rất ghen tuông, nhưng có một điều là chẳng bao giờ ăn nằm với nàng. Cả đến cá thịt hành tỏi hắn cũng không cho ăn, lấy cớ là phải ăn chay niệm phật. Ba tháng một lần, hắn lại cho nàng một bộ áo xống mới. Cứ như thế sau hai năm, cô gái vẫn còn phòng không bóng chiếc.
Một hôm, nàng cố xin phép chồng về nhà thăm cha. Hắn từ chối mãi không được, bất đắc dĩ phải cho đi nhưng căn dặn phải kiêng khem và phải trở về ngay. Cha con lâu ngày gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông giám sinh tỉ tê hỏi: - Từ khi con ra đi, cha rất hối hận. Nếu ta không túng thì con đâu chịu cảnh lẽ mọn này. Vậy thường ngày nó đối với con ra làm sao? Vì sao về đã hai năm chưa sinh nở gì cả?
Nghe cha hỏi thế, cô gái khóc lóc kể hết sự tình.
Ông giám sinh ngạc nhiên: - Thôi rồi nó chọn con làm thần giữ của, không nghi ngờ nữa. Vậy con có thấy trong nhà có chuyện gì lạ không? Người con lại nói: - Trước kia ăn cơm tối xong là nó khoá cửa ngủ ngay. Nhưng vài tháng nay tối nào cũng thấy bố con nhà nó vác cuốc thuổng đi, gần sáng mới về. Nghe thế, ông giám sinh kêu lên: “Thế là việc sắp đến nơi rồi!”. Suy nghĩ một chút, ông đi lấy hạt vừng và hạt cải gói lại đưa cho con và dặn rằng: - Con hãy về sớm cho nó khỏi ngờ. Hễ lúc nào nó đem con đi đâu thì nhớ rắc những hạt này xuống bên lối đi, để cho cha biết mà tìm. Từ đó, ông giám sinh đến thăm con luôn: có khi ba ngày một lần, có khi năm ngày một lần. Ông không vào nhà rể, chỉ đứng ngoài cổng nhìn vào. Hễ thấy mặt con gái, ông mới yên tâm lui gót.
Một lần ông bận chút việc chưa đến được, phải mười ngày sau ông mới tới thì không thấy bóng dáng con đâu nữa. Chờ lâu sốt ruột, ông vội bước vào nhà rể, làm bộ tới thăm. Người lái buôn thấy ông đến, lăng xăng tiếp đón ra chiều thân mật. Hắn cho biết là vợ mình còn bận lên kinh đô cất hàng chưa về. Ông giám sinh vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên, nhận lời mời của rể ở lại ăn cơm trưa. Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn quanh, quả thấy hai bên lối đi đâm ra đồng, vừng và cải đã mọc xanh lăn tăn như đánh đấu.
Lập tức, ông đi một mạch đến dinh trấn Sơn Nam. Trước mặt quan trấn thủ, ông trình bày mọi việc xảy ra. Quan trấn thủ liền điểm lấy năm trăm quân sĩ đi suốt đêm về vạn Lai Triều, cho đòi người lái buôn nước ngoài đến đối chất thì hắn chối lấy chối để. Người ta theo chân ông giám sinh lần theo con đường mà vừng và cải đã mách hộ, đi cách nhà người khách chừng nửa dặm, thì ông thấy một cái am con vừa mới xây xong trên một cái đồi hoang. Ông giám sinh thưa: “Hẳn chỗ này chứ không sai. Xin cho đào lên để khám!”, nhưng người rể của ông lại nhất định không chịu. Hắn nói tới động mạch đất có quan hệ với vận mệnh nhà hắn nên cố tình không cho lính đào.
Liền đó, quan trấn thủ bắt hai bên làm tờ cam kết. Nếu đào không thấy gì thì ông giám sinh phải bỏ tiền ra xây lại am và phải bồi thường thiệt hại cho chàng rể. Trái lại, nếu phát hiện được tiền nong của cải gì thì người chủ cái am đó không được nhận. Giấy làm xong, người khách buôn không chịu kí, nhưng cũng nhất định không chịu thú nhận. Thấy thế, quan lại càng ngờ vực, liền hạ lệnh cho lính cứ đào ngay, dù chủ muốn hay không cũng mặc.
Mới đào được một khoảng rộng bằng cái nong thì đã thấy hiện ra một bờ gạch xây chìm. Bờ gạch này chạy chừng một gian nhà, sâu xuống ngập đầu người, trên xây theo lối cuốn bằng gạch Bát Tràng kiên cố. Trong khi người khách buôn lăn ra khóc nức nở thì một toán lính đã tìm được hầm. Lớp gạch vừa đổ xuống thì đã hiện ra ánh sáng le lói của hai ngọn đèn. Họ đi lần vào thì thấy cô gái ngồi ngay cạnh đèn, trên một cái ghế tựa bằng đá, đầu gục xuống, hai chân dạng hai bên, mỗi chân đạp lên một cái cong lớn. Ông giám sinh mếu máo ôm chầm lấy con. Nhưng ông không sao nhấc con lên được vì hai tay cô gái đã bị trói vào bành ghế mà miệng thì bị gắn kín bằng nhựa. Mở nhựa ra thấy trong đó có một  củ sâm chưa tan hết. Ngực nàng vẫn còn đập thoi thóp. Người ta vội vực lên để cứu chữa, đồng thời trói gông tên lái buôn gian ác giải đi.
Khi toán lính soát mọi vật thì thấy hai cái cong mà cô gái đạp chân lên, mỗi cong đều có chữ: “Một nghìn cân hoàng kim”. Bên tả bên hữu có 2 dãy cong nhỏ mỗi dãy mười cái, ngoài đều có đề chữ: “Năm trăm cân bạch kim”. Mở ra điểm lại, đúng như số đã để. Hai cây đèn cũng một bằng vàng, một bằng bạc.
Nhờ sự chăm sóc chu đáo nên cô gái dần tỉnh lại. Nghe kể chuyện, người ta mới biết cô đã bị chôn sống đã được mười ngày. Quan trấn thủ chia số của cải đó ra làm ba: cha con ông giám sinh được hưởng một phần, còn bao nhiêu tịch thu làm của công. Còn người lái buôn bị đem ra pháp trường xử trảm.

44. SỰ TÍCH SẤM SÉT
Ngày xưa, cách nay đã lâu lắm, chằn Ra-ma-sua và nàng tiên Mê-kha-la cùng theo học phép thần thông của một vị đạo sĩ. Cả hai đều chăm học nên chẳng bao lâu họ đều lĩnh hội được nhiều phép thuật kỳ tài. Vị đạo sĩ thấy cả hai học hành chăm chỉ thì có lòng thương mến. Khi truyền hết những phép thuật thần thông mà mình có, ông muốn thử tài Ra-ma-sua và Mê-kha-la nên bảo rằng: - Này, ta cho hai con mỗi đứa một cái chén ngọc. Trong buổi sáng mai, trong hai con, ai đem đến cho ta đầy một chén sương mai, ta sẽ biến nó thành viên ngọc quý Ma-nô-ha-ra. Kẻ nào có ngọc này thì muốn gì được nấy.
Sáng hôm sau, cả hai người học trò đều dậy rất sớm. Chằn Ra-ma-sua cầm chén hứng sương đọng trên lá cây rừng. Chằn chạy khắp rừng suốt buổi sáng, nhưng hứng mãi vẫn không đầy chén sương. Còn nàng Mê-kha-la, khôn ngoan hơn, lựa một miếng vỏ cây xốp để thấm các giọt sương đọng trên lá. Rồi nàng vắt sương vào chén. Không bao lâu nàng đã được một chén sương đầy đem về dâng cho thầy.
Vị đạo sĩ biến chén sương thành viên ngọc, trao cho nàng và dặn: - Ngọc này có nhiều phép lạ. Nếu đưa ngọc lên trước trán xoay tròn thì con ước điều gì cũng sẽ được toại nguyện và con có thể nhờ ngọc mà bay lên trời đi khắp nơi nhanh như gió. Nàng tiên Mê-kha-la nhận ngọc từ tay thầy, cúi đầu bái biệt thầy, rồi xoay ngọc tung mình bay lên không thẳng về biển, nơi quê hương của nàng.
Khi chằn Ra-ma-sua kiếm được đầy chén sương trở về thì đã muộn. Đạo sĩ bảo: - Con về trễ quá, thầy đã biến sương thành ngọc cho Mê-kha-la rồi. Tiếc quá, thầy không thể biến sương thành viên ngọc thứ hai được. Chằn Ra-ma-sua nghe đạo sĩ bảo thế lòng đau như cắt, oà lên khóc mãi không thôi. Ra-ma-sua không chịu trở về, cứ ngồi cạnh thầy khóc mãi. Vị đạo sĩ rất thương chằn nhưng không biết làm sao đành dỗ dành: - Thôi con bớt buồn, để thầy cho con một cái búa. Con có thể dùng búa này đấu với Mê-kha-la để giành lại viên ngọc. Bạn con thường hay bay lên trời tắm mưa. Con hãy chờ dịp ấy mà đón. Con hãy nhớ kỹ là khi tung búa đánh, con phải nhắm mắt lại.
Chằn ra-ma-sua được búa mới chịu từ biệt thầy. Chằn ra bờ biển ngồi chờ trời mưa. Quả nhiên, khi trời đổ mưa, chằn Ra-ma-sua thấy Mê-kha-la từ dưới nước tung người bay lên mây. Chằn theo lời thầy dặn, nhắm mắt tung búa đánh Mê-kha-la. Lưỡi búa thần loé lên một lằn sáng trên không và phát ra tiếng nổ vang dội. Nhưng vì nhắm mắt để đánh, nên không bao giờ Ra-ma-sua đánh trúng đối thủ. Do vậy trận chiến cứ kéo dài mãi đến tận bây giờ. Mỗi lần chuyển mưa có sấm sét, chớp giật là do vậy.

45. SỰ TÍCH AO BÀ OM
Ngày xưa, ở vùng Trà Vinh, hàng năm cứ đến mùa khô, nước ngọt rất khan hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, nứt nẻ, cây cỏ xơ xác, tiêu điều. Do vậy, đời sống nhân dân trong vùng rất cơ cực.
Cũng vào thuở ấy, trong nhân dân có chuyện tranh chấp kéo dài đã nhiều năm mà vẫn chưa giải quyết được. Đó là chuyện hai bên nam nữ không bên nào chịu đứng ra đi cưới bên nào. Phía bên con trai thì đòi các cô gái phải đứng ra cưới họ về làm chồng. Ngược lại phía bên các cô thì buộc các chàng trai phải đi hỏi họ về làm vợ. Đương nhiên là kẻ đứng ra xin cưới người khác giới phải gánh vác mọi tổn phí về lễ lạc. Trong lúc nhân dân trong vùng bàn chuyện đào ao để lấy nước ngọt giữa mùa khô hạn, có người bàn nên nhân cơ hội này tổ chức cuộc thi giữa hai bên nam nữ, và phía bên nào thua cuộc lần này sẽ chịu trách nhiệm đứng ra lo liệu việc cưới xin. Ý kiến đó được nhiều người ưng thuận bởi vì nó vừa giải quyết được việc cứu hạn, mọi người sẽ có nước dùng, vừa kết hợp giải quyết được sự tranh chấp kéo dài, chưa có lối thoát. Thế là sau khi bàn bạc, họ giao hẹn với nhau: Trong một đêm, mỗi bên nam và nữ đào riêng một cái ao, bên nào sâu hơn, nước nhiều hơn sẽ thắng cuộc.
Đêm ấy, khi mặt trời vừa tắt, hai bên nam nữ trong vùng tập hợp lại, rồi chia làm hai nhóm: nhóm nữ đào một ao vuông ở phía Đông, nhóm nam đào một ao tròn ở phía Tây. Hai bên đều ra sức làm việc cật lực, người đào, người gánh, làm chẳng ngơi tay.
Đến nửa đêm, bà Om, người điều khiển công việc bên phía nữ nảy ra một kế để đánh lừa bên nam. Bà lấy cây tre thật dài dùng làm sào, dựng trên gò đất cao về hướng Đông. Trên ngọn sào treo một chiếc lồng đèn, bên trong thắp một ngọn đèn dầu leo lắt.
Về phía nam, ao của họ lúc này đã đào khá sâu và đã có nước, mọi người đều thấm mệt. Lại thêm tâm lý chủ quan cố hữu của những anh đàn ông ỷ về sức mạnh của mình, nghĩ rằng phía nữ khó mà đuổi kịp được họ. Vừa lúc họ thấy ngọn đèn xuất hiện ở hướng Đông mà tưởng nhầm là sao mai đã mọc, cho là trời sắp sáng rồi, bèn rủ nhau về nhà nghỉ.
Trong khi đó, bên phía nữ mọi người vẫn cặm cụi cố sức đào cho đến sáng bạch mới về. Quả nhiên sự kiên trì cộng với mưu trí của họ, đã làm cho đối phương thua cuộc. Sáng hôm ấy, mọi người ra xem thì rõ ràng ao của bên phe nữ vừa to, vừa sâu hơn ao phe nam. Thế là phe nam chịu thua cuộc. Từ đó, họ phải chịu thực hiện lời cam kết: đi cưới phụ nữ về làm vợ. Dân chúng trong vùng có được ao chứa nước ngọt dùng quanh năm.
Để ghi công người phụ nữ mưu trí và giỏi giang đã góp phần giành được thắng lợi này, người ta gọi ao nước ngọt ấy là ao Bà Om. Tên gọi ấy còn truyền mãi đến ngày nay.

46. SỰ TÍCH ĐỊA DANH BÃI XÀU
Thuở nọ có một ông vua giàu có, lắm kẻ hầu người hạ. Trong số những người hầu hạ nhà vua, nàng Chanh là người có tài nấu nướng rất khéo. Hôm nào nàng Chanh nấu cơm dâng vua cũng đều được vua khen. Nhất là món canh chua do nàng nấu thì ngon tuyệt vời. Không ai có thể bắt chước được. Do đó, nàng Chanh càng được nhà vua yêu quý.
Cô cháu gái của quan cận thần thấy nàng Chanh được vua sủng ái thì đem lòng ganh tỵ. Đã nhiều lần ả đem chuyện này mách với quan cận thần. Từ lâu, quan cận thần vốn có mưu đồ đưa cháu mình vào làm vợ vua, nên khi nghe vậy bèn kiếm cách gièm pha nàng Chanh với vua. Quan cận thần tâu với vua rằng nàng Chanh đã phạm tội khinh xuất vua. Cái món canh chua mà vua nghiện ấy chính là do chất cáu bẩn trong móng tay mà nàng Chanh bỏ thêm vào canh cho vua ăn. Nhà vua nghe quan cận thần kể như vậy thì nửa tin, nửa ngờ, bèn sai một tên lính hầu thân cận xuống bếp dò la để tìm hiểu thực hư.
Vâng lệnh vua, tên lính hầu xuống bếp vờ giúp nàng Chanh nấu nướng, nhưng thực ra là để ý dò xét nàng. Quả nhiên hắn thấy nàng Chanh, khi nấu canh thường dùng móng của ngón tay út để dài cong như chiếc muỗng múc nước canh đang nấu trên bếp để nếm thử. Tên lính vốn là một tay nịnh bợ, muốn tâng công, nên thêm giấm, thêm đường vào câu chuyện quan cận thần đã tâu với vua là đúng sự thật.
Nhà vua nghe xong cả giận, liền sai quân hầu bắt nàng Chanh xử tội. Được tin dữ, nàng Chanh vội vã gom góp tư trang, vật dùng của mình, trốn khỏi hoàng cung. Nghe tin nàng bỏ trốn, nhà vua bèn thân chinh tập hợp quân sĩ, dùng thuyền cấp tốc đuổi theo để bắt cho được kẻ đã phạm tội khinh xuất mình.
Ghe chở nàng Chanh xuôi theo dòng sông Ba-sấc tức sông Hậu Giang, chạy trốn. Đến Đại Nghĩa thì ghe bỏ sông Ba-sấc theo con sông nhỏ đi về Sờ-mo tức Bãi Xàu ngày nay. Đến đây, họ dừng lại, lên bờ kiếm củi, nấu cơm ăn. Khi nồi cơm vừa sôi, thì họ nghe vọng lại tiếng hò hét ầm ĩ cả một khúc sông. Biết là có quân nhà vua đuổi theo, nàng Chanh sợ hãi, vội bỏ nồi cơm chưa kịp chín, lên thuyền theo ngõ sông Dù Tho chạy ra vàm Tấn ?(bây giờ là sông Mỹ Thanh đổ ra cửa khẩu Mỹ Thanh). Đám quan quân nhà vua càng lúc càng đuổi theo bén gót. Nàng Chanh lo sợ và nghĩ chắc nhà vua đuổi theo là để lấy lại những của cải mà ngày trước nàng đã được vua ban cho. Nàng bèn liệng tất cả đồ đạc, áo quần, chăn gối, hòm xiểng theo rải rác cả một khúc sông hy vọng rằng nhà vua thấy vậy sẽ thôi không đuổi theo nàng nữa. Đến một vàm sông nọ, nàng ném nốt chiếc “cần thua” (ống nhổ) bằng vàng. Do vậy, vàm sông ấy nay mang tên vàm Dù Tho.
Mặc dù đã ném trả tất cả đồ đạc, của cải lại cho nhà vua, song nhà vua và quân sĩ vẫn tiếp tục đuổi theo, biết mình không còn cách nào thoát chết, nàng Chanh ra đứng ở mũi thuyền khấn nguyện: “Nếu mình trong trắng vô tội, thì sau khi chết đi, xin cho máu mình được biến thành nước biển Đông, tóc mình thành rễ cây gừa, vú mình biến thành trái cây bần và đùi mình sẽ thành bắp cây dừa nước để mãi mãi được gắn chặt với vùng đất này”. Nguyện xong, nàng Chanh nhảy xuống sông tự tử. Về sau, xác nàng theo dòng bước trôi về phía Bạc Liêu, tấp vào một vàm sông. Do vậy, vàm sông ấy mang tên Bêm Niêng Chanh, tức là vàm Nàng Chanh, nay gọi trại ra là Mỹ Thanh. Dân chúng trong vùng vớt xác nàng, đem chôn tại vùng Vĩnh châu. Ngày nay, di tích ngôi mộ đó vẫn còn lưu lại ở Vĩnh Châu.
Cái chết oan ức của người phụ nữ có tài, khéo tay đó, theo truyền thuyết, vẫn còn lưu lại với cỏ cây, sông, rạch: Nước biển Đông có vị mặn của máu nàng, rễ của những cây gừa? Từ các cành cao rũ xuống từng về trên mặt nước ven sông như mái tóc dài và mịn của người phụ nữ. Cây bần sống trên đất phù sa của dòng sông Cửu màu mỡ, hằng năm vẫn ra những mùa trái giống hình nhũ hoa, bên cạnh những cây dừa nước mà những bắp của nó mập mạp, xinh xắn như những bắp đùi của các cô gái…
Gắn liền cùng với truyền thuyết dân gian này, hằng năm cứ đến ngày rằm tháng mười âm lịch, đồng bào khơme ở vùng này và cả vùng lân cận thường đua ghe “ngo”? đến vàm Nàng Chanh - cách vùng Bãi Xàu không xa - tổ chức đua ghe để nhớ lại câu chuyện an ức xưa của một người phụ nữ.

47. SỰ TÍCH CON CÁ NƯỢC
Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo làm nghề đốn củi mang ra chợ bán để sinh sống và nuôi cô con gái duy nhất của mình. Một hôm, hai vợ chồng vào rừng đốn củi như thường lệ thì gặp một con trăn tu đã lâu năm, có thể biến hoá thành người được, xin ông bà đem về nhà làm con nuôi. Hai ông bà lấy làm lạ, nhưng cũng đem về nuôi. Ngày ngày, hai ông bà vào rừng đốn củi, cô con gái ra chợ bán củi, thì chàng trăn ở nhà coi nhà, đuổi quạ và lo cơm nước. Một thời gian sau, chàng trăn xin cưới cô con gái. Ông bà thấy con mình cũng quyến luyến chàng trăn nên gả con gái cho. Vài năm sau, chàng trăn ta làm lụng giúp ông bà cật lực nên gia đình trở nên đầy đủ và giàu có.
Một gia đình trong làng thấy vậy, bèn hỏi ông bà nhờ đâu mà giàu có vậy. Ông bà kể lại đầu đuôi câu chuyện. Hai vợ chồng nhà giàu nọ bắt chước, vào rừng tìm bắt một con trăn thật lớn đem về và gả đứa con gái của mình cho trăn. Đêm tối hôm đó, vợ chồng gã nhà giàu cho trăn và con gái ở trong một buồng. Trăn quấn lấy nàng con gái và nuốt lần từ chân đến đầu. Đứa con gái sợ quá kêu cha mẹ: - Trăn nuốt chân con rồi! Hai vợ chồng bảo: - Chồng con nó đùa đấy! Trăn nuốt đến đầu gối, đứa con gái kêu nữa. Hai vợ chồng vẫn bảo: - Chồng con nó đùa đấy! Dần dần trăn nuốt đến cổ, đứa con gái nghẹt cổ ú ớ và khi trăn nuốt đến đầu thì cô gái không kêu được nữa. Hai vợ chồng mừng vì cho là “chúng nó ngủ ngon”. Đến sáng, mặt trời đã lên cao, chưa thấy chàng “rể” và con gái thức dậy, hai vợ chồng ông lão vào buồng xem thì thấy trăn đã nuốt con gái mình vào bụng. Hốt hoảng, hai vợ chồng vội vã lấy dao mổ bụng trăn để cứu con.
Đứa con gái ra khỏi bụng trăn, mình mẩy dính đầy nước bọt của trăn nhầy nhụa. Hai vợ chồng bảo con ra lu nước tắm. Cô gái tắm hết nước trong các lu vẫn không hết nhớt. Hai vợ chồng bảo con ra giếng tắm, tắm mãi đến chiều tối cạn cả giếng nước vẫn không sạch. Hai vợ chồng bảo con ra sông tắm, tắm mãi cũng chưa sạch hết. Mắc cỡ với làng xóm, chờ trời tối đứa con gái trở về nhà, nửa đường nghĩ thấy xấu hổ quá bèn ra lại sông định ngâm mình cho sạch hẳn mới về, nhưng cô ngâm mình mãi vẫn không sạch.
Tối đến, bà mẹ ở nhà chờ mãi không thấy con về, bèn ra sông gọi con. Cô gái đang ngâm mình dưới nước, nghe tiếng mẹ gọi về, nghĩ lại, giận người mẹ vì tham lam nên mới ra nông nỗi này bèn ngậm nước phun lên tỏ ý trách người mẹ. Đêm đó người nàng vẫn chưa sạch. Nàng không về nhà và từ đó mãi mãi nàng không về nhà nữa. Nàng trở thành cá nược và mỗi lần nhớ tới chuyện cũ thì phun nước lên thành vòi tỏ ý oán trách cha mẹ.

48. SỰ TÍCH HOA SEN VÀ BƯỚM
Ngày xưa, có một chàng trai mồ côi cha mẹ từ lúc sáu tuổi, chàng rất hiền lành và giỏi việc. Vì cha mẹ nghèo mắc nợ của người chủ sóc ba giạ lúa, nên chàng phải ở đợ cho hắn đến năm gần hai mươi tuổi mới trả được hết nợ, về nhà làm ăn.
Chàng vào tận mé rừng hoang chặt cây, cuốc cỏ, lập một mảnh vườn. Trên mảnh vườn, chàng trồng tám luống cà tím. Được chăm bón cẩn thận, tám luống cà tươi tốt, đơm hoa kết trái đầy cành. Nhưng một hôm chủ sóc đi qua, thấy cà sai quả, hắn nảy ra ý tham. Hắn viện lẽ đất rừng của sóc ai khai khẩn đều phải nộp hết hoa màu năm đầu cho sóc, rồi ngang nhiên hái hết quả, không kể quả non, quả già. Chàng trai nọ yếu thế đành ôm mặt khóc. Rồi hôm sau chàng lại lo cuốc xới lại mảnh vườn trồng thêm bầu, bí, dưa, cải. Chẳng bao lâu khu vườn của chàng lại tươi tốt. Bầu, bí ra quả đầy giàn, dưa, cải xanh tươi mơn mởn và tám luống cà chỉ ra thêm mỗi một quả cà non. Chàng định bụng để quả cà ấy làm giống.
Một đêm nọ trăng sáng vằng vặc, trời trong xanh dịu mát. Pờ-rặc In dặn dò con không làm gì hại đến của cải người hạ giới. Bốn nàng tiên vâng dạ, tung cánh bay là là đáp xuống khu rừng chơi, rồi men đến vườn của chàng trai nọ. Trong vườn cây cối tốt tươi, hoa quả, bí bầu ra trái trĩu cành. Bốn nàng tiên thích thú tung tăng chạy nhảy rong chơi khắp vườn. Bỗng nàng tiên út vô tình làm rụng quả cà tím nọ, nên phút chốc quần áo biến từ màu xanh sang màu đen và nàng trở thành người thế gian, không cất cánh bay về trời được nữa. Thế là nàng phải ở lại hạ giới làm vợ chàng trai nông dân, chủ mảnh vườn ấy một thời gian để đền nợ làm rụng cà.
Biết em không thể cùng trở về tiên giới được nữa, ba người chị giã từ nàng tiên út. Chị tiên cả trao cho em một viên ngọc ước và dặn khi nào cần ước điều gì thì đưa lên đầu xoay tròn một vòng là được như ý.
Nàng tiên út cầm ngọc quý thơ thẩn dạo quanh vườn. Khi trời chưa sáng hẳn nàng đã thấy ở cuối vườn chàng nông dân đang cặm cụi cuốc xới những luống rau non. Không biết cách nào làm quen với người chồng duyên nợ ấy, nàng út liền dùng ngọc ước biến thành một con thỏ chạy đến gần và miệng giả vờ la: “Ai cứu tôi! Ai cứu tôi với!”. Chàng nông dân nghe tiếng kêu cứu liền quay lại thì chỉ thấy một con thỏ trắng đang bươn bả chạy. Chàng bắt thỏ đem về nhà nuôi. Hôm sau, như thường lệ, anh dậy sớm ra vườn làm việc. Đến chiều vác cuốc về đến nhà thì thấy nhà cửa ngăn nắp sạch sẽ. Trên chiếc chõng tre cũ kỹ giữa nhà ai đã dọn sẵn một mâm cơm thức ăn còn bốc hơn.
Liền mấy hôm, nhà cửa đều sạch sẽ, cơm nước cứ sẵn sàng. Bụng sinh nghi nên một hôm anh ta giả vờ vác cuốc ra rẫy, nhưng được nửa đường thì quay trở về núp ngoài hàng rào rình xem. Thấy thỏ trắng hoá thành một cô gái xinh đẹp, bước ra quét dọn, nhóm lửa nấu cơm, anh liền chạy vào ôm chầm lấy người con gái xinh đẹp ấy. Cô gái thấy vậy tươi cười kể lại sự tình của mình và xin cùng chàng gá nghĩa vợ chồng. Từ đấy, ngày ngày chồng ra rẫy, vợ ở nhà nuôi gà, nuôi vịt. Chẳng bao lâu gà vịt đầy sân, khoai lúa đầy bồ. Khi vịt đẻ, nàng dùng ngọc ước biến những trứng vịt ấy thành những khối vàng, chất đầy hòm.
Trong sóc, ai cũng thương mến đôi vợ chồng thuận hoà , hiền hậu chí thú làm ăn ấy. Riêng gã chủ sóc vốn có lòng dạ xấu xa, thấy gia đình vợ chồng kia ngày thêm sung túc thì đem lòng ganh ghét. Ngày nào lão cũng để ý rình mò. Hôm gã ta tận mắt thấy vịt nhà ấy đẻ ra trứng vàng thì tức tốc vào cung tâu với vua rằng trong sóc mình có một người có vợ đẹp như tiên và có con vịt đẻ ra trứng vàng. Nghe chủ sóc nói, tên vua tham lam và hiếu sắc liền ra lệnh cho chủ sóc phải mua bằng được con vịt đẻ trứng vàng cho mình. Một mặt tên vua lại tìm mưu kế bắt nàng út đem về ép làm vợ. Ngày đêm vua cứ tơ tưởng khiến bốn bà vợ đoán biết, nên ghen thầm và bực tức lắm.
Gã chủ sóc trở về, đưa lệnh vua ra bắt nàng út phải bán con vịt đẻ trứng vàng cho vua. Gã đem vịt vào cung. Vua sai lấy một cái đĩa lớn để trên bàn đặt vịt lên, rồi ngồi bên cạnh nôn nóng chờ vịt đẻ. Đợi lúc lâu không thấy gì, vua mới lấy tay vỗ lên lưng vịt quát bảo: “Đẻ nhanh! Đẻ nhanh! Đẻ trứng vàng nhanh lên!” Vịt nghe quát tháo, lại bị vỗ vỗ trên lưng, hốt hoảng toẹt một bãi phân văng nhằm mặt vua. Bốn bà vợ đang máu ghen liền nhân việc này xúi vua cho quân đi bắt nàng út và tên chủ sóc khép vào tội chết vì chúng đã lừa gạt và làm nhục vua.
Thấy thấp thoáng gã chủ sóc dẫn bọn lính và các bà vợ vua ở đầu làng, nàng út biết có chuyện chẳng lành. Không muốn để chồng phải lo lắng, nàng lấy cây đàn sà điêu ra gảy và cất giọng hát ru cho chồng ngủ thiếp đi. Bốn bà vợ vua, bọn lính và gã chủ sóc đến ngoài bờ giậu, nghe tiếng đàn mê ly và tiếng hát du dương đâm mê mẩn, ngã ra đất ngủ mê mệt.
Tên vua đợi mãi không thấy quân lính dẫn nàng út đẹp đẽ về, liền dẫn một toán quân khác tìm đến nhà. Đến nơi hắn lấy làm lạ không hiểu tại sao mọi người, kẻ nằm người ngồi ngủ ngáy như xay lúa, đánh thức thế nào cũng không được và chính hắn khi nghe tiếng đàn cũng ngây ngây buồn ngủ.
Lúc chồng đã ngủ say, nàng út thôi hát. Tên vua nhìn vào thấy nàng xinh đẹp quá, người lão như mất hồn. Lúc này cả bọn vợ vua, lính tráng ngoài giậu mới tỉnh lại được. Vua sai gã chủ sóc vào bắt cho được con vịt nào đẻ ra trứng vàng cho mình. Nàng út giấu ngọc trong lòng bàn tay, rồi chui vào chuông vịt. Đợi lúc vịt đẻ trứng, nàng đưa tay vờ vén tóc để xoay ngọc một vòng, tức thì quả trứng đẻ ra hoá thành vàng. Gã chủ sóc tận mắt thấy vịt đẻ trứng vàng nên hí hửng vội bắt ngay con vịt ấy cho vua.
Nói về tên vua nọ, từ lúc thấy mặt nàng út, đêm ngày trong cung gã cứ mãi tơ tưởng, mong sao chóng bắt được nàng về ép duyên. Gã mới nghĩ ra kế cho bắt chồng nàng sai đi vào rừng sâu đốn gỗ. Thâm ý gã muốn hành hạ cho chàng chết dần chết mòn đi. Thấy vậy, bốn bà vợ vua càng ghen tức. Bọn chúng quyết định cùng nhau kéo đến nhà nàng út để hãm hại nàng. Thấy nàng đang nấu cháo, bọn chúng liền xông vào đánh và ấn đầu nàng vào nồi cháo sôi, cố hại sắc mặt xinh đẹp của nàng. Vào lúc ấy chị tiên cả vâng mệnh cha là Pờ-rặc In, hoá thành bà lão chống gậy vào nhà thăm em để bảo cho biết em sắp hết hạn ở trần gian. Nàng tiên cả thấy bốn mụ vợ vua hung dữ xúm nhau hành hạ em mình thì lấy lời ôn tồn hỏi duyên cớ và khuyên ngăn. Vốn ác độc và ỷ quyền, bốn mụ chẳng những không nghe, lại còn xông đánh nàng tiên cả. Chẳng may, bốn mụ chạm nhằm cây gậy phép nên 2 mụ hoá thành heo rừng, và 2 mụ hoá thành rắn độc chạy ngay vào rừng.
Nàng tiên cả thấy mặt em bị bỏng, liền đưa tay vuốt nhẹ, tức thì mặt nàng tiên út lành lặn xinh đẹp lại như trước. Rồi nàng lại dặn em hãy giữ lấy viên ngọc ước, lo chuẩn bị đợi ngày đã định để trở về cõi tiên. Rồi hai chị em chia tay.
Nàng tiên út nghe tin sắp hết hạn phải trở về tiên giới, thì hết sức buồn lo và thương chồng đang cảnh hoạn nạn. Nàng đã quyến luyến cảnh sống êm ái ở trần gian. Băn khoăn mãi, rồi nàng nhất quyết ở lại cõi trần, ném viên ngọc xuống ao trước nhà.
Biết nàng tiên út không chịu trở về, thần Pờ-rắc In giận dữ cho mưa gió, sấm sét ầm ầm, suốt ba ngày đêm không ngớt. Thần Pờ-rắc In tự mình xuống trần gian buộc nàng tiên út phải trở về trời nếu không thì nàng và chồng không thể sống với nhau hơn ba ngày nữa. Nghe lệnh của cha phán, nàng tiên út lo lắng quá, suốt ngày nàng vào ra thẫn thờ như kẻ mất hồn.
Chiều hôm sau, người chồng từ rừng sâu trở về. Đói khát và muỗi mòng chốn rừng sâu đã làm cho người chồng ngã bệnh nặng. Vừa bước chân đến thềm, chàng lảo đảo ngã sóng soài trên đất. Nàng vội dìu chồng vào nhà, rồi chạy ngay vào rừng hái lá thuốc về sắc cho chồng uống.
Ngồi bên chồng, chờ nồi lá thuốc sôi tới, nàng cất tiếng hát ru cho chồng ngủ. Tiếng nàng hát ngân nga thổ lộ nỗi buồn man mác của mình: - Em ở tận trời xanh / Nợ trần vui cùng anh / Duyên tình sao nỡ xa / Hỡi ai thấu lòng ta? Chàng trai nằm mơ màng nghe nàng hát, kể lể nỗi băn khoăn của mình, xúc động không nói được nên lời. Bỗng một làn hào quang sáng rực loé lên, thần Pờ-rặc In từ trời cao giáng xuống gọi nàng tiên út về trời. Hốt hoảng, nàng vùng chạy ra phía sau nhà. Chẳng may, trong lúc vội vã nàng vấp chân té xuống ao nước ở bìa rừng rồi chìm nghỉm. Tức thì một đóa sen hồng từ dưới đáy ao mọc lên, nở tròn và hương thơm toả ra bát ngát.
Chàng trai thấy vợ chạy vụt đi, tưởng vợ bỏ mình về trời, vội vã đuổi theo. Chàng chạy gần đến bờ ao thì thần Pờ-rặc In đưa cây gậy cản chân chàng lại. Chàng trai vấp chân té sóng soài ra đất tắt thở. Thân xác chàng hóa thành một con bướm.
Từ đó, ở trần gian có hoa sen và bướm. Bướm luôn bay lượn chập chờn bên hoa suốt ngày này qua ngày nọ, như muốn nói lên mối tình chung thuỷ của nàng tiên út và chàng trai nọ.

49. SỰ TÍCH HOA THỦY TIÊN
Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được 4 người con trai. Khi biết mỡnh sắp chết, ụng gọi 4 người con đến, dặn dũ cỏc con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thỡ ba người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn.
Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mỡnh trước mảnh đất khô cằn, thỡ người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo: - Này con, thôi đừng khóc nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không biết. Kho tàng này chưá nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu con sẽ giầu hơn các anh.
Quả thật, đến mùa Xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.
Những người thích hoa, chơi hoa, và những nhà giầu đó thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm. Người em trở nên giầu hơn ba người anh tham lam kia.
Người ta tin rằng Hoa Thuỷ Tiên mang lại sự thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới.

50. SỰ TÍCH GIẾNG CHỊ VÀ GIẾNG ANH (1)
Xưa kia ở Vũng Thơm không có nước ngọt, dân chúng nghèo nàn, cơ cực vì đất không sinh sôi nẩy nở được gì. Dân chúng ngày đêm khấn cầu xin Phật trời giúp cho một mạch nước trong lành. Lời cầu khẩn đến tai Ngọc Hoàng. Ngài đang nghĩ cách giúp đỡ thì tiên ông và tiên bà có chuyện hiềm khích nhau. Tiên ông cho rằng tiên bà giặt lụa làm ô uế nước suối. Tiên bà bảo tiên ông lùa trâu xuống suối làm bẩn nước giặt lụa. Ngọc Hoàng nghe chuyện truyền cho tiên ông và tiên bà nội trong đêm rằm phải đào mỗi người một giếng nước ngọt ở Vũng Thơm. Bên nào đào giếng sâu và có nhiều nước ngọt thì thắng kiện.
Vầng trăng vừa ló dạng thì hai toán tiên ông và tiên bà cưỡi mây hạ phàm chọn địa điểm khởi công. Phe tiên bà gắng sức đào, toát mồ hôi nên cởi hết xiêm y cho đỡ nóng nực và đỡ vướng víu. Đến khuya phe tiên ông sai người sang chỗ các tiên bà dò thám. Gặp cảnh đẹp quyến rũ, ông tiên đi do thám trố mắt nhìn quên cả việc trở về.
Các vị tiên ông chờ mãi không thấy bạn trở về e có điều bất trắc vội phái một ông tiên khác đi tìm. Lần lượt hết ông tiên này đến ông tiên khác đi tìm bạn cũng bị các bà tiên xinh đẹp quyến rũ quên cả việc trở về. Do vậy, phe tiên ông chẳng đào được bao nhiêu, đến khi gà gáy vang trong sóc, các vị tiên vội vã trở về trời. Sự hơn thua đã rõ ràng: giếng tiên ông lớn nhưng cạn, giếng tiên bà tuy nhỏ nhưng sâu hơn. Vì thế , ở Vũng Thơm ngày nay, mới có giếng chị, giếng anh là thế.

