1. SỰ TÍCH LẠC LONG
QUÂN VÀ ÂU CƠ
Cách đây lâu đời lắm, ở
Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ
tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương
Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết
thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên
Sùng Lâm rất khoẻ, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng
như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha,
chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam
còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn
khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam ,
Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài
hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một
lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm,
người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi
nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển,
trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm
giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật
chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem
khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên
giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi.
Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng
vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền
rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long
Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn
núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn
Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân
lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long
Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh,
Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm,
đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây
Long Biên. Con yêu này thường hoá thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt
con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu
cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả
ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc long quân thương
dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó.
Khi Lạc Long Quân về đến
tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền
hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu tinh. Giao chiến luôn ba
ngày ba đêm, con yêu tinh dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân
đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín
đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài
thuỷ tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời
gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân
dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm
trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên
đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong
Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng,
trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau
nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu
tinh này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì
ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn
nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc
than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc
Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm
thấy chỗ ở của con yêu tinh. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm
cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long
Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống nó khiếp sợ và chạy về
phía Tây Nam ,
sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu
quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ
cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dậy cho dân biết cách trồng lúa nếp,
lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn
dậy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân
một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở,
thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay!"
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ
phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam . Ðế Lai đem theo cả người con
gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh
tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp
lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng
về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao
không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc
Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi
vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ
thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh
đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin
đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình,
trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp
nơi. Hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn
các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu
quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu
Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở
ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai
đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua,
Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thuỷ phủ. Một
hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên
mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi
được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ
mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về. Nhớ chồng quá, Âu Cơ
đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi
sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức
khắc. Âu Cơ trách chồng: - Thiếp vốn sinh
trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ
lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói: - Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở
với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi
con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu
gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau,
trăm người con toả đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách
Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy
hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là
lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương.
Ngôi vua đời đời gọi chung danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người
mở mang cõi Lĩnh Nam ,
đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười
tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình
là dòng giống Tiên Rồng.
2. SỰ TÍCH HỒ HOÀN
KIẾM
Vào thời giặc Minh đặt
ách đô hộ ở nước Nam .
Chúng coi dân ta như cỏ rác, thi hành nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm
giận đến tận xương tủy. Bấy giờ ở vùng Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy chống lại
chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan
tác. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết
giặc. Hồi ấy ở Thanh Hóa có một người làm nghề đánh cá tên là Lê Thận. Một đêm
nọ, Thận thả lưới ở một bến vắng như lệ thường. Tự nhiên trong một lần kéo
lưới, chàng thấy nằng nặng, trong bụng mừng thầm chắc là có cá to. Nhưng khi
thò tay bắt cá, Thận mới biết đó là một thanh sắt. Chàng vứt luôn xuống nước
rồi lại thả lưới ở một chỗ khác. Lần thứ hai cất lưới lên cũng thấy nặng tay.
Thận không ngờ thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình. Chàng lại nhặt lên và
ném xuống sông. Lần thứ ba lại vẫn thanh sắt ấy mắc vào lưới. Lấy làm quái lạ,
Thận ghé mồi lửa lại nhìn xem. Bỗng chàng reo lên một mình: - Ha ha! Một lưỡi gươm!
Thận về sau gia nhập
đoàn quân khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử nơi trận mạc để
diệt lũ cướp nước. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà
Thận. Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở xó nhà. Lấy
làm lạ, Lê Lợi đến gần cầm lấy xem và nhận ra có hai chữ "Thuận
Thiên" khắc sâu vào lưỡi. Song tất cả mọi người vẫn không biết đó là báu
vật. Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một
ngả. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây
đa. Lê Lợi trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi
gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi giắt vào lưng. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp
lại tất cả các bạn, trong đó có Lê Thận. Khi lắp lưỡi vào với chuôi thì kỳ lạ
thay, vừa vặn khớp nhau. Lê Lợi bèn kể lại câu chuyện. Mọi người nghe xong đều
hồ hởi vui mừng. Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ tướng: - Đây là thần có ý phó thác cho "minh
công" làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương da của mình theo "minh
công" và thanh gươm thần này để báo đền xã tắc! Từ đó khí thế của
nghĩa quân ngày một tăng.
Trong tay Lê Lợi, thanh
gươm thần tung hoành trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng bao
lâu tiếng tăm của quân Lam Sơn ran khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong
rừng mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã
có những kho lương của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường
cho họ đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng một tên giặc trên đất nước.
Sau khi đuổi giặc Minh
về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi
thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai
rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự
nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua,
thuyền đi chậm lại. Vua đứng lên và nhận thấy lưỡi gươm thần đeo bên mình cũng
đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía
thuyền vua. Nó đứng nổi trên mặt nước và nói: - Bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Nghe nói thế nhà vua
bỗng hiểu ra, bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát, thanh gươm thần
rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa ngước đầu lên, há
miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Cho đến khi cả gươm và rùa lặn xuống, người ta
vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của
bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ biết: - Đức Long Quân cho chúng ta mượn thanh gươm
thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại.
Và từ đó, hồ bắt đầu
được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
3. SỰ TÍCH THÀNH CỔ
LOA
Khi đã chiếm được đất
Văn Lang, An Dương Vương đổi tên nước là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.
Khu đất chọn để đắp
thành là một quả đồi đất rắn như đá. Ðám đông người hì hục đào đất, khuân đất
hết ngày nọ sang ngày kia, tòa thành cao dần. An Dương Vương cùng đoàn tùy tùng
đến xem rất lấy làm hài lòng, cho là một tòa thành có thể đứng vững muôn đời,
sấm sét không lay chuyển, mưa bão không làm sạt được, và quân giặc cũng không
thể phá nổi.
Nhưng một đêm cả bức
tường thành quanh co đều đổ sập xuống như đất bằng. Vua An Dương Vương đến xem
rất lấy làm tức giận. Ngài hỏi dò dân chúng gần đó, họ kể lại: Ban đêm họ nghe
thấy những bước chân rầm rập ở các khắp ngả kéo đến với những tiếng xì xào có
thể là ma quỉ. Người đâu mà lại đông đến thế! Họ sợ quá nên không dám nhìn ra.
Rồi họ lại nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.
An Dương Vương sai các
tướng lãnh đốc thúc đắp lại thành cho kỳ được. Ðám người hăng hái đắp lại không
ngừng. Tường thành mỗi ngày một cao dần và lại cao như tường thành cũ. Nhưng
rồi một đêm cả dãy tường thành lại sập xuống như đất bằng. An Dương Vương sai
người đi hỏi dân chúng ở gần đó thì họ lại nói như trước. Ban đêm họ cũng nghe
thấy những bước chân rầm rập như thiên binh vạn mã trẩy qua rồi lại những tiềng
huỳnh huỵch tiếp đến những tiếng ầm ầm như sấm động.
An Dương Vương lại xem
chỗ địa thành để cầu trời phù hộ mình đắp cho xong tòa thành. Vua đi vòng quanh
chân tường vừa đi vừa suy nghĩ. Ðột nhiên vua thấy một ông già râu tóc bạc từ
phía xa đi lại. Ðến gần An Dương Vương ông tự xưng mình là thổ thần của vùng
đất này, nói với vua rằng: - Nhà vua đừng
lo, sáng mai nhà vua ra đợi ở bờ sông sẽ có sứ giả Thanh Giang đến giúp nhà vua
đắp thành. Nói xong ông già biến mất.
Hôm sau mới tờ mờ sáng,
An Dương Vương đã ra tận bờ sông để đợi Giang sứ. Vừa bắt đầu tan sương thì có
một con rùa vàng rất lớn nổi lên mặt sông từ phía Ðông bơi vào bờ đến gần nhà
vua, rùa tự xưng mình là thần Kim Quy sứ giả của vua Thủy Tề. An Dương Vương
sai đặt Giang sứ lên một chiếc mâm vàng và khiêng vào cung.
Vua hỏi kế đắp thành,
thần Kim Quy bảo rằng: - Ở núi Thất Diệu
có một con gà trắng sống lâu năm thành tinh có phép biến hoá khôn lường. Nó
thường hãm hại khách qua đường và khách ngủ ở quán trọ trong vùng này. Các vua
thời trước cùng bọn nhạc công chết đi đều chôn ở núi Thất Diệu, những u hồn ấy
từ lâu không tan lẩn khuất trong khe đá ở hang sâu. Những u hồn ấy có thù với
nhà vua nên đêm thanh vắng họp thành từng đàn từng lũ đến xúi dục con tinh gà
trắng phá thành đang xây của nhà vua. Con tinh gà trắng đã dẫn những u hồn ấy
đến chân thành dùng phép ma phá đổ tường thành rồi gần sáng lại bay về núi. Con
tinh gà trắng có tiền duyên với con gái lão chủ quán gần chân núi nên hay hiện
hình làm khách bộ hành ghé vào nhà lão khi thì nhập vào con gái lão khi thì
nhập vào con gà trắng của lão. Muốn đắp cho được thành, trước hết phải trừ cho
tiệt giống yêu ma và giết đứa con gái cùng con gà trắng của lão chủ quán kia
đi.
Nghe lời thần mách bảo,
Vua sai mấy viên tướng đem quân vào rừng mai phục rồi vua cải trang cùng thần
Kim Quy giả làm khách bộ hành đến quán xin ngủ trọ. Chủ quán từ chối lấy cớ là
trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách đi đường. Nhưng An Dương Vương và
thần Kim Quy nhất định xin ở. Chủ quán phải chiều theo ý hai người.
Ðêm đêm An Dương Vương
nghe thấy những bước chân rầm rập ở ngoài. Những bước chân từ khắp các ngả đi
lại rộn ràng rồi thốt nhiên có bàn tay rất mạnh đập vào cái phên nhà lão chủ
quán tiếp đến tiếng gọi người con gái lão. Thần Kim Quy lên tiếng nạt nộ, tiếng
ngoài im ngay. Những tiếng chân bước cũng xa dần.
Gần sáng lại có những
tiếng chân rầm rập ở ngoài, thần Kim Quy bảo An Dương Vương mở cửa phên ra gọi
quân mai phuc đuổi theo đám yêu tinh đang rút lui về Thất Diệu, quân lính vừa
đuổi vừa giương nỏ bắn theo. Cứ một loạt tên bay đi là lại nổi lên những tiếng
ma kêu quỷ khóc rùng rợn. Tiếng rên rỉ khóc than mỗi lúc một thưa dần. Ðến khi
mặt trời mọc thì yêu khí tan. Quân lính của An Dương Vương đào được rất nhiều
hài cốt và nhạc khí cổ trong các hang núi, họ chất thành từng đống cao đốt đi
rồi tro than đổ xuống suối cho tan hẳn oan hồn.
An Dương Vương và thần
Kim Quy trở về quán trọ bảo chủ quán hiến cho mình con gà trắng để tạ trời đất.
Gà vừa bị cắt tiết thì con gái chủ quán cũng lăn ra chết. Giữa lúc ấy có một
con chim tứ trong nhà bay vụt ra, thần Kim Quy biết đó là con yêu tinh đã tìm
đường chạy trốn, liền tung phép giết chết.
Yêu ma đã trừ xong, thần
Kim Quy lại hiện nguyên hình là con rùa vàng rất lớn. Thần rút một cái móng của
mình trao cho An Dương Vương, dặn rằng: - Nhà vua giữ lấy móng chân này để làm lẫy nỏ. Khi có giặc thì đem ra
bắn, một phát có thể giết được hàng ngìn quân giặc.
Nói xong, thần biến mất,
nhờ có thần Kim Quy trừ hết yêu ma. An Dương Vương ra lệnh cho quân lính và
nhân dân xây lại thành. Chẳng bao lâu tòa thành đắp xong, rộng tới ngàn trượng,
vừa dầy vừa cao xoáy vòng như hình con ốc, nên gọi là Loa thành.
4. SỰ TÍCH ĐẦM MỰC
Ngày ấy vào đời nhà Trần
có một cụ đồ nho ở xã Quang Liệt tên là Chu An. Học vấn của cụ sâu và rộng.
Cũng vì tiếng tăm của cụ truyền khắp mọi nơi nên học trò xa gần đến học rất
đông. Về sau nhà vua nghe tiếng, vời cụ về Kinh giao cho trông nom trường Quốc Tử
và dạy thái tử học. Cụ để nhà lại cho vợ con rồi đi nhậm chức. Nhưng được hơn
một năm đã thấy cụ chống gậy trở về. Cụ bảo mọi người rằng: - Ta không thể chịu được với bảy tên quyền
thần dối vua hại nước!
Từ đó người ta thấy cụ
trở lại nghề dạy học. Lần này những người đến xin "nhập môn" đông vô
kể. Cả một cái gò cao ở xóm Văn phải dựng thêm ba bốn mái nhà nữa mới đủ chỗ để
chứa học trò. Trong số học trò của cụ có hai anh em con vua Thủy. Nghe tiếng cụ
đồ, vua Thủy cũng cho con lên học. Ngày ngày hai anh em đến bờ sông trút lốt
thuồng luồng ở nước rồi lên đất, nói năng cử chỉ không khác gì người trần.
Một hôm cụ đồ đang chấm
bài thì anh trưởng tràng đến kể cho biết rằng sáng hôm nay, khi chưa rõ mặt
người, anh có việc đi chợ huyện, đến cầu Bưu tình cờ thấy từ dưới sông có hai
người đi trên mặt nước tiến vào bờ: - Đúng
là hai anh em nhà Gàn thầy ạ? Con đầu tiên sợ nhưng cũng cố đi theo. Quả nhiên
họ vào đây. Thầy bảo bây giờ nên làm thế nào? Cụ đồ gật gù đáp: - Con cứ để yên mặc họ, con ạ! Nếu là quỷ
thần mà họ chuộng đạo thánh hiền thì lại càng hay chứ sao!
Năm ấy vùng Thanh Đàm
trời làm đại hạn. Suốt từ cuối năm ngoái cho đến tháng Hai năm nay không có lấy
một giọt mưa. Đồng ruộng nứt nẻ. Mấy đám lúa, đám ngô cứ héo dần. Thấy mọi
người nhao nhác, cụ đồ sốt ruột không kém. Một chiều kia sau buổi học, cụ đồ
lưu hai anh em chàng Gàn ở lại rồi bảo: - Thầy
muốn các con thương đến dân một chút. Hai anh em làm bộ ngơ ngác không nói
gì. Thấy họ còn giấu mình, ông cụ nói: - Các
con bất tất phải giấu. Thầy đã biết cả. Bây giờ đây chỉ có các con là cứu được
dân sự. Các con hãy làm mưa cho họ nhờ.
Hai anh em đưa mắt nhìn
nhau, hồi lâu bảo cụ: - Dạ, nhưng hiềm vì
sông hồ đều có lệnh "phong bế" cả thì lấy đâu ra nước bây giờ.
Giọng cụ khẩn khoản: - Các con cố nghĩ
thử xem có thể lấy nước ở đâu được không. Không cứu được nhiều thì ta hẵng tạm
cứu ít vậy! Hai anh em ngần ngừ hồi lâu rồi chỉ vào nghiên mực đặt trên án
thư, bảo cụ đồ: - Dạ, oai trời thì rất
nghiêm nhưng lời của thầy thì rất trọng. Chúng con xin vâng lời thầy. Chúng con
sẽ dùng nước ở nghiên mực này tạm thấm nhuần trong một vùng vậy. Cụ đồ mừng
rỡ chạy lại án thư bê cái nghiên mực lớn còn đầy nước và cả quản bút lông của
mình thường dùng, đưa cho họ.
Hai anh em đỡ lấy rồi cả
ba người cùng tiến ra bờ sông. Đến nơi họ xắn ống tay áo rồi sau đó em bưng
nghiên mực, anh cầm quản bút nhúng mực vẩy lên trời nhiều lần. Đoạn họ vứt cả
nghiên lẫn bút xuống nước, cúi vái cụ đồ rồi biến mất. Đêm hôm ấy quả nhiên mây
mù tối tăm rồi mưa một trận như trút. Cụ đồ vừa mừng vừa sợ, suốt đêm chạy ra
chạy vào không ngủ. Sáng dậy, điều mà ai nấy đều lấy làm lạ là nước chỉ lênh
láng suốt mấy cánh đồng trong vùng Thanh Đàm mà thôi. Hơn nữa sắc nước chỗ nào
chỗ ấy đều đen như mực. Trận mưa đêm hôm đó quả cứu vớt được biết bao nhiêu là
ruộng lúa, ruộng ngô và các hoa màu khác. Dân vùng Thanh Đàm lại vui vẻ như
xưa.
Nhưng lúc đó ở thiên
đình, các thiên thần đều lấy làm lạ về một trận mưa bất ngờ. Ngọc Hoàng nổi
giận sai một thiên thần đi tìm bắt cho được thủ phạm trị tội. Và cả hai anh em
đều không thoát lưới trời nghiêm ngặt: cả hai đều rơi đầu dưới lưỡi búa của
thần sét. Xác của họ hiện nguyên hình là hai con thuồng luồng song đầu một nơi
mình một nẻo, giạt vào gậm cầu Bưu. Cụ đồ nghe tin rất thương xót. Cụ khóc và cụ
bắt tất cả học trò đưa đám chôn hai con thuồng luồng. Khăn áo hôm ấy trắng phau
cả một bờ sông. Xác hai con vật được chôn cất một cách tử tế ở bên cầu và cũng
đắp thành nấm như mộ của người.
Cái nghiên mực của cụ đồ
Chu An sau đó trôi về làng Quỳnh Đô làm đen cả nước đầm ấy, ngày nay người ta
vẫn quen gọi là đầm Mực. Còn quản bút thì lại trôi về làng Tó cho nên các cụ
thường truyền rằng nhờ thế làng Tó tức là làng Tả Thanh Oai bây giờ, có lắm
người họ hành đỗ đạt. Còn chỗ ngôi mộ hai con quái vật tức là hai anh em thuồng
luồng sau đó người ta lập miếu thờ, ngày nay vẫn còn có tên là miếu Gàn.
5. SỰ TÍCH TRẦU CAU
Ngày xưa, một nhà quan
lang họ Cao có hai người con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như in, đến
nỗi người ngoài không phân biệt được ai là anh, ai là em. Năm hai anh em mười
bảy mười tám tuổi thì cha mẹ đều chết cả. Hai anh em vốn đã thương yêu ngau,
nay gặp cảnh hiu quạnh, lại càng yêu thương nhau hơn trước.
Không còn được cha dạy
dỗ cho nữa, hai anh em đến xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm
chỉ lại đứng đắn nên được thầy yêu như con. Thầy Lưu có một cô con gái tuổi
chừng mười sáu mười bảy, nhan sắc tươi tắn, con gái trong vùng không người nào
sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ
Cao vừa đẹp vừa hiền, người con gái đem lòng yêu mến, muốn kén người anh làm
chồng, nhưng không biết người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu
cháo, người con gái lấy một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy
người em nhường người anh ăn, người con gái mới nhận được ai là anh, ai là em.
Sau đó, người con gái nói với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng.
Từ khi người anh có vợ
thì thương yêu giữa hai anh em không được thắm thiết nữa. Người em rất là buồn,
nhưng người anh vô tình không để ý đến.
Một hôm hai anh em cùng
lên nương, tối mịt mới về, người em vào nhà trước; chàng vừa bước chân qua
ngưỡng cửa thì người chị dâu ở trong buồng chạy ra lầm chàng là chồng mình, vội
ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh
cũng bước vào nhà. Từ đấy người anh nghi em có tình ý với vợ mình, càng hững hờ
với em hơn trước.
Một buổi chiều, anh chị
đều đi vắng cả, người em ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô
quạnh, lại càng buồn tủi, vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến
khu rừng phía trước mặt, rồi theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt
đầu tối, trăng đã lên, mà chàng vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng nước sâu và
xanh biếc, chàng không lội qua được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn
thức, tiếng suối reo và cứ reo, át cả tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một
khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều, sương lạnh thấm dần vào da thịt chàng,
chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Người anh cùng vợ về
nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường
mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi, và sau cùng đến con suối xanh biếc đang
chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng và không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối,
tựa mình vào một tảng đá. Chàng có ngờ đâu chính tảng đá là em mình! Sương vẫn
xuống đều, sương lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống. Chàng rầu rĩ khóc than hồi
lâu, ngất đi và chết cứng, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng
đá.
Ở nhà, vợ không thấy
chồng đâu, vội đi tìm và cũng theo con đường mòn đi vào rừng thẳm. Nàng đi mãi,
bước thấp bước cao, rồi cuối cùng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng
không còn đi được nữa. Nàng ngồi tựa vào gốc cây không cành mọc bên tảng đá,
vật mình than khóc. Nàng có ngờ đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và sát đó
là em chồng. Nàng than khóc, nhưng tiếng suối to hơn cả tiếng than khóc của
nàng. Đêm đã ngả dần về sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng
vật vã khóc than. Chưa đầy nửa đêm mà nàng đã mình gầy xác ve, thân mình dài
lêu nghêu, biến thành một cây leo quấn chặt lấy cây không cành mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai
mọi người, ai nấy đều thương xót. Một hôm, vua Hùng đi qua chỗ ấy, nhân dân đem
chuyện ba người kể lại cho vua nghe và đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và
lấy quả ở cái cây không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay.
Nhai thử, thấy thơm ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra
sắc đỏ. Nhân dân gọi cái cây mọc thẳng kia là cây cau, cây dây leo kia là cây
trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng
thơm, môi đỏ.
Tình duyên của ba người
tuy đã chết mà vẫn keo sơn, thắm thiết, cho nên trong mọi sự gặp gỡ của người
Việt Nam, miếng trầu bao giờ cũng là đầu câu chuyện, để bắt đầu mối lương
duyên, và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè, tục ăn trầu đã trở nên tục
cố hữu của dân tộc Việt Nam.
6. SỰ TÍCH DƯA HẤU
Đời xưa, thời Vua Hùng
Vương, đất nước ta có núi cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng
ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng
Vương thứ mười bảy có một người con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí
hơn người. Vua yêu mến An Tiêm thường ban cho của ngon vật quý.
Thói thường các quan
được một chút lộc Vua thì nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của cho là của nợ"
và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai Vua, Vua giận lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó
xem có chết rũ xương hay không". Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm
thấy lính đến giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một
cái gì hết. Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm
căng gió, thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây
xanh trong bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu của dân cư cũng
không còn, bây giờ chỉ còn thấy trời với nước xanh ngắt một màu.
Hôm sau thuyền đến một
đảo nhỏ. Họ để gia đình An Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi,
rồi nhổ neo quay lái. Nàng Ba, vợ An Tiêm bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần
ra xa rồi khuất mất, nước mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng
hàng xóm chia nhau những bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện dưới trăng!
Quay vào hòn đảo hoang vu nàng lại càng khiếp sợ, không biết rồi đây lấy gì mà
ăn để sống cho qua ngày tháng.
An Tiêm dắt vợ con tìm
được một cái hốc đá ở tạm. Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật
hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài
thứ quả chan chát và rau dại ăn tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng
rau và tìm quả, nàng Ba thì ra biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An
Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen
bẫy, có khi suốt ngày thằng bé chẳng bắt được con nào. Cá nhiều nhưng không
lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là
mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng
lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim muông bao nhiêu. Tuy nhiên An Tiêm vẫn
tin là một ngày khi mình có thể làm cho đời sống khá lên.
Một hôm, có con chim
đương ăn ngoài bãi thấy An Tiêm đến, vội bay đi bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An
Tiêm cầm lên xem thì ra là một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm
chim ăn được có lẽ người cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng
ăn hết miếng dưa và nhặt hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột và đỡ
đói, chàng có ý mừng, lấy gươm xới một khoảng đất và gieo hạt xuống.
Ít ngày sau mấy hạt dưa
mọc mầm đâm lá, bò toả ra khắp khoảng đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn
sóc mấy dây dưa lạ. Vợ chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi
ra hoa kết quả, lúc đầu bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con
lợn con. Thấy nó lớn mãi như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc
nào nên hái.
Một buổi sáng sớm tinh
mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài bãi, nàng Ba bảo chồng: - Ở đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi
một nơi, tất là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào !
An Tiêm ra đến bãi thì
đàn quạ bay tan tác, bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa
về. Khi chàng bổ dưa ra, cả nhà loá mắt vì màu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó
giữa màu đỏ có những hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa
bé thèm nhỏ nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm
cẩn thận cắt cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi
cái vị thanh ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ và không những không xót
ruột lại còn đỡ khát và khoẻ người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả
dưa cho con ăn đến no.
Bây giờ cả nhà An Tiêm
mừng rỡ, bồng bế nhau ra bãi, chọn những quả sẫm màu da đem về, còn lại thì
thay phiên nhau canh quả. Và từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ
chỉ gồm một cái gươm cùn và mấy hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm
không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống
dưa ngày càng sai, quả càng to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm
ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa, An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi
biệt tăm tích không biết bao nhiêu lần, trăng non, rồi trăng già không biết bao
nhiêu bận, An Tiêm vẫn không ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền
ghé đến hỏi xem ai đã trồng được giống dưa quý, để đổi đem về bán trên đất
liền. Từ đấy, An Tiêm đổi được các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một
cái nhà xinh xinh.
Về phần Vua Hùng Vương,
từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang đảo, Vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi
nghĩ đến cũng có bùi ngùi thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả
dưa lạ, Vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng
ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An
Tiêm và nàng Ba mừng rỡ, thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về
phân phát cho bà con hàng xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là
nguồn gốc dưa hấu mà chúng ta ăn ngay nay.
Về sau khắp nước ta đều
có giống dưa hấu. Nhưng người ta nói chỉ có huyện Nga Sơn là trồng được những
quả ngon hơn cả, chỉ có nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm
nước cạn, cát bồi nay đã liền vào với đất.
7. SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG
NGÀY TẾT
Ngày xưa, đời Vua Hùng
Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày
cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau
tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai
vàng.
Trong khi đó, người con
trai thứ 18 của Hùng Vương, là Lang Liêu (còn gọi là Tiết Liêu) có tính tình
hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người
chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một hôm, Lang Liêu nằm
mộng thấy có vị Thần đến bảo: - "Này
con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống
con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng
hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình
Cha Mẹ sinh thành."
Lang Liêu tỉnh dậy, vô
cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông
để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm
bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầỵ Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân
ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng
tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều
món ngon lành. Hoàng tử Lang Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng
Vương lấy làm lạ hỏi, thì Lang Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý
nghĩa của Bánh Dầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý
nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Lang Liêu, con trai thứ 18.
Kể từ đó, mỗi khi đến
Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên
và Trời Đất.
8. SỰ TÍCH CÂY NÊU
NGÀY TẾT
Thuở ấy, Quỷ làm chủ
trên trái đất, Người chỉ ăn nhờ ở đậu. Hàng năm, Người phải đến xin cấy rẽ
ruộng đất của Quỷ. Tính Quỷ vốn tham lam, nên thường đặt ra những luật lệ rất
khắt khe ác nghiệt.
Năm ấy, lúa Người trồng
rất tốt, Quỷ muốn chiếm lấy cả thóc, bèn đặt ra lệnh: "Quỷ ăn ngọn cho
gốc". Thế là Người làm quần quật suốt năm, đổ mồ hôi sôi nước mắt, đến mùa
chỉ được toàn gốc rạ.
Người đói khổ quá, khấn
với Bụt. Bụt hiện lên bảo: - Nó đặt ra lệ
"Ăn gốc cho ngọn", thế thì mùa tới sao các con không trồng khoai
lang?
Người hiểu ý Bụt, làm
theo, đến mùa người cắt ngọn dây khoai nộp cho Quỷ, còn bao nhiêu củ bới lên,
Người ăn tất cả. Quỷ thấy vậy, tức tối lồng lộn, đặt ra lệnh mới: "Quỷ ăn
cả ngọn lẫn gốc".
Người lại khấn với Bụt,
Bụt hiện lên bảo: - Sao các con không
trồng ngô? Người mừng rỡ, bỏ khoai trồng ngô, thế là mùa ấy, Người cứ ung
dung bẻ bắp ăn, còn bao nhiêu gốc ngô, ngọn ngô dành phần cho Quỷ.
Quỷ hai lần bị mắc mưu,
căm giận Người lắm! Chúng bàn nhau, bày kế hiểm độc, đòi ruộng đất về, không
cho Người cày rẽ nữa.
Người lại khấn Bụt, Bụt
hiện lên bảo: - Các con đến hỏi Quỷ tậu
lấy một miếng đất đủ trồng một cây tre. Nhưng nhớ phải giao hẹn với chúng: Hễ
bóng tre ngả đến đâu là chỗ ấy thuộc về các con.
Người vâng lời Bụt, đến
nhà Quỷ tậu đất trả giá rất cao, Quỷ thích quá, bằng lòng bán cho Người một
miếng đất và nhận luôn cả lời hẹn.
Người đem trồng tre ngay
lên miếng đất vừa tậu. Bụt lại hiện lên, lấy áo của mình trùm lên đầu ngọn tre.
Cây tre mọc càng cao, bóng chiếc áo ngả xuống mặt đất càng rộng. Bóng đổ đến
đâu, Người trồng lúa, trồng ngô, trồng khoai đến đấy. Cây tre cao vút lên mãi,
giống tre đẻ lan thêm ra, Người cứ theo bóng tre mà lấn đất, đẩy Quỷ lùi dần.
Cuối cùng, Người đuổi được Quỷ ra tít tận ngoài biển.
Từ đấy, đời sống của
Người ấm no hẳn lên, còn Quỷ tiếc của, hung hăng đem quân vào định cướp lại
đất, thả bầy thú dữ ra tàn hại người. Người họp nhau lại chống giữ. Hai bên
đánh nhau hết năm này qua năm khác mà không phân được thua.
Người lại khấn Bụt, Bụt
hiện lên bảo: - Các con lấy cung tên mà
bắn, lấy vôi mà rắc, giã tỏi trộn với nước mà phun, lấy lá dứa có gai nhọn mà
vụt thì Quỷ và bầy thú có hung hăng đến đâu cũng phải bỏ chạy.
Người làm theo lời Bụt.
Quả nhiên, Quỷ và bầy thú dữ bị Người đánh cho tan xác, không dám bén mảng vào
đất liền nữa. Quỷ chỉ xin mỗi năm, đến dịp tết Nguyên đán, được vào thăm phần
mộ tổ tiên vài ba ngày.
Do đó, dân ta có tục
ngày tết trồng nêu. Nêu là một cây tre cắm ở giữa sân, có treo chuông khánh.
Tiếng chuông khánh kêu leng keng luôn nhắc nhở Quỷ nhớ tới đây là đất của
Người.
9. SỰ TÍCH RÉT NÀNG
BÂN
Nàng Bân là con gái của
Ngọc Hoàng nhưng khác với nhiều chị em của mình, nàng Bân chậm chạp và có phần
vụng về. Tuy nhiên, nàng Bân vẫn được cha mẹ yêu chiều. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu
thương con thua em kém chị nhưng không biết làm cách nào, mới bàn nhau lấy
chồng cho nàng để nàng biết thêm công việc nội trợ trong gia đình. Chồng nàng
Bân, cũng là một người trên thế giới nhà trời. Nàng yêu chồng lắm. Thấy mùa rét
đã đến, nàng định tâm may cho chồng một cái áo ngự hàn. Nhưng nàng vụng về quá,
khi bắt đầu rét, nàng Bân đã bắt đầu công việc song cứ loay hoay mãi, tìm được
cái nọ thì thiếu cái kia, xe được chỉ thì chưa có kim, đưa sợi vào dệt thì
thoi, suốt lại hỏng. Đến nỗi trời đã sắp sang xuân rồi mà chỉ mới may trọn được
đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu nàng: "Nàng Bân may áo cho chồng, May ba tháng ròng mới trọn cổ tay".
Nhưng nàng Bân vẫn không nản chí. Nàng may mãi qua tháng Giêng rồi hết tháng
Hai, cho tới khi áo may xong thì vừa lúc trời hết rét. Nàng Bân buồn lắm.
Thấy con âu sầu, Ngọc
Hoàng gạn hỏi. Khi biết chuyện Ngọc Hoàng cảm động bèn làm cho trời rét lại mấy
hôm để chồng nàng mặc thử áo.
Từ đó thành lệ, hàng năm
vào khoảng tháng Ba tuy mùa rét đã qua, mùa nóng đã tới nhưng có lúc tự nhiên
rét lại mấy hôm, người ta gọi cái rét đó là rét nàng Bân. Tục ngữ có câu:
"Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét
lộc, tháng Ba rét nàng Bân" là vì thế.
10. SỰ TÍCH HÒN VỌNG
PHU
Ngày xưa, ở thị trấn
Kinh Bắc có một người đàn bà goá chồng từ sớm, ngày ngày đi mò cua bắt ốc để
nuôi hai con một trai và một gái. Trong khi mẹ chúng ra đồng, Tô Văn, đứa con
trai độ mười tuổi và Tô Thị, đứa con gái chừng tám tuổi, ở nhà tha hồ đùa
nghịch với nhau, không ai ngăn nổi.
Một hôm, Tô Văn chơi ném
đá rồi không biết ném thế nào trúng ngay vào đầu em. Tô Thị ngã vật xuống đất,
ngất đi, máu ra lênh láng. Tô Văn thấy thế sợ quá, chạy một mạch ra đường,
không dám ngoái cổ lại. May sao, sau khi xảy ra tai nạn, một bà hàng xóm chạy
sang lấy lá thuốc dịt cho Tô Thị, cầm ngay được máu. Đến khi người mẹ đi mò cua
về thì thấy con gái đã ngồi dậy được.
Nhưng còn Tô Văn thì
biệt ăm, ngày một ngày hai cũng không thấy thằng bé trở về,
tìm khắp nơi cũng không thấy. Người mẹ nhớ con, sinh ra buồn phiền, ngày một
héo hon, chẳng bao lâu ốm nặng rồi chết, bỏ lại Tô Thị một mình. Đứa con gái
được mấy người láng giềng cho ăn trong ít ngày, rồi hai vợ chồng người chủ hàng
cơm đem đứa bé về nuôi để sai vặt. Sau đó, hai vợ chồng người chủ hàng cơm lên
xứ Lạng mở hàng nem, đem Tô Thị đi theo.
Lớn lên, Tô Thị xinh
đẹp, lại nết na, siêng năng, nên rất được nhiều người để ý. Dành dụm được ít
vốn, nàng nghĩ cách tự làm ăn. Bấy giờ hai vợ chồng người chủ hàng cơm đã có
con cái đỡ đần, nên khi nàng xin ra ở riêng, bố mẹ nuôi ưng thuận ngay.
Đã học được nghề làm nem
Tô Thị liền mở cửa hàng nem ở Háng Cưa (tức
chợ muối, bây giờ là phố Đầu Cầu) tại Kỳ Lừa. Nàng làm nem rất khéo. Cửa
hàng của nàng mỗi ngày một đông khách. Người ta đến để thưởng thức nem ngon,
cũng có người vừa thích nem vừa mê bóng mê gió cô chủ. Chiều khách thì thật là
khéo chiều, nhưng cô hàng rất đứng đắn, làm cho mọi người vị nể.
Thấm thoắt, Tô Thị đã
hai mươi tuổi, tuy có nhiều mối manh, nhưng nàng chưa thuận nơi nào.
Một hôm, có một anh
thanh niên tuổi ngoài hai mươi, vẻ người tuấn tú, đem thuốc từ Cao Bằng về Lạng
Sơn bán. Nghe nói ở Háng Cưa tại Kỳ Lừa có hàng nem ngon, lại có chỗ trọ rộng
rãi, chàng liền tìm đến. Chàng thấy, nem quả thật là ngon và cô hàng cũng rất
tươi giòn. Biết cửa hàng một lần, hai lần, rồi cứ mỗi lần mang thuốc về Lạng
Sơn bán, chàng lại tìm đến hàng nem. Chàng thanh niên và Tô Thị trở nên thân
thiết, trước còn mến, sau yêu nhau...
Lấy nhau được hơn năm
thì Tô Thị có mang, sinh được một gái. Hai người yêu nhau rất mực, lại được
thêm mụn con, mối tình càng khăng khít.
Một hôm, người chồng về
nhà, thấy vợ đang gội đầu ở ngoài hiên. Chàng bế con ngồi trên bậc cửa xem vợ
gội đầu, kể đôi câu chuyện vặt cho vợ nghe. Chợt thấy đầu vợ có cái sẹo to, chàng
hỏi: - Đầu mình có cái sẹo to, thế mà bây
giờ tôi mới biết. - Bây giờ chàng mới
biết à, chàng cho là xấu lắm phải không? - Tô Thị hỏi. - Có xấu gì đâu, tóc che đi, có ma mà biết!
Khi còn con gái, mình đau nhọt hay sao mà lại có cái sẹo to như thế?
Thấy chồng hỏi ân cần,
nhân vui chuyện, Tô Thị kể tỉ mỉ cho chồng nghe những chuyện xảy ra hồi nàng
còn bé. Câu chuyện càng đi sâu, người chồng càng lộ vẻ buồn. Chốn Kinh Bắc, nơi
quê cũ người anh đi mất tích, mẹ chết, theo vợ chồng người chủ quán lên xứ Lạng,
rồi ở luôn đây cho đến bây giờ.
Biết bao đau thương,
buồn thảm. Chàng tự nhủ: "Sao mình
lại không phải là kẻ khác mà lại là Tô Văn! Thôi mình đã lấy lầm em ruột mình
rồi..." Chàng hồi nhớ lại những ngày xa xăm,
cái ngày chàng lỡ tay ném đá vào đầu em, tưởng em chết nên chạy trốn, đi lang
thang không dám về nhà, rồi được một người Trung Quốc buôn thuốc bắc đem về
nuôi ở Trùng Khánh, thuộc tỉnh Cao Bằng. Lớn lên, Văn theo họ bố nuôi là họ Lý,
chàng thường đem thuốc xuống Lạng Sơn bán và chỉ ở đây một vài ngày là hết
hàng. Ngoài con đường Lạng Sơn - Cao Bằng, Cao Bằng - Lạng Sơn, chàng cũng
không biết đi đến đâu cả. Hơn mười năm qua, chàng yên chí gia đình mình ở miền
xuôi không còn một ai nữa, quê cũ đối với chàng như trong sương mù, không còn
tưởng nhớ đến làm gì...
Văn nghĩ ngợi, rầu rĩ,
nhưng Tô Thị mải chải đầu, quấn tóc, không để ý đến. Nàng vẫn vui vẻ, hồn nhiên
không biết chồng mình đang ở vào những phút buồn phiền ghê gớm. Thấy Tô Thị
ngây thơ, vui vẻ thế, Tô Văn càng không muốn để nàng biết sự thực. Ai lại để
cho người em gái mình còn non trẻ như thế kia biết một việc loạn luân như thế
bao giờ! Một việc loạn luân không do ý hai người định, nhưng chàng quyết tâm gỡ
mối cho xong. Thôi, hay là lại đi biệt chuyến nữa, em mình trẻ trung, xinh đẹp
dường ấy, làm gì chả lấy được chồng khác, Văn nghĩ thế, rồi chàng nghĩ cách để
đi.
Giữa lúc tâm trạng Văn
như thế thì có việc bắt lính thú, anh xin đăng lính, không bàn với vợ nửa lời.
Mãi đến lúc sắp lên đường, chàng mới nói với vợ: - Anh đi đăng lính rồi, em ạ. Sớm mai thì lên đường, đi chuyến này ba
năm, có khi sáu năm mới về và cũng có khi lâu hơn... Mình ở nhà nuôi con, còn
về phần mình, mình cứ tự định liệu, nếu nhỡ ra...
Tô Thị nghe chồng nói
như sét đánh ngang tai, không hiểu sao đang sống yên vui với nhau mà chồng lại
bỏ đi một cách kỳ như thế. Nàng khóc ấm ức, khóc hoài, khóc mãi, không nói nửa
lời. Còn Văn chỉ những bứt rứt âm thầm, cho việc mình đi như vậy là giải thoát.
Từ ngày chồng đi, Tô Thị
chẳng thiết gì đến việc bán hàng. Ngày ngày bế con lên chùa Tam Thanh cầu cho
chồng được tai qua nạn khỏi, chóng được trở về cùng nhau xum họp.
Nhưng ba năm, bốn năm,
nàng cũng chẳng thấy chồng về. Có mấy kẻ phao tin là chồng nàng chết, muốn hỏi
lấy nàng làm vợ, nhưng nhất định nàng từ chối. Có một tên kỳ hào tiếng là hống
hách trong vùng muốn hỏi nàng làm vợ kế. Hắn có thế lực và rất tàn nhẫn. Nàng
thương con còn thơ dại, không dám từ chối ngay, sợ rước vạ vào thân, chỉ tìm
cách khất lần. Nhưng khất mãi cũng không được, nên cuối cùng nàng đành hẹn với
hắn một kỳ hạn để sau tìm kế khác. "Biết
đâu đến ngày ấy, chồng mình lại trở về" - Nàng nghĩ thế.
Rồi kỳ hạn cũng hết,
nàng trông đợi chồng đỏ cả mắt mà chàng vẫn không về. Nàng ôm con lên chùa Tam
Thanh kêu cầu. Hôm ấy, trời nổi cơn dông, nàng nhớ chồng, thương thân, bế con
ra ngoài chùa, trèo lên một mỏm đá cao chót vót, nhìn về hướng chồng đi. Mây
đen kéo đầy trời. Gió rít từng hồi qua kẽ lá. Mưa như trút nước, chớp loè khắp
núi. Nàng vẫn bế con đứng trơ trơ, đăm đăm nhìn về hướng chồng đi. Toàn thân
quả núi rung chuyển dưới những luồng sét dọc ngang. Mưa mỗi lúc một to, Tô Thị
vẫn bế con đứng trơ trơ trên mỏm đá cao.
Sáng hôm sau, mưa tạnh,
gió yên, mặt trời toả ánh sáng xuống núi rừng. Nàng Tô Thị bế con đã hoá đá tự
bao giờ.
Ngày nay, còn truyền lại
câu ca:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
11. SỰ TÍCH CHÚ CUỘI
TRÊN CUNG TRĂNG
Ngày xửa ngày xưa, ở một
miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội.
Một hôm, như lệ thường,
Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội
bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có
bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một
nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe
tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một
cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết.
Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy
một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con
cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ
tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông
lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại,
bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông
lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình
kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: -
Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là
trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới
bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó! Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn
Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão
dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc
quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là
Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan
đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua
sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu
chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy,
Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà
giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái
mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ
lát sau, mặt cô gái hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống
mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với
nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi
qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác.
Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo
nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không
công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm
thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng
làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả
nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội
bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ
với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính
nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc
bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây,
chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú
gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng
còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ
nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển
động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên
trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về
đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại.
Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu
vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản
nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút
lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung
trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá.
Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy,
coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người
ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi
cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
12. SỰ TÍCH HAI ÔNG
MỘT BÀ
Xưa có hai vợ chồng tên
là Trọng Cao và Thị Nhi. Hai người lấy nhau mà không có con. Thị Nhi rất yêu
chồng, nhưng chán nỗi tính tình của chồng ngày một bạo ngược, hay gây chuyện
đánh đập vợ. Một hôm, không may xảy ra một việc nhỏ Trọng Cao vác gậy đuổi vợ,
Thị Nhi đau khổ đành dứt áo ra đi.
Đến một xứ khác, Thị Nhi
lấy người chồng mới tên là Phạm Lang. Cuộc ân ái này rất đằm thắm. Hai vợ chồng
hoà thuận, chăm lo cày cấy, cửa nhà ngày một khá giả. Tuy nhiên Thị Nhi vẫn
không quên được người chồng cũ. Nhiều đêm nàng ngồi một mình thổn thức nhớ
Trọng Cao .
Trọng Cao từ ngày đuổi
vợ đi, trong lòng hối hận, chàng đau xót về lỗi lầm của mình. Chàng ước được
gặp ngay Thị Nhi để nhận tội cùng nàng. Và rồi một buổi chiều, không chịu nổi
sự giày vò của lòng mình, chàng bỏ nhà ra đi tìm Thị Nhi. Chàng lần mò đi, đi
mãi cho đến ngày hết lương, chàng phải đi xin ăn để độ đường. Song ý chàng đã
quyết, chàng vẫn đi.
Một hôm, tình cờ Trọng
Cao đến gõ cửa nhà Phạm Lang. Lúc đó chỉ có mình Thị Nhi ở nhà, Thị Nhi vừa
nhìn mặt đã biết ngay là chồng cũ. Nhưng Trọng Cao thì trái lại không nhận ra
vợ mình.
Đói khát lâu ngày, không
ngờ được Thị Nhi đãi cơm rượu, Trọng Cao ăn uống mặc sức. Ăn xong, say quá
chàng lăn ra ngủ. Thị Nhi không muốn cho chồng mới biết chuyện, bèn vực Trọng
Cao giấu vào đống rơm ở góc vườn rồi phủ rơm lại cho ngủ yên.
Chiều hôm ấy, Phạm Lang
đi làm về, trước khi đi ngủ chàng đốt đống rạ ở góc vườn để lấy tro ngày mai
bón ruộng. Ngọn lửa bén sang cả đống rơm nơi Trọng Cao đang ngủ say. Đến chừng
Thị Nhi mới biết thì Trọng Cao đã bị chết cháy. Thương chồng hoá ra giết chồng,
nàng đau đớn quá mà không thổ lộ được. Bèn nhảy ngay vào đống lửa đang bốc cháy
ngùn ngụt. Phạm Lang không biết gì về câu chuyện xảy ra. Chàng chỉ một lòng
thương vợ, cuối cùng cũng gieo mình chết ngay bên cạnh Thị Nhi.
Việc đó, Ngọc Hoàng ngồi
trên soi kính, thấy hết được nỗi lòng của ba người. Cảm nhận mối chân tình của
họ, và thấy cần phải làm cho bộ ba ấy được sống gần nhau mãi mãi. Ngọc Hoàng
còn phong cho ba người hoá thành ba đầu rau. Nhân thể Ngọc Hoàng còn phong luôn
cho họ chức Táo quân, trông nom việc bếp nước đến việc làng giữ trong gia đình.
Và hàng năm cứ đến ngày hai ba tháng chạp lại được triệu về trời báo cáo.
13. SỰ TÍCH ĐÈO PHẬT
TỬ
Ngày xưa, có bốn người
đêm ngày đọc kinh niệm phật quyết tu cho thành đạo. Bốn người có bốn họ khác
nhau: Hoàng, Trần, Lý, Lắm. Ba người đàn ông, riêng người họ Lắm là con gái.
Sau hàng chục năm tụng
kinh, niệm Phật, ăn chay tu chí trong chùa, họ đều trở thành những tăng ni đắc
đạo. Chọn được ngày lành tháng tốt, họ cùng nhau tìm đường lên núi Thiên Sơn để
hoá Phật. Đường đi Thiên Sơn xa lắc xa lơ, thành thử họ phải đi ròng rã mấy năm
trời mới tới nơi. Đến chân núi Thiên Sơn, cả bốn người đều mệt nhọc không kể
xiết. Nhưng ai cũng nghĩ, đã tu thân quyết chí đến được tận giờ phút này rồi mà
bỏ cuộc thì uổng quá! Nên dù trời đã gần tối, họ vẫn theo đường mòn để leo lên
đỉnh núi. Khi tới đỉnh đèo, đêm đã khuya lắm, trời tối như mực, bụng đói cồn
cào, họ kiệt sức, không đi tiếp được nữa.
Cái đói và mệt nhọc buộc
họ phải dừng lại nghỉ, nhưng không ai chợp mắt nổi. Bỗng một người trong bọn họ
lên tiếng: - Bây giờ có một cây gậy ước
thì các bậc đàn anh muốn ăn gì nào? Mọi người đã quá đói và mệt, nên họ
không giữ gìn nữa, ai thích gì dù thứ đó người tu hành phải kiêng nay cũng nói
toạc ra.
Thoạt tiên người họ Trần
nói: - Tôi ước được chén một bữa thịt
chó, có đủ gia vị, cúc tần, riềng lát, rau mùi, húng chó. Người họ Trần
đang kể lể thì người họ Hoàng ngắt lời: - Tôi
ước một bữa thịt trâu. Trâu càng già, càng dai, nhai càng đã răng. Người họ Lý nói tiếp luôn: - Tôi muốn bữa thịt gà luộc có lá chanh.
Sau cùng ni cô họ Lắm nói: - Tôi chỉ thích
một bữa rau luộc cho mát ruột và húp cho mát thôi.
Sáng dậy, khi mỗi người
đang chuẩn bị xuống đèo đi tiếp, thì có một ông già râu tóc bạc phơ chống gậy
từ chân dốc đi lên, vẻ mặt mệt nhọc, nhưng cất giọng sang sảng nói: - Các ngươi ở đâu đến đây?
- Thưa cụ! Bầy tăng chúng tôi đi tìm đường lên núi Thiên
Sơn để hoá Phật đấy ạ. Dám mong cụ chỉ đường giúp cho. Nghe xong câu trả lời
ông già nói: - Được ta sẽ đưa các ngươi
đến núi Thiên Sơn nhưng bây giờ các ngươi hãy nhổ nước bọt xuống lá cây xem đã.
Nói xong, ông già rút từ
trong túi ra bốn cái lá bồ đề to như nhau, rồi lại dặt trước mặt cho từng người
nhổ vào đấy. Bốn người nhổ xong, đều cảm thấy lợm giọng, ruột gan nao nao buồn
nôn. Trong nháy mắt cả bốn người đều nôn thốc nôn tháo. Quái lạ là đêm hôm qua
ai ước ăn gì, đều nôn ra thứ đó.
Thấy ba người nôn nào
thịt gà, thịt trâu, thịt chó, duy chỉ có ni cô họ Lắm là nôn ra rau xanh. Ông
già liền nói: - Chính đây là đỉnh núi Thiên Sơn, các ngươi đã đến cõi Phật rồi. Nhưng
nôn ra toàn những thứ kiêng kị, thì sao gọi là chân tu được. Các ngươi
không thể hoá Phật được đâu. Rồi ông già ngoảnh lại chỉ vào ni cô họ Lắm nói:
"Người này cứ theo đỉnh chóp mà lên,
chớ đi xuống, sắp tới nơi rồi".
Ni cộ họ Lắm theo đường
mà lên, rồi hoá thành Phật Bà Quan Âm. Phật Bà có nhiều phép lạ để trị bọn âm
binh, giữ gìn phúc lành cho muôn dân. Ngày nay họ Lắm thờ Phật Quan Âm trong
nhà và mỗi khi Tết đến cúng Phật Bà đều phải có một bát canh rau.
Còn ba người kia xấu hổ
vì không được hoá Phật lại mất bao công sức tu thân, nên buồn rầu mà chết ở
giữa đỉnh đèo. Họ chết ở nơi hoang vắng đó, chẳng có ai hay mà chôn cất, nên
sau này người đời truyền nhau khi đi qua đèo đều phải mang theo nắm đất hay hòn
đá ném vào chỗ đó để đắp mộ. Chỗ đất ấy người ta thường gọi là mô "Phật".
Từ đó mô "Phật" ngày một cao lên và tên đèo được đổi thành đèo Phật
Tử.
14. SỰ TÍCH TRÁI SẦU
RIÊNG
Hồi ấy, vào thời Tây
Sơn, tại vùng Đồng Nai có một chàng trai văn võ kiêm toàn. Trước cuộc khởi
nghĩa của Tây Sơn, chàng đã vung gươm hưởng ứng và mấy lần cầm quân khiến bọn
tớ thầy chúa Nguyễn vô cùng khiếp sợ.
Hết thời Tây Sơn, chàng
lui về quê nhà mượn nghề dạy trẻ để náu mình ẩn tích. Bổng có tin dữ loan
truyền làm mọi người xao xuyến. Gia Long trở lại ngôi vua thì cũng bắt đầu giết
hại những người đã từng theo Tây Sơn. Hắn dựa vào chức tước lớn hay nhỏ mà gia
hình: tư mã, quận công thì lăng trì, tùng xẻo; vệ uý, phân
xuất thì đánh gậy, phạt roi… Dân trong xóm sẵn lòng quý mến khuyên chàng trốn
đi thiệt xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng trong đó có một chiếc thuyền
nhỉ có mui lồng để tiện đi lại. Và không muốn để rơi vào tay quân địch, chàng
đã ra đi. Mượn dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào phía nam đất nước.
Một hôm, chàng cấm sào
đậu ghe, lên bờ mua sắm thức ăn. Bước vào một cái quán bên đường, chàng thấy có
một bà già ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con
đi dâng hương trên núi về đến đây thì con bệnh nặng. Vốn có biệt tài về nghề
thuốc, chàng ra sức cứu chữa, cuối cùng đã giúp cô gái hồi phục được sức khoẻ. Và sẵn thuyền chàng đưa họ về tận nhà.
Nàng là gái chưa chồng,
đã đến tuổi quay xa đạp cửi, lại có vẻ đẹp thuỳ mị, đã làm
xao xuyến chàng trai ở tận nơi xa đến ngụ tại nhà nàng.
Sau một tuần chay tạ ơn
trời phật, mẹ nàng cho biết là phật báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui
vẻ nhận lời và bắt đầu cuộc sống mới ở nơi đất khách quê người. Từ đây chàng có
chỗ ở nhất định. Nhà nàng làm ruộng, nuôi tằm. Những việc đó chàng làm được cả.
Mười năm trôi qua như
một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quít bên nhau tựa đôi chim
câu. Trong vườn nhà vợ, chàng trồng thứ cây ăn trái gọi là cây “tu-rên” mà ở xứ
sở chàng không có. Lần ấy gặp kỳ trái chín đầu mùa, vợ chàng hái xuống một
trái, tách vỏ đưa cho chồng ăn. Trái “tu-rên” vốn có mùi vị đặc biệt. Thấy
chồng nhăn mặt, người vợ nói: - Anh cứ ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.
Không ngờ, một năm
kia, vợ chàng đi chùa dâng hương về bị cảm. Chàng cố công chạy chữa nhưng không
sao cứu được. Cái chết chia rẽ vợ chồng chàng một cách đột ngột. Không thể nói
hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tình thương sâu sắc khiến chàng thấy
như hồn vợ luôn ở bên mình và chàng hứa trọn đời sẽ không lấy ai nữa. Hai người
vẫn thường gặp nhau trong mộng
Sự truy nã và trả thù
của Gia Long đã bớt, bà con ở quê nhắn tin bảo chàng về. Những người ở quê vợ
cũng muốn chàng đi đâu đó ít lâu để giải khuây. Chàng đành từ giã quê hương thứ
hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ chàng báo mộng cho biết sẽ theo chàng
đến sơn cùng thuỷ tận. Năm ấy cây “tu-rên” chỉ có một trái.
Và trái “tu-rên” đó tự nhiên rụng xuống giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của
vợ. Chàng mừng rỡ quyết đưa nó cùng mình về quê nhà.
Chàng trở lại với nghề
cũ. Nhưng nỗi buồn nhớ vợ canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng ươm hột cây
“tu-rên” rồi đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đây ngoài việc dạy học, chàng
còn có công việc lo chăm sóc cây quý.
Những cây “tu-rên” của
chàng ngày một lớn khoẻ. Lại thêm mười năm đã trôi qua.
Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã đốm bạc. Nhưng con người ấy trong lòng bỗng
thấy như trẻ lại khi thấy những cây quý ấy bấy lâu mình chăm sóc nay đã bắt đầu
đơm hoa kết trái. Ông sung sướng mời bà con lối xóm tới dự đám giỗ vợ và
nhân đó thưởng thức một thứ trái lạ lần đầu tiên trong vùng này.