51. SỰ TÍCH CÁI CHỔI
Xưa kia, trên thiên đình có một đầu bếp rất giỏi. Tất cả các món ăn đã qua tay bà chế biến thì chỉ cần nếm một lần là không thể quên được. Vì vậy, Ngọc Hoàng phong cho bà làm bếp trưởng, giao cho bà toàn quyền trông nom công việc nấu ăn cho mình. Trên nhà trời có đặt ra một luật lệ là tất cả người hầu kẻ hạ đều có thức ăn riêng. Như thế nghĩa là không ai được phép đụng đũa vào các món ăn của Ngọc Hoàng, kể cả khi Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng bà bếp trưởng lại rất tham lam và hay ăn vụng. Tính xấu đó đã khiến bà nhiều lần tìm cách ăn vụng làm kho thức ăn của nhà trời bị hao hụt.
Tuy không còn trẻ nhưng bà ta vẫn mê đắm sắc dục, phải lòng một lão chăn ngựa trên thiên đình. Cuộc sống của lão chăn ngựa không lấy gì làm dễ chịu, hơn nữa lão lại là một con sâu rượu. Từ khi gặp bà bếp trưởng, cuộc sống của lão dễ chịu hơn nhiều. Không những lão ta có rượu uống thoả thích mà còn rất hay được ăn các món ngon vật lạ của nhà Trời.
Sự việc cứ tiếp diễn như thế cho đến một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Hôm đó, nhà bếp bận tíu tít từ sáng đến tối. Vì phải chuẩn bị rất nhiều món ngon nên đến chập tối, khi ánh trăng lên sáng vằng vặc, bữa tiệc mới bắt đầu.
Lúc cỗ bàn đang được bày lên, bà bếp trưởng chợt nghe thấy tiếng lão chăn ngựa hát từ đằng xa. Bà biết ông ta tìm mình nên lật đật chạy ra đón rồi giấu kỹ vào một góc, đưa cho lão mấy chén rượu ngon nhất thiên đình, bà quay lại làm nốt các món còn dở.
Về phần lão chăn ngựa, khi nuốt xong mấy chén rượu lấy làm khoái chí lắm. Rượu ngon thì ngon thật đấy nhưng lão còn đang rất đói nữa. Đi chăn ngựa về, lão đã ăn gì đâu. Mà thực ra, lão đã ăn vụng cơm nhà trời quen rồi. Bây giờ cơm dành cho mình lão không nuốt được nữa. Bụng đói, thêm mấy chén rượu lại càng cồn cào hơn. Trong hơi men choáng váng, lão lần mò tìm được một mâm toàn cao lương mỹ vị đặt gần đó. Lão bốc lấy bốc để, ăn ngấu ăn nghiến.
Rủi thay, đó chính là các món nấu cho Ngọc Hoàng. Khi người lính hầu bưng lên, bát nào bát nấy đều có dấu vết rõ ràng là đã có người nếm trước. Ngọc Hoàng Thượng đế nổi cơn thịnh nộ. Tất cả mọi người trong bữa tiệc đều rất sợ hãi. Bà bếp trưởng cúi đầu nhận tội cùng lão chăn ngựa. Vì cả hai đã vi phạm một trong những điều cấm của Thiên đình nên bị đày xuống trần gian làm chổi để suốt ngày suốt tháng phải làm việc không nghỉ và phải tìm thức ăn ở những nơi rác rưởi do bẩn của trần gian. Đây cũng là một hình phạt nặng nhất của thiên đình.
Về sau, thấy phạm nhân phải làm việc khổ sai quanh năm suốt tháng, không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình gia ơn cho họ được phép nghỉ ba ngày trong một năm. Đó là ba ngày tết Nguyên đán. Đến tận bây giờ, cho mãi đến sau này, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà trong ba ngày Tết là vì vậy.
Người Việt ta có một câu đó rất hay về cái chổi “Trong nhà có một bà hay la liếm”. Không những câu đó mô tả một cách xác thực động tác quét nhà mà còn có ngụ ý gợi nhớ sự tích cái chổi.

52. SỰ TÍCH NÚI NGŨ HÀNH
Xưa kia có một cụ già sống một thân một mình trong một túp lều nhỏ trên bờ biển vắng. Không ai biết cụ đã sống ở đó từ khi nào và liệu cụ có họ hàng thân thích quanh đây hay không.
Một hôm, sóng biển bỗng trở nên hung dữ khác thường. Gió bão bắt đầu nổi lên, bầu trời trở nên đen kịt. Hồi lâu sau, một con giao long rất lớn, từ biển trườn lên đất liền. Nó quằn quại trên bãi cát, có vẻ đau đớn lắm. Đất vẹt hẳn xuống thành những đường ngoằn ngoèo không theo hình thù gì cả. Gió thổi ào ào, cát bụi bay mù mịt. Gian lều của ông lão rung lên từng hồi tưởng như không đứng vững được nữa. Rồi bất thình lình, một tiếng rống khủng khiếp vang lên, tưởng như xé tan bầu trời ra từng mảnh. Sau tiếng rống đó, giao long đẻ một quả trứng lớn bên cạnh lều của ông lão. Nó để quả trứng ở đó rồi trườn xuống biển đi mất. Gió bão cũng dịu dần, mưa dần ngớt.
Một lát sau, từ ngoài khơi có một con rùa vàng rất to lớn tiến vào. Nó đào đất chôn trứng vào bãi cát rồi bò đến trước mặt ông lão nói: - Ta là thần Kim Quy. Quả trứng này là giọt máu của Long Quân, ta muốn ngươi phải hết sức bảo hộ! Ông già đáp: - Tôi già yếu thế này làm sao bảo hộ được. Rùa trao cho ông một cái móng và bảo: - Ta biết! Vậy ngươi hãy cầm lấy cái móng này. Bao giờ có việc gì nguy cấp, hãy đặt nó vào tai, ngươi sẽ được trợ giúp ngay, không phải lo gì cả. - Được, vậy tôi xin cố gắng hết sức. Từ hôm đó, ông lão lãnh trách nhiệm bảo hộ quả trứng.
Một hôm, từ đằng xa, ông thấy có bóng xe bò đang tiến đến. Khi chiếc xe đến gần, ông lão mới nhìn rõ mấy người trên xe trông mặt ai cũng hung dữ. Ông già hoảng hốt vì thấy chiếc xe cứ nhằm đúng nơi chôn quả trứng mà tiến đến. Ông giơ tay ra hiệu cho xe chạy sang ngả khác mà không được.Trong lúc nguy cấp, ông chợt nhớ ra cái móng rùa. Ông đặt móng rùa vào tai thì bỗng nghe thấy tiếng nói xa xăm, mơ hồ, dường như chỉ có ông nắm bắt được. - Hãy nằm xuống ngay! Nằm xuống ngay! Ông vội nằm ngay xuống. Ngay lập tức, ông lão hoá thành một con hổ lớn. Bọn người trên xe thấy hổ sợ quá hoảng hốt quay xe trở lại.
Sau lần đó, ông lão nhận thấy là nếu cứ chôn trứng thần ở ngoài như thế thì thật không an toàn. Ông cụ bè quyết định tháo dỡ căn lều của mình rồi dựng một lều khác che cho trứng thần. Nhưng ông không ngờ rằng trứng thần cứ mỗi ngày một lớn mãi. Thoạt tiên, nó đẩy cát ra và nhô lên hẳn trên mặt đất. Ngày nào ông cụ cũng phải hì hục xúc cát lấp lên. Những hôm trứng thần nhô lên mặt đất, ông cụ lại càng vất vả bội phần. Ông cụ ngày càng già yếu, còn quả trứng ngày một to hơn với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Cuối cùng, nó đội cả căn lều nhỏ bé của ông lên trời. Nhớ đến lời hứa với thần kim quy, ông lão không hề nản lòng. Ông vẫn hết lòng che chắn cho nó. Ông vào rừng chặt cây, nhặt lá về để phủ lên trứng. Nhưng đến một ngày, lá cây cũng không che kín được trứng nữa. Không những quả trứng ngày một nhô cao mà nó còn phình to ra. Vỏ trứng là sự pha trộn của rất nhiều màu sắc, lóng lánh dưới ánh mặt trời, trông như một viên ngọc khổng lồ.
Đang bình yên bỗng tai hoạ xảy đến. Một bọn vô lại kéo nhau tới đốt căn lều nhỏ của ông cụ. Ông cụ không biết làm thế nào ngăn cản chúng. Khi sự đã rồi, ông chỉ có cách cầu cứ móng rùa. Ông vừa dứt lời cầu cứu thì trong lòng trứng xuất hiện một cái hang có đủ giường chiếu sạch sẽ tinh tươm sẵn sàng. Ông cụ vừa đặt mình xuống thì đã ngủ thiếp đi ngay, không còn biết gì nữa.
Giữa lúc đó, một cô bé từ trong lòng trứng ra đời ngay bên cạnh giường ông già. Ông cụ vẫn ngủ li bì, không hay biết về sự có mặt của cô bé. Nhưng cô bé cũng không vì thế mà bị đói khát hay cô đơn. Sữa từ mạch đá trong hang chảy ra nuôi cô bé, chim thú trong rừng đến làm bạn với cô. Những con khỉ mang hoa quả đến cho cô ăn, chim tha bông đến dệt áo cho cô mặc. Cô bé lớn nhanh nh thổi và có rất nhiều bạn.
Sau một giấc ngủ dài, ông cụ tỉnh dậy. Ông rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên cạnh. Thấy ông thức giấc, cô gái mừng rỡ reo lên: - Cha đã dậy rồi đấy ư? Cha đã ngủ mười lăm năm rồi đấy. Ngày nào con cũng ngồi bên cha mong cha tỉnh dậy. Hôm nay mong ước của con đã thành sự thực, con vui mừng biết mấy. Ông cụ ngơ ngác nhìn cô gái vừa nhận ông là cha rồi nhìn hòn núi đá to lớn, cỏ cây rậm rạp, chim thú đông đúc như một khu rừng vậy. Cái móng rùa vẫn ở đầu giường.
Sau một lúc ngơ ngác, ngạc nhiên, ông lão bắt đầu đi xung quanh để tìm lối ra. Hồi lâu tìm kiếm mà ông và cô gái chẳng tìm thấy. "Không nhẽ lại không có lối ra?". Ông lão tự hỏi. Nghĩ vậy, ông vội cầm móng rùa áp vào tai. Chiếc móng chỉ đường cho ông và cô gái ra khỏi hang, đồng thời báo cho hai người phải làm những gì. Từ hôm đó, ông già có nhiệm vụ chăm sóc, dạy dỗ con gái của Long Quân. Chim chóc, thú rừng quấn quít bên họ, cuộc sống thật vui vẻ, đầm ấm. Ngọn núi trước kia chỉ có ông già và cô gái nay ngày càng đông đúc hơn. Dân chúng kéo đến khai phá, chả mấy chốc đã hình thành xóm làng mới.
Một hôm, có bọn thổ phỉ không biết từ đâu kéo đến định bổ vây chiếm lấy hòn núi. Chúng xông tới bắt trói cả già lẫn trẻ đem đi. Ai chống cự sẽ bị chúng giết. Ông già lại cầu cứu móng rùa. Một vòng lửa dày bốc lên vây lấy chúng, không cho một tên nào chạy thoát, tất cả bọn thổ phỉ đã bị trừng trị.
Dân quanh vùng thấy bỗng dưng có một ngọn núi xuất hiện ở địa phương mình thì rất làm lạ. Càng lạ hơn khi thấy dân chúng ở khu vực ấy lại có thể chống lại bọn thổ phỉ. Họ cho là tiên xuống cứu dân. Ai có việc gì quan trọng hay có bệnh gì trong người đều đến gặp cô gái và ông già để cầu khẩn, xin thuốc.
Thấy dân cư trong vùng kéo đến xin thuốc đông quá, cô gái lấy những mảnh đá màu xanh, đỏ sáng lấp lánh buộc lại với nhau rồi ném ra xung quanh chỗ ngồi. Bỗng nhiên, trên mặt đất mọc lên một loài cây, hoa của nó có năm cánh chữa bệnh sốt rét rất hiệu nghiệm. Dân cư quanh vùng gọi đó là hoa tứ quý. Tiếng làm đòn xa, công dụng của hoa tứ quý cùng tài pháp, sắc đẹp của cô gái lan xa khắp nơi. Ai ai cũng nhắc đến cô với tấm lòng trìu mến.
Tiếng đồn làm đến kinh thành. Vua nghe tin bèn sai quân mang lễ vật đến cầu hôn cho hoàng tử. Khi nhận được lá thư do chính tay nhà vua viết cùng nhiều lễ vật, ông rất lúng túng không biết xử trí ra sao. Giữa lúc ấy, rùa vàng từ dưới biển hiện lên báo tin cho ông biết là Long Quân đã bằng lòng gả. Cô gái từ biệt cha nuôi lên kiệu về cung. Còn ông già trả lại móng cho rùa thần rồi cưỡi lên lưng rùa đi biệt.
Ngày nay, ngọn núi ấy chính là ngọn núi đẹp nhất ở bờ biển Quảng Nam. Người ta gọi là núi Ngũ Hành. Ở phía Tây núi có sông Vĩnh Điện chảy ra cửa Hàn. Người ta bảo sông đó cũng như sông Cảm Lệ, sông Hàn đều do bà vợ Long Quân vô tình tạo ra trong lúc quằn quại khi sinh nở.

53. SỰ TÍCH HANG DƠI
Ngày xưa ở một vùng nọ có rất nhiều quỷ. Quỷ lớn, quỷ bé, quỷ đen, quỷ trắng không biết đâu ra mà đến lắm. Cứ vào lúc nhá nhem tối, chúng lại tràn xuống làng trêu ghẹo đàn bà con gái, giẫm nát hết ruộng nương. Dân làng rất sợ lũ quỷ, tìm đủ mọi cách để diệt trừ chúng cũng không xong. Mời cả pháp sư đến trừ mà pháp sư cũng đành chịu thua. Không còn cách nào khác, mọi người bàn cách cầu đức Phật cứu giúp. Đức Phật thấy chúng sinh phải chịu khổ bèn cho một lá bùa và dặn: - Hãy về làng dựng một cái bia khắc chữ "Phật" thật to ở chỗ quỷ hay đi lại. Quỷ nhìn thấy tất hoảng sợ mà bỏ chạy. Dân làng đa tạ Đức Phật rồi làm theo. Nhưng bọn quỷ vẫn chẳng hề sợ hãi. Thậm chí, chúng còn trở nên ngang ngược hơn.
Tình thế đã trở nên khó khăn hơn. Dân làng tuyệt vọng không biết làm thế nào. Gần đó, có một cụ Lã Vọng đã sống mấy trăm tuổi. Mọi người kéo đến hỏi cụ xem có tìm được cách gì không. Cụ Lã Vọng đáp: - Lão đã sống hàng trăm năm nay nhưng lão chưa thấy việc gì khó khăn đến nỗi con người không làm được cả. Vấn đề là ở chỗ mọi người có chung sức cùng nhau giải quyết hay không. Lão nghĩ mọi người chỉ cần cùng nhau bàn bạc là sẽ có cách giải quyết.
Nghe cụ Lã Vọng nói vậy, dân làng về bàn bạc mất mấy ngày. Sau khi suy đí tính lại, họ cùng đồng ý là phải dùng mẹo trừ quỷ. Ở nơi quỷ hay đến quấy phá, dân làng làm một con rồng giả rất to, người chui lọt vào đó, trữ sẵn một bể nước đầy. Phía bên cạnh, họ làm một con cọp lớn và cũng có người nấp sẵn trong đó cùng với những đồ dẫn lửa. Chỗ mặt đất, nơi bọn quỷ thường ra nhảy nhót, họ đắp rất nhiều con rùa rỗng ruột, mai bằng những cây chuối bôi dầu vừng và bồ hóng. Trên cao, họ mắc một con chim giả khổng lồ trong cũng có người ngồi sẵn cũng rất nhiều đá cuội. Phía trong nữa, họ đặt những hình nhân bằng nan rất lớn, hình nào hình nấy trông thật dữ tợn. Vẫn chưa hết, ở cuối bãi, họ còn đào sẵn những hầm hố rất sâu, ngang dọc đều thông với nhau được. Mọi việc đều được tiến hành chu đáo, gấp rút.
Vào một buổi tối, khi mọi thứ đã được sắp đặt xong xuôi, lũ quỷ như thường lệ lại từ ngoài biển tràn vào phá phách. Nhưng không như những lần khác, lần này chúng gặp phải một trận đánh bất ngờ. Vừa mới bước chân lên bãi, chưa kịp múa may gì, chúng đã bắt gặp một con chim rất to, mỏ lớn ở trên cao. Con chim há mỏ ra, người ở trong đó ném đá tới tấp xuống lũ quỷ làm chúng tối tăm mặt mũi. Bị bất ngờ, chúng hoảng hốt chạy dạt sang một bên thì lại đụng phải một con rồng nhe nanh giương vuốt đang phun nước ra vô kể. Thần hồn nát thần tính, chúng lại chạy dạt sang bên kia thì một con hổ gầm ghè khạc lửa đang đợi sẵn. Lũ quỷ không dám tiến lên nữa, chúng chạy vào phía trong để tránh nạn thì nào ngờ lại giẫm phải đôi rùa to lớn đang phục sẵn. Mai rùa trơn như bôi mỡ làm lũ quỷ ngã bổ sấp bổ ngửa. Lũ quỷ chạy sang trái không được, sang phải không được, đứng cũng không vững, luống cuống thế nào lăn cả vào những chiếc hầm đã được đào sẵn. Chúng ở lì trong đó không dám ra nữa.
Dân làng thắng lợi vui vẻ nhảy múa bên nhau. Thế là từ nay, họ không còn bị lũ quỷ quấy nhiễu nữa. Bà con mừng rỡ làm lễ cáo với trời phật tổ tiên. Trời được tin rất khen ngợi, bèn ra lệnh biến khu ấy thành một cái động, tức động Bạch Á ở Thanh Hoá bây giờ. Bọn quỷ dưới hầm sâu thì bị biến thành những con dơi, thân hình nửa chim, nửa chuột. Vì thế hang Bạch Á còn có tên là hang Dơi. Lũ quỷ cả ngày chỉ trong hang, đến tối mới từ trong động bay ra, lượn quanh vài vòng rồi lại trở lại trong động. Vì cũng muốn để khen thưởng dân làng, đồng thời để trấn áp đàn dơi ra ngoài nhũng nhiễu trở lại lốt quỷ ngày xưa, trời đã hoá pháp biến tất cả những thứ dân dùng để đánh quỷ thành đá. Vì vậy, đến nay trong động Bạch Á có rất nhiều pho tượng bằng đá to bằng người thật. Đây vốn là những hình thân hoá thành. Phía ngoài xa, trước động có bốn quả núi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng. Gần nhất là ngọn núi Phượng Hoàng - trông rất giống một con chim khổng lồ đang xoè cánh bay lên. Bốn con vật này đều quay lưng về cửa động, làm đẹp thêm cho một thắng cảnh ở xứ Thanh.

54. SỰ TÍCH CHIM ĐA ĐA
Xưa kia ở một làng nọ, có một nhà mẹ goá con côi. Bà mẹ quần quật suốt ngày, làm thuê, làm mướn, tần tảo nuôi con. Có mỗi một cô con gái nên bà chiều con lắm, có gì ngon đẹp bà đều dành hết cho con. Cô con gái càng lớn càng xinh xắn nhưng cũng càng ngày càng trở nên ích kỷ. Cô cho rằng cô được ăn ngon mặc đẹp, được mẹ yêu chiều là điều tất nhiên. Cô chỉ biết nghĩ đến mình, dần dần trở nên hư hỏng lúc nào không biết.
Đến tuổi lấy chồng, bà mẹ gả cô cho một chàng trai khoẻ mạnh, đứng đắn. Rồi cô có con, nhà cửa đông vui hẳn. Bà mẹ vui lắm, lại càng quý con quý cháu.
Ngày tháng trôi qua, bà mẹ ngày một già đi. Chàng rể bàn với vợ đón mẹ về ở chung để chăm sóc lúc bà già yếu, để bà được vui vầy với con cháu nhưng chị vợ không chịu vì sợ phải tốn cơm nuôi mẹ. Chị ta nhận ruộng của mẹ về cấy, hết mùa lại đem cho mẹ mấy thúng thóc, còn đâu chị ta dành hết cho mình. Bà mẹ càng ngày càng già yếu còm cõi hơn.
Năm ấy mất mùa, thu hoạch kém, thóc lép nhiều quá. Phải đong lúa cho mẹ, chi ta tiếc lắm. Biết mắt mẹ kém, chị ta xúc thóc lép xuống dưới, rồi đổ ít thóc chắc lên trên. Chị ta cho rằng mẹ già rồi, lại ngồi nhà thì ăn ít cũng sống được, chắc chẳng có vấn đề gì.
Bà mẹ thấy con gái mang lúa đến thì mừng lắm, muốn con ở lại cùng chuyện trò, nhưng cô con gái vừa đặt thúng lúa xuống đã tất tưởi đi ngay. Bà mẹ thoáng buồn. Khi rờ vào thúng lúa, nong tay xuống dưới thấy toàn hạt lép, bà càng buồn hơn. Bà lặng đi, sụt sùi ngồi khóc. Chàng rể sang thăm mẹ, biết rõ sự tình thì giận vợ lắm. Về đến nhà, anh giảng giải hết lẽ với vợ, song chị ta vẫn ngoan cố: - Tôi ăn một mình được sao? Tôi dành lại cho anh, cho con anh chứ cho ai! - Thế còn mẹ thì sao? Chị ta sẵng giọng: - Mẹ thì thế là đủ rồi. Anh chồng giận quá đánh cho vợ một trần, vừa đánh anh vừa chửi: "Xúc thóc lép cho bà, này! Xúc thóc lép cho bà, này!". Chị ta đau quá bỏ chạy ra ngoài. Bỗng trời nổi giông, sấm chớp đùng đùng. Một tiếng sét nổi lên, đánh thẳng vào đầu đứa con bất hiếu. Sau khi chết, thị hóa thành chim, con chim tự kêu lên tội lỗi truyền kiếp của mình: "Xúc thóc lép cho bà".

55. SỰ TÍCH NÚI MẪU TỬ
Trên vùng núi cao chót vót ở một tỉnh đàng trong, có vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa trồng khoai, nuôi trâu, nuôi lợn, cũng vào rừng săn thú hái rau như mọi người, nhưng nhờ có của cải cha mẹ để lại, họ có cuộc sống phong lưu, vì thế tuy có vất vả một chút, hai vợ chồng vẫn có thời gian để vui thú chơi đùa với đứa con trai lên bảy tuổi.
Một hôm, bất ngờ có người bạn cũ đến thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp nhau nay gặp lại tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: "Nghe nói anh chị rời quê lên đây đã lâu, nay có việc đi qua đây tôi mới ghé thăm được. Sẵn có cặp gà mang tới biếu anh chị". Chủ nhà vồn vã: "Thế bây lâu nay anh ở đâu sao không hề có tin tức gì? Chẳng hay anh làm nghề gì?". "Tôi chẳng có nghề ngỗng gì cả, chẳng giấu gì anh, từ lâu tôi đi tu để mong đắc đạo. Trong ba năm liền ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên núi". "Lên núi để làm gì?" "Để tìm trầm". “Phải có trầm đốt lên khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Nhờ đó "Chư tiên" mới biết được điều ước của mình sẽ cho mình như ý.”
Chủ nhà lại hỏi: "Núi rừng trùng điệp, cây cối bạt ngàn thì biết làm sao mà tìm cho ra trầm?". Khách đáp: "Khó gì? Tìm trầm phải ngậm ngải". Nói xong, khách móc trong túi ra một cái gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem: "Đây! Ngải tôi đã luyện qua ba năm mới thành. Chỉ cần ngậm một tý ngải này có thể đi suốt trong rừng gìa, lại hy vọng được Chư tiên phù hộ giúp cho tìm thấy trầm. Lúc đó thì có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão". Chủ nhà thấy bạn tu luyện sắp thành công, cầm chắc sự giàu sang phú quý trong tay thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: "Chà! Chỉ có một tý thuốc này mà có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiêu". Rồi vui miệng, chủ kể lại cuộc sống của mình bấy lâu nay cho bạn nghe và giục vợ làm cơm đãi khách. Trong mấy ngày mời khách ở lại chơi, biết khách thích chơi cờ, chủ nhà lấy ra một bộ cờ bằng ngà mời khách cùng đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, nói: - Bộ cờ này của cụ cố tôi để lại, bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không một tì vết, lúc nào cũng sáng óng ánh kể cả trong bóng tối. Khách cầm lấy quân cờ xem đi xem lại thấy quả là hiếm có ở thế gian này thì tắc lưỡi thầm khen, đoạn tự nhủ: "Làm sao ta có được một viên như thế để dâng lên lão tổ".
Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng trong bụng cả hai đều tìm mưu lập kế để chiếm đoạt của nhau. Một bên muốn chiếm được gói ngải quý, một bên muốn có được viên ngọc đẹp.
Ngày chia tay đã đến, giữa lúc hai người đang "vượt xa thách pháo" thì bỗng vợ gọi, chủ vội đi vào nhà trong. Sau đó, tiệc rượu được bưng ra, trong khi chủ vào, khách đã giấu biến quân cờ bằng ngọc vào người. Nhưng khách cũng không ngờ chính mình cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú chén anh, khách bị chuốc rượu đến say mèm, lúc ấy chủ nhà vội lấy trộm gói ngải rồi lật đật ra đi không kịp từ giã vợ con.
Khách ngủ một giấc dài đến sáng, tỉnh dậy thì không thấy gói ngải đâu. Tìm bạn, bạn cũng mất tích, hỏi vợ bạn, cũng không biết đâu mà trả lời. Khách bèn lủi thủi ra đi, quyết tìm bạn để lấy lại vật quý. Từ núi này sang núi nọ, khách cắm cúi đi không nghỉ nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng dáng bạn đâu. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng tầm mắt ra xa, chẳng may trượt chân lăn xuống dốc, viên ngọc lăn ra xa hoá thành đá, hắn hoá thành cây. Rễ cây luôn quặp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý.
Còn về phía chủ nhà, khi bước chân ra đi, nghe theo cách mách bảo của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng ngậm để tìm trầm nhưng hắn đi mãi, đi mãi, vượt qua bao nhiêu rừng sâu núi thẳm, mà chẳng thấy trầm đâu. Khi cảm thấy thất vọng muốn quay lại thì chẳng biết lối về. Năm này qua tháng khác, gói ngải dần dần chỉ còn bằng hạt đậu xanh. Hắn đâu có ngờ rằng nếu ngải tan hết thì hắn sẽ hoá thành hổ. Lúc này, người hắn đã mọc lông tua tủa rồi mấy ngày sau hắn biến thành hình một con hổ xám.
Lại nói chuyện vợ con hắn ở nhà trông đợi mỏi mắt, nước mắt họ chảy mỗi ngày một ít, xói đất thành suối. Thế rồi ngày lụi tháng tàn, họ biến thành đá cùng với gia súc và những đồ dùng quen thuộc.
Cuối cùng, hổ xám cũng tìm được đường về đến nhà cũ. Từ đằng xa, nhìn thấy bóng dáng vợ con, hổ lấy làm mừng rỡ vội vàng phóng đến. Nhưng đến nơi, thấy vợ con đã hoá thành đá, hổ ta lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót rồi bỏ đi biệt tăm.
Ngày nay ở tỉnh Khánh Hòa, có núi gọi là núi Mẫu Tử, nổi bật là một hòn đá to đứng cạnh một hòn đá nhỏ, người ta bảo đó là mẹ con. Xung quanh có nhiều hòn khác nằm rải rác, người ta bảo đó là chó, mèo, cối xay, cối đá... Lại còn một tảng đá vuông vắn người ta bảo đó là bàn cờ, bàn cờ đó có nhiều quân nhưng lại thiếu một con tốt. Gần đấy có một con suối gọi là suối Tiên, mọi người bảo đó là nước mắt của hai mẹ con khơi thành. Bên bờ suối thỉnh thoảng có bóng đôi gà đi lại uống nước, mọi người bảo đó là đôi gà mà khách mang đến biếu. Sở dĩ chúng không hoá đá là vì chúng chưa là gia súc quen thuộc của chủ.
Còn ở tỉnh Phú Yên, trên núi Tịnh Sơn có một hòn đá tròn gọi là con cờ, mọi người cho rằng đó là con tốt bằng ngọc trong người khách văng ra. Bên cạnh là cây cổ thụ to lớn rễ mọc chi chít, nhưng rễ bao giờ cũng quặp chặt lấy đá. Người ta bảo đó là người bạn biến thành.

56. SỰ TÍCH MIẾU PHẠM NHAN
Miếu Phạm Nhan ở xã An Bài, huyện Đông Triều, nằm ngay bên bờ sông Thanh Lương, tỉnh Quảng Ninh.
Tục truyền, thần của miếu này người họ Nguyễn tên là Linh. Cha của thần vốn người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư sang nước ta, cư ngụ ở xã An Bài, lấy vợ ở đó và sinh được người con trai, đặt tên là Bá Linh. Lớn lên, Bá Linh lại về Trung Quốc, thi đỗ Tiến sỹ và làm quan cho nhà Nguyên. Y biết chút ít phép thuật phù thủy nên được phép vào trong cung đình để chữa bệnh. Nào dè vào đó, y thông dâm với bọn cung nữ, bị khép vào tội phải chết. Khi y sắp sửa bị đem ra hành hình thì giặc Nguyên xua quân sang xâm lược nước ta, y liền xin được làm kẻ hướng đạo cho quân Nguyên để lập công chuộc tội. Nhà Nguyên chấp thuận. Nhưng rồi ở trận Bạch Đằng, Bá Linh cùng bọn Ô Mã Nhi... đều bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bắt sống. Bá Linh lại một lần nữa, bị khép vào tội phải hành hình. Lần này, y xin được về chết ở quê mẹ, vì thế Hưng Đạo Đại Vương cho đem hắn về chém tại xã An Bài rồi quăng xác xuống sông. Bấy giờ, có hai người đánh cá ở khúc sông này, kéo lưới lên, chẳng được cá mà được... cái đầu của Bá Linh, hoảng sợ, họ cùng nhau khấn rằng: - Nếu hồn ông có thiêng thì xin phù hộ cho chúng tôi đánh được nhiều cá, chúng tôi sẽ  mai táng hẳn hoi.
Họ vừa khấn xong thì lạ thay, kéo mẻ lưới nào cũng được rất nhiều cá, vì thế họ bèn đem đầu Bá Linh lên táng trên bờ sông. Từ đấy về sau, mỗi lần ra chợ bán cá, đi qua chỗ mai táng đầu Bá Linh, họ đều chỉ tay vào đó mà nói: - Mời bác cùng đi chơi cho vui.
Riết rồi thành thói quen, hồn ma Bá Linh cùng nhập bọn mà đi với họ, người đương thời gọi đó Tam hồn. Tam hồn phải thói hay chòng ghẹo phụ nữ. Hễ thích chòng ghẹo ai, họ chỉ cần đưa tay về phía người đó rồi gọi tên Bá Linh, người ấy nhất định sẽ bị ma ám ngay, vì thế, người trong vùng ấy phải lập miếu để thờ. Lại nói chuyện Bá Linh, trước khi bị đem chém, hắn có cầu xin Hưng Đạo Đại Vương rằng: - Tôi nay đã bị tội chém đầu, vậy trước khi chết, xin cho tôi được ăn một món lạ nào đó.
Hưng Đạo Đại Vương cả giận, mắng rằng: - Cho mày ăn máu của đàn bà đẻ ấy.
Bởi thế mà sau khi chết, hồn ma của y thường đi khắp nơi để tìm hút máu đàn bà, ai mắc phải đều bị bệnh liên miên, thuốc thang mấy cũng vô ích. Bệnh ấy gọi là bệnh Phạm Nhan. Ai mà sớm đoán biết được mình mắc bệnh Phạm Nhan thì phải tới ngay đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ có sẵn ở đó, về nhà, thừa lúc người bệnh không để ý, lấy trải cho họ nằm, đồng thời xin thêm một ít chân nhang đem đốt thành than và hòa vào nước cho uống thì mọi chứng bệnh đều tiêu tan hết. Việc này nếu để bệnh nhân biết là không hiệu nghiệm. Điều đáng nói là chỉ những ai thực sự bị bệnh Phạm Nhan, dùng thuốc này mới nhân đó mà được khỏi hết mọi bệnh, bằng không thì chẳng ích gì. Thiên hạ tin như vậy nên cứ lũ lượt kéo nhau đến đó để đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ, chẳng lúc nào ngơi. Có người đem chiếu về, chưa kịp thay mà người bệnh đã khỏi. Đại để, sự ứng nghiệm là như thế

57. SỰ TÍCH NÚI BÙ HÔM
Ngày xưa, trên ngọn núi cao nọ có một con hổ dữ sống lâu năm và do ăn nhiều thịt người nên đã thành tinh. Dân trong vùng đến làm rẫy quanh núi đều sợ nó. Họ phải dựng chòi thật cao để canh ngô, lúa, xung quanh chòi có hàng rào chắc chắn. Hổ không làm gì được, bèn tìm cách đánh lừa để bắt người. Biết bao người đã sa vào nanh vuốt con tinh hổ.
Năm ấy, lúa rẫy đã chín, các thợ săn trong bản sửa soạn lên chòi canh. Có một anh thợ săn nọ đến lúc sắp đi thì người vợ kéo tay chồng lại bảo: - Cái thai trong bụng đã đủ tháng rồi, có lẽ tôi sắp chuyển dạ... hay hôm nay anh đừng lên rẫy nữa. Nhìn nét mặt lo âu của vợ, anh thợ săn rất áy náy, nhưng vắng người một đêm trên rẫy thì con nai, con lợn sẽ phá hết công lao chăm bón cả năm trời của mình, anh ngần ngừ một lúc rồi bảo vợ: - Tôi đi không yên tâm nhưng ở nhà thì lúa rẫy sẽ hỏng hết, nếu đêm nay chuyển sinh, nhà nhờ người lên gọi tôi sẽ về ngay!
Người vợ đành để chồng ra đi. Khi anh vác ná xuống thang thì mặt trời đã gác núi... Câu chuyện giữa vợ chồng thợ săn đã lọt vào tai con tinh hổ, vì lúc ấy, nó nấp trong bụi rậm rình nghe.
Đêm ấy, người thơ săn lo lắng về việc vợ sắp trở dạ nên trằn trọc không ngủ được. Đến lúc anh vừa chợp mắt thì nghe tiếng gọi: - Anh ơi! Chị ấy sắp đẻ rồi, anh về ngay cho kịp. Rõ ràng đó là tiếng người quen trong bản. Anh thợ săn chồm dậy nhìn xuống thì thấy phía ngoài bờ rào có ba đốm sáng. "Người nhà gọi mình sao lại thắp những ba ngọn đuốc và lửa đuốc sao lại xanh thế kia?", anh thợ săn tự nhủ và thấy có điều gì không ổn. Anh đốt đuốc, mang ná xuống thang chòi. Vừa bước ra khỏi bờ rào, anh chợt thấy một con hổ to như con trâu mộng đang chực vồ mình. Anh nhanh nhẹn hoa đuốc xông tới dụi thẳng vào mắt nó. Bị đánh bất ngờ, hổ hốt hoảng gầm lên một tiếng rồi quay mặt chạy thẳng vào rừng sâu, biến mất.
Anh thợ săn cũng ba chân bốn cẳng chạy về nhà và mới biết rằng đã bị tinh hổ đánh lừa gọi xuống chòi để chực ăn thịt. Cũng từ đó, người ta gọi ngọn núi kia là Bù Hôm, nghĩa là "núi lừa dối".

58. SỰ TÍCH NÚI MỤC
Giữa triền đồng bằng bên sông Chu, địa đầu của huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá) nổi lên một hòn núi không cao, không to lắm, trông xinh xinh như một hòn ngọc đặt trên một cái mâm khổng lồ. Hòn núi ấy, dân gian thường gọi là Mục Sơn.
Trước kia, Mục Sơn không phải là một quả núi. Nó là mắt một con rồng ẩn. Con rồng này có ba mắt, một mắt là Mục Sơn, còn hai mắt chính thì thuộc núi Hàm Rồng ở làng Miềng, huyện Ngọc Lan.
Tương truyền, khi Lê Lợi chuẩn bị khởi binh, Rồng nhận việc canh gác, bảo vệ cho nghĩa quân và căn cứ địa Lam Sơn. Con mắt Mục Sơn là tiền đồn, còn hai con mắt làng Miềng là nơi nhận tin để báo về doanh trại. Cứ hễ con mắt Mục sơn nháy là hai con mắt làng Miềng nháy. Nghĩa quân trông chừng tin báo, bố trí chiến đấu hoặc rút lui để bảo toàn lực lượng. Quân Minh nhiều phen lao đao khốn khổ và cũng nhiều phen tưng hửng về không. Con mắt Rồng canh giác rất cần mẫn, chính xác. Nghĩa quân nhờ đó, dần dần lớn mạnh. Quân Minh biết vậy căm tức lắm.
Trong bọn giặc Minh có một tên yêu đạo biết sự lợi hại của mắt Rồng. Nó bèn dùng yêu thuật làm cho mắt Rồng mù đi. Từ đó, con mắt Mục Sơn không báo tin được nữa, chỉ còn hai con mắt làng Miềng mà thôi.
Mắt Rồng Mục Sơn tuy mù song đã góp công không nhỏ trong việc đánh giặc Minh. Vì vậy, khi cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi thân chinh cầm gươm, cưỡi ngựa đến để tạ mắt Rồng. Song ông không biết rằng, gươm thần và mắt Rồng vốn xung khắc, nên khi Lê Lợi rút gươm ra thề "dùng gươm để giữ vững đất nước" thì một tiếng nổ lòng trời, đất đá phụt lên tối tăm tất cả. Mắt Rồng trong chốc lát biến thành một quả núi. Quả núi đó gọi là núi Mục hay Mục Sơn.

59. SỰ TÍCH HOA PHƯỢNG
Ngày xưa, ở một vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.
Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.
Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo: - Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ tao đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. Người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền khuyên: - Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó!
Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục: - Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay!
Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: - "Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: - "Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.
Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: Tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước...

60. SỰ TÍCH HÒN ĐÁ KHAO
Hòn đá đó ở xã Xuân Khao, huyện Thường Xuân. Đó là một hòn đá to, tự nhiên mọc lên ngay giữa dòng sông hơi cạn, giống như một cái ghế tựa có chỗ dựa lưng, đặt tay. Hai bên tả, hữu là hai dãy đá song song cứ từng mảng vuông vắn cách nhau như xếp chỗ cho vua và hai hàng văn võ cùng ngồi. Dân gian kể rằng, đã có lần Lê Lợi cùng các tướng sĩ ngồi ở đó luận bàn kế sách diệt giặc Minh.
Một lần, các bô lão trong vùng dâng lên Lê Lợi một vò rượu quý. Trước ba quân, Lê Lợi cảm tạ tấm lòng của nhân dân và nói với mọi người: - Đây là rượu quý của dân khao quân, ta xin được hưởng cùng mọi người. Tất cả hãy cùng ta cạn chén để thêm nhuệ khí giết giặc, thu lại bờ cõi. Quân sĩ phục lòng Lê Lợi nhưng cũng ngạc nhiên vì rượu ít người nhiều, làm sao uống đủ. Lúc đó, Lê Lợi thong thả đứng lên, trút vò rượu xuống sông rồi tự mình múc một chén uống trước. Cả đoàn quân hân hoan làm theo chủ tướng, reo hò vang dậy.
Từ đó, chỗ ngồi này thành tên lịch sử: hòn đá Khao. Vì thế mà "Bình ngô đại cáo" có câu: Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.



(1) Vũng Thơm thuc xã Phú Tâm, huyn M Tú, tnh Sóc Trăng.