Khi bưng những trái
“tu-rên” đặt trên bàn, mọi người thấy mùi khó chịu. Nhưng chủ nhà biết ý nói
trước:
Nó xấu xí, mùi vị chưa quen, nhưng những mùi của nó lại đẹp đẽ thơm thoa như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ…Anh vừa nói vừa tách
những trái “tu-rên” ra từng múi, rồi chia cho mọi người cùng nếm. Đoạn anh kể
hết mối tình duyên xưa mà từ lúc về đến nay mà anh vẫn giấu kính trong lòng,
Anh kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khoé mắt của con người
chung tình ấy long lanh ở hai giọt lệ nhỏ đúng vào múi “tu-rên” đang cầm trên
tay. Tự nhiên hai giọt nước mắt ấy sôi lên sùng sục trên múi “tu-rên” như vôi
gặp nước và thấm vào múi như giọt nước thấm vào đất.
Sau đám giỗ ba ngày,
người đàn ông ấy bỗng dưng không bệnh mà chết. Từ đấy mỗi lần dân làng ăn thứ
trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến người đàn ông chung tình. Họ gọi
“tu-rên” bằng hai tiếng “sầu riêng” để ghi nhớ mối tình chung thuỷ
của hai người.
15. SỰ TÍCH CÂY XẤU
HỔ
Ngày xưa, ở làng nọ có
người phụ nữ hiền lành như cục đất. Bà chăm chỉ làm ăn nhưng vẫn nghèo. Sống
một mình bà buồn lắm. Nhiều lần bà cầu nguyện Giàng cho một đứa con để hôm sớm
tuổi già.
Một hôm trên đường từ
rẫy về, bà bị lạc đến một khu rừng lạ. Đói và khát khô cổ mà bà vẫn chẳng tìm
ra thức gì để ăn và uống cả. Bà lả người đi. Khi tỉnh dậy, bà thấy trước mặt có
một lùm cây: lá xanh chi chít, hoa vàng li ti chen lẫn những chùm trái đỏ mọng.
Bà cảm thấy thèm, bèn hái trái ăn. Trái ngọt lịm làm bà không còn thấy đói và
khát nữa. Đầu óc bà dường như tỉnh táo hơn. Và bà tìm được lối về nhà. Hôm sau,
bà thấy người mình khang khác. Bụng bà cứ ngày một to dần. Đúng mười hai mùa
trăng, bà đẻ ra một đứa bé gái. Lũ làng nhìn bà bằng con mắt khinh bỉ. Có người
độc miệng nói bà đẻ ra ma núi. Bà vẫn cắn răng chịu đựng. Mặc dù nghèo khổ
nhưng bà chăm đứa nhỏ rất chu đáo.
Đứa con gái càng lớn
càng rực rỡ và xinh đẹp như đoá hoa trắng trong rừng. Ngày ngày nó vào rừng, ra
suối bắt bướm, hái hoa dong chơi, không chịu giúp mẹ. Bà mẹ ngày càng già yếu
nhưng vì thương con bà phải cố gắng làm lụng vất vả để có cái ăn cái mặc cho
con. Rồi một hôm, bà mẹ nhiễm bệnh và qua đời. Lũ làng xúm xít lo chôn cất bà
mẹ và không tiếc lời quở trách đứa con tệ bạc. Quen thói lười biếng nên khi bà
mẹ chết đi, đứa con không còn ai chăm sóc nữa, hàng ngày nó tha thẩn tấm thân
gầy còm đi ăn xin hết bếp nhà này đến bếp nhà khác. Mới đầu, người ta còn
thương hại cho ít nhiều để nó sống qua ngày. Xin hoài người ta cũng chán. Đứa
con đến đâu xin xỏ, thiên hạ cũng dè bỉu, mỉa mai. Đến bây giờ nó mới biết ăn
năn, hối lỗi. Nó cảm thấy thương mẹ vô cùng và xấu hổ với dân làng. Nó chạy ra
mộ mẹ, nằm khóc nức nở và luôn gọi: “Mẹ
ơi, tha lỗi cho con!”.
Rồi từ đêm đó, không ai
gặp cô bé nữa, chỉ thấy bên mộ bà mẹ mọc lên một cây lạ, lá nhỏ li ti, mỗi khi
có ai vô tình hay cố ý đụng đến, cây chợt rùng mình, khép nép như cố né tránh
mọi người. Người ta gọi đó là cây xấu hổ.
16. SỰ TÍCH CÂY NHỌ
NỒI
Ngày xưa ở một làng kia
có một cô gái rất xinh. Cô có dáng người mảnh mai, đặc biệt cô có đôi mắt xanh
biếc, dài và nhọn. Cô lại khéo tay, chỉ là quần áo nâu sòng, nhưng cô may rất
đẹp. Cô làm lấy những chiếc cúc trai tròn, nhỏ, có những nét chạm, khắc tinh
vi. Mỗi chiếc cúc lóng lánh trên áo như một bông hoa phát sáng. Người ta bảo cô
mát tay. Khóm rau nào cô trồng cũng xanh mơn mởn. Con gà mái nào cô nuôi cũng
đẻ trứng rất sai... Cô lại sẵn lòng chăm sóc, chữa bệnh cho những người đau ốm.
Một chút nước suối cô vỗ lên người già, người già lui cơn sốt nóng. Một nắm lá
đắp cho trẻ em, trẻ em hết cơn sài đẹn.
Một hôm, có giặc ở nước
láng giềng kéo sang xâm lược. Cái làng nhỏ của cô ở gần biên giới bị giặc tràn
qua. Chúng chặt phá vườn cây, châm lửa đốt nhà. Tàn lửa bay đầy trời như những
đám mây đen dữ tợn. Những chiếc khung nhà rực hồng như làm bằng sắt nung đỏ.
Trai làng ra trận hết. Cô gái cùng với một số bạn bè đưa các cụ già và trẻ em
đi lánh giặc. Giặc đi qua rồi, một mình cô quay về thu dọn đồ đạc cho xóm làng.
Cô đi dập tắt những đám lửa, bới tro than nhặt nhạnh những đồ ăn, thức đựng còn
sót lại, bắt nhốt những con lợn, con gà sổng chuồng, chạy lạc. Cô làm suốt ngày
không nghỉ, đầu tóc, áo quần phủ đầy tro than…
Trời về chiều. Lúc ấy,
có một đoàn quân của ta, người ngựa kéo đến, tìm đường đuổi theo quân giặc.
Chính bọn giặc bị quân ta đánh tan, sống sót vừa chạy qua đốt phá làng này.
Đoàn quân của ta do một vị tướng trẻ tuổi chỉ huy. Tướng quân mặc áo đen, cưỡi
một con ngựa bóng loáng như một tầm lĩnh. Bụi ở vó ngựa bốc lên, trông như ngựa
đi trên mây. Tướng quân đầu quấn chiếc khăn xanh màu lá mạ, lông mày đen như
hai vết mực tàu đậm nét. Mặt ông vuông, quai hàm bạnh ra như góc chiếc bánh
chưng bẻ lá dừa. Hai hàm răng ông nghiến chặt như đang nén một nỗi đau ghê gớm.
Mà quả vậy. Kìa, vai áo ông xẻ toang một bên, cánh tay trái của ông để trần,
một dòng máu chảy dài từ trên xuống. Và, gần vai, một mũi tên cắm chặt, chiếc
vè tên chồng lên như một cái đuôi cá! Thì ra tướng quân vừa bị một mũi tên của
kẻ thù bắn trúng, ông mải đuổi tàn quân giặc nên chưa kịp rút ra.
Đến làng này, tướng quân
dừng ngựa. Ông cho gọi quan thầy thuốc đến chữa vết thương. Quan thầy thuốc là
một vị lão y, tóc bạc, nhưng mắt sáng lạ thường. Lão y đã từng nhiều phen đi
chiến trận, đã cứu cho nhiều tướng sĩ bị thương. Lão y chằm chằm nhìn vào mũi
tên cắm vào bắp thịt tướng quân. Mỗi nhịp thở của vị tướng máu lại tràn ra xối
xả trên cánh tay, máu lại thấm cả vào những thớ tre và dâng lên đỏ cả nửa cây
tên. Lão y nhìn thẳng vào mặt tướng quân: - Thưa
tướng quân, nếu tôi có thể chặt cánh tay tôi lắp vào cánh tay người, nếu tôi có
thể trút cạn dòng máu của tôi sang cơ thể người, tôi không ngần ngại. Còn cây
tên này, nếu nhổ ra thì mũi thép sẽ mắc lại, không có cách nào lấy ra được.
Lão y cho báo tin khắp
làng ai có thể chữa được vết thương cho tướng quân, sẽ được thưởng rất hậu.
Quân lính đi gọi khắp làng, không tìm được ai. Tìm mãi chỉ thấy một cô gái đang
dọn dẹp giữa đám tro than, một cô gái dáng thon thả, khắp người đầy than bụi,
mặt mũi đen nhẽm như trát nhọ nồi, chỉ có hai con mắt xanh biếc và hàng cúc áo
trước ngực lấp lánh. Đó chính là cô gái mát tay.
Tướng quân lúc này đã
quá mệt. Mặt ông tái dần, mắt ông nhắm lại. Nhưng giọng nói trong như tiếng đàn
bầu của cô gái đã làm ông tỉnh dậy. Ông hé mắt, đôi mắt xanh biếc của cô gái
làm ông như thấy một bầu trời xanh dịu mát, có làn gió thổi hiu hiu. Quan thầy
thuốc già bảo cô gái: - Em có biết quanh
đây ai là người giỏi thuốc, xin mách giùm ta.
- Dạ, xóm làng lánh lạn hết, còn mình cháu. Xin cho cháu
được xem thử vết thương của tướng quân.
Cô gái vội vàng rửa tay.
Hai bàn tay được rửa sạch bỗng hiện ra trắng ngần, những ngón tay dài mềm mại.
Cô gái vừa đặt bàn tay lên vai thì tướng quân bỗng rùng mình thấy khắp người
mát rượi. Vết đau vừa rồi cháy bỏng và giật đùng đùng giờ đây dịu hẳn và cơn
sốt lùi hẳn đi như cơn oi bức được trận gió nồm thổi bạt. Tướng quân từ từ mở
mắt và nở một nụ cười. Những ngón tay cô gái nhẹ nhàng lướt trên bắp vai tướng
quân xoa nhẹ và từng li, từng li một đẩy được mũi tên trồi lên dần dần và thoắt
một cái, cô đã rút được cây tên ra cả ngạnh. Tướng quân nghiến răng ghìm một
tiếng rên rồi bỗng thở phào, sắc mặt ông hồng hào trở lại. Bàn tay cô gái áp
chặt cho vết thương khép miệng và dòng máu từ từ cầm lại…
Tướng quân cảm thấy mình
khoẻ hẳn lên. Trời vừa tối thì đoàn quân lại lên đường để kịp đuổi giặc. Tướng
quân ra đi chỉ còn nhớ cô gái mặt nhọ nhem có đôi mắt dài xanh biếc và hàng cúc
áo bằng trai như những bông hoa trắng nhỏ. Mọi người quên không hỏi tên cô và
dọc đường khi nhắc đến, ai cũng gọi cô là “cô gái nhọ nồi”.
Mấy năm sau, giặc xâm
lược đã bị đánh tan, tướng quân mới có dịp trở lại cái làng nhỏ kia. Tướng quân
hỏi thăm cô gái nhưng không biết tên cô là gì. Chỉ thấy xóm làng kể lại rằng có
một cô gái mát tay hết lòng chăm sóc cho mọi người đau, ốm. Mấy năm qua, giặc
nhiều lần tràn qua cái làng vùng biên giới này. Cô gái đã cứu chữa cho nhiều bà
con giữa mũi tên hòn đạn của giặc. Và trong một lần xông xáo giữa trận tiền,
không may cô đã hy sinh.
Tướng quân thầm nghĩ đến
cô gái chữa vết thương cho mình ngày trước. Bỗng ông thấy, bên bờ rào, ngay
dưới chân mình, có một cây nhỏ, thấp độ gang tay. Lá của cây xanh biếc, nhọn
dài, như con mắt rất thân thương đang nhìn mình. Mấy chiếc hoa trắng nhỏ xíu
như những chiếc khuy trai lấp lánh. Ông bồi hồi đứng hồi lâu. Một cụ già nói
với tướng quân: - Đó là cây cỏ nhọ nồi.
Lá cây đắp vết thương là cầm máu ngay tức khắc. Chính cô gái mắt xanh đã ngã
xuống nơi này, thưa tướng quân.
17. SỰ TÍCH CON BÌM
BỊP
Ngày xưa, có một thiếu
nữ con nhà khuê các, không hiểu vì duyên cớ gì mà cạo đầu đi tu rồi lặn lội qua
Tây phương tìm Phật. Trải qua rừng sâu núi hiểm, thân gái một mình, nàng chịu
biết bao gian nguy cực khổ. Thấy nàng mộ đạo, đức Thích Ca hoá ra một người ăn
xin để thử lòng nàng. Người ăn xin ấy nhờ nàng cho gói cơm khô duy nhất của
nàng mang theo để ăn cho đỡ đói. Nàng cảm cảnh nghèo khổ của người ăn xin, bèn
niềm nở cho cả gói cơm khô của mình. Phật động lòng nên trước khi từ biệt, có
truyền cho nàng bốn câu kinh và dặn khi nào gặp tai nạn thì niệm lên, tự nhiên
sẽ gặp sự may mắn.
Một hôm, trời đã về
chiều, chân mệt mỏi, nàng lạc vào khu rừng âm u. Bỗng trước mặt xuất hiện lờ mờ
một ánh đèn trong túp lều tranh bên sườn vắng. Nàng hối hả rảo bước đến gõ cửa
xin trọ lại qua đêm. Có tiếng lanh lảnh trong lều đưa ra, rồi tiếp đến tiếng
cười ròn rã. Mụ Chăn vốn hay ăn thịt người nên khi đánh hơi thấy nàng thì vội
há nanh nhọn hoắt lên cười để toan nuốt sống nàng. Nàng bèn niệm bốn câu kinh: Thiên la thần, địa la thần. Nhân li nạn, nạn
li thân. Nhất thiết ta ương, hoá vi thần. Nam mô A di đà Phật! Tức thì mụ
Chăn sợ hãi đến trước mặt nàng mà năn nỉ. Liền đó, ở ngoài có tiếng gào thét
làm rung chuyển cả núi rừng. Đó là con của mụ Chăn sắp về, cũng nghiền thịt như
mẹ nó. Chăn con vừa bước vào nhà đã đánh hơi mùi thịt. Khi thấy nàng núp trong
buồng, Chăn con lôi ra toan nuốt sống. Nàng nhắm mắt đọc kinh. Bỗng Chăn con
thấy ruột gan như bị cào xé, tay chân rụng rời. Chăn con năn nỉ nàng, rồi sau khi
nghe nàng thuyết pháp, Chăn con muốn chuộc tội đầy rẫy của nó, bèn móc ruột,
lấy trái tim nhờ nàng đem đến dâng Phật, rồi ngã lăn ra chết.
Sáng sau, nàng buộc quả
tim vào gánh hành lý rồi nhằm hướng Tây mà đi. Đi độ năm bảy ngày, quả tim sình
lên mùi thối, nàng bèn vứt nó vào bụi rậm. Qua nhiều ngày vất vả, ni cô trông
thấy trước mắt ánh sáng chói loà trên nóc điện vàng xứ Phật. Mặc dầu gần đuối
sức, ni cô bước mau, tới gần thành cực lạc. Đến cửa vào đất Phật, ni cô đã kiệt
sức, đưa tay lên gõ, cửa vẫn khép chặt. Gõ mạnh thì thấy một vị Bồ tát hiện ra
trước mặt, hỏi: "Nam mô A di đà
Phật! Chúng sinh lòng tưởng tới Phật mới xa xôi lặn lội tìm tới Tây phương. Vậy
chẳng hay dọc đường có ai nghĩ tới Phật nữa không?". Ni cô bèn đem
chuyện Chăn con gửi trái tim mà kể lại.
Bồ tát bảo rằng cửa Phật chỉ mở cửa khi nào ni cô đem đến trái tim đã hứa dâng
cho Phật. Nghe vậy, ni cô khóc nức nở, thưa rằng mình không còn sức để tìm trái
tim đã vứt dọc đường. Bồ tát nói rằng: "Nếu vậy ta sẽ ban cho cô đôi cánh để bay cho khỏi mệt". Thế
rồi Bồ tát niệm một câu kinh, tức thì ni cô biến thành một con chim. Cô gái
đang đội mũ đen ni cô nên đầu hoá đen, mắt vừa khóc hoá đỏ, bộ quần áo nâu
thành bộ màu đà.
Từ đó con chim bay đi
tìm trái tim, hết lùm nọ đến bụi kia, thình thoảng lại than vãn: "Tội nghiệp! Tội nghiệp!" mà không
bao giờ kiếm ra vật Chăn con đã giao cho nàng dâng lên Phật. Do tiếng kêu của
con chim màu đà, người ta đặt tên cho nó là bìm bịp.
18. SỰ TÍCH CON CÀO
CÀO
Cào cào xưa kia là một
cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện nhưng vì nhà nghèo nên cô chưa được thỏa ý
muốn.
Một hôm, nhà vua bị lạc
mất cô công chúa bèn sai quân lính đi tìm. Lúc đó cô gái đẹp đang kiếm củi dưới
gốc cây sấu lớn bên đường. Tốp lính thứ nhất đi qua, hỏi rằng: - Cô có thấy công chúa qua đây không? Cô
gái nhìn thấy toán người này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng bay trong gió
như tấm lụa màu hồng. Cô thích quá liền bảo: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi sẽ chỉ cho.
Tốp lính cho cô một chiếc áo rồi đi theo hướng cô đã chỉ.
Lúc sau có tốp lính khác
chạy qua, mặc toàn áo xanh màu lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi: - Cô ơi có thấy công chúa chạy qua đây không?
Cô gái nghĩ: "Tốp trước đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh.Ta xin một
cái mặc cho đẹp". Nghĩ vậy, cô bảo họ: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi sẽ chỉ cho.
Tốp lính bảo nhau cho cô gái cái áo rồi họ tiếp tục đi theo đường cô chỉ. Ðược
hai cái áo, cô thích quá, thầm chắc rằng về nhà ai cũng phải khen.
Khi cô chuẩn bị về toán
lính nữa mặc toàn áo màu trắng như nước suối. Họ thấy cô gái lại hỏi về công
chúa. Quen như hai lần trước, cô đòi một cái áo rồi mới chỉ đường. Thế là cô có
ba cái áo: một hồng, một trắng, một xanh. Cái nào cũng đẹp.
Cô khoác cả ba cái vào,
ngắm nghía, nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có tiếng sét nổ dữ dội, làm một
cành sấu rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết, hóa thành con cào cào,
suốt ngày tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu cho đến tận bây giờ.
19. SỰ TÍCH HOA CỎ
MAY
Ngày xửa ngày xưa, tại
một ngôi làng nọ có đôi trai gái yêu nhau rất thắm thiết. Nàng xinh đẹp, là con
gái của một gia đình giàu có, một tiểu thư khuê các, còn chàng chỉ là anh đốn
củi nghèo, mồ côi sống trong túp lều tranh xơ xác. Có không ít những người môn
đăng hộ đối muốn cùng nàng “kết tóc xe tơ”, nhưng nàng chẳng cảm mến ai, vì
trọn con tim đã gửi cho chàng trai chăm chỉ, thật thà, tốt bụng. Mối tình của
họ không được chấp thuận, bố mẹ nàng đuổi chàng ra khỏi làng.
Vì quá yêu nhau, họ bàn
bạc đi đến một nơi thật xa, nơi không ai biết để cùng làm ăn sinh sống. Họ chấp
nhận cơ cực để được sống bên nhau trọn đời. Nhưng cuộc sống cơ cực đã biến nàng
từ một tiểu thư khuê các thành người đàn bà lam lũ. Nhìn người vợ trẻ rất mực
yêu quý phải vất vả đầu tắt mặt tối, chàng không an lòng, tự dày vò, trách cứ
bản thân đã không đem lại được cuộc sống đầy đủ cho vợ. Nỗi day dứt khiến chàng
quyết chí ra đi làm giàu. Chàng để chút vốn liếng ít ỏi còn lại đỡ đần người vợ
trẻ rồi ra đi, hẹn một năm sau trở về với cuộc sống đầy đủ, khá giả hơn.
Người con gái ở nhà dệt
vải, trồng rau, nuôi trong mình niềm hy vọng mãnh liệt chàng sẽ trở về. Một
năm, hai năm, rồi ba năm…thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, nàng vẫn không nhận
được tin tức của chồng. Nỗi nhớ nhung cùng niềm mong mỏi làm nàng ngày càng trở
nên xơ xác, héo hon. Tình yêu, niềm tin vào người chồng thật thà, tốt bụng
khiến nàng quyết định đi tìm chàng với ước mong về một ngày mai đoàn tụ.
Nàng ra đi, đi đến đâu
cũng hỏi về tung tích người chồng yêu quý. Biển người mênh mông bao nhiêu, đất
trời rộng lớn bao nhiêu cũng không làm người con gái ấy nản lòng. Tình yêu vẫn
luôn thường trực và bùng cháy trong sâu thẳm trái tim, một trái tim khát khao
kiếm tìm hạnh phúc.
Thế nhưng tình yêu, niềm
tin và hy vọng của nàng cuối cùng chỉ đổi lại bằng những cái lắc đầu, xua tay.
Nàng cứ đi, đi mãi, cho đến một ngày mệt quá xỉu lúc nào không hay. Nàng nằm
xuống, trong lòng vẫn đau đáu nỗi niềm chờ mong, hy vọng.
Cảm kích trước tình yêu
son sắt thủy chung của cô vợ trẻ, sau khi nàng chết, Ngọc Hoàng đã hóa phép
biến nàng thành một loài hoa cỏ, loài hoa cỏ màu tím bàng bạc, có sức sống mãnh
liệt giống như tình yêu thủy chung của nàng. Chị gió tốt bụng cảm động trước
tấm chân tình của người con gái đã đem loài hoa cỏ ấy đi khắp mọi nơi trên các
nẻo đường gần xa. Dù người con gái ấy không còn nữa, nhưng tình yêu của nàng
thì bất diệt cùng tháng năm, để rồi mỗi lần có khách đi đường ngang qua, nàng
vẫn cố gắng níu bám vạt áo họ để hỏi thăm tin tức về chồng.
20. SỰ TÍCH CON MUỖI
Ngày xưa, có một người
nông dân hiền lành tên là Ngọc Tâm, có một người vợ xinh đẹp tên là Nhan Diệp.
Khác hẳn với tính tình đơn giản của chồng, quanh năm chăm chú làm ăn, người vợ
lười biếng xa hoa, chỉ lo thỏa thê sung sướng.
Trong lúc hai vợ chồng
tưởng chung sống với nhau đến răng long đầu bạc, thì Nhan Diệp bỗng lăn ra
chết. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa xác vợ, bèn bán hết tài sản,
mua một chiếc thuyền chở quan tài vợ thả bồng bềnh trên mặt nước.
Một buổi sớm mai thuyền
đi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây ngào ngạt, Ngọc Tâm lên bờ thấy đủ các kỳ
hoa dị thảo, cây cối nặng trĩu trái thì lấy làm lạ bèn phăng lần lên cao. Lưng
chừng núi, Ngọc Tâm gặp một ông lão tướng mạo phương phi, râu tóc bạc phơ, tay
chống gậy trúc đang lần bước. Thấy người có vẻ tiên phong đạo cốt, đoán chừng
là thần tiên ở núi Thiên Thai xuất hiện, Ngọc Tâm bèn sụp lạy, rồi thiết tha
xin cứu tử hoàn sinh cho người vợ thương yêu. Vị thần thương hại nhìn Ngọc Tâm
hồi lâu rồi nói: - Ngươi còn nặng lòng
vương vấn trần ai, chưa thoát được vòng tục lụy... Ta có thể giúp cho ngươi đạt
ước vọng song về sau ngươi đừng có lấy làm ân hận! Ngọc Tâm theo lời vị thần,
dở nắp quan tài vợ ra, chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào thi thể Nhan
Diệp, thì người đàn bà từ từ mở mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài.
Trước khi từ giã, vị
thần bảo người đàn bà vừa sống lại: - Đừng quên bổn phận của người vợ... Hãy
luôn luôn nghĩ đến lòng thương yêu chung thủy của chồng... Chúc cho hai vợ
chồng được sung sướng.
Trên đường về quê, người
chồng hối hả giục thuyền đi mau. Một tối thuyền ghé bến, Ngọc Tâm lên bờ mua
sắm thức ăn. Trong lúc đó, có một chiếc thuyền buôn lớn đậu sát bên cạnh, chủ
nhân là tay lái buôn giàu có chú ý đến nhan sắc lộng lẫy của Nhan Diệp. Hắn gợi
chuyện, mời Nhan Diệp qua thuyền mình dùng trà rồi ra lệnh cho bạn thuyền dong
hết buồm chạy.
Ngọc Tâm quay về thấy
mất vợ, bỏ cả ăn ngủ, ngày đêm đi tìm kiếm, một tháng sau mới gặp. Nhưng người
đàn bà đã quen với lối sống xa hoa bên cạnh tay lái buôn giàu có, quên cả tình
cũ nghĩa xưa. Thấy rõ bộ mặt thật của vợ, Ngọc Tâm như tỉnh cơn mê, bảo Nhan
Diệp: - Mình được tự do bỏ tôi song tôi không muốn mình còn lưu giữ kỷ niệm gì
của tôi nữa, vậy hãy trả lại ba giọt máu của tôi đã nhỏ ra để cứu mình sống
lại. Nhan Diệp thấy được ra đi dứt khoát dễ dàng như thế, vội vàng lấy dao
chích đầu ngón tay, nhưng máu vừa bắt đầu nhỏ giọt thì nàng ngã lăn ra chết.
Người đàn bà nông nổi,
phụ bạc chết vẫn còn luyến tiếc cõi đời nên hóa kiếp thành một vật nhỏ, ngày
đêm đuổi theo Ngọc Tâm, tìm cách ăn cắp ba giọt máu để trở lại làm người. Con
vật này luôn luôn kêu than với chồng cũ, như van lơn, như oán hận, như tiếc
thương, ngày đêm o o không ngừng. Về sau giống này sinh sôi nẩy nở rất nhiều,
người ta đặt tên nó là con muỗi. Vì ghét kẻ phụ bạc, nên mỗi lần muỗi lại gần,
người ta không tiếc tay đập cho nó chết.
21. SỰ TÍCH CON TẰM
Ngày xưa, có người con
gái tên là Thị Tơ, cha mẹ đều mất sớm, phải đem thân đi ở cho một bà goá giàu
có. Tính tình bà chủ quá ác nghiệt khiến Thị Tơ phải trốn chạy vào khu rừng,
nghĩ bụng thà chết bởi thú dữ còn hơn ở mãi trong cảnh bị hành hạ hàng ngày.
Thị Tơ chạy được một
quãng khá xa, phần bấy lâu nay ăn uống thiếu thốn đuối sức, phần vất vả băng
rừng lội suối, nên ngã ngất nằm trên một tảng đá. Thần núi ở đây thấu rõ tình
cảnh đáng thương của cô gái hiền lành thơ ngây mới theo dõi che chở.
Khi Thị Tơ bừng mắt tỉnh
dậy tưởng mình như qua một giấc chiêm bao. Cảnh vật xung quanh khác hẳn lúc
nàng ngất đi. Nàng nhìn thấy mình nằm trong một cái động, rêu trải mềm dịu như
nhung, dưới chân một dòng suối trong chảy qua kẽ đá êm đềm như tiếng nhạc.
Trước mắt nàng, vừa tầm tay với vô số những trái cây ngon chín đỏ lủng lẳng ở
dây leo, buông xuống như rèm che cửa động. Đang đói khát sẵn, nàng đưa tay lên
hái ăn ngấu nghiến ngon lành.
Sau bữa ăn thanh đạm ấy,
trong người nàng cảm thấy khoẻ nhẹ khác thường. Thần núi hiện hình một ông lão
râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc bước đến gần nàng. Trông thấy cụ già phúc
hậu, Thị Tơ kính cẩn vái chào. Ông lão làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi nàng ở đâu đến
đây, làm sao lạc lõng một mình giữa rừng núi vắng. Thị Tơ kể lại đầu đuôi về
kiếp sống đày đoạ của mình. Ông lão lắc đầu thương cảm rồi khuyên nhủ:
- Cháu trốn đi là phải,
cháu cứ ở lại đây, có lẽ được yên thân hơn, có lão trông chừng cho.
- Thưa cụ, cụ là ân nhân
của cháu, xin cụ cho cháu được biết cụ ở đâu?
- Cả khu rừng núi này là
của lão. Lão sống bằng nghề đốn củi nên nay đây mai đó luôn. Cháu đừng lo ngại,
thỉnh thoảng lão lại thăm. Nếu có việc gì cần đến lão, cháu cứ tới mỏm đá này
gọi "Ông Tiểu ơi" là có lão đến ngay.
Sáng hôm sau, ông lão
trở lại cho Thị Tơ một bọc quần áo mới để thay bộ đồ cũ rách nát. Từ đó, Thị Tơ
sống một cuộc đời thanh nhàn, tự do, không phải lo đến ngày mai, không rầu buồn
nghĩ đến ngày qua. Dần dần, chim chóc, các thú trong rừng đến làm quen với
nàng, ngày ngày mang lại cho những trái cây ngon ngọt để dùng làm thức ăn. Sống
như thế, nhan sắc Thị Tơ ngày một rạng rỡ như một đoá hoa rừng đang độ tốt
tươi.
Vào thuở bấy giờ, ở
Thượng giới có một vị thần đam mê khoái lạc, sau khi biến cõi Thiên đình thành
một chốn trác táng rồi chán những lạc thú trên trời, thần tìm xuống trần gian.
Nhờ phép siêu phàm, vị thấn biến hoá ra đủ mọi hình dạng để cám dỗ đàn bà con
gái. Thần hiện ra khắp nơi, khi là vị quan trẻ đẹp, tài ba lỗi lạc, khi là một
thanh niên tuấn tú, phong nhã, đa tình, để lôi cuốn bao nhiêu người đẹp vào
trong vòng sắc dục. Không người đàn bà, con gái nào Thần để ý đến mà tránh khỏi
sức thu hút của thần để khỏi rơi vào vòng đam mê, khoái lạc... Một hôm, khi đi
tìm lạc thú ở nơi thôn dã qua khu rừng hoang vắng nọ, tình cờ gặp cô gái rừng
xanh đang nô đùa với bầy chim cùng muông thú. Sau phút sững sờ trước sắc đẹp
của Thị Tơ, lòng dục bùng cháy lên, Thần mon men tiến lại định vồ lấy người
đẹp. Một tiếng chim kêu thất thanh, cả cô gái cùng muông thú vội vàng bỏ chạy,
thần ra sức đuổi theo. Thị Tơ quen sống giữa thiên nhiên nên nhanh nhẹn khác
thường, chạy như gió, thần bèn giở phép phóng theo. Trong lúc thần sắp chụp
được nàng thì con nai đến quỳ xuống cho Thị Tơ leo lên lưng mà thoát khỏi tay
thần.
Nai đưa tới động, Thị Tơ
sợ hãi không dám bước ra ngoài nữa. Nàng trèo lên mỏm đá, gọi "Ông Tiểu
ơi" ba lần thì thấy ông lão hiện ra. Ông lão căn dặn nàng cẩn thận và trao
cho nàng một chiếc vòng ngọc, đeo vào tay có thể muốn tàng hình lúc nào cũng
được. Nhờ thế mà nàng tránh được sự săn lùng của vị thần dâm đãng.
Thấy công theo đuổi của
mình không kết quả. Thần nổi giận, thề quyết bắt nàng cho kỳ được. Nhờ phép
siêu phàm, thần giăng một cái lưới rộng lớn với những sợi chỉ thật nhỏ và thật
chắc bao quanh cả khu rừng. Cô gái không dè chừng nên mắc vào lưới, may thay,
một con bạch dương dùng ngà đâm thủng, cứu thoát nàng một lần nữa. Nàng gọi ông
Tiểu đến, ông lão hiện ra khuyên nàng lần sau, có bị vướng lưới thì kêu đến tên
Phật Bà Quan Âm.
Vì sợ mắc bẫy nên đã lâu
Thị Tơ không dám ra khỏi động. Nhưng lòng ham muốn tự do chạy nhảy lại thúc
giục nàng. Lần này nàng hướng về phía khác để tránh sự theo dõi của vị thần.
Song nhờ phép thần thông, vị thần biết được thời gian nàng đi và nơi nàng đến,
nên giăng lưới trước bắt được. Nhớ lời ông lão dặn, nàng kêu đến tên Phật Bà
Quan Âm, thì nhiệm màu thay, tất cả các sợi chỉ đều rút gọn lại thu tròn bằng
một hạt đậu lạc. Trong lúc nàng mở miệng gọi đến lần thứ hai thì thấy chỉ theo
hơi nàng hút vào trong bụng.
Thấy phép tắc thần thông
bị cô gái thu mất, vị thần nổi trận lôi đình nghĩ cách trả thù. Lập tức thần
gọi ngay Thiên Lôi ở dưới quyền mình trước kia đến. Thần sét rủ các bạn là thần
Gió, thần Mưa, thần Sấm chớp cùng đến ra mắt. Vị thần mê gái liền nhờ Thiên Lôi
giúp mình đánh cho tan tành quần áo cô gái đang nô đùa với bầy thú giữa rừng
kia, song đừng làm hại đến người nàng. Thần Sét vâng lời, rồi chỉ trong nháy
mắt, giữa lúc cô gái đang vuốt ve mấy con nai con bên bờ suốt, thì mây đen kéo
đến kín trời, gió nổi lên dữ dội, sấm dậy ầm ầm, chớp nhoằng chằng chịt, mưa
tuôn xối xả. Thị Tơ bỏ chạy về động, bỗng một tiếng sét nổ vang trời rung
chuyển cả núi rừng nhằm bổ xuống người nàng. Thị Tơ không hề hấn gì, song lớp
quần áo che đậy người nàng đã tan biến mất. Vị thần đứng trên mỏm đá cao chứng
kiến cảnh tượng ấy, phá lên cười đắc thắng, rồi chạy về phía người đẹp. Nhưng
thần lại thất vọng lần nữa, vì chiếc vòng ngọc đeo ở tay Thị Tơ đã giúp nàng
thành ra vô hình.
Đêm xuống, Thị Tơ khó
nhọc mò về đến trong động, nàng thẹn thùng với tất cả xung quanh, tưởng chừng
như vật gì cũng có mắt đang tò mò nhìn mình. Trần truồng, nàng không dám gọi
đến ông lão hay lũ thú rừng quen biết đến cứu giúp. Nàng lui vào cuối động, rét
run lẩy bẩy. Tấm lưới thần đã nuốt vào bụng làm cho nàng khó chịu, nôn ra thành
một đống chỉ mềm dịu, bền chắc. Lạnh quá nàng quấn đống chỉ vào người thành một
tấm mềm đắp ấm áp. Thế rồi nàng dần dần tắc thở trong đống chỉ êm dịu ấy. Trước
khi linh hồn rời khỏi thể xác, nàng nghĩ đến những kẻ nghèo nàn, khốn khổ,
thiếu quần áo che thân, phải chết lạnh lẽo như nàng, tự nguyện sẽ giúp cho họ
may mặc, đem những sợi chỉ này dệt thành quần áo. Vì thế mà nàng chết đi hoá
thành con tằm.
Để thực hiện lời nguyện
ước, hồn nàng mang theo đống tơ chỉ đến giăng ở một ngọn cây dâu trong vườn
Thượng uyển, nơi Hoàng hậu cùng vua thường tới ngự mỗi chiều. Khi Hoàng hậu
ngang qua, hồn nàng mới thả ra các sợi tơ vàng óng ánh tung bay trong gió.
Hoàng hậu ngạc nhiên hứng lấy, thấy chỉ tơ đẹp, ánh vàng, mềm dịu, bứt thử mới
hay là sợi tơ trông mong manh mà dẻo chắc lạ thường. Dâng lên vua xem, Hoàng
hậu ước mong được mặc một chiếc áo dệt bằng những sợi tơ vàng đẹp ấy.
Nỗi mong ước của Hoàng
hậu được vua sai thực hiện. Tất cả những sợi tơ vàng trong vườn Ngự Uyển đều
được thu góp lại, bao nhiêu thợ dệt tài giỏi trong nước được triệu vào cung,
rồi chẳng mấy chốc, một tấm lụa vàng cực kỳ mềm dịu, bền chắc, rạng rỡ dâng lên
trước mắt vua. Hoàng hậu vui mừng sai cắt may ngay cho mình một chiếc áo dài để
hôm sau ra Triều ngự cạnh vua. Cả triều đình sửng sốt trước vẻ đẹp của chiếc áo
mới làm, tăng thêm bội phần nhan sắc của người mặc. Vua mới cho triều thần hay
là chính Hoàng hậu đã khám phá ra thứ chỉ tơ quý lạ đó, cho phép các quan cùng
nhà giàu có trong nước được bắt chước Hoàng hậu may mặc thứ hàng mới kia.
Từ đó, nghề trồng dâu,
nuôi tằm bắt đầu nảy nở, đáp lại nguyện vọng thiết tha của cô gái quê mùa Thị
Tơ.
22. SỰ TÍCH CON KHỈ
Ngày xưa có một người
con gái đi ở với một nhà trưởng giả. Nàng phải làm việc quần quật suốt ngày,
lại bị chủ đối đãi rất tệ. Cái ăn cái mặc đã chả có gì mà thỉnh thoảng còn bị
đánh đập chửi mắng. Vì thế, cô gái tuổi mới đôi mươi mà người cứ quắt lại,
trông xấu xí bệ rạc hết chỗ nói. Một hôm nhà trưởng giả có giỗ, cỗ bàn bày linh
đình, họ hàng đến ăn uống đông đúc. Trong khi đó thì cô gái phải đi gánh nước
luôn vai không nghỉ. Lần gánh nước thứ mười, cô gái mỏi mệt quá ngồi lại ở bờ
giếng. Tự nhiên cô thấy tủi thân, ôm mặt khóc. Lúc đó đức Phật bỗng hiện ra với
trạng mạo một ông cụ già. ạng cụ có vẻ đâu từ xa lại, dáng điệu mệt nhọc đến
xin nước uống. Nàng vội quảy gánh xuống giếng vực nước lên cho ông già giải
khát. Ông cụ uống xong lại đòi ăn. Cô gái nhớ tới phần cơm của mình chưa ăn,
bèn bảo ông cụ ngồi chờ rồi quảy gánh nước về. Lần sau ra giếng, cô lấy cơm
trong thùng đưa cho ông già và nói: - Họ dành phần cho con toàn cơm cháy cả, cụ
ăn một bát này cho đỡ đói.
Ăn xong, ông cụ bảo
nàng: - Hồi nãy làm sao con khóc? Cô
gái ngập ngừng, cúi mặt xuống không trả lời.
- Ta là đức Phật - ông cụ nói
tiếp - ta thấy con có lòng tốt. Nếu con
muốn gì, ta sẽ làm cho con vui lòng.
Cô gái ngạc nhiên mừng
rỡ, kể nỗi lòng với đức Phật. Thấy điều ước muốn của người con gái chỉ là làm
sao cho bớt xấu xí, ông cụ bảo nàng lội xuống giếng, hễ thấy bông hoa nào đẹp
mút lấy thì sẽ được như nguyện. Khi xuống nước, cô gái chỉ mút mấy bông hoa
trắng. Tự nhiên lúc lên bờ, nàng trở nên trắng trẻo xinh xắn, đồng thời quần áo
cũng biến thành những thứ tốt đẹp.
Khi cô gái quảy gánh
nước trở về, cả họ nhà trưởng giả vô cùng kinh ngạc. Nàng xinh đẹp đến nỗi họ
không thể nào nhận ra. Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy cũng muốn cầu may một tí.
Họ lập tức đổ xô cả ra bờ giếng mong gặp lại đức Phật để được trẻ lại và đẹp
ra. Thấy ông cụ già vẫn còn ngồi ở chỗ cũ, họ sung sướng như người được của. Họ
đưa xôi thịt ra mời tới tấp: - Này cụ xơi
đi! Cụ xơi đi. Rồi cụ làm phúc giúp cho chúng tôi với!
Đức Phật cũng bảo họ lội
xuống giếng và dặn họ y như dặn cô gái lần trước. Dưới giếng lúc đó đầy hoa đỏ
và hoa trắng. Ai nấy đều cho màu đỏ là đẹp nên khi lội xuống giếng đều tìm hoa
đỏ mút lấy mút để. Nhưng không ngờ lúc lên bờ, họ không phải trẻ lại mà già
thêm ra: mặt mũi nhăn nheo, người trông quắt lại, lông lá mọc đầy người, đằng
sau lưng là cả một cái đuôi. Những người đi gánh nước thấy vậy hoảng hồn:
"Kìa trông con quỷ, nó cắn bà con ôi!".
Nhưng lại có những tiếng khác: "Đánh
cho chết chúng nó đi! Sợ gì". Lập tức mọi người cầm đòn gánh xông lại.
Cả họ nhà trưởng giả kinh hoàng bỏ chạy một mạch lên rừng.
Từ đó, cô gái cùng với
số người nghèo hầu hạ trưởng giả được hưởng những của cải do chúng để lại. Lại
nói chuyện trưởng giả và họ hàng đành phải nấp náu trong rừng sâu, ngày ngày
kiếm quả cây nuôi thân. Chúng đi lom khom, áo quần rách nát trông rất thiểu
não. Nhưng chúng vẫn tiếc của. Cho nên thỉnh thoảng ban đêm chúng lại mò về,
hoặc gõ cửa, hoặc ngồi trước nhà kêu léo nhéo suốt đêm, gần sáng mới trở về
rừng.
Thấy vậy cô gái và mọi
người sợ quá, đêm đêm đóng cửa rất chặt. Họ bàn nhau tìm cách đuổi chúng. Họ
bôi mắm tôm vào các cánh cửa, lại nung nóng rất nhiều lưỡi cày đặt rải rác ở
cổng các nhà. Quả nhiên, một đêm nọ chúng lại mò về. Theo lệ thường, chúng đánh
đu vào song cửa kêu rít lên. Nhưng lần này chúng vừa mó đến đã bị mắm tôm vấy
đầy tay, rồi từ tay vấy khắp cả người, hôi hám không thể nói hết. Chúng kinh sợ
dắt nhau ra ngồi trước cổng quen như thói cũ. Nhưng vừa đặt đít ngồi xuống các
lưỡi cày thì chúng đã kêu oai oái, rồi ba chân bốn cẳng bỏ chạy lên rừng. Từ đó
chúng kệch không dám về nữa.
Trong những khi lên rừng
hái củi, người ta thỉnh thoảng vẫn gặp chúng. Thấy bóng người từ đàng xa, chúng
liền chuyền theo nhánh cây, lủi nhanh thoăn thoắt. Người ta gọi chúng là những
con khỉ. Ngày nay vẫn có nhiều người cho khỉ là thuộc nòi trưởng giả. Còn những
con khỉ sở dĩ đỏ đít là vì chúng chịu di truyền dấu vết bỏng đít của tổ tiên.
23. SỰ TÍCH CÁ HE
Ngày xưa, có một nhà sư
trẻ tuổi rất ngoan đạo. Sau ba năm khổ công tu luyện, sư thuộc tất cả kinh kệ
nhà Phật, lại giỏi thuyết pháp. Vậy lâu rồi vẫn chưa được thành chính quả. Sư
bụng bảo dạ: "Phải đến đất thánh một phen mới có hy vọng thành Phật".
Nghĩ vậy, sư ta quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Đường đi từ nước nhà
sang Tây Trúc ngày đó chưa có cách nào cho thuận lợi. Việc giao thông hầu hết
là bằng đường bộ, mà đi bộ thì thật là muôn vàn nguy hiểm. Nhưng nhà sư trẻ
tuổi quả quyết nhắm hướng Tây tiến bước.
Cuộc hành trình đã được
năm mươi ngày. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt rét,
nhưng chàng vẫn cứ tiếp tục đi thăm đất thánh.
Một hôm, sư đến một khu
rừng thì trời đã chiều. Sư cố bước dồn hòng tìm một nơi nghỉ vì trong người đã
thấy ớn rét. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi
cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư chưa kịp xin ngủ nhờ một đêm, nhưng bà cụ
vừa thấy khách là xua tay rối rít: - Đi
mau lên! mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng. Sư đáp: - Tôi bây giờ thật kiệt sức, không thể nào
bước được nữa. Nếu không cho nghỉ thì tôi cũng đành nằm liều trước cửa đây thôi.
Bà cụ bảo: - Chao ôi! Con ta vốn là Ac-Lai hay ăn thịt
người, cố đi nhanh lên bây giờ nó sắp về rồi đó. Nhưng sư đã vứt tay lải,
nằm vật xuống đất, hai đầu gối va vào nhau chan chát. Bà cụ không biết nói thế
nào nữa, đành nắm tay y lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy vào, bà cụ bảo
y phải cố giữ cho thật im lặng để tránh một cái chết thê thảm. Đoạn bà cụ chất
củi phủ lá thật kín đáo.
Trời tối hẳn thì Ac-Lai
về đến nhà, tay sách một con mang. Hắn dừng lại ở chân thang và khịt mũi mãi.
Hắn nói: - Có mùi thịt, mẹ ạ! Mẹ hắn
đáp: - Thì chả là thịt mày mang về là gì?
Hắn nói:- Không! Con biết rõ lắm có thịt người!
Bà cụ chưa kịp can thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy
chốc, hắn đã lôi được nhà sư đang bất tỉnh từ dưới hầm. Khi sư tỉnh dậy thì đã
thấy Ac-Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát: - Mày đi đâu? Sư nhìn thấy hắn không khác
gì người thường bèn tỉnh táo đáp: - Tôi
đi tìm Phật. - Tìm để làm gì?
Sư bây giờ mới rõ mục
đích của mình. Rồi luôn miệng sư tuyên truyền đạo từ bi cho hắn. Sư nói mãi,
nói mãi, kể bao nhiêu ngày gian khổ của mình dọc đường. Và niềm mong muốn nhìn mặt
đức Phật để được thành đạo. Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ac-Lai đều cảm động
đến rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi, sư cho họ biết họ cũng sẽ chở nên
"vô sinh vô diệt", sẽ sống một đời sống vô cùng sung sướng trên Niết
Bàn, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện. Tự nhiên mũi mác ở tay Ac-Lai rơi xuống
sàn. Những đường nhăn hung ác lúc này dịu lại.
Sáng hôm sau, khi sư sắp
sửa lên đường thì mẹ con Ac-Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho sư. Họ lại tiễn
sư đi qua một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt, Ac-Lai hỏi: - Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây? Sư đáp: - Tâm tức thị Phật, Phật tức thị tâm". Chỉ dâng tấm lòng mình là
đủ. Sư không ngờ Ac-Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch bụng mình lôi ra
cả một mớ ruột gan đưa cho sư và nói: - Nhờ
hoà thượng dâng hộ lên đức Phật. Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ và Ac-Lai hiểu
nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng, sư ta đành
nhìn vào cặp mắt của Ac-Lai gật đầu nhận lời, rồi gói bộ lòng của người đáng
thương đó lại và quảy lên đường.
Sư vừa đi được mấy ngày
thì khu rừng rậm chấm dứt, để lộ ra trước mặt mênh mông bát ngát. Nước trời một
vẻ trông rất vui mắt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui một chút nào. Món lễ
vật của đức Phật đè nặng lên vai, nếu chỉ có thế thì không có gì là ngại cho
lắm. Khổ một nỗi là mùi thối trong bộ lòng kia xông ra khó tả. Sư đã bọc nó ba
tầng bốn lớp mà mùi nó vẫn nồng nặc. Sư lẩm bẩm "Như thế này thì các nhà quán dọc đường còn ai dám chứa mình".
Qua ngày hôm sau, không thể chịu nổi nữa, sư bèn vất bộ lòng Ac-Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi rồi cũng
đến Tây Trúc, nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên thắc mắc vì sao chưa
được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng xuống bảo chàng: -
"Còn thiếu một vật nữa mới thành
chính quả". Sư rất đỗi kinh ngạc, cố ngước mắt nhìn lên trên cao, sư
thấy đức Phật ngự giữa toà sen sáng chói, sau lưng có bóng dáng hai người tựa
như hai mẹ con Ac-Lai đã thành chính quả Sư nằm phục vị hồi lâu, trong lòng
thẹn thùng vô kể.
Nhà sư sau đó lại trở về
chốn cũ để tìm lại bộ lòng. Tuy biển mênh mông và sâu kín, nhưng cũng cố lặn
ngụp để mong lấy lại món quà dâng Phật mà Ac-Lai gửi cho mình. Sư nghĩ chỉ có
thể làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ac-Lai và hy vọng gần gũi toà sen đức Phật.
Sư bơi lên lặn xuống mãi, sau đó sư hoá làm loài cá mà người ta vẫn gọi là cá
he, cũng gọi là cá nược hay có nơi gọi là cá ông sư. Vì cho đến nay dòng dõi
loài cá đó, con nào con nấy có cái đầu trọc như đầu ông sư mà vẫn làm cái việc
của nhà sư nghĩa là chúng đi hàng đàn, cứ lặn xuống nổi lên luôn không chịu
nghỉ.
24. SỰ TÍCH CHIM TU
HÚ
Xưa, có hai nhà sư là Năng Nhẫn và Bất Nhẫn.
Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo
lánh. Sau một thời gian tu luyện thì bỗng một hôm Năng Nhẫn được đức Phật độ
trì cho thành chính quả.
Bất Nhẫn thấy mình tu hành không kém gì bạn
mà không được hưởng cái may mắn sớm như bạn thì rất buồn bực. Chàng đến toà sen
hết sức kêu nài với đức Phật bầy tỏ lòng trung thành tu đạo cùng mọi sự khổ
hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật bảo chàng: ''Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo,
lại là người trong sạch thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà ngươi vẫn như
con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ vẻ nhẫn nhục
trong một cuộc khổ hạnh trường kì rồi sẽ theo bạn vẫn chưa muộn".
Bất Nhẫn nghe lời bèn
lên núi chọn một gốc cây, bắt chước ngồi xếp bằng tu theo lối trường định.
Chàng cương quyết ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù có phải thế nào
cũng không chịu dậy.
Và từ hôm đó Bất Nhẫn
như một vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp mình chàng. Những con
thú cà vào thân chàng, những con chim ỉa phẹt lên đầu chàng, chàng đều không
bận tâm. Chàng chỉ tâm tâm niệm niễm những nghĩa lý của đạo Phật.
Cứ như thế trải qua hai
mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết thúc việc tu luyện. Tự dưng một
hôm, có hai vợ chồng con chimm chích ở đâu đến làm tổ ngay trong vành tai của
Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chúng đi về tha rác
lên đầu, lên mặt. Rồi chim mái đẻ trứng, rồi cả một thời kì hai vợ chồng thay phiên
nhau ấp. Cho đến lúc những con chim non kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn
không lấy thế làm khó chịu.
Một hôm, lúc chỉ còn vài
ngày nữa thì Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây. Hôm đó, chim vợ đến lượt đi
tìm thức ăn cho con. Suốt cả buổi chiều nó không kiếm được chút gì. Mãi gần
tối, lúc lượn qua cái hồ, chim vợ thấy một con nhện đang giăng tơ trong một đóa
sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn vào giữa những cánh hoa làm cho chim mất công
tìm mãi. Không ngờ vừa tắt ánh mặt trời hoa sen đã cụp ngay những cánh hoa lại
nhốt chim vào trong. Chim cố tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa dày quá, đành
chịu nằm lại.
Ở nhà, chim chồng hết
bay đi tìm kiếm vợ lại trở về. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm. Mãi đến sáng
mai chờ lúc hoa nở, chim vợ mới thoát được bay về tổ. Một cuộc cãi lộn nổ ra
bên tai Bất Nhẫn. Ghen vợ, chim chồng nhiếc vợ hết lời, nhưng chim vợ hết sức
bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài suốt cả một buổi
sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu, thêm vào đó đàn con khóc
đói chíu chít điếc cả tai. Nhè lúc vợ chồng chim tiếp tục cuộc cãi vã, Bất Nhẫn
bỏ tay lên tai giật tổ chim vứt mạnh xuống đất và nói: "Đồ khốn! Chỉ có mỗi một chuyện đó mà chúng
mày làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ". Thế là công sức tu luyện của
Bất Nhẫn sắp hoàn thành tự dưng vứt bỏ trong chốc lát.
Nhưng Bất Nhẫn không nản
chí. Trước toà sen, chàng hứa sẽ kiếm tìm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng
tìm đến một khúc sông nước chảy siết, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách
bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở đến người thứ một trăm mới
chịu nghỉ tay. Lần này, Bất Nhẫn tỏ ra là một người rất tích cực. Tuy bến sông
thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm
chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra việc gì.
Một hôm vào khoảng giữa
thu, nước sông tự nhiên tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ trận mưa
lớn, giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Hắn có vẻ là
vợ một tên quan sở taị, chưa bước xuống thuyền đã doạ Bất Nhẫn: - Chú chèo cho vững nghe không? Che mui cho
kín. Nếu để chúng ta mà ướt thì liệu chừng kẻo roi quất đít đó. Nghe nói
thế, Bất Nhẫn bừng bừng nổi giận nhưng chàng nín được và vẫn giữ vững vẻ mặt
tươi cười đáp: - Bà và cậu đừng sợ gì cả.
Tôi xin cố sức. Rồi chàng vận dụng hết sức tài nghệ để đưa hai mẹ con nhà
nọ qua bên kia sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên: - Ta quên khuấy đi mất, có một gói hành lý bỏ
quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo sang lấy hộ.
Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ
chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối, chật vật lắm chàng mới đưa được
gói hành lí sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ lại
kêu lên: - Thôi rồi còn một đôi giày của
thằng bé bỏ ở gậm giường. Thế nào ngươi cũng phải cố gắng lấy cho ta một lần
nữa.
Người đàn bà nói chưa
dứt lời thì Bất Nhẫn đã giơ tay chỉ vào mặt: - Cút đi đồ chó ghẻ! Tao có sinh ra để hầu hạ mẹ con mầy mãi đâu.
Nhưng người đàn bà đó vốn là đức Phật Quan Âm hiện hình xuống thử tâm tính
người đệ tử khổ tu đó, bấy giờ hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng: - Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm nhẫn nhục, như
thế thì tu gì mà tu. Có tu hú!.
Phật Bà Quan Âm sau đó
bắt Bất Nhẫn hoá thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú.
Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy
ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn với Phật Bà.
25. SỰ TÍCH CHIM CUỐC
Ngày ấy có đôi bạn chí
thân tên là Quắc và Nhân. Họ đều là con nhà học trò nghèo, lại đều mồ côi cha
mẹ. Quắc được học nhiều hơn bạn, anh làm thầy đồ dạy trẻ. Tuy bổng lộc chẳng có
bao nhưng Quắc vẫn thường giúp đỡ Nhân. Đối lại, có lần Quắc bị ốm nặng, giá
không có bạn thuốc thang ngày đêm thì anh khó lòng sống nổi. Sau đó vì sinh kế
hai anh phải chia tay mỗi người mỗi ngả.
Trong khi Quắc sống cuộc
đời dạy trẻ thì Nhân cũng đi lang thang hết các vùng xa lạ làm thuê làm mướn.
Trải qua một thời kỳ lang bạt, cuối cùng anh vào làm công cho một phú thương.