61. SỰ TÍCH BỘ LÔNG QUẠ VÀ BỘ LÔNG CÔNG
Xưa kia Quạ và Công là đôi bạn chí thân. Cũng vì màu lông của chúng giống nhau: con nào con nấy đều xám xịt như vừa rúc ở bùn lên. Cả hai con đều từ biết mình xấu nên không dám chơi với ai cả. Riêng Công dưới mắt quạ thì càng xấu tệ: cái đầu thì bé xíu chẳng cân xưng với người tí nào. Thêm vào đó một cái cổ dài và khẳng khiu thật khó coi hết sức.
Một hôm Quạ bảo Công: - Đằng kia có người thợ vẽ có thuốc các màu, chúng ta ăn trộm về tô chuốt cho nhau, sửa lại bộ cánh cho đẹp đi. Công gật gù đồng ý.
Hôm ấy người thợ vẽ đang vẽ dở một bức tứ bình, thuốc vẽ còn bỏ lăn lóc quanh người. Thừa dịp người thợ ngủ ngày, hai con vật lần mò vào lấy trộm bút lông và thuốc vẽ đưa ra một gò con ở giữa hồ gần đấy. Lần thứ nhất, lần thứ hai chúng đã lấy được một số màu, lần thứ ba chúng toan vào lấy một mẻ nữa nhưng người thợ vẽ đã ngủ dậy. Chúng đành trở ra kiểm lại thì thấy chỉ được có mỗi thỏi mực tàu, một gói thuốc xanh và một gói kim nhũ. Quạ bảo: - Thôi được, ta cứ bắt đầu vẽ cho nhau đi!
Nói xong, Quạ bắt Công nằm xuống cho mình tô điểm. Quạ vốn khéo tay, thoạt tiên nó dùng màu xanh tô vào đầu, vào cổ và mình Công. Tô đến đâu rắc kim nhũ đến đấy. Đến cái đuôi, Quạ bắt Công phải cố xoè ra như cánh quạt cho mình vẽ được kỹ lưỡng. Mỗi phần đuôi Quạ lại vẽ những vành tròn rồi tô mực tàu và kim nhũ rất đẹp. Tô xong, đắc ý Quạ sung sướng bắt Công phơi cái đuôi cho thật khô.
Công vốn vụng về nên khi bắt tay vào tô điểm cho Quạ thì nó lúng túng. Hơn nữa lúc đó màu xanh và kim nhũ đã hết. Giữa lúc Công chưa biết trang sức cho Quạ như thế nào thì bỗng có một con Quạ khoang ở đâu bay đến. Quạ khoang vốn là họ nhà Quạ. Hồi ấy màu lông của nó trắng toát như vôi. Chưa đậu xuống nó đã giục tíu tít: - Anh Quạ! Anh làm gì đó? Mau đi về phương Đông! Có tin cho biết, phía đó mới có một trận đánh nhau to, thây chết như rạ. Thật là một dịp may hiếm có. Quạ nghe nói đến thịt người thì sự thèm muốn làm cho nó không tự chủ được nữa. Quạ bảo Quạ khoang: - Thế à? Nhưng để nó tô điểm cho tao cái đã. Chịu khó chờ tí nhé! Quạ khoang nói: - Không được. Phải đến trước ban đêm... Ngày mai mới đến thì người ta chôn hết còn gì nữa.
Quạ nóng nảy, giục Công: - Thế thì phải làm gấp mới được! Quạ khoang thấy Công đẹp nên cũng muốn có bộ cánh tươm tất. Nó cũng xen vào: - Anh Quạ! Anh làm ơn cho tôi một tý với. Tôi cũng cần có một bộ cánh tử tế chút. Quạ vui lòng chia sẻ phần thuốc vẽ của mình cho người em họ. Công nhân lúc Quạ vội nên chả cần ngắm nghía gì, trút một nửa số mực tàu lên đầu Quạ. Mực chảy đến đâu người Quạ đen đến đó. Công cố ý bôi cả vào mỏ, vào chân làm cho toàn bộ người Quạ đen nhánh như cột nhà cháy.
Đến lượt tô điểm cho Quạ khoang, Công cũng đổ số mực còn lại lên người nó. Khi nước mực rót xuống đầu, Quạ khoang hơi ngạt vội rụt cổ lại, thành thử cổ của nó có một cái ngấn không bị mực thấm.
Nhìn thấy Công tô điểm cho Quạ khoang Quạ mới biết mình dại, không dưng để cho một kẻ vụng về trang điểm. Nhưng việc đã lỡ, còn biết làm gì được nữa. Tức mình hai anh em nhà Quạ mắng Công một trận rồi bỏ đi. Từ đó Quạ không chơi với Công nữa.
Cũng vì thế mà ngày nay loài Công có bộ lông rất sặc sỡ. Đi đâu chúng cũng ưỡn ẹo và luôn miệng khoe khoang: - Cuông tốt! Cuông tốt! Trái lại dòng dõi nhà Quạ thì bộ cánh đen thui như mực, trong đó Quạ khoang có đặc biệt hơn là có một cái ngấn trắng xung quanh cổ. Vì bộ cánh xấu quá nên Quạ xấu hổ, đi đâu cũng than thở: - Quạ xấu hổ! Quạ xấu hổ!

62. SỰ TÍCH CHIM TRĨ BỚI MỘ
Ngày xưa, ở làng nọ, có hai mẹ con sống đầm ấm trong một căn nhà nhỏ dựng sát bìa rừng. Người con trai đã lớn, hàng ngày vác cung nỏ vào rừng săn bắn, còn người mẹ thì chăm sóc vườn nương.
Hôm ấy, chàng trai đi vào rừng sâu nhưng cả ngày không bắn được con thú nào. Khi sắp sửa ra về, chàng bắt gặp một con trĩ liền gương cung bắn hạ nó. Về nhà, hai mẹ con nướng con chim để dùng nó cho bữa tối. Trên chiếc mâm gỗ là con chim trĩ vàng ươm đang bốc hơi nóng. Người con trai định cầm con chim lên xé thịt thì bỗng hắt hơi mấy cái liền. Bà mẹ thấy vậy định làm thay con thì cũng bị hắt hơi như vậy. Bà liền nói với con mình: - Thôi, con ạ! Chắc thần linh không cho mẹ con ta được ăn thịt chim rồi, ta chịu khó ăn cơm với muối vậy. Xong bữa, người mẹ cầm con chim còn nguyên vẹn đặt lên giàn bếp.
Hôm sau, công việc của hai mẹ con vẫn diễn ra như thường lệ: Người mẹ đi làm nương, anh con trai vào rừng săn bắn, đến tối mới về. Nhưng khi cả hai về đến nhà, một điều kỳ lạ đã xảy ra, nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ, tươm tất, giữa sàn nhà là một mâm cơm ngon lành được dọn sẵn từ bao giờ. Cả hai mẹ con đều rất ngạc nhiên, liền đi dò hỏi xóm giềng xem có ai sang giúp họ hay không nhưng chẳng ai biết điều gì cả. Thế là hai mẹ con trở về nhà và vẫn quyết định ăn bữa cơm như bình thường vì họ đã quá đói bụng mặc cho bất cứ chuyện gì xảy ra.
Mấy ngày sau đó, sự việc vẫn diễn ra y hệt như thế. Hôm đó chàng trai lại sủa soạn cung nỏ vào rừng, dặn mẹ mình trông nom nhà cửa cẩn thận vì có thể chàng sẽ đi dài ngày. Nhưng vừa đến bìa rừng, chàng đã lại rẽ theo con đường tắt để trở về nhà. Chàng không vào nhà ngay mà đứng nép vào bên ngoài chái bếp và vạch tấm phên lên nhìn vào trong. Chẳng phải chờ đợi lâu, chàng thấy từ giàn bếp, chỗ treo con chim trĩ, hiện ra một người con gái sinh đẹp tuyệt trần. Nàng từ từ bước xuống và dọn dẹp mọi thứ trong nhà cho thật ngăn nắp, đâu vào đấy. Xong việc, nàng lại thu mình vào vỏ con chim trĩ. Chàng trai hết sức ngạc nhiên và thích thú. Đợi cho tới khi mặt trời vừa tắt nắng, cô gái xinh đẹp lại hiện ra và xuống bếp làm cơm nước cho bữa tối, bấy giờ chàng mới lẻn vào lấy vỏ con chim trĩ giấu đi chỗ khác và chạy đến ôm chầm lấy cô gái. Cô gái hoảng hốt đẩy chàng ra, định chui vào vỏ chim nhưng chiếc vỏ quen thuộc không còn ở trên giàn bếp nữa, bất đắc dĩ nàng đành phải đứng lại. Trước sự hỏi han rối rít của chàng trai, nàng bèn kể: - Em là con gái vua các loài chim ở xứ sở Mặt trời. Trên đường bay về cùng cả đàn do ham chơi nên bị lạc đường, em mắc can ở đây. Mang ơn hai mẹ con chàng đã không ăn thịt nên em tìm cách báo đền một thời gian, không ngờ bây giờ đã bị chàng phát hiện.
Đúng lúc đó mẹ chàng trai trở về nhà, nghe qua sự tình bà vui vẻ khôn xiết và bảo: - Đây đúng là duyên nợ của hai mẹ con. Thôi, xon gái yêu, con không phải đi đâu nữa, hãy ở lại đây cùng mẹ con ta.
Từ đó, hai người thành vợ thành chồng. Một năm sau đứa con đầu lòng của họ ra đời, khi đứa bé được vài tháng tuổi thì cũng là lúc mùa thu hoạch đến. Người chồng định nghỉ việc săn bắn để lên rẫy cắt hái thì người vợ liền nói: - Chàng cứ đi săn đi, việc thu hoạch hãy để thiếp lo liệu. Còn mẹ, xin mẹ ở nhà trông nom cháu, đừng lên rẫy làm gì. Người chồng lại lo ngại hỏi: - Liệu một mình nàng của làm nổi không?
 Người vợ trả lời: - Chàng yên tâm, nhớ nhắc lại với mẹ là đừng có lên rẫy. Người chồng nghe lời vợ vác cung nỏ đi săn. Người vợ mang gùi lên rẫy tuốt lúa. Tới nơi nàng biến thành chim và nhờ họ hoàng nhà chim cùng tuốt lúa giúp mình. Chẳng mấy chốc kho lúa đã gần đầy, rẫy đã tuốt xong quá nửa.
Ở nhà người mẹ cảm thấy nóng ruột, sợ con dâu không tuốt kịp lúa lại thêm đứa bé khát sữa cứ khóc vang. Bà liền địu cháu lên rẫy. Lên tới rẫy bà không thấy nàng dâu đâu, chỉ có bộ váy quen thuộc để trên một tảng đá. Còn trên rẫy hàng trăm con chim đang thi nhau mổ thóc. Bà tức giận lấy đá ném vào đàn chim. Đàn chim hoảng sợ bay tan tác. Bà liền nhặt bộ váy áo của nàng lên và địu cháu quay trở về nhà.
Khi người con trai về tới nơi bà vội vàng kể lại: - Vợ con nói lên rẫy tuốt lúa nhưng lại bỏ đi chơi, váy áo vét lại để chim chóc tha hồ ăn hết lúa. May lúc đó mẹ lên tới nơi đã đuổi lũ chim đi và mang bộ váy về đây. Nghe vậy người chồng vội vàng chạy lên rẫy xem sao thì thấy lúa đã gần đầy kho còn rẫy thì vắng lặng. Chàng chợt hiểu ra mọi chuyện bèn chạy khắp rừng núi gọi tên vợ nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng hồi âm, chàng về nhà ôm con than khóc.
Tiếng khóc ai oán hàng đêm của người chồng đã vượt qua bao núi đèo, sông suối, rẫy nương tìm đến nơi xa xôi có vua của các loài chim ở. Nơi đây, người vợ chim trĩ nghe được tiếng khóc than của chồng liền tìm cách bay về. Trên cành cây cao trước cửa nhà chàng trai, chim kêu rằng: - Hỡi chàng ơi! Hãy theo ta về xứ mặt trời, xin với vua cha cho cùng xum họp!
Nghe vậy người chồng cõng con chạy theo chim. Vượt qua bao núi rừng, bao ghềnh thác, người chồng cam lòng hứng chịu mọi nỗi gian truân, vất vả nhưng đứa bé thì không thể chịu được, nó đã chết trên lưng cha mình. Vô cùng thương xót đứa con bé bỏng chàng chôn con mình trong một ngôi mộ nhỏ trên ngọn đồi rồi từ giã con lên đường đi tiếp. Nhưng người vợ trong lốt chim trĩ đau đớn vì mất con cứ kêu lên ai oán và bay quanh quẩn bên ngôi mộ đứa bé. Rồi chim đậu lên mộ, cố moi đất tìm xác con cho khuây khoả. Người chồng không được ai dẫn đường, bị lạc lối và chết ở trong rừng. Đến khi biết không thể tìm được xác con, chim trĩ lại bay đi tìm chồng nhưng không gặp được. Mất chồng, mất con, chim không muốn trở về với vua cha nữa mà cứ tha thẩn trong rừng sâu rồi cũng quên mất đường về, quên cả đường tới mộ con.
Từ đó, hễ thấy ở đâu có mộ, chim trĩ lại ngỡ đó là mộ con mình nên cứ ra sức đào bới. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi chim trĩ đào bới mộ, nhiều người không khỏi chạnh lòng bởi tiếng chim kêu não ruột như oán hờn, như ân hận điều gì của loài chim này.

63. SỰ TÍCH TRÁI BẦU MẸ
Từ thuở xa xưa, khi trên trái đất chỉ có loài thú sinh sống, con người chưa xuất hiện thì bỗng một hôm, một tiếng nổ dữ dội phát ra từ lòng đất. Sau tiếng nổ, mặt đất nứt nẻ và uốn lượn như sóng biển. Muông thú kinh hoàng bỏ chạy tán loạn khắp nơi. Nhưng mặt đất đã kịp nuốt chúng vào lòng cùng vô số cây cỏ, muông thú của khu rừng thẳm.
Khi vạn vật trở lại yên tĩnh thì vùng rừng xanh bạt ngàn nơi muông thú sinh sống trước đó đã biến dạng thành núi cao, sông sâu trùng trùng điệp điệp. Các loài thú vắng bóng, chỉ mảy may còn sống sót mỗi hai con chó một đực và một cái.
Hai con chó cùng nhau đi tha thẩn dọc suối, dọc sông để kiếm cái ăn. Khi cây cối xuất hiện trở lại trên núi đồi, chúng tìm ăn từng quả sim, quả dại. Nhưng rồi trời bỗng nhiên hạn hán, nước sông suối khô cạn, cây sim và nhiều loại câu khác đều bị chết cháy. Hai con chó đi lên vùng cao tìm cái ăn, nước uống. Vượt qua nhiều núi đèo hiểm trở, hai con chó thấy một nguồn nước. Lúc đó, con chó cái đang có mang. Nó cố lê bước đến bờ suối. Lúc nó chúi đầu xuống dòng nước định uống vài ngụm thì chuyển dạ và sinh ra một trái bầu dài. Một nửa quả bầu nằm dưới nước, một nửa kia vắt trên bờ. Quả bầo cứ nằm như vậy suốt bao tháng liền. Nửa trên bờ của trái bầu bị nắng hạn nung nóng nên ngày càng đen thẫm lại, còn nửa kia dưới nước được mát mẻ nên trắng bợt ra.
Mùa đông qua, mùa xuân đến, khi trời ấm áp trở lại, trời bắt đầu có mưa, cây cỏ đâm chồi nảy lộc, hương thơm ngát rừng. Đúng lúc này quả bầu bỗng vỡ ra và con người từ bên trong quả bầu bước ra. Số người nằm nửa trên bờ của quả bầu có nước da ngăm đen. Còn số kia nằm dưới nước mát nên có làn da trắng trẻo. Những người da trắng xuôi theo dòng sông, suối về đồng bằng sinh sống. Những người có làn da ngăm đen đi ngược về phía đầu nguồn, tìm rừng phát rẫy. Từ đó hình thành các dân tộc anh em vùng núi và vùng đồng bằng cùng chung sống đoàn kết, đùm bọc và thương yêu nhau cho đến tận bây giờ bởi vì tất cả là do cùng chung một mẹ bầu sinh ra.

64. SỰ TÍCH CON CUA
Ngày xưa, có một cô gái nết na xinh đẹp mồ côi mẹ lúc chưa đầy tháng. Cha lấy vợ kế được một thời gian thì chẳng hiểu sao ông sinh bệnh rồi chết, để lại con gái bé bỏng một mình. Cô gái sống với mẹ kế cùng đứa con riêng của mẹ. Cô con gái riêng của mẹ suốt ngày chỉ ra ngắm và vuốt, chẳng phải làm việc gì cả, mà có làm việc gì cũng chẳng thành. Nhưng mọi lời khen ngợi bà mẹ đều dành cho cô ta và cô ta lấy thế làm hãnh diện lắm. Lúc nào cũng vênh váo, kiêu kỳ, tự cao tự đại cứ như mình là lá ngọc cành vàng vậy.
Còn cô gái mồ côi thì phải làm hết mọi việc. Biết thân phận mình, vốn tính hiền lành, ngoan ngoãn, cô chịu đựng hết thảy, nín lặng làm hết mọi việc bà mẹ ghẻ đổ lên đầu cô. Cô dằn lòng gánh chịu mọi lời mắng chửi trút xuống đầu mình. Bao nhiêu người thương mến cô, thông cảm cho hoàn cảnh của cô nhưng họ chẳng biết làm gì để giúp cô.
Một hôm, thấy cô mặc chiếc váy hoa rực rỡ, mụ dì ghẻ nổi cơn tam bành. Bởi xưa nay cô vốn đã xinh đẹp, giờ trong chiếc váy mới trông cô lại càng kiêu diễm hơn. Còn con gái mụ thì có đắp bao nhiêu lụa là gấm vóc vào mà vẫn như quỷ xa tăng, chẳng ma nào thèm nhóm ngó. Bao nhiêu chàng trai tuấn tú tài giỏi đều chỉ muốn lấy được cô gái mồ côi làm vợ. Đến nước này không sao chịu nổi nữa, mụ dì ghẻ sôi máu, xấn xổ vào cô gái đáng thương: - Con ranh kia, sao mày cứ luẩn quẩn trước mắt tao. Đồ lười chảy thây. Biết kiếm việc gì cho mày làm bây giờ, không lẽ lại ra sông giặt. Mà này, chiếc váy đẹp thế mày ăn cắp ở đâu vậy. Nói mau. Mụ dì ghẻ thẳng tay đánh cô và không ngớt gào thét: - Nói ngay, đồ thối thây, thằng khốn nạn nào cho mày chiếc váy đó hả. Cô gái mếu máo van xin: - Mẹ ơi! Con xin mẹ. Chẳng có gã đàn ông nào cho con cả mà chính của một bà già cho con đấy chứ. Mụ dì ghẻ nghiến răng ken két: - Bà già? Làm gì có bà già nào mà lại tốt bụng quá vậy. Thôi nói thật đi, tao tha cho.
- Thưa mẹ! Con nói thật đấy. Hôm ấy, con ra sông giặt quần áo cho mẹ và em, bỗng có một bà cụ rách rưới bẩn thỉu đứng bên cạnh con phều phào xin nước uống. Nước sông đục ngầu nên con lấy ống nước đem theo đưa cho bà cụ. Bà cụ uống nước xong liền cho con cái bọc nhỏ bảo là thưởng cho lòng tốt của con. Mở ra thấy chiếc váy đẹp này, con đinh trả lại cho bà cụ nhưng không thấy bà đâu nữa.
"Có lẽ đúng thế, con nhãi này chắc không dám nói dối". Mụ dì ghẻ nghĩ. Thảo nào bấy lâu nay người làng cứ bàn tán xôn xao là có một bà tiên nào đó. Đúng là bà tiên ấy đã cho con ranh chiếc váy đó. Vậy ta phải cho con gái ta ra sông để xin bà tiên cho nó xinh đẹp được không.
Thế tà từ ngày ấy, cô gái mồ côi không phải đi giặt nữa. Con gái riêng của mụ thay thế công việc không lấy gì dễ dàng đối với cô ta. Nhưng mong muốn được gặp bà tiên để xin cho mình đỡ xấu đã thôi thúc cô ta. Ngày nào cô cũng ra sông với vài cái khăn nhỏ.
Thế rồi hôm ấy, một buổi sáng đẹp trời. Cô gái đỏng đảnh õng ẹo đi ra sông để giặt. Cô thấy một bà cụ lạ mặt xuất hiện. Nhìn thấy bà cụ cô gái kiêu kỳ định lấy bầu nước của mình ra đưa cho bà. Bà cụ tới gần bảo: - Chào cô gái! Vạt váy của tôi lấm bùn. Cô làm ơn lấy nước gột cho tôi với. Cô gái đỏng đảnh cong môi đáp: - Cái bà già bẩn thỉu này. Bà nghĩ tôi là gì mà bảo tôi làm cái việc ghê tởm ấy. Dạng bà xách dép cho tôi còn chưa xứng.
- Chà! Đúng là một đứa con gái hư hỏng, hỗn láo. Con bé này không giống con bé kia.
- Sao, bà biết chị gái tôi à? Cô gái đỏng đảnh hốt hoảng kêu lên. Cô ta hiểu là mình đã phạm sai lầm không thể cứu vãn được. Thế là công toi mấy ngày mình phải chịu khổ sở. Cô gái mở miệng định xin bà cụ tha lỗi và cầu xin cụ cho mình được xinh đẹp.
- Một con người độc ác thì không thể trở thành người con gái xinh đẹp được. Lũ các ngươi phải bị trừng phạt. Bà cụ nói xong thoắt biến mất như chưa từng xuất hiện. Sau đó cô gái đỏng đảnh cũng biến mất. Ở chỗ cô ta vừa đứng xuất hiện một con vật nho nhỏ, xám xịt, chân cẳng tua tủa. Đến nay cứ thấy người lại gần con vật đó lại vội lủi xuống sông. Đó chính là con cua.

65. SỰ TÍCH CON CHIM KÔN LỘÔC
Xưa, ở một bản xa xôi, có hai vợ chồng người nông dân sinh được ba người con gái. Đứa con lớn đã biết nấu cơm, cõng nước. Đứa thứ hai đã biết trông em, còn đứa út cũng đã biết bò. Năm ấy chẳng may hạn hán, mùa màng mất sạch. Cả làng đói khát thiếu thốn, họ rủ nhau vào rừng đào củ hái măng. Vợ chồng người nông dân cũng phải ngày ngày vào rừng kiếm củi đắp đổi qua ngày. Người chồng vì lao động quá sức chẳng may chết sớm để lại vợ goá và ba đứa con côi. Chị vợ tần tảo, hằng ngày kiếm củi, hái măng đem ra chợ bán lấy tiền đong gạo, nuôi dạy ba đứa con
Một hôm, một gã đàn ông có vẻ tử tế đến làm quen với chị. Thực ra gã là một tên lưu manh có bộ mặt nhu mì, chuyên dùng giọng lưỡi để lừa đảo mọi người. Đến gần chị, gã ngọt nhạt nói: - Nàng ở đâu đến. Sao nàng lại vất vả thế này? Thế chồng nàng đâu mà không giúp nàng. Chị thật thà đáp: - Chồng tôi đã chết, nhà tôi nghèo lắm, một mình tôi phải kiếm củi hái măng nuôi ba con nhỏ. Gã đàn ông nghĩ bụng: "Trời! Gái goá mà xinh quá, ta phải chiếm lấy nàng mới được". Thế là hắn lân la làm thân: - Nàng ơi! Nghe nàng nói mà tôi thấy thương nàng quá. Đây, tôi cho nàng năm đồng bạc trắng, nàng cầm lấy mà đong gạo nuôi thân. Chị nông dân cảm động, nhận tiền cám ơn người giúp đỡ rồi thu xếp về chợ. Gã đàn ông lén theo sau để biết nhà. Sẩm tối, gã đến chơi, ngỏ lời hỏi nàng làm vợ. Chị nông dân ưng thuận.
Từ đó họ sống với nhau một cách khác thường. Gã chồng tiếp tục cuộc sống lang bạt trộm cướp. Cứ năm bữa nửa tháng lại đem tiền bạc về cho vợ. Có tiền của, chị vợ không làm lụng gì, chỉ lo ăn diện, đua đòi chơi bời cùng chồng, đến nỗi bỏ mặc con cái đói rách nheo nhóc. Các con chỉ được miếng cơm thừa canh cặn, ngủ thì vạ vật đầu hè xó bếp. Ngày ngày nàng theo chồng hết làng trên xóm dưới đua đòi ăn chơi trác táng. Một hôm gã chồng bảo vợ: - Này mình! Tôi thấy ngượng với mọi người lắm vì lúc nào mình cũng cặp kè thế này. Thôi từ nay mình ở nhà với lũ trẻ đừng đi theo tôi nữa. Thấy chồng nói vậy chị ta nghĩ: "Hừ, chồng mình là tay ăn chơi, có tiền là đi chơi với gái hư. Phải tìm cách giữ anh ta lại, nếu không anh ta sẽ bỏ mình. Cũng chỉ tại các con mình thôi. Anh ấy chẳng bảo là mình phải ở nhà với lũ trẻ là gì? Vậy phải giết bọn trẻ này đi cho khỏi vướng víu.”
Mùa mưa, chị ta lừa các con: - Các con ơi, khi cha các con còn sống mùa này thường đưa mẹ đi làm đồng ở gần hồ phía chân núi xa kia. Ngày mai mẹ sẽ đem mạ để gieo, các con ở lại đấy canh chim. Hôm sau chị ta đem thóc và dẫn theo ba đứa con, chị ta gieo thóc xuống hồ rồi dặn: - Các con nhớ canh chừng không đi đâu xa, bao giờ lúa trổ bông thì mới được về nhà, nếu không nghe lời tao đánh chết đấy. Nghe chưa! Rồi chị ta để lại cho các con một ít cơm, một ít rau và cái nồi đất mẻ miệng. Người mẹ bất nhân nghĩ bụng: "Chỉ đêm nay là hổ về bắt chúng, nếu không mấy ngày sau là chết đói cả". Chiều về, chồng hỏi các con đâu, chị ta nói dối là bọn trẻ đi canh lúa cùng các cụ già ở chân núi xa. Bao giờ lúa chín chúng mới về.
Mấy đứa trẻ ở lại trong rừng canh chim. Tối chúng leo lên chòi để ngủ. Đêm đêm nghe tiếng hú của khỉ, tiếng gầm gừ của hổ, tiếng rú của chó sói làm chúng kinh hồn bạt vía. Đứa chị cũng sợ nhưng phải dỗ em không được khóc, nếu nghe tiếng người, bọn hổ báo kéo đến thì chết cả.
Trong rừng có một ông Tiên nhân đức, ông thương ba đứa trẻ tội nghiệp bị đày ải nơi rừng sâu núi thẳm. Ông muốn cứu giúp bọn chúng nhưng phải chờ đến ngày mai mới tâu lên Thiên đình được. Đêm nay, ông chỉ có thể đuổi thú dữ cho chúng mà thôi. Hôm sau, Tiên ông tâu lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng trả lời: - “Kiếp này chúng sẽ biến thành chim. Chỉ cần ông bảo vệ đừng để thú rừng ăn thịt bọn trẻ trong những ngày chúng còn là người. Nếu chúng đói thì hoá phép ra tôm, cá cho bọn chúng làm thức ăn.” Nghe xong Tiên ông yên tâm trở về núi cũ. Sau ba ngày bọn trẻ chẳng còn cái ăn, đứa em nhỏ đói khóc gào vật vã. Đứa chị phải đi kiếm rau dại, lá chua về cho các em ăn tạm. Em đòi ăn cá tôm dưới hồ, nhưng lửa tắt ngấm từ mấy hôm nay. Nó cứ gào khóc đòi về, đứa chị sợ lắm. Nhưng đứa em cứ giẫy lên đành đạch, không biết làm thế nào nó đành đưa em về nhà. Vừa về đến cửa, mẹ chúng đã la hét chửi ầm lên: - Đồ chết tiệt, đồ lười biếng. Không chết đi còn dẫn nhau về làm gì? Đứa chị năn nỉ: - Mẹ ơi! Xin mẹ thương em. Em đói mấy ngày nay rồi, gạo hết, lửa tắt. Mẹ không cho chúng con ở nhà thì mẹ cho chúng con gạo lửa. Mụ đàn bà thất đức này chẳng chút động lòng thương giọt máu của mình. Chị ta đánh đuổi lũ trẻ, bắt phải vào hồ canh lúa mà không cho mang theo một thứ gì. Bị đánh đau sứt đầu mẻ trán mà lũ trẻ ngây thơ vẫn luôn mồm gọi mẹ. Chúng không biết rằng mẹ chúng cố tình muốn giết chết con.
Chạy về đến lều, cả ba chị em đều ngã lăn ra bất tỉnh, vì trận đòn phũ phàng của mẹ, vì hoảng sợ mà chạy hết sức bình sinh. Tiên ông dùng phép lạ làm cho chúng tỉnh lại, chúng cứ khóc ròng. Thế rồi khóc mãi cũng xua đuổi được cơn đói. Đứa chị gạt nước mắt lội xuống hồ kiếm cá. Chao ôi! Cá tôm đâu mà nhiều thế. Nó bắt về cho các em ăn thay cơm. Nhờ có phép tiên, thức ăn ở trong hồ không bao giờ hết. Trời nắng, nó đem phơi thức ăn để dành. Con chị vừa làm vừa than thở: - Tại mẹ lấy chồng mới, mải mê ăn chơi đua đòi không thương chị em mình, lại còn muốn giết chị em mình nữa. Thôi đừng mong về nhà nữa. Hãy ở lại đây, chị em ta đùm bọc nhau mà sống.
Thấm thoát đã mấy tháng trôi qua. Những hạt thóc mẹ nó đánh rơi trên bờ hồ nay đã trổ bông. Nhờ có phép tiên giữ gìn nên thú rừng không hề phá phách. Đứa chị tuốt lúa về nấu cháo cho các em ăn. Sau vài tháng thì người ba chị em mọc đầy lông, hai tay biến thành hai cánh. Nhờ đôi cánh này, chúng có thể bay chuyển từ cây này sang cây khác nhưng chưa bay xa được. Rồi đôi môi dài ra, cứng lại thành cái mỏ nhọn, chúng không nói được tiếng người nữa. Chúng vẫn biết mình vốn là người đấy, nhưng khi nói, tiếng nói phát ra không thành tiếng người. Lâu dần, đôi cánh mọc thêm nhiều lông dài và khoẻ, chúng đã có thể bay đi xa, càng ngày càng xa.
Ở nhà, anh chồng vẫn làm nghề trộm cướp. Nhưng đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma. Lần ấy hắn bị bắt quả tang khi đang móc túi một cụ già. Hắn bị bỏ tù. Chị vợ thành kẻ bơ vơ. Sống một mình thấy buồn, chị ta nhớ con. Chị ta tìm đến túp lều canh lúa bên hồ. Nhìn thấy mấy đứa trẻ nửa người nửa chim, chị ta đoán đó là con mình. Chị ta vừa sợ vừa thương: - Các con ơi! Mẹ đến đón các con về đây. Nghe thấy tiếng mẹ, bọn chúng tưởng mẹ tìm đến để giết hại nên vội bay lên ngọn cây. Chúng vẫn nghe tiếng mẹ dỗ dành: - Tội nghiệp các con của mẹ, chỉ vì mẹ ngu dại mà đày ải các con, nay mẹ hối hận rồi. Hãy xuống đây về nhà cùng mẹ. Các con muốn nói: - "Không, không thể sống với mẹ được, mẹ ác lắm. Rồi có ngày mẹ giết các con thôi. Thà cứ làm con vật mà được sống như thế này còn sướng hơn. Mẹ đi đi, đi đi". Nhưng đâu có nói thành tiếng người được. Chúng chỉ phát ra được mấy tiếng "Kôn lộôc" Kôn lộôc" và bay chuyển trên các ngọn cây. Người mẹ cứ theo hoài, theo mãi cho đến lúc kiệt sức, gục chết trong rừng.
Giống chim này thường ăn ốc ở các đầm lầy, hồ nước ven rừng. Thấy động là chúng bay lên và kêu: Kôn lộôc! Kôn lộôc. Người ta đặt tên cho loài chim này là Kôn lộôc theo tiếng kêu của chúng. Đêm thanh vắng, giữa vùng rừng núi và đầm hồ hoang dã, tiếng nó gù gù than thở nghe thật tội nghiệp.

66. SỰ TÍCH CON ĐOM ĐÓM
Ngày xưa, ở vùng đất nọ, từ vua quan đến dân đều là đàn bà và vùng đất ấy được gọi là Mường đàn bà. Đất nước của họ thật giàu có; ruộng đất phì nhiêu, lắm ngô nhiều lúa, súc vật đầy đồng, nhà nào cũng đầy chiêng đầy ché. Nhưng lại buồn tẻ vô cùng vì thiếu tiếng cười, thiếu tiếng hát, không tiếng khèn tiếng sáo, không lứa đôi. Tất cả ở đây ai cũng khát khao cuộc sống lứa đôi vì con chim còn có tổ, con thú còn có đôi mà họ thì... nhưng họ biết tìm đàn ông ở đâu. Hằng năm chỉ có một con dê thần ở trên trời xuống ngủ với họ. Có hai chị em nhà kia không chịu làm vợ của dê thần, bỏ mường đi tìm đàn ông. Hai người cứ đi, đi mãi hết ngày này sang ngày khác. Họ vượt qua không biết bao nhiêu núi cao rừng rậm, qua bao đèo cao vực thẳm mà vẫn không gặp được ai. Sức đã kiệt, hơi đã tàn, người chị không còn nhấc bước đi được nữa, còn người em nằm lả bên đường. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, người em tha thiết nói với chị rằng: - Chị ơi! Ngược suối phải tận nguồn, lên núi thì phải tới đỉnh.
Người chị thương em vất vả khóc than và cứ ngồi mãi bên xác em. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc thì có một chàng trai khôi ngô tuấn tú ăn mặc sang trọng, vai đeo cung nỏ, cưỡi ngựa hồng đi tới. Chàng xuống ngựa, giúp cô gái chôn cất người chết xong, liền hỏi: - Nàng ở đâu? Sao lại ở trong rừng một mình. Cô gái đáp: - Chúng tôi đi tìm mường đàn ông để lấy làm chồng, đã đi nhiều ngày, nhiều đêm mà chẳng gặp được ai. Nghe nàng nói thế, người con trai bảo: - Tôi cũng đi tìm mường đàn bà lấy làm vợ. Trời cho chúng ta gặp nhau đấy. Chàng trở cô gái lên ngựa, cùng đi về đất nước mình.
Năm sau theo lệ ngày ấy, tháng ấy, thần dê lại về đất nước của những người đàn bà. Thần thấy thiếu hai chị em cô gái nọ liền đi tìm. Thần đi khắp nơi, đến khu rừng nọ gặp ngôi mộ bên đường liền bới lên. Xác người con gái đã thối rũa, duy đôi vú vẫn còn nguyên vẹn và từ hai đầu vú bay lên những đốm sáng. Những đốm sáng ấy ngày nay người ta gọi là đom đóm. Đom đóm không thấy chị đâu, không thấy người đàn ông nào thì tiếp tục bay đi khắp mọi nơi để tìm. Ban ngày không đủ thời gian, phải đốt đuốc đi tìm cả ban đêm.

67. SỰ TÍCH HOA CÚC TRẮNG
Ngày xưa, có một cô bé sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng hiếu thảo. Thật không may mẹ của cô bé bị bệnh rất nặng, nhưng vì nhà nghèo nên không có tiền mua thuốc chữa. Cô bé vô cùng buồn bã. Một lần đang ngồi khóc bên đường bỗng có một ông lão đi qua, thấy lạ bèn đừng lại hỏi. Khi biết sự tình, ông già nói với cô bé: - Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất trong rừng hái lấy một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày
Cô bé liền vào rừng và rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó, phải khó khăn lắm cô mới trèo lên được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có chỉ có bốn cánh. Chẳng lẽ mẹ cô chỉ sống được bằng đấy ngày thôi sao? Không đành lòng, cô liền dùng tay xé nhẹ từng cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh dần lên, nhiều đến mức không còn đếm được nữa. Từ đó người đời gọi bông hoa ấy là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình

68. SỰ TÍCH ĐÁ BÀ RẦU
Ngày xưa, có gia đình một người thuyền chài có một cô gái rất xinh. Khi cô đã lớn, nhiều chàng trai muốn xin kết duyên với nàng, nhưng chưa có đám nào thành cả. Mãi về sau một chàng trai người xứ Quảng lấy được nàng làm vợ. Anh chàng là người khỏe mạnh, làm nghề buôn hàng. Sau thời kỳ ân ái ngắn ngủi, đôi vợ chồng ấy phải rời nhau vì sinh kế. Người chồng theo thuyền, theo bạn ra đi, để một mình vợ ở lại với gian nhà nhỏ.
Thế rồi, cứ chiều chiều, người vợ lại ra bờ sông trông đợi những cánh buồm tiến vào cửa sông. Nhưng qua ba bốn tuần trăng mà chồng vẫn không thấy về. Người đàn bà đâm ra lo sợ: hay là trận bão vừa qua đã nhận chìm thuyền xuống thủy phủ. Hay là chồng mình làm điều gì thất thố, nên bọn quan quân địa phương đã giam tất cả mọi người vào ngục tối...
Năm, sáu tháng qua, người chồng vẫn chưa thấy về. Người đàn bà đó vẫn hàng ngày ra đứng bờ sông nhìn những cánh buồm tiến vào cửa biển. Mỗi một cánh buồm đối với nàng là một tia hy vọng, nhưng tia hy vọng ấy vừa lóe lên, thì một chốc sau đó lại tắt ngay.
Đột nhiên chồng về giữa lúc vợ đinh ninh sống một thân một bóng lạnh lẽo. Người lái buôn bước vào nhà làm cho mọi người kinh ngạc và mừng rỡ. Anh kể rất dài về cuộc sống chung đụng với những người khác ở nơi hải đảo. Nếu không có mưu trí thì anh và bạn hữu chưa chắc đã sống sót để nhìn lại quê hương. Thế là ngày vui trở lại. Thú ái ân lại tràn ngập chăn gối cho bõ những lúc xa nhau.
Nhưng vui chưa trọn mà buồn đã xuất hiện. Sự nghi ngờ bỗng nảy nở trong lòng người chồng. Chồng vốn là người cả ghen, lại cũng đã biết vợ ngày trước có phần nào tự do trong việc giao thiệp. Bây giờ đây, người ta mách nhỏ với anh rằng: Trong những ngày vừa qua người đàn bà hay bỏ nhà ra đi từ buổi chiều cho đến tối mịt mới về. Nghe đoạn, máu ghen của anh bừng bừng bốc lên. Hắn không ngờ trong những lúc mình gian lao như thế, thì vợ lại có thể như thế được. Những lời phân trần của người vợ chẳng ăn thua gì. Trong tình cảnh đó, nàng chỉ đành ngậm miệng. Vì thế chồng không tiếc tay hành hạ vợ. Không một lời oán trách, người đàn bà chỉ biết mình khóc với mình mà thôi. Vợ càng làm thế, thì chồng lại càng lạnh nhạt. Một hôm để cho vợ phải hối hận, người chồng lại cùng bạn dong buồm ra đi, không một lời rỉ tai với vợ. Người đàn bà ấy không biết chồng đi đâu và bao giờ trở lại.
Nhưng một hôm, người chồng lại cùng với các bạn bè trở về quê hương, sau một thời gian buôn bán ở phương xa. Hắn làm ra rất nhiều tiền, nhưng hắn thấy tiền của không đủ lấp sự trống trải trong lòng mình. Hắn ao ước được gặp lại vợ cũ để tìm hạnh phúc trong sum họp.
Lần này, chồng dự định lúc về sẽ khuyên dỗ cho vợ mình tu tỉnh để nối lại những ngày thắm đẹp xưa kia. Nhưng khi bước chân vào nhà, người chồng thấy nhà lạnh lẽo. Xóm giềng cho hay rằng vợ anh bỏ đi đã hơn một tháng. Hắn thấy gánh buồn đè nặng lên người. Hắn vơ vẩn đi lại bờ sông, chỗ mà người ta cho biết là vợ mình lần trước cũng như lần này hay đứng đây trông đợi. Sự hối hận tràn ngập trong lòng người đàn ông. Tự nhiên hắn reo lên vì xa kia bên cạnh cái tháp Chàm có bóng một người thiếu phụ nổi bật trong ánh chiều giống hệt vợ mình. Mừng quá, hắn cắm đầu chạy tới. Quả đúng là vợ, nhưng vợ bây giờ đã hóa thành đá, con mắt vẫn đăm đăm nhìn về phía chân trời vô tận.
Thời gian bây giờ đã xóa đi mất tích nhiều sự vật, nhưng bức tượng người đàn bà cô đơn buồn rầu kia ở Quảng Nam vẫn còn. Bên cạnh đó là một ngọn tháp cổ. Cái tượng đó người ta gọi là tượng Bà Rầu. Vì tượng ở cạnh tháp, nên tháp cũng gọi là tháp Bà Rầu.