Thấy chàng thật thà chăm chỉ, phú thương rất tin cậy. Chẳng bao lâu Nhân được
phú thương gả con gái cho. Vì thế Nhân nghiễm nhiên trở thành một phú ông có cơ
nghiệp kha khá trong vùng.
Nhân giàu nhưng không
quên tình bạn. Nhân vẫn nhớ tới lời thề "sống chết sướng khổ có nhau"
với Quắc. Nhân cất công đi tìm và sung sướng được thấy Quắc còn sống. Tuy Quắc
đang dở năm dạy, nhưng Nhân vẫn thương lượng với cha mẹ học trò cho con em
chuyển sang học với cụ đồ khác rồi đưa Quắc về nhà mình. Nhân dặn người nhà
phải coi Quắc không khác gì mình, cơm nước hầu hạ không được bê trễ.
Nhưng tính vợ Nhân xưa
nay đối với kẻ rách rưới, chị ta thường có thái độ khinh thị. Và chị ta không
cùng sống những ngày hàn vi với Nhân, đâu hiểu tình nghĩa Nhân với Quắc thế
nào. Nhưng thấy chồng rất trọng đãi khách nên lúc đầu cũng không dám nói gì.
Nhân luôn luôn bảo vợ: "Đây là người
thân nhất trong đời tôi. Nếu không có bạn thì chưa chắc tôi đã được sống để gặp
nàng". Vợ Nhân chỉ lẩm bẩm: "Khéo!
Bạn với bè! Chỉ có ngồi ăn hại!".
Dần dần vợ Nhân bực mình
ra mặt. Chị ta khó chịu vì cái ông khách lạ tự dưng ở đâu đến chả giúp ích gì
cho nhà mình, chỉ chễm chệ trên giường cao, cơm rượu mỗi ngày hai bữa. Vợ Nhân
trước còn nói mát nhưng sau thì ngoa ngoắt ra mặt. Có hôm người đàn bà ấy đay
nghiến cả chồng lẫn khách: "Chẳng
phải bố già, không phải khách nợ, ở đâu lại rước về thờ phụng, ăn no lại nằm.
Thôi liệu mà tống khứ đi!".
Thấy thái độ vợ ngày càng quá quắt, chồng chỉ
sợ mất lòng bạn. Nhân một mặt thân hành chăm chút cho bạn, một mặt khuyên dỗ
vợ. Nhưng vợ Nhân chứng nào vẫn giữ tật ấy. Về phần Quắc thì chàng hiểu tất cả.
Đã hai lần Quắc cáo bạn xin về, nhưng Nhân cố sức giữ lại. Thấy bạn chí tình,
Quắc lại nấn ná ít lâu. Nhưng hôm đó Quắc quả quyết ra đi vì chàng vừa nghe
được những câu nói xúc phạm mình một cách nặng nề. Quắc nghĩ, nếu mình không
tính kế sớm thì sẽ có ngày bị nhục với người đàn bà này. Mà nếu đi như mấy lần
trước thì sẽ bị bạn làm lôi thôi khó thoát.
Một hôm, trời còn mờ
sương, Quắc cất lẻn ra đi. Muốn cho bạn khỏi mất công tìm kiếm nên khi đi qua
một khu rừng, chàng cởi khăn áo treo lên một cành cây bên đường làm như cảnh
mình đã chết. Đoạn Quắc lần mò đi xứ khác trở lại nghề gõ đầu trẻ.
Thấy mất bạn, Nhân bổ đi
tìm nhưng chả thấy tung tích ở đâu cả. Khi nghe tin có người bắt được khăn áo ở
mé rừng phía Nam ,
chàng lật đật đến xem. Nhận rõ đó là khăn áo của bạn. Nhân vô cùng hối hận
"Thôi ta làm hại bạn ta rồi! Chắc
bạn ta bị cướp giết chết". Nhưng sau đó Nhân lại nghĩ: "Bạn ta trong túi không có một đồng thì dẫu
có gặp cướp cũng không can gì. Đây một là bị hùm beo ăn thịt, hai là bị lạc
trong rừng sâu. Dù thế nào đi chăng nữa thì nhất định bạn ta cũng đi về phương
này".
Nhân bắt đầu vào rừng
tìm Quắc. Không thấy có vết máu, chàng lại càng hy vọng. Nhân băng hết chông
gai, chui hết bụi rậm, luôn luôn cất tiếng gọi "Quắc ơi! Quắc ơi! Quắc! Quắc!… Nhân đi mãi, gọi mãi. Quanh quẩn
trong khu rừng mênh mông. Cho đến hơi thở cuối cùng người bạn chí tình ấy vẫn
không quên gọi: "Quắc! Quắc!".
Rồi đó Nhân chết hoá thành chim đỗ quyên, hay cũng gọi là con chim cuốc.
Lại nói về chuyện sau đó
vợ Nhân đợi mãi không thấy chồng về, lấy làm ăn năn về những hành động của
mình. Một hôm, chị ta bỏ nhà bỏ cửa đi tìm chồng. Cuối cùng cũng đến khu rừng
phía Nam ,
nghe tiếng "Quắc! Quắc!"
chị ta nhận ra là tiếng của chồng gọi bạn. Chị ta mừng quá kêu to: "Có phải anh Nhân đấy không?" -
Không có tiếng trả lời ngoài những tiếng "Quắc! Quắc!" của con chim
đỗ quyên. Vợ Nhân cứ theo tiếng chim đỗ quyên tiến vào rừng sâu. Sau cùng không
tìm thấy được lối ra, tuyệt vọng quá mà chết bên cạnh một gốc cây.
26. SỰ TÍCH ÔNG BA
MƯƠI
Ngày xưa, trên Trời có
một người khỏe lạ lùng. Những việc dời núi lấp biển, đội đá bẻ cây ông làm băng
băng không một ai bì kịp. Ông còn có tài thần thông biến hóa vượt xa nhiều vị
thần trên Thiên đình. Đặc biệt ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường
dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay họ như chong chóng. Cũng
vì thế người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.
Vốn tính nghịch và hung
hăng quen thói từ hồi trẻ, Phạm Nhĩ không mấy khi ngồi yên. Ông thường hay gây
sự đánh nhau với những kẻ mà ông thù ghét. Nhưng người ta đều tránh né ông,
chẳng mấy ai dám đọ sức, vì đã từng có bao nhiêu anh hùng hảo hán không chịu
nổi một cú đấm, cái gạt của ông. Thấy mọi người đều thua tài, Phạm Nhĩ ngày một
kiêu căng tự phụ. Ông cho rằng các vị thần xung quanh Ngọc Hoàng chẳng có tài
nghệ và sức khỏe gì. Ông lấy làm bực mình vì danh tiếng mình nổi như cồn mà vẫn
không được Ngọc Hoàng trao cho một chức vị xứng đáng.
Mỗi ngày lòng kiêu căng
tự phục của ông một lớn thêm mãi. Cho đến lúc Phạm Nhĩ đâm khinh nhờn cả Ngọc
Hoàng, tự nghĩ mình nên làm vua nhà Trời mới phải. Thế rồi, ông tụ tập quanh
mình một số bộ hạ cũng có sức khỏe và tài phép hơn người, thành một đội quân
bất trị. Đội quân này ngày một đông, đã từng gây náo loạn ở Thiên đình. Cuối
cùng, Phạm Nhĩ cầm đầu đội quân của mình tiến đến thiên cung đòi hạ bệ Ngọc
Hoàng để mình trị vì thiên hạ.
Nghe tin chẳng lành,
Ngọc Hoàng vội sai các bậc tướng lĩnh đem quân nhà Trời ra ngăn chặn. Có đến
mười tám vị tướng, vị nào cũng lục trí thần thông, miệng thét ra lửa, tay bẻ
gãy cổ thụ, chân đạp đổ núi, nhưng không vị nào đối địch với Phạm Nhĩ được lâu.
Không đầy mười ngày chỉ còn ba vị sống sót chạy về. Ngọc Hoàng lại sai năm mươi
lực sĩ, người nào cũng tài ba và sức khỏe, ra chống chọi với Phạm Nhĩ. Những
cũng chẳng mấy chốc ông đã làm cho bọn này nếm mùi thất bại chua cay.
Quân đội Nhà Trời vốn
đông như kiến cỏ, nhưng kéo ra bao nhiêu bị diệt bấy nhiêu, cuối cùng bỏ chạy
toán loạn như ong vỡ tổ. Thừa thắng, Phạm Nhĩ thúc quân, tiến lên vây chặt
Thiên cung. Thấy thế Ngọc Hoàng hết sức lo lắng. Ngọc Hoàng vội sai Bắc Đẩu cầu
cứu Đức Phật. Nghe tin cấp báo, Đức Phật sai Chuẩn Đề đi bắt Phạm Nhĩ. Nhưng
Đức Phật không ngờ Chuẩn Đề tài phép cao cường là thế, cũng lại bị ăn đòn nặng
nề của Phạm Nhĩ đến nỗi lê lết chạy về, xiêm giáp tả tơi. Cuối cùng, Đức Phật
đành phải ra tay.
Trong lúc Phạm Nhĩ
đương hung hăng múa may, chửi bới Ngọc Hoàng và bọn triều thần bất tài bất lực,
thì Đức Phật đã xuất hiện. Phạm Nhĩ vội xông lên toan dùng sức đánh, không ngờ
sa ngay vào túi thần của Đức Phật, toàn thân co rúm không động chân, động tay
được nữa. Thế là Phạm Nhĩ bị bắt.
Bộ hạ của Phạm Nhĩ như
rắn mất đầu, không ai bảo ai, tẩu tán khắp nơi. Trước khi ra về, Đức Phật giao
Phạm Nhĩ cho Ngọc Hoàng xử trí. Ngài căn dặn Ngọc Hoàng phải làm cho Phạm Nhĩ
hối lỗi chứ đừng giết hại. Ngọc Hoàng bèn đày Phạm Nhĩ xuống cõi trần làm kiếp
vật. Trước hết để tước bớt sức mạnh của Phạm Nhĩ, Ngọc Hoàng sai cắt bỏ đôi
cánh của ông để ông không thể bay về Thiên đình làm loạn. Ngọc Hoàng còn lo
Phạm Nhĩ vốn mang cốt tướng nhà Trời, có thể nghe hết mọi chuyện của bốn phương
ngay trong giấc ngủ, mặc dù cách xa hàng ngàn dặm. Bởi vậy, để làm giảm bớt trí
nhớ của ông, Ngọc Hoàng hóa phép, bắt lỗ tai ông mỗi khi tỉnh giấc thì khép kín
lại, Tuy nhiên, thể theo lời dặn của Đức Phật, Ngọc Hoàng cũng phong cho Phạm
Nhĩ làm Chúa tể sơn lâm.
Từ khi xuống trần, tài
phép của Phạm Nhĩ giảm sút đi nhiều vì không còn cánh mà bay. Mặc dầu vậy, ông
vẫn giữ được một sức khỏe tuyệt trần, khiến mọi thú vật khiếp sợ, xứng với danh
hiệu Chúa tể sơn lâm mà Ngọc Hoàng phong. Cho đến này, dòng dõi như ông vẫn nối
nhau làm Chúa sơn lâm. Ngay loài người cũng phải kiềng ông, không dám gọi cái
tên "Hổ", mà chỉ gọi tránh là "Ông Ba Mươi". Tại sao lại
gọi là "Ông Ba Mươi"? Đó là vì khi có người nào săn được hổ thì nhà
vua có lệ thưởng cho ba mươi quan tiền vì đã trừ được cho loài người một con
thú hung ác. Nhưng vua cũng bắt người đó phải chịu 30 roi để cho vong hồn Phạm
Nhĩ được thỏa mà không tác quái nữa. Người xưa có câu: "Trời sinh ra hùm có vây, Hùm mà có cánh, hùm
bay lên Trời" để nhớ cuộc náo động Thiên cung của Phạm Nhĩ xưa kia.
27. SỰ TÍCH HỒ BA BỂ
Vào hồi đó ở xã Nam Mẫu
có mở một hội "vô già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem. Ai nấy đều
lo ăn chay niệm Phật và làm những việc từ thiện như buông cá, thả chim ... để
cầu phúc cho mấy ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám
hội một bà già ăn mày. Người ta không biết mụ ta từ đâu lại. Bộ dạng thật gớm
ghiếc, những mảnh vải vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét.
Mùi hôi thối xông ra rất khó chịu. Đến đâu, mụ cũng thều thào mấy câu: - "Đói lắm các ông các bà ơi!". Rồi
cầm cái rá, mụ giơ ra khắp bốn phía, đầy vẻ cầu khẩn. Nhưng mãi đến chiều,
người đàn bà đó vẫn chả được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi. Đám trẻ tuổi
nhất là các cô gái cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là họ
xô nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng
"Nam
mô Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào người. Cuối cùng
bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan được trước những
trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau khi ra khỏi
đám hội, người đàn bà ấy thất thểu bước vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà
nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi.
Mấy nhà giàu có đóng
chặt cửa lại và thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp hai mẹ con bà góa vừa đi
chợ về. Thấy bà lão ăn mày tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà lấy cơm nguội cho
ăn. Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà ấy lại gọi cửa. Mụ xin
ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ, người ta đều cấm cửa không cho vào. Hai mẹ con vui
lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở cái chõng cho mụ ngả
lưng. Còn mẹ con thì nằm tạm ở một chỗ khác. Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền,
tiếng mụ ngáy như sấm. Hai mẹ con nhìn ra thấy cái chõng sáng rực lên trong
bóng tối. Đây không phải là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con
giao long đang cuộn mình lù lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống
đất. Người mẹ rụng rời kinh hãi, nhưng vì chỗ ở cách biệt với làng xóm, không
biết kêu cứu ai, đành trùm chăn kín mít, phó mặc cho may rủi. Nhưng đến sáng
hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì chả thấy giao long đâu cả. Trên chõng, mụ ăn
mày đã dậy và sắp sửa ra đi. Trước khi từ biệt, mụ bỗng lên tiếng: - Chúng nó thờ Phật mà kỳ thực là buôn Phật.
Chúng nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có hai mẹ con nhà ngươi là tốt
bụng. Hãy cầm lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong đêm
hôm nay chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh.
Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm
thế nào để cứu mọi người được? Người đàn bà ấy ngần ngừ hồi lâu rồi lấy từ
trong áo một hạt thóc ra cắn tách đôi vỏ trấu đưa cho hai mẹ con và nói: - Hai mảnh vỏ trấu này sẽ giúp hai mẹ con làm
việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một cái đã không thấy người đàn
bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi đi kể chuyện cho mấy người
gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó
giữa đám hội náo nhiệt, lúc thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì bất ngờ có
một dòng nước từ dưới đất phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun
càng mạnh làm lở dần đất ở xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào,
tưởng là phép Phật hiển hiện nên càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc
một mạnh nuốt hết người và vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng một cái ao.
Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể
chạy được nữa. ở dưới chân họ đất nứt nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc
một tiếng ầm dữ dội phát ra, đất đá, nhà cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước
tung tóe mù trời. Một con giao long to lớn từ mặt nước nhô lên bay vòng quanh
xã Nam Mẫu.
Trong khi đó thì nền
nhà, chuồng lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện kia mỗi lúc một
nâng cao hơn mực nước. Đau xót trước cảnh nước lụt, hai mẹ con đem hai mảnh vỏ
trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ biến ngay thành hai chiếc
thuyền. Thế rồi, mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những người bị
nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy tức là
một hòn đảo nhỏ ở giữa hồ mà người địa phương thường gọi là Pò-già-mải.
28. SỰ TÍCH ÔNG BÌNH
VÔI
Ngày xửa ngày xưa có một
người con gái nhà giàu. Cô rất đẹp nên rất
kiêu. Cô khiến cho các bạn gái xa lánh mình. Các chàng trai ghét cô vô
hạn. Cũng vì thế đến tuổi lấy chồng, vẫn chưa có đám nào cô vừa ý. Chàng trai
nào cũng bị cô khinh, “cao chê ngỏng, thấp chê lùn, lớn chê béo trục béo tròn,
gầy chê xương sống xương xườn bày ra”.
Nhưng rồi cô cũng lấy được chồng! Chồng cô yêu vợ nhưng lại
bực mình vì thói hay ghen của vợ. Xóm giềng luôn cau mặt vì lời qua tiếng lại
của họ. Cuối cùng hai người phải và ly dị. Buồn bực vì duyên phận, cô bỏ đi tu.
Cô xuất gia ở một ngôi chùa cổ trên núi gần hai mươi năm.
Những con chim, những con thú rừng hầu như quen thuộc bóng dáng của sư nữ. Hai
mươi năm qua cô vẫn chưa đắc đạo. Cô thắc mắc, vì tự cho mình thông kinh kệ hơn
người và chịu đủ mọi sự khổ hạnh của nhà tu. Một ngày kia cô quyết định sang
Tây Trúc để tìm cho ra lẽ. Đường sang Tây trúc thiên nguy vạn hiểm nhưng cô
quyết đi bằng được.
Một hôm, sau khi vượt qua một trái núi, sư nữ vào ngôi nhà
hẻo lánh bên đường để nghỉ chân. Hai mẹ con chủ nhà vốn là kẻ ăn chay niệm
phật, nên thấy khách là nhà tu hành thì tiếp đón rất hậu. Khi được nghe công
trình tu luyện của sư nữ thì họ càng cung kính, coi như bậc thầy. Đến khi họ
biết ý định của sư nữ, thì họ cũng xin phép bỏ nhà bỏ cửa đi theo để mong được
đắc đạo! Nghe họ cầu khẩn, sư nữ cười: “Hai
mẹ con nhà này cũng muốn thành Phật ư? Được, cứ đi theo ta!” Nhưng bụng bảo
dạ: “Chuông khánh còn chẳng ăn ai, nữa là
mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre”.
Từ hôm đó nhà sư nữ có thêm hai người bạn đồng hành. Chân bớt
mỏi, đường bớt dài, họ đi chả mấy chốc mà đã tới đất Thánh. Từ trước đến sau,
hai mẹ con nhà nọ vẫn cung kính, coi sư nữ như thầy. Còn sư nữ đối với họ không
được như trước: “Không biết chừng họ được
thành Phật trước ta. Họ sẽ hơn ta... Bọn này mà đắc đạo, thật là một điều nhục
cho thiền môn”.
Lại nói chuyện đức Phật, khi vừa hay tin có người tìm đường
đến Tây Trúc cầu đạo, vội hóa thân đi theo dõi. Từ đầu đến cuối, đức Phật không
bỏ sót một lời nói một cử chỉ của sư nữ. Khi họ sắp qua một con sông rộng, đức
Phật hóa phép hiện ra ở bên kia bờ một tòa cổ tự, trước cửa có một cây bồ đề
rất lớn, để chờ họ.
Muốn cho hai mẹ con khỏi lẽo đẽo theo mình đến đất Thánh, nên
khi qua sông, sư nữ giả ngạc nhiên, chỉ ngôi chùa và cây bồ đề bảo rằng: - Kìa, chúng ta đã tới Tây Trúc. Nhanh thật!
Chính là cây bồ đề của đức Thế Tôn tu luyện ngày xưa. Thôi! Hai mẹ con cứ việc
trèo lên một cành cao niệm kinh rồi buông tay rơi xuống là khắc thành Phật!
Tin tưởng lời nói của bậc thầy, hai mẹ con mừng rỡ làm theo
không chút ngần ngại. Nhưng khi họ buông tay cho người rơi xuống thì đức Phật
đã đón họ đưa lên trời. Có bốn vị La Hán mang tòa sen đến rước đi. Tay hai mẹ con vẫy vẫy như có ý gọi người bạn đồng hành.
“Đúng là
họ thành Phật rồi!” Sư nữ vừa kinh ngạc vừa mừng, vội trèo lên cây để làm
như họ và mong được như họ. Đức Phật đã có ý trừng phạt người đàn bà kiêu ngạo
và độc ác ấy một cách đích đáng, nên đã để cho cái xác rơi xuống đất, tan xương
vỡ sọ. Sau đó đức Phật lại bắt người khốn nạn ấy hóa thành cái bình vôi.
Tại sao lại cho hóa
thành bình vôi? Có người bảo là Đức Phật bắt những kẻ trong lòng bất nhân,
nhưng lại đeo bộ dạng từ bi phải để cho người đời luôn luôn móc ruột!
29. SỰ TÍCH CON DÃ
TRÀNG
Có hai vợ chồng ông già
tên là Dã Tràng, trong vườn họ có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy,
ông già vẫn thấy một cặp vợ chồng rắn hổ mang ra vào trong hang. Một hôm, con
rắn chồng bò ra khỏi hang một mình, ông nhìn vào thấy rắn vợ đang nằm cuộn ở
trong. Vì mới lột lên mình mẩy của nó yếu ớt, không cựa quậy được. Một lúc sau,
rắn chồng bò trở về, miệng tha một con nhái đút cho vợ ăn.
Ít lâu sau, Dã Tràng lại
thấy rắn vợ bò ra khỏi hang một mình, lần này rắn chồng đến kỳ lột xác, nằm im
thin thít, da cũ còn bỏ lại bên hang. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ có
một con rắn đực khá lớn. Dã Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi
quấn lấy nhau như bện dây thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang.
Dã Tràng biết con đực
này toan làm gì rồi. Tự nhiên ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó để cứu
con rắn chồng đang suy nhược. Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút
một mũi tên nhằm con rắn đực mới đến bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại
trúng vào đầu con rắn vợ chết tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng
nghĩ cũng thương con rắn cái nhưng thương có lẫn cả giận nên ông chán nản bỏ
về. Từ đó ông không thèm để ý hang rắn nữa.
Chừng tuần sau, một hôm
Dã Tràng nằm võng thuật chuyện vợ chồng rắn cho vợ nghe và kể những việc mình
đã thấy và đã làm. Ông vừa dứt lời thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì
phì. Cả hai người hốt hoảng nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn,
đuôi quấn lấy xà nhà, đầu vươn xuống gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc.
Ông vừa cầm lấy thì bỗng nghe được tiếng rắn nói: - Ông là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên
mái nhà chỉ chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng hồi nãy nghe ông kể
chuyện, tôi mới biết là lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình có thể
nghe hiểu được mọi tiếng chim muông ở trên thế gian. Từ kinh ngạc đến sung
sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ rời.
Một hôm, Dã Tràng đang
hái dâu, tự dưng có một bầy quạ đậu ở mấy ngọn cau bảo Dã Tràng rằng: Ở núi Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy đến
đó mà lấy về ăn nhưng nhớ để lòng lại cho chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ,
quả thấy xác một con dê trên núi Nam . Ông xẻo lấy ít thịt xâu lại
xách về. Đến nhà, ông mách cho xóm giềng biết mà đi lấy, không quên dặn họ để
bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông
quá, thành ra họ lấy hết cả, chẳng còn thừa tí nào.
Lũ quạ không thấy ruột
dê, cho là Dã Tràng lừa, bèn đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy, ông biết
là người trong xóm đã hại mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần
mấy lần nhưng bầy quạ không nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình ông bèn lấy
cung ra bắn, chủ ý muốn chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ cho là
ông lấy oán trả ơn, liền cắp lấy mũi tên có để tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo
thù. Lúc bay qua sông thấy một xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm
vào yết hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên liền sai
lính bắt ông hạ ngục.
Dã Tràng bị bắt bất ngờ,
hết sức kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành
chịu chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng.
Thấy vậy, quan sai lính giải ông về kinh để Vua xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại
bị điều đi. Dọc đường trời tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã
Tràng cổ bị gông, chân bị xiềng xích nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được.
Lúc trời gần rạng, ông nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với
nhau: "Nhanh lên, chuyến này sẽ
không lo đói nữa, mà cũng chẳng sợ ai đánh đuổi cả". Một con khác hỏi:
"Của ai mang đến bỏ vương vãi như
thế?" - Con nọ trả lời: "Của
Vua nước bên kia, họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày hôm qua quân đội giáo
mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa đến biên giới thì bị sụp đổ
hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha hồ chén".
Nghe đoạn, chờ lúc bọn
lính thúc giục lên đường, Dã Tràng bảo họ: "Xin các ông bẩm lại với quan rằng, việc của tôi là việc oan uổng và nhỏ
mọn không nên bận tâm và giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại thôi, mà
còn cấp bách nữa là khác". Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông không
nói gì thêm, chỉ nài nỉ hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng. Khi gặp mấy vị
quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ biết rằng Vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai
tướng đem quân sang đánh úp nước mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới,
chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận
chuyển thêm lương, chờ đủ sẽ vượt cửa ải sang Nam .
Bọn quan quân tỉnh lấy
làm lo lắng nhưng vẫn cố hỏi ông có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào
đầu mình mà rằng nếu nói sai, ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng
thì xin bề trên thả ra cho. Ngay lúc đó những tên quân do thám được tung đi tới
tấp mọi ngả để lấy tin. Ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách của ông quả
không sai, và vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ
lần về quê nhà, bóng chiều vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa, ông tìm vào nhà
người bạn rất thân là Trần Anh nghỉ chân.
Khi gặp bạn cũ, vợ chồng
Trần Anh vui mừng khôn xiết, nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu,
hai vợ chồng rất cảm thương bạn.
Thấy bữa ăn tối thết bạn
không có gì cả, Trần Anh xuống bếp bảo vợ: “Bạn
ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con nó đã khôn, ta
làm thịt một con ngày mai đãi bạn lên đường”. Người vợ đồng ý nhưng dặn
chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và vặt lông giúp một tay.
Trong khi hai vợ chồng
bàn tính thì cặp ngỗng ở ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo
ngỗng mái: "Mình ơi! Mình ở lại nuôi
các con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt". Ngỗng mái không nghe, xin
chết thay cho chồng. Ngỗng trống nhất định hy sinh, chạy ra sân từ giã đàn con:
“Con ơi! Các con ở lại với mẹ nhé, cha sẽ
không bao giờ gặp các con nữa". Nhưng ngỗng mái lạch bạch chạy theo,
đòi chết thay chồng bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên ván kề cửa sổ nên nghe
được tiếng ngỗng than thở. Ông thấy thương con vật vô tội chỉ vì mình mà ngỗng
phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn, nhưng thấy bất tiện. Ông
đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng, chờ lúc bạn ra bắt thì sẽ cản lại.
Suốt đêm đó, tuy mệt mà
ông không dám ngủ. Quả nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng,
ngỗng trống xua ngỗng mái chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ
ngỗng thì Dã Tràng chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói "Xin bạn thả nó ra, tính tôi không hay sát
sinh. Tình thân của đôi ta đâu phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết thịt nó thì
tôi lập tức đi khỏi chỗ này". Thấy bạn có vẻ quả quyết, Trần Anh đành
thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng
từ giã bạn về nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng bầy con đứng trực ở
đấy. Ngỗng đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói: "Đa tạ ân nhân cứu mạng, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó
vào người có thể đi được dưới nước dễ dàng như đi trên bộ. Nếu đem ngọc này
xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển". Ngỗng nói
tiếp: "Còn như con tép là vật đã thế
mạng chúng tôi thì từ nay dòng dõi chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ
lòng nhớ ơn!". Dã Tràng không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung
sướng nhận lấy viên ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã
Tràng muốn thử xem công hiệu của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi
xuống nước. Tự nhiên nước rẽ ra cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh
hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng vào nước nhiều lần để thử xem thế nào.
Hôm đó, Long Vương và
các triều thần đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến
trúc khác tự nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai đấy đều nháo nhác không hiểu
duyên cớ gì. Vua lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.
Bộ hạ Long Vương theo
đường sóng ngầm lọt vào cửa sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào
nước. Mỗi lần khoắng như thế, họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là
thủ phạm, họ cũng không dám làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông
xuống chơi thuỷ phủ.
Gặp Long Vương, Dã Tràng
cho biết là ông mới làm thử xem có hiệu nghiệm không. Long Vương và triều thần
nghe nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thuỷ phủ còn gì? Vì thế,
Long Vương đãi ông rất hậu. Lúc ra về, Long Vương còn biếu vàng bạc rất nhiều
để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước
có bộ hạ của Long Vương tiễn chân về tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy
ông đã không làm việc gì mà trở nên giàu có ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó
Dã Tràng rất quý hai viên ngọc. Ông mang một cái túi đựng nó và luôn đeo nó ở
cổ.
Một hôm, Dã Tràng đi bộ
nửa ngày đường đến nhà người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi ông sờ tay lên cổ thì
giật mình mới nhớ là vì vội quá nên đã bỏ quên túi ngọc ở nhà. Ông thấy không
thể nào an tâm ngồi ăn được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân
ướt chân ráo đến nơi đã vội về ngay.
Nhưng khi về đến nhà,
ông tìm mãi không thấy ngọc đâu cả. Ông rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng
không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi khắp nơi, cuối cùng ông bắt được một
mảnh giấy gài ở chỗ treo áo. Trong đó vợ ông có nói rằng có người của Long
Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ
được làm Hoàng hậu. Bởi vậy, bà đã trộm phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ
rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã
Tràng ngất đi, ông không ngờ vợ ông lại có thế đối xử với ông như vậy. Ông cũng
không ngờ âm mưu của Long Vương thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật,
ông tức điên ruột. Sau cùng, ông dự tính chở cát lấp bể thành một con đường
xuyên thuỷ phủ để lấy lại túi ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lên xuống thuỷ phủ
của Long Vương. Mặc dầu mọi người can ngăn, ông cũng vẫn dọn nhà ra bờ biển để
làm việc đó. Ngày ngày xe cát chở đến bờ, quyết lấp cho bằng được.
Cho đến chết, Dã Tràng
vẫn không chịu bỏ công việc. Chết rồi, ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi
là Dã Tràng, ngày ngày xe cát để lấp biển.
Tục ngữ có câu: Dã Tràng xe cát biển đông / Nhọc lòng mà
chẳng nên công cán gì. Hoặc: Con còng
còng dại lắm không khôn / Luống công xe cát sóng dồn lại tan.
Người ta nói ngày nay
loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế
mạng cho tổ tiên của mình ngày xưa. Họ còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng
trên đầu là dấu hiệu để tang Dã Tràng vì nhớ ơn cứu mạng.
30. SỰ TÍCH CHIM NĂM
TRÂU SÁU CỘT
Xưa, có bác lực điền tên
là Ba, ở trong một xóm dưới chân núi. Bác không có ruộng đất nên phải làm rẽ
năm sào của một phú ông ở làng bên cạnh. Phú ông là tay nhà giàu có nhất tổng,
ruộng đất, trâu bò ở rải rác các thôn xóm nhiều không kể xiết. Thấy bác tá điền
thực thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp lúa sòng phẳng, phú ông có lòng tin giao
cho bác nuôi trâu rẽ. Từ đấy công việc của bác Ba thêm bận rộn, bác phải chăn
nuôi bầy trâu của phú ông. Từ độ ấy đến giờ sinh được tổng số là năm con.
Tự nhiên ngày nọ, phú
ông lăn ra chết, hắn chết hãy còn đang trẻ. Phú ông chưa có con trai, chỉ có
một cô con gái nên bao nhiêu ruộng đất, trâu bò đều về tay cô. Mà ruộng đất
trâu bò của phú ông giao cho các tá điền nhiều thứ linh tinh phức tạp, có thứ đã
làm giấy tờ phân minh, nhưng cũng có thứ vì cái chết đột ngột nên chưa có giấy
tờ gì cả.
Con gái phú ông rất
giống tính cha, lại là người có mánh khoé vặt, không bao giờ ả chịu mất không
cho người ngoài dù là những vật nhỏ mọn. Sau khi làm ma bố xong, ả mới bắt đầu
đi kiểm soát một lượt gia sản của bố để lại.
Ả đến nhà bác Ba và một
buổi chiều. Lúc đó bác còn đi chăn trâu chưa về. Nhà này có nuôi trâu, ả biết,
nhưng tất cả số trâu nuôi, trâu đẻ được mấy con lúc bé như thế nào thì ả còn
mập mờ, trừ phú ông ra chả ai biết rõ. Mấy người đầy tớ nhớ mang máng cả mẹ đẻ
con đẻ đâu năm sáu con.
Tục ở đây nuôi trâu
không có chuồng, người ta đóng ở góc sân những cái cột, tối về buộc mỗi con vào
một cột. Thoạt vừa đến, ả đếm ngay số cột, được sáu cái: "Sáu cột vị chi
là sáu con trâu" ả tự bảo thế, ả không biết rằng trước đây vì một cột gần
gãy nên bác phải đóng cột khác vào và chưa kịp nhổ cột cũ đi.
Lúc bác lực điền trâu
về, ả đếm đi đếm lại chỉ có năm con, ả thầm nghĩ: "Có lẽ nghe tin cha ta chết mà việc nuôi trâu từ lâu nay cha ta không
bắt làm giấy tờ nên thằng cha này đã bán trộm một con", ả nói to:
"Này bác Ba, còn một con nữa đâu?".
Bác lực điền ngạc nhiên -"Con nào
nữa, tôi nuôi cả thảy chỉ có năm con". Ả cười ranh mãnh. "Năm trâu sao lại sáu cột?". Bác Ba
đem việc cột gãy ra phân trần, nhưng ả nào có nghe: "Thôi bác chịu khó đi tìm cho tôi đi, năm trâu sao lại có sáu cột".
Thấy ả lẩm bẩm mãi tiếng
"năm trâu sáu cột" bác lực
điền nổi xung lên bảo: "Chỉ có bắt
cô trói vào cột này thì hoạ chăng mới thành sáu được". Cô gái phú ông
không phải tay vừa, hắn nhảy lên xỉa xói bác Ba. Bác Ba bực mình bỏ vào rừng, ả
tiếp theo chân bác. Rồi từ đó hai câu "năm
trâu sáu cột" và "bắt cô
trói cột" trở nên lời đối thoại duy nhất của hai người.
Bác Ba và cô gái nọ về
sau đều hoá thành chim. Hai con chim đó xuất hiện ở vùng núi Thái Nguyên, Bắc
Cạn là vùng mà bác Ba sinh trưởng. Hai con chim kiếm ăn từ nhá nhem cho đến tờ
mờ sáng, một con đằng này núi, một con đằng kia núi, một con kêu "năm trâu sáu cột" và một con đáp
"bắt cô trói cột"…
31. SỰ TÍCH CẦU VỒNG
Xì Pứ là con gái một nhà
nghèo. Nàng chỉ có một bộ quần áo bảy màu do tay nàng thêu là đẹp nhất, còn
toàn là quần áo vá. Nhưng đôi tay Xì Pứ chăm làm, đôi chân Xì Pứ hay leo rẫy,
nên ai cũng mến cũng thương. Nàng đẹp không gì sánh nổi. Tiếng nàng thánh thót
hơn tiếng hót của chim mì xí, mái tóc nàng mượt dài hơn dây móc, da nàng trắng
hơn gốc cây chuối rừng chớm nở. Nhiều chàng trai khỏe, đẹp, khắp bản gần bản xa
kéo đến xin ở rể nhà Xì Pứ nhưng bụng nàng vẫn chưa ưng ai.
Vào một ngày đẹp trời,
Xì Pứ cầm dao đi phát rẫy xa. Nàng đi tới đâu dưới chân nàng hoa rừng nở rộ,
trên đầu nàng chim chóc hót ca, cảnh vật như thêm sức sống. Đến những sợi nắng
vàng rực trong trẻo cũng cố tình đậu mãi trên bộ ngực nở nang và mái tóc xanh
đen óng ả của nàng. Vừa tới nương, Xì Pứ gặp một chàng trai trông rất hiền lành
mặc một bộ quần áo chàm thô, dáng khỏe mạnh nhanh nhẹn. Sau một lúc ngập ngừng,
chàng trai lên tiếng: - Người đẹp ơi!
Đừng sợ! Ta chờ người đẹp đã lâu rồi, lòng ta héo như cỏ tranh cắt để lâu ngày
vì mong vi nhớ!
Vừa trông thấy chàng
lòng Xì Pứ đã như lá rừng gặp gió. Giờ lại được nghe tiếng nói ngọt hơn nước
mật ông của chàng, lòng nàng lại càng ưng hơn. Chàng trai giúp Xì Pứ chặt cây
to, phát cây nhỏ. Vừa phát, miệng họ vừa nói chuyện vui vẻ. Khi con mắt hai
người không dám ngó thẳng nữa thì họ hứa hẹn cùng nhau nên vợ nên chồng. Xì Pứ
không ngờ rằng chàng trai kia chính là rắn thần ở núi này. Vì quá mê vẻ đẹp và
tính tình của nàng, thần rắn đã hiện thành người để tỏ lòng mến thương của
mình. Khi rắn thần kể rõ về mình, lòng Xì Pứ vẫn như ngọn núi không suy suyển.
Họ thề thốt một lòng sống bên nhau.
Biết được chuyện, lòng
bố mẹ Xì Pứ đau nhiều, vừa thương mà vừa giận Xì Pứ đầy ruột. Đêm nằm hai ông
bà to nhỏ bàn tính chuyện giết thần rắn để trừ hậu họa cho con gái. Hai ông bà
lấy ba con dao nhọn mài thật sắc cắm cán xuống đất, mũi lên trên giữa lối rắn
thường qua lại. Đêm ấy chàng rắn quen lệ bò tới chỗ người yêu để được nhìn, để
được nghe giọng nói của nàng. Chẳng ngờ chàng liền bị lưỡi dao rạch bụng, máu
túa ra lênh láng. Chàng rắn chỉ kịp kêu lên: - Trời ơi! Sao ai lại nỡ hại tôi thế này.
Giết được rắn rồi bố mẹ
Xì Pứ chất củi để đốt. Thấy người yêu bị chết lại bị thiêu xác, lòng Xì Pứ như
có ai dội lửa. Không ngăn được ý muốn của bố mẹ, nàng bèn mặc bộ quần áo đẹp
nhất có thêu bảy màu sặc sỡ đến bên xác người yêu đang cháy rừng rực khóc lóc: - Người ta thương đã chết. Lòng ta héo
như cánh hoa phơi nắng lâu ngày. Ta không thể sống thêm được nữa, ta phải chết
theo người ta thương thôi. Làng xóm ơi! Nếu ai thương tôi, muốn thấy tôi thì
ngay sau lúc trời mưa rồi lại nắng tôi sẽ hiện ra! Nói xong nàng nhảy vào
đống lửa đang cháy hừng hực. Lửa từ thân chàng rắn quấn lấy người nàng. Hai
người ôm nhau chết trong đống lửa rừng rực. Bỗng trời đổ mưa sầm sập. Lửa tắt,
mối đùn lên lấp kín xác hai người thành một ngôi mộ lớn. Trời vẫn mưa, nắng
bỗng hửng lên. Người ta nhìn thấy hai chiếc cầu vồng rực rỡ bảy màu hiện lên.
Từ đó, nếu trời đang mưa
mà lại có nắng hửng lên thì hai chiếc cầu vồng lại cùng hiện lên và cùng biến
đi như vậy. Ta thường thấy một chiếc cầu vồng màu đen viền một vết đỏ mờ mờ bên
cạnh. Đó là hồn của chàng rắn. Máu đỏ mang màu ngọn lửa thiêu, màu đen là màu
áo rắn khoác ngoài lúc bị thiêu. Còn chiếc cầu vồng có bảy màu rực rỡ chính là
màu áo quần của nàng Xì Pứ xinh đẹp mặc lúc lao mình vào ngọn lửa.
Ngày nay, mỗi khi cầu
vồng hiện ra, người ta đều cho rằng nó đang vươn vòi xuống suối, xuống khe để
uống nước cho bõ cơn khát vì bị ngọn lửa thiêu nóng ngày nọ.
32. SỰ TÍCH CON KỀN
KỀN
Trong xóm kia có hai
sống hai cảnh đời trái ngược. Một người giàu nứt đổ vách, của để tận ngoài ngõ,
chê cơm gạo đỏ không ăn, trong nhà thịt rượu ê hề. Lại có một người tàn tật, ít
khi được bát cơm nóng. Rau dưa cũng không đủ no lòng.
Lão nhà giàu ra khỏi nhà
là thuê người võng người khiêng. Chơi bời vô độ nên tóc còn đen, răng chưa rụng
mà người đã gầy khô như xác chết. Anh nghèo mang tật từ lúc bé, chân tay co
rúm, lưng còng, cổ quẹo, đi một bước cũng khó khăn. Quanh năm chỉ có hai mảnh
quần áo rách,
Một năm kia, tiết nắng
kéo dài, rau cỏ cũng khó mọc. Những đám rau già quanh làng chết hết, anh tàn
tật cố bò ra cây sung giữa đồng, nhặt quả ăn thay cơm. Đường từ nhà ra đây
chẳng xa xôi gì. Người khoẻ, hút chưa chưa tàn điếu thuốc đã đi đến. Nhưng anh
tàn tật phải bò suốt từ buổi sáng tinh mơ cho đến nửa buổi chiều.
Cố lê được đến gốc cây
sung anh đã mệt rã rời chẳng làm sao nhặt được quả rụng cho vào mồm. Đến chiều,
khi mặt trời sắp lặn, có một cơn gió thổi qua rất mạnh. Cành sung oằn xuống,
quả rụng chật đất. Anh tàn tật cố gắng gượng dậy, lê đi nhặt thành đống định về
ăn dần. Đêm đó anh ngủ bên gốc sung. Sáng ngày hôm sau có một đàn chim từ hướng
Đông bay vút đến, đáp xuống ngọn cây sung.
Đàn chim đi tìm quả sung
chín, nhưng gió đã thổi rụng cả từ hôm qua nên chúng ngơ ngác tìm kiếm một chốc
rồi đáp xuống đất.
Trông thấy đám quả sung
của anh tàn tật, đàn chim đứng nhìn nhưng không dám lại gần. Anh tàn tật nhặt
sung vãi ra: - Có đói vào đây mà ăn...
Nghe anh nói, con chim có một khoang trắng trên cổ, óng ánh như bạc, nói lại rõ
như tiếng người vậy: - Chim không có công
nhặt, sao người cho nhiều quả vậy?
- Cây trời sinh, tôi không trồng, không tưới. Công nhặt quả có đáng là
bao. Có đói thì cứ ăn. Anh tàn tật bốc sung vãi tung ra. Lũ chim không sợ
nữa, xúm lại ăn. Ăn xong, con chim có khoang cổ lại hỏi: - Người tàn tật mà tốt bụng. Quả ăn trừ cơm được mà không tiếc. Tôi đền
lại một điều ước để trả ơn.
Đàn chim bay đi. Anh tàn
tật ngồi một mình, ngẫm nghĩ về điều ước con chim đã cho. Lâu nay anh nghèo khó,
chưa được biết cái gì là sung sướng, nên cũng chẳng biết điều gì. Chợt thấy mấy
người lính kiệu một ông quan đi qua. Thấy viên quan rất oai vệ, mà lính cũng
bảnh bao. Anh tàn tật định ước thành một trong hai hạng người này. Nhưng khi
bọn họ đến quãng đường lầy, thì toán lính bị thụt sâu, không đi nhanh được. Còn
viên quan thì cau có, quát tháo, cầm gậy vụt toán lính. Thấy vậy anh tàn tật tự
bảo: - Làm lính thì bị quan đánh, mà làm
quan thì... mặt mũi cau có, đánh người thế kia, chẳng ai thương được. Anh
bỏ ý định làm quan, làm lính.
Một chốc có mấy người
thầy cúng đi qua. Người nào cũng quảy một xâu thịt, mấy chai rượu, tay chống
gậy, đầu đội khăn rằn, khăn đỏ, buông xuống tận vai. Trông có vẻ an nhàn lắm.
Anh tàn tật muốn ước làm thầy cúng. Bỗng cái cổ quẹo của anh đau nhói lên. Cái
cổ này khi còn tiền của, cha mẹ anh đã mời thầy cúng mãi mà không khỏi rốt cục
vẫn tiền mất tật mang. Nhớ việc cũ, anh lại tự bảo: - Thầy cúng là người dối trá. Người ốm mất tiền mà chẳng khỏi bệnh. Làm
thầy cúng người ta cũng chửi cho.
Một chốc anh lại thấy
lão nhà giàu đi đòi nợ về. Anh tàn tật toan ước thành một người nhà giàu để
được ăn no sung sướng. Nhưng lão nhà giàu đi chưa khuất đẫ thấy một toán người
đến, tay dắt trâu, vai gánh thóc, mồ hôi nhễ nhại, mặt mũi hốc hác, khổ sở. Anh
bèn hỏi: - Sao có trâu dắt mà không vui,
có thóc gánh trên vại và còn khóc? Mấy người kia chỉ lão nhà giàu đang đi:
- Sắp đến mùa cày mà lão bắt mất trâu.
Lúc giáp hạt mà lão đòi nợ? Ông ấy là chủ nợ. Chúng tôi là con nợ. Cảnh khổ
anh đã biết rõ. Anh lắc đầu: - Làm người giàu sẽ gây khổ cho người nghèo.
Đắn đo một lúc, anh tàn
tật nhìn lại mình. Thấy cộ quẹo, lưng còng, anh liền ước: - Thôi, chim hãy cho thân tôi lành lặn, có đủ
sức khoẻ nhổ tróc gốc cây sung này. Lời ước vừa dứt, lưng anh thẳng ra, cổ
hết quẹo, người to lớn lực lưỡng. Anh bước đến ghé vai vào cây sung, hai tay ôm
choàng, nhổ thử. Cây sung bật cả gốc rễ. Anh cởi áo túm mớ quả sung còn lại,
vác cả cây sung về trồng trước làng. Tên nhà giàu thấy anh tàn tật đã béo tốt
phương phi liền đến hỏi: - Mày làm sao mà
chóng được khoẻ vậy?
Anh tàn tật kể chuyện
được sức khoẻ cho tên nhà giàu nghe. Lão muốn vợ chồng con cái và mẹ nói được
béo tốt như anh tàn tật, liền về dắt cả lũ đến nói với anh: - Mày béo khoẻ vậy là tốt lắm rồi. Mớ quả sung
còn lại cho tao xin. Người nhà tao ai cũng gầy guộc quá. Tao muốn tao, mẹ tao,
vợ con tao đều có sức khoẻ như mày.
Anh tàn tật không định
để mớ quả sung lại làm gì, nhưng anh chưa kịp cho thì lũ kia đã xúm lại cướp
mỗi đứa một vốc, chạy miết ra đồng. Chúng nó ngồi thu lu bên chỗ cây sung anh
đã nhổ trốc gốc chờ chim đến. Đàn chim đến thật. Mẹ, vợ và con lão nha giàu
không hiểu đổi trác thế nào, nên cứ trố mắt nhìn. Còn tên nhà giàu thì đưa quả
sung như nhử chim, nói: - Cây sung bị
thằng tàn tật nhổ mất rồi. Từ nay kiếm được một quả sung chẳng dễ gì! Đây,
những quả sung này ngon lắm, ngon gấp mười quả sung của thằng tàn tật! Chim có
chịu đổi một trăm điều ước ta mới đổi.
Đàn chim đã đói, nhưng
mỗi lần chỉ cho được một điều ước, nên không đổi được cho tên nhà giàu. Khi mặt
trời gần lặn, đàn chim chắp cánh sắp bay. Biết không thể đổi được hơn, tên nhà
giàu mới chịu đổi. Được điều ước nó cười hả hê, giục cả nhà đứng dậy rồi lớn
tiếng: - Cho cả nhà tao trẻ lại.. này,
khoẻ..này, béo này..
Nhưng nói chưa hết câu,
thì những cái mồm của lũ nó nhô ra nhọn hoắt, tay biến thành cánh, móng biến
thành vuốt, lông mọc khắp người, hôi thối khét lẹt. Cả nhà nó hoá thành kền
kền, chúng vẫn giữ nguyên như cốt cách lúc còn làm người. Mỗi khi gặp con trâu,
con bò chết là cả lũ bâu lại.
33. SỰ TÍCH BÁNH
CHƯNG CẶP
Ngày xưa có hai vợ
chồng, vì mỗi người một tính nết nên ít khi sống hoà thuận. Anh chồng thì
nghiệp ngập đủ thứ. Ngoài những lúc ăn uống đàn đúm ra, anh ta hết chơi chim
khướu lại đến chim mồi. Có lần gặp con chim mồi đẹp anh ta mang cả con trâu đi
để đổi. Mỗi lần đi chọi được con chim nào về anh ta lại thịt để nhắm rượu.
Quanh năm suốt tháng anh ta toàn bầy những trò ăn chơi như vậy, ít khi ngó
ngàng tới công việc làm ăn. Hoạ hoằn lắm, sau khi người vợ phát hết những cây
nhỏ của đám nương, anh ta mới giúp được đôi buổi để hạ những cây to. Trong khi
đó người vợ lại vụng về không biết khuyên bảo chồng. Mỗi lần người chồng đi ăn
uống say sưa đâu về chị ta thường gắt gỏng không tiếc.
Vào một năm nọ, khi ngày
tết đã gần đến, làng bản ai cũng tấp nập sắm sửa để đón tết. Con gái ban đêm
may cắt những bộ quần áo mới, ban ngày lên rừng kiếm củi, cắt lá dong, rọc lá
chuối, ra suối đãi gạo, rửa rau. Trai làng thì sửa sang nhà cửa, quét dọn bàn
thờ tổ tiên. Nhà nào nhà nấy đúng là “bận tíu tít như ngày tết”. Riêng chỉ có
vợ chồng nhà họ thì vẫn chưa sắm sửa được tí gì. Số là ngày hai mươi chín tết
anh chàng vừa đi đâu uống về say mèm, người vợ lại chửi mắng không ngớt. Thế là
một cuộc cãi lộn giữa hai vợ chồng lại nổ ra. Thấy vậy đứa con gái nhỏ len lét
đến gần mẹ hỏi: - Mẹ ơi sao nhà ta chưa
gói bánh trưng hở mẹ? Người mẹ quắc mắt nhìn con trả lời: - Bánh à? Lấy đâu ra thịt mà làm nhân. Lúc đó thằng con trai lớn vừa đi đâu về hớt
hải hỏi bố: - Bố ơi! Nhà chưa thịt lợn à?
Khắp bản người ta thịt cả rồi? - Lợn
nhà mình bằng con chuột. Thịt lúc nào mà chẳng được. Mẹ mày có bao giờ chăn lợn
đâu mà có lợn to?
Tuy đang giận vợ, nhưng
sau khi nghe các con hỏi nào bánh nào thịt anh cũng động lòng. Nên sau đó anh
ta liền sang nhà hàng xóm ăn vụng một đùi lợn mang về. Chiều tà anh không thể
về đến nhà được, nằm vật bên bìa rừng. Người qua đường thấy vậy vội đến bảo chị
vợ đi dìu chồng về. Người vợ đang sẵn bực dọc trong mình liền buông lời nguyền
rủa: - Kệ xác, để cho hổ tha ma bắt càng
tốt?
Nói rồi chị ta điềm
nhiên tiếp tục gói bánh, rồi bắc nồi lên luộc. Lúc đó, đêm đã khuya, hai đứa
con thấy đợi bánh lâu quá, ngủ say lúc nào không biết. Lúc bấy giờ chị ta mới
sực nhớ tới chồng nằm ngoài trời. Chị ta thắp đuốc rồi giục thằng con trai dậy đi
tìm chồng. Tới đoạn bìa rừng chị ta gọi chồng mãi nhưng chẳng thấy tiếng thưa.
Không có cách nào nữa, hai mẹ con đánh đi sâu vào các lùm cây bụi cỏ để tìm.
Bỗng đến một nơi cây cỏ nát lụi, đi bước nữa chỉ thấy vũng máu, rồi tay áo…
Người mẹ oà lên khóc: Thôi thế là hổ đã ăn thịt chồng rồi. Hai mẹ con vừa khóc
vừa chạy vội về làng. Nghe thấy tiếng kêu khóc thảm thương của mẹ con nhà họ,
cả làng kéo đến giúp tìm thâu đêm nhưng không thấy tăm hơi đâu cả. Hối hận lắm,
sáng hôm sau người vợ và đứa con trai bổ đi tìm chồng. Hai mẹ con cứ lần theo
các vệt máu và vết chân hổ mà đi. Họ đi mãi đến trưa thì tìm thấy xác chồng ở
trong thung lũng nọ. Xác anh ta còn, vì mùi rượu bốc lên nồng nặc hổ không thể
nào ăn được.
Người vợ cứ ôm lấy xác
chồng mà khóc, mà kể lể mọi nỗi khổ của mình. Chị ta gào thét, vật vã bên
chồng, cuối cùng chi ta khóc không thành tiếng nữa. Chị ta nghĩ bây giờ mà về
thì cũng nghèo đói, lại bị làng bản chê cười là đã bạc bẽo với chồng, chi bằng
chết đi cho rảnh. Nghĩ vậy chị ta tự cắn lưỡi mà chết.
Con hổ đó đang lẩn sau
bụi cây, nghe hết mọi điều chị ta than khóc lấy làm thương hại lắm. Nó nghĩ bây
giờ làm sao mà đền tội cho vợ chồng nhà nghèo này được. Thế là hổ ta bèn đi bắt
lấy hai con lợn, chờ đêm đưa xác vợ chồng nọ cùng hai con lợn vừa bắt về đặt
ngay trước cửa nhà nọ.
Người con trai nọ thấy
mẹ chết theo bố, sợ quá chạy về nhà. Hai anh em kêu khóc thảm thiết. Chiều ba
mươi tết, cả làng người đưa đến cân thịt, kẻ đưa đến chiếc bánh, nhưng hai đứa
bé đều không thiết ăn.
Sáng hôm mồng một, từ
tinh mơ, người ta thấy xác hai vợ chồng ôm nhau chết ngay trước cửa. Bên cạnh
còn có hai con lợn chết lăn ra đấy nữa, cả làng đều lấy làm lạ. Khi họ xúm lại
xem thì thấy xung quanh đầy đặc vết chân hổ mới biết là hổ mang đến.
Trước cảnh thương tâm
đó, dân làng bỏ cả ăn tết để khâm niệm, chôn cất cho vợ chồng họ. Rồi dùng 2
đầu lợn cúng trước 2 vong linh. Về sau hai đứa con lớn lên, hàng năm cứ đến 30
tết lại nhớ tới ngày giỗ bố, mẹ. Hai đứa gói 2 cái bánh trưng rồi buộc hai cái
vào nhau đặt lên bàn thờ cúng cha mẹ. Từ đó người Cao Lan cứ đến tết lại gói
bánh chưng, hai cái buộc vào nhau, luộc chín để cúng tổ tiên.
34. SỰ TÍCH CÂY HUYẾT
DỤ
Xưa có một bác đồ tể
chuyên mua lợn về giết thịt để mang bán ở chợ. Nhà bác ta ở bên cạnh một ngôi
chùa làng. Hàng ngày, vào lúc mờ sáng là lúc sư cụ bên chùa theo lệ thường thức
dậy tụng kinh. Và cũng theo lệ thường, sư cụ thức chú tiểu dậy gõ một hồi
chuông mai. Bấy giờ cũng là lúc bác đồ tể sửa soạn giết lợn, cho nên bác ta
quen lấy tiếng chuông làm chừng thức dậy làm việc hàng ngày. Cứ như thế, ngày
nào cũng như ngày ấy không bao giờ sai lạc.
Một đêm nọ, sư cụ nằm
mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy
vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng!
Xin cứu mạng!". Sư cụ hỏi người đàn bà: "A-di-đà Phật! Cứu mạng là cứu thế nào? Bần tăng phải làm gì đây?