69. SỰ TÍCH NƯỚC BIỂN MẶN
Ngày xưa, ở làng bên có hai anh em ruột. Hai người cùng cha mẹ mà tính nết khác biệt nhau hoàn toàn. Cuộc sống cũng khác biệt nhau một trời một vực. Người anh giàu có sống trong một ngôi nhà lớn có của chìm, của nổi, tha hồ ăn chơi phè phỡn. Người em thì nghèo khó cùng vợ con sống trong một túp lều nhỏ. Tuy nghèo nhưng anh được mọi người quý mến vì tính hay thương người, còn người anh thì chẳng mấy ai ưa vì tính keo kiệt, tham lam, ích kỷ.
Có lần đúng vào ngày lễ hội, gia đình người em chẳng có gì để ăn, đến một cái bánh mốc hay bát cháo loãng cũng không có. Thương vợ, thương con, người em bấm bụng đánh liều đến cầu xin người anh giàu có giúp đỡ. Vừa thấy bóng người em xuất hiện ở cửa, người anh keo kiệt bủn xỉn cất giọng thô bạo hỏi: - Mày đến xin gì vậy? Người em van: - Bác hãy thương lấy các cháu, xin bác cho chúng một ít gì để ăn vì hôm nay là ngày lễ lớn. Người anh ném cho em một cái bánh mốc meo: - Cầm lấy và cút đi! Đừng có bao giờ đến đây nữa nhé.
Mặc dù bị xỉ nhục nhưng người em vẫn không quên cảm ơn anh mình. Trên đường về nhà, bỗng người em gặp một cụ già phúc hậu. Cụ già bảo anh: - Ta biết con rất nghèo nên muốn giúp con. Ta biết con rất cần chiếc bánh này, nhưng con hãy làm theo lời ta. Con hãy đi vào rừng, góc rừng phía Tây ấy. Ở đó có cây cổ thụ rất to là nơi trú ngụ của quỷ. Trong hốc cây có một cái nồi bằng đá. Khi nhìn thấy chiếc bánh của con, bọn quỷ sẽ thèm và lấy vàng bạc gạ đổi nhưng con chỉ đổi bánh cho quỷ lấy chiếc nồi bằng đá. Chiếc nồi đó là chiếc nồi thần, sẽ cho con cuộc sống đầy đủ và còn có thể giúp những người nghèo khổ nữa.
Nghe lời cụ già, người em đi thẳng tới gốc cây. Ở đó, bọn quỷ đông nhung nhúc, đứa đứng, đứa ngồi, mặt mày đứa nào trông cũng dữ tợn. Nhìn chiếc bánh, lũ quỷ gào thét: - Này, thằng người kia! Hãy đưa chiếc bánh cho chúng ta, chúng ta sẽ cho nhiều vàng bạc châu báu. - Không, tôi không lấy vàng đâu, tôi chỉ lấy chiếc nồi bằng đá ở trong hốc cây thôi.
Lũ quỷ đói đổi ngay chiếc nồi bằng đá lấy cái bánh mốc. Người em ôm chiếc nồi về nhà, về đến nhà thì trời cũng vừa nhá nhem tối. Người vợ và những đứa con tội nghiệp chạy ùa ra đón anh. Vì hy vọng là có cái gì để ăn, nên khi thấy cái nồi bằng đá thì họ thở dài buồn bã: - Hãy lại đây và đừng buồn nữa. Chúng ta được no đủ rồi.
Anh đặt chiếc nồi giữa nhà, cầu xin nồi cho cả nhà một bữa ăn ngon, ăn no vì đã bao ngày nay vợ chồng con cái anh chỉ có rau cháo qua ngày. Anh vừa dứt lời thì một mâm cỗ đầy đủ sơn hào hải vị hiện ra, toả mùi thơm ngào ngạt. Nhìn vợ con ăn uống ngon lành, anh thấy lòng mình thật sung sướng. Ăn xong, anh xin thần cho anh một ngôi nhà đẹp, quần áo vàng bạc và đồ trang sức. Tức thì mọi thứ xuất hiện ngay.
Sáng hôm sau, dân làng kinh ngạc thấy chỗ túp lều tồi tàn của anh hôm qua nay dã mọc lên một ngôi nhà nguy nga tráng lệ. Tin về chiếc nồi đá diệu kỳ bay khắp nơi. Tin ấy đến tai cả những người buôn bán lớn ở vùng xa. Họ mang đủ thứ quý giá xin đổi lấy chiếc nồi đá nhưng người em không đổi. Thế rồi một hôm, có người buôn muối lấy cắp chiếc nồi đem lên thuyền chuồn ra biển. Khi tới giữa biển, người ấy xin nồi cho mình muối. Tức thì chiếc nồi tuôn ra bao nhiêu là muối, muối tuôn mãi, tuôn mãi không ngừng. Chiếc thuyền đầy ắp muối bị đắm giữa biển sâu đem theo cả chiếc nồi đá xuống đáy biển. Thế là từ ngày đó, chiếc nồi cứ tiếp tục tuôn ra muối, và muối lại hoà vào nước biển. Vì thế mà nước biển mặn cho đến tận bây giờ.

70. SỰ TÍCH CÂY KIM GIAO
Ngày ấy, có đôi trai gái yêu nhau tha thiết lắm. Người con trai tên là Kim, người con gái tên là Giao. Cả hai gia đình đều rất nghèo túng. Quanh năm làm thuê, làm mướn. Hai bên bố mẹ Kim và Giao rất ưng thuận làm thông gia với nhau.
Kim và Giao đã từng thề thốt kết bạn trăm năm. Nếu không lấy được nhau thì họ sẽ ở vậy chứ nhất định không lấy một ai khác ở trên thế gian này. Mối tình của họ trong như suối, sáng như trăng rằm.
Bỗng nhiên đất nước có nạn ngoại xâm. Lũ giặc tràn từ phương Bắc sang, chiếm đóng khắp nơi, quân dân vô cùng cơ cực. Bọn giặc ngoại xâm và bọn quan lại địa phương câu kết với nhau thoả sức vơ vét cướp phá. Khắp nơi nhân dân đã nổi lên chống lại. Tất cả trai tráng đều ra nhập nghĩa quân. Kim cũng xin vào đội ngũ những người yêu nước. Anh đánh giặc rất dũng cảm. Trước ngày cưới mấy hôm thì anh bị sa vào tay kẻ thù. Chúng đày anh lên vùng rừng núi hoang vu mạn ngược và giao cho một quan lang cai quản.
Kim bị quan lang giam cầm tra tấn rất thậm tệ. Hàng ngày chúng bắt anh vào rừng đốn gỗ phá núi, lấy đá về xây nhà cho quan lang. Từ ngày xa người yêu, chàng đau khô vô cùng, không lúc nào không nhớ về quê nhà. Sau một thời gian lâm bệnh, người con trai ấy qua đời. Bạn tù và dân địa phương đã chôn cất anh ngay giữa rừng, bên một dòng suối.
Lại nói về chuyện cô gái. Sau khi người yêu bị giặc bắt và đày lên rừng, cô rất buồn và thương nhớ người yêu. Vì cô còn trẻ đẹp nên lý trưởng trong làng đã nhiều lần đến gạ gẫm làm vợ lẽ hắn. Nhưng cô gái nhất quyết cự tuyệt. Vì thương nhớ người yêu nên nàng đã bỏ làng ra đi đến rừng tìm anh. Nói đến việc nàng đi tìm người yêu ai nghe cũng cảm động.
Thân gái một mình, đường sá xa xôi, núi rừng hiểm trở. Có nhiều đêm nàng phải ngủ trên cây để tránh thú dữ. Bấy giờ dọc đường rất lắm trộm cướp, nàng phải đóng giả người ăn mày để chúng khỏi để ý. Đi bộ ngày này qua ngày khác, thế rồi nàng cũng tìm được đến nơi chúng giam người yêu.
Khi đến nơi, người yêu không còn nữa. Tin sét đánh làm nàng như đứt từng khúc ruột. Nàng ôm lấy mộ người yêu, nước mắt như mưa. Sau đó nàng hoá điên và chết ngay ở bên suối. Nhân dân địa phương đem chôn nàng ở bên cạnh người con trai. Hai nấm mộ nằm sóng đôi giữa khu rừng vắng.
Sau đó, giữa hai nấm mộ mọc lên một cái cây rất thẳng. Thứ cây rất lạ, chưa ai thấy bao giờ. Lá cây phía trên có màu xanh thẫm rất bóng, phía dưới màu trắng bạc. Cây toả mùi hương thơm ngan ngát như mùi trầm. Đêm đêm từ cây ấy vọng ra một thứ tiếng trầm trầm như người hát, ai oán rất buồn.
Quan lang thấy vậy tưởng cây có ma, hắn rất hoảng sợ liền đem dao ra chặt đi, nhựa cây bắn vào mắt hắn, tự nhiên hai mắt hắn bị mù tịt. Còn vợ con trong nhà thì sinh ốm đau thập tử nhất sinh.
Cái cây sau khi bị quan lang chặt, lại bật chồi lên, chẳng bao lâu cây lại xanh tốt như cũ. Từ ấy trở đi không ai dám chặt cây nữa.
Nhân dân trong vùng rất yêu quý giống cây ấy. Nhiều người bị cảm bứt một nắm đem bỏ vào nấu nước xông sẽ khỏi, nhưng điều kỳ lạ nhất của giống cây này là gỗ của nó đem vót làm đũa ăn cơm, khi nhúng vào thức ăn có thuốc độc, đũa sẽ sủi ngay lên một thứ bọt đen báo cho người ta biết. Vì thứ gỗ quý ấy đã cứu được bao nhiêu người khỏi chết oan.
Nhân dân gọi giống cây lạ ấy là cây Kim Giao.

71. SỰ TÍCH ĐẢO THUYỀN VÀ CHIM BÓI CÁ
Ngày ấy, đã lâu lắm rồi không biết bao nhiêu mùa trăng tròn trăng khuyết. Trên đảo Palatinh có một gia đình thật nghèo, nghèo xác nghèo xơ. Nhà chỉ có ba người, hai vợ chồng và một đứa con trai thế mà quanh năm đầu tắt mặt tối, bữa đói bữa no. Nhưng nỗi khổ cứ đeo đẳng mãi. Đang yên lành người chồng bỗng lăn ra ốm rồi sớm qua đời để lại con thơ vợ dại. Trong túp lều chông chênh dột nát giò chỉ còn lại hai mẹ con sớm hôm rau cháo tần tảo nuôi nhau. Người mẹ trẻ vẫn còn chút nhan sắc nên vẫn còn nhiều người rào đón đẩy đưa nhưng người mẹ vẫn cứ thắt lưng buộc bụng ở vậy nuôi con khôn lớn.
Bao mùa hoa nở hoa tàn, thấm thoắt đứa con trai đã thành một chàng trai khoẻ mạnh. Anh ta bỏ nhà ra sông chèo thuyền kiếm sống, cuộc sống của anh ta ngày càng khấm khá. Nhưng tiền bạc càng nhiều thì tình nghĩa mẹ con ngày càng vơi đi, anh ta dần quên bà mẹ già còm cõi ngày đêm mong ngóng đứa con yêu. Chẳng thấy con trai về thăm nhà đỡ đần gạo thóc, bà mẹ phải nhờ vả hàng xóm láng giềng, khi thì ngọn rau, khi thì hạt muối, mà chưa bao giờ bà phàn nàn về con cả. Hễ có ai trách móc con trai thì bà lại tìm mọi lý lẽ để bênh con: "Tôi biết nó chẳng bao giờ bỏ tôi đâu. Chắc là tại công việc nhiều quá, không nhờ ai làm hộ mà về nhà được".
Còn người con trai, nhờ công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió mà ngày càng có nhiều tiền của. Dần dần anh ta cũng gom góp đủ tiền để mua một chiếc thuyền lớn để chở hàng. Từ khi có thuyền lớn lại có nhiều vốn nên anh ta thuê người ăn kẻ làm, mua vào bán ra nên giàu lên trông thấy. Trở thành ông chủ, anh ta cưới một cô vợ nõn nà. Bên người vợ trẻ xinh đẹp vui thú với chuyện gia đình, anh ta quên hẳn bà mẹ già héo hắt vẫn một mực thương con ngày đêm mong ngóng. Ham những chuyến buôn dài ngày trên biển anh ta quên bặt làng xóm quê hương.
Rồi một hôm, cảnh trời non nước bao la, tình cờ gợi nhớ đến trong hắn cảnh bến đò con sông và những ngày ở đợ cho người. Hắn cho thuyền ngược dòng trở về đến sông xưa. Có vài người nhận ra hắn là người cùng làng xóm, người trước đây từng chở đò thuê ở bến sông này. Ai ai cũng ngỡ ngàng thấy hắn là một ông chủ bệ vệ đứng bên người vợ xinh đẹp lụa là óng ả, vàng bạc giắt đầy người. Người ta trầm trồ khen anh giàu có, khen hắn tài ba và không tiếc lời khen chiếc thuyền có nhiều cánh buồm lớn của hắn. Có người nhanh chân đã chạy về báo cho bà mẹ biết rằng đứa con trai làm ăn phát đạt của bà đã trở về.
Sau bao năm mòn mỏi ngóng tin con giờ thì người mẹ trẻ năm xưa đã già yếu lắm. Được tin con, bà run rẩy khóc rồi lập cập ra bờ sông, bà đi không vững, chân cẳng yếu ớt nên cứ vấp hoài, ngã dúi ngã dụi. Cuối cùng bà cũng ra được bến sông. Đứng trên bờ chăm chăm nhìn xuống thuyền nhưng không thấy con tàu vì mắt bà đã lòa. Mọi người thấy vậy thương bà quá nên dìu bà xuống bến. Bà gọi tên con trong tiếng nấc nghẹo ngào: - Con trai yêu quý của mẹ, con trai bé bỏng hãy đến đây với mẹ nào. Mẹ nhớ con quá. Tiếng gọi của bà mẹ vọng đến con thuyền. Ông chủ thuyền ló đầu ra ngoài nhìn thấy một bà già gầy guộc, móm mém, đầu tóc bạc phơ, quần áo bẩn thỉu vá chằng vá đụp thì hắn cảm thấy ngại ngùng.
Thấy chồng treo lên boang, cô vợ trẻ cũng lên theo. Cô nhìn lên bờ hỏi: - Bà già bẩn thỉu kia gọi ai đấy, có phải gọi anh không? Những người làm công, những nhà buôn lớn là những bạn hàng của ông chủ nghe thấy xôn xao cũng đổ xô cả lên boang để xem có chuyện lạ gì. Ông chủ thuyền bỗng cảm thấy xấu hổ trước mặt mọi người, hắn sợ không dám nhận bà già rách rưới tiều tuỵ kia là mẹ. Tay chống nạnh, ông chủ hướng lên bờ quát: - Này bà già lẫn cẫn kia, ở đây có ai là con bà đâu mà bà gọi, bà hãy đi ra chỗ khác đi.
Nghe thấy con trai nói thế, bà mẹ đau đớn như bị cắt từng khúc ruột. Song bà vẫn cố níu kéo con trai. - Trời ơi, con tôi, nỡ lòng nào con đối với mẹ tàn tệ vậy. Mấy chục năm trời mẹ đau đáu mong con. Giá không đợi con về thì mẹ đã chết lâu rồi. Nhưng hắn không muốn để vào tai những lời bà mẹ già nói nữa. Hắn ta sai người lên bờ đuổi bà cụ đi chỗ khác để khỏi vướng chân những người bốc dỡ hàng.
Đến nước này thì bà thôi không khóc nữa. Bà mẹ nâng vạt áo rách lên lau mắt lầm rầm nguyền rủa thằng con bất hiếu của mình: - Hỡi trời cao đất dày, hãy nghe lời nguyền của con. Con đã mang nặng đẻ đau, con đã vắt cạn kiệt sức của bản thân để nuôi cái thằng khốn kiếp kia. Giờ đây con xin trời hãy trừng phạt nó. Hỡi dòng sông quê hương hãy dìm con thuyền kia dưới lớp sóng của Người. Tức thì phong ba bão tố nổi lên ầm ầm, sấm rung lòng đất, chớp giật xé rách bầu trời, mưa đổ xuống xối xả. Chiếc thuyền buôn lớn ngả nghiêng dềnh lên dập xuống, những cột buồm gãy gục, lá buồm rách tả tơi. Chiếc thuyền ngập nước từ từ chìm xuống. Tên chủ thuyền cố sức leo lên được ngọn cột buồm lúc ấy đang còn chơi vơi trên mặt nước. Hắn hướng bộ mặt tái nhợt lên bờ van xin: - Con lạy mẹ, mẹ tha tội chết cho con. Hắn gào lên thảm thiết - Mẹ, mẹ ơi. Nhưng bà mẹ cắn răng ngoảnh mặt đi. Không một tiếng van xin nào lay chuyển được lòng bà nữa. Bà bước thấp bước cao mặc cho mưa gió gào thét, bà trở về túp lều bé nhỏ của mình.
Chiếc thuyền cùng với hắn chìm nghỉm xuống đáy dòng sông. Sau khi bị chết, hắn hoá thành con chim bói cá xanh lè. Cho đến bây giờ, con chim vẫn bay dọc bờ sông luôn miệng gọi "Mẹ ơi, mẹ ơi" tiếng kêu như sám hối. Còn chiếc thuyền đầy của cải kia sau khi chìm xuống bị bùn đất lấp lên dần dần thành một hòn đảo nhỏ. Và cái tên Đảo Thuyền có từ đó.

72. SỰ TÍCH CÂY THÌ LÀ
Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, khi ấy tất cả muôn loài chim thú, cây cỏ đều chưa còn có tên gọi. Một hôm nọ, ông Trời cho tập hợp tất cả các loài cây cỏ lại để ban cho mỗi loài một cái tên. Thôi thì phải biết, các loại cây đều giành nhau đến trước để được đặt tên theo ý mình mong muốn. Cây dịu dàng toả hương, thích được gọi tên mình là lan. Cây õng ẹo múa nhịp nhàng, xin được đặt tên là tóc tiên. Cây hiên ngang đi đứng, được gọi là thông. Các loại rau, cỏ cũng vậy chen chúc nhau nài nỉ để ông trời đặt cho mình những cái tên thật đẹp như quế, dấp cá, tía tô, húng... Cho đến cuối ngày, khi các cây cỏ đều đã được đặt tên, hoan hỉ về hết, ông Trời cũng đã mệt thiu thiu vào giấc ngủ chợt có một cây nho nhỏ lúc đó mới hớt ha hớt hải chạy đến, xin tên gì cũng được vì nó phải chăm sóc bà bị bệnh nên không thể đến sớm được. Ông Trời thấy lòng hiếu thảo của nó thật đáng cảm động nên không trách phạt nhưng nghĩ mãi, nghĩ mãi mà vẫn không ra được cái tên gì nữa, cho nên ông cứ ngập ngừng mãi: - Tên của con là... thì là...thì là...
Nhành cây mới chỉ nghe đến vậy, mừng quá hét toáng lên: - Ôi tôi có tên rồi! Tôi là Thì Là!
Nó vui quá vội vàng cám ơn ông Trời rồi chạy nhanh về nhà khoe với bà và bạn bè cái tên mới được Trời ban cho mình. Từ đó, muôn loài gọi nó là cây thì là hay là thìa là. Tuy rằng cái tên đó rất buồn cười, nhưng không một loài nào chế diễu, bởi vì lòng hiếu thảo của nó đã hơn tất cả các loại cây khác rồi”.

73. SỰ TÍCH CÂY LÚA
Ngày xưa, con người sống rất khổ họ không có ăn mặc chỉ độc có chiếc khố, họ cũng không biết ăn cơm mà chỉ ăn rau rừng quả dại cho qua ngày đoạn tháng. Họ sống lang thang hết vùng này đến vùng nọ. Nơi nào có nhiều rau quả thì họ dựng lều ở tạm. Khi nào ở đó hết thức ăn thì lại dắt nhau đi nơi khác.
Con người sinh sôi ngày một đông còn thức ăn ngày một ít đi, hơn nữa họ đi đến đâu là tàn phá rừng đến đấy, cuộc sống của họ ngày càng chật vật khó khăn. Năm ấy thời tiết không thuận hoà, thức ăn ít hẳn nên mọi người đều bị đói. Nhiều người phải bỏ đi thật xa. Trong số ấy có hai vợ chồng trẻ cũng không chịu được cảnh cơ hàn nên dắt díu nhau vào rừng sâu để sinh sống. Họ đi mãi chân đã mỏi, bụng đói cồn cào mà vẫn chưa tìm được chỗ nghỉ chân. Đến chiều tối thấy một đàn chim sà xuống một vùng cỏ nâu vàng, họ dừng lại và dựng một túp lều con tạm nghỉ ở đó.
Hàng ngày vợ lên núi kiếm rau tìm quả dại, còn chồng đặt bẫy bắt chim. Cuộc sống tạm ổn. Những con chim họ bắt được đều ăn một loại hạt màu vàng. Thấy chim ăn hạt màu vàng lại béo, thịt ngon, vợ liền nói với chồng: - Thứ hạt chim ăn được chắc người cũng ăn được đấy. Chồng gật đầu đồng tình, rồi họ ăn thử thấy thơm ngon và ăn vào no lâu hơn ăn rau rừng. Một thời gian ăn hạt đó họ thấy người khoẻ ra.
Hai vợ chồng ra rừng lấy hạt ấy về để ăn dần. Năm tháng trôi qua người cùng chim ăn nhiều nên hạt ấy cũng ít đi. Hai vợ chồng thử trồng một ít thứ hạt màu vàng đó ở gần túp lều, họ thấy cây này ngày càng xanh tốt. Đến ngày thu lượm họ thấy trồng một hạt lại thu được cả chùm hạt. Năm sau họ lại trồng nhiều hơn năm trước. Cứ thế họ không phải hái rau rừng ăn nữa mà dùng hạt thay rau.
Sau vài năm mưa thuận gió hoà hai vợ chồng thu hoạch được rất nhiều hạt này. Ăn không hết họ bàn nhau đưa hạt đó về cho người quen cũ trồng.
Sau bao ngày đêm vất vả lội suối băng rừng, cuối cùng hai vợ chồng cũng tìm được người quen ở một vùng xa xôi. Hai vợ chồng kể lại cách sinh sống làm ăn của mình trong mấy năm qua ở vùng rừng nọ và đưa cho mọi người những hạt vàng làm giống. Mọi người cảm ơn hai vợ chồng tốt bụng đã gặp may tìm được loại hạt vàng ăn thay rau rừng lại còn lấy được giống cho mọi người cùng trồng. Hạt vàng đó chính là hạt lúa ngày nay.

74. SỰ TÍCH CON SAM
Xưa kia, ở một làng chài nọ, có một đôi vợ chồng đánh cá nghèo rất mực thương yêu nhau. Hôm đó, như thường lệ người chồng cùng trai tráng trong làng ra khơi. Không may, trong lúc họ thả lưới, một trận bão lớn nổi lên. Không còn ai sống sót trở về.
Tin dữ lan đi, dân làng đều rất đau xót. Vợ mất chồng, con mất cha, cả làng than khóc mất mấy ngày mấy đêm. Người đàn bà tuy rất đau khổ nhưng vẫn một mực tin chồng mình còn sống. Chị bỏ làng ra đi tìm chồng. Chị đi theo bờ biển, đi mãi, đi mãi nhưng biết tìm ở đâu bây giờ. Khi tưởng như tất cả đã trở nên vô vọng, chị đến chân một ngọn núi lớn. Chị lấy hết sức trèo lên ngọn núi, phóng tầm mắt ra hy vọng sẽ tìm thấy dấu hiệu của chồng mình. Cuối cùng, do mệt quá, chị đã ngủ thiếp đi dưới một gốc cây. Trong giấc mơ, chị gặp thần cây. Sau khi nghe chi kể rõ đầu đuôi câu chuyện, thần cây đưa cho chị một viên ngọc và bảo: "Ta thấy chồng ngươi vẫn còn sống và đang ở ngoài hải đảo. Nay ta cho ngươi viên ngọc này. Ngậm nó vào miệng và nhắm mắt lại, nhà ngươi sẽ bay được qua biển để gặp chồng. Nhưng nhớ, tuyệt đối không được mở mắt, há miệng ra, rơi ngọc là nguy đấy". Chị choàng tỉnh giấc, biết mình nằm mơ. Kỳ lạ thay, viên ngọc của thần cây trong mơ đang sáng lóng lánh trên tay chị. Chị lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại như lời thần cây dặn. Bỗng nhiên, trời nổi gió ù ù. Chị thấy người mình nhẹ bỗng. Một lúc sau thì chân chị chạm đất. Mở mắt ra, chị thấy mình đang đứng ở một nơi hoang vắng lạ lùng. Tìm kiếm hồi lâu, chị đã tìm thấy chồng. Vợ chồng gặp nhau chuyện trò không dứt. Họ muốn quay về làng cũ thì chị vợ chỉ có một viên ngọc. Suy nghĩ hồi lâu, hai vợ chồng quyết định là người chồng sẽ ôm ngang lưng vợ cùng bay qua biển. Người vợ do tìm lại được chồng, lòng vui sướng không tả xiết nên đã quên mất lời thần cây dặn. Đang đi đến giữa biển chị mở mồm hỏi chuyện chồng. Viên ngọc văng ra giữa không trung rồi rơi mất hút. Chị vợ chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi cả hai vợ chồng cùng rơi xuống biển. Họ hoá thành những con sam. Ngày nay, người ta thấy những con sam thường đi cặp đôi dưới nước và lúc nào cũng con sam đực ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ bay qua biển.

75. SỰ TÍCH CON DẾ
Ngày xưa, có một người đàn ông có hai vợ. Vợ cả có một người con trai tên là Văn Linh. Vợ lẽ cũng có một con trai đặt tên là Văn Lang. Văn Lang hơn Văn Linh năm tuổi nên là anh, còn Văn Linh là em. Hai anh em tuy khác mẹ nhưng rất yêu thương nhau. Chẳng may vợ cả đổ bệnh, mất sớm. Từ đó hai anh em lại càng thương yêu nhau hơn. Nhưng vợ hai lại trái ngược lại với con trai mình, rất thù ghét Văn Linh. Hai anh em lớn lên bên nhau. Văn Linh thì theo nghiệp đèn sách. Còn Văn Lang thì theo cha theo nghiệp cày cấy. Nhà họ vốn không phải giàu có lắm nhưng cũng là một trong số ít nhà có của ăn của để trong vùng.
Đột nhiên, người cha ốm nặng qua đời. Trước kia, khi người cha còn sống thì mụ dì ghẻ còn dè chừng. Nay, người cha đã mất, mụ càng ngày càng lộ rõ dã tâm. Ban đầu thì còn đối đãi với Văn Linh tử tế, dù chỉ là ngoài mặt. Nhưng sau mụ ngày càng quá đáng, luôn tìm cách xỉa xói, nói bóng nói gió với Văn Linh. Văn Linh cũng lờ mờ thấy khó hiểu trong cách cư xử của mẹ kế trong thời gian gần đây, nhưng vốn hiền lành, không quen thói chấp vặt, chàng toàn bỏ qua. Về phần Văn Lang, biết mẹ mình không ưa gì Văn Linh, chàng càng yêu quý em hơn.
Nhưng mụ dì ghẻ vì loá mắt trước gia sản chồng để lại, muốn độc chiếm lấy cho hai mẹ con mụ, mụ đã nảy dã tâm muốn giết chết Văn Linh. Nghĩ là làm, một hôm, mụ sai hai anh em mang tiền đi mua gỗ. Trước khi đi, mụ gọi con đẻ của mình vào buồng riêng dặn dò: - Con ơi, vào nơi rừng sâu heo hút, con lại khoẻ hơn nó, con hãy tìm cách giết nó đi. Sẽ không ai nghi ngờ gì con cả. Nó mà sống thì mẹ con ta không có tấc đất cắm dùi. Ngược lại, nó chết đi thì cả cơ ngơi này sẽ về tay mẹ con ta. Thực lòng, Văn Lang không muốn làm theo lời mẹ nhưng chàng cũng không muốn làm phật ý mẹ. Chẳng còn cách nào, chàng giả tảng vâng lời, khăn gói cùng Văn Linh lên đường. Đến cửa rừng, Văn Lang nói thật cho Văn Linh biết mọi việc rồi bảo em cầm tiền mua gỗ của cả hai trốn đi, đừng trở về nữa. Nếu có duyên, anh em sẽ gặp lại nhau.
Văn Linh từ giã Văn Lang rồi rẽ sang hướng khác. Đợi khi Văn Linh đi khuất, Văn Lang giết một con chó rồi lấy máu bôi khắp nơi. Đoạn anh trở về nói với mẹ mình rằng mình đã hạ thủ Văn Linh ở trong rứng sâu rồi quăng cho chó ăn thịt rồi. Mặt khác, chàng nói với mọi người trong làng là em mình đã bị hổ vồ mất tích. Xóm làng không ai nghi ngờ gì vì từ trước đến nay chàng cùng Văn Linh sống rất hoà thuận, chưa bao giờ to tiếng điều gì. Còn mụ dì ghẻ thì hí ha hí hửng, cho rằng mưu mình đã thành, sớm ngày ăn no ngủ kỹ, không còn lo nghĩ gì nữa.
Về phần Văn Linh, sau khi đau khổ từ giã Văn Lang thì không biết đi đâu. Từ bé đến lớn,chàng chỉ biết mỗi việc đèn sách, đã đi xa thế này bao giờ đâu. Chàng lo lắm, trời thì cứ mỗi ngày một tối dần. Loanh quanh mãi không biết đi đâu, chàng tìm đường về mộ mẹ than khóc một lúc rồi ngủ quên lúc nào không biết. Mẹ chàng dưới mồ thấy tình cảnh con mình như vậy thì thương lắm. Bà hiện hồn lên, hoá thành con chim phượng hoàng lớn ấp chàng vào đôi cánh. Khi trời tang tảng sáng, phượng hoàng quắp lấy Văn Linh bay đến một hòn núi cao. Đặt Văn Linh xuống một chỗ đất bằng, phượng hoàng hoá phép ra nhà cửa và mọi thứ đồ ăn thức uống khác. Một lúc sau, Văn Linh tỉnh dậy. Chàng sửng sốt không biết mình đang ở đâu và sao bên chàng lại có một con phượng hoàng lớn như thế. Chàng đứng dậy toan bỏ chạy thì phượng hoàng lên tiếng: - Con đừng sợ, ta là mẹ con đây. Con chớ tìm đường về mà nguy hiểm. Hãy ở lại đây chuyên tâm đèn sách, hàng ngày mẹ sẽ đến với con.
Cứ thế, ngày nào cũng vậy, cứ ban ngày thì phượng hoàng biến đi, nhưng ban đêm, nó lại bay đến chỗ Văn Linh để bảo vệ cho chàng. Tới mờ sáng, nó đánh thức chàng dậy rồi mới bay đi. Được gần mẹ, Văn Linh vui lắm, chàng học hành ngày càng tấn tới, tiến bộ rõ rệt so với trước đây.
Bây giờ, ở dưới núi có một xóm nhỏ. Nhà cửa ở đó rất thưa thớt, dân cứ sống rải rác. Trong xóm đó, có một con gái người đẹp như hoa tên là Ngọc Châu. Nàng sống với một người hầu gái nữa. Hai người sống nương tựa vào nhau trong một ngôi nhà nhỏ, lấy nghề dệt vải nuôi thân. Từ khi Văn Linh đến sống trên núi, hai cô gái rất lấy làm lạ bởi từ trước tới nay đỉnh núi làm gì có người ở. Thế mà bây giờ ngày nào hai cô cũng nghe thấy tiếng học trò đọc sách suốt ngày.
Một hôm, Ngọc Châu cố tình làm tắt lửa để có cớ sai nàng hầu lên núi xin lửa anh học trò. Văn Linh đang ngồi học bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Chàng mở cửa, thấy một cô gái. Sau khi cho lửa, anh hỏi xin cô gái một ít dầu để thắp đèn vì dầu nhà anh đã cạn. Nàng hầu chỉ nhà cho anh xuống lấy. Nhờ đó, anh quen với Ngọc Châu. Rồi từ chỗ quen biết, hai người dần trở nên thân thiết tới mức không thể xa nhau được. Kết quả của sự thân thiết đó là họ trở thành vợ chồng. Từ đó, chàng đọc sách, nàng quay sợi. Cảnh đầm ấm ấy thật không ai hơn được.
Năm năm dùi mài kinh sử đã qua. Văn Linh lều chõng đi thi. Chàng rất tự tin và kết quả đã đỗ Trạng Nguyên. Hôm vinh quy, cờ quạt chiêng trống rầm rộ kéo về quê. Thấy em vinh hiển trở về, Văn Lang hết sức mừng rỡ. Trong khi đó, mụ dì ghẻ đột ngột nghe tin đã không tìn vào tai mình nữa. Phần vì tức tối, phần vì sợ hãi, mụ vỡ mật lăn ra chết, hoá thành con dế. Vì mụ chết vào đúng tháng Tám nên hàng năm cứ vào tháng này, ta lại nghe tiếng dế kêu. Đó chính là mụ dì ghẻ đang tức tối kêu lên những tràng âm thanh vô vọng. Thật đáng đời những kẻ độc địa nham hiểm.