" Người mẹ có bộ điệu hãi hùng ấy trả lời: "Ngày mai xin hòa thượng hãy đánh chuông chậm lại. Như vậy mẹ con chúng
thiếp rất đội ơn". Nhà sư tỉnh dậy không hiểu thế nào cả. Nhưng tờ mờ
sáng hôm đó, vâng theo lời báo mộng, sư cụ chỉ lâm râm đọc kinh cầu nguyện mà
không thức chú tiểu dậy thỉnh chuông. Lại nói chuyện hôm ấy bác đồ tể ngủ một
giấc li bì. Mãi đến lúc mặt trời lên chừng một cây sào, tiếng chuông chùa mới
bắt đầu vang rền làm cho bác giật mình choàng dậy. Thấy trời đã quá trưa, bác
không dám giết lợn như thường lệ, vì nếu làm thịt thì khi đưa ra đến chợ, chợ
đã vãn người rồi.
Tức mình vì lỡ mất một
buổi chợ, bác ta lật đật sang chùa trách sư cụ. Sư cụ bèn đem câu chuyện nằm
mộng đêm qua để phân trần với ông hàng xóm không phải lỗi tại mình. Nhưng lúc
bước chân về chuồng lợn của nhà thì bác đồ tể ngạc nhiên thấy con lợn nái mua
ngày hôm qua toan giết thịt sáng đó, đã đẻ được năm con lợn con. Vừa mừng vừa
sợ, bác ta kể cho mọi người biết sự lạ lùng: "Đúng là linh hồn người đàn bà ẩn trong con lợn cái đã tìm cách cứu bầy
con của mình khỏi chết". Tự nhiên bác đồ tể đâm ra suy nghĩ. Bác thấy
bàn tay của mình đã từng vấy máu biết bao nhiêu là sinh mạng. Trong một lúc hối
hận đến cực điểm, bác ta cầm cả con dao bầu chạy sang chùa bộc bạch nỗi lòng
với sư cụ. Bác ta quả quyết cắm con dao của mình trước sân chùa, thề trước Phật
đài từ nay xin giải nghệ.
Không rõ bác đồ tể sau
đó thế nào, nhưng con dao của bác tự nhiên hóa thành một loại cây có lá đỏ như
máu và nhọn như lưỡi dao bầu, người ta vẫn gọi là cây huyết dụ.
35. SỰ TÍCH KHỈ ĐÍT
ĐỎ
Ngày xưa ở một làng nọ
có một cô gái bố mẹ chết sớm, không nơi nương tựa, phải đi ở cho nhà giàu.
Một hôm nhà giàu có giỗ,
hắn mổ lợn, giết gà ăn uống rất linh đình. Họ hàng tới uống rượu, cười nói nhộn
nhạo. Bỗng có một ông cụ già đầu tóc bạc phơi không biết ở đâu đến chống gậy
đứng ở cửa xin ăn. Lão nhà giàu trông thấy tức lắm. Hắn vừa trỏ vào ông cụ vừa
chửi: - Thằng già kia! Làm gì có cơm cho
mày. Cút đi ngay! Mặc cho tên nhà giàu thét chửi, cụ già vẫn đứng yên,
miệng van nài: - Nhà ông nhiều cơm, nhiều
thịt ăn không hết. Cho già xin đỡ đói!
Tên nhà giàu lấy làm
chướng tai và bực mình, hắn đứng dậy khỏi mâm cơm, vác gậy đuổi đánh. Cụ già bị
đánh, tập tễnh đi men theo bờ suối vào trong rừng. Cô gái ở thấy cụ già bị đánh
thì thương xót lắm. Cô bèn giấu gói cơm cháy phần của mình đi theo và đưa cho
cụ già. Cụ già ăn xong, cụ nói: - Con có
lòng tốt, biết thương kẻ nghèo khó. Thật là quý hoá con ạ! Bây giờ con muốn gì,
ta sẽ giúp con.
Cô gái nghe cụ già nói
thế thì ngạc nhiên lắm. Nhưng cô cũng thử bày tỏ ý muốn của mình. - Thưa cụ cháu chả muốn gì cao sang, chỉ mong
khoẻ mạnh làm việc có cơm ăn, áo mặc như người ta thôi. Cụ già nói liền chỉ
vào cái hồ nước trước mặt và nói với cô gái: - Ở trong ấy có hai khóm hoa: một khóm trắng, một khóm đỏ. Con xuống đấy
hái khóm hoa trắng đem về nhà mà ngửi, con sẽ được đủ ăn, đủ mặc. Nói xong cụ già biến mất.
Cô gái làm theo lời dặn
cụ già. Khi cô ngắt khóm hoa trắng, đưa lên mũi ngửi thì trở thành một cô gái
xinh đẹp, da trắng nõn nà. Bộ quần áo cô đang mặc bộ quần áo thêu hoa sặc sỡ.
Trở về nhà, tên nhà giàu
không nhận ra. Hắn nhìn cô không chớp mắt, dáng điệu khúm núm: - Xin chào cô. Cô là ai? ở đâu đến? Cô gái
thật thà đáp: - Tôi là con ở của ông đây
mà. Ông không nhận ra tôi ư? Tên nhà giàu lấy làm lạ càng ngạc nhiên hơn
kêu lên: - Mày đấy à? Làm thế nào mà xinh
đẹp sang trọng thế? Cô bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho tên nhà giàu
nghe. Hắn lại càng tiếc và cũng mong có dịp gặp ông cụ lần trước.
Ba hôm sau, có một bà
già đến ăn xin nhà tên nhà giàu. Nhìn bà già ghẻ lở hôi hám không những không
cho cơm, mà tên nhà giàu còn sai người cầm gậy đuổi đánh. Bà già chạy vào rừng,
nhưng lại men theo bờ suối như ông già lần trước. Khi bà già đi, tên nhà giàu
nghĩ bụng: “Có lẽ bà này là lão già trước
kia con ở của ta gặp chăng?”. Nghĩ vậy, hắn gọi lũ con và bảo: - Này chúng mày ơi! Lấy ngay cơm thịt, rượu
đem vào rừng cho cụ già ăn xin. Sẽ được xinh đẹp và sung sướng, nhưng phải làm
ra vẻ quý trọng mụ già ấy mới được! Bọn con làm theo lời mang thịt rượu,
cơm vào rừng mời bà cụ. Bà cụ ăn xong mới bảo chúng rằng: - Các con có lòng nhân hậu, thương kẻ nghèo
khó là tốt lắm. Bây giờ các con muốn gì ta sẽ giúp cho. Lũ con lão nhà giàu
tranh nhau đáp.
Bà cụ chỉ cái hồ hôm nọ
và bảo lũ con nhà giàu đến đó thấy khóm hoa đỏ, ngắt về ngửi sẽ được ăn sang,
mặc đẹp. Đàn con nhà giàu mừng quá, vội chạy về nhà báo cho bố biết. Lão nhà
giàu liền gọi tất cả nhà: già trẻ, lớn, bé đi tới hồ có khóm hoa đỏ. Lạ thay
vừa ngửi xong, cả nhà ai cũng ngứa ngáy. Chúng thi nhau gãi, càng gãi càng
ngứa. Gãi toạc cả da thịt. Những chỗ gãi ấy mọc lông và càng gãi lông càng mọc.
Cuối cùng tất cả họ hàng tên nhà giàu biến thành khỉ.
Cô gái ở nhà trông mãi
không thấy gia đình nhà giàu về, sau biết lũ chúng biến thành khỉ, cô bèn lấy
thóc gạo, ngô, lợn, gà… chia cho người nghèo, chỉ để lại một ít cho mình.
Mấy hôm sau, tiếc của,
đàn khỉ kéo nhau về la thét đập phá cây cối, chúng còn lấy đá ném vào nhà, làm
cho cô gái rất sợ hãi. Cô gái không biết làm thế nào, đành ngồi khóc. Ông già
lần trước bỗng hiện lên hỏi nguyên do. Cô gái thuật lại câu chuyện. Ông già
bảo: - Cứ tối con lấy lưỡi cầy nung thật
đỏ để ngoài sân. Khỉ ngồi phải, sẽ sợ không dám đến.
Tối hôm sau, bầy khỉ kéo
nhau đến đông hơn, chúng xô nhau la hét ầm ĩ. Thấy có vật gì đo đỏ giữa sân
chúng tranh nhau ngồi vào. Vừa đặt đít vào chúng nhảy cẫng lên vì nóng. Cọn nọ
tưởng con kia đùa nghịch cuối cùng cả đàn khỉ đều bị cháy xém đít, đỏ loét. Lũ
khỉ đau quá bỏ chạy lên rừng không dám về phá phách nữa.
Từ đó đến nay loài khỉ
con nào cũng đỏ đít và những chỗ cháy xém không mọc lông.
36. SỰ TÍCH CON ĐỈA,
CON MUỖI
VÀ CON VẮT
Xưa có một loại quỷ
chuyên ăn thịt người. Chúng thường đón người trong rừng, rồi từ trong bụi rậm
nhẩy ra cắn vào cổ. Ai cũng kinh sợ loài quỷ này.
Ở một buôn làng kia, có
một người đàn bà goá chồng, sống với ba đứa con trai còn nhỏ. Con quỷ rất thèm
ăn thịt ba đứa trẻ này. Nhưng những đứa trẻ suốt ngày chỉ ở trong nhà chơi. Quỷ
bèn nghĩ kế.
Một đêm, quỷ giả dạng
một người đàn ông mò đến nhà người đàn bà goá. Người đàn bà hỏi: - Anh đi đâu mà đêm hôm đập cửa? Đến thăm nhà
ai hay đi đòi nợ ai vậy? Con quỷ nói dối trơn tru: - Tôi đi thăm họ hàng. Chẳng may trời tối mà chưa đến nơi. Tôi xin ngủ
nhờ ở lại đây nhé? Nói rồi, quỷ đem khoai, gạo và cá biếu cho người đàn bà
và những đứa trẻ nên cả nhà không ai nghi ngờ con quỷ.
Vài hôm sau, con quỷ lại
đến nhà. Lần này, hắn đem đến những chuỗi hạt cườm và những chiếc vòng bạc, xin
lấy người đàn bà goá làm vợ. Từ đó, trong nhà có thêm người đàn ông. Người đàn
ông này rất chăm chỉ làm ăn, nhưng không hiểu sao, hắn chẳng bao giờ nói với ba
đứa trẻ một lời. Những lúc người đàn bà đi vắng, con quỷ nhìn ba đứa trẻ chơi
đùa, trong bụng đầy thèm khát, nuốt nước miếng ừng ực.
Một hôm con quỷ nói với
vợ: - Hôm nay tôi sẽ vào rừng đan chiếc
bồ đựng bắp. Tôi sẽ đưa thằng lớn vào rừng dạy cách đan bồ. Nó đã lớn rồi, phải
dạy nó làm lụng chứ. Người vợ không
nói gì cả.
Rồi con quỷ dẫn đứa bé
vào rừng. Hắn chặt nứa đan bồ. Đến trưa, con quỷ bảo thằng bé chui vào trong bồ
để rút nan. Thằng bé đang loay hoay chui vào bồ thì con quỷ chụp bồ lên đầu.
Quỷ cắn cổ thằng bé hút máu rồi ăn thịt. Buổi chiều thấy chồng về một mình,
người vợ hỏi: - Ơ kìa, thằng con đâu rồi?
Con qủy giả bộ mệt mỏi nói: - Nó mải
chơi, bị lạc trong rừng. Tôi tìm suốt từ sáng đến giờ mà không thấy. Chắc con
cọp ăn thịt nó rồi.
Người đàn bà nghe nói
vậy, khóc lóc thảm thiết.
Mấy hôm sau, con quỷ lại
dẫn đứa trẻ thứ hai vào rừng. Hắn lại ăn thịt đứa bé, rồi trở về một mình. Nghe
vợ hỏi con quỷ tìm cách nói dối: - Thằng
bé đi đường, gặp dòng suối mát. Nó nhảy xuống tắm, rồi bị nước cuốn trôi mất.
Người đàn bà thương con, khóc lóc đến chết đi sống lại.
Mấy hôm sau, con quỷ lại
tìm cách đưa đứa bé còn lại vào rừng. Người mẹ sinh nghi, nhất định không cho
con đi. Nhưng con quỷ khăng khăng bắt thằng bé đi theo. Người mẹ đợi con quỷ đi
khỏi liền lẻn đi theo.
Vào đến rừng, người đàn
bà núp trong bụi cây, nhìn chồng và con đan bồ. Đến trưa, người đàn bà hoảng
hồn vía thấy con quỷ chụp bồ lên đầu con mình rồi cắn cổ thằng bé. Người đàn bà
lăn ra bất tỉnh trong bụi cây. Lúc tỉnh dậy, chị hoảng hốt chạy về nhà, vừa
chạy vừa khóc.
Dọc đường về nhà, người
đàn bà gặp một người đàn ông bên một gốc đa to. Người ấy xưng là thần cây đa Pọ
Đàr. Nghe xong câu chuyện thần Pọ Đàr nói: - Đây là một con quỷ hung ác chuyên ăn thịt người. Muốn giết nó, phải
dùng mưu mới được.
Rồi thần Pọ Đàr bày mưu
cho người đàn bà.
Người đàn bà về nhà, cố
vẻ mặt bình thường.
Đến tối, con quỷ về một
mình. Vừa về đến nhà chưa đợi vợ hỏi hắn đã huyên thuyên: - Thằng bé mải nhìn chơi, bị lạc trong rừng.
Người vợ nhìn mặt chồng, thốt lên: - Kìa
ở mặt anh có vết máu! Anh đi rửa mặt đi đã, em xối nước cho. Con quỷ nghe
nói mặt mình có vết máu, giật mình lo sợ, người vợ xối nước cho chồng rửa mặt.
Chị trút một bầu nước ớt vào mặt con quỷ. Quỷ bị nước ớt chảy vào mắt cay xè,
không làm sao mở được mắt nữa. Vừa lúc ấy, người đàn bà cầm cây xà gạc sắc chém
vào cổ con quỷ. Con quỷ rú lên đau đớn. Nó giãy giụa mãi, rồi chết.
Máu con quỷ xuống suối,
hoá thành những con đỉa. Máu con quỷ chảy vào khe đá và đám lá mục, hoá thành
những con vắt. Máu quỷ còn hoá thành những con muỗi vo ve bay lên cành cây, nấp
vào những chùm lá rậm.
Cho đến bây giờ, lũ đỉa,
muỗi, vắt vẫn luôn tìm cách hút máu người.
37. SỰ TÍCH CHIẾC KÈN
MÔI
Trên ngọn núi cao nọ, có
một cái hang lớn. Trong hang có một con quỷ dữ. Ngày nào con quỷ cũng thịt bò,
ngựa lấy máu làm rượu uống, lấy thịt làm thức nhắm. Khi hết ngựa hết bò, nó lại
xuống các bản quanh vùng bắt trâu, bò, ngựa về ăn. Dân bản quanh vùng căm tức
con quỷ lắm, nhưng không ai dám chống lại. Thấy chúng mọi người đều bỏ chạy.
Một hôm, nàng công chúa
con độc nhất của vua Mèo vào rừng chơi. Cô đang mải mê hái bông hoa đẹp thì quỷ
dữ đã đến sau lưng. Hắn nheo mắt ngắm nàng cười khà khà: - Nàng đẹp lắm! Ta sẽ bắt nàng về làm người hầu ta. Nói xong, hắn
liền tung tà áo. Tà áo của hắn như có cánh, bay vù đến nàng công chúa và chụp
lấy nàng. Quỷ thổi phù một cái, áo cuốn nàng công chúa bay về hang. . .
Công chúa mê đi, lúc
tỉnh dậy, nàng đã thấy mình ở hang quỷ. Chợt nhìn xuống chân nàng thấy sợi dây
đã buộc ở cổ chân từ lúc nào rồi.
Quỷ bắt công chúa hầu hạ
nó. Ngày ngày, nàng phải xuống suối dưới chân núi vác nước về cho quỷ tắm rửa.
Nàng buồn rầu và nhớ nhà lắm nhưng không làm cách nào trốn được, vì hễ động
mạnh một cái là sợi dây thừng lại báo cho quỷ biết ngay.
Một buổi sáng kia, nàng
xuống suối vác nước thấy một con cá đẹp đang bơi lội tung tăng trước mặt. Thỉnh
thoảng, cá lại ngoi lên mặt nước, nhìn nàng bằng đôi mắt óng ánh. Công chúa
nhìn con cá tung tăng vui sướng, nghĩ phận mình cực khổ, nàng cất tiếng than: -
Cá buồn cá lội tung tăng / Ta buồn ta
biết ngỏ cùng ai đây? / Quanh ta trời thẳm đất dày. / Tấm thân tù tội biết ngày nào vui.
Nghe lời than của nàng,
con cá bỗng nổi lên và hoá thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Chàng trai
bước lên bờ, đến bên nàng và nói: - Ta là
con trai của vua Thuỷ Tề. Nghe tin nàng bị quỷ dữ bắt giam ta vội lên đây để
cứu nàng. Chàng trai vội cõng công chúa lên lưng và băng rừng chạy trốn
nhưng trong lúc vội vã chàng quên mất sợi dây thừng đang buộc chân. Thấy động,
sợi dây báo cho quỷ biết, quỷ tức giận, gầm lên vang động như sấm rền và lấy
kính thần ra soi. Chàng trai cõng công chúa đi được một lúc thì bị sợi dây
thừng níu lại. Biết không thể đi xa đuợc trong lúc này, chàng liền phù phép
biến nàng thành một bông hoa, còn chàng thành cành lá che chở cho nàng. Biết
mưu kế của chàng trai, quỷ liền hoá phép thành một đàn ong ào ào bay tới đốt.
Cành lá bị ong châm, lá rụng, lá lại thành chàng trai, còn hoa bị ong châm lại
thành công chúa. Quỷ nắm dây thừng lôi công chúa về. May chàng trai trốn được.
Chàng đi lang thang, lòng buồn rầu, tiên ông hiện đến và cho chàng một con dao,
một chiếc lá, rồi ân cần dặn chàng: - Khi
nào con muốn nói gì với vợ con, con hãy để chiếc lá này vào miệng và nói, vợ
của con sẽ nghe tiếng. Tiên ông lại hiện đến chỗ nàng công chúa, cho nàng
chiếc lá và bảo: - Khi nào con muốn nói
gì với chồng con, con cứ để chiếc lá này vào miệng mà nói, chồng con sẽ nghe
thấy. Nói rồi ông tiên biến mất. Công chúa có chiếc lá nên đã nói với chàng
tất cả nỗi đau khổ của nàng và mong chàng mau cứu nàng.
Lần này, hai người hẹn
gặp nhau ở ngoài suối. Nhờ có dao của tiên ông cho, chàng chém đứt dây thần và
cõng nàng chạy trốn. Dây thừng bị đứt, báo ngay với quỷ. Quỷ liền đuổi theo.
Hai người vừa chạy đến bờ sông lớn thì đã thấy bóng quỷ thấp thoáng đằng sau.
Thấy vậy, chàng liền quay ra bờ sông, lấy tay vỗ nước và gọi: - Hỡi đàn cá lớn nhỏ! Hỡi cá chép, cá chầy!
Hãy đưa ta qua sông!
Vừa dứt lời chàng đã
thấy một con cá lớn rẽ sóng lội vào và đưa hai người qua sông. Quỷ đuổi đến bờ
sông cởi áo khoác tung lên trời. Tấm áo bay, đưa quỷ vượt qua sông rộng. Hai
người đến một ngọn núi. Quỷ đuổi đến ngọn núi cũng tung áo lên và áo đưa qủy
qua núi. Quỷ đuổi gần kịp hai người, liền dừng lại, thổi phù một cái, tấm áo
bay vù vù và chụp lên đầu hai người và cuốn chặt lấy. Bắt được rồi, quỷ đánh
chàng trai chết và bắt công chúa về. Cái chết của chàng trai đến tai tiên ông.
Tiên ông liền phù phép cho chàng sống lại và cho chàng một thanh kiếm, một
chiếc nỏ, rồi bảo chàng: - Lần này, con
hãy cõng vợ chạy vào rừng chuối.
Chàng liền để chiếc lá
vào mồm và hẹn vợ ra suối để cùng trốn. Yên chí chàng đã chết, quỷ lại cho nàng
đi vác nước dưới suối, chàng liền dùng kiếm cắt dây thần và cõng nàng chạy vào
rừng chuối. Quỷ biết, đuổi theo. Chàng vừa chạy vừa chặt chuối chặn đường quỷ.
Vướng chuối, quỷ trượt chân ngã. Nó liền hoá ra sấm chớp, thổi mây đen tối mịt để
không cho chàng chạy, chàng liền gương nỏ bắn tan những đám mây. Quỷ hoá ra lửa
đốt hai người, chàng liền phun nước dập tắt. Cuối cùng, quỷ tung áo lên để bắt
chàng. Chàng gương nỏ bắn rách áo. Thế là quỷ hết phép, chàng kết liễu đời nó
bằng một nhát kiếm.
Chàng đưa vợ về cung
vua. Vua cha thấy thế mừng rỡ, làm lễ cưới cho hai người và phong chàng làm phò
mã. Từ đó, mỗi khi vui chơi, chàng lại mang chiếc kèn môi ra thổi, để nhớ lại
những kỷ niệm xưa. Dân bản Mèo cảm phục gương anh dũng của chàng nên cũng làm
kèn môi để thổi. Và cứ mỗi đôi thanh niên nam nữ yêu nhau, họ lại dùng tiếng
kèn môi thủ thỉ tâm tình.
38. SỰ TÍCH TRÂU MỘT
HÀM
Một con cọp từ trong
rừng đi ra, thấy một anh nông dân cùng một con trâu đang cày dưới ruộng. Trâu
cặm cụi đi từng bước, lâu lâu lại bị quất một roi vào mông. Cọp lấy làm ngạc
nhiên. Đến trưa, mở cày, cọp liền lại gần trâu hỏi: - Này, trông anh khoẻ thế, sao lại để cho người đánh đập khổ sở như vậy?
Trâu trả lời khẽ vào tai
cọp: - Người tuy nhỏ, nhưng người có trí
khôn, anh ạ! Cọp không hiểu, tò mò hỏi: - Trí khôn là cái gì? Nó như thế nào? Trâu không biết giải thích ra
sao, đành trả lời qua quýt: - Trí khôn là
trí khôn, chứ còn là cái gì nữa? Muốn biết rõ thì hỏi người ấy!
Cọp thong thả bước lại
chỗ anh nông dân, ôn tồn nói: - Trí khôn
của anh đâu, cho tôi xem một tí có được không? Anh nông dân suy nghĩ một
nát rồi nói:- Trí khôn tôi để ở nhà. Để
tôi về lấy cho anh xem. Anh có cần tôi sẽ cho anh một ít. Cọp nghe nói,
mừng lắm.
Anh nông dân toan đi,
lại làm như sực nhớ ra điều gì, bèn nói: - Nhưng
mà tôi đi khỏi, lỡ anh ăn thịt mất trâu của tôi thì sao? Cọp đang băn khoăn
chưa biết trả lời như thế nào thì anh nông dân đã nói tiếp: - Hay là chịu khó tôi buộc tạm anh vào gốc cây
này cho tôi được yên tâm. Cọp ưng thuận, anh nông dân bèn lấy thừng trói
cọp chặt vào gốc cây. Xong anh nông dân lấy roi quất túi bụi vào đầu, vào lưng
cọp, vừa quất vừa thét: - Trí khôn của
tao đây! Trí khôn của tao đây. Cũng chưa hả, anh chất rơm chung quanh chân
cọp, châm lửa đốt và lại quát: - Đã thấy trí khôn của tao chưa? Đã thấy trí
khôn của tao chưa?
Trâu thấy vậy thích quá,
bò lăn ra mà cười, không may hàm trên va vào đá, răng gãy không còn chiếc
nào. Mãi sau dây thừng đứt, cọp mới vùng
dậy ba chân bốn cẳng chạy thẳng vào rừng không dám ngoảnh lại nhìn. Từ đó, cọp
sinh ra trên mình con nào cũng có vằn đen dài, vốn là dấu tích những vết cháy,
còn trâu thì chẳng con nào có răng ở hàm trên cả.
39. SỰ TÍCH HOA BÍCH
ĐÀO
Ngày ấy, người giàu và
người nghèo, người vùng thấp và người vùng cao, người thị thành và người nông
thôn... còn phân biệt và coi khinh nhau. Họ ít kết bạn, đặc biệt là không kết
duyên với nhau.
Một chàng trai người dân
tộc thiểu số, con một gia đình nghèo sống trên núi Mẫu Sơn, từ nhỏ đã có năng
khiếu đặc biệt về một số mặt. Chàng thường đàn hát, dệt vải, thiết kế nhà cửa,
làm cày bừa rất khéo, nên nhiều người hay nhờ chàng giúp. Các phong tục tập
quán, các bài dân ca của dân tộc, chàng đều thuộc. Mỗi khi bản có cuộc vui,
chàng đều đến kể chuyện và hát cho mọi người nghe. Các cô gái nghe chàng hát ai
cũng như muốn nuốt lấy từng lời, đang đi gánh nước cũng phải dừng chân lại
nghe, đang trên đường lên nương cũng ngẩn ngơ không muốn bước. Nhiều cô đã mạnh
bạo đến nhờ chàng dạy cho bài hát, hướng cho vài điệu dân ca.
Núi rừng Mẫu Sơn không
còn đủ để chàng mở rộng tầm nghĩ, tầm nhìn. Chàng xin phép bố mẹ và bà con
trong bản xuống thị thành học thêm cái khôn. Ngày chàng ra đi, người thân đưa
tiễn, cây rừng cũng lao xao vẫy chào tạm biệt. Các cô gái vừa mừng cho chàng,
vừa buồn vì phải xa chàng không được nghe tiếng hát, đặc biệt lo chàng đi xuống
thị thành thấy nhiều điều lạ và vui, sẽ quên núi rừng, quên các cô...
Đến thị xã Lạng Sơn,
chàng vào trọ một gia đình nông dân cách chợ Kỳ Lừa khoảng hai cây số về phía
Lộc Bình - Mẫu Sơn. Gia đình này neo đơn, ít con và khó khăn, ông bà chủ nhà
rất tốt bụng, đã nhận chàng làm con nuôi. Chàng vừa học vừa lao động giúp cha
mẹ nuôi làm mọi việc. Từ đó, ông bà chủ nhà đỡ vất vả và đời sống dễ chịu hơn.
Cả bản mừng cho ông bà gặp may, khen chàng trai khéo tay tốt nết.
Chàng trai vùng cao học
rất giỏi. Không chỉ giỏi chữ mà chàng còn giỏi võ, giỏi ứng xử trong giao tiếp,
không làm mất lòng bạn bè... Thầy giáo quý chàng, bạn bè kính nể chàng. Trong
lớp, có một tiểu thư rất xinh đẹp, con một viên quan lại giàu sang. Nàng học
cũng rất giỏi mà lại tốt tính tốt nết, không kiêu căng, hay thương người, chân
thành với bạn bè. Nàng cũng được thầy giáo và bạn bè yêu quý.
Chàng trai vùng cao và
tiểu thư con quan thường hỏi nhau, bảo nhau học hành, nên họ hiểu nhau, quý tài
đức của nhau. Hai người, cũng hay giúp bạn bè học tập. Những ngày nghỉ, sau khi
làm xong các công việc nhà, họ rủ nhau leo lên đỉnh các ngọn núi Tam Thanh để
ngắm nàng Tô Thị ẵm con chờ chồng, ngắm cảnh thị xã Lạng Sơn có dòng sông Kỳ
Cùng chảy qua êm đềm, thơ mộng. Cứ thế, cứ thế, họ kể cho nhau nghe bao truyền
thuyết, huyền thoại về Xứ Lạng. Ba năm đã trôi qua một cách nhanh chóng và họ
đã yêu nhau thắm thiết. Thầy giáo và bạn bè ủng hộ mối tình trong sáng của đôi
bạn.
Nhưng trước mắt họ không
phải ngọn núi Chớp Chài hay dãy Mẫu Sơn cao vời vợi ngăn cách, mà là sự cách
trở bởi giàu nghèo, bởi dân tộc, bởi ngược xuôI mà cha nàng rất phân biệt.
Biết hai người yêu nhau
thắm thiết, cha nàng đã đánh đập nàng thậm tệ. Không những thế, ông ta còn doạ
dẫm, khủng bố tinh thần chàng, bắt nhà trường đuổi học. Nàng bị giam trong
phòng kín và hai người không được gặp nhau nữa. Chàng rất buồn và nàng rất đau
khổ. Nỗi đau của trái tim không được yêu người mình yêu quý còn hơn cả nỗi đau
thể xác. Nàng khóc ngày đêm, hết ngày này qua ngày khác, không ăn, không uống,
dù ai khuyên nhủ cũng mặc.
Yêu mà không lấy được
người mình yêu, chàng viết một tâm thư đẫm nước mắt để ly biệt, tỏ ý cám ơn về
tấm lòng cao thượng, tình cảm đẹp đẽ mà nàng đã dành cho chàng và tỏ ý xin lỗi vì
đã không đáp lại được tình yêu của nàng...
Nhận được thư nàng khóc
thảm thiết. Dòng sông Kỳ Cùng cũng cuộn lên nỗi quặn đau chia xa của đôi trai
tài gái sắc. Nàng xé vạt áo trắng đang mặc để viết bức tâm thư bằng máu nói lên
mối tình của mình với chàng với những lời thống thiết, xót xa và tuyệt vọng.
Nàng hẹn thời gian và địa điểm để gặp chàng lần cuối. Đợi lúc khuya vắng, nàng
đã tìm cách ra ngoài và đến với người yêu. Nàng trao bức huyết thư cho chàng và
ôm lấy chàng khóc nức nở, khóc rất lâu ở một sườn đồi gần nhà chàng trai trọ
học. Hai người cùng khóc, khóc cạn nước mắt, khóc đến nỗi máu mắt cùng bật ra,
hoà với huyết thư, rơi xuống đất. Gần sáng họ phải lìa nhau trong tiếng khóc
thương thắm thiết. Nàng quay lại nhà. Chàng nặng nề lên bước về với núi rừng
Mẫu Sơn. Nước mắt hoà máu của đôi bạn trẻ rơi xuống dọc đường đi về đến tận
nhà. Từ đó, hai người nhớ thương sầu thảm rồi lâm bệnh nặng. Họ mất đi trong
nỗi tiếc thương vô hạn của người dân bản làng và bạn bè, thầy giáo.
Mùa xuân năm sau, người
ta thấy ở nơi đôi trai gái gặp nhau lần cuối (sau này gọi là Kotào - đèo hoa
đào) và trên đường đi của hai người về nhà mọc lên một loại cây nở những bông
hoa cánh đỏ tươi như máu. Người ta gọi đó là hoa bích đào. Màu đỏ tươi ấy của
hoa chính là máu và nước mắt của đôi bạn trẻ viết lên bức huyết thư, đã rỏ
xuống đất nơi họ ngồi và rơi suốt dọc đường đi của hai người…
40. SỰ TÍCH HỘI BƯA
LỪA
Ngày xưa, tại Pác Cáp,
Văn Mịch (xã Hồng Phong, huyện Bình Gia ngày nay) có hai vợ chồng làm nghề đánh
cá sống hoà thuận thương yêu nhau, vậy mà trên bốn mươi tuổi vẫn không có một
mụn con.
Một đêm, bà vợ nằm mơ về
thăm quê ngoại. Đi được nửa đường mưa to ập đến, sấm chớp ầm ầm, một tia sét
đánh trúng mạng sườn. Bà giật mình tỉnh giấc và kể lại cho chồng. Họ đều cho là
điềm lành, từ đấy bà có thai. Hai vợ chồng vẫn ngày đêm đi đánh cá.
Hôm ấy, họ vẫn đi đánh
cá như thường lệ. Mẻ lưới đầu tiên chẳng được con cá nào mà chỉ được một quả
trứng. Họ ném quả trứng đi thật xa và xuống Hát Quang đánh cá. Mẻ lưới thứ hai
kéo lên lại vẫn được quả trứng ấy. Họ lại ném đi và bơi ngược dòng lên Hát Lải
(Hoa Thám) kéo lưới. Lạ thay lần này vẫn được quả trứng ấy. Hai vợ chồng đem về
cho gà ấp thử, một thời gian sau trứng nở ra một con rắn có mào đỏ trên đầu,
ông bà đánh cá bèn nhận nó là con. Từ lần ấy mỗi lần đi đánh họ thường được rất
nhiều cá. Nhờ vậy, chẳng mấy chốc kinh tế gia đình trở nên sung túc. Họ rất
biết ơn và quý cậu con rắn của mình.
Bà vợ mang thai đủ
tháng, đủ ngày và sinh ra được một cậu con trai. Vì sinh sau rắn nên cậu là em.
Ngày tháng qua đi hai anh em lớn lên, càng lớn càng quý mến nhau. Hàng ngày bố,
mẹ đi đánh cá, rắn ở nhà trông em. Một hôm bố mẹ đi đánh cá xa, buổi trưa nóng
và oi hai anh em vẫn rủ nhau ra sống Văn Mịch tắm. Rắn lặn được sâu và bơi được
xa hơn. Cậu em bơi yếu không dám bơi theo, rắn càng bơi càng thích thú. Thừa cơ
lúc rắn không chú ý, nàng thuồng luồng bắt mất em của mình. Vô cùng buồn bã,
rắn bò về nhà và chui vào chỗ ngủ của mình. Tối đến, bố mẹ về và thấy nhà tối
om, cứ tưởng hai con mải chơi ở đâu. Vào nhà chỉ thấy rắn mà không thấy cậu con
trai đâu, bố mẹ hỏi rắn: - Em đâu?
Rắn giàn dụa nước mắt kể lại: - Em bị
thuồng luồng bắt mất rồi.
Ông bà đánh cá kêu trời
khóc lóc thương cho số phận hẩm hiu của cậu con trai xấu số. Ông bà buồn bã
chẳng thiết làm gì nữa. Rắn thì càng ngày ăn càng khoẻ, càng lớn nhanh như
thổi. Chẳng mấy chốc nó dài và to như cột nhà, có mào to như quạt nan đỏ rực.
Một bữa ăn của rắn bằng ông bà ăn mấy ngày. Vì thế số của cải làm ra chẳng mấy
chốc mà hết. Kinh tế ngày một cạn kiệt không nuôi nổi rắn nữa, ông bà phải nói
với rắn rằng: - Nay bố mẹ đã già yếu và
nghèo khó quá không nuôi nổi con nữa. Con hãy tự đi kiếm sống ở nơi nào đó cho
đỡ khổ. Nhưng nhớ thỉnh thoảng về nhà thăm bố mẹ. Rắn hiểu lòng bố mẹ và
rất buồn, mất em rồi lại phải xa cha mẹ.
Dân làng nghe nói ông bà
đánh cá có người con bị thuồng luồng bắt, trong nhà lại nuôi một con rắn to nên
kéo nhau đến chia buồn và xem rắn. Nhìn thấy con rắn to và có mào đỏ rực, nhiều
người đã nhìn thấy thuồng luồng nên họ khẳng định đây là thuồng luồng. Vì thế,
nó cũng độc ác như con thuồng luồng khác. Dân làng nghĩ vậy, dù rất lo sợ nhưng
vẫn reo hò, cầm dao, nhặt đá đuổi rắn đi để khỏi gây tai vạ cho con người. Ngày
ấy là ngày 25 tháng 3 âm lịch rắn bò ra khỏi nhà và đau đớn vì dân làng không
hiểu được mình. Buồn bã, rắn đến cây đa to ở Pác Cáp, bò lên ngọn cây treo mình
mấy ngày liền làm cho dân làng càng sợ hơn. Họ đi mời thầy về yểm bùa. Rắn
trườn xuống dưới gốc nằm một ngày một đêm. Rạng sáng ngày 4 tháng 4 âm lịch,
rắn từ gốc đa trườn xuống sông nơi trước đây em trai mình bị thuồng luồng bắt.
Rắn vặn mình ba cái và thét lớn rằng: - Tao
sẽ giết hết chúng mày, lũ thuồng luồng độc ác. Chúng mày đã gieo tai họa cho
con người và làm ta phải vạ lây bị đuổi, xa cha mẹ.
Rắn quăng xuống sông bơi
ngược, bơi xuôi vào tất cả các hang hốc giết chết tất cả các con thuồng luồng
trên dòng sông Văn Mịch, xong rắn về từ biệt cha mẹ, hẹn cứ ba năm về thăm một
lần rồi xuống sông đi theo dòng ra sông Kỳ Cùng. Từ đó người dân Văn Mịch không
phải lo sợ thuồng luồng như trước nữa.
Còn hai vợ chồng người
đánh cá càng già yếu. Vào một ngày nọ hai vợ chồng ông bà qua đời cùng một lúc.
Dân làng chôn ông ở cạnh cây đa Pác Cáp và dựng lên một cái đình gọi là Đình
Ông, bà vợ được chôn cất bên kia sông và cũng lập một cái đình đối diện gọi là
Đình Bà.
Từ đó trở đi cứ năm
nhuận vào ngày 4 tháng 4 âm lịch, rắn lại về Văn Mịch thăm bố mẹ và bà con láng
xóm. Biết ơn rắn đã trừ được thuồng luồng độc ác nên vào ngày tháng này bà con
Văn Mịch lại tổ chức một lễ hội trọng thể để đón rắn về thăm. Đó là hội Bưa
Lừa.
41. SỰ TÍCH HỔ KHÔNG
ĂN THỊT MÈO
Ngày xửa, ngày xưa, có
chị em hổ dẫn nhau đi tìm cái ăn, nhưng vì mùa đông giá rét không kiếm được mồi
ăn nên bụng hai đứa đói cồn cào, chân tay run lẩy bẩy… Và khi qua khỏi eo núi cuối
cùng, chị em hổ thấy một nhà đang đun gì đó, lửa than cháy rừng rực và có cảm
giác ấm hẳn người lên! Hổ em ngồi sát vào hổ chị, miệng thủ thỉ: “Chị ơi! ước gì mình cũng có được ít lửa đó
để sưởi như các em bé ngồi đó!”. Hổ chị nghe thấy hổ em nói hợp ý mình,
liền bàn: “Hình như nhà người đang nấu
bánh tết đấy! Nhiều lửa lắm em vào nhà xin đi!” Hổ em trông thấy cái thang
bắc lên sàn nhà cao quá, một cậu bé lại dùng một con dao lưỡi sáng loáng gọt
đẽo gì đó đâm sợ, liền thưa: “Chị lớn
chân khoẻ tay chị đi đi! Em đói, chân em nhỏ không trèo nổi cái thang đó đâu!…”
Thích thú và thèm muốn
có lửa, chị em hổ cứ dùng dằng, đưa đẩy nhau không ai chịu ai… Mãi tận canh
khuya, chúng biết hai đứa bé đã ngủ say, chỉ còn mình bà già canh chừng bếp
củi. Con chó mực cũng không còn thấy nằm ngoài sàn nữa, lại bị hổ chị bắt buộc
nên hổ em đánh liều mò lên nhà xin lửa… Nhưng trời về khuya, sương đậm nặng hạt
nên thân mình hổ em bị ướt sũng, lông bết hết vào da trông nhỏ xíu, răng đánh
vào nhau run cầm cập… Bà cụ nhác trông thấy con vật lạ, dáng gầy nhom lại hiền
lành như thế, nên bà cụ bế vào cạnh bếp cho nó sưởi, lấy ít bánh mà hai đứa
cháu vừa ăn xong cho nó ăn…
Sau khi đã khô lông,
bụng lại được no, hổ em nán chờ cho bà đưa hai đứa cháu bé vào buồng xong sẽ
lẻn xin ít lửa đem cho hổ chị… thì tiếng chó ở nhà trên xóm dưới sủa ăng ẳng,
tiếng pháo giao thừa đã bắt đầu nổ đì đùng… Thấy thế hổ chị liền ba chân bốn
cẳng phóng thẳng vào rừng sâu… Khi hổ em lấy được lửa ra tới nơi tìm mãi không
còn thấy hổ chị ở eo núi nữa nó đành đem lửa trở lại nhà chủ và xin bà ở sưởi
tới đêm sau sẽ lại ra đi tìm…
Từ khi được sống ở trong
nhà, lại luôn gần lửa và được hai bé cháu bà cụ yêu chiều - đứa thì cho gặm
xương cẳng gà, thằng thì cho cả khúc đầu cá lúc nào cũng no nê, hổ em cứ “khò
khè” nằm cạnh bếp suốt buổi - cũng có lúc thấy hổ em kêu “meo meo…” làm cho tụi
trẻ càng thêm thích thú...
Mấy đêm liền hổ chị qua
tìm hổ em nhưng chó bản dữ quá nên không dám tới gần nhà… Mãi tới tận một đêm,
thấy nhà im ắng hổ chị mò vào gần sàn nhà, trông thấy hổ em ngủ ngáy “khò khò”
ngon lành bên bếp than hồng, hổ chị khe khẽ cất tiếng “meo meo”… gọi, chợt mấy
con chó ở đâu xô tới, hổ chị phải lao ngay lên tảng đá có chùm rễ si thòng
xuống mới thoát khỏi đàn chó! Và cũng từ
bữa đó hổ chị rất lấy làm căm hổ em - tức là con mèo nhà ngày nay…!
Do xa xưa quan hệ “chị
em” với mèo nhà như vậy cho nên hổ không bao giờ ăn thịt mèo - nếu có cắn chết
hoặc bắt sống được mèo, hổ cũng lấy về làm “đệm ngồi” cho tới lúc nào xác mèo
lạnh cứng thì hổ mới bỏ đi chỗ khác.
42. SỰ TÍCH MƯA, GIÓ,
MẶT TRỜI
VÀ MẶT TRĂNG
Ngày xưa, ở một sóc nọ
có một cặp vợ chồng nông dân nghèo. Người chồng bị bệnh qua đời sớm, để lại bốn
đứa con thơ. Ruộng rẫy chẳng có là bao, nên người phụ nữ goá chồng ấy phải làm
lụng vô cùng cực nhọc, từ việc mót lúa, hái rau, đào củ đến việc đi làm thuê,
làm mướn cố gắng nuôi con nên người theo lời dặn của chồng trước khi hấp hối.
Một hôm, có người bà con
ở sóc bên mời bà đi dự đám làm phước. Thương các con lâu ngày chưa được miếng
ngon, bà nhường cho các con đi thay mình.
Khi đến nhà người bà
con, thấy mâm cao cỗ đầy, thịt cá, bánh trái ê hề, ba người anh lớn mải lo ăn
uống no nê, vui cười hỉ hả. Riêng người em út, khi ăn miếng ngon vẫn nhớ đến
người mẹ tần tảo suốt một đời hy sinh cho con cái ở nhà. Anh ta bèn lấy lá, tìm
cách gói riêng một gói bánh để mang về cho mẹ.
Trên đường về nhà, ba
người anh lớn phát hiện em mình có gói quà mang về cho mẹ bèn đề nghị đem ra
cùng chia nhau ăn nốt. Người em út không chịu. Nhưng ba người anh giật được gói
bánh, đem lại gốc cây gần đấy, chia nhau ăn sạch. Người em út rất căm giận sự
bất hiếu của các anh, nhưng chẳng biết làm gì hơn nên oà lên khóc. Về nhà,
người mẹ thấy người em út đi ăn cỗ về, nhưng sao lại không vui, đôi mắt đỏ hoe,
bèn hỏi. Người em út thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, người mẹ vừa
thương vừa giận. Rồi bà buột miệng trách: “Ba
đứa bay, sống chẳng biết nghĩ tới ai, mai sau có chết cũng chẳng ai quý, ai
thương đâu. May ra, có thằng út..”
Về sau, ba người anh qua
đời, hoá kiếp thành Mưa, Gió và Mặt trời. Bên cạnh sự hữu ích mà nó mang lại
cho cuộc sống loài người, thì nó cũng đưa lại lắm tai hoạ. Mưa dầm gây lũ lụt,
gió lớn làm hại mùa màng, ngã đổ cây cối, hoặc nắng hạn đất ruộng không gieo
cấy, trồng trọt được gì, nên ai cũng ghét. Đó là dấu ấn về tính cách của ba
người anh bất hiếu. Chỉ có người em út, sau khi chết hoá thành Mặt trăng với
ánh sáng dịu hiền, toả rộng muôn nơi giống như bản chất của con người biết
nhường nhịn, hiếu thảo.
43. SỰ TÍCH THẦN GIỮ
CỦA
Ngày xưa ở vạn Lai Triều
thuộc trấn Sơn Nam có một người lái buôn người Trung Quốc sang sinh cơ lập
nghiệp. Sau mấy chục năm, nhờ mánh khoé đầu cơ: buôn lúc đầu mùa, bán khi giáp
hạt, lãi mẹ đẻ lãi con, hắn trở nên giàu có lớn. Vàng bạc từ nhà hắn tuồn ra
khỏi bờ cõi nước ta. Đã nhiều lần sai người lén lút đưa vàng ra nhưng không che
được mắt nhà chức trách nên của cải bị tịch thu, còn người thì bị đuổi ra khỏi
nước. Vì thế, hắn mới nghĩ cách chôn giấu một số vàng bạc ở bên này để rồi ngày
sau, chờ khi có cơ hội tốt, con cháu hắn sẽ sang lấy về. Hắn chuẩn bị việc đó
rất kỹ lưỡng. Lấy cớ thờ Phật hắn xin phép làng sở tại dựng một ngôi chùa trên
một cái đồi hoang ở gần nhà. Và khi đào móng làm chùa, hắn bí mật xây một cái
hầm chôn của ăn sâu xuống dưới đất. Còn việc bảo đảm cho của cải khỏi mất, hắn
sẽ tìm một người con gái đồng trinh chôn luôn bên cạnh vàng bạc để làm thần giữ
của cho hắn. Nếu không phải là người hô đúng tín hiệu mà hắn ước hẹn với thần
thì đừng hòng đưa một ly của cải của hắn lên khỏi mặt đất. Thần sẽ vật chết bất
cứ một người lạ nào đến cửa hầm. Khi mưu tính đã kỹ lưỡng hắn bèn để ý đi tìm
một người con gái đồng trinh.
Hồi ấy ở vùng có một ông
giám sinh, nhà không có một mảnh đất cắm dùi. Ông có một người con gái tuổi
mười tám, chưa có chồng. Nghe tin, người khách buôn vội mang cau rượu đến hỏi
cô gái về làm vợ lẽ. Tuy biết hắn giàu có, con mình có thể được nơi nương tựa,
nhưng ông giám sinh không chút bằng lòng vì không những ông không muốn gả con
cho người nước ngoài mà ông còn ghét thói con buôn, cho vay nặng lãi của những
bọn như hắn. Hắn cũng biết thế, bèn đặt lên mâm một trăm lạng vàng, nói là xin
đưa làm sính lễ. Trông thấy những nén vàng sáng chói, ông giám sinh nghĩ đến
những món nợ chưa cách gì trả được. Cuối cùng ông đành nhận lời gả con cho hắn.
Từ khi lấy vợ về, người
khách luôn cho nàng ở một buồng riêng. Hắn rất chăm chút, rất ghen tuông, nhưng
có một điều là chẳng bao giờ ăn nằm với nàng. Cả đến cá thịt hành tỏi hắn cũng
không cho ăn, lấy cớ là phải ăn chay niệm phật. Ba tháng một lần, hắn lại cho
nàng một bộ áo xống mới. Cứ như thế sau hai năm, cô gái vẫn còn phòng không
bóng chiếc.
Một hôm, nàng cố xin
phép chồng về nhà thăm cha. Hắn từ chối mãi không được, bất đắc dĩ phải cho đi
nhưng căn dặn phải kiêng khem và phải trở về ngay. Cha con lâu ngày gặp nhau,
mừng mừng tủi tủi. Ông giám sinh tỉ tê hỏi: - Từ khi con ra đi, cha rất hối hận. Nếu ta không túng thì con đâu chịu
cảnh lẽ mọn này. Vậy thường ngày nó đối với con ra làm sao? Vì sao về đã hai
năm chưa sinh nở gì cả?
Nghe cha hỏi thế, cô gái
khóc lóc kể hết sự tình.
Ông giám sinh ngạc
nhiên: - Thôi rồi nó chọn con làm thần
giữ của, không nghi ngờ nữa. Vậy con có thấy trong nhà có chuyện gì lạ không?
Người con lại nói: - Trước kia ăn cơm tối
xong là nó khoá cửa ngủ ngay. Nhưng vài tháng nay tối nào cũng thấy bố con nhà
nó vác cuốc thuổng đi, gần sáng mới về. Nghe thế, ông giám sinh kêu lên: “Thế là việc sắp đến nơi rồi!”. Suy nghĩ
một chút, ông đi lấy hạt vừng và hạt cải gói lại đưa cho con và dặn rằng: - Con hãy về sớm cho nó khỏi ngờ. Hễ lúc nào
nó đem con đi đâu thì nhớ rắc những hạt này xuống bên lối đi, để cho cha biết
mà tìm. Từ đó, ông giám sinh đến thăm con luôn: có khi ba ngày một lần, có
khi năm ngày một lần. Ông không vào nhà rể, chỉ đứng ngoài cổng nhìn vào. Hễ
thấy mặt con gái, ông mới yên tâm lui gót.
Một lần ông bận chút
việc chưa đến được, phải mười ngày sau ông mới tới thì không thấy bóng dáng con
đâu nữa. Chờ lâu sốt ruột, ông vội bước vào nhà rể, làm bộ tới thăm. Người lái
buôn thấy ông đến, lăng xăng tiếp đón ra chiều thân mật. Hắn cho biết là vợ mình
còn bận lên kinh đô cất hàng chưa về. Ông giám sinh vẫn giữ vẻ mặt tự nhiên,
nhận lời mời của rể ở lại ăn cơm trưa. Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn
quanh, quả thấy hai bên lối đi đâm ra đồng, vừng và cải đã mọc xanh lăn tăn như
đánh đấu.
Lập tức, ông đi một mạch
đến dinh trấn Sơn Nam. Trước mặt quan trấn thủ, ông trình bày mọi việc xảy ra.
Quan trấn thủ liền điểm lấy năm trăm quân sĩ đi suốt đêm về vạn Lai Triều, cho
đòi người lái buôn nước ngoài đến đối chất thì hắn chối lấy chối để. Người ta theo
chân ông giám sinh lần theo con đường mà vừng và cải đã mách hộ, đi cách nhà
người khách chừng nửa dặm, thì ông thấy một cái am con vừa mới xây xong trên
một cái đồi hoang. Ông giám sinh thưa: “Hẳn
chỗ này chứ không sai. Xin cho đào lên để khám!”, nhưng người rể của ông
lại nhất định không chịu. Hắn nói tới động mạch đất có quan hệ với vận mệnh nhà
hắn nên cố tình không cho lính đào.
Liền đó, quan trấn thủ
bắt hai bên làm tờ cam kết. Nếu đào không thấy gì thì ông giám sinh phải bỏ
tiền ra xây lại am và phải bồi thường thiệt hại cho chàng rể. Trái lại, nếu
phát hiện được tiền nong của cải gì thì người chủ cái am đó không được nhận.
Giấy làm xong, người khách buôn không chịu kí, nhưng cũng nhất định không chịu
thú nhận. Thấy thế, quan lại càng ngờ vực, liền hạ lệnh cho lính cứ đào ngay,
dù chủ muốn hay không cũng mặc.
Mới đào được một khoảng
rộng bằng cái nong thì đã thấy hiện ra một bờ gạch xây chìm. Bờ gạch này chạy
chừng một gian nhà, sâu xuống ngập đầu người, trên xây theo lối cuốn bằng gạch
Bát Tràng kiên cố. Trong khi người khách buôn lăn ra khóc nức nở thì một toán
lính đã tìm được hầm. Lớp gạch vừa đổ xuống thì đã hiện ra ánh sáng le lói của
hai ngọn đèn. Họ đi lần vào thì thấy cô gái ngồi ngay cạnh đèn, trên một cái
ghế tựa bằng đá, đầu gục xuống, hai chân dạng hai bên, mỗi chân đạp lên một cái
cong lớn. Ông giám sinh mếu máo ôm chầm lấy con. Nhưng ông không sao nhấc con
lên được vì hai tay cô gái đã bị trói vào bành ghế mà miệng thì bị gắn kín bằng
nhựa. Mở nhựa ra thấy trong đó có một củ
sâm chưa tan hết. Ngực nàng vẫn còn đập thoi thóp. Người ta vội vực lên để cứu
chữa, đồng thời trói gông tên lái buôn gian ác giải đi.
Khi toán lính soát mọi
vật thì thấy hai cái cong mà cô gái đạp chân lên, mỗi cong đều có chữ: “Một
nghìn cân hoàng kim”. Bên tả bên hữu có 2 dãy cong nhỏ mỗi dãy mười cái, ngoài
đều có đề chữ: “Năm trăm cân bạch kim”. Mở ra điểm lại, đúng như số đã để. Hai
cây đèn cũng một bằng vàng, một bằng bạc.
Nhờ sự chăm sóc chu đáo
nên cô gái dần tỉnh lại. Nghe kể chuyện, người ta mới biết cô đã bị chôn sống
đã được mười ngày. Quan trấn thủ chia số của cải đó ra làm ba: cha con ông giám
sinh được hưởng một phần, còn bao nhiêu tịch thu làm của công. Còn người lái
buôn bị đem ra pháp trường xử trảm.
44. SỰ TÍCH SẤM SÉT
Ngày xưa, cách nay đã
lâu lắm, chằn Ra-ma-sua và nàng tiên Mê-kha-la cùng theo học phép thần thông
của một vị đạo sĩ. Cả hai đều chăm học nên chẳng bao lâu họ đều lĩnh hội được
nhiều phép thuật kỳ tài. Vị đạo sĩ thấy cả hai học hành chăm chỉ thì có lòng
thương mến. Khi truyền hết những phép thuật thần thông mà mình có, ông muốn thử
tài Ra-ma-sua và Mê-kha-la nên bảo rằng: - Này,
ta cho hai con mỗi đứa một cái chén ngọc. Trong buổi sáng mai, trong hai con,
ai đem đến cho ta đầy một chén sương mai, ta sẽ biến nó thành viên ngọc quý Ma-nô-ha-ra.
Kẻ nào có ngọc này thì muốn gì được nấy.
Sáng hôm sau, cả hai
người học trò đều dậy rất sớm. Chằn Ra-ma-sua cầm chén hứng sương đọng trên lá
cây rừng. Chằn chạy khắp rừng suốt buổi sáng, nhưng hứng mãi vẫn không đầy chén
sương. Còn nàng Mê-kha-la, khôn ngoan hơn, lựa một miếng vỏ cây xốp để thấm các
giọt sương đọng trên lá. Rồi nàng vắt sương vào chén. Không bao lâu nàng đã
được một chén sương đầy đem về dâng cho thầy.
Vị đạo sĩ biến chén
sương thành viên ngọc, trao cho nàng và dặn: - Ngọc này có nhiều phép lạ. Nếu đưa ngọc lên trước trán xoay tròn thì
con ước điều gì cũng sẽ được toại nguyện và con có thể nhờ ngọc mà bay lên trời
đi khắp nơi nhanh như gió. Nàng tiên Mê-kha-la nhận ngọc từ tay thầy, cúi
đầu bái biệt thầy, rồi xoay ngọc tung mình bay lên không thẳng về biển, nơi quê
hương của nàng.
Khi chằn Ra-ma-sua kiếm
được đầy chén sương trở về thì đã muộn. Đạo sĩ bảo: - Con về trễ quá, thầy đã biến sương thành ngọc cho Mê-kha-la rồi. Tiếc
quá, thầy không thể biến sương thành
viên ngọc thứ hai được. Chằn Ra-ma-sua nghe đạo sĩ bảo thế lòng đau như
cắt, oà lên khóc mãi không thôi. Ra-ma-sua không chịu trở về, cứ ngồi cạnh thầy
khóc mãi. Vị đạo sĩ rất thương chằn nhưng không biết làm sao đành dỗ dành: - Thôi con bớt buồn, để thầy cho con một cái
búa. Con có thể dùng búa này đấu với Mê-kha-la để giành lại viên ngọc. Bạn con
thường hay bay lên trời tắm mưa. Con hãy chờ dịp ấy mà đón. Con hãy nhớ kỹ là
khi tung búa đánh, con phải nhắm mắt lại.