76. SỰ TÍCH THÁP BÁO ÂN
Ngày xưa, ở một làng nọ có một đôi vợ chồng phú ông sinh được một cô con gái. Cô gái vừa đẹp người, vừa đẹp nết, ai ai cũng yêu quý. Vì nhà có nuôi thầy dạy học cho con trai, lại thấy con gái nhanh nhẹn, thông minh, phú ông cũng cho con gái theo đòi nghiên bút. Cô gái quả thật rất thông minh, học hành tấn tới, chẳng bao lâu đã thông kinh sách.
Tiếng lành đồn xa. Sắc đẹp, tài học của cô con gái nhà phú ông đã lan khắp các vùng lân cận. Đã có rất nhiều công tử con nhà giàu có quyền quý tới dạm hỏi, nhưng phú ông chưa đồng ý ai. Ông luôn tự nhủ sẽ không gả con gái cho những kẻ phàm phu, tục tử, kẻo uổng phí xuân xanh một đời.
Thế là mặc dù đã có rất nhiều đám dạm hỏi nhưng cô gái vẫn chưa hề nghĩ gì tới chuyện trăm năm của mình mà chỉ suốt ngày chú tâm học hành, thơ phú cô làm ra khó có ai theo kịp. Nhưng trớ trêu thay, cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy lại mang trong mình một chứng bệnh mà thấy thuốc nào cũng phải lắc đầu bó tay: đó là bệnh hủi. Ngày cô mới bị bệnh, cô còn giấu kín không cho ai biết. Nhưng sau, những chỗ sưng thối lở loét bắt đầu hành hạ khiến cô không thể che mắt thiên hạ được nữa. Thấy bệnh tật của con gái bị bà con hàng xóm xì xào, hơn nữa đây cũng là một  căn bệnh rất dễ lây nên mặc dù rất đau xót, vợ chồng phú ông đành phải làm một ngôi nhà bên cạnh đường, cách xa ngôi làng để cô sống cách biệt. Sợi dây liên lạc duy nhất của cô với thế giới bên ngoài, với cha mẹ cô là cô hầu gái thỉnh thoảng mang gạo nuôi, tiền nong đến cho cô chi dùng hàng ngày. Cứ như thế, cô gái xấu số nọ chịu nhận một cuộc sống cô đơn buồn rầu đã hơn một năm.
Năm ấy, đến khoa thi, chỗ cô ở vốn tách biệt với xóm làng nên những ngày ấy cũng không tấp nập gì hơn. Một hôm, trời bỗng đổ cơn mưa. Mưa rất to và kéo dài mãi đến tận khuya. Khi ngoài trời đang mưa tầm tã như vậy, cô đột nhiên nghe có tiếng gọi cổng của một người con trai. Thấy người lạ, cô gái nói vọng ra: - Ai đó? Hãy đi tìm chỗ khác mà trọ, ở đây nhà cửa chật chội lắm, không ở được đâu. - Tôi là học trò họ Trần đang trên đường đi thi thì gặp trời mưa. Xin cô làm ơn cho tôi vào hơ nóng, tôi lạnh quá, mưa ướt hết cả rồi.- Anh học trò nài nỉ. - Tôi là phận nữ nhi, nhà lại vắng vẻ không tiện mời khách vào. Xin hãy gắng đi một đoạn nữa, sẽ có chỗ trọ. Vẫn với giọng nài nỉ như thế, anh học trò tiếp: - Làng xóm vẫn còn xa quá, xin cho nghỉ lại một lát, nếu thấy không tiện, tôi sẽ đi ngay. Thấy giọng có vẻ cầu khẩn, hơn nữa khách lại xưng là con nhà lễ giáo, có học, cô gái động lòng thương, bèn ra mở cửa cho vào.
Dưới ánh đèn, cô thấy người khách là một chàng trai chừng hai mươi tuổi, dáng dấp nho nhã, ăn nói lễ phép. Cô không nỡ từ chối nên tươi cười: - Bố mẹ tôi đều đi vắng cả, chỉ có mình tôi ở nhà. Người xưa có câu "Nam nữ thận trọng từ cái trao tay", mời chàng trọ lại đây cũng thật bất tiện nhưng thấy chàng đi đường xa mệt nhọc, ướt át, tôi chẳng dám khăng khăng giữ lễ. Vậy mời chàng nghỉ lại đây, có gì tôi xin giúp đỡ. Nói rồi, cô đốt lửa cho khách sưởi, thổi cơm cho khách ăn. Anh học trò thấy cô gái mặt mũi xinh đẹp, ăn nói khéo léo, lại có vẻ con nhà tử tế, có học, rất lấy làm cảm mến. Anh bèn nói: - Cô đã không câu nệ, hết lòng giúp đỡ một học trò như tôi, tôi chẳng dám quên ơn. Tôi cũng không ngờ cô lại theo nghiệp đèn sách. Mạn phép xin hỏi chẳng hay cô là con cái nhà ai, bố mẹ làm gì?
Cô kể cho anh học trò nghe tất cả về gia đình và bản thân, trừ căn bệnh của mình. Sau khi biết được về cô, lại thấy cô học giỏi, anh học trò bèn cùng xô xướng hoạ. Hai bên đối đáp tới khuya, chuyện trò có vẻ rất tâm đầu, ý hợp. Từ chỗ quý mến, anh học trò yêu cô lúc nào không biết. Thấy cô chỉ có một mình, anh đâm bạo dạn ngỏ lời đính ước. Cô gái cũng rất quý mến anh học trò, nhưng lại nghĩ mình bệnh tật, thương thân tủi phận, cô gái rơi nước mắt, nói: - Thiếp phận mỏng không đáng là kẻ nâng khăn sửa túi cho chàng. Xin chàng hãy để tâmvào việc thi cử, lo cho con đường công danh trước đã. Sau này khi chàng trở về cũng chưa muộn. Anh học trò không biết ẩn tình ra sao, lại gần cô gái khuyên dỗ. Càng dỗ dành, cô gái càng lã chã nước mắt. Cuối cùng, anh học trò không cầm được lòng mình đã nắm lấy tay cô. Cô tuy e lệ nhưng cũng không từ chối. Hai bên đính ước và coi nhau như vợ chồng.
Sáng hôm sau, anh từ giã cô ra đi. Trước khi chia tay, anh hẹn: - Ta và nàng đã đính ước, xin nàng hãy đợi ta. Chuyến này, dù đỗ hay hỏng, ta cũng sẽ nhờ người đưa "tục lễ" đến rước nàng về làm vợ ta.
Sau khi anh học trò ra đi, cô gái nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình thì vô cùng đau khổ. Cô tự nhủ: - Chàng đâu có biết ta đang bệnh hoạn khốn khổ thế này. Nhưng ta cũng đâu có thể giấu chàng mãi được. Thế nào khi chàng quay lại đây, chàng cũng sẽ biết. Lúc đó, ta đâu còn mặt mũi nào nữa. Chẳng thà chết quách đi còn hơn.
Suốt cả ngày hôm sau, cô gái vừa tưởng nhớ chàng trai, vừa tuyệt vọng. Nhiều khi cô định phó mặc cho số phận, định rằng sẽ kể hết cho chàng về bệnh tình của mình khi chàng quay về nhưng rồi cô lại thấy mình không thể. Cứ thế, cứ thế, cô sống trong đau khổ dày vò trong mấy ngày liền. Trong một cơn phẫn chí đến cực độ, cô không làm chủ được, bỗng dưng ngất đi, hồn lìa khỏi xác lúc nào không biết.
Mấy ngày sau, vợ chồng phú ông mới hay tin. Ai ai cũng đau xót, than khóc hồi lâu rồi an táng người bạc mệnh ở ngay ngôi nhà của cô.
Lại nói chuyện anh học trò sau khi từ giã cô gái đã đi liền mấy ngày đến trường thi. Không lúc nào hình ảnh cô gái tài hoa đêm ấy lại không hiện lên trong tâm trí anh. Vào trường thi, từ đầu đến cuối, anh làm bài rất trôi chảy. Nhưng đến cuối bài, có một câu khá hóc búa. Anh ngậm bút mãi, cuối cùng cũng viết thành bài nhưng không được như ý lắm, đôi chỗ vẫn còn sai sót.
Lúc ông chủ khảo chấm bài, đến bài của anh học trò kia, ông thấy không đạt. Sắp hạ bút xuống phê chữ "sổ" (bỏ) chủ khảo bỗng thấy tay mình không cử động được, dường như có ai đó giữ tay ông lại. Ông đành bỏ bút xuồng rồi đi nghỉ. Đang lúc mơ màng, ông thấy có một cô gái xinh đẹp tiến lại chỗ ông, chắp tay vái lia lịa, giọng run run cầu khẩn: - Xin ngài làm ơn rộng bút cho. Đây là quyển thi của chồng tôi, Tôi xin ngài giúp. Tỉnh dậy, chủ khảo rất lấy làm lạ. Ông đọc lại bài văn một lần nữa và lần này cũng không hơn gì, ông hạ bút toan đánh hỏng. Bỗng nhiên, cây bút rơi xuống đất. Ông định cúi xuống nhặt lên thì tự nhiên tay chân mệt mỏi rã rời, hai mắt díp lại. Ông lại chìm vào giấc ngủ. Bóng cô gái lại hiện ra trước mặt, một hai xin ông vớt lấy quyển văn ấy. Chủ khảo giật mình tỉnh dậy. Hết sức ngạc nhiên, ông lẩm bẩm: - Chắc là nhà thí sinh này có âm hồn nào theo đây. Âm hồn đã hiện về hai lần thế này làm ta không nỡ thẳng tay. Nghĩ vậy, cuối cùng ông cũng vớt cho đỗ.
Trước khi vinh quy, tân khoa họ Trần cùng các bạn đến chào chủ khảo. Ông này lưu một mình tân khoa lại, hỏi: - Anh đã có vợ chưa? - Thưa chưa - Anh đáp. Quan chủ khảo: - Tôi hỏi hơi tò mò, thế nhà anh có ai mới qua đời không? - Dạ thưa không. Thấy vậy, chủ khảo bèn kể cho anh nghe chuyện một cô gái hai lần đến báo mộng khi ông chấm bài. Sau này, khi ráp phách, ông mới biết đó là bài văn của anh. Ông còn nói thêm rằng đáng lẽ anh không được đỗ, tất cả đều nhờ cô gái ấy. Anh ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu nhưng vẫn không hiểu ra sao. Anh đành cáo từ chủ khảo ra về. Lần vinh quy ấy, tân khoa họ Trần nhắn người nhà sắm thêm một chiếc võng nữa để khi qua nhà người yêu, anh đón nàng về luôn thể.
Về đến nơi, khi vừa xô cổng bước vào, anh giật mình khi thấy một ngôi mộ còn chưa xanh cỏ nằm lù lù giữa nhà. Tân khoa hãi hùng khi nghĩ rằng lần trước mình đã gặp phải ma. Sau khi trấn tĩnh lại, anh sai người đi dò hỏi. Người nhà trở về báo cho anh biết đó là mộ của con gái nhà phú nông. Cô gái ấy bị hủi phải ra chỗ này, mới mất nửa tháng trước. Nhẩm tính lại, anh thấy người yêu mới mất sau khi anh đi mấy ngày. Sực nhớ tới câu chuyện của chủ khảo, anh bỗng rơi nước mắt. Thì ra chính nàng đã theo anh tới kinh kỳ, giúp anh không bị đánh hỏng.
Sau khi vinh quy bái tổ, anh quay trở lại nhà phú ông kể hết đầu đuôi câu chuyện. Anh cũng thưa luôn: - Một ngày cũng là nghĩa. Xin ông cho tôi được làm rể mặc dù nàng đã không còn nữa.
Phú ông rất bất ngờ. Lúc đầu ông còn từ chối không dám nhận nhưng sau thấy quan tâm khoa nài mãi, ông cũng đành nhận. Bây giờ, anh mới sắm sửa một lễ tế trọng thể, đưa đến nhà nàng lấy danh nghĩa vợ chồng để tế vợ. Lại thuê thợ xây bên cạnh ngôi mộ nàng một cái tháp, trong lòng có đề mấy chữ: "Cô... là vợ của tiến sĩ họ Trần". Dân quanh vùng vẫn gọi tháp ấy là tháp báo ân.

77. SỰ TÍCH CON CHẪU CHUỘC
Xưa kia, ở xứ Thanh có một lão nhà giàu rất ki bo, kiệt xỉ. Lão ta nuôi một anh cố nông hiền lành, khoẻ mạnh. Cha mẹ anh mất sớm, chẳng để lại cho anh cái gì ngoài túp lều rách và một chiếc chõng tre.
Vào một ngày cuối năm, anh xin lão nhà giàu về nhà để hương khói, cúng bái cho đỡ tủi vong linh của cha mẹ. Lão nhà giàu đong cho anh năm bát gạo rồi cho anh về. Về đến nhà, anh định đem số gạo đó nấu cơm cúng nhưng ngặt nỗi không có củi. Sang hàng xóm xin được một ôm rạ, anh nấu được cơm cúng. "Chẳng lẽ lại chỉ cúng cơm không. Phải có thêm thức ăn nữa chứ". Nghĩ vậy, anh sang hàng xóm mượn chiếc rổ và cái gàu sòng đi tát nước.
Lúc đó đã gần nửa đêm ba mươi Tết. Thường lệ vào cuối năm cũ, đầu năm mới, Ngọc Hoàng sai các quan trên thượng giới xuống trần gian xem xét mọi việc. Đến cánh đồng nơi anh cố nông đang tát cá, các quan hạ mây bước xuống. Rất lấy làm ngạc nhiên, các quan hỏi: - Anh kia! Năm hết tết đến không ở nhà ăn tết lại còn "bì bõm" ở đây làm gì? Nghe có người hỏi, anh dừng tay hỏi lại: - Thế các người là ai? - Ta là các quan trên thượng giới được Ngọc Hoàng sai xuống xem dân tình ăn tết ra sao. Nghe nói đến "các quan trên thượng giới", anh tức giận vô cùng. Sẵn có gầu sòng, anh trở cán nện cho mỗi quan ba cái. Vừa đánh, anh vừa nói: - Trời bảo "ai giàu ba họ, ai khó ba đời". Vậy mà nhà tao khổ suốt bốn năm đời này rồi mà vẫn chưa hết khổ. Tao gửi cho trời mấy cái đạp để mà nhớ lấy. Các quan bị đánh đau quá vội chạy về tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe kể xong vội mở sổ ra tra xét thì quả thấy có điều bất công ấy thật. Vậy mà lâu nay các quan không thèm để ý tới. Anh chàng kia đã khổ quá ba đời, còn tên nhà giàu đúng là đã sướng quá ba đời. Ngọc Hoàng cần phải sửa lại sai sót đó.
Lại nói chuyện anh cố nông sau khi tát được ít cá bèn trở về. Lúc đó đã qua giao thừa, năm mới đã đến. Vừa về đến nhà được một lát, có một người con gái đi qua nói là lỡ độ đường xin ngủ lại nhà anh một đêm. Lúc đầu, anh cố nông không chịu nhưng sau thấy hoàn cảnh cô gái đáng thương quá, anh cũng bằng lòng. Anh nhường chiếc chõng duy nhất của mình cho cô gái, còn mình ôm bó rạ ra nằm xó lều.
Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, anh không còn tin vào mắt mình nữa. Túp lều của anh đã biến mất. Thay vào đó là một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, kẻ ăn người ở ra vào tấp nập. Khi anh vẫn còn mơ màng, chưa hiểu sự tình ra sao thì cô gái đêm hôm trước xin ngủ nhờ đến bảo anh: - Anh hãy mời phú ông sang ăn tết đi! Nghe lời cô, anh sang mời lão nhà giàu. Vừa nghe xong, lão nhà giàu đã phì cười, cho là anh không bình thường. Sau thấy anh nằn nì mãi, lão mới trả lời cộc lốc: - Nếu mày có thể trải chiếu hoa từ nhà tao sang nhà mày thì tao sẽ sang.
Anh thất vọng ra về nói với cô gái. Cô gái vui vẻ an ủi anh. Đoạn cô ra sau nhà rồi mang đến không biết bao nhiêu là chiếu hoa đẹp lộng lẫy. Anh cố nông chỉ việc đem chiếu ấy trải từ ngõ nhà mình đến ngõ lão nhà giàu.
Về phần lão nhà giàu, sau khi làm anh cố nông bẽ mặt thì lấy làm hả hê lắm. Một lúc sau, thấy người nhà báo là anh cố nông đã trải chiếu hoa đến tận ngõ, lão ngạc nhiên vô cùng. Lão hối hả đi ngay. Sang đến nơi, lão bị choáng ngợp bởi một toà lâu đài nguy nga lộng lẫy, to gấp trăm gấp ngàn lần dinh cơ của lão.
Bữa cơm ở nhà anh cố nông thật là ngon! Lão về đến nhà rồi mà mồm vẫn thòm thèm, dạ vẫn nuối tiếc. Máu tham đùng đùng trỗi dậy. Lão ta bàn với vợ: - So với nhà nó, nhà mình chả thấm vào đâu bà nó ạ! Ta tìm cách đổi quách cho nó đi. Vợ lão bĩu môi, nguýt dài: - Đời nào nó chịu đổi cho ông.- Gả con cho nó! Đúng rồi! Đã làm rể rồi thì làm gì mà nó chả đổi.
Mụ vợ cũng cho là phải. Thế là vợ chồng lão gọi anh người ở đến bàn chuyện đổi nhà và gả con gái cho. Sau lễ cưới linh đình, đôi vợ chồng mới về nhà lão nhà giàu, còn vợ chồng lão thì về lâu đài của anh người ở. Hai vợ chồng lão hí hửng lắm. Đêm ấy, hai vợ chồng lão ngủ trong sự sung sướng tột đỉnh. Nhưng đến sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ôi thôi lâu đài nguy nga đâu không thấy, chỉ thấy một túp lều rách nát, góc lều vẫn còn cài gầu sòng và rổ xúc tép, còn hai vợ chồng lão thì đang ôm nhau ngủ trên chiếc chõng tre tồi tàn. Đau đớn, xót xa quá, hai vợ chồng nhà lão quay ra cãi nhau. Chồng bảo "chuộc" lại, vợ giận chồng khăng khăng "chả chuộc". Cứ thế, hai vợ chồng cãi nhau một hồi lâu: "chuộc!", "chả chuộc!". Cuối cùng, lão chồng tức quá túm lấy vợ đánh. Vợ lão cũng chẳng vừa, túm tóc lão đánh lại. Trong khi hăng máu, hai vợ chồng lăn tòm xuống cái ao sâu trước cửa và chết cả đôi. Sau khi chết, chúng hoá ra hai con chẫu chuộc, cứ suốt đời ôm nhau "chuộc", "chả chuộc". Thật đáng đời kẻ tham lam!

78. SỰ TÍCH KHĂN TANG
Ngày xưa, có vợ chồng nhà phú hộ sinh được ba người con gái. Giàu có nhưng lại không có con trai nên bao nhiêu tình yêu thương họ đều dành cho hết các con gái. Thế rồi chẳng bao lâu các cô lần lượt đi lấy chồng và ở riêng.
Vì các cô gái đều đi lấy chồng xa nên sau khi cô út ra ở riêng được ít lâu, hai ông bà cảm thấy nhớ các con quá. Họ tính chuyện chia nhau đi thăm các con. Một hôm bà bảo ông: "Ngày mai ông chịu khó trông nhà để tôi đi thăm các con, sau đó tôi lại về trông nha để ông đi". "Phải đấy" - ông bảo bà "nhưng phải đi nhanh lên mới được, đừng bắt tôi phải đợi lâu". Không được, tôi tính ở lại chơi với chúng nó mỗi đứa một tháng, ba đứa là ba tháng, đi đường cả hai lượt mất hai ba chục ngày. Tất cả phải mất đến hơn bốn tháng. "Thôi được, bà đi đi nhưng đừng để đứa nào nó quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề nhà nó làm cho tôi trông đợi".
Sáng sớm, người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được gần hai tháng đã thấy bà trở về, mặt buồn co. Thấy vậy chồng hỏi dồn: - Cơn cớ làm sao mà bà về nhanh như vậy, có điều gì mà mà không được vui? Bà đáp: - Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều mạnh khoẻ, tôi về sớm là để ông khỏi trông, ông cứ đi một lần cho biết.
Thấy vợ nói úp mở, phú ông chưa hiểu thế nào cả, cuối cùng ông cũng sắm sửa hành lý ra đi.
Ông ghé vào người con cả, chàng rể lâu ngày gặp cha nên tiếp đãi rất niềm nở làm ông rất hài lòng. Nhưng con gái ông thì lại không được như vậy. Nó chỉ chuyện trò dăm ba câu cùng ông ròi quay ra công việc làm ăn của nó. Nhà chồng nó cũng vào loại khá giả nên kẻ ăn người làm rất đông, con gái ông bận trông nom công việc không lúc nào rảnh rỗi. Còn chồng nó thì phải ra đồng trông coi việc cày cấy, thế là ông lại phải ngồi một mình. Đến trưa, mặt trời đã đứng bóng, bụng ông đã đói cồn cào nhưng con ông chẳng chịu cho ông ăn. Ông định bảo nó cho ông ăn trước như ngày nó vẫn còn ở nhà, nhưng rồi ông lại nghĩ: Để xem nó đối đãi với cha nó ra sao. Ông thấy con gái ông chờ chồng về mới dọn cơm nhưng chàng rể lại còn lúi húi vài việc nữa nên ông lại phải đợi. Thấy chồng lâu quá cô gọi chồng: Mình ơi, để đấy vào ăn cơm đi để ông già ăn với. Nghe con gái nói thế ông cảm thấy không được vui. Đến bữa cơm chiều và liên tiếp mấy ngày sau cũng vậy. Con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông. Ông rất buồn và thầm nghĩ: - Thì ra bây giờ nó chẳng coi cha ra quái gì nữa. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ mình phải nhịn đói.
Ở chơi được ít ngày thấy con gái không vồn vã đằm thắm, ông không còn bụng dạ nào mà ở lại nữa. Ông vội vã từ giã nhà con gái lớn mà đi đến nhà người con gái thứ hai. Trong cuộc hành trình này ông lẩm bẩm: Chắc những đứa sau phải khác, chẳng lẽ đứa nào cũng như vậy. Vợ chồng ta còn phải trông cậy bọn chúng lúc tuổi già nữa chứ. Nhưng khi gặp chúng, ông lại tỏ ra thất vọng. Cả ba cô con gái đứa nào cũng bận bịu với công việc của mình, chẳng đứa nào quan tâm đến ông như lúc còn ở nhà. Ông chép miệng: - Vậy là con gái một khi đã bước chân về nhà chồng thì chẳng còn là con của mình nữa. Nó trọng chồng hơn bố mẹ.
Thời gian ông đi thăm con chỉ hơn một tháng, so với chuyến đi của bà lại còn ngắn hơn. Nỗi buồn phiền làm ông khó ở mất một vài tuần. Khi bớt bệnh, ông gọi vợ lại và bảo: - Thế là đẻ được mấy đứa con gái có cũng như không. Không thể nhờ cậy chúng nó lúc tuổi già được. Vậy bà ở nhà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng ta lúc mắt loà chân chậm. Bà vợ buồn rầu bảo: - Thôi ông ạ! Đừng đi kiếm làm gì cho nhọc xác. Con đẻ dứt ruột mà nó còn chẳng đoái hoài nữa là con nuôi. Để tôi kiếm cho ông một người vợ lẽ. Không biết chừng nó lại đẻ cho ông một đứa con trai, có đứa nối dõi tông đường lại chẳng tốt hơn ư. Ông lão nói: - Trên đời này không phải ai cũng như ai. Có kẻ tốt, người xấu. Nếu đi tìm mà không gặp, lúc ta quay về tính cũng chưa muộn.
Phú ông bèn giả bộ một ông già nghèo khó ra đi. Ông đi từ làng này đến làng khác. Đến đâu ông cũng rao: - Có ai mua cha thì ra mà mua. Chỉ mất ba quan tiền thôi. Mọi người nghe ông già rao vậy ai cũng tưởng ông điên. Có người vui miệng nói: Mua lão già ấy về để mà hầu ư? Thà là nuôi một đầy tớ còn hơn. Nuôi lão ấy được tích sự gì, đến khi trăm tuổi có đồng nào lại phải lo tống táng ư? Tuy nghe nhiều lời mỉa mai bỡn cợt nhưng ông già không nản chí. Ông vẫn đi hết làng này đến xóm khác miệng rao không ngớt.
Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông dân nghèo. Hai người lấy nhau đã lâu mà không có con. Nghe có người bán mình là cha, hai vợ chồng bảo nhau: - Cả hai vợ chồng ta mồ côi từ bé, chưa hưởng tình cha con lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về làm cha cho vui cửa vui nhà. Thấy vợ bằng lòng anh chàng chạy ra đón ông già vào và nói: - Ông định bán bao nhiêu tiền?
- Ba quan không bớt.
- Thú thật với ông, nhà cháu muốn mua nhưng không sẵn tiền. Vậy ông chờ để vợ cháu đi vay xem. Phú ông ngồi chờ một lúc lâu thấy chịu vợ chạy đi, lúc về chỉ vay được có hai quan. Anh chồng bèn nói: - Ba ngày nữa mời ông trở lại, chúng cháu sẽ chạy đủ tiền.
Đến ngày hẹn, phú ông trở lại, anh nông dân trao tiền cho ông, mời ông ở lại và "cha cha, con con" rất thân tình. Đoạn anh bảo vợ xuống bếp lo cơm nước. Phú ông thấy tóc người vợ hôm trước còn dài, bây giờ đã cụt ngủn, bèn hỏi: - Tại sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy? Anh nông dân tần ngần hồi lâu rồi đáp: - Chẳng giấu gì cha, nhà con nghèo không đủ tiền mua cha, vậy vợ con phải cắt tóc bán đi để đủ số tiền mua cha.
Nghe nói, phú ông vẫn làm thinh. Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng người nông dân tỏ ra rất niềm nở và hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông giấu biệt tung tích của mình, không cho hai vợ chồng anh biết. Nhiều khi ông còn vờ kêu đau lưng, nhức đầu và bắt họ xoa bóp hoặc tìm thầy chạy chữa. Mặc dầu vậy họ vẫn vui vẻ chăm sóc không dám trễ nải. Cứ như vậy được vài tháng, nhà họ nghèo nay lại nghèo thêm. Họ cố gắng làm ngày làm đêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn để nhường cơm cho ông ăn. Tình hình như vậy kéo dài được nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đã cạn kiệt.
Một hôm, hai vợ chồng vừa đi làm đồng về thì thấy cha nuôi khăn gói chỉnh tề. Ông bảo họ: - Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta. Vợ chồng đưa mắt nhìn nhau tưởng ông già rồi nên lẩm cẩm. Nhưng lại nghe tiếng ông giục: - Làm con thì phải vâng lời cha mẹ. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn, cái nhà ọp ẹp này chẳng đáng là bao, đừng tiếc nữa.
Vợ chồng không dám cãi lời đành phải bỏ nhà cửa đi theo ông già. Họ thấy ông lần hồi ăn xin, tối lại tìm chỗ ngủ nhờ. Hai vợ chồng vẫn vâng lời không chút phân vân. Ba cha con lần hồi ăn xin như thế được hơn chục ngày. Sau cùng họ đến một nhà kín cổng cao tường, ông mới vui vẻ bảo họ: - Các con đã đến nhà ta rồi. Vợ phú ông bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ: - Đây mới thật là con của chúng ta. Lúc này vợ chồng người nông dân mới biết cha mẹ nuôi mình là một nhà giàu có. Phú ông bảo hai vợ chồng anh nông dân đổi họ theo mình. Thế rồi từ đấy họ được hưởng cuộc đời sung sướng.
Bốn năm sau phú ông lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông  bèn lập di chúc để lại phần lớn tài sản cho hai vợ chồng đứa con nuôi. Đoạn ông gọi vợ đến dặn dò: - Sau khi tôi chết bà đừng có cho ba đứa con gái kia biết. Nếu chúng nó nghe ai nói mà về, chưa biết chừng tôi sẽ bật nắp quan tài cho mà coi. Việc để tang cứ theo tục cắt tóc đội mũ quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình chịu cực khổ với cha mẹ, người phải làm việc đó là con trai, nhưng đứa con dâu bà bảo nó không phải cắt tóc vì tôi chưa bao giờ quên việc nó cắt tóc bán để lấy tiền mua cha. Vậy nó chỉ cần đội tang là đủ.
Nhưng khi khâm liệm cho chồng xong, bà phú vì nặng lòng thương con nên đã cho người báo tin cho ba đứa con gái. Khi chúng về, bà đón chúng ở ngoài cổng và thuật lại lời trối của cha cho chúng hay. Ba đứa con tỏ vẻ hối hận. Bà không cho chúng vào vì sợ việc chẳng lành xảy ra. Khi đưa linh cữu ra đồng các cô gái cố đòi đi đưa cho bằng được. Mẹ khuyên các con mãi không xong, cuối cùng đành phải xé khăn tang cho chúng có thêm một mảnh vải xô để che mặt lại mong linh hồn của cha chúng khỏi biết.
Từ đó, người ta bắt chước để tang theo gia đình này. Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng chuối như cổ tục. Con dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang lại không phải che mặt, còn con gái ngoài khăn tang còn phải thêm một mảnh vải che mặt.

79. SỰ TÍCH HOA ĐÀO NGÀY TẾT
Ngày xưa, ở phiá đông núi Sóc Sơn (Hà Nội), có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào xum xuê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỹ dữ hay ma quái nào bén mãng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của hai vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sự luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay.
Ðến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Luỹ phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, nhân khi hai thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Ðể ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ,nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ.
Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma, đuổi quỷ và cầu mong sự ấm no, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới.

80. SỰ TÍCH HOA MÀO GÀ
Ngày xưa, chú gà nào cũng có một cái mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm, gà Mơ soi mình trong vũng nước và sung sướng thấy cái mào rực rỡ nằm trên đỉnh đầu của mình như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát quen thuộc của họ nhà gà: - “Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”. Mọi vật quay qua nhìn gà Mơ và cùng xuýt xoa: - “Chiếc mào mới xinh xắn làm sao, trông Gà Mơ thật đáng yêu làm sao”.
Gà Mơ đi tung tăng khắp nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra, đó là một cây màu đỏ tía đang tấm tức khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi: - Bạn sao thế? Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống gốc và sụt sịt bảo: - Các cây quanh đây, cây nào cũng có hoa mà chỉ mỗi mình tôi là không có hoa. Chưa nói dứt câu, cây lại bật khóc, nước mắt cứ rơi xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây nín. Gà Mơ nghĩ một lúc rồi quyết định: - Tôi cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé. Cây sung sướng vẫy là rối rít: - Thế bạn cho tôi thật nhé! Cám ơn bạn!
Sáng hôm sau, mọi người ngạc nhiên khi thấy chiếc mào đẹp đẽ của gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể nước thì lại nở một chùm hoa rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ. Cây hoa sung sướng vươn mình đón ánh mặt trời nhuộm cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi cây đó là cây hoa mào gà.

81. SỰ TÍCH HOA MẪU ĐƠN
Ngày xưa, ở một làng miền núi Bắc Bộ, có một bà mẹ sinh được mười người con trai. Làng của mẹ bị giặc chiếm đóng. Người cha của mười anh con trai bị giặc giết ngay từ ngày đầu tiên, khi chúng tiến vào làng. Mười người con trai của bà vào đội quân chống giặc ở trong núi. Người con trai cả là chủ tướng của đội quân. Đội quân này đã làm cho bọn giặc phương Bắc thất điên bát đảo. Đã nhiều lần giặc mở những trận càn quét mà không sao tiêu diệt được đội quân của cái làng bé nhỏ ấy.
Tên tướng giặc sai quân bắt bà mẹ đến, hắn bảo: - Này mụ già, mụ hãy khuyên các con mụ trở về. Ta sẽ cho con mụ làm tướng. Bằng không, ta sẽ giết mụ. Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt tên tướng giặc, nói lớn: - Hỡi quân độc ác! Là một người chân chính, ta không thể dạy các con ta phản bội lại quê nhà.
Bọn giặc trói mẹ trên một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của mẹ đến cứu. Chúng bảo bà mẹ hãy đứng dậy mà gọi con, chúng sẽ tha. Tiếng người mẹ: - Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản bội quê hương.
Mệnh lệnh của người mẹ là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi rừng. Bọn giặc hốt hoảng, run sợ. Những người con của mẹ thì thêm sức mạnh chiến đấu. Giặc vội bịt miệng bà mẹ. Chúng đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng...
Khi bọn giặc đi rồi, dân làng lên đồi tìm chỗ bà mẹ bị hành hình, người ta thấy trái tim của người mẹ vẫn nguyên vẹn và nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Đêm đêm, từ ngôi mộ, trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Mùa xuân đến. Từ ngôi mộ, trái tim ấy mọc lên một cái cây. Cây ra hoa. Bông hoa đỏ chót hình ngọn lửa bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loại hoa mang tên Mẫu Đơn. Cây hoa tượng trưng cho tình yêu thiêng liêng, vĩ đại của người mẹ.

82. SỰ TÍCH HOA THIÊN LÝ
Ngày xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã giả dạng giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi... Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra... Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ.
Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến. Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn: - Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo.
Ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn: - Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm.
Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa. - Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng. Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to: - Anh ơi! Em ở đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô.
Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói: - Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi: - Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao? - Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ: - Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo: - Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của anh thôi! Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê... Hai vợ chồng sau đó kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.
Sáng hôm sau, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô: - Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình...!
Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật... Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý.

83. SỰ TÍCH HÁT XOAN
Ngày ấy vợ Vua Hùng mang thai đã lâu, tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không sinh được.
Có một người hầu gái tâu rằng: Có một người con gái đẹp tên là Quế Hoa, múa giỏi hát hay, ở trong một làng tre xanh gần thành Phong Châu. Nếu đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ đau và sinh nở được. Vợ vua tin lời, tâu với Hùng Vương cho vời Quế Hoa vào hát.
Bấy giờ bà đang lên cơn đau đẻ dữ dội. Quế Hoa đứng bên giường múa hát. Nàng đẹp lắm: môi đỏ, mắt đen, tóc dài, da trắng, giọng hát trong vắt khi trầm, khi bổng như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, chân dẻo như bún, ai cũng phải mê.
Vợ Vua Hùng mải xem múa hát, không thấy đau nữa liền sinh được ba người con trai khôi ngô, tuấn tú. Vua hết sức vui mừng và khen ngợi Quế Hoa, liền truyền cho các Mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy.
Vì lúc này nàng Quế Hoa hát chầu Vợ Vua là vào mùa xuân nên các Mỵ nương gọi hát ấy là hát Xuân (hay còn gọi là hát Xoan).

84. SỰ TÍCH CÂY XƯƠNG RỒNG
Ngày xửa ngày xưa, cách đây lâu lắm rồi, khi ấy còn chưa có loài người, trái đất còn hoang vu lắm. Thấy trần gian hoang vắng như vậy, Ngọc Hoàng bèn lấy một nắm đất nhỏ vào đó một giọt nước thần để tạo ra một chàng trai. Ngọc Hoàng dạy chàng trai đó biết săn bắn, biết làm nhà rồi đưa chàng trai xuống trần gian. Thế nhưng chàng trai chỉ biết có săn bắn mà không hề biết gì về trồng trọt nên không thể phủ màu xanh lên trái đất.
Thấy vậy Ngọc Hoàng bèn sai một tiên nữ chuyên trông coi việc đồng áng - vốn là con gái của thần mưa và thần gió - xuống trần để giúp đỡ chàng trai. Nhưng không ngờ khi xuồng trần họ lại mải mê yêu nhau nên làm Ngọc Hoàng vô cùng tức giận. Người bắt Tiên nữ kia về trời, nhưng nàng nhất quyết không rời chàng trai. Tức giận quá, Ngọc Hoàng liền vung tay, biến chàng trai thành trăm nghìn hạt nhỏ, mà ngày nay nguời ta gọi là Cát. Còn cô gái cứ ôm lấy chàng trai mà nay chỉ còn là những hạt cát nhỏ mà khóc lóc, dù cho Mẹ nàng là thần Mưa hết lòng khuyên giải, mặc cho Cha nàng là thần Gió hết sức tức giận.
Nàng cứ ở đó khóc mãi, khóc mãi, khóc cho đến một ngày toàn thân biến thành một thứ cây toàn thân là gai góc, như để chống cự không muốn bị bắt về trời, còn rễ thì ăn sâu vào trong lòng cát nóng bỏng như cánh tay cô gái ôm chặt lấy chàng trai không muốn rời. Và nếu như ai vô tình chạm vào thân cây sẽ thấy một dòng nhựa trắng chảy ra,như dòng nước mắt chất chứa cả ngàn năm của cô gái. Loài cây đó được gọi là cây Xương Rồng.

85. SỰ TÍCH CÂY ĐU ĐỦ
Ngày xưa có một ông nhà nghèo, có thú nuôi chim. Một hôm chim của ông ăn mất 3 hạt bắp của quan làng.
Ba năm sau quan làng bắt đền, ông nhà nghèo nghĩ thầm: "Ông quan làng thật giầu có, chỉ mất 3 hạt bắp thôi mà cũng chẳng tha, thật là tiểu nhân và thất đức, 3 hạt bắp chẳng đáng là bao, đền quách cho xong" và ông nhà nghèo đã đến xin đền 3 hạt bắp. Quan làng bắt đầu tính nhân lên, từ 3 hạt bắp gieo xuống đất 3 tháng được 3 cây bắp, mỗi cây sinh 1 trái bắp, 1 trái bắp được 1500 hạt gieo 3 tháng lại được 1500 cây bắp...Và cứ thế ông tính 3 năm...
Ông nhà nghèo nghe xong toát mồ hôi, ra về, cơn bệnh bắt đầu hành hạ ông, khiến ông suy nhược toàn thân, ít lâu sau, bệnh ông trở nên trầm trọng, trong cơn hấp hối ông cố lết ra bờ giậu hướng về phía nhà quan làng miệng lẩm bẩm: - "Đâu đủ mà trả, đâu đủ mà trả", rồi ông gục chết tại chỗ.
Ít ngày sau chỗ ông chết mọc lên một cây, người ta đặt cho cây ấy là cây "Đâu đủ." Sau này người ta đọc khác đi là cây "Đu đủ" như ngày nay.

86. SỰ TÍCH CÚ CHỈ ĐI ĂN ĐÊM
Một chiều, Nai tha thẩn đi kiếm ăn. Nó tới bãi hoang nọ đợi nhặt quả vả. Nhưng không có gió to, vả không rụng. Nai nhìn quả vả chín đỏ trên cành mà thèm. Nai cất bước chán ngán trở về. Chợt có tiếng nói: - Chớ vội chú Nai! Nai ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy ai, lúc nhìn lên hốc cây trên cành cao thì thấy Cú. Nai ngập ngừng: - Bác gọi tôi ư? - Phải, chú có muốn ăn quả vả không? - Có chứ.
Cú ưỡn bụng ra, mắt lim dim ngái ngủ: - Chà, tôi ăn nó quá không muốn cất bước nữa. Giá mà chú đến sớm, tôi đã hái cho vài quả. Kỳ thực Cú chẳng muốn cho Nai đến ăn tranh phần. Nó muốn tất cả quả vả trên cây và cả quả dưới đất, nên tìm cách đuổi khéo anh chàng Nai. Làm ra vẻ thân mật, Cú bảo: - Chú hãy đi kiếm ăn ở nơi khác. Sáng mai, chú đến đây thật sớm, tôi sẽ rung cành cho vả rụng. Đến từ lúc tôi kêu "Kết cóc, kết cóc". Nai cảm ơn Cú rồi đi, mừng thầm ngày mai được bữa no.
Bóng tối chưa tan, sương mù dày đặc, trời lạnh thấu xương, mọi vật còn ngủ say cả. Cú đã cất tiếng kêu: "Kết cóc, kết cóc" liền một thôi. Nai sực tỉnh, vội vàng ba chân bốn cẳng chạy vội tới.
Bóng sương lờ mờ, gió lạnh rung cành lau, cành sậy. Tiếng Cú vẫn đổ dồn. Nai đến nơi còn đang ngơ ngác thì bỗng Cú đổi giọng "hok sục! Hok sục!" liên hồi. (hok sục có nghĩa là: Dao đâm, giáo chọc). Nai tái người, cắm cổ lao mình chạy trốn. Nó vấp ngã làm đổ cây vừng đen, hạt vừng bắn tung toé vào mắt gà rừng kiếm ăn cạnh đó. Gà bị bụi mắt cào tứ tung phá tan cả ổ kiến lửa. Kiến mất tổ chạy lung tung gặp Sóc đang ăn liền châm túi bụi. Sóc đau đớn kêu la ầm ĩ và cắn quàng cắn xiên, cắn đứt cả dây bí đao quả to như cái bồ rơi trúng lưng Trâu đang gặm cỏ. Trâu vừa đau vừa hoảng nghếch sừng lên chạy, chẳng may giẫm phải nàng Cua. Nàng Cua suýt chết bẹp, lấy làm căm lắm, Cua quyết định lên Then kiện.
Then mở toà xử kiện, gọi Trâu lên. Trâu nói: - Tại Bí đao làm tôi đau quá, giật mình tôi chạy bạt mạng. Bí bị gọi lên, há miệng nức nở: - Chính Sóc đã cắn đứt cuống dây nên tôi bị toác cả đầu thế này. Sóc bị điệu đến, nó ấm ức: - Tại Kiến đốt tôi đau quá, tôi cắn lung tung. Then bực mình: - Chà, tệ quá! Chúng bay loạn thật, vậy cái Kiến đâu?
Kiến bị Then quát: - Sao mày đốt Sóc? Kiến đáp: - Tổ chúng tôi bị Gà phá, ức quá chúng tôi làm càn.
Đến lượt gà, Gà thưa: - Tôi đâu muốn làm vậy, tại Vừng bắn vào mắt tôi. Vừng khai: - Tôi không muốn thế. Tại Nai đè giập người tôi.
Nai được gọi lên, nó thong thả bước vào: - Già Cú tai ác đánh lừa tôi. Nó gọi tôi đến nhặt quả Vả rồi hô người lấy dao đâm. Trong lúc hoảng sợ chạy trốn, tôi chạy thục mạng nên vấp phải bác Vừng.
Then giật mình: - À, thế ra mọi việc đều tại Cú.
Cú bị trói dẫn tới phơi trần bộ mặt gian ác, tham lam hại bạn, nó đã phải nhận hình phạt thích đáng.
Mắt cú từ ngày ấy vàng khè vì bị đóng đinh, cỏ bị bẻ nên lúc nào cũng lệch. Vì xấu hổ với bạn bè nên Cú không dám đi kiếm ăn ban ngày. Từ đó đến nay, Cú chỉ đi kiếm ăn vào ban đêm, gặp Cú ai cũng ghét và cho rằng Cú toàn đem lại những điều xúi quẩy.