Chằn ra-ma-sua được búa
mới chịu từ biệt thầy. Chằn ra bờ biển ngồi chờ trời mưa. Quả nhiên, khi trời
đổ mưa, chằn Ra-ma-sua thấy Mê-kha-la từ dưới nước tung người bay lên mây. Chằn
theo lời thầy dặn, nhắm mắt tung búa đánh Mê-kha-la. Lưỡi búa thần loé lên một
lằn sáng trên không và phát ra tiếng nổ vang dội. Nhưng vì nhắm mắt để đánh,
nên không bao giờ Ra-ma-sua đánh trúng đối thủ. Do vậy trận chiến cứ kéo dài
mãi đến tận bây giờ. Mỗi lần chuyển mưa có sấm sét, chớp giật là do vậy.
45. SỰ TÍCH AO BÀ OM
Ngày xưa, ở vùng Trà
Vinh, hàng năm cứ đến mùa khô, nước ngọt rất khan hiếm. Ruộng rẫy khô cằn, nứt
nẻ, cây cỏ xơ xác, tiêu điều. Do vậy, đời sống nhân dân trong vùng rất cơ cực.
Cũng vào thuở ấy, trong
nhân dân có chuyện tranh chấp kéo dài đã nhiều năm mà vẫn chưa giải quyết được.
Đó là chuyện hai bên nam nữ không bên nào chịu đứng ra đi cưới bên nào. Phía
bên con trai thì đòi các cô gái phải đứng ra cưới họ về làm chồng. Ngược lại
phía bên các cô thì buộc các chàng trai phải đi hỏi họ về làm vợ. Đương nhiên
là kẻ đứng ra xin cưới người khác giới phải gánh vác mọi tổn phí về lễ lạc.
Trong lúc nhân dân trong vùng bàn chuyện đào ao để lấy nước ngọt giữa mùa khô
hạn, có người bàn nên nhân cơ hội này tổ chức cuộc thi giữa hai bên nam nữ, và
phía bên nào thua cuộc lần này sẽ chịu trách nhiệm đứng ra lo liệu việc cưới
xin. Ý kiến đó được nhiều người ưng thuận bởi vì nó vừa giải quyết được việc
cứu hạn, mọi người sẽ có nước dùng, vừa kết hợp giải quyết được sự tranh chấp
kéo dài, chưa có lối thoát. Thế là sau khi bàn bạc, họ giao hẹn với nhau: Trong
một đêm, mỗi bên nam và nữ đào riêng một cái ao, bên nào sâu hơn, nước nhiều
hơn sẽ thắng cuộc.
Đêm ấy, khi mặt trời vừa
tắt, hai bên nam nữ trong vùng tập hợp lại, rồi chia làm hai nhóm: nhóm nữ đào
một ao vuông ở phía Đông, nhóm nam đào một ao tròn ở phía Tây. Hai bên đều ra
sức làm việc cật lực, người đào, người gánh, làm chẳng ngơi tay.
Đến nửa đêm, bà Om,
người điều khiển công việc bên phía nữ nảy ra một kế để đánh lừa bên nam. Bà
lấy cây tre thật dài dùng làm sào, dựng trên gò đất cao về hướng Đông. Trên
ngọn sào treo một chiếc lồng đèn, bên trong thắp một ngọn đèn dầu leo lắt.
Về phía nam, ao của họ
lúc này đã đào khá sâu và đã có nước, mọi người đều thấm mệt. Lại thêm tâm lý
chủ quan cố hữu của những anh đàn ông ỷ về sức mạnh của mình, nghĩ rằng phía nữ
khó mà đuổi kịp được họ. Vừa lúc họ thấy ngọn đèn xuất hiện ở hướng Đông mà
tưởng nhầm là sao mai đã mọc, cho là trời sắp sáng rồi, bèn rủ nhau về nhà
nghỉ.
Trong khi đó, bên phía
nữ mọi người vẫn cặm cụi cố sức đào cho đến sáng bạch mới về. Quả nhiên sự kiên
trì cộng với mưu trí của họ, đã làm cho đối phương thua cuộc. Sáng hôm ấy, mọi
người ra xem thì rõ ràng ao của bên phe nữ vừa to, vừa sâu hơn ao phe nam. Thế
là phe nam chịu thua cuộc. Từ đó, họ phải chịu thực hiện lời cam kết: đi cưới
phụ nữ về làm vợ. Dân chúng trong vùng có được ao chứa nước ngọt dùng quanh
năm.
Để ghi công người phụ nữ
mưu trí và giỏi giang đã góp phần giành được thắng lợi này, người ta gọi ao
nước ngọt ấy là ao Bà Om. Tên gọi ấy còn truyền mãi đến ngày nay.
46. SỰ TÍCH ĐỊA DANH
BÃI XÀU
Thuở nọ có một ông vua
giàu có, lắm kẻ hầu người hạ. Trong số những người hầu hạ nhà vua, nàng Chanh
là người có tài nấu nướng rất khéo. Hôm nào nàng Chanh nấu cơm dâng vua cũng
đều được vua khen. Nhất là món canh chua do nàng nấu thì ngon tuyệt vời. Không
ai có thể bắt chước được. Do đó, nàng Chanh càng được nhà vua yêu quý.
Cô cháu gái của quan cận
thần thấy nàng Chanh được vua sủng ái thì đem lòng ganh tỵ. Đã nhiều lần ả đem
chuyện này mách với quan cận thần. Từ lâu, quan cận thần vốn có mưu đồ đưa cháu
mình vào làm vợ vua, nên khi nghe vậy bèn kiếm cách gièm pha nàng Chanh với
vua. Quan cận thần tâu với vua rằng nàng Chanh đã phạm tội khinh xuất vua. Cái
món canh chua mà vua nghiện ấy chính là do chất cáu bẩn trong móng tay mà nàng
Chanh bỏ thêm vào canh cho vua ăn. Nhà vua nghe quan cận thần kể như vậy thì
nửa tin, nửa ngờ, bèn sai một tên lính hầu thân cận xuống bếp dò la để tìm hiểu
thực hư.
Vâng lệnh vua, tên lính
hầu xuống bếp vờ giúp nàng Chanh nấu nướng, nhưng thực ra là để ý dò xét nàng.
Quả nhiên hắn thấy nàng Chanh, khi nấu canh thường dùng móng của ngón tay út để
dài cong như chiếc muỗng múc nước canh đang nấu trên bếp để nếm thử. Tên lính
vốn là một tay nịnh bợ, muốn tâng công, nên thêm giấm, thêm đường vào câu
chuyện quan cận thần đã tâu với vua là đúng sự thật.
Nhà vua nghe xong cả
giận, liền sai quân hầu bắt nàng Chanh xử tội. Được tin dữ, nàng Chanh vội vã
gom góp tư trang, vật dùng của mình, trốn khỏi hoàng cung. Nghe tin nàng bỏ
trốn, nhà vua bèn thân chinh tập hợp quân sĩ, dùng thuyền cấp tốc đuổi theo để
bắt cho được kẻ đã phạm tội khinh xuất mình.
Ghe chở nàng Chanh xuôi
theo dòng sông Ba-sấc tức sông Hậu Giang, chạy trốn. Đến Đại Nghĩa thì ghe bỏ
sông Ba-sấc theo con sông nhỏ đi về Sờ-mo tức Bãi Xàu ngày nay. Đến đây, họ
dừng lại, lên bờ kiếm củi, nấu cơm ăn. Khi nồi cơm vừa sôi, thì họ nghe vọng
lại tiếng hò hét ầm ĩ cả một khúc sông. Biết là có quân nhà vua đuổi theo, nàng
Chanh sợ hãi, vội bỏ nồi cơm chưa kịp chín, lên thuyền theo ngõ sông Dù Tho
chạy ra vàm Tấn ?(bây giờ là sông Mỹ Thanh đổ ra cửa khẩu Mỹ Thanh). Đám quan
quân nhà vua càng lúc càng đuổi theo bén gót. Nàng Chanh lo sợ và nghĩ chắc nhà
vua đuổi theo là để lấy lại những của cải mà ngày trước nàng đã được vua ban
cho. Nàng bèn liệng tất cả đồ đạc, áo quần, chăn gối, hòm xiểng theo rải rác cả
một khúc sông hy vọng rằng nhà vua thấy vậy sẽ thôi không đuổi theo nàng nữa.
Đến một vàm sông nọ, nàng ném nốt chiếc “cần thua” (ống nhổ) bằng vàng. Do vậy,
vàm sông ấy nay mang tên vàm Dù Tho.
Mặc dù đã ném trả tất cả
đồ đạc, của cải lại cho nhà vua, song nhà vua và quân sĩ vẫn tiếp tục đuổi
theo, biết mình không còn cách nào thoát chết, nàng Chanh ra đứng ở mũi thuyền
khấn nguyện: “Nếu mình trong trắng vô tội, thì sau khi chết đi, xin cho máu
mình được biến thành nước biển Đông, tóc mình thành rễ cây gừa, vú mình biến
thành trái cây bần và đùi mình sẽ thành bắp cây dừa nước để mãi mãi được gắn
chặt với vùng đất này”. Nguyện xong, nàng Chanh nhảy xuống sông tự tử. Về sau,
xác nàng theo dòng bước trôi về phía Bạc Liêu, tấp vào một vàm sông. Do vậy, vàm
sông ấy mang tên Bêm Niêng Chanh, tức là vàm Nàng Chanh, nay gọi trại ra là Mỹ
Thanh. Dân chúng trong vùng vớt xác nàng, đem chôn tại vùng Vĩnh châu. Ngày
nay, di tích ngôi mộ đó vẫn còn lưu lại ở Vĩnh Châu.
Cái chết oan ức của
người phụ nữ có tài, khéo tay đó, theo truyền thuyết, vẫn còn lưu lại với cỏ
cây, sông, rạch: Nước biển Đông có vị mặn của máu nàng, rễ của những cây gừa?
Từ các cành cao rũ xuống từng về trên mặt nước ven sông như mái tóc dài và mịn
của người phụ nữ. Cây bần sống trên đất phù sa của dòng sông Cửu màu mỡ, hằng
năm vẫn ra những mùa trái giống hình nhũ hoa, bên cạnh những cây dừa nước mà
những bắp của nó mập mạp, xinh xắn như những bắp đùi của các cô gái…
Gắn liền cùng với truyền
thuyết dân gian này, hằng năm cứ đến ngày rằm tháng mười âm lịch, đồng bào
khơme ở vùng này và cả vùng lân cận thường đua ghe “ngo”? đến vàm Nàng Chanh -
cách vùng Bãi Xàu không xa - tổ chức đua ghe để nhớ lại câu chuyện an ức xưa
của một người phụ nữ.
47. SỰ TÍCH CON CÁ
NƯỢC
Ngày xưa, có hai vợ
chồng nghèo làm nghề đốn củi mang ra chợ bán để sinh sống và nuôi cô con gái
duy nhất của mình. Một hôm, hai vợ chồng vào rừng đốn củi như thường lệ thì gặp
một con trăn tu đã lâu năm, có thể biến hoá thành người được, xin ông bà đem về
nhà làm con nuôi. Hai ông bà lấy làm lạ, nhưng cũng đem về nuôi. Ngày ngày, hai
ông bà vào rừng đốn củi, cô con gái ra chợ bán củi, thì chàng trăn ở nhà coi
nhà, đuổi quạ và lo cơm nước. Một thời gian sau, chàng trăn xin cưới cô con
gái. Ông bà thấy con mình cũng quyến luyến chàng trăn nên gả con gái cho. Vài
năm sau, chàng trăn ta làm lụng giúp ông bà cật lực nên gia đình trở nên đầy đủ
và giàu có.
Một gia đình trong làng
thấy vậy, bèn hỏi ông bà nhờ đâu mà giàu có vậy. Ông bà kể lại đầu đuôi câu
chuyện. Hai vợ chồng nhà giàu nọ bắt chước, vào rừng tìm bắt một con trăn thật
lớn đem về và gả đứa con gái của mình cho trăn. Đêm tối hôm đó, vợ chồng gã nhà
giàu cho trăn và con gái ở trong một buồng. Trăn quấn lấy nàng con gái và nuốt
lần từ chân đến đầu. Đứa con gái sợ quá kêu cha mẹ: - Trăn nuốt chân con rồi! Hai vợ chồng bảo: - Chồng con nó đùa đấy! Trăn nuốt đến đầu gối, đứa con gái kêu nữa.
Hai vợ chồng vẫn bảo: - Chồng con nó đùa
đấy! Dần dần trăn nuốt đến cổ, đứa con gái nghẹt cổ ú ớ và khi trăn nuốt
đến đầu thì cô gái không kêu được nữa. Hai vợ chồng mừng vì cho là “chúng nó
ngủ ngon”. Đến sáng, mặt trời đã lên cao, chưa thấy chàng “rể” và con gái thức
dậy, hai vợ chồng ông lão vào buồng xem thì thấy trăn đã nuốt con gái mình vào
bụng. Hốt hoảng, hai vợ chồng vội vã lấy dao mổ bụng trăn để cứu con.
Đứa con gái ra khỏi bụng
trăn, mình mẩy dính đầy nước bọt của trăn nhầy nhụa. Hai vợ chồng bảo con ra lu
nước tắm. Cô gái tắm hết nước trong các lu vẫn không hết nhớt. Hai vợ chồng bảo
con ra giếng tắm, tắm mãi đến chiều tối cạn cả giếng nước vẫn không sạch. Hai
vợ chồng bảo con ra sông tắm, tắm mãi cũng chưa sạch hết. Mắc cỡ với làng xóm,
chờ trời tối đứa con gái trở về nhà, nửa đường nghĩ thấy xấu hổ quá bèn ra lại
sông định ngâm mình cho sạch hẳn mới về, nhưng cô ngâm mình mãi vẫn không sạch.
Tối đến, bà mẹ ở nhà chờ
mãi không thấy con về, bèn ra sông gọi con. Cô gái đang ngâm mình dưới nước,
nghe tiếng mẹ gọi về, nghĩ lại, giận người mẹ vì tham lam nên mới ra nông nỗi
này bèn ngậm nước phun lên tỏ ý trách người mẹ. Đêm đó người nàng vẫn chưa sạch.
Nàng không về nhà và từ đó mãi mãi nàng không về nhà nữa. Nàng trở thành cá
nược và mỗi lần nhớ tới chuyện cũ thì phun nước lên thành vòi tỏ ý oán trách
cha mẹ.
48. SỰ TÍCH HOA SEN
VÀ BƯỚM
Ngày xưa, có một chàng
trai mồ côi cha mẹ từ lúc sáu tuổi, chàng rất hiền lành và giỏi việc. Vì cha mẹ
nghèo mắc nợ của người chủ sóc ba giạ lúa, nên chàng phải ở đợ cho hắn đến năm
gần hai mươi tuổi mới trả được hết nợ, về nhà làm ăn.
Chàng vào tận mé rừng
hoang chặt cây, cuốc cỏ, lập một mảnh vườn. Trên mảnh vườn, chàng trồng tám
luống cà tím. Được chăm bón cẩn thận, tám luống cà tươi tốt, đơm hoa kết trái
đầy cành. Nhưng một hôm chủ sóc đi qua, thấy cà sai quả, hắn nảy ra ý tham. Hắn
viện lẽ đất rừng của sóc ai khai khẩn đều phải nộp hết hoa màu năm đầu cho sóc,
rồi ngang nhiên hái hết quả, không kể quả non, quả già. Chàng trai nọ yếu thế
đành ôm mặt khóc. Rồi hôm sau chàng lại lo cuốc xới lại mảnh vườn trồng thêm
bầu, bí, dưa, cải. Chẳng bao lâu khu vườn của chàng lại tươi tốt. Bầu, bí ra
quả đầy giàn, dưa, cải xanh tươi mơn mởn và tám luống cà chỉ ra thêm mỗi một
quả cà non. Chàng định bụng để quả cà ấy làm giống.
Một đêm nọ trăng sáng
vằng vặc, trời trong xanh dịu mát. Pờ-rặc In dặn dò con không làm gì hại đến
của cải người hạ giới. Bốn nàng tiên vâng dạ, tung cánh bay là là đáp xuống khu
rừng chơi, rồi men đến vườn của chàng trai nọ. Trong vườn cây cối tốt tươi, hoa
quả, bí bầu ra trái trĩu cành. Bốn nàng tiên thích thú tung tăng chạy nhảy rong
chơi khắp vườn. Bỗng nàng tiên út vô tình làm rụng quả cà tím nọ, nên phút chốc
quần áo biến từ màu xanh sang màu đen và nàng trở thành người thế gian, không
cất cánh bay về trời được nữa. Thế là nàng phải ở lại hạ giới làm vợ chàng trai
nông dân, chủ mảnh vườn ấy một thời gian để đền nợ làm rụng cà.
Biết em không thể cùng trở
về tiên giới được nữa, ba người chị giã từ nàng tiên út. Chị tiên cả trao cho
em một viên ngọc ước và dặn khi nào cần ước điều gì thì đưa lên đầu xoay tròn
một vòng là được như ý.
Nàng tiên út cầm ngọc
quý thơ thẩn dạo quanh vườn. Khi trời chưa sáng hẳn nàng đã thấy ở cuối vườn
chàng nông dân đang cặm cụi cuốc xới những luống rau non. Không biết cách nào
làm quen với người chồng duyên nợ ấy, nàng út liền dùng ngọc ước biến thành một
con thỏ chạy đến gần và miệng giả vờ la: “Ai
cứu tôi! Ai cứu tôi với!”. Chàng nông dân nghe tiếng kêu cứu liền quay lại
thì chỉ thấy một con thỏ trắng đang bươn bả chạy. Chàng bắt thỏ đem về nhà
nuôi. Hôm sau, như thường lệ, anh dậy sớm ra vườn làm việc. Đến chiều vác cuốc
về đến nhà thì thấy nhà cửa ngăn nắp sạch sẽ. Trên chiếc chõng tre cũ kỹ giữa
nhà ai đã dọn sẵn một mâm cơm thức ăn còn bốc hơn.
Liền mấy hôm, nhà cửa
đều sạch sẽ, cơm nước cứ sẵn sàng. Bụng sinh nghi nên một hôm anh ta giả vờ vác
cuốc ra rẫy, nhưng được nửa đường thì quay trở về núp ngoài hàng rào rình xem.
Thấy thỏ trắng hoá thành một cô gái xinh đẹp, bước ra quét dọn, nhóm lửa nấu
cơm, anh liền chạy vào ôm chầm lấy người con gái xinh đẹp ấy. Cô gái thấy vậy
tươi cười kể lại sự tình của mình và xin cùng chàng gá nghĩa vợ chồng. Từ đấy,
ngày ngày chồng ra rẫy, vợ ở nhà nuôi gà, nuôi vịt. Chẳng bao lâu gà vịt đầy
sân, khoai lúa đầy bồ. Khi vịt đẻ, nàng dùng ngọc ước biến những trứng vịt ấy
thành những khối vàng, chất đầy hòm.
Trong sóc, ai cũng
thương mến đôi vợ chồng thuận hoà , hiền hậu chí thú làm ăn ấy. Riêng gã chủ
sóc vốn có lòng dạ xấu xa, thấy gia đình vợ chồng kia ngày thêm sung túc thì
đem lòng ganh ghét. Ngày nào lão cũng để ý rình mò. Hôm gã ta tận mắt thấy vịt
nhà ấy đẻ ra trứng vàng thì tức tốc vào cung tâu với vua rằng trong sóc mình có
một người có vợ đẹp như tiên và có con vịt đẻ ra trứng vàng. Nghe chủ sóc nói,
tên vua tham lam và hiếu sắc liền ra lệnh cho chủ sóc phải mua bằng được con
vịt đẻ trứng vàng cho mình. Một mặt tên vua lại tìm mưu kế bắt nàng út đem về
ép làm vợ. Ngày đêm vua cứ tơ tưởng khiến bốn bà vợ đoán biết, nên ghen thầm và
bực tức lắm.
Gã chủ sóc trở về, đưa
lệnh vua ra bắt nàng út phải bán con vịt đẻ trứng vàng cho vua. Gã đem vịt vào
cung. Vua sai lấy một cái đĩa lớn để trên bàn đặt vịt lên, rồi ngồi bên cạnh
nôn nóng chờ vịt đẻ. Đợi lúc lâu không thấy gì, vua mới lấy tay vỗ lên lưng vịt
quát bảo: “Đẻ nhanh! Đẻ nhanh! Đẻ trứng
vàng nhanh lên!” Vịt nghe quát tháo, lại bị vỗ vỗ trên lưng, hốt hoảng toẹt
một bãi phân văng nhằm mặt vua. Bốn bà vợ đang máu ghen liền nhân việc này xúi
vua cho quân đi bắt nàng út và tên chủ sóc khép vào tội chết vì chúng đã lừa
gạt và làm nhục vua.
Thấy thấp thoáng gã chủ
sóc dẫn bọn lính và các bà vợ vua ở đầu làng, nàng út biết có chuyện chẳng
lành. Không muốn để chồng phải lo lắng, nàng lấy cây đàn sà điêu ra gảy và cất
giọng hát ru cho chồng ngủ thiếp đi. Bốn bà vợ vua, bọn lính và gã chủ sóc đến
ngoài bờ giậu, nghe tiếng đàn mê ly và tiếng hát du dương đâm mê mẩn, ngã ra
đất ngủ mê mệt.
Tên vua đợi mãi không
thấy quân lính dẫn nàng út đẹp đẽ về, liền dẫn một toán quân khác tìm đến nhà.
Đến nơi hắn lấy làm lạ không hiểu tại sao mọi người, kẻ nằm người ngồi ngủ ngáy
như xay lúa, đánh thức thế nào cũng không được và chính hắn khi nghe tiếng đàn
cũng ngây ngây buồn ngủ.
Lúc chồng đã ngủ say,
nàng út thôi hát. Tên vua nhìn vào thấy nàng xinh đẹp quá, người lão như mất
hồn. Lúc này cả bọn vợ vua, lính tráng ngoài giậu mới tỉnh lại được. Vua sai gã
chủ sóc vào bắt cho được con vịt nào đẻ ra trứng vàng cho mình. Nàng út giấu
ngọc trong lòng bàn tay, rồi chui vào chuông vịt. Đợi lúc vịt đẻ trứng, nàng
đưa tay vờ vén tóc để xoay ngọc một vòng, tức thì quả trứng đẻ ra hoá thành
vàng. Gã chủ sóc tận mắt thấy vịt đẻ trứng vàng nên hí hửng vội bắt ngay con
vịt ấy cho vua.
Nói về tên vua nọ, từ
lúc thấy mặt nàng út, đêm ngày trong cung gã cứ mãi tơ tưởng, mong sao chóng
bắt được nàng về ép duyên. Gã mới nghĩ ra kế cho bắt chồng nàng sai đi vào rừng
sâu đốn gỗ. Thâm ý gã muốn hành hạ cho chàng chết dần chết mòn đi. Thấy vậy,
bốn bà vợ vua càng ghen tức. Bọn chúng quyết định cùng nhau kéo đến nhà nàng út
để hãm hại nàng. Thấy nàng đang nấu cháo, bọn chúng liền xông vào đánh và ấn
đầu nàng vào nồi cháo sôi, cố hại sắc mặt xinh đẹp của nàng. Vào lúc ấy chị
tiên cả vâng mệnh cha là Pờ-rặc In, hoá thành bà lão chống gậy vào nhà thăm em
để bảo cho biết em sắp hết hạn ở trần gian. Nàng tiên cả thấy bốn mụ vợ vua
hung dữ xúm nhau hành hạ em mình thì lấy lời ôn tồn hỏi duyên cớ và khuyên
ngăn. Vốn ác độc và ỷ quyền, bốn mụ chẳng những không nghe, lại còn xông đánh
nàng tiên cả. Chẳng may, bốn mụ chạm nhằm cây gậy phép nên 2 mụ hoá thành heo
rừng, và 2 mụ hoá thành rắn độc chạy ngay vào rừng.
Nàng tiên cả thấy mặt em
bị bỏng, liền đưa tay vuốt nhẹ, tức thì mặt nàng tiên út lành lặn xinh đẹp lại
như trước. Rồi nàng lại dặn em hãy giữ lấy viên ngọc ước, lo chuẩn bị đợi ngày
đã định để trở về cõi tiên. Rồi hai chị em chia tay.
Nàng tiên út nghe tin
sắp hết hạn phải trở về tiên giới, thì hết sức buồn lo và thương chồng đang
cảnh hoạn nạn. Nàng đã quyến luyến cảnh sống êm ái ở trần gian. Băn khoăn mãi,
rồi nàng nhất quyết ở lại cõi trần, ném viên ngọc xuống ao trước nhà.
Biết nàng tiên út không
chịu trở về, thần Pờ-rắc In giận dữ cho mưa gió, sấm sét ầm ầm, suốt ba ngày
đêm không ngớt. Thần Pờ-rắc In tự mình xuống trần gian buộc nàng tiên út phải
trở về trời nếu không thì nàng và chồng không thể sống với nhau hơn ba ngày
nữa. Nghe lệnh của cha phán, nàng tiên út lo lắng quá, suốt ngày nàng vào ra
thẫn thờ như kẻ mất hồn.
Chiều hôm sau, người
chồng từ rừng sâu trở về. Đói khát và muỗi mòng chốn rừng sâu đã làm cho người
chồng ngã bệnh nặng. Vừa bước chân đến thềm, chàng lảo đảo ngã sóng soài trên
đất. Nàng vội dìu chồng vào nhà, rồi chạy ngay vào rừng hái lá thuốc về sắc cho
chồng uống.
Ngồi bên chồng, chờ nồi
lá thuốc sôi tới, nàng cất tiếng hát ru cho chồng ngủ. Tiếng nàng hát ngân nga
thổ lộ nỗi buồn man mác của mình: - Em ở
tận trời xanh / Nợ trần vui cùng anh / Duyên tình sao nỡ xa / Hỡi ai thấu lòng
ta? Chàng trai nằm mơ màng nghe nàng hát, kể lể nỗi băn khoăn của mình, xúc
động không nói được nên lời. Bỗng một làn hào quang sáng rực loé lên, thần
Pờ-rặc In từ trời cao giáng xuống gọi nàng tiên út về trời. Hốt hoảng, nàng
vùng chạy ra phía sau nhà. Chẳng may, trong lúc vội vã nàng vấp chân té xuống
ao nước ở bìa rừng rồi chìm nghỉm. Tức thì một đóa sen hồng từ dưới đáy ao mọc
lên, nở tròn và hương thơm toả ra bát ngát.
Chàng trai thấy vợ chạy
vụt đi, tưởng vợ bỏ mình về trời, vội vã đuổi theo. Chàng chạy gần đến bờ ao
thì thần Pờ-rặc In đưa cây gậy cản chân chàng lại. Chàng trai vấp chân té sóng
soài ra đất tắt thở. Thân xác chàng hóa thành một con bướm.
Từ đó, ở trần gian có
hoa sen và bướm. Bướm luôn bay lượn chập chờn bên hoa suốt ngày này qua ngày
nọ, như muốn nói lên mối tình chung thuỷ của nàng tiên út và chàng trai nọ.
49. SỰ TÍCH HOA THỦY
TIÊN
Ngày xưa, có một ông phú
hộ sinh được 4 người con trai. Khi biết mỡnh sắp chết, ụng gọi 4 người con đến,
dặn dũ cỏc con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa
tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thỡ ba người con đầu
dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất
khô cằn.
Người em út rất buồn,
vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mỡnh
trước mảnh đất khô cằn, thỡ người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó
hiện lên bảo: - Này con, thôi đừng khóc
nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không
biết. Kho tàng này chưá nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến
mùa xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con.
Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu con sẽ giầu hơn
các anh.
Quả thật, đến mùa Xuân
ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên
từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên,
người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.
Những người thích hoa,
chơi hoa, và những nhà giầu đó thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá
rất đắt. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi
năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm.
Người em trở nên giầu hơn ba người anh tham lam kia.
Người ta tin rằng Hoa
Thuỷ Tiên mang lại sự thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên
trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để
hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm
mới.
50. SỰ TÍCH GIẾNG CHỊ
VÀ GIẾNG ANH (1)
Xưa kia ở Vũng Thơm
không có nước ngọt, dân chúng nghèo nàn, cơ cực vì đất không sinh sôi nẩy nở
được gì. Dân chúng ngày đêm khấn cầu xin Phật trời giúp cho một mạch nước trong
lành. Lời cầu khẩn đến tai Ngọc Hoàng. Ngài đang nghĩ cách giúp đỡ thì tiên ông
và tiên bà có chuyện hiềm khích nhau. Tiên ông cho rằng tiên bà giặt lụa làm ô
uế nước suối. Tiên bà bảo tiên ông lùa trâu xuống suối làm bẩn nước giặt lụa.
Ngọc Hoàng nghe chuyện truyền cho tiên ông và tiên bà nội trong đêm rằm phải
đào mỗi người một giếng nước ngọt ở Vũng Thơm. Bên nào đào giếng sâu và có
nhiều nước ngọt thì thắng kiện.
Vầng trăng vừa ló dạng
thì hai toán tiên ông và tiên bà cưỡi mây hạ phàm chọn địa điểm khởi công. Phe
tiên bà gắng sức đào, toát mồ hôi nên cởi hết xiêm y cho đỡ nóng nực và đỡ
vướng víu. Đến khuya phe tiên ông sai người sang chỗ các tiên bà dò thám. Gặp
cảnh đẹp quyến rũ, ông tiên đi do thám trố mắt nhìn quên cả việc trở về.
Các vị tiên ông chờ mãi
không thấy bạn trở về e có điều bất trắc vội phái một ông tiên khác đi tìm. Lần
lượt hết ông tiên này đến ông tiên khác đi tìm bạn cũng bị các bà tiên xinh đẹp
quyến rũ quên cả việc trở về. Do vậy, phe tiên ông chẳng đào được bao nhiêu,
đến khi gà gáy vang trong sóc, các vị tiên vội vã trở về trời. Sự hơn thua đã
rõ ràng: giếng tiên ông lớn nhưng cạn, giếng tiên bà tuy nhỏ nhưng sâu hơn. Vì
thế , ở Vũng Thơm ngày nay, mới có giếng chị, giếng anh là thế.
51. SỰ TÍCH CÁI CHỔI
Xưa kia, trên thiên đình
có một đầu bếp rất giỏi. Tất cả các món ăn đã qua tay bà chế biến thì chỉ cần
nếm một lần là không thể quên được. Vì vậy, Ngọc Hoàng phong cho bà làm bếp
trưởng, giao cho bà toàn quyền trông nom công việc nấu ăn cho mình. Trên nhà
trời có đặt ra một luật lệ là tất cả người hầu kẻ hạ đều có thức ăn riêng. Như
thế nghĩa là không ai được phép đụng đũa vào các món ăn của Ngọc Hoàng, kể cả
khi Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng bà bếp trưởng lại rất tham lam và hay ăn
vụng. Tính xấu đó đã khiến bà nhiều lần tìm cách ăn vụng làm kho thức ăn của
nhà trời bị hao hụt.
Tuy không còn trẻ nhưng
bà ta vẫn mê đắm sắc dục, phải lòng một lão chăn ngựa trên thiên đình. Cuộc
sống của lão chăn ngựa không lấy gì làm dễ chịu, hơn nữa lão lại là một con sâu
rượu. Từ khi gặp bà bếp trưởng, cuộc sống của lão dễ chịu hơn nhiều. Không
những lão ta có rượu uống thoả thích mà còn rất hay được ăn các món ngon vật lạ
của nhà Trời.
Sự việc cứ tiếp diễn như
thế cho đến một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Hôm đó, nhà
bếp bận tíu tít từ sáng đến tối. Vì phải chuẩn bị rất nhiều món ngon nên đến
chập tối, khi ánh trăng lên sáng vằng vặc, bữa tiệc mới bắt đầu.
Lúc cỗ bàn đang được bày
lên, bà bếp trưởng chợt nghe thấy tiếng lão chăn ngựa hát từ đằng xa. Bà biết
ông ta tìm mình nên lật đật chạy ra đón rồi giấu kỹ vào một góc, đưa cho lão
mấy chén rượu ngon nhất thiên đình, bà quay lại làm nốt các món còn dở.
Về phần lão chăn ngựa,
khi nuốt xong mấy chén rượu lấy làm khoái chí lắm. Rượu ngon thì ngon thật đấy
nhưng lão còn đang rất đói nữa. Đi chăn ngựa về, lão đã ăn gì đâu. Mà thực ra,
lão đã ăn vụng cơm nhà trời quen rồi. Bây giờ cơm dành cho mình lão không nuốt
được nữa. Bụng đói, thêm mấy chén rượu lại càng cồn cào hơn. Trong hơi men
choáng váng, lão lần mò tìm được một mâm toàn cao lương mỹ vị đặt gần đó. Lão
bốc lấy bốc để, ăn ngấu ăn nghiến.
Rủi thay, đó chính là
các món nấu cho Ngọc Hoàng. Khi người lính hầu bưng lên, bát nào bát nấy đều có
dấu vết rõ ràng là đã có người nếm trước. Ngọc Hoàng Thượng đế nổi cơn thịnh
nộ. Tất cả mọi người trong bữa tiệc đều rất sợ hãi. Bà bếp trưởng cúi đầu nhận
tội cùng lão chăn ngựa. Vì cả hai đã vi phạm một trong những điều cấm của Thiên
đình nên bị đày xuống trần gian làm chổi để suốt ngày suốt tháng phải làm việc
không nghỉ và phải tìm thức ăn ở những nơi rác rưởi do bẩn của trần gian. Đây
cũng là một hình phạt nặng nhất của thiên đình.
Về sau, thấy phạm nhân
phải làm việc khổ sai quanh năm suốt tháng, không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng
thương tình gia ơn cho họ được phép nghỉ ba ngày trong một năm. Đó là ba ngày
tết Nguyên đán. Đến tận bây giờ, cho mãi đến sau này, người ta có tục lệ kiêng
không quét nhà trong ba ngày Tết là vì vậy.
Người Việt ta có một câu
đó rất hay về cái chổi “Trong nhà có một bà hay la liếm”. Không những câu đó mô
tả một cách xác thực động tác quét nhà mà còn có ngụ ý gợi nhớ sự tích cái
chổi.
52. SỰ TÍCH NÚI NGŨ
HÀNH
Xưa kia có một cụ già
sống một thân một mình trong một túp lều nhỏ trên bờ biển vắng. Không ai biết
cụ đã sống ở đó từ khi nào và liệu cụ có họ hàng thân thích quanh đây hay
không.
Một hôm, sóng biển bỗng
trở nên hung dữ khác thường. Gió bão bắt đầu nổi lên, bầu trời trở nên đen kịt.
Hồi lâu sau, một con giao long rất lớn, từ biển trườn lên đất liền. Nó quằn
quại trên bãi cát, có vẻ đau đớn lắm. Đất vẹt hẳn xuống thành những đường ngoằn
ngoèo không theo hình thù gì cả. Gió thổi ào ào, cát bụi bay mù mịt. Gian lều
của ông lão rung lên từng hồi tưởng như không đứng vững được nữa. Rồi bất thình
lình, một tiếng rống khủng khiếp vang lên, tưởng như xé tan bầu trời ra từng
mảnh. Sau tiếng rống đó, giao long đẻ một quả trứng lớn bên cạnh lều của ông
lão. Nó để quả trứng ở đó rồi trườn xuống biển đi mất. Gió bão cũng dịu dần,
mưa dần ngớt.
Một lát sau, từ ngoài
khơi có một con rùa vàng rất to lớn tiến vào. Nó đào đất chôn trứng vào bãi cát
rồi bò đến trước mặt ông lão nói: - Ta là
thần Kim Quy. Quả trứng này là giọt máu của Long Quân, ta muốn ngươi phải hết
sức bảo hộ! Ông già đáp: - Tôi già
yếu thế này làm sao bảo hộ được. Rùa trao cho ông một cái móng và bảo: - Ta biết! Vậy ngươi hãy cầm lấy cái móng này.
Bao giờ có việc gì nguy cấp, hãy đặt nó vào tai, ngươi sẽ được trợ giúp ngay,
không phải lo gì cả. - Được, vậy tôi xin cố gắng hết sức. Từ hôm đó, ông
lão lãnh trách nhiệm bảo hộ quả trứng.
Một hôm, từ đằng xa, ông
thấy có bóng xe bò đang tiến đến. Khi chiếc xe đến gần, ông lão mới nhìn rõ mấy
người trên xe trông mặt ai cũng hung dữ. Ông già hoảng hốt vì thấy chiếc xe cứ
nhằm đúng nơi chôn quả trứng mà tiến đến. Ông giơ tay ra hiệu cho xe chạy sang
ngả khác mà không được.Trong lúc nguy cấp, ông chợt nhớ ra cái móng rùa. Ông
đặt móng rùa vào tai thì bỗng nghe thấy tiếng nói xa xăm, mơ hồ, dường như chỉ
có ông nắm bắt được. - Hãy nằm xuống
ngay! Nằm xuống ngay! Ông vội nằm ngay xuống. Ngay lập tức, ông lão hoá
thành một con hổ lớn. Bọn người trên xe thấy hổ sợ quá hoảng hốt quay xe trở
lại.
Sau lần đó, ông lão nhận
thấy là nếu cứ chôn trứng thần ở ngoài như thế thì thật không an toàn. Ông cụ
bè quyết định tháo dỡ căn lều của mình rồi dựng một lều khác che cho trứng
thần. Nhưng ông không ngờ rằng trứng thần cứ mỗi ngày một lớn mãi. Thoạt tiên,
nó đẩy cát ra và nhô lên hẳn trên mặt đất. Ngày nào ông cụ cũng phải hì hục xúc
cát lấp lên. Những hôm trứng thần nhô lên mặt đất, ông cụ lại càng vất vả bội
phần. Ông cụ ngày càng già yếu, còn quả trứng ngày một to hơn với tốc độ nhanh
chưa từng thấy. Cuối cùng, nó đội cả căn lều nhỏ bé của ông lên trời. Nhớ đến
lời hứa với thần kim quy, ông lão không hề nản lòng. Ông vẫn hết lòng che chắn
cho nó. Ông vào rừng chặt cây, nhặt lá về để phủ lên trứng. Nhưng đến một ngày,
lá cây cũng không che kín được trứng nữa. Không những quả trứng ngày một nhô
cao mà nó còn phình to ra. Vỏ trứng là sự pha trộn của rất nhiều màu sắc, lóng
lánh dưới ánh mặt trời, trông như một viên ngọc khổng lồ.
Đang bình yên bỗng tai
hoạ xảy đến. Một bọn vô lại kéo nhau tới đốt căn lều nhỏ của ông cụ. Ông cụ
không biết làm thế nào ngăn cản chúng. Khi sự đã rồi, ông chỉ có cách cầu cứ
móng rùa. Ông vừa dứt lời cầu cứu thì trong lòng trứng xuất hiện một cái hang
có đủ giường chiếu sạch sẽ tinh tươm sẵn sàng. Ông cụ vừa đặt mình xuống thì đã
ngủ thiếp đi ngay, không còn biết gì nữa.
Giữa lúc đó, một cô bé
từ trong lòng trứng ra đời ngay bên cạnh giường ông già. Ông cụ vẫn ngủ li bì,
không hay biết về sự có mặt của cô bé. Nhưng cô bé cũng không vì thế mà bị đói
khát hay cô đơn. Sữa từ mạch đá trong hang chảy ra nuôi cô bé, chim thú trong
rừng đến làm bạn với cô. Những con khỉ mang hoa quả đến cho cô ăn, chim tha
bông đến dệt áo cho cô mặc. Cô bé lớn nhanh nh thổi và có rất nhiều bạn.
Sau một giấc ngủ dài,
ông cụ tỉnh dậy. Ông rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp ngồi
bên cạnh. Thấy ông thức giấc, cô gái mừng rỡ reo lên: - Cha đã dậy rồi đấy ư? Cha đã ngủ mười lăm năm rồi đấy. Ngày nào con
cũng ngồi bên cha mong cha tỉnh dậy. Hôm nay mong ước của con đã thành sự thực,
con vui mừng biết mấy. Ông cụ ngơ ngác nhìn cô gái vừa nhận ông là cha rồi
nhìn hòn núi đá to lớn, cỏ cây rậm rạp, chim thú đông đúc như một khu rừng vậy.
Cái móng rùa vẫn ở đầu giường.
Sau một lúc ngơ ngác,
ngạc nhiên, ông lão bắt đầu đi xung quanh để tìm lối ra. Hồi lâu tìm kiếm mà
ông và cô gái chẳng tìm thấy. "Không
nhẽ lại không có lối ra?". Ông lão tự hỏi. Nghĩ vậy, ông vội cầm móng
rùa áp vào tai. Chiếc móng chỉ đường cho ông và cô gái ra khỏi hang, đồng thời
báo cho hai người phải làm những gì. Từ hôm đó, ông già có nhiệm vụ chăm sóc,
dạy dỗ con gái của Long Quân. Chim chóc, thú rừng quấn quít bên họ, cuộc sống
thật vui vẻ, đầm ấm. Ngọn núi trước kia chỉ có ông già và cô gái nay ngày càng
đông đúc hơn. Dân chúng kéo đến khai phá, chả mấy chốc đã hình thành xóm làng
mới.
Một hôm, có bọn thổ phỉ
không biết từ đâu kéo đến định bổ vây chiếm lấy hòn núi. Chúng xông tới bắt
trói cả già lẫn trẻ đem đi. Ai chống cự sẽ bị chúng giết. Ông già lại cầu cứu
móng rùa. Một vòng lửa dày bốc lên vây lấy chúng, không cho một tên nào chạy
thoát, tất cả bọn thổ phỉ đã bị trừng trị.
Dân quanh vùng thấy bỗng
dưng có một ngọn núi xuất hiện ở địa phương mình thì rất làm lạ. Càng lạ hơn
khi thấy dân chúng ở khu vực ấy lại có thể chống lại bọn thổ phỉ. Họ cho là
tiên xuống cứu dân. Ai có việc gì quan trọng hay có bệnh gì trong người đều đến
gặp cô gái và ông già để cầu khẩn, xin thuốc.
Thấy dân cư trong vùng
kéo đến xin thuốc đông quá, cô gái lấy những mảnh đá màu xanh, đỏ sáng lấp lánh
buộc lại với nhau rồi ném ra xung quanh chỗ ngồi. Bỗng nhiên, trên mặt đất mọc
lên một loài cây, hoa của nó có năm cánh chữa bệnh sốt rét rất hiệu nghiệm. Dân
cư quanh vùng gọi đó là hoa tứ quý. Tiếng làm đòn xa, công dụng của hoa tứ quý
cùng tài pháp, sắc đẹp của cô gái lan xa khắp nơi. Ai ai cũng nhắc đến cô với
tấm lòng trìu mến.
Tiếng đồn làm đến kinh
thành. Vua nghe tin bèn sai quân mang lễ vật đến cầu hôn cho hoàng tử. Khi nhận
được lá thư do chính tay nhà vua viết cùng nhiều lễ vật, ông rất lúng túng
không biết xử trí ra sao. Giữa lúc ấy, rùa vàng từ dưới biển hiện lên báo tin
cho ông biết là Long Quân đã bằng lòng gả. Cô gái từ biệt cha nuôi lên kiệu về
cung. Còn ông già trả lại móng cho rùa thần rồi cưỡi lên lưng rùa đi biệt.
Ngày nay, ngọn núi ấy
chính là ngọn núi đẹp nhất ở bờ biển Quảng Nam. Người ta gọi là núi Ngũ Hành. Ở
phía Tây núi có sông Vĩnh Điện chảy ra cửa Hàn. Người ta bảo sông đó cũng như
sông Cảm Lệ, sông Hàn đều do bà vợ Long Quân vô tình tạo ra trong lúc quằn quại
khi sinh nở.
53. SỰ TÍCH HANG DƠI
Ngày xưa ở một vùng nọ
có rất nhiều quỷ. Quỷ lớn, quỷ bé, quỷ đen, quỷ trắng không biết đâu ra mà đến
lắm. Cứ vào lúc nhá nhem tối, chúng lại tràn xuống làng trêu ghẹo đàn bà con
gái, giẫm nát hết ruộng nương. Dân làng rất sợ lũ quỷ, tìm đủ mọi cách để diệt
trừ chúng cũng không xong. Mời cả pháp sư đến trừ mà pháp sư cũng đành chịu
thua. Không còn cách nào khác, mọi người bàn cách cầu đức Phật cứu giúp. Đức
Phật thấy chúng sinh phải chịu khổ bèn cho một lá bùa và dặn: - Hãy về làng dựng một cái bia khắc chữ
"Phật" thật to ở chỗ quỷ hay đi lại. Quỷ nhìn thấy tất hoảng sợ mà bỏ
chạy. Dân làng đa tạ Đức Phật rồi làm theo. Nhưng bọn quỷ vẫn chẳng hề sợ
hãi. Thậm chí, chúng còn trở nên ngang ngược hơn.
Tình thế đã trở nên khó
khăn hơn. Dân làng tuyệt vọng không biết làm thế nào. Gần đó, có một cụ Lã Vọng
đã sống mấy trăm tuổi. Mọi người kéo đến hỏi cụ xem có tìm được cách gì không.
Cụ Lã Vọng đáp: - Lão đã sống hàng trăm
năm nay nhưng lão chưa thấy việc gì khó khăn đến nỗi con người không làm được
cả. Vấn đề là ở chỗ mọi người có chung sức cùng nhau giải quyết hay không. Lão
nghĩ mọi người chỉ cần cùng nhau bàn bạc là sẽ có cách giải quyết.
Nghe cụ Lã Vọng nói vậy,
dân làng về bàn bạc mất mấy ngày. Sau khi suy đí tính lại, họ cùng đồng ý là
phải dùng mẹo trừ quỷ. Ở nơi quỷ hay đến quấy phá, dân làng làm một con rồng
giả rất to, người chui lọt vào đó, trữ sẵn một bể nước đầy. Phía bên cạnh, họ
làm một con cọp lớn và cũng có người nấp sẵn trong đó cùng với những đồ dẫn
lửa. Chỗ mặt đất, nơi bọn quỷ thường ra nhảy nhót, họ đắp rất nhiều con rùa
rỗng ruột, mai bằng những cây chuối bôi dầu vừng và bồ hóng. Trên cao, họ mắc
một con chim giả khổng lồ trong cũng có người ngồi sẵn cũng rất nhiều đá cuội.
Phía trong nữa, họ đặt những hình nhân bằng nan rất lớn, hình nào hình nấy
trông thật dữ tợn. Vẫn chưa hết, ở cuối bãi, họ còn đào sẵn những hầm hố rất
sâu, ngang dọc đều thông với nhau được. Mọi việc đều được tiến hành chu đáo,
gấp rút.
Vào một buổi tối, khi
mọi thứ đã được sắp đặt xong xuôi, lũ quỷ như thường lệ lại từ ngoài biển tràn
vào phá phách. Nhưng không như những lần khác, lần này chúng gặp phải một trận
đánh bất ngờ. Vừa mới bước chân lên bãi, chưa kịp múa may gì, chúng đã bắt gặp
một con chim rất to, mỏ lớn ở trên cao. Con chim há mỏ ra, người ở trong đó ném
đá tới tấp xuống lũ quỷ làm chúng tối tăm mặt mũi. Bị bất ngờ, chúng hoảng hốt
chạy dạt sang một bên thì lại đụng phải một con rồng nhe nanh giương vuốt đang
phun nước ra vô kể. Thần hồn nát thần tính, chúng lại chạy dạt sang bên kia thì
một con hổ gầm ghè khạc lửa đang đợi sẵn. Lũ quỷ không dám tiến lên nữa, chúng
chạy vào phía trong để tránh nạn thì nào ngờ lại giẫm phải đôi rùa to lớn đang
phục sẵn. Mai rùa trơn như bôi mỡ làm lũ quỷ ngã bổ sấp bổ ngửa. Lũ quỷ chạy
sang trái không được, sang phải không được, đứng cũng không vững, luống cuống
thế nào lăn cả vào những chiếc hầm đã được đào sẵn. Chúng ở lì trong đó không
dám ra nữa.
Dân làng thắng lợi vui
vẻ nhảy múa bên nhau. Thế là từ nay, họ không còn bị lũ quỷ quấy nhiễu nữa. Bà
con mừng rỡ làm lễ cáo với trời phật tổ tiên. Trời được tin rất khen ngợi, bèn
ra lệnh biến khu ấy thành một cái động, tức động Bạch Á ở Thanh Hoá bây giờ.
Bọn quỷ dưới hầm sâu thì bị biến thành những con dơi, thân hình nửa chim, nửa
chuột. Vì thế hang Bạch Á còn có tên là hang Dơi. Lũ quỷ cả ngày chỉ trong
hang, đến tối mới từ trong động bay ra, lượn quanh vài vòng rồi lại trở lại
trong động. Vì cũng muốn để khen thưởng dân làng, đồng thời để trấn áp đàn dơi
ra ngoài nhũng nhiễu trở lại lốt quỷ ngày xưa, trời đã hoá pháp biến tất cả
những thứ dân dùng để đánh quỷ thành đá. Vì vậy, đến nay trong động Bạch Á có
rất nhiều pho tượng bằng đá to bằng người thật. Đây vốn là những hình thân hoá
thành. Phía ngoài xa, trước động có bốn quả núi hình tứ linh: long, ly, quy,
phượng. Gần nhất là ngọn núi Phượng Hoàng - trông rất giống một con chim khổng
lồ đang xoè cánh bay lên. Bốn con vật này đều quay lưng về cửa động, làm đẹp
thêm cho một thắng cảnh ở xứ Thanh.
54. SỰ TÍCH CHIM ĐA
ĐA
Xưa kia ở một làng nọ,
có một nhà mẹ goá con côi. Bà mẹ quần quật suốt ngày, làm thuê, làm mướn, tần
tảo nuôi con. Có mỗi một cô con gái nên bà chiều con lắm, có gì ngon đẹp bà đều
dành hết cho con. Cô con gái càng lớn càng xinh xắn nhưng cũng càng ngày càng
trở nên ích kỷ. Cô cho rằng cô được ăn ngon mặc đẹp, được mẹ yêu chiều là điều
tất nhiên. Cô chỉ biết nghĩ đến mình, dần dần trở nên hư hỏng lúc nào không biết.
Đến tuổi lấy chồng, bà
mẹ gả cô cho một chàng trai khoẻ mạnh, đứng đắn. Rồi cô có con, nhà cửa đông
vui hẳn. Bà mẹ vui lắm, lại càng quý con quý cháu.
Ngày tháng trôi qua, bà
mẹ ngày một già đi. Chàng rể bàn với vợ đón mẹ về ở chung để chăm sóc lúc bà già
yếu, để bà được vui vầy với con cháu nhưng chị vợ không chịu vì sợ phải tốn cơm
nuôi mẹ. Chị ta nhận ruộng của mẹ về cấy, hết mùa lại đem cho mẹ mấy thúng
thóc, còn đâu chị ta dành hết cho mình. Bà mẹ càng ngày càng già yếu còm cõi
hơn.
Năm ấy mất mùa, thu
hoạch kém, thóc lép nhiều quá. Phải đong lúa cho mẹ, chi ta tiếc lắm. Biết mắt
mẹ kém, chị ta xúc thóc lép xuống dưới, rồi đổ ít thóc chắc lên trên. Chị ta
cho rằng mẹ già rồi, lại ngồi nhà thì ăn ít cũng sống được, chắc chẳng có vấn
đề gì.
Bà mẹ thấy con gái mang
lúa đến thì mừng lắm, muốn con ở lại cùng chuyện trò, nhưng cô con gái vừa đặt
thúng lúa xuống đã tất tưởi đi ngay. Bà mẹ thoáng buồn. Khi rờ vào thúng lúa,
nong tay xuống dưới thấy toàn hạt lép, bà càng buồn hơn. Bà lặng đi, sụt sùi
ngồi khóc. Chàng rể sang thăm mẹ, biết rõ sự tình thì giận vợ lắm. Về đến nhà,
anh giảng giải hết lẽ với vợ, song chị ta vẫn ngoan cố: - Tôi ăn một mình được
sao? Tôi dành lại cho anh, cho con anh chứ cho ai! - Thế còn mẹ thì sao? Chị ta
sẵng giọng: - Mẹ thì thế là đủ rồi. Anh chồng giận quá đánh cho vợ một trần,
vừa đánh anh vừa chửi: "Xúc thóc lép cho bà, này! Xúc thóc lép cho bà,
này!". Chị ta đau quá bỏ chạy ra ngoài. Bỗng trời nổi giông, sấm chớp đùng
đùng. Một tiếng sét nổi lên, đánh thẳng vào đầu đứa con bất hiếu. Sau khi chết,
thị hóa thành chim, con chim tự kêu lên tội lỗi truyền kiếp của mình: "Xúc
thóc lép cho bà".
55. SỰ TÍCH NÚI MẪU
TỬ
Trên vùng núi cao chót
vót ở một tỉnh đàng trong, có vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng
trồng lúa trồng khoai, nuôi trâu, nuôi lợn, cũng vào rừng săn thú hái rau như
mọi người, nhưng nhờ có của cải cha mẹ để lại, họ có cuộc sống phong lưu, vì
thế tuy có vất vả một chút, hai vợ chồng vẫn có thời gian để vui thú chơi đùa
với đứa con trai lên bảy tuổi.
Một hôm, bất ngờ có
người bạn cũ đến thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp nhau nay gặp lại
tay bắt mặt mừng. Người bạn nói: "Nghe
nói anh chị rời quê lên đây đã lâu, nay có việc đi qua đây tôi mới ghé thăm
được. Sẵn có cặp gà mang tới biếu anh chị". Chủ nhà vồn vã: "Thế bây lâu nay anh ở đâu sao không hề có
tin tức gì? Chẳng hay anh làm nghề gì?". "Tôi chẳng có nghề ngỗng gì cả, chẳng giấu gì anh, từ lâu tôi đi tu để
mong đắc đạo. Trong ba năm liền ngồi tù cẳng một nơi, bây giờ có việc phải lên
núi". "Lên núi để làm gì?"
"Để tìm trầm". “Phải có trầm đốt lên khi muốn đạt một lời
cầu nguyện. Nhờ đó "Chư tiên" mới biết được điều ước của mình sẽ cho
mình như ý.”
Chủ nhà lại hỏi: "Núi rừng trùng điệp, cây cối bạt ngàn thì
biết làm sao mà tìm cho ra trầm?". Khách đáp: "Khó gì? Tìm trầm phải ngậm ngải".
Nói xong, khách móc trong túi ra một cái gói nhỏ bọc vải điều, giở ra lấy ngải
cho bạn xem: "Đây! Ngải tôi đã luyện
qua ba năm mới thành. Chỉ cần ngậm một tý ngải này có thể đi suốt trong rừng
gìa, lại hy vọng được Chư tiên phù hộ giúp cho tìm thấy trầm. Lúc đó thì có thể
cầu được ước thấy, trường sinh bất lão". Chủ nhà thấy bạn tu luyện sắp
thành công, cầm chắc sự giàu sang phú quý trong tay thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy
ngải nâng lên đặt xuống mấy lần, bụng bảo dạ: "Chà! Chỉ có một tý thuốc này mà có thể cầu được ước thấy, trường sinh
bất lão, sung sướng biết bao nhiêu". Rồi vui miệng, chủ kể lại cuộc
sống của mình bấy lâu nay cho bạn nghe và giục vợ làm cơm đãi khách. Trong mấy
ngày mời khách ở lại chơi, biết khách thích chơi cờ, chủ nhà lấy ra một bộ cờ
bằng ngà mời khách cùng đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho bạn, nói: - Bộ cờ này của cụ cố tôi để lại, bằng ngà rất
quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này. Nó bằng ngọc bích không một tì
vết, lúc nào cũng sáng óng ánh kể cả trong bóng tối. Khách cầm lấy quân cờ
xem đi xem lại thấy quả là hiếm có ở thế gian này thì tắc lưỡi thầm khen, đoạn
tự nhủ: "Làm sao ta có được một viên
như thế để dâng lên lão tổ".