87. SỰ TÍCH NÚI TẢN VIÊN
Ngày xưa, có một người tiều phu nghèo từ sáng tinh mơ đã vác búa vào rừng đốn củi. Mọi lần anh thường chặt cây khô ở bìa rừng, được nặng gánh thì gánh về, nhưng lần này anh định chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh nên anh phải đi vào rừng sâu. Đang đi anh chợt nghe có tiếng trẻ khóc. Anh đứng lại nghe xem tiếng khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt, dưới một lùm cây to có một con dê rừng rất lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô, tiếng khóc trẻ ở đống cỏ đó đưa ra.
Người tiều phu rón rén nấp sau một gốc cây to ở gần rình xem con dê làm gì. Con vật bới đống cỏ rất nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ còn đỏ hỏn, bụ bẫm rồi nó nằm xuống cho đứa trẻ bú. Đứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng, một chốc con dê dứng dậy liếm mớ tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay đến phủ những cỏ khô lên người đứa bé, chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi. Người tiều phu lẩm bẩm một mình: "Số mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ". Anh đến bới đống cỏ khô thì thấy là một bé trai. Anh bế lấy đem về nhà nuôi. Đứa bé rất chóng lớn, người tiều phu chăm nom đứa trẻ như chính con mình đẻ ra. Tin là đứa trẻ có một số mệnh kỳ lạ, anh đặt tên cho nó là Kỳ.
Lớn lên, Kỳ rất khoẻ mạnh, ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi. Một hôm, Kỳ chặt một cây lớn đến hai người ôm, chặt từ sáng tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa xong, nên đành bỏ dở ra về. Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh hết sức ngạc nhiên: Cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột, liền vỏ như chưa có một vết búa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ không ngả lòng, anh lại giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước. Tuy anh gắng hết sức nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây, sáng sơm hôm sau Kỳ lại vác búa vào rừng định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh lại thấy vết chặt hôm trước liền lại như cũ. Anh không nản chí, lại bắt đầu chặt, nhưng đến lúc nhọ mặt người anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh không về nhà mà leo lên một cây gần đó để rình xem ban đêm cây tự liền da liền thịt thế nào.
Đến nửa đêm, trăng sao vằng vặc đầy trời, bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở. Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt xuống chạy đến hỏi ông già: - Tôi khó nhọc lắm mới sắp hạ được một cây lớn, sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như thế? Ông cụ đáp: - Ta là Thái bạch tinh quân đây, ta không muốn ngươi chặt cây cổ thụ này. Thôi ta cho người cái gậy này, người đi tìm cây nhỏ mà chặt.
Nói xong ông cụ trao cho Kỳ một cái gậychống ở tay rồi biến mất. Một hôm, đi chơi men sông, Kỳ nhìn thấy một con rắn lớn bị đánh dập đầu chết từ lâu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn. Thốt nhiên rắn sống lại, vẫy đuôi, ngẩng đầu nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất. Một buổi tối Kỳ đang ngồi trong túp lều tranh thì có một chàng trai tuấn tú, khăn áo chỉnh tề, đem châu báu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương ở biển Nam bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm nọ. Kỳ nhất định không nhận lễ vật. Chàng thanh niên có ý băn khoăn, cố ý mời Kỳ xống thuỷ cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống. Được Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đình thiết đãi. Đến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ các vật lạ dưới biển nhưng Kỳ nhất định không nhận. Sau Long Vương lấy ở trái ra một quyển sách và nói với Kỳ rằng: - Ngài cứu sống con lão, lão không biết lấy gì đáp lại. Nay biếu vật gì ngài cũng không nhận, lão xin có quyển sách này tặng ngài. Dùng quyển sách này ngài sẽ ước gì được nấy.
Kỳ nhận sách ước và trở lại trần gian. Từ đó chàng cầu được ước thấy, có phép biến hoá trở nên một vị thần cứu nhân độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phù, theo dòng sông lớn, đổ ngược mãi lên, tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. Đến một nơi thấy có ngọn núi cao chót vót ba tầng, tròn như cái tán, thần hoá phép mở một con đường qua các động và các suối lên đỉnh núi và hoá phép thành lâu đài để ở. Khi đã định cư rồi thần thường xuống núi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân dân rất nhiều. Ngọn núi thần là núi Tản Viên, nên người tai gọi thần là thần Tản Viên hay Sơn Tinh.

88. SỰ TÍCH HÒN ĐÁ THÚC VÀ ĐỘNG TIÊN PHI
Ngày xưa, trên núi Bưa Phi có một bản nhỏ của người Mường, có một nàng tiên ngày nào cũng bay từ trên trời xuống núi để dạo chơi. Nàng len lỏi khắp các vườn cây khe suối, vừa đi vừa cất tiếng hát say sưa. Tiếng hát của nàng thánh thót mượt mà, đến con kiến trong hang cũng phải bò ra, các cô gái đang hái bắp hái măng cũng phải phải ngừng tay, còn các chàng trai đi săn thú trong rừng đành phải dừng bước quay lại. Dân bản gọi nàng là Tiên Phi.
Hồi ấy, trong bản có chàng trai tên là Thúc. Chàng mồ côi cha mẹ từ nhỏ nên sống côi cút một mình trong một túp lều nhỏ. Chàng được trời phú cho một sức khoẻ phi thường, một thân hình lực lưỡng và tấm lòng nhân hậu. Ngày ngày lên rừng hái rau, săn thú, chàng thường trông thấy bóng dáng thướt tha yểu điệu của nàng Tiên Phi, nghe tiếng hát ngọt ngào ấm áp say đắm lòng người của nàng. Chàng Thúc ngày càng si mê và ao ước được lấy nàng làm vợ. Chàng không biết thổ lộ cùng ai nên mượn cây khèn để giãi bày tâm sự. Tiếng khèn của chàng lúc tha thiết, lúc dìu dặt, lúc sôi nổi hoà quyện vào tiếng hát của nành Tiên Phi làm cho tiếng hát của nàng hay hơn, bay xa hơn. Họ đã thầm yêu nhau.
Hai người chưa kịp kết duyên cùng nhau thì một việc chẳng ngờ đã tới. Thuỷ thần sông Đà hung dữ mang dòng nước đến quấy phá vùng núi Bưa Phi.
Nước đỏ ngầu sủi bọt cuốn đi bao vườn tược ruộng nương. Máu của muôn loài sống trên núi Bưa Phi đỏ thắm dòng sông, xác nổi lều bều. Bản Bưu Phi có nguy cơ bị thuỷ thần cuốn trôi đi mất. Dân làng lo sợ, nhiều người kéo nhau chạy đi nơi khác. Cảnh con lạc cha, vợ lạc chồng nháo nhác thật thảm thương.
Nhìn dòng nước sông Đà hung dữ cuồn cuộn chảy, nhìn những cột nước trắng xoá xoáy vào chân núi, chàng Thúc vô cùng căm giận. Chàng quyết đem sức mình chặn đứng dòng nước lũ cứu bản làng.
Chàng Thúc lấy đá trên đỉnh núi Bưa Phi ném xuống đầu thuỷ thần, chàng lại bẻ cây chặt gỗ để ngăn dòng nước. Thuỷ thần lùi ra rồi lại lấy sức lao vào. Chàng trai đánh nhau với Thuỷ thần ngày một hăng vì bên cạnh chàng còn có nàng Tiên Phi giúp sức. Nàng cất cao tiếng hát để động viên giúp chàng thêm sức mạnh.
Thuỷ thần đã đuối sức, biết không thể thắng nổi chàng Thúc, không có cách phá nổi núi Bưa Phi, Thuỷ thần sai thuộc hạ mang ngọc ngà châu báu lên trời xin Ngọc Hoàng gọi nàng Tiên Phi về. Trời liền sai thần Sấm mang lưỡi tầm sét xuống trần gọi nàng về ngay. Nhận được lệnh cha, nàng Tiên Phi chia tay chàng Thúc vội bay về trời. Nàng hẹn sẽ quay trở lại.
Thừa cơ, Tiên Phi đi vắng, Thuỷ thần dồn dập lao sóng vào chân núi. Hắn còn nhờ thần Mưa lao tên vào người chàng. Thần Gió đánh tại vào mặt chàng, thần Sấm sét tung lưỡi lửa chém sám cỏ cây trên núi. Chàng Thúc một lúc phải chống đỡ với nhiều giặc mạnh, sức chàng kiệt dần, kiệt dần. Chàng nóng lòng chờ Tiên Phi trở lại để được tiếng hát của nàng tiếp sức. Nhưng quanh chàng chỉ có mây mưa, sấm chớp, bão giật điên cuồng.
Chàng nhìn dân làng Bưa Phi, mọi người đều trông cậy nơi chàng. "Phải cứu lấy dân làng dẫu mình có chết". Nghĩ vậy, chàng ngẩng cao đầu lên cầu khấn thần linh: - Hỡi các vị thần linh thiêng. Hãy giúp con, cho con biến thành hòn đá ở ngay nơi này, dưới chân núi Bưa Phi để chặn dòng nước xoáy sông Đà, cứu dân bản Bưa Phi. Chàng vừa dứt lời thì biến ngay thành hòn đá sừng sững chắn trước dòng nước, bắt dòng nước phải cháy theo hướng khác.
Khi trời quang mây tạnh. Tiên Phi từ trên trời xuống núi. Đến nơi giao chiến, nàng sững sờ khi nhìn thấy người yêu đá hoá đá trong tư thế cản phá nước sông. Nàng xót xa ân hận vì đã bỏ chàng ra đi trong lúc nguy hiểm. Nước mắt ròng ròng, nàng kêu lên: - Hỡi thần linh! Tôi làm sao sống nổi khi thiếu chàng Thúc. Hãy cho chàng sống lại cùng tôi hoặc cho tôi được chết trên núi Bưa Phi ngay nơi chàng hoá đá.
Một tiếng nổ lớn. Núi Bưa Phi nứt ra. Biết lời cầu đã ứng, nàng Tiên Phi lao vào chỗ đó và hoá đá luôn.
Ngày nay, trên núi Bưa Phi còn hòn đá Thúc và động Tiên Phi. Trước cửa động, có hình một cô gái nằm nghiêng theo đường vào. Tương truyền đó chính là nơi nàng Tiên Phi hoá đá.

89. SỰ TÍCH HÒN VÚ ĐÁ
Thuở ấy ở nước Chiêm Thành có một tên nghịch thần lên chiếm ngôi vua. Bọn quan lại ăn hại chỉ biết xun xoe, nịnh thờ tên phản nghịch, trong khi lòng dân vẫn còn lưu luyến chúa cũ. Một số ít tôi trung ngày trước đã chạy đến những nơi hiểm trở, chiêu mộ nghĩa quân, ngày đêm chuyên cần luyện tập, đợi ngày sẽ kéo quân về kinh thành trừ tên phản nghịch.
Sau khi chiếm được ngôi vua, việc đầu tiên của tên phản nghịch là hạ lệnh cho lũ quan lại ở khắp nơi tìm gái đẹp đưa vào cung. Nhiều cô gái đẹp, nhiều bà mẹ già ngày đêm lo lắng, bỏ làng trốn đi nơi khác. Nhưng tại một vùng kia, có một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp lại không lánh đi đâu cả.
Tin về người con gái có vẻ đẹp mặn mà ấy bay đến tai tên nghịch thần hung ác. Hắn cho người đến bắt người cha già phải đưa con gái vào cung. Không có cách nào, ông già phải ép con mình làm vợ tên nghịch thần và ông già cũng bị giữ ở lại trong triều. Tên vua liền phong nàng làm phi tần. Hắn mê mẩn nhan sắc của nàng, không thiết gì đến chính sự nữa.
Một ngày kia, tên vua sai cha nang đi sứ sang nước láng giềng. Nhân cơ hội đó ông liền nghĩ ra một kế bí mật tụ tập nghĩa quân và sẽ kéo về trừ tên gian tặc. Nhưng mưu đồ bị lộ, tên phản nghịch sai bọn tay chân đón đường giết chết ông già.
Biết được tin đó người con gái rất đau khổ nhưng nàng vẫn vờ làm như không biết việc gì của cha, nàng vẫn vui vẻ nên không bị tên vua nghi kỵ gì cả. Ngày đêm nàng nghĩ cách trả thù cho cha.
Một hôm, nàng cố phục rượu tên vua, ép hắn uống hết chén này đến chén khác. Lúc hắn đã say nàng liền rút gươm giơ lên cao định chém. Nhưng lúc ấy tên gian thần vụt tỉnh, hắn tránh sang một bên rồi chồm lên như một con thú, nắm chặt lấy tay nàng.
Nàng sỉ mắng hắn hết lời không chút sợ hãi.
Tên vua như bị lửa đốt vào mặt. Hắn sai lính đem hành hình nàng tức khắc. Hắn ra lệnh lột hết xiêm áo của nàng, chất củi thiêu sống nàng nhưng củi tự nhiên không cháy. Hắn căm tức ra lệnh vứt nàng vào chuồng hổ cho hổ ăn thịt nhưng thật kỳ lạ, hổ quay mặt đi không ăn. Nó trói chân tay nàng vào bốn con voi, quất cho voi chạy để xé xác nàng nhưng voi cứ đứng yên, không nhúc nhích.
Không làm sao được, nó đành giam nàng vào một nhà ngục kiên cố nhất, ngày đêm canh gác để ngày khác sẽ đem ra hành hình.
Trong khi tên bạo chúa chưa tìm ra được cách gì để giết nàng thì trời đã sai Thiên thần xuống rước hồn nàng đi. Nó cứ tưởng nàng tự vẫn. Tức quá, nó sai quân lính đâm nát xác nàng rồi vứt xuống con sông ở phía Bắc thành Trà Bàn (thuộc thành phố Bình Định ngày nay).
Xác nàng trôi lềnh bềnh rồi dạt vào bờ hoá thành một tảng đá lớn trông như hình vú của đàn bà. Tảng đá ấy đứng sừng sững từ đời này sang đời khác như để ghi lại lòng trung nghĩa của người thiếu phụ. Đời sau nhân dân gọi hòn núi ấy là hòn Vú đá.

90. SỰ TÍCH CỦ MÀI
Xưa có một gia đình rất đông con, đông đến nỗi bố mẹ không nhớ hết được tên từng đứa. Người chồng tên Đang, vợ tên là Pang. Tuy đông con như thế nhưng hai vợ chồng nhờ phát được nhiều nương và vỡ được nhiều ruộng nên cuộc sống cũng không đến nỗi túng thiếu.
Gặp năm trời hạn mất mùa, bao nhiêu lúa giống của hai vợ chồng để dành cho mùa sau bị bọn lang đạo cướp hết. Hai vợ chồng phải vào rừng tìm rêu đá, lá cây về cho các con ăn, nhưng kiếm được bao nhiêu cũng không đủ, suốt cả ngày lũ con cứ gọi bố, gọi mẹ và kêu: Đói lắm bố mẹ ơi!
Hai vợ chồng thương con, biết rằng rêu đá và lá cây không phải là món ăn có thể thay cơm gạo lâu dài được, hai người cố đi xin người làng kẻ cho một nắm, người cho vài bông lúa giống và giấu các con, lên rừng phát rẫy, tỉa lúa trái mùa.
Ở nhà, đàn con đói quá, kéo nhau ra rừng tự kiếm cái gì ăn cho đỡ đói nhưng đến đêm chúng lại kéo nhau về kêu đói suốt đêm: - Đói lắm bố mẹ ơi!
Trong rừng khuya, nghe tiếng đàn con kêu đói vọng tới, hai vợ chồng lòng đau như cắt. Hai vợ chồng thay nhau nói vọng về cho các con yên lòng: - Các con ơi! Lúa đang nảy mầm. Khi lúa đã lên xanh, họ lại gọi vọng về: - Các con ơi! Lúa đã lên xanh.
Đến ngày lúa chín thì hai vợ chồng đã kiệt sức nhưng khi nghe tiếng đàn con kêu đói thì hai người lại cố gắng nói to lên cho các con nghe: - Các con ơi! Lúa đã chín... Và khi mẻ gạo đầu tiên vừa giã xong thì hai vợ chồng liền đồ ngay một chõ xôi lớn, chia ra từng nắm một, rồi đem ngay xôi về nhà cho các con. Nhưng khi họ đến nhà thì không thấy bóng một đứa nào nữa. Trong khi ấy, thì từ trong rừng sâu lại vọng ra những tiếng: - Đói lắm bố mẹ ơi!
Tủi cực quá hai vợ chồng gắng gượng khiêng rá xôi vào rừng nhưng vẫn không gặp một đứa con nào cả. Trong lúc ấy thì từ rừng cây trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái vẫn cứ vọng ra tiếng kêu xé ruột: - Đói lắm bố mẹ ơi! Lúc này thì sức hai người đã kiệt. Họ không thể theo tiếng vọng của rừng núi mà đi tìm các con được nữa. Hai người đặt rá xôi xuống và cố sức gọi: - Các con ơi! Ra đây với bố mẹ mà ăn xôi.
Tiếng gọi vừa dứt thì một đàn chim từ các ngả bay đến đậu đầu cả khu rừng. Chim hót: - Bang, Bang! Bang, Bang! Chúng con ăn quả đã quen, còn xôi xin nhường bố mẹ! Bấy giờ hai vợ chồng mới biết đàn con của mình vì đói quá đã hoá thành chim cả rồi. Già yếu, đói khổ, lại thương xót đàn con đã hoá chim, hai vợ chồng gục đầu vào rá xôi mà chết.
Thấy bố mẹ chết thảm quá, đàn chim kêu vang cả khu rừng, rồi chúng lấy những nắm xôi và đắp mộ cho bố mẹ.
Về sau, chỗ mộ hai vợ chồng Đang, Pang mọc lên một loài cây rất lạ: trên là cây, dưới là củ. Củ có bột trắng và khi luộc chín thì dẻo như xôi. Người dân gọi đó là củ mài. Người ta nói rằng vợ chồng nghèo khổ ấy đã hoá ra củ mài để cứu những người nghèo đói, cùng cảnh ngộ như mình. Còn lũ con của họ thì hoá thành chim "đang bang" thường kêu vang cả núi rừng vào mùa lá chín để nhắc lại cảnh khổ cực của bố mẹ ngày xưa.

91. SỰ TÍCH MỎM NÚI Ả CÒM
Ở vùng Mường Tạ(1) hồi bấy giờ chịu một tai nạn vô cùng khủng khiếp. Nước lũ ở đâu tràn về ngập khắp bản mường, mưa liên tiếp ngày đêm không ngớt. Nai, hoẵng và các thú rừng chết, xác nổi lềnh bềnh, trôi ngổn ngang khắp nơi. Những cây cổ thụ cũng bị bật rễ, cuốn phăng theo dòng nước chảy xiết. Người trong bản xiêu tán, phiêu bạt lênh đênh.
Những chàng trai, cô gái khoẻ mạnh nhất, bám chặt được vào thân cây, họ cưỡng lại với dòng nước để giạt vào một mé sườn núi mà nước dâng chưa tới. Bíu chặt lấy mô đá và nhánh rễ phụ của một cây to chưa bị lay gốc, họ trèo lên ngồi thu mình vào một cái hốc đá gần đó.
Cứ như thế, họ ngồi cho đến xế chiều. Nước lụt ở các khe dâng lên cuồn cuộn, nhưng trời đã bớt mưa. Lúc này là lúc có thể định lại phương hướng và tìm chỗ an toàn hơn. Cả mấy người cùng ra khỏi hang nhìn bốn phía và bàn bạc với nhau làm cách nào để chống lại bão lụt, tìm người thân và thu nhặt của cải.
Cơn mưa to đã chấm dứt rồi nhưng mấy người dân vẫn bàn bạc với nhau chưa ngã ngũ, có người nói: - Ta không thể ở lại bản mường này được, phải đóng một chiếc bè đi đến nơi cao ráo mà ở. Lại có người bảo: - Đi đâu cũng chẳng có, chẳng nên cứ sống lênh đênh với nắm lá trái cây thế này mà chờ chết thôi.
Giữa lúc đang bàn tán ồn ào thì bỗng ở đâu thì có tiếng xường (một điệu hát dân tộc Mường) vẳng lại. Họ lấy làm lạ rằng trong lúc này mà lại còn có người con gái nào yên tâm mà hát xường. Tiếng xường từ trên cao vọng xuống mỗi lúc một rõ hơn: - Lụt lội trời làm gay gắt / Ai có trống dậy đánh trống / Ai có chiêng dậy đánh chiêng. Lời xường đã nhắc nhở người dân bản một câu chuyện mà người già thường kể cho con cháu nghe: "Thần lụt ghê gớm thật, nhưng thần vốn sợ tiếng trống, tiếng chiêng...". Họ cố nhìn lên xem người con gái đang xường ấy là ai, chỉ thấy sau đám mây mờ mờ một người con gái còng lưng bên chiếc xa quay sợi vừa làm vừa xường...
Càng thấm thía lời xường, họ rủ nhau trèo lên cao nữa để gặp cô gái và để hỏi thêm câu chuyện cho rõ ràng. Họ leo mãi lên một mỏm núi cao chót vót nhưng khi đến nơi chỉ là mỏm núi đá bình thường như nhiều mỏm núi khác. Lúc trở xuống, ngoái nhìn lại vẫn thấy hình người con gái quay xa và vẫn nghe tiếng xường dìu dặt. Một trong bọn họ nói: - Thôi không phải tìm đâu nữa. Đây chắc là con yêu quý của bà Dạ Dần ngày xưa đến bày cho ta điều hay, điều phải đây. Ta cứ nghe theo như thế mà làm thì hơn cả.
Mọi người kéo nhau xuống núi, tìm được mấy chiếc trống đồng con vướng vào các hẻm đá, khe núi không trôi đi được. Họ thi nhau đánh trống vang lên. Quả nhiên, nước lụt rút đi rất nhanh. Trong lúc đó tiếng xường ở trên cao vẫn vọng xuống, đan quện vào trong tiếng trống. Lời xường lại giải thích cách làm ăn của bà Dạ Dần: - Đất đen bà trồng lá (lúa) / Đất đỏ bà trồng vang / Đất vàng bà trồng nghệ.
Những người dân bảo nhau: - Bà Dạ Dần đã bày cách làm ăn cho ta đó. Nước rút đi rồi, chỗ nào trồng được cái gì thì ta trồng để kiếm cái mà ăn. Thôi hãy đi làm đi! Họ cùng nhau đi cuốc đất trồng lúa ở đất đen, trồng sắn ở đất đồi, trồng ngô ở đất bãi. Những người bị lụt phiêu dạt đi các nơi, nghe nói cùng đang trở về tỉa lúa ngô, dựng nhà dựng cửa.
Dân mường Tạ rất nhớ ơn cô gái đã mách bảo cho họ cách làm ăn. Bây giờ có lẽ cô gái đã về với bà Dạ Dần hay thương hay xót rồi. Nhưng cô vẫn để lại hình dáng của mình. Mỏm núi làng Nhàng (1) vẫn còn mô đá tạc hình cô gái đang còng lưng kéo sợi, quay xa. Bà con đặt tên cho cô là nàng ả Còm và lập đền thờ nàng ngay cạnh đó. Con gái Mường Tạ luôn nhớ nàng bằng cách tập nghề quay xa, dệt vải và thuộc lòng nhiều bài xường bắc bông, kêu vía lúa.

92. SỰ TÍCH ỐNG SÁO "ÔI"(1)
Ngày xửa ngày xưa, khi trời còn rất thấp, thấp đến nỗi từ những nóc nhà cao nhất có thể nhìn thấy cổng nhà trời. Ở một làng kia có một chàng trai săn bắn tài, làm nương giỏi, con gái trong làng ai cũng ước ao có được người chồng như chàng, nhưng chàng lại chẳng để ý đến ai cả. Chàng trai ấy tên là Khun Lồ. Khun Lồ mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ chàng rất thương chàng. Chàng đã đến tuổi trưởng thành, bà thường khuyên con lấy vợ để gia đình thêm vui, nhưng chàng chỉ cười không nói nói. Một hôm nghe mẹ hát: - Nhà không có con dâu sớm tối / Lúa chín ngoài nương không ai đi hái / Bắn được con tòi, con mang ngoài rẫy / Chẳng có ai nấu bát canh ngon...
Thương mẹ, Khun Lồ thú thật là từ lâu đã yêu một người. Người đó có con mắt như trăng mồng năm, nhìn mãi không chán, nước da như mặt trời buổi sáng, nhúng vào chàm chàm không nỡ nhuốm xanh. Váy nàng thêu, nàng dệt đẹp hơn áng cỏ non. Rượu nàng ủ thơm ngon, uống một ngụm là say, nhớ mãi.
Nghe nói, mẹ chàng đoán ra ngay là nàng U Tiệm. U Tiệm nết na nhu mì, khéo chân khéo tay, trong mường bản chẳng có ai sánh kịp. Mẹ chàng rất vui mừng. Nhưng khi sực nhớ ra U Tiệm là con nhà lang thì bà rất lo sợ. Dòng họ U Tiệm phép tắc rất nghiêm, con nhà dân mà lấy con nhà lang thì trai sẽ bị phạt vạ hàng trăm trâu trăm bò lại bị đuổi đi xứ khác, gái thì bị úp rổ vào mặt và bị đuổi ra khỏi nhà.
Bà nói với con: - Thôi con ạ, nhà ta nghèo, ta nên kết bạn với người nghèo thì hơn. Khun Lồ an ủi mẹ: - Mẹ không lo, con cọp nó bị đuổi rừng này nó còn rừng khác để ở, huống gì là con người. Lấy được nàng rồi, nếu họ đuổi khỏi mường này ta đi mường khác, đuổi mường thấp ta lên mường cao, ở đâu có đất có nước, ở đó sẽ có cơm có gạo. Thấy con quả quyết, bà không nỡ nói thêm, chỉ lẳng lặng thở dài.
U Tiệm cũng nghĩ như Khun Lồ, đã nhiều lần nàng nói với Khun Lồ: Bạc nén, trâu bò nàng không mang, cha mẹ từ bỏ nàng không sợ. Nàng chỉ sợ không lấy được chàng mà thôi. Một hôm, hai người hẹn nhau ra nương cầu trời đất và các vị thần khe, thần núi giúp cho họ nên vợ nên chồng. Khi U Tiệm đã về rồi Khun Lồ cất tiếng hát vang cả rừng xanh: - Bụng đã thương em / Tay không biết mệt / Tha hồ phát rẫy trồng bông / Tháng chín lấy cánh kiến nhuộm hồng / Nên vợ nên chồng / Nước chàm càng xanh đậm / Em ra khe tắm / Đàn bướm lượn quanh váy tưởng hoa. Tiếng hát chưa dứt, bỗng từ dưới làng vọng lên tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã. Không hiểu chuyện gì xảy ra. Khun Lồ chạy một mạch về nhà. Đến con suối đầu làng hỏi thăm mới biết đó là con trai nhà trời kéo quân lính xuống hỏi nàng U Tiệm làm vợ. Cha mẹ nàng đã bằng lòng gả, hiện đang giết trâu mổ lợn làm tiệc cưới.
Nghe tin Khun Lồ bàng hoàng cả người. Chàng xăm xăm chạy đến nhà nàng, quyết giành lại cho được nàng U Tiệm. Nhưng quân lính nhà trời đã dùng lưỡi mác chặn chàng lại, thế là mối tình giữa hai người đứt đoạn, không kịp nói với nhau một lời, không kịp nhìn nhau lần chót.
Thấm thoát đã mấy mùa trăng tròn rồi lại khuyết, hai người chỉ nhớ thương nhau. Khun Lồ thường lên những ngọn núi cao nhất, nhìn lên các toà ngang dãy dọc nhà trời để mong nhìn thấy hình bóng người yêu. Còn U Tiệm thì từ ngày bị bắt lên trời suốt ngày ủ rũ. Chồng nàng đành để nàng ở một nhà riêng thật yên tĩnh. Được ở một nơi vắng vẻ, ngày nào cũng vậy, cứ chiều chiều là nàng mở cửa ngó xuống trần gian.
Một đêm trăng sáng, đang ngồi bên cửa sổ tưởng nhớ người yêu. Bỗng U Tiệm nghe vọng lên tiếng hát quen thuộc của Khun Lồ từ chỗ nàng và chàng thường ngồi tình tự với nhau. Tự nhiên nàng ứa lệ, nhưng nàng cố nén cảm xúc, lau nước mắt ngó xuống trần gian tìm chàng. Bỗng tim nàng đập liên hồi, khi thấy chàng đang đứng trên đỉnh núi mà ngước mắt lên nhìn trời. U Tiệm bèn lấy chiếc khăn thêu buộc vào ngọn cây và vít cho ngọn cây hạ xuống. Khun Lồ trông thấy khăn của người yêu vụt chạy tới, vừa lúc đó U Tiệm buông dây lưng xuống. Khun Lồ bám lấy đu lên gặp nàng. Khun Lồ than thở: - Ta tưởng ông trời công bằng sẽ giúp chúng ta nên vợ nên chồng, không ngờ ông trời lại là kẻ dùng quyền thế cướp mất vợ của ta. U Tiệm cũng nói: - Ông trời ác nhưng ông trời chỉ cướp được phần xác của em thôi, còn phần hồn vía em thì ông trời không cướp được đâu. Hồn vía em vẫn là của chàng. Chàng đi ra rẫy thì hồn em đi theo, lúa của chàng bông sẽ to như đuôi trâu mộng. Chàng đặt bẫy thì vía em đi theo, bẫy của chàng sẽ được nhiều thú nhiều chim làm canh cho mẹ ăn.
Câu nói của người yêu có sức mạnh kỳ lạ. Mẹ  thấy Khun Lồ ngày càng làm việc giỏi, càng thương con xót xa trăm phần. Còn Khun Lồ thì cứ đêm đêm theo lối cũ bám lấy dây lưng do U Tiệm dòng xuống mà lên tình tự với nàng.
Nhưng câu chuyện lâu ngày khó bề giữ kín. Người chồng của U Tiệm sinh nghi. Hắn nghĩ: người có ngoại tình con mắt hay long lanh và hay cười một mình. Thế rồi hắn để ý và rình, rồi một đêm hắn bắt được quả tang Khun Lồ. Hắn tự tay chém đầu chàng và sai lính đâm vào đầu chàng. U Tiệm thấy người yêu bị giết, đau đớn quá nàng chỉ thét lên một tiếng rồi chết ngất đi không hồi tỉnh nữa.
Khun Lồ bị giết, máu chảy xuống trần gian nhuộm đỏ khắp núi đồi, nhuộm đỏ cả rừng trúc trước cửa. Mẹ già thương con khóc vật vã suốt ngày đêm. Trai gái trong làng trước cảnh đó cũng ra rừng trúc khóc thảm thiết. Bỗng một đêm, trăng mờ mây toả, người ta nghe ngoài rừng trúc có tiếng vi vu, lúc khoan nhặt, lúc trầm lúc bổng, rung cảm lòng người một cách kỳ lạ. Gái dừng tay dệt vải, trai nghỉ việc đan lát, ông già bà cả thôi không trò chuyện. Họ lắng nghe một lúc rồi kéo nhau ra rừng trúc để tìm nghe cái tiếng kỳ lạ ấy. Đến nơi, họ thấy cây trúc thẳng tắp, ngọn chọc lên nền trời, giữa thây cây có bốn lỗ thủng, khi gió lùa vào thì bốn lỗ thủng đó vang lên tiếng nhạc réo rắt du dương. Thấy lạ mỗi chàng trai tìm lấy một ống trúc, khoét mấy lỗ tròn, rồi ghé miệng vào thổi. Từ những ống trúc ấy cũng vang lên tiếng nhạc, tiếng nhạc réo rắt như thương như nhớ, như giận như hờn. Các chàng trai làng cứ thổi mãi, thổi mãi. Nghe thấy tiếng sáo kỳ lạ ấy, ông trời sợ quá vội kéo màn trời lên, kéo mãi đến khi xa mãi trần gian không còn nghe thấy tiếng sáo nữa mới thôi.
Từ đó, ban đêm mường dưới khắp nơi vang lên tiếng nhạc. Họ đặt tên cho cái ống trúc kỳ diệu ấy là "sáo Ôi", chiếc sáo ca ngợi tình yêu chung thủy của Khun Lồ và U Tiệm, chiếc sao nói lên những nỗi oán hờn của đôi bạn đối với kẻ đã chia rẽ tình yêu, đến cả trời cao kia cũng phải sợ.