Tuy hai bên suy nghĩ
nước cờ nhưng trong bụng cả hai đều tìm mưu lập kế để chiếm đoạt của nhau. Một
bên muốn chiếm được gói ngải quý, một bên muốn có được viên ngọc đẹp.
Ngày chia tay đã đến,
giữa lúc hai người đang "vượt xa thách pháo" thì bỗng vợ gọi, chủ vội
đi vào nhà trong. Sau đó, tiệc rượu được bưng ra, trong khi chủ vào, khách đã
giấu biến quân cờ bằng ngọc vào người. Nhưng khách cũng không ngờ chính mình
cũng bị tước đoạt. Sau khi chén chú chén anh, khách bị chuốc rượu đến say mèm,
lúc ấy chủ nhà vội lấy trộm gói ngải rồi lật đật ra đi không kịp từ giã vợ con.
Khách ngủ một giấc dài
đến sáng, tỉnh dậy thì không thấy gói ngải đâu. Tìm bạn, bạn cũng mất tích, hỏi
vợ bạn, cũng không biết đâu mà trả lời. Khách bèn lủi thủi ra đi, quyết tìm bạn
để lấy lại vật quý. Từ núi này sang núi nọ, khách cắm cúi đi không nghỉ nhưng
tuyệt nhiên không thấy bóng dáng bạn đâu. Một hôm, hắn trèo lên một đỉnh núi
cao để phóng tầm mắt ra xa, chẳng may trượt chân lăn xuống dốc, viên ngọc lăn
ra xa hoá thành đá, hắn hoá thành cây. Rễ cây luôn quặp chặt lấy đá như muốn
bảo vệ của quý.
Còn về phía chủ nhà, khi
bước chân ra đi, nghe theo cách mách bảo của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng
ngậm để tìm trầm nhưng hắn đi mãi, đi mãi, vượt qua bao nhiêu rừng sâu núi
thẳm, mà chẳng thấy trầm đâu. Khi cảm thấy thất vọng muốn quay lại thì chẳng
biết lối về. Năm này qua tháng khác, gói ngải dần dần chỉ còn bằng hạt đậu
xanh. Hắn đâu có ngờ rằng nếu ngải tan hết thì hắn sẽ hoá thành hổ. Lúc này,
người hắn đã mọc lông tua tủa rồi mấy ngày sau hắn biến thành hình một con hổ
xám.
Lại nói chuyện vợ con
hắn ở nhà trông đợi mỏi mắt, nước mắt họ chảy mỗi ngày một ít, xói đất thành
suối. Thế rồi ngày lụi tháng tàn, họ biến thành đá cùng với gia súc và những đồ
dùng quen thuộc.
Cuối cùng, hổ xám cũng
tìm được đường về đến nhà cũ. Từ đằng xa, nhìn thấy bóng dáng vợ con, hổ lấy
làm mừng rỡ vội vàng phóng đến. Nhưng đến nơi, thấy vợ con đã hoá thành đá, hổ
ta lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót rồi bỏ đi biệt tăm.
Ngày nay ở tỉnh Khánh
Hòa, có núi gọi là núi Mẫu Tử, nổi bật là một hòn đá to đứng cạnh một hòn đá
nhỏ, người ta bảo đó là mẹ con. Xung quanh có nhiều hòn khác nằm rải rác, người
ta bảo đó là chó, mèo, cối xay, cối đá... Lại còn một tảng đá vuông vắn người
ta bảo đó là bàn cờ, bàn cờ đó có nhiều quân nhưng lại thiếu một con tốt. Gần
đấy có một con suối gọi là suối Tiên, mọi người bảo đó là nước mắt của hai mẹ
con khơi thành. Bên bờ suối thỉnh thoảng có bóng đôi gà đi lại uống nước, mọi
người bảo đó là đôi gà mà khách mang đến biếu. Sở dĩ chúng không hoá đá là vì
chúng chưa là gia súc quen thuộc của chủ.
Còn ở tỉnh Phú Yên, trên
núi Tịnh Sơn có một hòn đá tròn gọi là con cờ, mọi người cho rằng đó là con tốt
bằng ngọc trong người khách văng ra. Bên cạnh là cây cổ thụ to lớn rễ mọc chi
chít, nhưng rễ bao giờ cũng quặp chặt lấy đá. Người ta bảo đó là người bạn biến
thành.
56. SỰ TÍCH MIẾU PHẠM
NHAN
Miếu Phạm Nhan ở xã An
Bài, huyện Đông Triều, nằm ngay bên bờ sông Thanh Lương, tỉnh Quảng Ninh.
Tục truyền, thần của
miếu này người họ Nguyễn tên là Linh. Cha của thần vốn người Quảng Đông (Trung
Quốc), di cư sang nước ta, cư ngụ ở xã An Bài, lấy vợ ở đó và sinh được người
con trai, đặt tên là Bá Linh. Lớn lên, Bá Linh lại về Trung Quốc, thi đỗ Tiến
sỹ và làm quan cho nhà Nguyên. Y biết chút ít phép thuật phù thủy nên được phép
vào trong cung đình để chữa bệnh. Nào dè vào đó, y thông dâm với bọn cung nữ,
bị khép vào tội phải chết. Khi y sắp sửa bị đem ra hành hình thì giặc Nguyên
xua quân sang xâm lược nước ta, y liền xin được làm kẻ hướng đạo cho quân
Nguyên để lập công chuộc tội. Nhà Nguyên chấp thuận. Nhưng rồi ở trận Bạch
Đằng, Bá Linh cùng bọn Ô Mã Nhi... đều bị Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bắt
sống. Bá Linh lại một lần nữa, bị khép vào tội phải hành hình. Lần này, y xin
được về chết ở quê mẹ, vì thế Hưng Đạo Đại Vương cho đem hắn về chém tại xã An
Bài rồi quăng xác xuống sông. Bấy giờ, có hai người đánh cá ở khúc sông này,
kéo lưới lên, chẳng được cá mà được... cái đầu của Bá Linh, hoảng sợ, họ cùng
nhau khấn rằng: - Nếu hồn ông có thiêng
thì xin phù hộ cho chúng tôi đánh được nhiều cá, chúng tôi sẽ mai táng hẳn hoi.
Họ vừa khấn xong thì lạ
thay, kéo mẻ lưới nào cũng được rất nhiều cá, vì thế họ bèn đem đầu Bá Linh lên
táng trên bờ sông. Từ đấy về sau, mỗi lần ra chợ bán cá, đi qua chỗ mai táng
đầu Bá Linh, họ đều chỉ tay vào đó mà nói: -
Mời bác cùng đi chơi cho vui.
Riết rồi thành thói
quen, hồn ma Bá Linh cùng nhập bọn mà đi với họ, người đương thời gọi đó Tam
hồn. Tam hồn phải thói hay chòng ghẹo phụ nữ. Hễ thích chòng ghẹo ai, họ chỉ
cần đưa tay về phía người đó rồi gọi tên Bá Linh, người ấy nhất định sẽ bị ma
ám ngay, vì thế, người trong vùng ấy phải lập miếu để thờ. Lại nói chuyện Bá
Linh, trước khi bị đem chém, hắn có cầu xin Hưng Đạo Đại Vương rằng: - Tôi nay đã bị tội chém đầu, vậy trước khi
chết, xin cho tôi được ăn một món lạ nào đó.
Hưng Đạo Đại Vương cả
giận, mắng rằng: - Cho mày ăn máu của đàn
bà đẻ ấy.
Bởi thế mà sau khi chết,
hồn ma của y thường đi khắp nơi để tìm hút máu đàn bà, ai mắc phải đều bị bệnh
liên miên, thuốc thang mấy cũng vô ích. Bệnh ấy gọi là bệnh Phạm Nhan. Ai mà
sớm đoán biết được mình mắc bệnh Phạm Nhan thì phải tới ngay đền thờ Hưng Đạo
Đại Vương Trần Quốc Tuấn, đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ có sẵn ở đó, về nhà,
thừa lúc người bệnh không để ý, lấy trải cho họ nằm, đồng thời xin thêm một ít
chân nhang đem đốt thành than và hòa vào nước cho uống thì mọi chứng bệnh đều
tiêu tan hết. Việc này nếu để bệnh nhân biết là không hiệu nghiệm. Điều đáng
nói là chỉ những ai thực sự bị bệnh Phạm Nhan, dùng thuốc này mới nhân đó mà
được khỏi hết mọi bệnh, bằng không thì chẳng ích gì. Thiên hạ tin như vậy nên
cứ lũ lượt kéo nhau đến đó để đem chiếu mới đổi lấy chiếu cũ, chẳng lúc nào
ngơi. Có người đem chiếu về, chưa kịp thay mà người bệnh đã khỏi. Đại để, sự
ứng nghiệm là như thế
57. SỰ TÍCH NÚI BÙ
HÔM
Ngày xưa, trên ngọn núi
cao nọ có một con hổ dữ sống lâu năm và do ăn nhiều thịt người nên đã thành
tinh. Dân trong vùng đến làm rẫy quanh núi đều sợ nó. Họ phải dựng chòi thật
cao để canh ngô, lúa, xung quanh chòi có hàng rào chắc chắn. Hổ không làm gì
được, bèn tìm cách đánh lừa để bắt người. Biết bao người đã sa vào nanh vuốt
con tinh hổ.
Năm ấy, lúa rẫy đã chín,
các thợ săn trong bản sửa soạn lên chòi canh. Có một anh thợ săn nọ đến lúc sắp
đi thì người vợ kéo tay chồng lại bảo: - Cái
thai trong bụng đã đủ tháng rồi, có lẽ tôi sắp chuyển dạ... hay hôm nay anh
đừng lên rẫy nữa. Nhìn nét mặt lo âu của vợ, anh thợ săn rất áy náy, nhưng
vắng người một đêm trên rẫy thì con nai, con lợn sẽ phá hết công lao chăm bón
cả năm trời của mình, anh ngần ngừ một lúc rồi bảo vợ: - Tôi đi không yên tâm nhưng ở nhà thì lúa rẫy sẽ hỏng hết, nếu đêm nay
chuyển sinh, nhà nhờ người lên gọi tôi sẽ về ngay!
Người vợ đành để chồng
ra đi. Khi anh vác ná xuống thang thì mặt trời đã gác núi... Câu chuyện giữa vợ
chồng thợ săn đã lọt vào tai con tinh hổ, vì lúc ấy, nó nấp trong bụi rậm rình
nghe.
Đêm ấy, người thơ săn lo
lắng về việc vợ sắp trở dạ nên trằn trọc không ngủ được. Đến lúc anh vừa chợp
mắt thì nghe tiếng gọi: - Anh ơi! Chị ấy
sắp đẻ rồi, anh về ngay cho kịp. Rõ ràng đó là tiếng người quen trong bản.
Anh thợ săn chồm dậy nhìn xuống thì thấy phía ngoài bờ rào có ba đốm sáng.
"Người nhà gọi mình sao lại thắp
những ba ngọn đuốc và lửa đuốc sao lại xanh thế kia?", anh thợ săn tự
nhủ và thấy có điều gì không ổn. Anh đốt đuốc, mang ná xuống thang chòi. Vừa
bước ra khỏi bờ rào, anh chợt thấy một con hổ to như con trâu mộng đang chực vồ
mình. Anh nhanh nhẹn hoa đuốc xông tới dụi thẳng vào mắt nó. Bị đánh bất ngờ,
hổ hốt hoảng gầm lên một tiếng rồi quay mặt chạy thẳng vào rừng sâu, biến mất.
Anh thợ săn cũng ba chân
bốn cẳng chạy về nhà và mới biết rằng đã bị tinh hổ đánh lừa gọi xuống chòi để
chực ăn thịt. Cũng từ đó, người ta gọi ngọn núi kia là Bù Hôm, nghĩa là
"núi lừa dối".
58. SỰ TÍCH NÚI MỤC
Giữa triền đồng bằng bên
sông Chu, địa đầu của huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá) nổi lên một hòn núi không cao,
không to lắm, trông xinh xinh như một hòn ngọc đặt trên một cái mâm khổng lồ.
Hòn núi ấy, dân gian thường gọi là Mục Sơn.
Trước kia, Mục Sơn không
phải là một quả núi. Nó là mắt một con rồng ẩn. Con rồng này có ba mắt, một mắt
là Mục Sơn, còn hai mắt chính thì thuộc núi Hàm Rồng ở làng Miềng, huyện Ngọc
Lan.
Tương truyền, khi Lê Lợi
chuẩn bị khởi binh, Rồng nhận việc canh gác, bảo vệ cho nghĩa quân và căn cứ
địa Lam Sơn. Con mắt Mục Sơn là tiền đồn, còn hai con mắt làng Miềng là nơi
nhận tin để báo về doanh trại. Cứ hễ con mắt Mục sơn nháy là hai con mắt làng
Miềng nháy. Nghĩa quân trông chừng tin báo, bố trí chiến đấu hoặc rút lui để
bảo toàn lực lượng. Quân Minh nhiều phen lao đao khốn khổ và cũng nhiều phen
tưng hửng về không. Con mắt Rồng canh giác rất cần mẫn, chính xác. Nghĩa quân
nhờ đó, dần dần lớn mạnh. Quân Minh biết vậy căm tức lắm.
Trong bọn giặc Minh có
một tên yêu đạo biết sự lợi hại của mắt Rồng. Nó bèn dùng yêu thuật làm cho mắt
Rồng mù đi. Từ đó, con mắt Mục Sơn không báo tin được nữa, chỉ còn hai con mắt
làng Miềng mà thôi.
Mắt Rồng Mục Sơn tuy mù
song đã góp công không nhỏ trong việc đánh giặc Minh. Vì vậy, khi cuộc khởi
nghĩa thành công, Lê Lợi thân chinh cầm gươm, cưỡi ngựa đến để tạ mắt Rồng.
Song ông không biết rằng, gươm thần và mắt Rồng vốn xung khắc, nên khi Lê Lợi
rút gươm ra thề "dùng gươm để giữ vững đất nước" thì một tiếng nổ
lòng trời, đất đá phụt lên tối tăm tất cả. Mắt Rồng trong chốc lát biến thành
một quả núi. Quả núi đó gọi là núi Mục hay Mục Sơn.
59. SỰ TÍCH HOA
PHƯỢNG
Ngày xưa, ở một vùng đất
đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm,
ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con
trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho
năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.
Tuổi năm người con xấp
xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá
và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho
năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người
con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong
nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng
oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ.
Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng
một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người
còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc
biệt hơn là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn
hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất
đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay
chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là
ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân
tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy
võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động
được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân
lính của hắn kéo ập vào làng.
Hắn thấy ông thầy dạy võ
đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ,
rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa
xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp
nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại
nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch
con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt
ông thầy dạy võ lại rồi bảo: - Tao nghe
mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi!
Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một
nong xôi gấc rồi mang đến chỗ tao đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội
trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay
đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau!
Nói xong hắn ra lệnh cởi
trói cho ông. Người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc
ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa
thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng,
họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện
lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết
ngay. Người bố liền khuyên: - Không được!
Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn
lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử
nó!
Người cha đi vay tiền
mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một
cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu
một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau,
năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra
đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực.
Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm
ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho
mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong
quát to lên và giục: - Còn nong xôi nữa,
mày về đội đến đây ngay!
Người thày dạy võ lại về
đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và
nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa
đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ
run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt
đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui.
Ông tự nhủ: - "Gắng lên! Chỉ cần một
lúc nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả
dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: - "Thằng
này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn
là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến
lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc.
Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích
dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt
dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng
người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và
đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.
Bỗng từ trong nong xôi,
năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm
làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp,
rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn
lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người
con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng
cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm
đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng
quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng
mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Đến lúc năm người lần
lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra
hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với
mọi người rằng: Tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi
và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa
có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm
xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi
giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến,
hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây,
người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm
người con trai ngày trước...
60. SỰ TÍCH HÒN ĐÁ
KHAO
Hòn đá đó ở xã Xuân
Khao, huyện Thường Xuân. Đó là một hòn đá to, tự nhiên mọc lên ngay giữa dòng
sông hơi cạn, giống như một cái ghế tựa có chỗ dựa lưng, đặt tay. Hai bên tả,
hữu là hai dãy đá song song cứ từng mảng vuông vắn cách nhau như xếp chỗ cho
vua và hai hàng văn võ cùng ngồi. Dân gian kể rằng, đã có lần Lê Lợi cùng các
tướng sĩ ngồi ở đó luận bàn kế sách diệt giặc Minh.
Một lần, các bô lão
trong vùng dâng lên Lê Lợi một vò rượu quý. Trước ba quân, Lê Lợi cảm tạ tấm
lòng của nhân dân và nói với mọi người: - Đây là rượu quý của dân khao quân, ta
xin được hưởng cùng mọi người. Tất cả hãy cùng ta cạn chén để thêm nhuệ khí
giết giặc, thu lại bờ cõi. Quân sĩ phục lòng Lê Lợi nhưng cũng ngạc nhiên vì
rượu ít người nhiều, làm sao uống đủ. Lúc đó, Lê Lợi thong thả đứng lên, trút
vò rượu xuống sông rồi tự mình múc một chén uống trước. Cả đoàn quân hân hoan
làm theo chủ tướng, reo hò vang dậy.
Từ đó, chỗ ngồi này
thành tên lịch sử: hòn đá Khao. Vì thế mà "Bình ngô đại cáo" có câu:
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
61. SỰ TÍCH BỘ LÔNG
QUẠ VÀ BỘ LÔNG CÔNG
Xưa kia Quạ và Công là
đôi bạn chí thân. Cũng vì màu lông của chúng giống nhau: con nào con nấy đều
xám xịt như vừa rúc ở bùn lên. Cả hai con đều từ biết mình xấu nên không dám
chơi với ai cả. Riêng Công dưới mắt quạ thì càng xấu tệ: cái đầu thì bé xíu
chẳng cân xưng với người tí nào. Thêm vào đó một cái cổ dài và khẳng khiu thật
khó coi hết sức.
Một hôm Quạ bảo Công: - Đằng kia có người thợ vẽ có thuốc các màu,
chúng ta ăn trộm về tô chuốt cho nhau, sửa lại bộ cánh cho đẹp đi. Công gật
gù đồng ý.
Hôm ấy người thợ vẽ đang
vẽ dở một bức tứ bình, thuốc vẽ còn bỏ lăn lóc quanh người. Thừa dịp người thợ
ngủ ngày, hai con vật lần mò vào lấy trộm bút lông và thuốc vẽ đưa ra một gò
con ở giữa hồ gần đấy. Lần thứ nhất, lần thứ hai chúng đã lấy được một số màu,
lần thứ ba chúng toan vào lấy một mẻ nữa nhưng người thợ vẽ đã ngủ dậy. Chúng
đành trở ra kiểm lại thì thấy chỉ được có mỗi thỏi mực tàu, một gói thuốc xanh
và một gói kim nhũ. Quạ bảo: - Thôi được,
ta cứ bắt đầu vẽ cho nhau đi!
Nói xong, Quạ bắt Công
nằm xuống cho mình tô điểm. Quạ vốn khéo tay, thoạt tiên nó dùng màu xanh tô
vào đầu, vào cổ và mình Công. Tô đến đâu rắc kim nhũ đến đấy. Đến cái đuôi, Quạ
bắt Công phải cố xoè ra như cánh quạt cho mình vẽ được kỹ lưỡng. Mỗi phần đuôi
Quạ lại vẽ những vành tròn rồi tô mực tàu và kim nhũ rất đẹp. Tô xong, đắc ý
Quạ sung sướng bắt Công phơi cái đuôi cho thật khô.
Công vốn vụng về nên khi
bắt tay vào tô điểm cho Quạ thì nó lúng túng. Hơn nữa lúc đó màu xanh và kim
nhũ đã hết. Giữa lúc Công chưa biết trang sức cho Quạ như thế nào thì bỗng có
một con Quạ khoang ở đâu bay đến. Quạ khoang vốn là họ nhà Quạ. Hồi ấy màu lông
của nó trắng toát như vôi. Chưa đậu xuống nó đã giục tíu tít: - Anh Quạ! Anh làm gì đó? Mau đi về phương
Đông! Có tin cho biết, phía đó mới có một trận đánh nhau to, thây chết như rạ.
Thật là một dịp may hiếm có. Quạ nghe nói đến thịt người thì sự thèm muốn
làm cho nó không tự chủ được nữa. Quạ bảo Quạ khoang: - Thế à? Nhưng để nó tô điểm cho tao cái đã. Chịu khó chờ tí nhé! Quạ
khoang nói: - Không được. Phải đến trước
ban đêm... Ngày mai mới đến thì người ta chôn hết còn gì nữa.
Quạ nóng nảy, giục Công:
- Thế thì phải làm gấp mới được! Quạ
khoang thấy Công đẹp nên cũng muốn có bộ cánh tươm tất. Nó cũng xen vào: - Anh Quạ! Anh làm ơn cho tôi một tý với. Tôi
cũng cần có một bộ cánh tử tế chút. Quạ vui lòng chia sẻ phần thuốc vẽ của mình
cho người em họ. Công nhân lúc Quạ vội nên chả cần ngắm nghía gì, trút một
nửa số mực tàu lên đầu Quạ. Mực chảy đến đâu người Quạ đen đến đó. Công cố ý
bôi cả vào mỏ, vào chân làm cho toàn bộ người Quạ đen nhánh như cột nhà cháy.
Đến lượt tô điểm cho Quạ
khoang, Công cũng đổ số mực còn lại lên người nó. Khi nước mực rót xuống đầu,
Quạ khoang hơi ngạt vội rụt cổ lại, thành thử cổ của nó có một cái ngấn không
bị mực thấm.
Nhìn thấy Công tô điểm cho
Quạ khoang Quạ mới biết mình dại, không dưng để cho một kẻ vụng về trang điểm.
Nhưng việc đã lỡ, còn biết làm gì được nữa. Tức mình hai anh em nhà Quạ mắng
Công một trận rồi bỏ đi. Từ đó Quạ không chơi với Công nữa.
Cũng vì thế mà ngày nay
loài Công có bộ lông rất sặc sỡ. Đi đâu chúng cũng ưỡn ẹo và luôn miệng khoe
khoang: - Cuông tốt! Cuông tốt! Trái
lại dòng dõi nhà Quạ thì bộ cánh đen thui như mực, trong đó Quạ khoang có đặc
biệt hơn là có một cái ngấn trắng xung quanh cổ. Vì bộ cánh xấu quá nên Quạ xấu
hổ, đi đâu cũng than thở: - Quạ xấu hổ!
Quạ xấu hổ!
62. SỰ TÍCH CHIM TRĨ
BỚI MỘ
Ngày xưa, ở làng nọ, có
hai mẹ con sống đầm ấm trong một căn nhà nhỏ dựng sát bìa rừng. Người con trai
đã lớn, hàng ngày vác cung nỏ vào rừng săn bắn, còn người mẹ thì chăm sóc vườn
nương.
Hôm ấy, chàng trai đi
vào rừng sâu nhưng cả ngày không bắn được con thú nào. Khi sắp sửa ra về, chàng
bắt gặp một con trĩ liền gương cung bắn hạ nó. Về nhà, hai mẹ con nướng con
chim để dùng nó cho bữa tối. Trên chiếc mâm gỗ là con chim trĩ vàng ươm đang
bốc hơi nóng. Người con trai định cầm con chim lên xé thịt thì bỗng hắt hơi mấy
cái liền. Bà mẹ thấy vậy định làm thay con thì cũng bị hắt hơi như vậy. Bà liền
nói với con mình: - Thôi, con ạ! Chắc
thần linh không cho mẹ con ta được ăn thịt chim rồi, ta chịu khó ăn cơm với
muối vậy. Xong bữa, người mẹ cầm con chim còn nguyên vẹn đặt lên giàn bếp.
Hôm sau, công việc của
hai mẹ con vẫn diễn ra như thường lệ: Người mẹ đi làm nương, anh con trai vào
rừng săn bắn, đến tối mới về. Nhưng khi cả hai về đến nhà, một điều kỳ lạ đã
xảy ra, nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ, tươm tất, giữa sàn nhà là một mâm cơm
ngon lành được dọn sẵn từ bao giờ. Cả hai mẹ con đều rất ngạc nhiên, liền đi dò
hỏi xóm giềng xem có ai sang giúp họ hay không nhưng chẳng ai biết điều gì cả.
Thế là hai mẹ con trở về nhà và vẫn quyết định ăn bữa cơm như bình thường vì họ
đã quá đói bụng mặc cho bất cứ chuyện gì xảy ra.
Mấy ngày sau đó, sự việc
vẫn diễn ra y hệt như thế. Hôm đó chàng trai lại sủa soạn cung nỏ vào rừng, dặn
mẹ mình trông nom nhà cửa cẩn thận vì có thể chàng sẽ đi dài ngày. Nhưng vừa
đến bìa rừng, chàng đã lại rẽ theo con đường tắt để trở về nhà. Chàng không vào
nhà ngay mà đứng nép vào bên ngoài chái bếp và vạch tấm phên lên nhìn vào
trong. Chẳng phải chờ đợi lâu, chàng thấy từ giàn bếp, chỗ treo con chim trĩ,
hiện ra một người con gái sinh đẹp tuyệt trần. Nàng từ từ bước xuống và dọn dẹp
mọi thứ trong nhà cho thật ngăn nắp, đâu vào đấy. Xong việc, nàng lại thu mình
vào vỏ con chim trĩ. Chàng trai hết sức ngạc nhiên và thích thú. Đợi cho tới
khi mặt trời vừa tắt nắng, cô gái xinh đẹp lại hiện ra và xuống bếp làm cơm
nước cho bữa tối, bấy giờ chàng mới lẻn vào lấy vỏ con chim trĩ giấu đi chỗ
khác và chạy đến ôm chầm lấy cô gái. Cô gái hoảng hốt đẩy chàng ra, định chui vào
vỏ chim nhưng chiếc vỏ quen thuộc không còn ở trên giàn bếp nữa, bất đắc dĩ
nàng đành phải đứng lại. Trước sự hỏi han rối rít của chàng trai, nàng bèn kể:
- Em là con gái vua các loài chim ở xứ sở
Mặt trời. Trên đường bay về cùng cả đàn do ham chơi nên bị lạc đường, em mắc
can ở đây. Mang ơn hai mẹ con chàng đã không ăn thịt nên em tìm cách báo đền
một thời gian, không ngờ bây giờ đã bị chàng phát hiện.
Đúng lúc đó mẹ chàng
trai trở về nhà, nghe qua sự tình bà vui vẻ khôn xiết và bảo: - Đây đúng là duyên nợ của hai mẹ con. Thôi,
xon gái yêu, con không phải đi đâu nữa, hãy ở lại đây cùng mẹ con ta.
Từ đó, hai người thành
vợ thành chồng. Một năm sau đứa con đầu lòng của họ ra đời, khi đứa bé được vài
tháng tuổi thì cũng là lúc mùa thu hoạch đến. Người chồng định nghỉ việc săn
bắn để lên rẫy cắt hái thì người vợ liền nói: - Chàng cứ đi săn đi, việc thu hoạch hãy để thiếp lo liệu. Còn mẹ, xin mẹ
ở nhà trông nom cháu, đừng lên rẫy làm gì. Người chồng lại lo ngại hỏi: - Liệu một mình nàng của làm nổi không?
Người vợ trả lời: - Chàng yên tâm, nhớ nhắc
lại với mẹ là đừng có lên rẫy. Người chồng nghe lời vợ vác cung nỏ đi săn.
Người vợ mang gùi lên rẫy tuốt lúa. Tới nơi nàng biến thành chim và nhờ họ
hoàng nhà chim cùng tuốt lúa giúp mình. Chẳng mấy chốc kho lúa đã gần đầy, rẫy
đã tuốt xong quá nửa.
Ở nhà người mẹ cảm thấy
nóng ruột, sợ con dâu không tuốt kịp lúa lại thêm đứa bé khát sữa cứ khóc vang.
Bà liền địu cháu lên rẫy. Lên tới rẫy bà không thấy nàng dâu đâu, chỉ có bộ váy
quen thuộc để trên một tảng đá. Còn trên rẫy hàng trăm con chim đang thi nhau
mổ thóc. Bà tức giận lấy đá ném vào đàn chim. Đàn chim hoảng sợ bay tan tác. Bà
liền nhặt bộ váy áo của nàng lên và địu cháu quay trở về nhà.
Khi người con trai về
tới nơi bà vội vàng kể lại: - Vợ con nói
lên rẫy tuốt lúa nhưng lại bỏ đi chơi, váy áo vét lại để chim chóc tha hồ ăn
hết lúa. May lúc đó mẹ lên tới nơi đã đuổi lũ chim đi và mang bộ váy về đây.
Nghe vậy người chồng vội vàng chạy lên rẫy xem sao thì thấy lúa đã gần đầy kho
còn rẫy thì vắng lặng. Chàng chợt hiểu ra mọi chuyện bèn chạy khắp rừng núi gọi
tên vợ nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng hồi âm, chàng về nhà ôm con than
khóc.
Tiếng khóc ai oán hàng
đêm của người chồng đã vượt qua bao núi đèo, sông suối, rẫy nương tìm đến nơi
xa xôi có vua của các loài chim ở. Nơi đây, người vợ chim trĩ nghe được tiếng
khóc than của chồng liền tìm cách bay về. Trên cành cây cao trước cửa nhà chàng
trai, chim kêu rằng: - Hỡi chàng ơi! Hãy
theo ta về xứ mặt trời, xin với vua cha cho cùng xum họp!
Nghe vậy người chồng
cõng con chạy theo chim. Vượt qua bao núi rừng, bao ghềnh thác, người chồng cam
lòng hứng chịu mọi nỗi gian truân, vất vả nhưng đứa bé thì không thể chịu được,
nó đã chết trên lưng cha mình. Vô cùng thương xót đứa con bé bỏng chàng chôn
con mình trong một ngôi mộ nhỏ trên ngọn đồi rồi từ giã con lên đường đi tiếp.
Nhưng người vợ trong lốt chim trĩ đau đớn vì mất con cứ kêu lên ai oán và bay
quanh quẩn bên ngôi mộ đứa bé. Rồi chim đậu lên mộ, cố moi đất tìm xác con cho
khuây khoả. Người chồng không được ai dẫn đường, bị lạc lối và chết ở trong
rừng. Đến khi biết không thể tìm được xác con, chim trĩ lại bay đi tìm chồng
nhưng không gặp được. Mất chồng, mất con, chim không muốn trở về với vua cha
nữa mà cứ tha thẩn trong rừng sâu rồi cũng quên mất đường về, quên cả đường tới
mộ con.
Từ đó, hễ thấy ở đâu có
mộ, chim trĩ lại ngỡ đó là mộ con mình nên cứ ra sức đào bới. Cho đến tận bây
giờ, mỗi khi chim trĩ đào bới mộ, nhiều người không khỏi chạnh lòng bởi tiếng
chim kêu não ruột như oán hờn, như ân hận điều gì của loài chim này.
63. SỰ TÍCH TRÁI BẦU
MẸ
Từ thuở xa xưa, khi trên
trái đất chỉ có loài thú sinh sống, con người chưa xuất hiện thì bỗng một hôm,
một tiếng nổ dữ dội phát ra từ lòng đất. Sau tiếng nổ, mặt đất nứt nẻ và uốn
lượn như sóng biển. Muông thú kinh hoàng bỏ chạy tán loạn khắp nơi. Nhưng mặt
đất đã kịp nuốt chúng vào lòng cùng vô số cây cỏ, muông thú của khu rừng thẳm.
Khi vạn vật trở lại yên
tĩnh thì vùng rừng xanh bạt ngàn nơi muông thú sinh sống trước đó đã biến dạng
thành núi cao, sông sâu trùng trùng điệp điệp. Các loài thú vắng bóng, chỉ mảy
may còn sống sót mỗi hai con chó một đực và một cái.
Hai con chó cùng nhau đi
tha thẩn dọc suối, dọc sông để kiếm cái ăn. Khi cây cối xuất hiện trở lại trên
núi đồi, chúng tìm ăn từng quả sim, quả dại. Nhưng rồi trời bỗng nhiên hạn hán,
nước sông suối khô cạn, cây sim và nhiều loại câu khác đều bị chết cháy. Hai
con chó đi lên vùng cao tìm cái ăn, nước uống. Vượt qua nhiều núi đèo hiểm trở,
hai con chó thấy một nguồn nước. Lúc đó, con chó cái đang có mang. Nó cố lê
bước đến bờ suối. Lúc nó chúi đầu xuống dòng nước định uống vài ngụm thì chuyển
dạ và sinh ra một trái bầu dài. Một nửa quả bầu nằm dưới nước, một nửa kia vắt
trên bờ. Quả bầo cứ nằm như vậy suốt bao tháng liền. Nửa trên bờ của trái bầu
bị nắng hạn nung nóng nên ngày càng đen thẫm lại, còn nửa kia dưới nước được
mát mẻ nên trắng bợt ra.
Mùa đông qua, mùa xuân
đến, khi trời ấm áp trở lại, trời bắt đầu có mưa, cây cỏ đâm chồi nảy lộc,
hương thơm ngát rừng. Đúng lúc này quả bầu bỗng vỡ ra và con người từ bên trong
quả bầu bước ra. Số người nằm nửa trên bờ của quả bầu có nước da ngăm đen. Còn
số kia nằm dưới nước mát nên có làn da trắng trẻo. Những người da trắng xuôi
theo dòng sông, suối về đồng bằng sinh sống. Những người có làn da ngăm đen đi
ngược về phía đầu nguồn, tìm rừng phát rẫy. Từ đó hình thành các dân tộc anh em
vùng núi và vùng đồng bằng cùng chung sống đoàn kết, đùm bọc và thương yêu nhau
cho đến tận bây giờ bởi vì tất cả là do cùng chung một mẹ bầu sinh ra.
64. SỰ TÍCH CON CUA
Ngày xưa, có một cô gái
nết na xinh đẹp mồ côi mẹ lúc chưa đầy tháng. Cha lấy vợ kế được một thời gian
thì chẳng hiểu sao ông sinh bệnh rồi chết, để lại con gái bé bỏng một mình. Cô
gái sống với mẹ kế cùng đứa con riêng của mẹ. Cô con gái riêng của mẹ suốt ngày
chỉ ra ngắm và vuốt, chẳng phải làm việc gì cả, mà có làm việc gì cũng chẳng
thành. Nhưng mọi lời khen ngợi bà mẹ đều dành cho cô ta và cô ta lấy thế làm
hãnh diện lắm. Lúc nào cũng vênh váo, kiêu kỳ, tự cao tự đại cứ như mình là lá
ngọc cành vàng vậy.
Còn cô gái mồ côi thì
phải làm hết mọi việc. Biết thân phận mình, vốn tính hiền lành, ngoan ngoãn, cô
chịu đựng hết thảy, nín lặng làm hết mọi việc bà mẹ ghẻ đổ lên đầu cô. Cô dằn
lòng gánh chịu mọi lời mắng chửi trút xuống đầu mình. Bao nhiêu người thương
mến cô, thông cảm cho hoàn cảnh của cô nhưng họ chẳng biết làm gì để giúp cô.
Một hôm, thấy cô mặc
chiếc váy hoa rực rỡ, mụ dì ghẻ nổi cơn tam bành. Bởi xưa nay cô vốn đã xinh
đẹp, giờ trong chiếc váy mới trông cô lại càng kiêu diễm hơn. Còn con gái mụ
thì có đắp bao nhiêu lụa là gấm vóc vào mà vẫn như quỷ xa tăng, chẳng ma nào
thèm nhóm ngó. Bao nhiêu chàng trai tuấn tú tài giỏi đều chỉ muốn lấy được cô
gái mồ côi làm vợ. Đến nước này không sao chịu nổi nữa, mụ dì ghẻ sôi máu, xấn
xổ vào cô gái đáng thương: - Con ranh
kia, sao mày cứ luẩn quẩn trước mắt tao. Đồ lười chảy thây. Biết kiếm việc gì
cho mày làm bây giờ, không lẽ lại ra sông giặt. Mà này, chiếc váy đẹp thế mày
ăn cắp ở đâu vậy. Nói mau. Mụ dì ghẻ thẳng tay đánh cô và không ngớt gào
thét: - Nói ngay, đồ thối thây, thằng
khốn nạn nào cho mày chiếc váy đó hả. Cô gái mếu máo van xin: - Mẹ ơi! Con xin mẹ. Chẳng có gã đàn ông nào
cho con cả mà chính của một bà già cho con đấy chứ. Mụ dì ghẻ nghiến răng
ken két: - Bà già? Làm gì có bà già nào
mà lại tốt bụng quá vậy. Thôi nói thật đi, tao tha cho.
- Thưa mẹ! Con nói thật đấy. Hôm ấy, con ra sông giặt quần áo cho mẹ và
em, bỗng có một bà cụ rách rưới bẩn thỉu đứng bên cạnh con phều phào xin nước
uống. Nước sông đục ngầu nên con lấy ống nước đem theo đưa cho bà cụ. Bà cụ
uống nước xong liền cho con cái bọc nhỏ bảo là thưởng cho lòng tốt của con. Mở
ra thấy chiếc váy đẹp này, con đinh trả lại cho bà cụ nhưng không thấy bà đâu
nữa.
"Có lẽ đúng thế,
con nhãi này chắc không dám nói dối". Mụ dì ghẻ nghĩ. Thảo nào bấy lâu nay
người làng cứ bàn tán xôn xao là có một bà tiên nào đó. Đúng là bà tiên ấy đã
cho con ranh chiếc váy đó. Vậy ta phải cho con gái ta ra sông để xin bà tiên
cho nó xinh đẹp được không.
Thế tà từ ngày ấy, cô
gái mồ côi không phải đi giặt nữa. Con gái riêng của mụ thay thế công việc
không lấy gì dễ dàng đối với cô ta. Nhưng mong muốn được gặp bà tiên để xin cho
mình đỡ xấu đã thôi thúc cô ta. Ngày nào cô cũng ra sông với vài cái khăn nhỏ.
Thế rồi hôm ấy, một buổi
sáng đẹp trời. Cô gái đỏng đảnh õng ẹo đi ra sông để giặt. Cô thấy một bà cụ lạ
mặt xuất hiện. Nhìn thấy bà cụ cô gái kiêu kỳ định lấy bầu nước của mình ra đưa
cho bà. Bà cụ tới gần bảo: - Chào cô gái!
Vạt váy của tôi lấm bùn. Cô làm ơn lấy nước gột cho tôi với. Cô gái đỏng
đảnh cong môi đáp: - Cái bà già bẩn thỉu
này. Bà nghĩ tôi là gì mà bảo tôi làm cái việc ghê tởm ấy. Dạng bà xách dép cho
tôi còn chưa xứng.
- Chà! Đúng là một đứa con gái hư hỏng, hỗn láo. Con bé
này không giống con bé kia.
- Sao, bà biết chị gái tôi à? Cô gái đỏng đảnh hốt
hoảng kêu lên. Cô ta hiểu là mình đã phạm sai lầm không thể cứu vãn được. Thế
là công toi mấy ngày mình phải chịu khổ sở. Cô gái mở miệng định xin bà cụ tha
lỗi và cầu xin cụ cho mình được xinh đẹp.
- Một con người độc ác thì không thể trở thành người con
gái xinh đẹp được. Lũ các ngươi phải bị trừng phạt. Bà cụ nói xong thoắt
biến mất như chưa từng xuất hiện. Sau đó cô gái đỏng đảnh cũng biến mất. Ở chỗ
cô ta vừa đứng xuất hiện một con vật nho nhỏ, xám xịt, chân cẳng tua tủa. Đến
nay cứ thấy người lại gần con vật đó lại vội lủi xuống sông. Đó chính là con
cua.
65. SỰ TÍCH CON CHIM
KÔN LỘÔC
Xưa, ở một bản xa xôi,
có hai vợ chồng người nông dân sinh được ba người con gái. Đứa con lớn đã biết
nấu cơm, cõng nước. Đứa thứ hai đã biết trông em, còn đứa út cũng đã biết bò.
Năm ấy chẳng may hạn hán, mùa màng mất sạch. Cả làng đói khát thiếu thốn, họ rủ
nhau vào rừng đào củ hái măng. Vợ chồng người nông dân cũng phải ngày ngày vào
rừng kiếm củi đắp đổi qua ngày. Người chồng vì lao động quá sức chẳng may chết
sớm để lại vợ goá và ba đứa con côi. Chị vợ tần tảo, hằng ngày kiếm củi, hái
măng đem ra chợ bán lấy tiền đong gạo, nuôi dạy ba đứa con
Một hôm, một gã đàn ông
có vẻ tử tế đến làm quen với chị. Thực ra gã là một tên lưu manh có bộ mặt nhu
mì, chuyên dùng giọng lưỡi để lừa đảo mọi người. Đến gần chị, gã ngọt nhạt nói:
- Nàng ở đâu đến. Sao nàng lại vất vả thế
này? Thế chồng nàng đâu mà không giúp nàng. Chị thật thà đáp: - Chồng tôi đã chết, nhà tôi nghèo lắm, một
mình tôi phải kiếm củi hái măng nuôi ba con nhỏ. Gã đàn ông nghĩ bụng:
"Trời! Gái goá mà xinh quá, ta phải
chiếm lấy nàng mới được". Thế là hắn lân la làm thân: - Nàng ơi! Nghe nàng nói mà tôi thấy thương
nàng quá. Đây, tôi cho nàng năm đồng bạc trắng, nàng cầm lấy mà đong gạo nuôi
thân. Chị nông dân cảm động, nhận tiền cám ơn người giúp đỡ rồi thu xếp về
chợ. Gã đàn ông lén theo sau để biết nhà. Sẩm tối, gã đến chơi, ngỏ lời hỏi
nàng làm vợ. Chị nông dân ưng thuận.
Từ đó họ sống với nhau
một cách khác thường. Gã chồng tiếp tục cuộc sống lang bạt trộm cướp. Cứ năm
bữa nửa tháng lại đem tiền bạc về cho vợ. Có tiền của, chị vợ không làm lụng
gì, chỉ lo ăn diện, đua đòi chơi bời cùng chồng, đến nỗi bỏ mặc con cái đói
rách nheo nhóc. Các con chỉ được miếng cơm thừa canh cặn, ngủ thì vạ vật đầu hè
xó bếp. Ngày ngày nàng theo chồng hết làng trên xóm dưới đua đòi ăn chơi trác
táng. Một hôm gã chồng bảo vợ: - Này
mình! Tôi thấy ngượng với mọi người lắm vì lúc nào mình cũng cặp kè thế này.
Thôi từ nay mình ở nhà với lũ trẻ đừng đi theo tôi nữa. Thấy chồng nói vậy
chị ta nghĩ: "Hừ, chồng mình là tay
ăn chơi, có tiền là đi chơi với gái hư. Phải tìm cách giữ anh ta lại, nếu không
anh ta sẽ bỏ mình. Cũng chỉ tại các con mình thôi. Anh ấy chẳng bảo là mình
phải ở nhà với lũ trẻ là gì? Vậy phải giết bọn trẻ này đi cho khỏi vướng víu.”
Mùa mưa, chị ta lừa các
con: - Các con ơi, khi cha các con còn
sống mùa này thường đưa mẹ đi làm đồng ở gần hồ phía chân núi xa kia. Ngày mai
mẹ sẽ đem mạ để gieo, các con ở lại đấy canh chim. Hôm sau chị ta đem thóc
và dẫn theo ba đứa con, chị ta gieo thóc xuống hồ rồi dặn: - Các con nhớ canh chừng không đi đâu xa, bao
giờ lúa trổ bông thì mới được về nhà, nếu không nghe lời tao đánh chết đấy.
Nghe chưa! Rồi chị ta để lại cho các
con một ít cơm, một ít rau và cái nồi đất mẻ miệng. Người mẹ bất nhân nghĩ
bụng: "Chỉ đêm nay là hổ về bắt
chúng, nếu không mấy ngày sau là chết đói cả". Chiều về, chồng hỏi các
con đâu, chị ta nói dối là bọn trẻ đi canh lúa cùng các cụ già ở chân núi xa.
Bao giờ lúa chín chúng mới về.
Mấy đứa trẻ ở lại trong
rừng canh chim. Tối chúng leo lên chòi để ngủ. Đêm đêm nghe tiếng hú của khỉ,
tiếng gầm gừ của hổ, tiếng rú của chó sói làm chúng kinh hồn bạt vía. Đứa chị
cũng sợ nhưng phải dỗ em không được khóc, nếu nghe tiếng người, bọn hổ báo kéo
đến thì chết cả.
Trong rừng có một ông
Tiên nhân đức, ông thương ba đứa trẻ tội nghiệp bị đày ải nơi rừng sâu núi
thẳm. Ông muốn cứu giúp bọn chúng nhưng phải chờ đến ngày mai mới tâu lên Thiên
đình được. Đêm nay, ông chỉ có thể đuổi thú dữ cho chúng mà thôi. Hôm sau, Tiên
ông tâu lên Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng trả lời: - “Kiếp này chúng sẽ biến thành chim. Chỉ cần ông bảo vệ đừng để thú rừng
ăn thịt bọn trẻ trong những ngày chúng còn là người. Nếu chúng đói thì hoá phép
ra tôm, cá cho bọn chúng làm thức ăn.” Nghe xong Tiên ông yên tâm trở về
núi cũ. Sau ba ngày bọn trẻ chẳng còn cái ăn, đứa em nhỏ đói khóc gào vật vã.
Đứa chị phải đi kiếm rau dại, lá chua về cho các em ăn tạm. Em đòi ăn cá tôm
dưới hồ, nhưng lửa tắt ngấm từ mấy hôm nay. Nó cứ gào khóc đòi về, đứa chị sợ
lắm. Nhưng đứa em cứ giẫy lên đành đạch, không biết làm thế nào nó đành đưa em
về nhà. Vừa về đến cửa, mẹ chúng đã la hét chửi ầm lên: - Đồ chết tiệt, đồ lười biếng. Không chết đi còn dẫn nhau về làm gì?
Đứa chị năn nỉ: - Mẹ ơi! Xin mẹ thương
em. Em đói mấy ngày nay rồi, gạo hết, lửa tắt. Mẹ không cho chúng con ở nhà thì
mẹ cho chúng con gạo lửa. Mụ đàn bà thất đức này chẳng chút động lòng
thương giọt máu của mình. Chị ta đánh đuổi lũ trẻ, bắt phải vào hồ canh lúa mà
không cho mang theo một thứ gì. Bị đánh đau sứt đầu mẻ trán mà lũ trẻ ngây thơ
vẫn luôn mồm gọi mẹ. Chúng không biết rằng mẹ chúng cố tình muốn giết chết con.
Chạy về đến lều, cả ba
chị em đều ngã lăn ra bất tỉnh, vì trận đòn phũ phàng của mẹ, vì hoảng sợ mà
chạy hết sức bình sinh. Tiên ông dùng phép lạ làm cho chúng tỉnh lại, chúng cứ
khóc ròng. Thế rồi khóc mãi cũng xua đuổi được cơn đói. Đứa chị gạt nước mắt
lội xuống hồ kiếm cá. Chao ôi! Cá tôm đâu mà nhiều thế. Nó bắt về cho các em ăn
thay cơm. Nhờ có phép tiên, thức ăn ở trong hồ không bao giờ hết. Trời nắng, nó
đem phơi thức ăn để dành. Con chị vừa làm vừa than thở: - Tại mẹ lấy chồng mới, mải mê ăn chơi đua đòi không thương chị em mình,
lại còn muốn giết chị em mình nữa. Thôi đừng mong về nhà nữa. Hãy ở lại đây,
chị em ta đùm bọc nhau mà sống.
Thấm thoát đã mấy tháng
trôi qua. Những hạt thóc mẹ nó đánh rơi trên bờ hồ nay đã trổ bông. Nhờ có phép
tiên giữ gìn nên thú rừng không hề phá phách. Đứa chị tuốt lúa về nấu cháo cho
các em ăn. Sau vài tháng thì người ba chị em mọc đầy lông, hai tay biến thành
hai cánh. Nhờ đôi cánh này, chúng có thể bay chuyển từ cây này sang cây khác
nhưng chưa bay xa được. Rồi đôi môi dài ra, cứng lại thành cái mỏ nhọn, chúng
không nói được tiếng người nữa. Chúng vẫn biết mình vốn là người đấy, nhưng khi
nói, tiếng nói phát ra không thành tiếng người. Lâu dần, đôi cánh mọc thêm
nhiều lông dài và khoẻ, chúng đã có thể bay đi xa, càng ngày càng xa.
Ở nhà, anh chồng vẫn làm
nghề trộm cướp. Nhưng đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma. Lần ấy hắn bị bắt quả
tang khi đang móc túi một cụ già. Hắn bị bỏ tù. Chị vợ thành kẻ bơ vơ. Sống một
mình thấy buồn, chị ta nhớ con. Chị ta tìm đến túp lều canh lúa bên hồ. Nhìn
thấy mấy đứa trẻ nửa người nửa chim, chị ta đoán đó là con mình. Chị ta vừa sợ
vừa thương: - Các con ơi! Mẹ đến đón các
con về đây. Nghe thấy tiếng mẹ, bọn chúng tưởng mẹ tìm đến để giết hại nên
vội bay lên ngọn cây. Chúng vẫn nghe tiếng mẹ dỗ dành: - Tội nghiệp các con của mẹ, chỉ vì mẹ ngu dại mà đày ải các con, nay mẹ
hối hận rồi. Hãy xuống đây về nhà cùng mẹ. Các con muốn nói: - "Không, không thể sống với mẹ được, mẹ ác
lắm. Rồi có ngày mẹ giết các con thôi. Thà cứ làm con vật mà được sống như thế
này còn sướng hơn. Mẹ đi đi, đi đi". Nhưng đâu có nói thành tiếng
người được. Chúng chỉ phát ra được mấy tiếng "Kôn lộôc" Kôn
lộôc" và bay chuyển trên các ngọn cây. Người mẹ cứ theo hoài, theo mãi cho
đến lúc kiệt sức, gục chết trong rừng.
Giống chim này thường ăn
ốc ở các đầm lầy, hồ nước ven rừng. Thấy động là chúng bay lên và kêu: Kôn
lộôc! Kôn lộôc. Người ta đặt tên cho loài chim này là Kôn lộôc theo tiếng kêu
của chúng. Đêm thanh vắng, giữa vùng rừng núi và đầm hồ hoang dã, tiếng nó gù
gù than thở nghe thật tội nghiệp.
66. SỰ TÍCH CON ĐOM
ĐÓM
Ngày xưa, ở vùng đất nọ,
từ vua quan đến dân đều là đàn bà và vùng đất ấy được gọi là Mường đàn bà. Đất
nước của họ thật giàu có; ruộng đất phì nhiêu, lắm ngô nhiều lúa, súc vật đầy
đồng, nhà nào cũng đầy chiêng đầy ché. Nhưng lại buồn tẻ vô cùng vì thiếu tiếng
cười, thiếu tiếng hát, không tiếng khèn tiếng sáo, không lứa đôi. Tất cả ở đây
ai cũng khát khao cuộc sống lứa đôi vì con chim còn có tổ, con thú còn có đôi
mà họ thì... nhưng họ biết tìm đàn ông ở đâu. Hằng năm chỉ có một con dê thần ở
trên trời xuống ngủ với họ. Có hai chị em nhà kia không chịu làm vợ của dê
thần, bỏ mường đi tìm đàn ông. Hai người cứ đi, đi mãi hết ngày này sang ngày
khác. Họ vượt qua không biết bao nhiêu núi cao rừng rậm, qua bao đèo cao vực
thẳm mà vẫn không gặp được ai. Sức đã kiệt, hơi đã tàn, người chị không còn
nhấc bước đi được nữa, còn người em nằm lả bên đường. Trước khi trút hơi thở
cuối cùng, người em tha thiết nói với chị rằng: - Chị ơi! Ngược suối phải tận nguồn, lên núi thì phải tới đỉnh.
Người chị thương em vất
vả khóc than và cứ ngồi mãi bên xác em. Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa mọc thì
có một chàng trai khôi ngô tuấn tú ăn mặc sang trọng, vai đeo cung nỏ, cưỡi
ngựa hồng đi tới. Chàng xuống ngựa, giúp cô gái chôn cất người chết xong, liền
hỏi: - Nàng ở đâu? Sao lại ở trong rừng
một mình. Cô gái đáp: - Chúng tôi đi
tìm mường đàn ông để lấy làm chồng, đã đi nhiều ngày, nhiều đêm mà chẳng gặp
được ai. Nghe nàng nói thế, người con trai bảo: - Tôi cũng đi tìm mường đàn bà lấy làm vợ. Trời cho chúng ta gặp nhau
đấy. Chàng trở cô gái lên ngựa, cùng đi về đất nước mình.
Năm sau theo lệ ngày ấy,
tháng ấy, thần dê lại về đất nước của những người đàn bà. Thần thấy thiếu hai
chị em cô gái nọ liền đi tìm. Thần đi khắp nơi, đến khu rừng nọ gặp ngôi mộ bên
đường liền bới lên. Xác người con gái đã thối rũa, duy đôi vú vẫn còn nguyên
vẹn và từ hai đầu vú bay lên những đốm sáng. Những đốm sáng ấy ngày nay người
ta gọi là đom đóm. Đom đóm không thấy chị đâu, không thấy người đàn ông nào thì
tiếp tục bay đi khắp mọi nơi để tìm. Ban ngày không đủ thời gian, phải đốt đuốc
đi tìm cả ban đêm.
67. SỰ TÍCH HOA CÚC
TRẮNG
Ngày xưa, có một cô bé
sống cùng mẹ trong một túp lều tranh dột nát nhưng đó là một bé gái vô cùng
hiếu thảo. Thật không may mẹ của cô bé bị bệnh rất nặng, nhưng vì nhà nghèo nên
không có tiền mua thuốc chữa. Cô bé vô cùng buồn bã. Một lần đang ngồi khóc bên
đường bỗng có một ông lão đi qua, thấy lạ bèn đừng lại hỏi. Khi biết sự tình,
ông già nói với cô bé: - Cháu hãy vào rừng và đến bên gốc cây cổ thụ to nhất
trong rừng hái lấy một bông hoa duy nhất trên đó. Bông hoa ấy có bao nhiêu cánh
thì tức là mẹ cháu sống được bằng đấy ngày
Cô bé liền vào rừng và
rất lâu sau mới tìm thấy bông hoa trắng đó, phải khó khăn lắm cô mới trèo lên
được để lấy bông hoa nhưng khi đếm chỉ có chỉ có bốn cánh. Chẳng lẽ mẹ cô chỉ
sống được bằng đấy ngày thôi sao? Không đành lòng, cô liền dùng tay xé nhẹ từng
cánh hoa lớn thành những cánh hoa nhỏ và bông hoa cũng theo đó mà nhiều cánh
dần lên, nhiều đến mức không còn đếm được nữa. Từ đó người đời gọi bông hoa ấy
là bông hoa cúc trắng để nói về lòng hiếu thảo của cô bé đó dành cho mẹ mình
68. SỰ TÍCH ĐÁ BÀ RẦU
Ngày xưa, có gia đình
một người thuyền chài có một cô gái rất xinh. Khi cô đã lớn, nhiều chàng trai
muốn xin kết duyên với nàng, nhưng chưa có đám nào thành cả. Mãi về sau một
chàng trai người xứ Quảng lấy được nàng làm vợ. Anh chàng là người khỏe mạnh, làm
nghề buôn hàng. Sau thời kỳ ân ái ngắn ngủi, đôi vợ chồng ấy phải rời nhau vì
sinh kế. Người chồng theo thuyền, theo bạn ra đi, để một mình vợ ở lại với gian
nhà nhỏ.