93. SỰ TÍCH NGƯỜI LÀM CHÚA MUÔN LOÀI
Ngày xưa cõi trời và cõi trần rất gần nhau cũng như cõi trần và cõi nước ở liền sát bên nhau vậy. Trong một ngày, tất cả muôn loài ở trên ba cõi đều có thể đi lại chơi bời vài ba bận mà trời vẫn chưa tối. Vua thiên đình là Đức Ngọc Hoàng cai quản tất cả muôn loài trên ba cõi. Nhưng vì muốn cho các tôi muôn loài ở trên cõi trần và cõi nước có một vị đại diện coi sóc hàng ngày, Ngọc Hoàng đặt ở cõi trần một vị vua nhỏ gọi là Hoàng Đế và đặt ở cõi nước một vị vua gọi là Thuỷ Tề. Thời ấy, Hoàng Đế ở trần gian là rùa còn Thuỷ Tề ở cõi nước là thuồng luồng.
Nhưng ở cõi trần, muôn loài ngày càng chia làm nhiều giống vật, ngày càng sinh sôi nảy nở. Hoàng Đế rùa chân ngắn mai dày, đi lại chậm chạp, không còn đủ tài đủ sức cai quản muôn loài được nữa. Vì vậy nhiều lần Hoàng Đế rùa tâu lên Ngọc Hoàng xin từ chức, để một loài khác lên ngôi. Nhưng khi Ngọc Hoàng hỏi rùa nên cử ai thì rùa lúng túng vì rùa chưa biết kẻ nào thật xứng đáng. Có những lần, Ngọc Hoàng và Hoàng Đế rùa bàn luận hàng vài tháng, điểm qua hết thảy muôn loài nhưng vẫn chưa tìm được kẻ đáng tin cậy nhất để làm vua thay rùa.
Một hôm, Ngọc Hoàng tìm ra được một kế, bèn cho gọi Hoàng Đế rùa ở trần gian lên bàn bạc, rồi về loan báo cho muôn loài: - Đức Ngọc Hoàng đã chết, ai có lòng nhớ ơn Ngọc Hoàng thì lên thiên đình mà phúng viếng.
Ngọc Hoàng có ý định là qua sự phúng viếng của muôn loài sẽ chọn lấy kẻ nào đó có ý thực tâm thương xót mình nhất thì cho làm vua trần gian. Nhận lệnh của Ngọc Hoàng, về trần gian. Hoàng Đế rùa phải đi suốt ba tháng ròng rã mới loan báo được hết khắp các loài. Được tin, muôn loài ở trần gian rủ nhau lên thiên đình để phúng viếng và vào tế Ngọc Hoàng. Hoàng Đế rùa cùng đi nhưng thỉnh thoảng vẫn dừng lại dọc đường để nghe ngóng và hỏi thăm những con đi chậm.
Các loài, từng đàn lũ lượt kéo nhau lên thiên đình. Trước tiên là loài chim vì chúng cậy mình nhẹ người lại có cánh nên rủ nhau bay vùn vụt. Trên đường đi, thấy Hoàng Đế rùa lạch bạch bước một, chúng còn quay lại chế giễu. Thứ hai là đoàn thú rừng, đi đầu là các giống hươu, nai, theo sau là các giống chồn, sóc, thỏ, sau cùng là giống hổ lang… Đoàn này nối đuôi nhau hung hăng xông xáo, đi đến đâu cũng kêu la inh ỏi, làm động cả đất, dạt cả cỏ, đổ cả cây. Khi vượt qua Hoàng Đế rùa, chúng thi nhau trêu tức. Thứ ba là loài bò sát gồm rắn, rết, thằn lằn, kỳ nhông, trăn gió… cũng không kém phần hung hăng. Chúng cũng bỏ xa rùa, có con còn phun bọt vào mắt làm cho rùa phải thụt đầu lại. Sau cùng là đoàn người. Loài người đi rất thong thả. Họ vừa đi vừa kể cho nhau nghe công lao của Ngọc Hoàng đối với muôn loài và đặc biệt là đối với loài người. Họ ca tụng Ngọc Hoàng có nhiều khó nhọc khi ấp ủ làm ra đất trời, sinh ra cỏ cây và muôn loài. Đi được nửa đường, đoàn người lại gặp Hoàng Đế rùa đang cất từng bước chân nặng nề mỏi mệt. Họ liền thay phiên nhau cõng Hoàng Đế rùa cùng đi cho nhanh.
Tất cả các loài đều đã đến nhà Ngọc Hoàng. Khi vào tế, loài chim đến trước nên được mời tế trước. Chúng đứng con trên con dưới, con dọc con ngang, con quay mặt lên, con quay mặt xuống rất lộn xộn. Chúng gào: - Hỡi Ngọc Hoàng! Hỡi Ngọc Hoàng! Vua nhà trời mà còn chết được sao? Chúng tôi cứ tưởng rằng đã là vua nhà trời thì phải sống để ngày đêm làm mưa làm gió, bắt sống bắt chết chứ. May mà Ngọc Hoàng chết đi, loài chim chúng tôi sẽ được bay lượn tự do. Hỡi Ngọc Hoàng! Thật là thương tâm! Bầy lũ chúng tôi từ nay sẽ được tung hoành rộng cánh.
Nằm giả chết ở trên giường, nghe lời chim chóc khóc than, Ngọc Hoàng giận ứ đến tận cổ. Chúng chỉ khóc lóc, kêu gào ở ngoài mồm. Con nào mắt cũng ráo hoảnh. Chúng tuôn ra toàn là những lời châm biếm mỉa mai. Bao nhiêu lần Ngọc Hoàng toan vùng dậy đánh cho chết bọn bội bạc, nhưng cố nén lòng để con thử lòng các loài khác nữa.
Kêu than giả dối một hồi, đàn chim láo nháo đi ra nhà ngoài chờ ăn uống. Tiếp đến đoàn thú rừng vào tế, chúng đứng ngổn ngang, lộn xộn hơn cả loài chim. Đến giờ cử ai, tiếng khóc của chúng lại càng ồn ào. Giống hươu, nai khóc vang trời, làm inh tai nhức óc. Giống hổ báo gầm gừ, nhe nanh, giơ vuốt làm cho ai cũng phải run sợ. Chúng cũng mắt ráo hoảnh cùng một giọng mỉa mai. Đến lượt loài bò sát cũng vậy. Lộn xộn, ồn ào, giả dối lộ ra trong cách ngồi, cách trườn, trong tiếng khóc kêu gào, có con tỏ ra ngạo mạn hung hăng, bội bạc hơn loài chim, loài thú. Ngọc Hoàng nghe thấy rõ hết nhưng cũng cố nén lòng chờ đoàn người vào tế xong sẽ liệu.
Đến lượt đoàn người vào tế. Họ biết nghe lời nhau, đứng xếp hàng im lặng, kẻ trên người dưới. Người nào cũng mắt buồn rười rượi. Hàng trên không ai nói một lời, hàng dưới không khí im lặng không ai hé một câu và chính không khí im lặng ấy càng làm cho buổi tế trở nên nghiêm trang. Theo lệnh người đứng đầu, tất cả đoàn người cùng một lúc cất lên tiếng khóc. Họ cùng nhau khóc lóc và than rằng: - Ô hô! Ô hô! đức Ngọc Hoàng sáng tạo và cai quản muôn loài, thương Ngọc Hoàng như thương mẹ, nhớ Ngọc Hoàng như nhớ cha. Công ơn Ngọc Hoàng cao như trời rộng như biển. Ngọc Hoàng chết đi là hết. Quỳ trước vong linh Ngọc Hoàng, chúng tôi dâng cả tấm lòng biết ơn của loài người đối với Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng..
Khóc lóc kêu than xong, đoàn người còn xụp lạy, ai cũng nước mắt chảy thành dòng. Nằm im trên giường nghe tiếng khóc thảm thiết, Ngọc Hoàng cảm động vô cùng. Chờ muôn loài tế xong, Ngọc Hoàng vùng nhổm dậy, rồi vẫy gọi tất cả lại gần và nghiệm nghị nói: - Ta bày ra trò này chỉ là để thử lòng muôn loài đấy thôi. Hiện nay Hoàng Đế rùa đã già yếu, ngày càng chậm chạp, ta muốn tìm kẻ có tài có đức thay, nhưng chưa biết chọn ai. Cho nên ta muốn qua buổi phúng viếng này mà chọn lấy một loài vừa có nhân lại vừa có đức và có lòng chủng thuỷ đối với ta lên ngôi thay Hoàng Đế rùa. Cuộc phúng viếng và tễ lễ này ta đã biết ai tốt, ai bội bạc. Vì vậy, bây giờ ta có thể chọn kẻ xứng đáng lên ngôi Hoàng Đế.
Thấy Ngọc Hoàng còn sống, phán như thế, các loài chim và thú rừng quay lại trách móc lẫn nhau, vì quá nông nổi đã trót nhỡ lời mỉa mai, châm biếm Ngọc Hoàng. Nhưng chúng cũng quyết định giành ngôi Hoàng Đế cõi trần cho tộc mình. Loài chim bèn đưa ngay diều hâu ra ứng cử. Chúng hết lời tán tụng Diều hâu có tài bay cao, bay khoẻ, chỉ một lúc có thể bay đi toàn thiên hạ. Diều hâu có đôi mắt tròn xoe và sáng quắc, có cái nhìm thấy được tất cả mọi cái hay, cáo dở của muôn loài để đặt ra các hình phạt hoặc có phần thưởng một cách chính xác. Diều hâu lại có cái mỏ quặp và cứng, có bộ móng sắc và nhọn, sẽ có đủ tài lực để mổ thủng đầu, xé tan xác những loài, những giống ngang ngạnh và bướng bỉnh.
Loài thú rừng cũng hăm hở đưa chàng Hổ ra tranh cử. Chúng bảo rằng Hổ có tài nhảy cao và chạy xa, một loáng có thể đi khắp nơi, mọi ngõ ngách, từ ngọn suối đến cuối ghềnh, từ nơi hang cùng ngõ hẻm đến các nơi hẻo lánh, nên có thể đủ sức để xem xét muôn loài. Hổ lại còn có sức khoẻ vô địch, có bộ nanh sắc, có bộ vuốt nhọn, thừa sức quật chết tươi bất cứ loài nào không chịu tuân theo lệnh của Hoàng Đế.
Loài bò sát thì hết lời tán dương Rắn. Chúng bảo rắn có tài bò lên trên các cây cao xem xét các loài chim lại có tài trường mình khắp mặt đất để thăm hỏi các loài thú, có tài lén lút chui vào mọi làng mạc xó xỉnh để dò xét từng việc làm hay dở của các loài.
Loài người vẫn chưa lên tiếng, họ có ý chờ Ngọc Hoàng kén chọn, nhưng Hoàng Đế rùa vốn mến loài người có nhân nghĩa, tài trí nên tiến cử. Ngọc Hoàng đồng ý, phán rằng: - Ta cũng có ý như Hoàng Đế rùa, vậy ta bằng lòng chọn loài người lên ngôi và thay Hoàng Đế rùa cai quản muôn loài ở cõi trần gian.
Nghe Ngọc Hoàng phán chọn loài người lên ngôi Hoàng Đế, Hổ tức giận trợn tròn mắt xanh lè, giơ vuốt nhe nanh, gầm lên vang trời, toan nhảy bổ vào cắn xé người. Diều hâu cũng trừng đôi mắt, xoè năm đôi móng sắc nhọn, quắp cái mỏ quặm, định bay vù lại mổ loài người. Loài rắn cùng trợn tròn đôi mắt lồi, bành cổ phun bọt phì phì định lao mình nhả nọc độc.
Ngọc Hoàng trợn mắt quát lớn, tiếng quát của Ngọc Hoàng vang ran như sấm động làm cho hổ, rắn, diều hâu phải đứng sững lại. Chúng nép vào nhau, run cầm cập. Ngọc Hoàng phán tiếp: - Loài người có trí thông minh, biết giữ đạo lý, biết trọng nhân nghĩa cho nên ta chọn loài người làm Hoàng Đế cai quản muôn loài ở dưới cõi trần. Tất cả các loài từ nay phải nghe theo lệnh của loài người. Hổ có bụng dạ xấu xa, từ nay phải chịu cho người ăn thịt và ninh xương. Diều hâu độc ác, từ nay sẽ phải chịu cho người săn bắt, còn rắn thường phun người bằng nọc độc thì sẽ phải chịu cái hình phạt nằm co quắp ở trong hang chịu nhịn đói suốt nửa năm và chỉ được ra ánh sáng khi có mặt trời chiếu sáng. Loài thảo mộc hôm nay không chịu đến chầu. Ta ra lệnh cho loài thảo mộc nhất nhất phải chịu lệnh của loài người không được cưỡng lại.
Sau đó Ngọc Hoàng lệnh tan buổi chầu, muôn loài ở đâu lại về đấy. Loài người trở về lên ngôi Hoàng Đế, thay rùa trị vì trần gian. Từ đó, người được săn bắt loài thú, đánh bẫy loài chim, có quyền chặt cây, đốn gỗ, cắt cỏ, nhặt gọn, hái quả, lượm hạt bất cứ loài thảo mộc nào. Loài thảo mộc y lệnh Ngọc Hoàng nhất thiết nghe theo sự sai bảo của loài người. Duy chỉ có Hổ, Rắn và Diều hâu hãy còn bướng bỉnh. Chúng không hoàn toàn tuân lệnh Ngọc Hoàng. Nhưng chúng không dám công nhiên phản lại loài người. Hổ còn rình vồ trộm loài người tha về rừng ăn thịt, diều hâu bất chợt sà xuống tha vụng vài con gà của người đem tít lên ngọn cây. Loài rắn còn lén lút thả nọc độc vào một vài người vô ý. Tuy Hổ, Rắn và Diều hâu có bụng độc ác nhưng chúng đều rất sợ uy của loài người. Mỗi khi gặp người chúng thường tránh mặt.
Loài người có quyền cai trị trần gian từ đó.

94. SỰ TÍCH CON CHẪU CHÀNG
Xưa có một gia đình không biết cách làm ăn nên suốt đời túng thiếu. Mặt nữa, không biết cách dạy con, thường để chúng chơi bời lêu lổng, nên khi hai vợ chồng chết đi để lại cho hai đứa con trai một gia tài rỗng tuếch chỉ có một con dao cùn để sống. Thằng em còn nhỏ chưa biết gì đã đành, thằng anh đã vào tuổi thanh niên nhưng thích lêu lỏng hơn thích làm, lại thêm tính tham lam, ích kỷ.
Bố mẹ chết đi, thóc gạo chỉ vừa đủ ăn vài ngày. Người anh nói với em.- Ta phải đi khỏi làng nghèo khó này, tìm đến xứ nào giàu có hơn, may ra anh em ta sống được. Thế là người anh dắt vào lưng một con dao cùn duy nhất và xăm xăm bước đi trước, mặc cho em lầm lũi chạy theo sau. Vừa đi, người anh vừa nghĩ: "Bố mẹ chỉ để lại cho ta một con dao cùn mà bắt ta phải nuôi một đứa em!". Điều đó làm anh ta hậm hực hơn tình máu mủ ruột thịt. Thỉnh thoảng anh ta lại quay lại gắt đứa em tội nghiệp, đến bữa anh ta chỉ véo cho em một nắm xôi nhỏ bằng quả trứng và bảo em vừa ăn vừa đi cho chóng đến xứ giàu có.
Họ đã đi nhiều ngày, lương thực mang theo đã cạn. Người anh càng trở nên bẳn gắt. Người em mệt nhoài không muốn bước nữa nên lại càng bị anh mắng chửi.
Đến một đoạn đường, hai anh em gặp một vật ngáng đường: Một cây gỗ, cây gỗ có phép lạ. Muốn trèo qua, nó nâng cao lên, thấy thế định chui xuống, nó lại hạ xuống, muốn tránh sang bên kia, nó lại dài vô tận. Thấy thế, người anh thầm nghĩ: "Cái cây này chắc là vật ngăn cách giữa thế giới nghèo khổ và xứ giàu có đây. Bên kia ắt là thế giới đầy sung sướng". Nghĩ thế, hắn nóng lòng muốn vượt nhanh sang bên kia. Nhưng chẳng thể nào sang được. Người anh nghĩ rằng do đứa em ngờ nghệch nên vướng chân mình trên đường đi tìm cuộc sống sung sướng. Hắn bèn nghĩ ra một kế: Lừa cho em chui qua cây gỗ chắc chắn sẽ ẹp xuống, lúc ấy mình lấy đà nhảy qua chắc sẽ vượt được cây gỗ đến xứ giàu có kia. Khi thật giàu sang, ta hãy quay lại đón em về nuôi, cũng chưa muộn". Và hắn lại nghĩ: "A mà để nó lại, chưa chắc nó chịu ở mãi đây, có chân chắc nó sẽ đi, lúc ấy biết đằng nào mà tìm. Chi bằng chém què chân để nó không đi xa nơi này, sau này đỡ mất công tìm".
Nghĩ vậy, hắn nói với em: - Bây giờ anh em ta phải có mẹo mới qua được cây gỗ tai quái này mà sang với thế giới giàu sang bên kia. Anh bảo thế này: Em giả vờ chui qua cây gỗ để nó hạ thấp xuống, anh nhảy qua, sau đó anh sẽ trèo sang lại, lúc ấy chắc cây nâng lên cản anh, em sẽ chui sang.
Nghĩ vậy, nhưng trong lòng người anh khó tin lừa cây được hai lần. Đằng nào cũng không thể sang được cả hai anh em, nên người anh quyết chí thực hiện âm mưu của  nó.
Chờ lúc người em nó đang quỳ gối định chui qua và khi cây gỗ đã hạ dần xuống, người anh rút dao chém vào kheo chân em làm đứt dây gân và lập tức hắn vọt sang. Hắn đã đánh lừa được cây thần lẫn em hắn. Bây giờ đằng nào em hắn cũng chẳng thể đi được nữa dù có cách cho nó vượt qua khỏi cây gỗ này. Nghĩ vậy, hắn một mình đi thẳng.
Hắn đi mãi, đi mãi và tới được một bản mường to rộng, đông đúc ngựa xe, người qua lại. Hắn chắc mẩm: đã đến xứ ta mong muốn rồi đây. Vừa vặn cũng hết cái ăn và do phải nhịn đói mấy ngày, người anh hăm hở vào bản mường. Trước mắt có bao nhiêu là người đang ngồi ăn uống rộn rịp, toàn những thức ăn ngon lạ và có cả rượu thơm lừng. Hắn mò đến, nhưng đám người ngồi ăn không một lời chào mời. Ăn xong, thấy họ trả tiền rồi đi, vừa lúc ấy, có người để ý đến hắn rồi hỏi: - Anh định dùng thứ gì? Sao chẳng thấy gọi? ở đây có đủ loại chiều khách. Nếu không dùng gì thì mời anh đi chỗ khác cho chúng tôi bán hàng.
"À, hoá ra ở đây ăn phải trả tiền, mình cứ tưởng họ đang ăn cỗ cưới gì đó, chắc mẩm được xơi một bữa no nê!". Hắn nghĩ thế thấy xấu hổ vì chẳng có đồng tiền nào mà trả. Nhưng khốn nỗi đói quá, xấu hổ cũng chẳng được, nên nó nài xin: - Thưa ông, tôi chẳng có tiền, nhưng tôi đã nhịn đói mấy ngày rồi, mong ông thương cho xin thức gì ăn tạm.
Chủ hàng nói:- Trông anh khoẻ mạnh thế kia mà đi ăn mày - Nói rồi ông ta sai lấy cho hắn một bát cơm thừa bảo hắn ăn rồi đi cho nhanh.
Ăn xong, thấy chẳng ai muốn tiếp chuyện với mình nữa nên hắn đi tiếp. Trên đường tấp nập, người gánh, người đội, người còng lưng kéo xe nặng nề, ăn mặc rách rưới. Cũng có người sang trọng, đi thong thả hoặc ngồi ngựa, ngồi xe xúc xích. Hắn còn thấy một chỗ rất đông người, cái gì cũng đầy ắp cá thịt, gạo, ngô, quần, áo, vải vóc nhưng chẳng có ai cho hắn một ngụm nước lã. Hắn nghĩ: "Ở đây lắm của thế, mà cũng nhiều người nghèo rách rưới, lại phải còng lưng, mưa nắng vất cả chẳng kém ở quê mình, chỉ khác là họ làm nhiều việc khác nhau". Làm ruộng, làm nương ở làng thì hắn đã biết, vì thấy việc đó khó nhọc lắm nên hắn mới bỏ đi.
Cái lạ đập vào mắt hắn đầi tiên là việc xây nhà. Khác hẳn ở làng, ở đây người ta xây nhà không bằng gỗ, tre mà bằng đất đá. Hắn mò đến xem, lạ mắt thật nhưng cũng vất vả lắm. Ngắm mãi đến trưa, thấy người ta nghỉ và bầy cơm gói ra ăn tại chỗ. Hắn cũng đã đói rồi, thèm ăn mà chẳng ai mời. Hắn lại phải xin ăn.
Mọi người lấy làm lạ hỏi hắn: - Anh khoẻ thế, không biết đi làm thuê làm mưới ăn mà phải đi ăn xin ở bọn cực khổ như chúng tôi sao? Hay anh chưa tìm được việc làm? Cùng làm với bọn tôi đi, còn khối việc cho anh làm và chắc anh cũng tạm có bữa ăn đấy.
Được sẻ vài lưng cơm, hắn ngồi ăn chẳng nói, chẳng rằng. Ăn xong, thừa lúc mọi người nghỉ ngơi, hắn chuồn luôn. Hắn lại tiếp tục cuộc hành khất, lang thang đây đó. Hàng ngày, lúc ngủ hiên nhà người, lúc ngủ xó chợ, ngày thì lầm mò đến xem, lúc thì chỗ cưa xẻ đóng các thứ đồ dùng lạ mắt, lúc thì chỗ xay giã, làm bánh, lúc trên bến tấp nập bao nhiêu hàng hoá lên xuống giữa bến và thuyền, xe chở đủ loại.
Chỗ nào thoạt đầu hắn cũng được tạm bữa lưng bụng và được rủ làm việc nhưng hắn đều thấy công việc rất nặng nhọc, suốt ngày chẳng được nghỉ ngơi, hắn lại đi. Đi hết lượt, khi phải trở lại chỗ đã từng đến, hắn được người ta bảo: - Anh muốn ăn mày thế thì đến chợ mà ăn mày! Đến chợ người ta lại bảo: - Anh sức lực như thế chẳng lẽ hàng ngày chẳng kiếm nổi gánh củi đổi lấy bát gạo mà ăn. Hắn nghĩ, chỉ còn cách đó thôi, xin ăn mãi chẳng ai cho đến lần thứ hai. Hắn đành dắt con dao cùn vào rừng hái củi. May sao cũng tạm được qua mấy ngày.
Hắn chọn một gốc cây to ven rừng, có hốc lớn để tránh được mưa nắng, rét buốt làm chỗ ở. Mỗi ngày một gánh củi ra chợ, đủ hai bữa lại trở về gốc cây nằm ngủ. Lúc đầu, hắn thấy: "Thế này dễ chịu hơn, tự do hơn, muốn ngủ bao nhiêu cũng được, mỗi gánh củi thì chẳng mất bao nhiêu sức lắm!".
Nhưng mãi về sau, tĩnh tâm nghĩ lại: "Mình ngu thật, nếu chỉ để hàng ngày hái củi thì tội gì mình phải đến đây. Cũng phải nai lưng mới có cái ăn, thà ở bản này chịu khó phát nương cũng đủ sống, mặc dù không sung sướng lắm!". Hắn bắt đầu tiếc, và đột nhiên, hắn nhớ đến em. “Giá như hai anh en ở nhà gắng làm nương, như mọi người trong bản thì chẳng đến nỗi phải xa lìa nhau mà vẫn cực thân như thế này". Hắn bắt đầu than thân trách phận, oán trách thân mình, hối hận đã chém em và bỏ em một mình què đau. Giá còn anh còn em chung sức chắc chẳng đến nỗi cực nhục thế này! Hắn ân hận thổn thức khóc, hắn cầu mong trời đất, thần linh tha thứ lỗi lầm của hắn và nương nhẹ mở đường sống. Hắn hỏi thần linh rằng, sao có người sống sung sướng thế, mà số mệnh hắn thế nào mà cực nhục lắm vậy?
Sự hối hận, than khóc của người anh làm cảm lòng thương của người con gái vua Thuỷ Tề đang đi đến bên gốc cây này, bỗng anh chàng cảm thấy ngủ mê. Bừng mắt tỉnh dậy, anh ta đã thấy mình đang sống trong một lâu đài bằng thủy tinh lộng lẫy mà anh ta chưa bao giờ nghĩ tới. Một cô gái kiều diễm, xinh đẹp đã đến với anh và nói: - Nơi đây là chốn thuỷ cung, em là công chúa duy nhất của Vua Thuỷ Tề. Cảm thấy lòng hối hận chân thành của chàng, em quyết làm vợ chàng, để giúp chàng đạt được lòng mong ước phú quý, giàu sang, ở trên trần gian chàng đã từng cực khổ quá rồi, ở đây, tại chốn thuỷ cung này chàng chẳng có việc gì phải làm cả, tất cả đều thế. Cứ việc nhởn nhơ rong chơi khắp chốn, cái ăn tự đến, không thiếu thứ gì. Lại có em luôn bên cạnh, chắc anh phải sung sướng thoả mãn ước vọng của mình bây lâu nay.
Đó là cuộc sống hết sức lý tưởng toại nguyện đối với một kẻ lười biếng mà lại muốn giàu sang, phú quý. Chẳng bao lâu anh đã có một đứa con trai với công chúa Thuỷ Tề.
Bỗng nhiên có lệnh của Thiên Đình mời các Vua Thuỷ Tề, Vua Mặt đất mọi phương đến dự yến tiệc chúc thọ Vua Then - Vua của tất cả các Vua trong ba thế giới: Trời - Đất - Nước. Dạo đó, Vua Thuỷ Tề ốm mệt, nên cử phò mã - anh chàng lười đi thay. Lúc đầu anh ta ngần ngừ không muốn xa vợ con, không muốn vất vả dọc đường. Nhưng sau biết, Thiên Đình là thế giới kỳ lạ, ít người có dịp được thấy, chốn đó còn giàu sang phú quý, huy hoàng gấp bội so với thuỷ cung chật hẹp, lúc nào cũng cảm thấy như bị nhốt trong lồng thuỷ tinh này. Thế là anh chàng vui vẻ nhận lời.
Đã thấy anh ta thực sự hối hận mà thương, nhưng cũng chưa dám tin anh ta hoàn toàn hối cải nên trước lúc chia tay, công chúa dặn chồng: - Trên Thiên giới sẽ thấy nhiều điều kỳ thú hơn thuỷ cung gấp bội, nhưng mong chàng đừng quên nơi đã cứu thoát khỏi nỗi cực nhọc ở mặt đất. Trên Thiên cung có hằng nga và đa số những nàng tiên tuyệt đẹp, những mong chàng đừng sớm quên người vợ đã đồng cảm với hoàn cảnh cực nhọc của chàng, chớ quên hòn máu chung của chúng ta, đứa con trai xinh đẹp của chúng ta đây. Vừa nói xong, một con rồng xanh đã cõng anh chàng bay vụt lên Thiên đường.
Trước mắt anh chàng là những danh lam thắng cảnh kỳ thú, cảnh tấp nập rộn rịp của ngày lễ và biết bao là nàng tiên xinh đẹp. Anh chàng từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hấp dẫn đến mê mẩn tâm thần. Hình ảnh vợ con của thuỷ cung đã bay biến từ lâu. Cuối cùng hắn mê mẩn chạy theo các cô tiên và một cô tiên đã sớm kết hôn với anh chàng si tình này. Hắn đã nhanh chóng hàng ngày cùng vợ tiên ngồi xe du ngoạn khắp nơi, sóng đôi cùng vợ tiên, thăm các vườn tiên, thưởng thức các hoa trái của nhà Trời cho phép. Hắn không còn biết có thời gian.
Nhưng ở thuỷ cung, công chúa Thuỷ Tề thì đếm từng khắc một. Đằng đẵng ba năm trời chẳng thấy chồng quay về. Nàng hiểu ngay những điều phòng ngừa trước của mình đã đúng sự thật và không còn cách cứu nữa. Chỉ còn cách bế con lên trời để thức tỉnh tình nghĩa vợ chồng và cha con trong chàng mà thôi.
Nàng bế con đi và dễ dàng đến được đất Then. Một hôm, vào lúc anh chàng sóng đôi vợ tiên trời dạo ngắm vườn đào, mẹ con công chúa Thuỷ Tề chạy đến đón đường anh ta. Thế là diễn ra cuộc chạn trán giữa nàng tiên trời và công chúa Thuỷ Tề và anh chàng phụ bạc, lòng tham vô đáy kia. Cuối cùng anh ta chỉ có cách vô liêm sỉ là chối từ mọi kỷ niệm và những lời khuyên ân tình sâu nặng của vợ.
Thấy tư cách quá tồi tệ của anh chàng, nàng tiên khinh bỉ bỏ đi, còn lại hai vợ chồng dằng co mãi.
Công chúa Thuỷ Tề nói: - Chẳng nhận vợ cũng được nhưng hãy nhận lấy con!.
Nhưng anh chàng cũng từ chối nốt, người vợ nói: - Nếu sợ phải nuôi con vất vả mà không nhận lấy con thì ít ra hãy cầm lấy tay con, cho nó được chút hơi tay bố bõ công từ chốn thuỷ cung đến tận Thiên giới tìm cha. Anh chàng vẫn một mực từ chối.
Người gác cổng nhà Trời thấy vậy nói: - Thời gian gặp nhau đã hết, sao hai người ngoại giới này vẫn còn ở đây. Ra ngay!
Nói rồi, người gác cổng Then đẩy ba vợ chồng, cha con ra khỏi cổng và đóng sầm cửa lại. Ra ngoài rồi chàng vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn đuổi mẹ con nguây nguẩy chưa chịu nhận.
Người vợ cố kéo chồng đến một gốc cây to, cạnh đó có một hồ nước xanh thẳm, người vợ cố ý muốn gợi trong cái gốc cây đó có một con dao cùn để nhắc nhở anh chàng nhớ lại thủa hàn vi của anh ta. Nhưng anh ta cố ý không chịu nhớ ra mà vẫn khăng khăng đòi quay lại nhà Trời.
Không còn cách nào nữa, người vợ thu lại mọi phép bùa, hoá anh chàng trở lại nguyên hình trong bộ quần áo rách với con dao cùn dắt lưng đang ngồi rũ bên gốc cây ngày nào. Rồi nàng bế con từ từ bước xuống hồ nước bên cạnh, phần thân dưới đã biến thành đuôi thuồng luồng quẫy quẫy tinh sóng cuộn đập vào bờ, xô đến tận gốc cây hắn ngồi. Hắn giật mình nhìn thấy mẹ con thuồng luồng há miệng phun nước phì phì làm nước như muốn lôi hắn xuống hồ. Sợ quá, hắn vội trèo lên cây, nhưng run quá lại trượt tụt xuống kêu plạt, plạt dọc thân cây. Dưới đất sóng nước lại vỗ đến, hắn lại trèo, rồi lại tụt xuống, lại trèo. Cứ như thế không biết bao nhiêu lần plạt diễn ra và biến thành phản xạ tự nhiên. Tiếng plạt - plạt (trượt - trượt) lặp đi lặp lại. Dần dần anh chàng gầy tóp đi, biến hình thành thân con nhái với cẳng chân tay dài ngoẵng và luôn mồm kêu plạt - plạt, plạt - plạt.
Lại nói chuyện người em, đau đớn bất ngờ trước sự tàn ác của người anh, cái kheo chân đứt gân chảy máu đầm đìa, cộng với sự thấm mệt trên mấy ngày đường luôn luôn chạy theo anh, người em ngất lịm. Tỉnh dậy, cơn đau, cơn đói lại ập đến. Ngoái lại bên phải anh nhìn thấy một cái cây vừa tầm với, toàn thân chỉ có một chiếc lá to bằng bàn tay. Như một hy vọng cuối cùng, tự nhiên anh với tay ngắt chiếc lá đó. Ngắt được anh đưa lên miệng nhá cho đỡ khát. Lạ thay, anh thấy tỉnh người, hết mệt mà chỉ cảm thấy đau nhói ở chân. Anh bèn nhả bã dịt lên vết thương. Một lúc hết đau, gân như nối liền lại, vết sẹo tự nhiên lành lặn.
Còn một ít chiếc lá trong tay, có tiếng nói thầm: "Đây là lá quý đây, là thứ nước thuốc thần cứu người chết sống lại". Anh liền cất kỹ vào túi, lấy gai cài lại. Tự dưng anh thấy người lớn hẳn, trở thành chàng trai thực thụ. Anh muốn đi tiếp, cái cây kỳ lạ không còn cản bước anh nữa mà xoay đi một quãng sang phía tay phải, mở ra một lối chếch về tay trái cho anh đi. Chàng trai nghĩ: "Mình sẽ chẳng đi theo con đường người anh đã đi, đó là con đường ác. Cái cây này hẳn có ý ngăn ta đi theo con đường ác đó".
Anh hăm hở đi theo đường của mình chọn. Bắt gặp một ngọn suối chảy xuống núi về mãi phía xa, anh lần theo. Đi một quãng xa, anh gặp một con chó nằm chết dưới một gốc cây to, phần mông chó bị cắn xé nham nhở trơ xương, nhưng phần đầu vẫn nguyên vẹn. Chàng thương hại, ngó đến cái lá đã cứu mình, anh vội lôi ra thử nhá một miếng phun vào con chó. Con vật đứng dậy, nguyên vẹn, con chó vẫy đuôi vui mừng quấn quýt lấy anh. Từ đó, anh có con chó làm bạn đường. Đi mãi một quãng xa nữa, anh lại gặp một con gà. Hình như bị cáo bắt đến đây, toàn thân bị dóc hết thịt chỉ còn nắm xương và lông. Anh lại nhá một miếng lá khác phun vào nắm xương và nắm lông gà. Một con gà sống đẹp vỗ cánh gáy vang vang rồi bay lên đậu lên vai anh. Anh cùng chó, gà đi tiếp. Tới một bản nhỏ, thấy tiêu điều vắng vẻ. Khi đến gần anh thấy tiếng rên trong nhà, anh bước lên nhà thấy cả nhà nằm ngổn ngang chờ chết, lác đác có vài người đã chết. Tất cả các nhà đều có hiện tượng ấy. Bản này bị dịch tả hoành hành, tất cả bị ốm nên chẳng có ai chôn cất người chết nữa.
Để cứu dân bản, anh lấy chiếc lá cắn một miếng, nhá nhá rồi nhổ ra cái bát to hoà thêm nước cho người còn sống uống. Mọi người khỏi bệnh, anh lại hoà miếng khác rẩy lên những người chết, họ sống cả lại. Dân bản xem anh như vị cứu tinh và dành cho anh những lời ca tụng đẹp nhất. Họ còn để anh làm Tạo bản và tìm vợ cho anh. Nhưng cụ già nhất bản, thấy anh là một trang tuấn tú khác thường nên nói với anh và cả bản: - Bản ta cảm ơn anh đã cứu sống, ân nghĩa ấy, biết lấy gì đền đáp cho được! Ta quý mến muôn vàn người con này. Nhưng bản ta nhỏ, mà chàng đây là một trang tuấn kiệt. Chàng phải làm chủ cả một mường lớn mới xứng. Chàng còn phải cứu vớt cả thiên hạ khỏi bệnh tật đói nghèo. Phải xa chàng chúng ta buồn nhớ nhưng để chàng giúp ích được cả toàn thiên hạ, thì hẳn chúng ta đều vui lòng.
Thế là cả bản lưu luyến với chàng, họ tiễn chàng ra đi, chàng đi qua nhiều sông suối và một hôm đến chỗ cửa thành phố to lớn, rầm rập ngựa xe. Nhưng người nào cũng có bộ mặt đưa đám. Khắp chốn người ta xả thịt trâu, bò. Chẳng ai nói với nhau. Lấy làm lạ, chàng hỏi những người đang bận rộn kia: - Chẳng hay mường ta có việc gì mà thịt lắm trâu bò làm vậy. Đã lắm thịt nhiều xôi mà ai nấy lại rầu rĩ thế? Họ ngạc nhiên hỏi anh: - Chẳng nhẽ anh lại không biết sao? Cô con gái duy nhất muôn vàn xinh đẹp là hy vọng của nhà Tạo và cả mường ta đã chết mấy ngày nay. Hôm nay là ngày đưa đám đấy!
Mọi người như muốn bật khóc khi người ấy nói hết. Chàng nghĩ, cái chết của người con gái này làm cả mường buồn đau chắc hẳn đây là người tốt, ta nên giúp chữa. Không biết lá của ta lần này có hiệu nghiệm không? Chàng rẽ đám đông đến nhà Tạo. Vừa lúc người ta khiêng thi hài "công chúa" xuống nhà để mang chôn. Anh mạnh dạn đón đường đám đưa tang và nói to: - Thưa nhà Tạo, thưa tất cả mọi người. Thấy đám tang đau thương này, tôi không thể nào ngồi yên được! Xin Tạo và mọi người cho phép tôi thử chữa lần cuối cũng xem sao, may ra được chăng?
Có người nói: - Đã chết  mấy ngày, còn chữa thế nào được? Chàng đáp: - Tôi đã nói là thử, còn nước còn tát. Còn thi hài đó còn thử xem. Tôi đã từng chữa cho con chó, con gà, mục xương sống lại, cứu cả một làng bệnh dịch khỏi nên mới nói thử xem sao.
Nắp quan tài mở ra, khuôn mặt xinh đẹp của công chúa đã trắng bệch, đôi môi nhợt nhạt mím chặt. Chàng vội nhá miếng lá quý rồi cố cậy môi nàng nhét miếng lá nhá vào và lạ thấy, chỉ lát sau đôi môi động đậy, mắt nhấp nháy rồi mở to, tiếng kêu yếu ớt "Mẹ ơi!" thoát ra từ miệng nàng. Mọi người xúm lại vực nàng dậy và bế ra khỏi quan tài lên nhà. Công chúa sống lại, cả Mường vui mừng.
Ông Tạo sung sướng, gả con gái cho chàng và truyền ngôi Tạo cho chàng. Chàng sống giàu sang phú quý như một bậc Tạo và lại được cả dân Mường tin yêu. Chính lúc này làm cho chàng chạnh lòng nhớ tới người anh. Dù thế nào đi nữa cùng chỉ có hai anh em là ruột thịt mà thôi.
Chàng quyết đi tìm anh bằng được. Người ta chỉ cho chàng cái hốc cây mà người anh từng dùng làm nhà tránh mưa nắng.
Khi đến hốc cây, chàng nhìn thấy con dao cùn. Chàng thốt lên: - Anh ơi! Nay anh ở nơi nào?
Có tiếng đáp: - Plạt - plạt, plạt - plạt !
Nhìn lên cây, chàng thấy một con chẫu chàng nhỏ gầy rạc, cẳng chân cố bám lấy thân cây xù xì, mồm không ngớt "trượt - trượt". Muốn cứu anh nhưng chẳng may lá thần không còn nữa. Người em nhìn chẫu chàng một lúc rồi quay về.

95. SỰ TÍCH CÓC KIỆN TRỜI
Ngày xửa ngày xưa, con cóc vẫn sần sùi xấu xí như ngày nay, nhưng cóc nổi tiếng giữa muôn loài là một con vật tuy bé nhỏ nhưng rất gan dạ. Vào một năm không nhớ rõ năm nào, trời làm hạn hán khủng khiếp. Nắng lửa hết tháng này đến tháng khác thiêu cháy cây cối, hút cạn nước sông ngòi, đầm hồ. Muôn loài không còn một giọt nước để uống. Các con vật to lớn hùng mạnh xưa nay tác oai tác quái trong rừng đều nằm lè lưỡi mà thở để đợi chết, không ai nghĩ được kế gì để cứu mình, cứu muôn loài. Sức mạnh của chúng chỉ để bắt nạt nhau thôi chứ đâu có thể làm gì nổi ông trời. Duy có anh chàng Cóc tía bé nhỏ, xấu xí kia là có gan to. Anh tính chuyện lên thiên đình kiện Trời làm mưa cứu muôn loài...
Khởi đầu chỉ có một mình nhưng anh đâu có nản. Đi qua một vũng đầm khô, Cóc tía gặp Cua càng. Cua hỏi Cóc đi đâu. Cóc bèn kể rõ sự tình và rủ Cua cùng đi kiện Trời. Ban đầu Cua định bàn ngang. Thà chết ở đây còn hơn chứ Trời xa thế đi sao tới mà kiện với tụng. Nhưng những con vật ở quanh Cua nghe Cóc nói lại tranh nhau mà bàn ngang bàn lùi, làm cho Cua nổi giận. Nói ngang bàn ngang là chuyện ngang của Cua thế mà họ lại dám tranh mất cái quyền ấy, cái quyền được phép ngang như cua cơ mà. Thế là Cua làm ngược lại, Cua tình nguyện cùng đi với Cóc.
Đi được một đoạn nữa, Cóc lại gặp Cọp đang nằm phơi bụng thở thoi thóp. Gấu đang chảy mỡ ròng ròng và khát cháy họng. Cóc rủ Gấu và Cọp đi kiện trời. Cọp còn lưỡng lự thì Gấu đã gạt đi mà nói rằng: - Anh Cóc nói có lý, chẳng có lẽ chúng mình cứ nằm ở đây đợi chết khát cả ư... Ta theo anh Cóc thôi. Đến ngang như anh Cua còn theo anh Cóc được thì tại sao chúng mình không theo.
Cả bọn nhập lại thành đoàn. Đi thêm một chặng nữa thì gặp đàn Ong đang khô mật và con Cáo bị lửa nướng cháy xém lông. Cả hai con vật này cũng hăng hái nhập vào đoàn loài vật đi kiện Trời do Cóc dẫn đầu.
Cóc dẫn các bạn đi mãi, đi đến tận cửa thiên đình. Khi đi trên đường cả bọn đều hăng hái nhưng đến trước cửa Trời oai nghiêm, bọn Cọp, Gấu, Cáo, Ong, Cua đều sợ, duy chỉ có Cóc là gan liền dõng dạc ra lệnh: - Bây giờ các anh phải nghe lời tôi. Kia là chum nước của Trời, anh Cua vào nấp trong ấy. Anh Cáo nấp ở phía bên trái tôi, anh Gấu nằm ở phía bên phải tôi, còn anh Cọp chịu khó nằm đằng sau tôi. Các anh có nghe lệnh của tôi thì mới thắng được Trời. Sắp đặt xong đâu đấy Cóc mới nhảy lên mặt trống đánh ba hồi ầm vang như sấm động.
Ngọc Hoàng đang ngủ trưa một cách lười biếng bị tiếng trống lôi đình đánh thức dậy nên bực tức, bắt Thiên Lôi ra xem có chuyện gì. Thiên Lôi lười biếng vội phủi bụi và mạng nhện giăng đầy trên lưỡi búa tầm sét cắm cổ chạy ra. Thiên Lôi ngạc nhiên vì ở ngoài cửa thiên đình chẳng thấy có một người nào cả chỉ thấy mỗi một con Cóc xù xì xấu xí đang ngồi chễm trệ trên mặt trống của nhà Trời. Thiên Lôi hết nhìn con Cóc lại nhìn lưỡi búa tầm sét khổng lồ của mình và thở dài vì cái búa to quá mà Cóc bé quá, đánh chưa chắc đã trúng được. Thiên Lôi bèn cắm cổ vào tâu Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe xong bực lắm bèn sai con gà trời bay ra mổ chết chú Cóc hỗn xược kia.
Gà trời vừa hung hăng bay ra thì Cóc đã nghiến răng ra hiệu, lập tức chàng Cáo nhảy ra cắn cổ gà tha đi mất. Cóc lại đánh trống lôi đình. Ngọc Hoàng càng giận giữ sai Chó nhà trời xổ ra cắn Cáo. Chó vừa xồng xộc chạy ra thì Cóc lại nghiến răng ra hiệu. Lập tức anh Gấu lừng lững xổ ra đón đường tát cho Chó một đòn trời giáng. Chó chết tươi.
Cóc lại thúc trống lôi đình đánh thức Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng bèn sai Thiên Lôi ra trị tội gấu. Thiên Lôi là vị thần trời có lưỡi tầm sét mỗi lần vung lên thì thành sét đánh ngang trời, thành sấm động bốn cõi. Sức mạnh của Thiên Lôi không có ai bì được. Ngọc Hoàng yên trí lần này cử đến ông Thiên Lôi ra quân thì cái đám Cóc, Cáo ắt hẳn là tan xác. Vì thế khi ông Thiên Lôi vác lưỡi tầm sét đi là Ngọc Hoàng lại co chân nằm trên ngai vàng mà ngủ tiếp.
Thiên Lôi vừa hùng hổ vác búa tầm sét ra đến cửa thiên đình thì Cóc đã nghiến răng ra lệnh, lập tức chàng Ong nấp trên cánh cửa bay vù ra và cứ nhè vào mũi Thiên Lôi mà đốt. Nọc ong đốt đau lắm, mũi Thiên Lôi rát như phải bỏng. Nhớ là ở cửa trời có một chum nước. Thiên Lôi vội vàng vứt cả búa tầm sét nhảy ùm vào chum nước chạy trốn. Nào ngờ vừa nhảy ùm vào trong chum nước thì anh Cua càng nấp trong đó từ bao giờ đã chờ sẵn để giương đôi càng như đôi gọng kìm cắp chặt lấy cổ. Thiên Lôi đau quá gào thét vùng vẫy vỡ cả chum nước nhà Trời. Thiên Lôi tìm đường chạy trốn thì Cóc tía lại nghiến răng ra lệnh. Lập tức Cọp nấp sau Cóc tía nhảy bổ ra gầm lên một tiếng vang động xé tan xác Thiên Lôi thành hai mảnh.
Ngọc Hoàng thấy thế sợ quá bèn xin giảng hoà với Cóc, và xin Cóc cho nhận lại xác của Thiên Lôi để cứa chữa. Cóc bằng lòng ngay. Theo lệnh nghiến răng của Cóc, Cọp và Gấu vác xác Thiên Lôi về xếp lại ở giữa sân điện thiên đình. Ngọc Hoàng phải ra tay làm phép tưới nước cam lồ vào cái xác đầy thương tích đó. Nhờ phép của Ngọc Hoàng, Thiên Lôi mới được sống lại. Ngọc Hoàng nghĩ mình đường đường là một ông Trời mà lại chịu thua Cóc thì thật là điều sỉ nhục, nên tính lật lọng, sai Thiên Lôi vác búa tầm sét chống lại Cóc và các bạn của Cóc. Biết thế nào Ngọc Hoàng cũng tính chuyện lật lọng nên Cóc lại nghiến răng. Lập tức các bạn của Cóc dàn trận. Ong giương nọc, Cáo giương nanh, Cọp giương vuốt, Cua giương càng, Gấu giương cánh tay đầy sức mạnh... Thiên Lôi vừa mới thoát chết hoảng quá lui lại không dám tiến lên, mà thụt vào nấp sau chiếc ngai vàng của Ngọc Hoàng. Các tướng nhà Trời oai phong lẫm liệt thấy đến ông Thiên Lôi còn sợ sệt như thế thì hoảng quá tìm kế thối lui.
Thấy tướng nhà trời của mình như vậy, Ngọc Hoàng biết không thể thắng nổi Cóc và các bạn của Cóc. Đến lúc bấy giờ Ngọc Hoàng mới thực bụng giảng hoà, và hỏi Cóc lên tận thiên đình có việc gì. Cóc oai phong nhảy hẳn lên tay ngai vàng và dõng dạc thưa: - Đã bốn năm nay ở dưới trần gian hạn hán kéo dài, không một giọt mưa. Muôn cây khô héo, vạn vật chết khát... Tưởng Ngọc Hoàng bận gì hoặc là Ngọc Hoàng giận gì trần gian mà ra phúc hoạ, ai ngờ lên đây mới biết Ngọc Hoàng và các tướng nhà trời ngủ quên không nhớ đến việc làm mưa cứu muôn vật muôn loài dưới trần thế... Chúng tôi phải lên tận đây đánh thức Ngọc Hoàng, xin Ngọc Hoàng làm mưa ngay cho trần gian được nhờ.
Thấy Cóc nói giọng oai phong và bạn bè Cóc lại đằng đằng sát khí, Ngọc Hoàng vội cuống quýt chống chế: - Cóc với ta là chỗ thân thích, việc gì mà cậu phải mất công đến như vậy, ta sẽ sai thần mưa, thần gió xuống hạ giới làm mưa ngay bây giờ... Cậu Cóc có bằng lòng thế không nào. Cóc gật gù thưa: - Muôn tâu Ngọc Hoàng, trần gian được một trận mưa cứu khát thì còn gì bằng nữa... Anh em tôi vô cùng đội ơn Ngọc Hoàng... Nhưng nếu ở hạ giới mà hễ bị hạn hán là bọn anh em chúng tôi lại lên đây kêu với Ngọc Hoàng đấy.
Nghe Cóc hẹn lại lên thiên đình, Ngọc Hoàng hoảng hồn rối rít lắc đầu xua tay: - Thôi khỏi, thôi khỏi phải bận đến cậu như thế... Chỗ cậu và ta là tình thân thích, cậu chả nên bầy vẽ vất vả mệt nhọc như vậy làm gì. Cậu không phải lên thiên đình nữa... Khi nào có hạn hán cậu muốn ta làm mưa, cậu chỉ cần ngồi dưới đất nghiến răng là ta nghe thấy liền.
Để chứng tỏ lòng thành thật không lật lọng của mình, Ngọc Hoàng sai rồng đen bay xuống phun mưa, và đưa Cóc cùng các bạn về hạ giới. Cơn mưa cứu hạn làm cây cối tươi tốt, muôn loài nhảy múa chào đón anh em Cóc trở về.
Từ đó hễ Cóc nghiến răng là trời lập tức đổ mưa; nên đồng dao của trẻ nhỏ ngàn năm vẫn có câu hát rằng: Con Cóc là cậu ông Trời / Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho

96. SỰ TÍCH SÔNG KỲ CÙNG
Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con. Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng định vứt đi, nhưng người vợ ngăn lại: - "Đừng vứt, cứ để cho nó nở xem thử con gì". Bèn đưa về bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp. Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh. Thấy vậy, người chồng định đánh chết, nhưng vợ ngăn lại: - "Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi nuôi chúng làm con". Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người, đi đâu cũng đi theo. Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to bằng ngón tay.
Một hôm người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ kêu lên: - "Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên chân ông lão làm gì cho khổ thân thế này!". Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ hơn con kia.
Hai con càng lớn càng ăn khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn, một hôm chồng bảo vợ: - "Thôi! Ta đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày mang họa". Hai vợ chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói: - Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ không đủ sức nuôi các con nữa! Cặp rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm ầm, các loài thủy tộc ở các nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng về báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy tề cho cai quản khu vực sông Tranh.
Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông Cộc. Tuy mọi thứ cần dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh thoảng bắt súc vật và người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày một trở nên ngang ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy nước nổi sống dữ dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có xảy ra tai nạn, hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông hết lời van vái con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi chứng nào vẫn tật ấy.
Một hôm, có hai vợ chồng một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng dưng từ dưới nước có hai người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một mâm lễ vật. Chúng đặt mâm xuống trước mặt anh học trò và nói: - "Đây là lễ vật của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế này, nhưng chỉ muốn nhà thầy vui lòng nhường lại cho người vợ". Người học trò chưa bao giờ nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát: - "Về báo với đức ông chúng mày hãy mau mau bỏ thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta lại sợ loài quỷ quái".
Chưa dứt lời đã không thấy hai người con gái đâu nữa. Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe những câu chuyện về ông Dài, ông Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền bước lên bờ. Nhưng Ông Cộc đã nói là làm. Thấy con mồi đã lên bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm cho họ không thể tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó. Mưa bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ lại đó.
Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng họ Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm cách trả thù. Trải qua bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng gặp một ông thầy bói hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin một quẻ về gia sự. Thầy bói gieo quẻ, nói: - "Nhà ngươi đang có sự lo buồn". Anh đáp lời: - "Xin thầy cứ cho biết". - "Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất". - "Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở đâu? và có cách gì cứu được vợ tôi không? " - "Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long hầu vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà ngươi trả được mối thù. Ta đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế nhưng không thể làm loạn chính pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm được chứng cớ đầy đủ".
Người học trò tưởng không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu, rồi bước theo bén gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước đưa anh đi mãi, đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông hỏi: - "Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm tin không?" Người học trò đáp: - "". Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm lấy đi ngay. Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và nói: - Vợ người vẫn một lòng một dạ với người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều đình đánh trống "đăng văn", khi đưa nàng ra đối chất, tự nàng sẽ tố cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn kiện mới được.
Chưa đầy ba ngày, vụ kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương thị lại vạch tội hắn trước tòa án vua Thủy tề, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một đứa con. Vua Thủy tề khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng nổi giận. Vua thét: - "Hãy bắt nó đày đi thật xa cho đến tận cùng của đất nước!". Dương thị được đưa trở về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc nuôi.
Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa phương: - "Đây là đâu" Họ đáp: - "Nơi đây đã sắp hết địa phận nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác". Ông Cộc bảo quân lính áp giải: - "Vậy là đã đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây". Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng luồng trấn trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào cho đến thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp, sinh mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai.
Thấy thế, những quân lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy tề biết. Cuối cùng việc lại đưa đến tòa án cho vua Thủy tề. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.
Nhưng thần thuồng luồng vẫn chưa hết giận, vì cho rằng tự dưng vô cớ bị chia sẻ quyền hành là do ông Cộc mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc. Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt. Về sau vua Thủy tề giận thuồng luồng "bất tuân thượng lệnh", bèn sai quân kéo tới bắt sống, xích lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả hai khu vực.
Ngày nay, bên bờ nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích, nhưng đã đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.

97. SỰ TÍCH SAO HÔM SAO MAI
Xưa có một anh tiều phu nọ đến suối thình lình gặp một bầy tiên đang tắm. Tiên vội khoác áo bay về trời, còn sót lại một cô bay không được vì bộ áo của cô bị anh tiều phu giấu. Nhờ vậy, anh tiều phu nọ bắt cô tiên nọ về làm vợ. Anh giấu bộ quần áo thật kỹ dưới đáy bồ lúa, sợ vợ thấy được, sẽ mặc áo bay trở về trời.
Họ sinh được đứa con trai. Một Hôm, anh tiều phu đi vắng nhằm lúc ở nhà có người đến xin lúa. Khi xúc tới đáy bồ, bộ xiêm y lòi ra. Vợ hết sức mừng rỡ, mặc vào rồi nói lại với đứa con: - Mẹ đây cốt tiên, không thể nào ở mãi dưới trần thế được. Con đừng buồn, Mẹ để lại cho con cái lược này làm dấu tích. Dứt lời nàng bay mất.
Anh tiều phu về, hay được sự tình, ngã lăn ra khóc lóc rất thảm thiết. Từ đó, ngày ngày, anh dắt con ra suối tìm hình dáng người xưa. Suối đó vốn là suối tiên. Khi về được nơi tiên giới rồi, nàng tiên nọ không dám trở lại nữa, nên sai Ngọc Nữ xuống múc nước thế cho mình.
Bữa đó hai cha con anh tiều phu gặp hai cô gái đang múc nước tại suối. Anh hỏi han tin tức nàng tiên, hai cô nọ trả lời không biết. Trong lúc nói chuyện qua lại đứa con anh làm rớt cây lược vào trong hũ nước. Khi hũ nước đem về tiên giới, nàng tiên nhận ra chồng con mình. Nàng nói: - Ngọc Nữ hãy đem cái khăn này xuống cõi trần, bảo anh tiều phu và đứa con bịt nó ngang đầu, khăn phép này sẽ giúp họ đằng vân về đây. Anh tiều phu làm y theo lời.
Quả nhiên đến cõi tiên gặp mặt vợ. Sau phút sum họp, nàng tiên nói: - Ta là tiên, chàng là khách tục. Hai ta không thể xum họp được hôm nay chỉ tạm gặp mặt nhau, rồi đây phải từ biệt.
Nàng tiên bèn thiết tiệc rồi bảo chồng và con lên ngồi trên một cái trống lớn có cơm đem theo để ăn dọc đường. Trên này có dây thòng xuống. Khi nào đến mặt đất thì anh phải đánh trống lên để trên này biết chừng mà chặt đứt dây.
Trống được thả xuống giữa trời. Bỗng nhiên, có con quạ thấy đứa bé đang ăn cơm nên bu lại mổ vào. Trống kêu lên tung tung. Trên trời, ngỡ là chồng và con đã xuống tới đất an toàn, nàng tiên liền chặt đứt dây, hai cha con anh tiều phu té xuống biển mà chết.
Khi biết sự việc, nàng tiên vô cùng đau sót, nàng vật vã đêm ngày vì thương chồng thương con, rồi lâm bệnh mà chết. Ngọc Hoàng thương cảm cho mối tình của họ đã biến chàng tiều phu thành sao Hôm, nàng tiên biến thành sao Mai, còn đữa con biến thành đòn gánh giữa sao Hôm và sao Mai để nhắc nhở mối tình đau thương của họ.

98. SỰ TÍCH CHÙA HƯƠNG
TRÊN NÚI NGÀN HỐNG
Vua Trang Vương nước Sở chỉ sinh được ba người con gái, khi các công chúa đến tuổi cập kê, Trang Vương xuống chiếu kén phò mã để giúp mình lo việc nước. Hai công chúa là Diệu Thanh và Diệu Am đều vâng lời, lấy hai đại thần trong triều làm chồng. Riêng công chúa thứ ba là Diệu Thiện bị ép lấy một tên quan tham lam, gian ác. Tên này thường bày mưu tính kế xui Trang Vương làm nhiều điều bạo ngược, Vua không rõ bản chất của nó nên vẫn tin dùng. Tuy là người con hiếu thảo, nhưng Diệu Thiện một mực từ chối, không chịu làm vợ đứa vô liêm sỉ ấy. Vua cha hết lời khuyên, khuyên không được thì doạ nạt, nhưng Diệu Thiện vẫn cự tuyệt. Nàng tâu bày: -Con thà xin cam tội bất hiếu với phụ vương, nhưng con không thể nào ăn ở với người bạc phúc ấy được.
Trang Vương bảo: - Hắn là viên quan tài trí, hết sức trung thành, giúp ta giữ gìn ngôi báu. Con hãy vì ta mà kết duyên với hắn. Diệu Thiện lại thưa: -Xin cúi đầu lạy phụ vương soi xét, nếu chỉ vì phụ vương muốn đền công lao cho hắn mà bóp nát cuộc đời con, bắt con phải chung sống với tên bạo ngược ấy, con xin đập đầu chết trước mặt phụ vương.
Nàng nói đến đó thì khóc nức nở. Nhưng Trang Vương vẫn hằm hằm giận phán: - Đứa con gái bất hiếu kia, mi hãy đi cho khuất mắt ta! Từ đó nhà Vua đối xử với cô hết sức tàn tệ. Bà mẹ dù có thương nàng cũng không dám bênh vực. Rồi cha truyền giam công chúa ngoài vườn. Hoàng hậu và hai chị trốn ra thăm, khuyên nhủ nàng nên vâng lời Vua cha, nàng vẫn cương quyết không nghe. Quá phẫn uất, nàng tìm cách quyên sinh để thoát khỏi cảnh khổ nhục.
Một hôm thị tì biết chuyện liền thưa: - Công chúa ơi, không nên phí tấm thân vàng ngọc của mình. Công chúa hãy tạm lánh một nơi nào đó ít lâu, chờ cho Thánh hoàng nguôi giận, hãy tâu bày lại với người.
Biết Vua là người bạo ngược không bao giờ tha thứ cho mình, nếu trốn đi, nhưng công chúa cũng nghe lời thị tì, nhờ cô ta nhân đêm tối, tìm cách đưa nàng ra khỏi nơi cung cấm.
Người thị tì dẫn nàng đến một ngôi chùa lớn ngoài kinh thành. Sư cụ nghe nàng bày tỏ sự tình thì lo sợ bảo: - Công chúa ơi, nỗi éo le của công chúa thì bần tăng đã có nghe, nhưng không ngờ đến nông nỗi này. Tình cảnh của công chúa thật đáng thương. Song nếu bần tăng để công chúa ở lại thì nhà chùa ắt không tránh khỏi tai vạ.
Nghe vị sư già nói đến đây, Diệu Thiện biết không nên để vì mình mà người khác mang hoạ, bèn cảm tạ rồi quay gót trở ra. Nàng vừa đi được mấy bước thì nghe thấy tiếng sư cụ gọi: - Xin mời công chúa cứ vào chùa, bần tăng sẽ thu xếp. Nàng ngập ngừng nói: - Nhưng phụ vương tôi là người nhẫn tâm lắm. Lỡ ...
Nhà sư đáp: - Điều đó thì bần tăng cũng có biết. Song, đây là cửa từ bi, lẽ nào... vả chăng, có sao thì Phật tổ cũng chứng giám và ra tay cứu giúp, công chúa yên tâm... Thế là Diệu Thiện ở lại chùa, dốc lòng đọc kinh niệm Phật, mong lãng quên cuộc đời đau khổ.
Trong khi đó, Trang Vương sai người dò la tin tức con gái, biết nàng đang trụ trì trong ngôi chùa kia, liền mật lệnh cho vị sư chủ trì bắt công chúa làm lụng sớm khuya rất nặng nhọc để công chúa hối tâm về nhà. Nhưng Diệu Thiện không nản chí: ngày đêm ni cô ngày không ngớt toạ thiền niệm Phật rồi gánh nước, nhặt rau, nấu cơm, quét nhà, làm mọi việc trong chùa. Những lúc công việc bề bộn, chim tới nhặt rau, rồng đen lấy nước giúp Diệu Thiện.
Nhiều tuần lễ trôi qua, thấy Diệu Thiện không bỏ chùa về cung, Vua nghi ngờ các vị tăng trong chùa không tuân lệnh Vua mà đoạ đầy công chúa, lại bị tên quan gian ác đang tức giận vì công chúa ruồng rẽ, xúc xiểm. Vua liền hạ lệnh đốt chùa. Chính tên quan ấy đã được Vua giao cho ba nghìn quân đi trừng phạt lũ tăng ni "khi quân" và đứa con bất hiếu.
Đến nơi, hắn cho quân vây chặt bốn phía,  rồi cho phóng hoả đốt chùa. Diệu Thiện tự cho mình là nguyên do khiến cho chùa bị đốt, liền cắn tay ngửa mặt lên trời mà cầu nguyện. Lửa đang cháy ngùn ngụt, hàng mấy trăm nhà của ngôi chùa và năm trăm tăng ni tưởng sẽ biến thành một đống tro tàn, bỗng rồng lượn xuống phun nước làm tắt lửa. Năm trăm tăng ni vẫn điềm nhiên ngồi gõ mõ, đọc kinh như thường. Bọn quân của triều đình thấy thế, đều kinh sợ chạy. Chúng đâu có hiểu rằng, Phật đã ngăn chặn bàn tay tội ác của chúng, che chở cho các tăng ni.
Vua xuống lệnh đem Diệu Thiện ra xử chém. Nhưng lưỡi gươm của đao phủ gãy đôi khi chạm vào cổ của Diệu Thiện. Bỗng nhiên, trời tối sầm lại, sấm chớp giông tố nổi lên, một con mãnh hổ nhảy vào mang Diệu Thiện đi mất.
Mãnh hổ mang Diệu Thiện lên một hòn núi, đặt nàng lên một hòn đá phẳng lì, rồi bỏ đi. Trong lúc thiêm thiếp, Diệu Thiện thấy nàng đi xuống âm phủ, qua 18 cửa địa ngục, chứng kiến biết bao cảnh trừng phạt đau đớn dưới địa ngục của những người gây bao tội ác, tàn nhẫn lúc còn sống ở dương gian. Diệu Thiện nghĩ là mình đã bị Vua cha xử trảm, đã chết, bây giờ linh hồn đi xuống địa ngục. Bỗng xứ giả chỉ cho Diệu Thiện biết đây là ngục xe lửa và ngục cột đồng để trừng phạt những viên chức hại dân: Xe lửa là ngục hoả xa / Quay đi quay lại thịt da tan tành / Bởi vì cậy thế cậy thần / Hiếp kẻ cô quả cướp tranh ruộng vườn / Cột đồng là ngục đốt than / Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm. Còn đây là ngục kéo lưỡi, trừng phạt những người ăn nói đảo điên: Kìa ngục bạt thiên lạ sao/ Cầm kìm lôi lưỡi máu đào mà kinh/ Bởi vì miệng lưỡi co quanh/ Đảo điên đơm đặt làm  khuynh hãm người.
Chứng kiến tất cả đau khổ đó, Diệu Thiện rất đau xót, càng quyết tâm trì chú niệm Phật tu hành. Sau đó hồn Diệu Thiện trở về dương gian, nhập vào xác trở lại. Đang phân vân chưa biết đi về hướng nào thì Phật Tổ Như Lai hoá thân làm một chàng trai tuấn tú, tới gần kề thử nàng lần nữa về chuyện kết nghĩa trăm năm. Khi thấy Diệu Thiện tâm nguyện vững chắc, Phật lại sai mãnh hổ đưa nàng về phương Nam. Chỉ một đêm, nàng đã đến trước một cửa hang trong dãy Ngàn Hống, thuộc đất Việt Thường, hang không rộng lớn, nhưng sâu hun hút, tối om. Trước cửa hang, mái đá nhô ra như mái nhà. Cảnh quan ở đây: Núi non ngân ngất mịt mù/Âm thanh cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây/Trên thì trăm sắc tầng mây/Dưới thì bể nước trong đầy như gương/Cá chim chầu lại tĩnh đường/Hạc thường hiến quả, hươu thường dâng hoa.
Trong khi Diệu Thiện đang còn bỡ ngỡ trước cảnh non xa nước lạ, thì bỗng nghe văng vẳng có tiếng người kêu cứu trong hang. Nàng quên hết sợ hãi, lao vội xuống. Nhưng đó chỉ là Phật thử thách lòng hỉ xả của nàng để giúp cho nàng tu luyện mà thôi.
Từ đó Diệu Thiện lập am dưới mái đá trước cửa hang. Ngày ngày đọc kinh niệm Phật và đem hết sức mình làm điều thiện. Chẳng bao lâu lòng bác ái của vị sư nữ  Ngàn Hống truyền khắp cõi Việt Thường và cả nước lân Quốc. Sau nhiều năm tu đạo, bà thành Phật Quan Âm Nam Hải, ngồi trên toà sen báu: Thần thông biến hoá tự nhiên / Một thân hoá được ra nghìn muôn thân / Mắt trông khắp hết cõi trần / Lắng tai nghe thấu xa gần bốn bên.
Sau này, Sở Trang Vương bị bệnh nan y. Thầy thuốc cả nước đều bó tay, thuốc tốt bốn phương đều không hiệu nghiệm. Vua yết bảng lương y, hứa rằng hễ ai chữa lành bệnh cho Vua thì sẽ được trao ngôi báu. Không có thầy thuốc nào chữa được. Cuối cùng, Diệu Thiện, bấy giờ là Quan Thế Âm Bồ Tát, biến thành một lương y, sang kinh thành nước Sở, giật bảng yết, xin vào cứu Vua. Xem mạch xong, lương y nói: - Bệnh này không thể chữa trị được, vì nhà Vua làm nhiều điều ác, ác khí ngấm nhập vào người đã thành ung, nay chỉ cần một mắt một tay của người con gái, mới mong khỏi được.
Cả triều đình khắp văn võ bá quan không ai làm điều đó. Ngay hai công chúa mà Vua thương cũng không làm điều đó. Nhà Vua buồn lắm. Bệnh mỗi ngày một nặng thêm.
Lương y nói: - Vậy hãy sang Việt Nam đến chốn Việt Thường, lên núi Hương Tích mà xin mắt xin tay. Thần cam quyết rằng, nếu Vua cho người tới xin, vị sư ấy sẵn sàng bố thí.
Vua giữ lương y ở lại và cho người đi qua Nam Việt, lên chùa Hương Tích xin được một mắt một tay của vị sư nữ đem về. Nhưng bệnh chỉ thuyên giảm có nửa thân hình. Lương y bảo phải xin nốt con mắt và cánh tay còn lại của vị sư nữ kia thì ai cũng thấy như vậy quá đáng. Nhưng lương y quả quyết rằng, vị bồ tát xả thân cứu người, nên thế nào qua cũng xin được. Kết quả là sư nữ bố thí con mắt và cánh tay còn lại.
Vua khỏi bệnh, định làm lễ truyền ngôi cho lương y. Nhưng chưa thực hành được lời cam kết thì lương y đã bỏ đi mất rồi.
Sau khi bình phục, Vua và hoàng hậu lên đường qua Nam Việt tới núi Hương Tích để tạ ơn sư nữ. Trong khi Hoàng gia đang trên đường đi tới dãy Ngàn Hống, thì kinh đô nước Sở có biến. Phật bà Hương Tích dùng thần thông thấy được, đã sai các đệ tử đem pháp  thuật sang giải cứu, đồng thời cứu thoát Diệu Thanh và Diệu Am. Hai người này đều bị quân phiến loạn bắt giam nơi ngục tối. Hai công chúa được cứu thoát liền tháp tùng theo đoàn Hoàng gia.
Vượt qua bao nhiêu núi non hiểm trở, phái đoàn Hoàng gia tới được dãy Ngàn Hống, lên chùa Hương Tích. Cảnh tượng thật là trang nghiêm u nhã. Vào được tới động ngoài, Vua, hoàng hậu và các công chúa chờ đợi để được tiếp nữ Bồ Tát quảng đại hỉ xả từ bi. Trang Vương lên tiếng, nhưng từ phía động không có tiếng trả lời. Vua nghĩ mình là đàn ông, không tiện bước vào động trong, nên bảo hoàng hậu và hai công chúa bước vào trước để làm lễ tạ ơn sư nữ.
Lúc đó Phật bà Nam Hải hiện thân là công chúa Diệu Thiện, đứng thẳng giữa động, hai mắt bị móc, hai tay bị cắt, máu chảy ròng ròng. Nhận ra con mình trong hoá thân ấy, hoàng hậu khóc và ngã ra bất tỉnh. Hai công chúa và cha cũng khóc.
Thấy tình cảnh như vậy, Diệu Thiện nói rằng, mình đã móc mắt và cắt tay để cứu cha, nhưng nếu như cha mẹ phát nguyện bỏ ác làm lành, tu hành theo đạo Phật, thì nàng sẽ có mắt và tay nguyên vẹn trở lại. Vua cha và hoàng hậu phát nguyện. Lập tức tay mắt của Diệu Thiện trở lại y nguyên như cũ, và đó là vị Quan Âm Nam Hải Bồ Tát.
Cả nhà ở lại tu hành tại chùa Hương Tích trên núi Ngàn Hống. Sau đó Diệu Thanh trở thành Văn Thù Bồ Tát, cưỡi con sư tử xanh và Diệu Am trở thành Phổ Hiền Bồ Tát, cưỡi con voi trắng .
Phật Quan Âm Hương Tích có hai đệ tử nhỏ: Thiện Tài, em bé trai mồ côi từ nhỏ xin theo bà, và Long Nữ, em bé gái con của Long Vương đội lốt Lý Ngư mắc cạn, được bà cứu vớt, trả về thuỷ cung, sau trở lại xin theo bà để tu hành.
Chuyện nàng Diệu Thiện tu hành tại Ngàn Hống ở ngọn núi Sư Tử để trở thành Quan Thế Âm Nam Hải Bồ Tát đã lâu lắm rồi. Cuộc đời nàng ra sao, quá trình nàng tu hành thế nào, chưa ai rõ tường tận. Nhưng không ai quên được đức độ của nàng. Nàng đã để lại tiếng thơm trên đời, nên nơi nàng tu hành được gọi là động Hương Tích (dấu thơm).
Đã lâu rồi cứ ba năm một lần, vào ngày 18 tháng 2 âm lịch - ngày Diệu Thiện thành Phật - nhân dân tổ chức hội chùa. Hội chùa Hương Tích rất vui, thu hút hàng nghìn người. Bà con ở Châu Hoan, Châu ái, Châu Bố Chính và nhiều nơi khác về dự.

99. SỰ TÍCH NHẬT THỰC VÀ NGUYỆT THỰC
Ngày xưa, gia đình nọ có ba anh em trai. Hôm nào ba anh em cũng dành phần cơm đặt 1 bát cho các vị tu sĩ khất thực. Một hôm, hai người anh bảo người em út nấu cơm, nhưng vì củi bị mưa ướt nên người em út nhóm mãi lửa không cháy được. Đến khi các vị tu sĩ đi khất thực ngang nhà mà cơm vẫn chưa chín.
Không có cơm để đặt bát cho các tu sĩ, hai người anh giận lắm, quát mắng và lấy vá xúc cơm đánh vào đầu người em út. Người em út bị các anh đánh, tủi thân bỏ ra bờ con sông lớn sau nhà ngồi khóc. Nhìn nước sông chảy xiết, người em út nguyện kiếp sau được hoá thành người có sức mạnh như dòng nước chảy để không ai bắt nạt được mình.
Hai người anh thấy em bỏ ra bờ sông ngồi khóc bèn theo ra xem xét. Nghe em cầu nguyện như vậy, hai người anh lấy làm lo lắng và từ đó họ luôn cầu nguyện được hoá thành những người có sức mạnh hơn dòng nước chảy để em mình không làm hại được.
Về sau, lời nguyện cầu của ba anh em nọ đều được toại nguyện. Người anh cả được hoá kiếp thành Pờ-rặc A-tít, tức là mặt trời, người anh thứ hoá kiếp thành Pờ-rặc Chanh tức là mặt trăng, và người em út hoá thành Rìu-hu, một người to lớn, mặt mũi nhăn nhó xấu xí, có sức mạnh vô địch, không ai có thể ngăn cản, chống chọi lại nổi. Người anh cả trở thành mặt trời chiếu ánh sáng vàng rực rỡ như màu chiếc bát vàng mà thuở trước anh ta thường dùng đựng cơm "đặt bát" cho các tu sĩ. Người anh thứ hai trở thành mặt trăng có ánh sáng trắng bạc như chiếc bát bạc của mình đựng cơm. Còn người em út thuở trước thường dùng cái gáo dừa để dâng cơm cho các tu sĩ nên trở thành thần Rìa-hu to lớn với diện mạo nhăn nhó dị kỳ.
Một hôm, rắn thần Niét đánh nhau với chim thần Ma-ha-Kờ-ruốt. Chim thần bị thua bỏ chạy và đến cầu cứu Rìa-hu giúp sức. Rìa-hu đánh với rắn thần và rắn thần bị thua phải bỏ chạy. Rìa-hu đuổi theo rắn thần. Khi chạy ngang qua hồ nước trường sinh Sơ-ra-ma-rít, dành riêng cho đức Phật, Rìa-hu khát nước quá bèn ghé xuống hồ uống nước. Rắn thần đến cầu cứu thần Pờ-rặc In giúp mình. Lúc đó thần Pờ-rặc In nhìn ra, thấy Rìa-hu đang uống nước trường sinh mà không hề xin phép mình, tức giận dùng con chốt gió ném đứt đôi Rìa-hu. Nửa dưới thân hình Rìa-hu chìm sâu xuống đáy hồ, còn nửa trên từ ngực trở lên, nhờ uống nước trường sinh nên không chết, vội vã bay thoát. Từ đó, phần nửa người Rìa-hu bay đến đâu gây nên bão, gió, tai hoạ cho người đến đó.
Đối với hai người anh, Rìa-hu vẫn nuôi trong lòng mối thù đã ức hiếp mình từ kiếp trước, nên hễ có dịp là Rìa-hu đuổi bắt "ăn tươi nuốt sống" mặt trời và mặt trăng. Nhưng vì Rìa-hu chỉ còn nửa người, cho nên khi "nuốt" mặt trăng hay mặt trời thì sau đó mặt trăng hay mặt trời lại thoát ra ở cuống họng. Đó là hiện tượng nguyệt thực và nhật thực ta thường thấy.

100. SỰ TÍCH ĐỀN CỜN
Ngày xưa, có ông vua của nước láng giềng tên là Đế Bính. Vua lên ngôi giữa lúc đất nước có nạn binh đao. Quân giặc rất đông và rất mạnh. Quân đội nhà vua đánh đuổi không nổi đành chịu thất bại. Vì thế giặc tiến rất nhanh, chẳng bao lâu chúng đã chiếm được kinh thành. Vua tôi Đế Bính chỉ còn cách đưa nhau chạy trốn. Trong cơn nguy cấp, một trung thần đã đưa nhà vua cùng hoàng hậu lên thuyền kéo buồm chạy trốn ra biển khơi. Không ngờ mới đi được một ngày thì cơn bão bất thần ập xuống đánh đắm đoàn tàu. Những người trên tàu không thoát khỏi tai nạn, kể cả Đế Bính. Chỉ còn lại hoàng hậu và hai công chúa xinh đẹp bám được vào một mảnh ván đành để cho sóng nước trôi dạt.
Hồi ấy ở vùng Cửa Cờn, xứ Nghệ có một ngôi chùa cổ dựng trên một hòn đảo. Trong chùa có một ông sư trụ trì. Là người quyết chí tu hành nên sư ta tìm đến ngồi chùa hẻo lánh này để giũ sạch bụi trần, ngày ngày kinh kệ.
Hôm ấy, trời đã về chiều. Sư ta đang thong thả đi dạo quanh chùa miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay lần tràng hạt thì trông thấy ngoài khơi có vật gì bập bềnh trên mặt nước. Nhà sư cố nhìn đến đoán xem đó là cái gì. - Có thể là người bị nạn. Sau trận bão vừa qua có bao nhiêu là ván và đồ đạc trôi vào bờ. Ta phải đến tận nơi xem sao, may ra cứu được một mạng người thì thật là "phúc đẳng hà sa". Nghĩ vậy, sư vội vàng xuống thuyền chèo ra khơi. Một lát sau, sư đã đến gần và nhận thấy đó là ba người đàn bà đang bám vào một mảnh gỗ. Lập tức, sư đỡ từng người lên thuyền của mình. Nhìn trang phục của họ, sư đoán là những người thuộc dòng quyền quý.
Khi thuyền quay về đến đảo, sư vực từng người lên chùa đốt lửa cho họ sưởi, lại nấu cháo nóng cậy miệng đổ vào. Sự tận tình cứu chữa của nhà sư không uổng, đến nửa đêm, cả ba người đàn bà dần dần tỉnh dậy. Sư vẫn ân cần chăm sóc chu đáo. Đến sáng thì cả ba người tỉnh hẳn và có thể tự mình đứng dậy được. Họ cho sư biết họ là ba mẹ con đi thuyền không may bị đắm. Tuy họ không nói ra mình là ai những trông họ xinh đẹp và đài các. Khi biết sư là ân nhân cứu mạng, ba người đàn bà bèn cúi rạp xuống lạy tỏ ý cảm ơn. Nhà sư vui vẻ nhường cho họ chỗ nằm trong tăng phòng rồi lui ra ngoài nghỉ ngơi.
Những ngày đầu khi ba người còn yếu nhà sư vẫn hết lòng chăm sóc họ. Họ dần dần đi lại được và ăn trả bữa. Có bao nhiêu lộc chùa, sư đều lấy ra khoản đãi, sư còn chèo thuyền về đất liền để tìm mua những thứ mà nhà chùa không có. Nửa tháng trôi qua, sức khoẻ của họ đã trở lại bình thường. Họ chỉ hàng ngày ngồi than khóc. Nhưng về phía nhà sư thì trong lòng bị xáo trộn. Chưa bao giờ sư được nhìn thấy những người đàn bà mày ngài mắt phượng xinh đẹp đến thế, sư đâm ra thẫn thờ. Đã nhiều lần nhà sư đọc kinh cầu nguyện suốt buổi, muốn cho lòng mình thanh thản, cố tránh sự cám dỗ nhưng công trình hơn ba mươi năm tu luyện cũng không thể kìm được lòng ham muốn. Vì vậy, việc trả họ về đất liền để trao cho quan sở tại là việc dễ làm nhưng sư vẫn cứ dùng dằng không quyết. Giữa một ngôi chùa trơ trọi vắng vẻ, xung quanh là trời mây non nước, bên cạnh lại có ba người đàn bà xinh đẹp yếu đuối cô đơn, sư cho đó là cơ hội hiếm có. Rồi một đêm thanh vắng, nhân lúc hai cô gái ngủ say, sư bèn đến bên cạnh người thiếu phụ. Nhưng người đàn bà đã nghiêm khắc bảo. - Ôi! Sao lại thế? Sư là người đã cứu sống mẹ con chúng tôi, suốt đời chúng tôi không quên được ơn đó. Nhưng việc đồi bại thì đừng có hòng. Tôi là gái đã có chồng và cũng biết luân thường đạo lý. Còn người là kẻ ăn chay niệm Phật, lẽ nào nói đến chuyện sắc dục mà không thấy hổ thẹn.
Nghe người thiếu phụ nói điều phải trái, sư ta lủi thủi ra ngoài. Nhưng đến nửa đêm, sư lại mò vào, tay cầm một con dao găm: - Nếu không sẽ giết chết cả ba mẹ con rồi vứt xác xuống biển. Lời doạ của sư vẫn không làm người thiếu phụ sợ hãi, nàng gọi hai con dậy và nói to: - Nếu anh cố tình phạm vào người mẹ con chúng tôi thì sẽ phải hối hận. Mẹ con chúng tôi thà chết chứ không chịu nhục. Thấy ba người đàn bà quyết liệt kháng cự và toan đập đầu vào cột chùa, nhà sư đâm ra hối hận. Sự bèn ngăn họ là nói: - Xin mọi người đừng làm thế. Chính ta mới là kẻ đáng chết. Chao ôi! Ta có ba tội đáng chết. Đi tu mà chẳng trót đời: đó là một. Hai là: ép người đàn bà sa cơ lỡ vận. Ép nài không được lại toan hành hung: đó là ba. Ba tội như thế ta chết là đáng lắm. Nói đoạn, sư cầm ngược lưỡi dao đâm thẳng lên cổ.
Thấy cái chết của ân nhân xảy ra quá đột ngột, người đàn bà đã tỏ ra hết sức hối hận. Nàng gục xuống bên cái thây mà than khóc: - Ôi! Ta nhờ người ấy mà sống. Thế mà người ấy vì ta mà chết. Vậy ta còn mặt mũi nào mà sống lấy một mình nữa. Trong cơn xúc động không kiềm chế được, người đàn bà chạy ra khỏi chùa rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Thấy mẹ chết, hai người con gái khóc lóc thảm thiết rồi cũng nhảy xuống biển chết theo.
Mấy ngày sau, những người dân chài ở cửa Cờn vớt được xác ba người đàn bà. Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ những tin tức nhận được, các quan đoán ra đó là ba mẹ con hoàng hậu Đế Bính. Cũng vào lúc ấy, những người dân địa phương tìm thấy xác ông sư tự tử trong ngôi chùa trên đảo. Quan sở tại sau khi mở cuộc điều tra dần dần vén được tấm màn bí mật bao phủ lấy câu chuyện éo le trong ngôi chùa cổ.
Về sau, để tưởng niệm những người đàn bà tiết liệt, dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ, gọi là đền Cờn. Trong đền cũng có cả tượng nhà sư để nhắc đến một kẻ vừa là ân nhân vừa là nạn nhân của họ.
-------------
MỜI NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
Mời thư giãn với nhạc phẩm BỐNG BỐNG BANG BANG
của Nguyễn Phúc Thạch (Ongly C) qua tiếng hát Nhóm 365:



(1) Mường T: nay là xã Thu Sơn huyn Ngc Lc, tnh Thanh Hoá
(1) Làng Nhàng cũng thuc vùng Mường T.
(1) ng sáo Ôi: mt nhc c ca người Mường, truyn này còn có tên là truyn chàng Khun L và nàng U Tim.
1 Đặt bát: Tc là đặt cơm và thc ăn vào bình bát cho các tu sĩ đi kht thc.

0 comments:

Đăng nhận xét