Thế rồi, cứ chiều chiều,
người vợ lại ra bờ sông trông đợi những cánh buồm tiến vào cửa sông. Nhưng qua
ba bốn tuần trăng mà chồng vẫn không thấy về. Người đàn bà đâm ra lo sợ: hay là
trận bão vừa qua đã nhận chìm thuyền xuống thủy phủ. Hay là chồng mình làm điều
gì thất thố, nên bọn quan quân địa phương đã giam tất cả mọi người vào ngục tối...
Năm, sáu tháng qua,
người chồng vẫn chưa thấy về. Người đàn bà đó vẫn hàng ngày ra đứng bờ sông
nhìn những cánh buồm tiến vào cửa biển. Mỗi một cánh buồm đối với nàng là một
tia hy vọng, nhưng tia hy vọng ấy vừa lóe lên, thì một chốc sau đó lại tắt ngay.
Đột nhiên chồng về giữa
lúc vợ đinh ninh sống một thân một bóng lạnh lẽo. Người lái buôn bước vào nhà
làm cho mọi người kinh ngạc và mừng rỡ. Anh kể rất dài về cuộc sống chung đụng
với những người khác ở nơi hải đảo. Nếu không có mưu trí thì anh và bạn hữu
chưa chắc đã sống sót để nhìn lại quê hương. Thế là ngày vui trở lại. Thú ái ân
lại tràn ngập chăn gối cho bõ những lúc xa nhau.
Nhưng vui chưa trọn mà
buồn đã xuất hiện. Sự nghi ngờ bỗng nảy nở trong lòng người chồng. Chồng vốn là
người cả ghen, lại cũng đã biết vợ ngày trước có phần nào tự do trong việc giao
thiệp. Bây giờ đây, người ta mách nhỏ với anh rằng: Trong những ngày vừa qua
người đàn bà hay bỏ nhà ra đi từ buổi chiều cho đến tối mịt mới về. Nghe đoạn,
máu ghen của anh bừng bừng bốc lên. Hắn không ngờ trong những lúc mình gian lao
như thế, thì vợ lại có thể như thế được. Những lời phân trần của người vợ chẳng
ăn thua gì. Trong tình cảnh đó, nàng chỉ đành ngậm miệng. Vì thế chồng không
tiếc tay hành hạ vợ. Không một lời oán trách, người đàn bà chỉ biết mình khóc
với mình mà thôi. Vợ càng làm thế, thì chồng lại càng lạnh nhạt. Một hôm để cho
vợ phải hối hận, người chồng lại cùng bạn dong buồm ra đi, không một lời rỉ tai
với vợ. Người đàn bà ấy không biết chồng đi đâu và bao giờ trở lại.
Nhưng một hôm, người
chồng lại cùng với các bạn bè trở về quê hương, sau một thời gian buôn bán ở
phương xa. Hắn làm ra rất nhiều tiền, nhưng hắn thấy tiền của không đủ lấp sự
trống trải trong lòng mình. Hắn ao ước được gặp lại vợ cũ để tìm hạnh phúc
trong sum họp.
Lần này, chồng dự định
lúc về sẽ khuyên dỗ cho vợ mình tu tỉnh để nối lại những ngày thắm đẹp xưa kia.
Nhưng khi bước chân vào nhà, người chồng thấy nhà lạnh lẽo. Xóm giềng cho hay
rằng vợ anh bỏ đi đã hơn một tháng. Hắn thấy gánh buồn đè nặng lên người. Hắn
vơ vẩn đi lại bờ sông, chỗ mà người ta cho biết là vợ mình lần trước cũng như
lần này hay đứng đây trông đợi. Sự hối hận tràn ngập trong lòng người đàn ông.
Tự nhiên hắn reo lên vì xa kia bên cạnh cái tháp Chàm có bóng một người thiếu
phụ nổi bật trong ánh chiều giống hệt vợ mình. Mừng quá, hắn cắm đầu chạy tới.
Quả đúng là vợ, nhưng vợ bây giờ đã hóa thành đá, con mắt vẫn đăm đăm nhìn về
phía chân trời vô tận.
Thời gian bây giờ đã xóa
đi mất tích nhiều sự vật, nhưng bức tượng người đàn bà cô đơn buồn rầu kia ở
Quảng Nam
vẫn còn. Bên cạnh đó là một ngọn tháp cổ. Cái tượng đó người ta gọi là tượng Bà
Rầu. Vì tượng ở cạnh tháp, nên tháp cũng gọi là tháp Bà Rầu.
69. SỰ TÍCH NƯỚC BIỂN
MẶN
Ngày xưa, ở làng bên có
hai anh em ruột. Hai người cùng cha mẹ mà tính nết khác biệt nhau hoàn toàn.
Cuộc sống cũng khác biệt nhau một trời một vực. Người anh giàu có sống trong
một ngôi nhà lớn có của chìm, của nổi, tha hồ ăn chơi phè phỡn. Người em thì
nghèo khó cùng vợ con sống trong một túp lều nhỏ. Tuy nghèo nhưng anh được mọi
người quý mến vì tính hay thương người, còn người anh thì chẳng mấy ai ưa vì
tính keo kiệt, tham lam, ích kỷ.
Có lần đúng vào ngày lễ
hội, gia đình người em chẳng có gì để ăn, đến một cái bánh mốc hay bát cháo
loãng cũng không có. Thương vợ, thương con, người em bấm bụng đánh liều đến cầu
xin người anh giàu có giúp đỡ. Vừa thấy bóng người em xuất hiện ở cửa, người
anh keo kiệt bủn xỉn cất giọng thô bạo hỏi: - Mày đến xin gì vậy? Người em van: - Bác hãy thương lấy các cháu, xin bác cho chúng một ít gì để ăn vì hôm
nay là ngày lễ lớn. Người anh ném cho em một cái bánh mốc meo: - Cầm lấy và cút đi! Đừng có bao giờ đến đây
nữa nhé.
Mặc dù bị xỉ nhục nhưng
người em vẫn không quên cảm ơn anh mình. Trên đường về nhà, bỗng người em gặp
một cụ già phúc hậu. Cụ già bảo anh: - Ta
biết con rất nghèo nên muốn giúp con. Ta biết con rất cần chiếc bánh này, nhưng
con hãy làm theo lời ta. Con hãy đi vào rừng, góc rừng phía Tây ấy. Ở đó có cây
cổ thụ rất to là nơi trú ngụ của quỷ. Trong hốc cây có một cái nồi bằng đá. Khi
nhìn thấy chiếc bánh của con, bọn quỷ sẽ thèm và lấy vàng bạc gạ đổi nhưng con
chỉ đổi bánh cho quỷ lấy chiếc nồi bằng đá. Chiếc nồi đó là chiếc nồi thần, sẽ
cho con cuộc sống đầy đủ và còn có thể giúp những người nghèo khổ nữa.
Nghe lời cụ già, người
em đi thẳng tới gốc cây. Ở đó, bọn quỷ đông nhung nhúc, đứa đứng, đứa ngồi, mặt
mày đứa nào trông cũng dữ tợn. Nhìn chiếc bánh, lũ quỷ gào thét: - Này, thằng người kia! Hãy đưa chiếc bánh cho
chúng ta, chúng ta sẽ cho nhiều vàng bạc châu báu. - Không, tôi không lấy vàng
đâu, tôi chỉ lấy chiếc nồi bằng đá ở trong hốc cây thôi.
Lũ quỷ đói đổi ngay
chiếc nồi bằng đá lấy cái bánh mốc. Người em ôm chiếc nồi về nhà, về đến nhà
thì trời cũng vừa nhá nhem tối. Người vợ và những đứa con tội nghiệp chạy ùa ra
đón anh. Vì hy vọng là có cái gì để ăn, nên khi thấy cái nồi bằng đá thì họ thở
dài buồn bã: - Hãy lại đây và đừng buồn
nữa. Chúng ta được no đủ rồi.
Anh đặt chiếc nồi giữa
nhà, cầu xin nồi cho cả nhà một bữa ăn ngon, ăn no vì đã bao ngày nay vợ chồng
con cái anh chỉ có rau cháo qua ngày. Anh vừa dứt lời thì một mâm cỗ đầy đủ sơn
hào hải vị hiện ra, toả mùi thơm ngào ngạt. Nhìn vợ con ăn uống ngon lành, anh
thấy lòng mình thật sung sướng. Ăn xong, anh xin thần cho anh một ngôi nhà đẹp,
quần áo vàng bạc và đồ trang sức. Tức thì mọi thứ xuất hiện ngay.
Sáng hôm sau, dân làng
kinh ngạc thấy chỗ túp lều tồi tàn của anh hôm qua nay dã mọc lên một ngôi nhà
nguy nga tráng lệ. Tin về chiếc nồi đá diệu kỳ bay khắp nơi. Tin ấy đến tai cả
những người buôn bán lớn ở vùng xa. Họ mang đủ thứ quý giá xin đổi lấy chiếc
nồi đá nhưng người em không đổi. Thế rồi một hôm, có người buôn muối lấy cắp
chiếc nồi đem lên thuyền chuồn ra biển. Khi tới giữa biển, người ấy xin nồi cho
mình muối. Tức thì chiếc nồi tuôn ra bao nhiêu là muối, muối tuôn mãi, tuôn mãi
không ngừng. Chiếc thuyền đầy ắp muối bị đắm giữa biển sâu đem theo cả chiếc
nồi đá xuống đáy biển. Thế là từ ngày đó, chiếc nồi cứ tiếp tục tuôn ra muối,
và muối lại hoà vào nước biển. Vì thế mà nước biển mặn cho đến tận bây giờ.
70. SỰ TÍCH CÂY KIM
GIAO
Ngày ấy, có đôi trai gái
yêu nhau tha thiết lắm. Người con trai tên là Kim, người con gái tên là Giao.
Cả hai gia đình đều rất nghèo túng. Quanh năm làm thuê, làm mướn. Hai bên bố mẹ
Kim và Giao rất ưng thuận làm thông gia với nhau.
Kim và Giao đã từng thề
thốt kết bạn trăm năm. Nếu không lấy được nhau thì họ sẽ ở vậy chứ nhất định
không lấy một ai khác ở trên thế gian này. Mối tình của họ trong như suối, sáng
như trăng rằm.
Bỗng nhiên đất nước có
nạn ngoại xâm. Lũ giặc tràn từ phương Bắc sang, chiếm đóng khắp nơi, quân dân
vô cùng cơ cực. Bọn giặc ngoại xâm và bọn quan lại địa phương câu kết với nhau
thoả sức vơ vét cướp phá. Khắp nơi nhân dân đã nổi lên chống lại. Tất cả trai
tráng đều ra nhập nghĩa quân. Kim cũng xin vào đội ngũ những người yêu nước.
Anh đánh giặc rất dũng cảm. Trước ngày cưới mấy hôm thì anh bị sa vào tay kẻ
thù. Chúng đày anh lên vùng rừng núi hoang vu mạn ngược và giao cho một quan
lang cai quản.
Kim bị quan lang giam
cầm tra tấn rất thậm tệ. Hàng ngày chúng bắt anh vào rừng đốn gỗ phá núi, lấy
đá về xây nhà cho quan lang. Từ ngày xa người yêu, chàng đau khô vô cùng, không
lúc nào không nhớ về quê nhà. Sau một thời gian lâm bệnh, người con trai ấy qua
đời. Bạn tù và dân địa phương đã chôn cất anh ngay giữa rừng, bên một dòng
suối.
Lại nói về chuyện cô
gái. Sau khi người yêu bị giặc bắt và đày lên rừng, cô rất buồn và thương nhớ
người yêu. Vì cô còn trẻ đẹp nên lý trưởng trong làng đã nhiều lần đến gạ gẫm
làm vợ lẽ hắn. Nhưng cô gái nhất quyết cự tuyệt. Vì thương nhớ người yêu nên
nàng đã bỏ làng ra đi đến rừng tìm anh. Nói đến việc nàng đi tìm người yêu ai
nghe cũng cảm động.
Thân gái một mình, đường
sá xa xôi, núi rừng hiểm trở. Có nhiều đêm nàng phải ngủ trên cây để tránh thú
dữ. Bấy giờ dọc đường rất lắm trộm cướp, nàng phải đóng giả người ăn mày để
chúng khỏi để ý. Đi bộ ngày này qua ngày khác, thế rồi nàng cũng tìm được đến
nơi chúng giam người yêu.
Khi đến nơi, người yêu
không còn nữa. Tin sét đánh làm nàng như đứt từng khúc ruột. Nàng ôm lấy mộ
người yêu, nước mắt như mưa. Sau đó nàng hoá điên và chết ngay ở bên suối. Nhân
dân địa phương đem chôn nàng ở bên cạnh người con trai. Hai nấm mộ nằm sóng đôi
giữa khu rừng vắng.
Sau đó, giữa hai nấm mộ
mọc lên một cái cây rất thẳng. Thứ cây rất lạ, chưa ai thấy bao giờ. Lá cây
phía trên có màu xanh thẫm rất bóng, phía dưới màu trắng bạc. Cây toả mùi hương
thơm ngan ngát như mùi trầm. Đêm đêm từ cây ấy vọng ra một thứ tiếng trầm trầm
như người hát, ai oán rất buồn.
Quan lang thấy vậy tưởng
cây có ma, hắn rất hoảng sợ liền đem dao ra chặt đi, nhựa cây bắn vào mắt hắn,
tự nhiên hai mắt hắn bị mù tịt. Còn vợ con trong nhà thì sinh ốm đau thập tử
nhất sinh.
Cái cây sau khi bị quan
lang chặt, lại bật chồi lên, chẳng bao lâu cây lại xanh tốt như cũ. Từ ấy trở
đi không ai dám chặt cây nữa.
Nhân dân trong vùng rất
yêu quý giống cây ấy. Nhiều người bị cảm bứt một nắm đem bỏ vào nấu nước xông
sẽ khỏi, nhưng điều kỳ lạ nhất của giống cây này là gỗ của nó đem vót làm đũa
ăn cơm, khi nhúng vào thức ăn có thuốc độc, đũa sẽ sủi ngay lên một thứ bọt đen
báo cho người ta biết. Vì thứ gỗ quý ấy đã cứu được bao nhiêu người khỏi chết
oan.
Nhân dân gọi giống cây
lạ ấy là cây Kim Giao.
71. SỰ TÍCH ĐẢO
THUYỀN VÀ CHIM BÓI CÁ
Ngày ấy, đã lâu lắm rồi
không biết bao nhiêu mùa trăng tròn trăng khuyết. Trên đảo Palatinh có một gia
đình thật nghèo, nghèo xác nghèo xơ. Nhà chỉ có ba người, hai vợ chồng và một
đứa con trai thế mà quanh năm đầu tắt mặt tối, bữa đói bữa no. Nhưng nỗi khổ cứ
đeo đẳng mãi. Đang yên lành người chồng bỗng lăn ra ốm rồi sớm qua đời để lại
con thơ vợ dại. Trong túp lều chông chênh dột nát giò chỉ còn lại hai mẹ con
sớm hôm rau cháo tần tảo nuôi nhau. Người mẹ trẻ vẫn còn chút nhan sắc nên vẫn
còn nhiều người rào đón đẩy đưa nhưng người mẹ vẫn cứ thắt lưng buộc bụng ở vậy
nuôi con khôn lớn.
Bao mùa hoa nở hoa tàn,
thấm thoắt đứa con trai đã thành một chàng trai khoẻ mạnh. Anh ta bỏ nhà ra
sông chèo thuyền kiếm sống, cuộc sống của anh ta ngày càng khấm khá. Nhưng tiền
bạc càng nhiều thì tình nghĩa mẹ con ngày càng vơi đi, anh ta dần quên bà mẹ
già còm cõi ngày đêm mong ngóng đứa con yêu. Chẳng thấy con trai về thăm nhà đỡ
đần gạo thóc, bà mẹ phải nhờ vả hàng xóm láng giềng, khi thì ngọn rau, khi thì
hạt muối, mà chưa bao giờ bà phàn nàn về con cả. Hễ có ai trách móc con trai thì
bà lại tìm mọi lý lẽ để bênh con: "Tôi
biết nó chẳng bao giờ bỏ tôi đâu. Chắc là tại công việc nhiều quá, không nhờ ai
làm hộ mà về nhà được".
Còn người con trai, nhờ
công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió mà ngày càng có nhiều tiền của. Dần dần
anh ta cũng gom góp đủ tiền để mua một chiếc thuyền lớn để chở hàng. Từ khi có
thuyền lớn lại có nhiều vốn nên anh ta thuê người ăn kẻ làm, mua vào bán ra nên
giàu lên trông thấy. Trở thành ông chủ, anh ta cưới một cô vợ nõn nà. Bên người
vợ trẻ xinh đẹp vui thú với chuyện gia đình, anh ta quên hẳn bà mẹ già héo hắt
vẫn một mực thương con ngày đêm mong ngóng. Ham những chuyến buôn dài ngày trên
biển anh ta quên bặt làng xóm quê hương.
Rồi một hôm, cảnh trời
non nước bao la, tình cờ gợi nhớ đến trong hắn cảnh bến đò con sông và những
ngày ở đợ cho người. Hắn cho thuyền ngược dòng trở về đến sông xưa. Có vài
người nhận ra hắn là người cùng làng xóm, người trước đây từng chở đò thuê ở
bến sông này. Ai ai cũng ngỡ ngàng thấy hắn là một ông chủ bệ vệ đứng bên người
vợ xinh đẹp lụa là óng ả, vàng bạc giắt đầy người. Người ta trầm trồ khen anh
giàu có, khen hắn tài ba và không tiếc lời khen chiếc thuyền có nhiều cánh buồm
lớn của hắn. Có người nhanh chân đã chạy về báo cho bà mẹ biết rằng đứa con
trai làm ăn phát đạt của bà đã trở về.
Sau bao năm mòn mỏi
ngóng tin con giờ thì người mẹ trẻ năm xưa đã già yếu lắm. Được tin con, bà run
rẩy khóc rồi lập cập ra bờ sông, bà đi không vững, chân cẳng yếu ớt nên cứ vấp
hoài, ngã dúi ngã dụi. Cuối cùng bà cũng ra được bến sông. Đứng trên bờ chăm
chăm nhìn xuống thuyền nhưng không thấy con tàu vì mắt bà đã lòa. Mọi người
thấy vậy thương bà quá nên dìu bà xuống bến. Bà gọi tên con trong tiếng nấc
nghẹo ngào: - Con trai yêu quý của mẹ,
con trai bé bỏng hãy đến đây với mẹ nào. Mẹ nhớ con quá. Tiếng gọi của bà
mẹ vọng đến con thuyền. Ông chủ thuyền ló đầu ra ngoài nhìn thấy một bà già gầy
guộc, móm mém, đầu tóc bạc phơ, quần áo bẩn thỉu vá chằng vá đụp thì hắn cảm
thấy ngại ngùng.
Thấy chồng treo lên
boang, cô vợ trẻ cũng lên theo. Cô nhìn lên bờ hỏi: - Bà già bẩn thỉu kia gọi ai đấy, có phải gọi anh không? Những người
làm công, những nhà buôn lớn là những bạn hàng của ông chủ nghe thấy xôn xao
cũng đổ xô cả lên boang để xem có chuyện lạ gì. Ông chủ thuyền bỗng cảm thấy
xấu hổ trước mặt mọi người, hắn sợ không dám nhận bà già rách rưới tiều tuỵ kia
là mẹ. Tay chống nạnh, ông chủ hướng lên bờ
quát: - Này bà già lẫn cẫn kia, ở đây có
ai là con bà đâu mà bà gọi, bà hãy đi ra chỗ khác đi.
Nghe thấy con trai nói
thế, bà mẹ đau đớn như bị cắt từng khúc ruột. Song bà vẫn cố níu kéo con trai.
- Trời ơi, con tôi, nỡ lòng nào con đối
với mẹ tàn tệ vậy. Mấy chục năm trời mẹ đau đáu mong con. Giá không đợi con về
thì mẹ đã chết lâu rồi. Nhưng hắn không muốn để vào tai những lời bà mẹ già
nói nữa. Hắn ta sai người lên bờ đuổi bà cụ đi chỗ khác để khỏi vướng chân
những người bốc dỡ hàng.
Đến nước này thì bà thôi
không khóc nữa. Bà mẹ nâng vạt áo rách lên lau mắt lầm rầm nguyền rủa thằng con
bất hiếu của mình: - Hỡi trời cao đất
dày, hãy nghe lời nguyền của con. Con đã mang nặng đẻ đau, con đã vắt cạn kiệt
sức của bản thân để nuôi cái thằng khốn kiếp kia. Giờ đây con xin trời hãy
trừng phạt nó. Hỡi dòng sông quê hương hãy dìm con thuyền kia dưới lớp sóng của
Người. Tức thì phong ba bão tố nổi lên ầm ầm, sấm rung lòng đất, chớp giật
xé rách bầu trời, mưa đổ xuống xối xả. Chiếc thuyền buôn lớn ngả nghiêng dềnh
lên dập xuống, những cột buồm gãy gục, lá buồm rách tả tơi. Chiếc thuyền ngập
nước từ từ chìm xuống. Tên chủ thuyền cố sức leo lên được ngọn cột buồm lúc ấy đang
còn chơi vơi trên mặt nước. Hắn hướng bộ mặt tái nhợt lên bờ van xin: - Con lạy mẹ, mẹ tha tội chết cho con. Hắn
gào lên thảm thiết - Mẹ, mẹ ơi. Nhưng
bà mẹ cắn răng ngoảnh mặt đi. Không một tiếng van xin nào lay chuyển được lòng
bà nữa. Bà bước thấp bước cao mặc cho mưa gió gào thét, bà trở về túp lều bé
nhỏ của mình.
Chiếc thuyền cùng với
hắn chìm nghỉm xuống đáy dòng sông. Sau khi bị chết, hắn hoá thành con chim bói
cá xanh lè. Cho đến bây giờ, con chim vẫn bay dọc bờ sông luôn miệng gọi "Mẹ ơi, mẹ ơi" tiếng kêu như sám
hối. Còn chiếc thuyền đầy của cải kia sau khi chìm xuống bị bùn đất lấp lên dần
dần thành một hòn đảo nhỏ. Và cái tên Đảo Thuyền có từ đó.
72. SỰ TÍCH CÂY THÌ
LÀ
Ngày xửa ngày xưa, đã
lâu lắm rồi, khi ấy tất cả muôn loài chim thú, cây cỏ đều chưa còn có tên gọi.
Một hôm nọ, ông Trời cho tập hợp tất cả các loài cây cỏ lại để ban cho mỗi
loài một cái tên. Thôi thì phải biết, các loại cây đều giành nhau đến trước để
được đặt tên theo ý mình mong muốn. Cây dịu dàng toả hương, thích được gọi tên
mình là lan.
Cây õng ẹo múa nhịp nhàng, xin được đặt tên là tóc tiên.
Cây hiên ngang đi đứng, được gọi là thông.
Các loại rau, cỏ cũng vậy chen chúc nhau nài nỉ để ông trời đặt cho mình những
cái tên thật đẹp như quế, dấp cá, tía tô, húng...
Cho đến cuối ngày, khi các cây cỏ đều đã được đặt tên, hoan hỉ về hết, ông Trời
cũng đã mệt thiu thiu vào giấc ngủ chợt có một cây nho nhỏ lúc đó mới hớt ha
hớt hải chạy đến, xin tên gì cũng được vì nó phải chăm sóc bà bị bệnh nên không
thể đến sớm được. Ông Trời thấy lòng hiếu thảo của nó thật đáng cảm động nên
không trách phạt nhưng nghĩ mãi, nghĩ mãi mà vẫn không ra được cái tên gì nữa,
cho nên ông cứ ngập ngừng mãi: - Tên của con là... thì là...thì là...
Nhành cây mới chỉ nghe
đến vậy, mừng quá hét toáng lên: - Ôi tôi có tên rồi! Tôi là Thì Là!
Nó vui quá vội vàng cám
ơn ông Trời rồi chạy nhanh về nhà khoe với bà và bạn bè cái tên mới được Trời
ban cho mình. Từ đó, muôn loài gọi nó là cây thì là hay là thìa là. Tuy rằng
cái tên đó rất buồn cười, nhưng không một loài nào chế diễu, bởi vì lòng hiếu
thảo của nó đã hơn tất cả các loại cây khác rồi”.
73. SỰ TÍCH CÂY LÚA
Ngày xưa, con người sống
rất khổ họ không có ăn mặc chỉ độc có chiếc khố, họ cũng không biết ăn cơm mà
chỉ ăn rau rừng quả dại cho qua ngày đoạn tháng. Họ sống lang thang hết vùng
này đến vùng nọ. Nơi nào có nhiều rau quả thì họ dựng lều ở tạm. Khi nào ở đó
hết thức ăn thì lại dắt nhau đi nơi khác.
Con người sinh sôi ngày
một đông còn thức ăn ngày một ít đi, hơn nữa họ đi đến đâu là tàn phá rừng đến
đấy, cuộc sống của họ ngày càng chật vật khó khăn. Năm ấy thời tiết không thuận
hoà, thức ăn ít hẳn nên mọi người đều bị đói. Nhiều người phải bỏ đi thật xa.
Trong số ấy có hai vợ chồng trẻ cũng không chịu được cảnh cơ hàn nên dắt díu
nhau vào rừng sâu để sinh sống. Họ đi mãi chân đã mỏi, bụng đói cồn cào mà vẫn
chưa tìm được chỗ nghỉ chân. Đến chiều tối thấy một đàn chim sà xuống một vùng
cỏ nâu vàng, họ dừng lại và dựng một túp lều con tạm nghỉ ở đó.
Hàng ngày vợ lên núi
kiếm rau tìm quả dại, còn chồng đặt bẫy bắt chim. Cuộc sống tạm ổn. Những con
chim họ bắt được đều ăn một loại hạt màu vàng. Thấy chim ăn hạt màu vàng lại
béo, thịt ngon, vợ liền nói với chồng: - Thứ hạt chim ăn được chắc người cũng
ăn được đấy. Chồng gật đầu đồng tình, rồi họ ăn thử thấy thơm ngon và ăn vào no
lâu hơn ăn rau rừng. Một thời gian ăn hạt đó họ thấy người khoẻ ra.
Hai vợ chồng ra rừng lấy
hạt ấy về để ăn dần. Năm tháng trôi qua người cùng chim ăn nhiều nên hạt ấy
cũng ít đi. Hai vợ chồng thử trồng một ít thứ hạt màu vàng đó ở gần túp lều, họ
thấy cây này ngày càng xanh tốt. Đến ngày thu lượm họ thấy trồng một hạt lại
thu được cả chùm hạt. Năm sau họ lại trồng nhiều hơn năm trước. Cứ thế họ không
phải hái rau rừng ăn nữa mà dùng hạt thay rau.
Sau vài năm mưa thuận
gió hoà hai vợ chồng thu hoạch được rất nhiều hạt này. Ăn không hết họ bàn nhau
đưa hạt đó về cho người quen cũ trồng.
Sau bao ngày đêm vất vả
lội suối băng rừng, cuối cùng hai vợ chồng cũng tìm được người quen ở một vùng
xa xôi. Hai vợ chồng kể lại cách sinh sống làm ăn của mình trong mấy năm qua ở
vùng rừng nọ và đưa cho mọi người những hạt vàng làm giống. Mọi người cảm ơn
hai vợ chồng tốt bụng đã gặp may tìm được loại hạt vàng ăn thay rau rừng lại
còn lấy được giống cho mọi người cùng trồng. Hạt vàng đó chính là hạt lúa ngày
nay.
74. SỰ TÍCH CON SAM
Xưa kia, ở một làng chài
nọ, có một đôi vợ chồng đánh cá nghèo rất mực thương yêu nhau. Hôm đó, như
thường lệ người chồng cùng trai tráng trong làng ra khơi. Không may, trong lúc
họ thả lưới, một trận bão lớn nổi lên. Không còn ai sống sót trở về.
Tin dữ lan đi, dân làng
đều rất đau xót. Vợ mất chồng, con mất cha, cả làng than khóc mất mấy ngày mấy
đêm. Người đàn bà tuy rất đau khổ nhưng vẫn một mực tin chồng mình còn sống.
Chị bỏ làng ra đi tìm chồng. Chị đi theo bờ biển, đi mãi, đi mãi nhưng biết tìm
ở đâu bây giờ. Khi tưởng như tất cả đã trở nên vô vọng, chị đến chân một ngọn
núi lớn. Chị lấy hết sức trèo lên ngọn núi, phóng tầm mắt ra hy vọng sẽ tìm
thấy dấu hiệu của chồng mình. Cuối cùng, do mệt quá, chị đã ngủ thiếp đi dưới
một gốc cây. Trong giấc mơ, chị gặp thần cây. Sau khi nghe chi kể rõ đầu đuôi
câu chuyện, thần cây đưa cho chị một viên ngọc và bảo: "Ta thấy chồng ngươi vẫn còn sống và đang ở
ngoài hải đảo. Nay ta cho ngươi viên ngọc này. Ngậm nó vào miệng và nhắm mắt
lại, nhà ngươi sẽ bay được qua biển để gặp chồng. Nhưng nhớ, tuyệt đối không
được mở mắt, há miệng ra, rơi ngọc là nguy đấy". Chị choàng tỉnh giấc,
biết mình nằm mơ. Kỳ lạ thay, viên ngọc của thần cây trong mơ đang sáng lóng
lánh trên tay chị. Chị lấy ngọc ngậm vào miệng và nhắm mắt lại như lời thần cây
dặn. Bỗng nhiên, trời nổi gió ù ù. Chị thấy người mình nhẹ bỗng. Một lúc sau
thì chân chị chạm đất. Mở mắt ra, chị thấy mình đang đứng ở một nơi hoang vắng
lạ lùng. Tìm kiếm hồi lâu, chị đã tìm thấy chồng. Vợ chồng gặp nhau chuyện trò
không dứt. Họ muốn quay về làng cũ thì chị vợ chỉ có một viên ngọc. Suy nghĩ
hồi lâu, hai vợ chồng quyết định là người chồng sẽ ôm ngang lưng vợ cùng bay
qua biển. Người vợ do tìm lại được chồng, lòng vui sướng không tả xiết nên đã
quên mất lời thần cây dặn. Đang đi đến giữa biển chị mở mồm hỏi chuyện chồng.
Viên ngọc văng ra giữa không trung rồi rơi mất hút. Chị vợ chỉ kịp kêu lên một
tiếng rồi cả hai vợ chồng cùng rơi xuống biển. Họ hoá thành những con sam. Ngày
nay, người ta thấy những con sam thường đi cặp đôi dưới nước và lúc nào cũng
con sam đực ôm lấy con sam cái như khi chồng ôm vợ bay qua biển.
75. SỰ TÍCH CON DẾ
Ngày xưa, có một người
đàn ông có hai vợ. Vợ cả có một người con trai tên là Văn Linh. Vợ lẽ cũng có
một con trai đặt tên là Văn Lang. Văn Lang hơn Văn Linh năm tuổi nên là anh,
còn Văn Linh là em. Hai anh em tuy khác mẹ nhưng rất yêu thương nhau. Chẳng may
vợ cả đổ bệnh, mất sớm. Từ đó hai anh em lại càng thương yêu nhau hơn. Nhưng vợ
hai lại trái ngược lại với con trai mình, rất thù ghét Văn Linh. Hai anh em lớn
lên bên nhau. Văn Linh thì theo nghiệp đèn sách. Còn Văn Lang thì theo cha theo
nghiệp cày cấy. Nhà họ vốn không phải giàu có lắm nhưng cũng là một trong số ít
nhà có của ăn của để trong vùng.
Đột nhiên, người cha ốm
nặng qua đời. Trước kia, khi người cha còn sống thì mụ dì ghẻ còn dè chừng.
Nay, người cha đã mất, mụ càng ngày càng lộ rõ dã tâm. Ban đầu thì còn đối đãi
với Văn Linh tử tế, dù chỉ là ngoài mặt. Nhưng sau mụ ngày càng quá đáng, luôn
tìm cách xỉa xói, nói bóng nói gió với Văn Linh. Văn Linh cũng lờ mờ thấy khó
hiểu trong cách cư xử của mẹ kế trong thời gian gần đây, nhưng vốn hiền lành,
không quen thói chấp vặt, chàng toàn bỏ qua. Về phần Văn Lang, biết mẹ mình
không ưa gì Văn Linh, chàng càng yêu quý em hơn.
Nhưng mụ dì ghẻ vì loá
mắt trước gia sản chồng để lại, muốn độc chiếm lấy cho hai mẹ con mụ, mụ đã nảy
dã tâm muốn giết chết Văn Linh. Nghĩ là làm, một hôm, mụ sai hai anh em mang
tiền đi mua gỗ. Trước khi đi, mụ gọi con đẻ của mình vào buồng riêng dặn dò: - Con ơi, vào nơi rừng sâu heo hút, con lại
khoẻ hơn nó, con hãy tìm cách giết nó đi. Sẽ không ai nghi ngờ gì con cả. Nó mà
sống thì mẹ con ta không có tấc đất cắm dùi. Ngược lại, nó chết đi thì cả cơ
ngơi này sẽ về tay mẹ con ta. Thực lòng, Văn Lang không muốn làm theo lời
mẹ nhưng chàng cũng không muốn làm phật ý mẹ. Chẳng còn cách nào, chàng giả
tảng vâng lời, khăn gói cùng Văn Linh lên đường. Đến cửa rừng, Văn Lang nói
thật cho Văn Linh biết mọi việc rồi bảo em cầm tiền mua gỗ của cả hai trốn đi,
đừng trở về nữa. Nếu có duyên, anh em sẽ gặp lại nhau.
Văn Linh từ giã Văn Lang
rồi rẽ sang hướng khác. Đợi khi Văn Linh đi khuất, Văn Lang giết một con chó
rồi lấy máu bôi khắp nơi. Đoạn anh trở về nói với mẹ mình rằng mình đã hạ thủ
Văn Linh ở trong rứng sâu rồi quăng cho chó ăn thịt rồi. Mặt khác, chàng nói
với mọi người trong làng là em mình đã bị hổ vồ mất tích. Xóm làng không ai
nghi ngờ gì vì từ trước đến nay chàng cùng Văn Linh sống rất hoà thuận, chưa
bao giờ to tiếng điều gì. Còn mụ dì ghẻ thì hí ha hí hửng, cho rằng mưu mình đã
thành, sớm ngày ăn no ngủ kỹ, không còn lo nghĩ gì nữa.
Về phần Văn Linh, sau
khi đau khổ từ giã Văn Lang thì không biết đi đâu. Từ bé đến lớn,chàng chỉ biết
mỗi việc đèn sách, đã đi xa thế này bao giờ đâu. Chàng lo lắm, trời thì cứ mỗi
ngày một tối dần. Loanh quanh mãi không biết đi đâu, chàng tìm đường về mộ mẹ
than khóc một lúc rồi ngủ quên lúc nào không biết. Mẹ chàng dưới mồ thấy tình
cảnh con mình như vậy thì thương lắm. Bà hiện hồn lên, hoá thành con chim
phượng hoàng lớn ấp chàng vào đôi cánh. Khi trời tang tảng sáng, phượng hoàng
quắp lấy Văn Linh bay đến một hòn núi cao. Đặt Văn Linh xuống một chỗ đất bằng,
phượng hoàng hoá phép ra nhà cửa và mọi thứ đồ ăn thức uống khác. Một lúc sau,
Văn Linh tỉnh dậy. Chàng sửng sốt không biết mình đang ở đâu và sao bên chàng
lại có một con phượng hoàng lớn như thế. Chàng đứng dậy toan bỏ chạy thì phượng
hoàng lên tiếng: - Con đừng sợ, ta là mẹ
con đây. Con chớ tìm đường về mà nguy hiểm. Hãy ở lại đây chuyên tâm đèn sách,
hàng ngày mẹ sẽ đến với con.
Cứ thế, ngày nào cũng
vậy, cứ ban ngày thì phượng hoàng biến đi, nhưng ban đêm, nó lại bay đến chỗ
Văn Linh để bảo vệ cho chàng. Tới mờ sáng, nó đánh thức chàng dậy rồi mới bay
đi. Được gần mẹ, Văn Linh vui lắm, chàng học hành ngày càng tấn tới, tiến bộ rõ
rệt so với trước đây.
Bây giờ, ở dưới núi có
một xóm nhỏ. Nhà cửa ở đó rất thưa thớt, dân cứ sống rải rác. Trong xóm đó, có
một con gái người đẹp như hoa tên là Ngọc Châu. Nàng sống với một người hầu gái
nữa. Hai người sống nương tựa vào nhau trong một ngôi nhà nhỏ, lấy nghề dệt vải
nuôi thân. Từ khi Văn Linh đến sống trên núi, hai cô gái rất lấy làm lạ bởi từ
trước tới nay đỉnh núi làm gì có người ở. Thế mà bây giờ ngày nào hai cô cũng
nghe thấy tiếng học trò đọc sách suốt ngày.
Một hôm, Ngọc Châu cố
tình làm tắt lửa để có cớ sai nàng hầu lên núi xin lửa anh học trò. Văn Linh
đang ngồi học bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Chàng mở cửa, thấy một cô gái. Sau
khi cho lửa, anh hỏi xin cô gái một ít dầu để thắp đèn vì dầu nhà anh đã cạn.
Nàng hầu chỉ nhà cho anh xuống lấy. Nhờ đó, anh quen với Ngọc Châu. Rồi từ chỗ
quen biết, hai người dần trở nên thân thiết tới mức không thể xa nhau được. Kết
quả của sự thân thiết đó là họ trở thành vợ chồng. Từ đó, chàng đọc sách, nàng
quay sợi. Cảnh đầm ấm ấy thật không ai hơn được.
Năm năm dùi mài kinh sử
đã qua. Văn Linh lều chõng đi thi. Chàng rất tự tin và kết quả đã đỗ Trạng
Nguyên. Hôm vinh quy, cờ quạt chiêng trống rầm rộ kéo về quê. Thấy em vinh hiển
trở về, Văn Lang hết sức mừng rỡ. Trong khi đó, mụ dì ghẻ đột ngột nghe tin đã
không tìn vào tai mình nữa. Phần vì tức tối, phần vì sợ hãi, mụ vỡ mật lăn ra
chết, hoá thành con dế. Vì mụ chết vào đúng tháng Tám nên hàng năm cứ vào tháng
này, ta lại nghe tiếng dế kêu. Đó chính là mụ dì ghẻ đang tức tối kêu lên những
tràng âm thanh vô vọng. Thật đáng đời những kẻ độc địa nham hiểm.
76. SỰ TÍCH THÁP BÁO
ÂN
Ngày xưa, ở một làng nọ
có một đôi vợ chồng phú ông sinh được một cô con gái. Cô gái vừa đẹp người, vừa
đẹp nết, ai ai cũng yêu quý. Vì nhà có nuôi thầy dạy học cho con trai, lại thấy
con gái nhanh nhẹn, thông minh, phú ông cũng cho con gái theo đòi nghiên bút.
Cô gái quả thật rất thông minh, học hành tấn tới, chẳng bao lâu đã thông kinh
sách.
Tiếng lành đồn xa. Sắc
đẹp, tài học của cô con gái nhà phú ông đã lan khắp các vùng lân cận. Đã có rất
nhiều công tử con nhà giàu có quyền quý tới dạm hỏi, nhưng phú ông chưa đồng ý
ai. Ông luôn tự nhủ sẽ không gả con gái cho những kẻ phàm phu, tục tử, kẻo uổng
phí xuân xanh một đời.
Thế là mặc dù đã có rất
nhiều đám dạm hỏi nhưng cô gái vẫn chưa hề nghĩ gì tới chuyện trăm năm của mình
mà chỉ suốt ngày chú tâm học hành, thơ phú cô làm ra khó có ai theo kịp. Nhưng
trớ trêu thay, cô gái xinh đẹp tuyệt trần ấy lại mang trong mình một chứng bệnh
mà thấy thuốc nào cũng phải lắc đầu bó tay: đó là bệnh hủi. Ngày cô mới bị
bệnh, cô còn giấu kín không cho ai biết. Nhưng sau, những chỗ sưng thối lở loét
bắt đầu hành hạ khiến cô không thể che mắt thiên hạ được nữa. Thấy bệnh tật của
con gái bị bà con hàng xóm xì xào, hơn nữa đây cũng là một căn bệnh rất dễ lây nên mặc dù rất đau xót,
vợ chồng phú ông đành phải làm một ngôi nhà bên cạnh đường, cách xa ngôi làng
để cô sống cách biệt. Sợi dây liên lạc duy nhất của cô với thế giới bên ngoài,
với cha mẹ cô là cô hầu gái thỉnh thoảng mang gạo nuôi, tiền nong đến cho cô
chi dùng hàng ngày. Cứ như thế, cô gái xấu số nọ chịu nhận một cuộc sống cô đơn
buồn rầu đã hơn một năm.
Năm ấy, đến khoa thi,
chỗ cô ở vốn tách biệt với xóm làng nên những ngày ấy cũng không tấp nập gì
hơn. Một hôm, trời bỗng đổ cơn mưa. Mưa rất to và kéo dài mãi đến tận khuya.
Khi ngoài trời đang mưa tầm tã như vậy, cô đột nhiên nghe có tiếng gọi cổng của
một người con trai. Thấy người lạ, cô gái nói vọng ra: - Ai đó? Hãy đi tìm chỗ khác mà trọ, ở đây nhà cửa chật chội lắm, không ở
được đâu. - Tôi là học trò họ Trần đang trên đường đi thi thì gặp trời mưa. Xin
cô làm ơn cho tôi vào hơ nóng, tôi lạnh quá, mưa ướt hết cả rồi.- Anh học
trò nài nỉ. - Tôi là phận nữ nhi, nhà lại
vắng vẻ không tiện mời khách vào. Xin hãy gắng đi một đoạn nữa, sẽ có chỗ trọ.
Vẫn với giọng nài nỉ như thế, anh học trò tiếp: - Làng xóm vẫn còn xa quá, xin cho nghỉ lại một lát, nếu thấy không tiện,
tôi sẽ đi ngay. Thấy giọng có vẻ cầu khẩn, hơn nữa khách lại xưng là con
nhà lễ giáo, có học, cô gái động lòng thương, bèn ra mở cửa cho vào.
Dưới ánh đèn, cô thấy
người khách là một chàng trai chừng hai mươi tuổi, dáng dấp nho nhã, ăn nói lễ
phép. Cô không nỡ từ chối nên tươi cười: - Bố
mẹ tôi đều đi vắng cả, chỉ có mình tôi ở nhà. Người xưa có câu "Nam nữ
thận trọng từ cái trao tay", mời chàng trọ lại đây cũng thật bất tiện
nhưng thấy chàng đi đường xa mệt nhọc, ướt át, tôi chẳng dám khăng khăng giữ
lễ. Vậy mời chàng nghỉ lại đây, có gì tôi xin giúp đỡ. Nói rồi, cô đốt lửa
cho khách sưởi, thổi cơm cho khách ăn. Anh học trò thấy cô gái mặt mũi xinh
đẹp, ăn nói khéo léo, lại có vẻ con nhà tử tế, có học, rất lấy làm cảm mến. Anh
bèn nói: - Cô đã không câu nệ, hết lòng
giúp đỡ một học trò như tôi, tôi chẳng dám quên ơn. Tôi cũng không ngờ cô lại
theo nghiệp đèn sách. Mạn phép xin hỏi chẳng hay cô là con cái nhà ai, bố mẹ
làm gì?
Cô kể cho anh học trò
nghe tất cả về gia đình và bản thân, trừ căn bệnh của mình. Sau khi biết được
về cô, lại thấy cô học giỏi, anh học trò bèn cùng xô xướng hoạ. Hai bên đối đáp
tới khuya, chuyện trò có vẻ rất tâm đầu, ý hợp. Từ chỗ quý mến, anh học trò yêu
cô lúc nào không biết. Thấy cô chỉ có một mình, anh đâm bạo dạn ngỏ lời đính ước.
Cô gái cũng rất quý mến anh học trò, nhưng lại nghĩ mình bệnh tật, thương thân
tủi phận, cô gái rơi nước mắt, nói: - Thiếp
phận mỏng không đáng là kẻ nâng khăn sửa túi cho chàng. Xin chàng hãy để tâmvào
việc thi cử, lo cho con đường công danh trước đã. Sau này khi chàng trở về cũng
chưa muộn. Anh học trò không biết ẩn tình ra sao, lại gần cô gái khuyên dỗ.
Càng dỗ dành, cô gái càng lã chã nước mắt. Cuối cùng, anh học trò không cầm
được lòng mình đã nắm lấy tay cô. Cô tuy e lệ nhưng cũng không từ chối. Hai bên
đính ước và coi nhau như vợ chồng.
Sáng hôm sau, anh từ giã
cô ra đi. Trước khi chia tay, anh hẹn: - Ta
và nàng đã đính ước, xin nàng hãy đợi ta. Chuyến này, dù đỗ hay hỏng, ta cũng
sẽ nhờ người đưa "tục lễ" đến rước nàng về làm vợ ta.
Sau khi anh học trò ra
đi, cô gái nghĩ đến số phận hẩm hiu của mình thì vô cùng đau khổ. Cô tự nhủ: - Chàng đâu có biết ta đang bệnh hoạn khốn khổ
thế này. Nhưng ta cũng đâu có thể giấu chàng mãi được. Thế nào khi chàng quay
lại đây, chàng cũng sẽ biết. Lúc đó, ta đâu còn mặt mũi nào nữa. Chẳng thà chết
quách đi còn hơn.
Suốt cả ngày hôm sau, cô
gái vừa tưởng nhớ chàng trai, vừa tuyệt vọng. Nhiều khi cô định phó mặc cho số
phận, định rằng sẽ kể hết cho chàng về bệnh tình của mình khi chàng quay về
nhưng rồi cô lại thấy mình không thể. Cứ thế, cứ thế, cô sống trong đau khổ dày
vò trong mấy ngày liền. Trong một cơn phẫn chí đến cực độ, cô không làm chủ
được, bỗng dưng ngất đi, hồn lìa khỏi xác lúc nào không biết.
Mấy ngày sau, vợ chồng
phú ông mới hay tin. Ai ai cũng đau xót, than khóc hồi lâu rồi an táng người
bạc mệnh ở ngay ngôi nhà của cô.
Lại nói chuyện anh học
trò sau khi từ giã cô gái đã đi liền mấy ngày đến trường thi. Không lúc nào
hình ảnh cô gái tài hoa đêm ấy lại không hiện lên trong tâm trí anh. Vào trường
thi, từ đầu đến cuối, anh làm bài rất trôi chảy. Nhưng đến cuối bài, có một câu
khá hóc búa. Anh ngậm bút mãi, cuối cùng cũng viết thành bài nhưng không được
như ý lắm, đôi chỗ vẫn còn sai sót.
Lúc ông chủ khảo chấm
bài, đến bài của anh học trò kia, ông thấy không đạt. Sắp hạ bút xuống phê chữ
"sổ" (bỏ) chủ khảo bỗng thấy tay mình không cử động được, dường như
có ai đó giữ tay ông lại. Ông đành bỏ bút xuồng rồi đi nghỉ. Đang lúc mơ màng,
ông thấy có một cô gái xinh đẹp tiến lại chỗ ông, chắp tay vái lia lịa, giọng
run run cầu khẩn: - Xin ngài làm ơn rộng
bút cho. Đây là quyển thi của chồng tôi, Tôi xin ngài giúp. Tỉnh dậy, chủ
khảo rất lấy làm lạ. Ông đọc lại bài văn một lần nữa và lần này cũng không hơn
gì, ông hạ bút toan đánh hỏng. Bỗng nhiên, cây bút rơi xuống đất. Ông định cúi
xuống nhặt lên thì tự nhiên tay chân mệt mỏi rã rời, hai mắt díp lại. Ông lại
chìm vào giấc ngủ. Bóng cô gái lại hiện ra trước mặt, một hai xin ông vớt lấy
quyển văn ấy. Chủ khảo giật mình tỉnh dậy. Hết sức ngạc nhiên, ông lẩm bẩm: - Chắc là nhà thí sinh này có âm hồn nào theo
đây. Âm hồn đã hiện về hai lần thế này làm ta không nỡ thẳng tay. Nghĩ vậy,
cuối cùng ông cũng vớt cho đỗ.
Trước khi vinh quy, tân
khoa họ Trần cùng các bạn đến chào chủ khảo. Ông này lưu một mình tân khoa lại,
hỏi: - Anh đã có vợ chưa? - Thưa chưa
- Anh đáp. Quan chủ khảo: - Tôi hỏi hơi
tò mò, thế nhà anh có ai mới qua đời không? - Dạ thưa không. Thấy vậy, chủ
khảo bèn kể cho anh nghe chuyện một cô gái hai lần đến báo mộng khi ông chấm
bài. Sau này, khi ráp phách, ông mới biết đó là bài văn của anh. Ông còn nói
thêm rằng đáng lẽ anh không được đỗ, tất cả đều nhờ cô gái ấy. Anh ngồi ngẫm
nghĩ hồi lâu nhưng vẫn không hiểu ra sao. Anh đành cáo từ chủ khảo ra về. Lần
vinh quy ấy, tân khoa họ Trần nhắn người nhà sắm thêm một chiếc võng nữa để khi
qua nhà người yêu, anh đón nàng về luôn thể.
Về đến nơi, khi vừa xô
cổng bước vào, anh giật mình khi thấy một ngôi mộ còn chưa xanh cỏ nằm lù lù
giữa nhà. Tân khoa hãi hùng khi nghĩ rằng lần trước mình đã gặp phải ma. Sau
khi trấn tĩnh lại, anh sai người đi dò hỏi. Người nhà trở về báo cho anh biết
đó là mộ của con gái nhà phú nông. Cô gái ấy bị hủi phải ra chỗ này, mới mất
nửa tháng trước. Nhẩm tính lại, anh thấy người yêu mới mất sau khi anh đi mấy
ngày. Sực nhớ tới câu chuyện của chủ khảo, anh bỗng rơi nước mắt. Thì ra chính
nàng đã theo anh tới kinh kỳ, giúp anh không bị đánh hỏng.
Sau khi vinh quy bái tổ,
anh quay trở lại nhà phú ông kể hết đầu đuôi câu chuyện. Anh cũng thưa luôn: - Một ngày cũng là nghĩa. Xin ông cho tôi được
làm rể mặc dù nàng đã không còn nữa.
Phú ông rất bất ngờ. Lúc
đầu ông còn từ chối không dám nhận nhưng sau thấy quan tâm khoa nài mãi, ông
cũng đành nhận. Bây giờ, anh mới sắm sửa một lễ tế trọng thể, đưa đến nhà nàng
lấy danh nghĩa vợ chồng để tế vợ. Lại thuê thợ xây bên cạnh ngôi mộ nàng một
cái tháp, trong lòng có đề mấy chữ: "Cô...
là vợ của tiến sĩ họ Trần". Dân quanh vùng vẫn gọi tháp ấy là tháp báo
ân.
77. SỰ TÍCH CON CHẪU
CHUỘC
Xưa kia, ở xứ Thanh có
một lão nhà giàu rất ki bo, kiệt xỉ. Lão ta nuôi một anh cố nông hiền lành,
khoẻ mạnh. Cha mẹ anh mất sớm, chẳng để lại cho anh cái gì ngoài túp lều rách
và một chiếc chõng tre.
Vào một ngày cuối năm,
anh xin lão nhà giàu về nhà để hương khói, cúng bái cho đỡ tủi vong linh của
cha mẹ. Lão nhà giàu đong cho anh năm bát gạo rồi cho anh về. Về đến nhà, anh
định đem số gạo đó nấu cơm cúng nhưng ngặt nỗi không có củi. Sang hàng xóm xin
được một ôm rạ, anh nấu được cơm cúng. "Chẳng lẽ lại chỉ cúng cơm không. Phải có thêm thức ăn nữa chứ".
Nghĩ vậy, anh sang hàng xóm mượn chiếc rổ và cái gàu sòng đi tát nước.
Lúc đó đã gần nửa đêm ba
mươi Tết. Thường lệ vào cuối năm cũ, đầu năm mới, Ngọc Hoàng sai các quan trên
thượng giới xuống trần gian xem xét mọi việc. Đến cánh đồng nơi anh cố nông
đang tát cá, các quan hạ mây bước xuống. Rất lấy làm ngạc nhiên, các quan hỏi: - Anh kia! Năm hết tết đến không ở nhà ăn
tết lại còn "bì bõm" ở đây làm gì? Nghe có người hỏi, anh dừng
tay hỏi lại: - Thế các người là ai? - Ta
là các quan trên thượng giới được Ngọc Hoàng sai xuống xem dân tình ăn tết ra
sao. Nghe nói đến "các quan trên thượng giới", anh tức giận vô
cùng. Sẵn có gầu sòng, anh trở cán nện cho mỗi quan ba cái. Vừa đánh, anh vừa
nói: - Trời bảo "ai giàu ba họ, ai
khó ba đời". Vậy mà nhà tao khổ suốt bốn năm đời này rồi mà vẫn chưa hết
khổ. Tao gửi cho trời mấy cái đạp để mà nhớ lấy. Các quan bị đánh đau quá
vội chạy về tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng nghe kể xong vội mở sổ ra tra xét
thì quả thấy có điều bất công ấy thật. Vậy mà lâu nay các quan không thèm để ý
tới. Anh chàng kia đã khổ quá ba đời, còn tên nhà giàu đúng là đã sướng quá ba
đời. Ngọc Hoàng cần phải sửa lại sai sót đó.
Lại nói chuyện anh cố
nông sau khi tát được ít cá bèn trở về. Lúc đó đã qua giao thừa, năm mới đã
đến. Vừa về đến nhà được một lát, có một người con gái đi qua nói là lỡ độ
đường xin ngủ lại nhà anh một đêm. Lúc đầu, anh cố nông không chịu nhưng sau
thấy hoàn cảnh cô gái đáng thương quá, anh cũng bằng lòng. Anh nhường chiếc
chõng duy nhất của mình cho cô gái, còn mình ôm bó rạ ra nằm xó lều.
Sáng hôm sau, khi tỉnh
dậy, anh không còn tin vào mắt mình nữa. Túp lều của anh đã biến mất. Thay vào
đó là một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, kẻ ăn người ở ra vào tấp nập. Khi anh
vẫn còn mơ màng, chưa hiểu sự tình ra sao thì cô gái đêm hôm trước xin ngủ nhờ
đến bảo anh: - Anh hãy mời phú ông sang
ăn tết đi! Nghe lời cô, anh sang mời lão nhà giàu. Vừa nghe xong, lão nhà
giàu đã phì cười, cho là anh không bình thường. Sau thấy anh nằn nì mãi, lão
mới trả lời cộc lốc: - Nếu mày có thể
trải chiếu hoa từ nhà tao sang nhà mày thì tao sẽ sang.
Anh thất vọng ra về nói
với cô gái. Cô gái vui vẻ an ủi anh. Đoạn cô ra sau nhà rồi mang đến không biết
bao nhiêu là chiếu hoa đẹp lộng lẫy. Anh cố nông chỉ việc đem chiếu ấy trải từ
ngõ nhà mình đến ngõ lão nhà giàu.
Về phần lão nhà giàu,
sau khi làm anh cố nông bẽ mặt thì lấy làm hả hê lắm. Một lúc sau, thấy người
nhà báo là anh cố nông đã trải chiếu hoa đến tận ngõ, lão ngạc nhiên vô cùng.
Lão hối hả đi ngay. Sang đến nơi, lão bị choáng ngợp bởi một toà lâu đài nguy
nga lộng lẫy, to gấp trăm gấp ngàn lần dinh cơ của lão.
Bữa cơm ở nhà anh cố
nông thật là ngon! Lão về đến nhà rồi mà mồm vẫn thòm thèm, dạ vẫn nuối tiếc.
Máu tham đùng đùng trỗi dậy. Lão ta bàn với vợ: - So với nhà nó, nhà mình chả thấm vào đâu bà nó ạ! Ta tìm cách đổi quách
cho nó đi. Vợ lão bĩu môi, nguýt dài: -
Đời nào nó chịu đổi cho ông.- Gả con cho nó! Đúng rồi! Đã làm rể rồi thì làm gì
mà nó chả đổi.
Mụ vợ cũng cho là phải.
Thế là vợ chồng lão gọi anh người ở đến bàn chuyện đổi nhà và gả con gái cho.
Sau lễ cưới linh đình, đôi vợ chồng mới về nhà lão nhà giàu, còn vợ chồng lão
thì về lâu đài của anh người ở. Hai vợ chồng lão hí hửng lắm. Đêm ấy, hai vợ
chồng lão ngủ trong sự sung sướng tột đỉnh. Nhưng đến sáng hôm sau, khi tỉnh
dậy, ôi thôi lâu đài nguy nga đâu không thấy, chỉ thấy một túp lều rách nát,
góc lều vẫn còn cài gầu sòng và rổ xúc tép, còn hai vợ chồng lão thì đang ôm
nhau ngủ trên chiếc chõng tre tồi tàn. Đau đớn, xót xa quá, hai vợ chồng nhà
lão quay ra cãi nhau. Chồng bảo "chuộc"
lại, vợ giận chồng khăng khăng "chả
chuộc". Cứ thế, hai vợ chồng cãi nhau một hồi lâu: "chuộc!", "chả chuộc!". Cuối cùng, lão chồng tức quá túm lấy vợ đánh. Vợ
lão cũng chẳng vừa, túm tóc lão đánh lại. Trong khi hăng máu, hai vợ chồng lăn
tòm xuống cái ao sâu trước cửa và chết cả đôi. Sau khi chết, chúng hoá ra hai
con chẫu chuộc, cứ suốt đời ôm nhau "chuộc", "chả chuộc".
Thật đáng đời kẻ tham lam!
78. SỰ TÍCH KHĂN TANG
Ngày xưa, có vợ chồng
nhà phú hộ sinh được ba người con gái. Giàu có nhưng lại không có con trai nên bao
nhiêu tình yêu thương họ đều dành cho hết các con gái. Thế rồi chẳng bao lâu
các cô lần lượt đi lấy chồng và ở riêng.
Vì các cô gái đều đi lấy
chồng xa nên sau khi cô út ra ở riêng được ít lâu, hai ông bà cảm thấy nhớ các
con quá. Họ tính chuyện chia nhau đi thăm các con. Một hôm bà bảo ông: "Ngày mai ông chịu khó trông nhà để tôi đi
thăm các con, sau đó tôi lại về trông nha để ông đi". "Phải đấy" - ông bảo bà "nhưng phải đi nhanh lên mới được, đừng bắt
tôi phải đợi lâu". Không được, tôi tính ở lại chơi với chúng nó mỗi
đứa một tháng, ba đứa là ba tháng, đi đường cả hai lượt mất hai ba chục ngày.
Tất cả phải mất đến hơn bốn tháng. "Thôi
được, bà đi đi nhưng đừng để đứa nào nó quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề nhà nó
làm cho tôi trông đợi".
Sáng sớm, người vợ cùng
con hầu ra đi. Nhưng chỉ được gần hai tháng đã thấy bà trở về, mặt buồn co.
Thấy vậy chồng hỏi dồn: - Cơn cớ làm sao
mà bà về nhanh như vậy, có điều gì mà mà không được vui? Bà đáp: - Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó
đều mạnh khoẻ, tôi về sớm là để ông khỏi trông, ông cứ đi một lần cho biết.
Thấy vợ nói úp mở, phú
ông chưa hiểu thế nào cả, cuối cùng ông cũng sắm sửa hành lý ra đi.
Ông ghé vào người con
cả, chàng rể lâu ngày gặp cha nên tiếp đãi rất niềm nở làm ông rất hài lòng.
Nhưng con gái ông thì lại không được như vậy. Nó chỉ chuyện trò dăm ba câu cùng
ông ròi quay ra công việc làm ăn của nó. Nhà chồng nó cũng vào loại khá giả nên
kẻ ăn người làm rất đông, con gái ông bận trông nom công việc không lúc nào
rảnh rỗi. Còn chồng nó thì phải ra đồng trông coi việc cày cấy, thế là ông lại
phải ngồi một mình. Đến trưa, mặt trời đã đứng bóng, bụng ông đã đói cồn cào
nhưng con ông chẳng chịu cho ông ăn. Ông định bảo nó cho ông ăn trước như ngày
nó vẫn còn ở nhà, nhưng rồi ông lại nghĩ: Để xem nó đối đãi với cha nó ra sao.
Ông thấy con gái ông chờ chồng về mới dọn cơm nhưng chàng rể lại còn lúi húi
vài việc nữa nên ông lại phải đợi. Thấy chồng lâu quá cô gọi chồng: Mình ơi, để
đấy vào ăn cơm đi để ông già ăn với. Nghe con gái nói thế ông cảm thấy không
được vui. Đến bữa cơm chiều và liên tiếp mấy ngày sau cũng vậy. Con gái ông
chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông. Ông rất buồn và thầm nghĩ: - Thì ra bây giờ nó chẳng coi cha ra quái gì
nữa. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ mình phải nhịn đói.
Ở chơi được ít ngày thấy
con gái không vồn vã đằm thắm, ông không còn bụng dạ nào mà ở lại nữa. Ông vội
vã từ giã nhà con gái lớn mà đi đến nhà người con gái thứ hai. Trong cuộc hành
trình này ông lẩm bẩm: Chắc những đứa sau phải khác, chẳng lẽ đứa nào cũng như
vậy. Vợ chồng ta còn phải trông cậy bọn chúng lúc tuổi già nữa chứ. Nhưng khi
gặp chúng, ông lại tỏ ra thất vọng. Cả ba cô con gái đứa nào cũng bận bịu với
công việc của mình, chẳng đứa nào quan tâm đến ông như lúc còn ở nhà. Ông chép
miệng: - Vậy là con gái một khi đã bước
chân về nhà chồng thì chẳng còn là con của mình nữa. Nó trọng chồng hơn bố mẹ.
Thời gian ông đi thăm
con chỉ hơn một tháng, so với chuyến đi của bà lại còn ngắn hơn. Nỗi buồn phiền
làm ông khó ở mất một vài tuần. Khi bớt bệnh, ông gọi vợ lại và bảo: - Thế là đẻ được mấy đứa con gái có cũng như
không. Không thể nhờ cậy chúng nó lúc tuổi già được. Vậy bà ở nhà để tôi đi
kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng ta lúc mắt loà chân chậm.
Bà vợ buồn rầu bảo: - Thôi ông ạ! Đừng đi
kiếm làm gì cho nhọc xác. Con đẻ dứt ruột mà nó còn chẳng đoái hoài nữa là con
nuôi. Để tôi kiếm cho ông một người vợ lẽ. Không biết chừng nó lại đẻ cho ông
một đứa con trai, có đứa nối dõi tông đường lại chẳng tốt hơn ư. Ông lão
nói: - Trên đời này không phải ai cũng
như ai. Có kẻ tốt, người xấu. Nếu đi tìm mà không gặp, lúc ta quay về tính cũng
chưa muộn.
Phú ông bèn giả bộ một
ông già nghèo khó ra đi. Ông đi từ làng này đến làng khác. Đến đâu ông cũng
rao: - Có ai mua cha thì ra mà mua. Chỉ
mất ba quan tiền thôi. Mọi người nghe ông già rao vậy ai cũng tưởng ông
điên. Có người vui miệng nói: Mua lão già ấy về để mà hầu ư? Thà là nuôi một
đầy tớ còn hơn. Nuôi lão ấy được tích sự gì, đến khi trăm tuổi có đồng nào lại
phải lo tống táng ư? Tuy nghe nhiều lời mỉa mai bỡn cợt nhưng ông già không nản
chí. Ông vẫn đi hết làng này đến xóm khác miệng rao không ngớt.
Bấy giờ ở làng nọ có hai
vợ chồng một nông dân nghèo. Hai người lấy nhau đã lâu mà không có con. Nghe có
người bán mình là cha, hai vợ chồng bảo nhau: - Cả hai vợ chồng ta mồ côi từ bé, chưa hưởng tình cha con lại chưa có
mụn con nào, thật là buồn. Thôi thì ta mua ông già này về làm cha cho vui cửa
vui nhà. Thấy vợ bằng lòng anh chàng chạy ra đón ông già vào và nói: - Ông định bán bao nhiêu tiền?
- Ba quan không bớt.
- Thú thật với ông, nhà cháu muốn mua nhưng không sẵn
tiền. Vậy ông chờ để vợ cháu đi vay xem. Phú ông ngồi chờ một
lúc lâu thấy chịu vợ chạy đi, lúc về chỉ vay được có hai quan. Anh chồng bèn
nói: - Ba ngày nữa mời ông trở lại, chúng
cháu sẽ chạy đủ tiền.
Đến ngày hẹn, phú ông
trở lại, anh nông dân trao tiền cho ông, mời ông ở lại và "cha cha, con con" rất thân tình.
Đoạn anh bảo vợ xuống bếp lo cơm nước. Phú ông thấy tóc người vợ hôm trước còn
dài, bây giờ đã cụt ngủn, bèn hỏi: - Tại
sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy? Anh nông dân tần ngần hồi
lâu rồi đáp: - Chẳng giấu gì cha, nhà con
nghèo không đủ tiền mua cha, vậy vợ con phải cắt tóc bán đi để đủ số tiền mua
cha.
Nghe nói, phú ông vẫn
làm thinh. Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng người nông dân tỏ ra rất
niềm nở và hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông giấu biệt tung tích của mình,
không cho hai vợ chồng anh biết. Nhiều khi ông còn vờ kêu đau lưng, nhức đầu và
bắt họ xoa bóp hoặc tìm thầy chạy chữa. Mặc dầu vậy họ vẫn vui vẻ chăm sóc
không dám trễ nải. Cứ như vậy được vài tháng, nhà họ nghèo nay lại nghèo thêm.
Họ cố gắng làm ngày làm đêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn để nhường cơm cho ông
ăn. Tình hình như vậy kéo dài được nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều
mà trong nhà gạo tiền đã cạn kiệt.
Một hôm, hai vợ chồng
vừa đi làm đồng về thì thấy cha nuôi khăn gói chỉnh tề. Ông bảo họ: - Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta.
Vợ chồng đưa mắt nhìn nhau tưởng ông già rồi nên lẩm cẩm. Nhưng lại nghe tiếng
ông giục: - Làm con thì phải vâng lời cha
mẹ. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn, cái nhà ọp ẹp này chẳng đáng là
bao, đừng tiếc nữa.
Vợ chồng không dám cãi
lời đành phải bỏ nhà cửa đi theo ông già. Họ thấy ông lần hồi ăn xin, tối lại
tìm chỗ ngủ nhờ. Hai vợ chồng vẫn vâng lời không chút phân vân. Ba cha con lần
hồi ăn xin như thế được hơn chục ngày. Sau cùng họ đến một nhà kín cổng cao
tường, ông mới vui vẻ bảo họ: - Các con
đã đến nhà ta rồi. Vợ phú ông bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ: -
Đây mới thật là con của chúng ta. Lúc
này vợ chồng người nông dân mới biết cha mẹ nuôi mình là một nhà giàu có. Phú
ông bảo hai vợ chồng anh nông dân đổi họ theo mình. Thế rồi từ đấy họ được
hưởng cuộc đời sung sướng.
Bốn năm sau phú ông lâm
bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông
bèn lập di chúc để lại phần lớn tài sản cho hai vợ chồng đứa con nuôi.
Đoạn ông gọi vợ đến dặn dò: - Sau khi tôi
chết bà đừng có cho ba đứa con gái kia biết. Nếu chúng nó nghe ai nói mà về,
chưa biết chừng tôi sẽ bật nắp quan tài cho mà coi. Việc để tang cứ theo tục
cắt tóc đội mũ quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình chịu cực khổ với cha mẹ,
người phải làm việc đó là con trai, nhưng đứa con dâu bà bảo nó không phải cắt
tóc vì tôi chưa bao giờ quên việc nó cắt tóc bán để lấy tiền mua cha. Vậy nó
chỉ cần đội tang là đủ.
Nhưng khi khâm liệm cho
chồng xong, bà phú vì nặng lòng thương con nên đã cho người báo tin cho ba đứa
con gái. Khi chúng về, bà đón chúng ở ngoài cổng và thuật lại lời trối của cha
cho chúng hay. Ba đứa con tỏ vẻ hối hận. Bà không cho chúng vào vì sợ việc
chẳng lành xảy ra. Khi đưa linh cữu ra đồng các cô gái cố đòi đi đưa cho bằng
được. Mẹ khuyên các con mãi không xong, cuối cùng đành phải xé khăn tang cho
chúng có thêm một mảnh vải xô để che mặt lại mong linh hồn của cha chúng khỏi
biết.
Từ đó, người ta bắt
chước để tang theo gia đình này. Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng
chuối như cổ tục. Con dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang lại không phải
che mặt, còn con gái ngoài khăn tang còn phải thêm một mảnh vải che mặt.
79. SỰ TÍCH HOA ĐÀO
NGÀY TẾT
Ngày xưa, ở phiá đông
núi Sóc Sơn (Hà Nội), có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào xum xuê,
to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là
Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che
chở cho dân chúng khắp vùng. Quỹ dữ hay ma quái nào bén mãng lui đến ắt khó mà
tránh khỏi sự trừng phạt của hai vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm
sét của hai vị thần, đến nỗi sự luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa
đào là bỏ chạy xa bay.
Ðến ngày cuối năm, cũng
như các thần khác, hai thần Trà và Uất Luỹ phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng.
Trong mấy ngày Tết, nhân khi hai thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành,
tác oai tác quái. Ðể ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về
cắm trong lọ,nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị
thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ.
Từ đó, hàng năm, cứ mỗi
dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma,
đuổi quỷ và cầu mong sự ấm no, hạnh phúc cho gia đình trong năm mới.
80. SỰ TÍCH HOA MÀO
GÀ
Ngày xưa, chú gà nào
cũng có một cái mào đỏ rất đẹp như mào các chú gà trống bây giờ. Một buổi sớm,
gà Mơ soi mình trong vũng nước và sung sướng thấy cái mào rực rỡ nằm trên đỉnh
đầu của mình như một chùm hoa đỏ rực. Gà Mơ khoan khoái đập cánh và hát bài hát
quen thuộc của họ nhà gà: - “Cục ta cục
tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”. Mọi vật quay qua nhìn gà
Mơ và cùng xuýt xoa: - “Chiếc mào mới
xinh xắn làm sao, trông Gà Mơ thật đáng yêu làm sao”.
Gà Mơ đi tung tăng khắp
nơi kiếm mồi. Nó đến bên bể nước và nghe có tiếng khóc ti tỉ. Nó dừng lại
nghiêng đầu, chớp chớp đôi mắt và lắng tai nghe. Thì ra, đó là một cây màu đỏ
tía đang tấm tức khóc một mình. Gà Mơ đang vui sướng, thấy bạn buồn, Mơ bỗng
bối rối. Nó vội vàng chạy đến khẽ hỏi: - Bạn
sao thế? Cây rơi hạt nước mắt trong suốt như hạt sương xuống gốc và sụt sịt
bảo: - Các cây quanh đây, cây nào cũng có
hoa mà chỉ mỗi mình tôi là không có hoa. Chưa nói dứt câu, cây lại bật
khóc, nước mắt cứ rơi xuống thánh thót. Gà Mơ an ủi bao nhiêu cũng không làm cây
nín. Gà Mơ nghĩ một lúc rồi quyết định: - Tôi
cho bạn bông hoa đỏ trên đầu tôi nhé. Cây sung sướng vẫy là rối rít: - Thế bạn cho tôi thật nhé! Cám ơn bạn!
Sáng hôm sau, mọi người
ngạc nhiên khi thấy chiếc mào đẹp đẽ của gà Mơ biến đâu mất. Còn cái cây bên bể
nước thì lại nở một chùm hoa rực rỡ y hệt chiếc mào của Gà Mơ. Cây hoa sung
sướng vươn mình đón ánh mặt trời nhuộm cho bông hoa thêm đỏ thắm. Cây khe khẽ
kể cho mọi người nghe câu chuyện về lòng tốt của Gà Mơ. Thế là mọi người gọi
cây đó là cây hoa mào gà.
81. SỰ TÍCH HOA MẪU
ĐƠN
Ngày xưa, ở một làng
miền núi Bắc Bộ, có một bà mẹ sinh được mười người con trai. Làng của mẹ bị
giặc chiếm đóng. Người cha của mười anh con trai bị giặc giết ngay từ ngày đầu
tiên, khi chúng tiến vào làng. Mười người con trai của bà vào đội quân chống
giặc ở trong núi. Người con trai cả là chủ tướng của đội quân. Đội quân này đã
làm cho bọn giặc phương Bắc thất điên bát đảo. Đã nhiều lần giặc mở những trận
càn quét mà không sao tiêu diệt được đội quân của cái làng bé nhỏ ấy.
Tên tướng giặc sai quân
bắt bà mẹ đến, hắn bảo: - Này mụ già, mụ
hãy khuyên các con mụ trở về. Ta sẽ cho con mụ làm tướng. Bằng không, ta sẽ
giết mụ. Bà mẹ nhìn thẳng vào mắt tên tướng giặc, nói lớn: - Hỡi quân độc ác! Là một người chân chính, ta
không thể dạy các con ta phản bội lại quê nhà.
Bọn giặc trói mẹ trên
một ngọn đồi rồi cho quân mai phục hòng bắt được những người con của mẹ đến
cứu. Chúng bảo bà mẹ hãy đứng dậy mà gọi con, chúng sẽ tha. Tiếng người mẹ: - Hỡi các con của mẹ! Hỡi những người con của
quê hương. Ta nhân danh người mẹ, ra lệnh cho các con không được vì ta mà phản
bội quê hương.
Mệnh lệnh của người mẹ
là mệnh lệnh trái tim, mệnh lệnh của tình yêu vĩ đại. Mệnh lệnh đó lan khắp núi
rừng. Bọn giặc hốt hoảng, run sợ. Những người con của mẹ thì thêm sức mạnh
chiến đấu. Giặc vội bịt miệng bà mẹ. Chúng đổ nhựa thông và nhựa trám lên đầu
bà và châm lửa đốt. Ngọn lửa cháy sáng cả một vùng...
Khi bọn giặc đi rồi, dân
làng lên đồi tìm chỗ bà mẹ bị hành hình, người ta thấy trái tim của người mẹ
vẫn nguyên vẹn và nóng bỏng. Dân làng chôn mẹ ngay trên đỉnh đồi. Đêm đêm, từ
ngôi mộ, trái tim mẹ vẫn phát sáng cả một vùng trời.
Mùa xuân đến. Từ ngôi
mộ, trái tim ấy mọc lên một cái cây. Cây ra hoa. Bông hoa đỏ chót hình ngọn lửa
bốc lên từ trái tim người mẹ. Và cũng từ ngày ấy có một loại hoa mang tên Mẫu
Đơn. Cây hoa tượng trưng cho tình yêu thiêng liêng, vĩ đại của người mẹ.
82. SỰ TÍCH HOA THIÊN
LÝ
Ngày xưa, có một chàng
trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã
quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có
vợ. Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất
trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền
của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành
người và đã giả dạng giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng,
dáng đi... Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước
ra... Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình. Hai người đàn bà trẻ
giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là
tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ.
Nghe chàng nói rõ ngọn
ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến. Cụ già lấy vải
đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba
người đàn ông khác nhau và dặn: - Cứ ngửi
đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu! Cô vợ thật
được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể
nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc
đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi
đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo.
Ông cụ liền cho mang đến
ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông
cụ dặn: - Thứ canh nào chồng thích ăn thì
gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu. Sự việc lại diễn ra như lần
thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả
cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm.
Hôm sau, cụ lại cho mời
hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng
nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa. - Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường.
Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi
thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng.
Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta
định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một
người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi
thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng
trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ
giả đã vẫy tay và gọi to: - Anh ơi! Em ở
đằng này này! Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là
chồng cô.
Cụ già liền dẫn chàng trai
thứ ba đến trước cô vợ giả và nói: - Như
vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng
trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô. Rồi cụ lại cho gọi cô
vợ thật đến và hỏi: - Trong ba chàng
trai, không có ai là chồng cô sao? - Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa
trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra! Cụ già liền cho ba chàng trai khác
tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:
- Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng
trai thổi sáo tài giỏi. Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc
cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ
giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất. Hai vợ
chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo: - Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi.
Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của anh thôi! Chàng trai
liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe
réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là
tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe
cũng ngơ ngẩn say mê... Hai vợ chồng sau đó kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên
nhau đầm ấm vui vẻ. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng
nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu
đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang
thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu
xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người
vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay
thơm khắp nhà.
Sáng hôm sau, cả hai vợ
chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa
sổ. Và sau đó, không chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở
tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm
dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên
ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ
có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt
tên mới cho cô và trêu cô: - Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý.
Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình...!
Các cụ còn nói thêm: Cô
vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối
với cô vợ thật... Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục
thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên
Lý, yêu mùi hương Thiên Lý.
83. SỰ TÍCH HÁT XOAN
Ngày ấy vợ Vua Hùng mang
thai đã lâu, tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không sinh được.
Có một người hầu gái tâu
rằng: Có một người con gái đẹp tên là Quế Hoa, múa giỏi hát hay, ở trong một
làng tre xanh gần thành Phong Châu. Nếu đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ
đau và sinh nở được. Vợ vua tin lời, tâu với Hùng Vương cho vời Quế Hoa vào
hát.
Bấy giờ bà đang lên cơn
đau đẻ dữ dội. Quế Hoa đứng bên giường múa hát. Nàng đẹp lắm: môi đỏ, mắt đen,
tóc dài, da trắng, giọng hát trong vắt khi trầm, khi bổng như chim ca, suối
chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, chân dẻo như bún, ai cũng phải mê.
Vợ Vua Hùng mải xem múa
hát, không thấy đau nữa liền sinh được ba người con trai khôi ngô, tuấn tú. Vua
hết sức vui mừng và khen ngợi Quế Hoa, liền truyền cho các Mỵ nương học lấy các
điệu múa hát ấy.
Vì lúc này nàng Quế Hoa
hát chầu Vợ Vua là vào mùa xuân nên các Mỵ nương gọi hát ấy là hát Xuân (hay còn
gọi là hát Xoan).
84. SỰ TÍCH CÂY XƯƠNG
RỒNG
Ngày xửa ngày xưa, cách
đây lâu lắm rồi, khi ấy còn chưa có loài người, trái đất còn hoang vu lắm. Thấy
trần gian hoang vắng như vậy, Ngọc Hoàng bèn lấy một nắm đất nhỏ vào đó một
giọt nước thần để tạo ra một chàng trai. Ngọc Hoàng dạy chàng trai đó biết săn
bắn, biết làm nhà rồi đưa chàng trai xuống trần gian. Thế nhưng chàng trai chỉ
biết có săn bắn mà không hề biết gì về trồng trọt nên không thể phủ màu xanh
lên trái đất.
Thấy vậy Ngọc Hoàng bèn
sai một tiên nữ chuyên trông coi việc đồng áng - vốn là con gái của thần mưa và
thần gió - xuống trần để giúp đỡ chàng trai. Nhưng không ngờ khi xuồng trần họ
lại mải mê yêu nhau nên làm Ngọc Hoàng vô cùng tức giận. Người bắt Tiên nữ kia
về trời, nhưng nàng nhất quyết không rời chàng trai. Tức giận quá, Ngọc Hoàng
liền vung tay, biến chàng trai thành trăm nghìn hạt nhỏ, mà ngày nay nguời ta
gọi là Cát. Còn cô gái cứ ôm lấy chàng trai mà nay chỉ còn là những hạt cát nhỏ
mà khóc lóc, dù cho Mẹ nàng là thần Mưa hết lòng khuyên giải, mặc cho Cha nàng
là thần Gió hết sức tức giận.
Nàng cứ ở đó khóc mãi,
khóc mãi, khóc cho đến một ngày toàn thân biến thành một thứ cây toàn thân là
gai góc, như để chống cự không muốn bị bắt về trời, còn rễ thì ăn sâu vào trong
lòng cát nóng bỏng như cánh tay cô gái ôm chặt lấy chàng trai không muốn rời.
Và nếu như ai vô tình chạm vào thân cây sẽ thấy một dòng nhựa trắng chảy ra,như
dòng nước mắt chất chứa cả ngàn năm của cô gái. Loài cây đó được gọi là cây
Xương Rồng.
85. SỰ TÍCH CÂY ĐU ĐỦ
Ngày xưa có một ông nhà
nghèo, có thú nuôi chim. Một hôm chim của ông ăn mất 3 hạt bắp của quan làng.
Ba năm sau quan làng bắt
đền, ông nhà nghèo nghĩ thầm: "Ông quan làng thật giầu có, chỉ mất 3 hạt
bắp thôi mà cũng chẳng tha, thật là tiểu nhân và thất đức, 3 hạt bắp chẳng đáng
là bao, đền quách cho xong" và ông nhà nghèo đã đến xin đền 3 hạt bắp.
Quan làng bắt đầu tính nhân lên, từ 3 hạt bắp gieo xuống đất 3 tháng được 3 cây
bắp, mỗi cây sinh 1 trái bắp, 1 trái bắp được 1500 hạt gieo 3 tháng lại được 1500
cây bắp...Và cứ thế ông tính 3 năm...
Ông nhà nghèo nghe xong
toát mồ hôi, ra về, cơn bệnh bắt đầu hành hạ ông, khiến ông suy nhược toàn
thân, ít lâu sau, bệnh ông trở nên trầm trọng, trong cơn hấp hối ông cố lết ra
bờ giậu hướng về phía nhà quan làng miệng lẩm bẩm: - "Đâu đủ mà trả, đâu
đủ mà trả", rồi ông gục chết tại chỗ.
Ít ngày sau chỗ ông chết
mọc lên một cây, người ta đặt cho cây ấy là cây "Đâu đủ." Sau này
người ta đọc khác đi là cây "Đu đủ" như ngày nay.
86. SỰ TÍCH CÚ CHỈ ĐI
ĂN ĐÊM
Một chiều, Nai tha thẩn
đi kiếm ăn. Nó tới bãi hoang nọ đợi nhặt quả vả. Nhưng không có gió to, vả
không rụng. Nai nhìn quả vả chín đỏ trên cành mà thèm. Nai cất bước chán ngán
trở về. Chợt có tiếng nói: - Chớ vội chú
Nai! Nai ngơ ngác nhìn quanh chẳng thấy ai, lúc nhìn lên hốc cây trên cành
cao thì thấy Cú. Nai ngập ngừng: - Bác
gọi tôi ư? - Phải, chú có muốn ăn quả vả không? - Có chứ.
Cú ưỡn bụng ra, mắt lim
dim ngái ngủ: - Chà, tôi ăn nó quá không
muốn cất bước nữa. Giá mà chú đến sớm, tôi đã hái cho vài quả. Kỳ thực Cú
chẳng muốn cho Nai đến ăn tranh phần. Nó muốn tất cả quả vả trên cây và cả quả
dưới đất, nên tìm cách đuổi khéo anh chàng Nai. Làm ra vẻ thân mật, Cú bảo: - Chú hãy đi kiếm ăn ở nơi khác. Sáng mai, chú
đến đây thật sớm, tôi sẽ rung cành cho vả rụng. Đến từ lúc tôi kêu "Kết
cóc, kết cóc". Nai cảm ơn Cú rồi đi, mừng thầm ngày mai được bữa no.
Bóng tối chưa tan, sương
mù dày đặc, trời lạnh thấu xương, mọi vật còn ngủ say cả. Cú đã cất tiếng kêu:
"Kết cóc, kết cóc" liền một
thôi. Nai sực tỉnh, vội vàng ba chân bốn cẳng chạy vội tới.
Bóng sương lờ mờ, gió
lạnh rung cành lau, cành sậy. Tiếng Cú vẫn đổ dồn. Nai đến nơi còn đang ngơ
ngác thì bỗng Cú đổi giọng "hok sục!
Hok sục!" liên hồi. (hok sục có nghĩa là: Dao đâm, giáo chọc). Nai tái
người, cắm cổ lao mình chạy trốn. Nó vấp ngã làm đổ cây vừng đen, hạt vừng bắn
tung toé vào mắt gà rừng kiếm ăn cạnh đó. Gà bị bụi mắt cào tứ tung phá tan cả
ổ kiến lửa. Kiến mất tổ chạy lung tung gặp Sóc đang ăn liền châm túi bụi. Sóc
đau đớn kêu la ầm ĩ và cắn quàng cắn xiên, cắn đứt cả dây bí đao quả to như cái
bồ rơi trúng lưng Trâu đang gặm cỏ. Trâu vừa đau vừa hoảng nghếch sừng lên
chạy, chẳng may giẫm phải nàng Cua. Nàng Cua suýt chết bẹp, lấy làm căm lắm,
Cua quyết định lên Then kiện.
Then mở toà xử kiện, gọi
Trâu lên. Trâu nói: - Tại Bí đao làm tôi
đau quá, giật mình tôi chạy bạt mạng. Bí bị gọi lên, há miệng nức nở: - Chính Sóc đã cắn đứt cuống dây nên tôi bị
toác cả đầu thế này. Sóc bị điệu đến, nó ấm ức: - Tại Kiến đốt tôi đau quá, tôi cắn lung tung. Then bực mình: - Chà, tệ quá! Chúng bay loạn thật, vậy cái
Kiến đâu?
Kiến bị Then quát: - Sao mày đốt Sóc? Kiến đáp: - Tổ chúng tôi bị Gà phá, ức quá chúng tôi làm
càn.
Đến lượt gà, Gà thưa: - Tôi đâu muốn làm vậy, tại Vừng bắn vào mắt
tôi. Vừng khai: - Tôi không muốn thế.
Tại Nai đè giập người tôi.
Nai được gọi lên, nó
thong thả bước vào: - Già Cú tai ác đánh
lừa tôi. Nó gọi tôi đến nhặt quả Vả rồi hô người lấy dao đâm. Trong lúc hoảng
sợ chạy trốn, tôi chạy thục mạng nên vấp phải bác Vừng.
Then giật mình: - À, thế ra mọi việc đều tại Cú.
Cú bị trói dẫn tới phơi
trần bộ mặt gian ác, tham lam hại bạn, nó đã phải nhận hình phạt thích đáng.
Mắt cú từ ngày ấy vàng
khè vì bị đóng đinh, cỏ bị bẻ nên lúc nào cũng lệch. Vì xấu hổ với bạn bè nên
Cú không dám đi kiếm ăn ban ngày. Từ đó đến nay, Cú chỉ đi kiếm ăn vào ban đêm,
gặp Cú ai cũng ghét và cho rằng Cú toàn đem lại những điều xúi quẩy.
87. SỰ TÍCH NÚI TẢN
VIÊN
Ngày xưa, có một người
tiều phu nghèo từ sáng tinh mơ đã vác búa vào rừng đốn củi. Mọi lần anh thường
chặt cây khô ở bìa rừng, được nặng gánh thì gánh về, nhưng lần này anh định
chặt thêm một cây gỗ cứng để đem về chống túp lều tranh nên anh phải đi vào
rừng sâu. Đang đi anh chợt nghe có tiếng trẻ khóc. Anh đứng lại nghe xem tiếng
khóc ấy ở đâu đưa lại thì thấy ở phía trước mặt, dưới một lùm cây to có một con
dê rừng rất lớn đang lấy chân trước bới một đống cỏ khô, tiếng khóc trẻ ở đống
cỏ đó đưa ra.
Người tiều phu rón rén
nấp sau một gốc cây to ở gần rình xem con dê làm gì. Con vật bới đống cỏ rất
nhẹ nhàng, lòi dần ra một đứa trẻ còn đỏ hỏn, bụ bẫm rồi nó nằm xuống cho đứa
trẻ bú. Đứa trẻ rít lấy rít để bầu sữa căng, một chốc con dê dứng dậy liếm mớ
tóc bờm xờm của đứa trẻ rồi chạy đi. Con dê vừa đi khỏi thì một đàn chim bay
đến phủ những cỏ khô lên người đứa bé, chỉ trong chớp mắt lại bay vù cả đi.
Người tiều phu lẩm bẩm một mình: "Số
mệnh đứa trẻ này thật kỳ lạ". Anh đến bới đống cỏ khô thì thấy là một
bé trai. Anh bế lấy đem về nhà nuôi. Đứa bé rất chóng lớn, người tiều phu chăm
nom đứa trẻ như chính con mình đẻ ra. Tin là đứa trẻ có một số mệnh kỳ lạ, anh
đặt tên cho nó là Kỳ.
Lớn lên, Kỳ rất khoẻ
mạnh, ngày ngày Kỳ vác búa theo cha nuôi vào rừng đốn củi. Một hôm, Kỳ chặt một
cây lớn đến hai người ôm, chặt từ sáng tinh mơ đến nhá nhem tối mà vẫn chưa
xong, nên đành bỏ dở ra về. Sáng hôm sau, đến gốc cây định chặt tiếp thì anh
hết sức ngạc nhiên: Cái cây lớn chặt dở hôm qua bây giờ lại liền ruột, liền vỏ
như chưa có một vết búa nào chạm đến. Thấy thế, Kỳ không ngả lòng, anh lại
giáng những nhát búa thật mạnh vào chỗ thân cây đã chặt hôm trước. Tuy anh gắng
hết sức nhưng đến nhá nhem tối anh vẫn chưa hạ xong cây, sáng sơm hôm sau Kỳ
lại vác búa vào rừng định tiếp tục công việc còn bỏ dở thì anh lại thấy vết
chặt hôm trước liền lại như cũ. Anh không nản chí, lại bắt đầu chặt, nhưng đến
lúc nhọ mặt người anh vẫn chưa chặt xong. Lần này anh không về nhà mà leo lên
một cây gần đó để rình xem ban đêm cây tự liền da liền thịt thế nào.
Đến nửa đêm, trăng sao
vằng vặc đầy trời, bỗng có một ông già chống gậy đi từ từ đến cái cây chặt dở.
Ông cụ cầm gậy chỉ vào cây, trong chớp mắt vết chặt lại liền như cũ. Kỳ vội tụt
xuống chạy đến hỏi ông già: - Tôi khó
nhọc lắm mới sắp hạ được một cây lớn, sao cụ lại phá hỏng công việc của tôi như
thế? Ông cụ đáp: - Ta là Thái bạch
tinh quân đây, ta không muốn ngươi chặt cây cổ thụ này. Thôi ta cho người cái
gậy này, người đi tìm cây nhỏ mà chặt.
Nói xong ông cụ trao cho
Kỳ một cái gậychống ở tay rồi biến mất. Một hôm, đi chơi men sông, Kỳ nhìn thấy
một con rắn lớn bị đánh dập đầu chết từ lâu, Kỳ cầm gậy chỉ vào đầu rắn. Thốt
nhiên rắn sống lại, vẫy đuôi, ngẩng đầu nhìn Kỳ rồi bò xuống sông mất. Một buổi
tối Kỳ đang ngồi trong túp lều tranh thì có một chàng trai tuấn tú, khăn áo
chỉnh tề, đem châu báu đến tạ ơn Kỳ. Chàng xưng là Tiểu Long hầu con Long Vương
ở biển Nam bị trẻ chăn trâu đánh dập đầu chết ở bờ sông và được Kỳ cứu sống hôm
nọ. Kỳ nhất định không nhận lễ vật. Chàng thanh niên có ý băn khoăn, cố ý mời
Kỳ xống thuỷ cung chơi. Chàng đưa cho Kỳ một ống linh tê để rẽ nước đi xuống.
Được Kỳ xuống chơi, Long Vương rất lấy làm mừng rỡ, mở yến tiệc linh đình thiết
đãi. Đến khi về, Long Vương đưa tiễn đủ các vật lạ dưới biển nhưng Kỳ nhất định
không nhận. Sau Long Vương lấy ở trái ra một quyển sách và nói với Kỳ rằng: - Ngài cứu sống con lão, lão không biết lấy gì
đáp lại. Nay biếu vật gì ngài cũng không nhận, lão xin có quyển sách này tặng
ngài. Dùng quyển sách này ngài sẽ ước gì được nấy.
Kỳ nhận sách ước và trở
lại trần gian. Từ đó chàng cầu được ước thấy, có phép biến hoá trở nên một vị
thần cứu nhân độ thế. Thần đi qua cửa bể thần phù, theo dòng sông lớn, đổ ngược
mãi lên, tìm nơi đất cao phong cảnh đẹp để cắm chỗ ở. Đến một nơi thấy có ngọn
núi cao chót vót ba tầng, tròn như cái tán, thần hoá phép mở một con đường qua
các động và các suối lên đỉnh núi và hoá phép thành lâu đài để ở. Khi đã định
cư rồi thần thường xuống núi đi xem khắp phong cảnh đẹp và dùng phép cứu nhân
dân rất nhiều. Ngọn núi thần là núi Tản Viên, nên người tai gọi thần là thần
Tản Viên hay Sơn Tinh.
88. SỰ TÍCH HÒN ĐÁ
THÚC VÀ ĐỘNG TIÊN PHI
Ngày xưa, trên núi Bưa
Phi có một bản nhỏ của người Mường, có một nàng tiên ngày nào cũng bay từ trên
trời xuống núi để dạo chơi. Nàng len lỏi khắp các vườn cây khe suối, vừa đi vừa
cất tiếng hát say sưa. Tiếng hát của nàng thánh thót mượt mà, đến con kiến
trong hang cũng phải bò ra, các cô gái đang hái bắp hái măng cũng phải phải
ngừng tay, còn các chàng trai đi săn thú trong rừng đành phải dừng bước quay
lại. Dân bản gọi nàng là Tiên Phi.
Hồi ấy, trong bản có
chàng trai tên là Thúc. Chàng mồ côi cha mẹ từ nhỏ nên sống côi cút một mình
trong một túp lều nhỏ. Chàng được trời phú cho một sức khoẻ phi thường, một
thân hình lực lưỡng và tấm lòng nhân hậu. Ngày ngày lên rừng hái rau, săn thú,
chàng thường trông thấy bóng dáng thướt tha yểu điệu của nàng Tiên Phi, nghe
tiếng hát ngọt ngào ấm áp say đắm lòng người của nàng. Chàng Thúc ngày càng si
mê và ao ước được lấy nàng làm vợ. Chàng không biết thổ lộ cùng ai nên mượn cây
khèn để giãi bày tâm sự. Tiếng khèn của chàng lúc tha thiết, lúc dìu dặt, lúc
sôi nổi hoà quyện vào tiếng hát của nành Tiên Phi làm cho tiếng hát của nàng
hay hơn, bay xa hơn. Họ đã thầm yêu nhau.
Hai người chưa kịp kết
duyên cùng nhau thì một việc chẳng ngờ đã tới. Thuỷ thần sông Đà hung dữ mang
dòng nước đến quấy phá vùng núi Bưa Phi.
Nước đỏ ngầu sủi bọt
cuốn đi bao vườn tược ruộng nương. Máu của muôn loài sống trên núi Bưa Phi đỏ
thắm dòng sông, xác nổi lều bều. Bản Bưu Phi có nguy cơ bị thuỷ thần cuốn trôi
đi mất. Dân làng lo sợ, nhiều người kéo nhau chạy đi nơi khác. Cảnh con lạc
cha, vợ lạc chồng nháo nhác thật thảm thương.
Nhìn dòng nước sông Đà
hung dữ cuồn cuộn chảy, nhìn những cột nước trắng xoá xoáy vào chân núi, chàng
Thúc vô cùng căm giận. Chàng quyết đem sức mình chặn đứng dòng nước lũ cứu bản
làng.
Chàng Thúc lấy đá trên
đỉnh núi Bưa Phi ném xuống đầu thuỷ thần, chàng lại bẻ cây chặt gỗ để ngăn dòng
nước. Thuỷ thần lùi ra rồi lại lấy sức lao vào. Chàng trai đánh nhau với Thuỷ
thần ngày một hăng vì bên cạnh chàng còn có nàng Tiên Phi giúp sức. Nàng cất
cao tiếng hát để động viên giúp chàng thêm sức mạnh.
Thuỷ thần đã đuối sức,
biết không thể thắng nổi chàng Thúc, không có cách phá nổi núi Bưa Phi, Thuỷ
thần sai thuộc hạ mang ngọc ngà châu báu lên trời xin Ngọc Hoàng gọi nàng Tiên
Phi về. Trời liền sai thần Sấm mang lưỡi tầm sét xuống trần gọi nàng về ngay.
Nhận được lệnh cha, nàng Tiên Phi chia tay chàng Thúc vội bay về trời. Nàng hẹn
sẽ quay trở lại.
Thừa cơ, Tiên Phi đi
vắng, Thuỷ thần dồn dập lao sóng vào chân núi. Hắn còn nhờ thần Mưa lao tên vào
người chàng. Thần Gió đánh tại vào mặt chàng, thần Sấm sét tung lưỡi lửa chém
sám cỏ cây trên núi. Chàng Thúc một lúc phải chống đỡ với nhiều giặc mạnh, sức
chàng kiệt dần, kiệt dần. Chàng nóng lòng chờ Tiên Phi trở lại để được tiếng
hát của nàng tiếp sức. Nhưng quanh chàng chỉ có mây mưa, sấm chớp, bão giật
điên cuồng.
Chàng nhìn dân làng Bưa
Phi, mọi người đều trông cậy nơi chàng. "Phải cứu lấy dân làng dẫu mình có
chết". Nghĩ vậy, chàng ngẩng cao đầu lên cầu khấn thần linh: - Hỡi các vị
thần linh thiêng. Hãy giúp con, cho con biến thành hòn đá ở ngay nơi này, dưới
chân núi Bưa Phi để chặn dòng nước xoáy sông Đà, cứu dân bản Bưa Phi. Chàng vừa
dứt lời thì biến ngay thành hòn đá sừng sững chắn trước dòng nước, bắt dòng
nước phải cháy theo hướng khác.
Khi trời quang mây tạnh.
Tiên Phi từ trên trời xuống núi. Đến nơi giao chiến, nàng sững sờ khi nhìn thấy
người yêu đá hoá đá trong tư thế cản phá nước sông. Nàng xót xa ân hận vì đã bỏ
chàng ra đi trong lúc nguy hiểm. Nước mắt ròng ròng, nàng kêu lên: - Hỡi thần linh! Tôi làm sao sống nổi khi
thiếu chàng Thúc. Hãy cho chàng sống lại cùng tôi hoặc cho tôi được chết trên
núi Bưa Phi ngay nơi chàng hoá đá.
Một tiếng nổ lớn. Núi
Bưa Phi nứt ra. Biết lời cầu đã ứng, nàng Tiên Phi lao vào chỗ đó và hoá đá
luôn.
Ngày nay, trên núi Bưa
Phi còn hòn đá Thúc và động Tiên Phi. Trước cửa động, có hình một cô gái nằm
nghiêng theo đường vào. Tương truyền đó chính là nơi nàng Tiên Phi hoá đá.
89. SỰ TÍCH HÒN VÚ ĐÁ
Thuở ấy ở nước Chiêm
Thành có một tên nghịch thần lên chiếm ngôi vua. Bọn quan lại ăn hại chỉ biết
xun xoe, nịnh thờ tên phản nghịch, trong khi lòng dân vẫn còn lưu luyến chúa
cũ. Một số ít tôi trung ngày trước đã chạy đến những nơi hiểm trở, chiêu mộ
nghĩa quân, ngày đêm chuyên cần luyện tập, đợi ngày sẽ kéo quân về kinh thành
trừ tên phản nghịch.
Sau khi chiếm được ngôi
vua, việc đầu tiên của tên phản nghịch là hạ lệnh cho lũ quan lại ở khắp nơi
tìm gái đẹp đưa vào cung. Nhiều cô gái đẹp, nhiều bà mẹ già ngày đêm lo lắng,
bỏ làng trốn đi nơi khác. Nhưng tại một vùng kia, có một người con gái nhan sắc
tuyệt đẹp lại không lánh đi đâu cả.
Tin về người con gái có
vẻ đẹp mặn mà ấy bay đến tai tên nghịch thần hung ác. Hắn cho người đến bắt
người cha già phải đưa con gái vào cung. Không có cách nào, ông già phải ép con
mình làm vợ tên nghịch thần và ông già cũng bị giữ ở lại trong triều. Tên vua
liền phong nàng làm phi tần. Hắn mê mẩn nhan sắc của nàng, không thiết gì đến
chính sự nữa.
Một ngày kia, tên vua
sai cha nang đi sứ sang nước láng giềng. Nhân cơ hội đó ông liền nghĩ ra một kế
bí mật tụ tập nghĩa quân và sẽ kéo về trừ tên gian tặc. Nhưng mưu đồ bị lộ, tên
phản nghịch sai bọn tay chân đón đường giết chết ông già.
Biết được tin đó người
con gái rất đau khổ nhưng nàng vẫn vờ làm như không biết việc gì của cha, nàng
vẫn vui vẻ nên không bị tên vua nghi kỵ gì cả. Ngày đêm nàng nghĩ cách trả thù
cho cha.
Một hôm, nàng cố phục
rượu tên vua, ép hắn uống hết chén này đến chén khác. Lúc hắn đã say nàng liền
rút gươm giơ lên cao định chém. Nhưng lúc ấy tên gian thần vụt tỉnh, hắn tránh
sang một bên rồi chồm lên như một con thú, nắm chặt lấy tay nàng.
Nàng sỉ mắng hắn hết lời
không chút sợ hãi.
Tên vua như bị lửa đốt
vào mặt. Hắn sai lính đem hành hình nàng tức khắc. Hắn ra lệnh lột hết xiêm áo
của nàng, chất củi thiêu sống nàng nhưng củi tự nhiên không cháy. Hắn căm tức
ra lệnh vứt nàng vào chuồng hổ cho hổ ăn thịt nhưng thật kỳ lạ, hổ quay mặt đi
không ăn. Nó trói chân tay nàng vào bốn con voi, quất cho voi chạy để xé xác
nàng nhưng voi cứ đứng yên, không nhúc nhích.
Không làm sao được, nó
đành giam nàng vào một nhà ngục kiên cố nhất, ngày đêm canh gác để ngày khác sẽ
đem ra hành hình.
Trong khi tên bạo chúa
chưa tìm ra được cách gì để giết nàng thì trời đã sai Thiên thần xuống rước hồn
nàng đi. Nó cứ tưởng nàng tự vẫn. Tức quá, nó sai quân lính đâm nát xác nàng
rồi vứt xuống con sông ở phía Bắc thành Trà Bàn (thuộc thành phố Bình Định ngày
nay).
Xác nàng trôi lềnh bềnh
rồi dạt vào bờ hoá thành một tảng đá lớn trông như hình vú của đàn bà. Tảng đá
ấy đứng sừng sững từ đời này sang đời khác như để ghi lại lòng trung nghĩa của
người thiếu phụ. Đời sau nhân dân gọi hòn núi ấy là hòn Vú đá.
90. SỰ TÍCH CỦ MÀI
Xưa có một gia đình rất
đông con, đông đến nỗi bố mẹ không nhớ hết được tên từng đứa. Người chồng tên
Đang, vợ tên là Pang. Tuy đông con như thế nhưng hai vợ chồng nhờ phát được
nhiều nương và vỡ được nhiều ruộng nên cuộc sống cũng không đến nỗi túng thiếu.
Gặp năm trời hạn mất
mùa, bao nhiêu lúa giống của hai vợ chồng để dành cho mùa sau bị bọn lang đạo
cướp hết. Hai vợ chồng phải vào rừng tìm rêu đá, lá cây về cho các con ăn,
nhưng kiếm được bao nhiêu cũng không đủ, suốt cả ngày lũ con cứ gọi bố, gọi mẹ
và kêu: Đói lắm bố mẹ ơi!
Hai vợ chồng thương con,
biết rằng rêu đá và lá cây không phải là món ăn có thể thay cơm gạo lâu dài
được, hai người cố đi xin người làng kẻ cho một nắm, người cho vài bông lúa
giống và giấu các con, lên rừng phát rẫy, tỉa lúa trái mùa.
Ở nhà, đàn con đói quá,
kéo nhau ra rừng tự kiếm cái gì ăn cho đỡ đói nhưng đến đêm chúng lại kéo nhau
về kêu đói suốt đêm: - Đói lắm bố mẹ ơi!
Trong rừng khuya, nghe
tiếng đàn con kêu đói vọng tới, hai vợ chồng lòng đau như cắt. Hai vợ chồng
thay nhau nói vọng về cho các con yên lòng: - Các con ơi! Lúa đang nảy mầm. Khi lúa đã lên xanh, họ lại gọi vọng
về: - Các con ơi! Lúa đã lên xanh.
Đến ngày lúa chín thì
hai vợ chồng đã kiệt sức nhưng khi nghe tiếng đàn con kêu đói thì hai người lại
cố gắng nói to lên cho các con nghe: - Các
con ơi! Lúa đã chín... Và khi mẻ gạo đầu tiên vừa giã xong thì hai vợ chồng
liền đồ ngay một chõ xôi lớn, chia ra từng nắm một, rồi đem ngay xôi về nhà cho
các con. Nhưng khi họ đến nhà thì không thấy bóng một đứa nào nữa. Trong khi
ấy, thì từ trong rừng sâu lại vọng ra những tiếng: - Đói lắm bố mẹ ơi!
Tủi cực quá hai vợ chồng
gắng gượng khiêng rá xôi vào rừng nhưng vẫn không gặp một đứa con nào cả. Trong
lúc ấy thì từ rừng cây trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái vẫn cứ vọng ra
tiếng kêu xé ruột: - Đói lắm bố mẹ ơi!
Lúc này thì sức hai người đã kiệt. Họ không thể theo tiếng vọng của rừng núi mà
đi tìm các con được nữa. Hai người đặt rá xôi xuống và cố sức gọi: - Các con ơi! Ra đây với bố mẹ mà ăn xôi.
Tiếng gọi vừa dứt thì
một đàn chim từ các ngả bay đến đậu đầu cả khu rừng. Chim hót: - Bang, Bang! Bang, Bang! Chúng con ăn quả đã
quen, còn xôi xin nhường bố mẹ! Bấy giờ hai vợ chồng mới biết đàn con của
mình vì đói quá đã hoá thành chim cả rồi. Già yếu, đói khổ, lại thương xót đàn
con đã hoá chim, hai vợ chồng gục đầu vào rá xôi mà chết.
Thấy bố mẹ chết thảm
quá, đàn chim kêu vang cả khu rừng, rồi chúng lấy những nắm xôi và đắp mộ cho
bố mẹ.
Về sau, chỗ mộ hai vợ
chồng Đang, Pang mọc lên một loài cây rất lạ: trên là cây, dưới là củ. Củ có
bột trắng và khi luộc chín thì dẻo như xôi. Người dân gọi đó là củ mài. Người
ta nói rằng vợ chồng nghèo khổ ấy đã hoá ra củ mài để cứu những người nghèo
đói, cùng cảnh ngộ như mình. Còn lũ con của họ thì hoá thành chim "đang
bang" thường kêu vang cả núi rừng vào mùa lá chín để nhắc lại cảnh khổ cực
của bố mẹ ngày xưa.
91. SỰ TÍCH MỎM NÚI Ả
CÒM
Ở vùng Mường Tạ(1) hồi bấy
giờ chịu một tai nạn vô cùng khủng khiếp. Nước lũ ở đâu tràn về ngập khắp
bản mường, mưa liên tiếp ngày đêm không ngớt. Nai, hoẵng và các thú rừng chết,
xác nổi lềnh bềnh, trôi ngổn ngang khắp nơi. Những cây cổ thụ cũng bị bật rễ,
cuốn phăng theo dòng nước chảy xiết. Người trong bản xiêu tán, phiêu bạt lênh
đênh.
Những chàng trai, cô gái
khoẻ mạnh nhất, bám chặt được vào thân cây, họ cưỡng lại với dòng nước để giạt
vào một mé sườn núi mà nước dâng chưa tới. Bíu chặt lấy mô đá và nhánh rễ phụ
của một cây to chưa bị lay gốc, họ trèo lên ngồi thu mình vào một cái hốc đá
gần đó.
Cứ như thế, họ ngồi cho
đến xế chiều. Nước lụt ở các khe dâng lên cuồn cuộn, nhưng trời đã bớt mưa. Lúc
này là lúc có thể định lại phương hướng và tìm chỗ an toàn hơn. Cả mấy người
cùng ra khỏi hang nhìn bốn phía và bàn bạc với nhau làm cách nào để chống lại
bão lụt, tìm người thân và thu nhặt của cải.
Cơn mưa to đã chấm dứt
rồi nhưng mấy người dân vẫn bàn bạc với nhau chưa ngã ngũ, có người nói: - Ta không thể ở lại bản mường này được, phải
đóng một chiếc bè đi đến nơi cao ráo mà ở. Lại có người bảo: - Đi đâu cũng chẳng có, chẳng nên cứ sống lênh
đênh với nắm lá trái cây thế này mà chờ chết thôi.
Giữa lúc đang bàn tán ồn
ào thì bỗng ở đâu thì có tiếng xường (một điệu hát dân tộc Mường) vẳng lại. Họ
lấy làm lạ rằng trong lúc này mà lại còn có người con gái nào yên tâm mà hát
xường. Tiếng xường từ trên cao vọng xuống mỗi lúc một rõ hơn: - Lụt lội trời làm gay gắt / Ai có trống dậy
đánh trống / Ai có chiêng dậy đánh chiêng. Lời xường đã nhắc nhở người dân
bản một câu chuyện mà người già thường kể cho con cháu nghe: "Thần lụt ghê gớm thật, nhưng thần vốn sợ
tiếng trống, tiếng chiêng...". Họ cố nhìn lên xem người con gái đang
xường ấy là ai, chỉ thấy sau đám mây mờ mờ một người con gái còng lưng bên
chiếc xa quay sợi vừa làm vừa xường...
Càng thấm thía lời
xường, họ rủ nhau trèo lên cao nữa để gặp cô gái và để hỏi thêm câu chuyện cho
rõ ràng. Họ leo mãi lên một mỏm núi cao chót vót nhưng khi đến nơi chỉ là mỏm
núi đá bình thường như nhiều mỏm núi khác. Lúc trở xuống, ngoái nhìn lại vẫn
thấy hình người con gái quay xa và vẫn nghe tiếng xường dìu dặt. Một trong bọn
họ nói: - Thôi không phải tìm đâu nữa.
Đây chắc là con yêu quý của bà Dạ Dần ngày xưa đến bày cho ta điều hay, điều
phải đây. Ta cứ nghe theo như thế mà làm thì hơn cả.
Mọi người kéo nhau xuống
núi, tìm được mấy chiếc trống đồng con vướng vào các hẻm đá, khe núi không trôi
đi được. Họ thi nhau đánh trống vang lên. Quả nhiên, nước lụt rút đi rất nhanh.
Trong lúc đó tiếng xường ở trên cao vẫn vọng xuống, đan quện vào trong tiếng
trống. Lời xường lại giải thích cách làm ăn của bà Dạ Dần: - Đất đen bà trồng lá (lúa) / Đất đỏ bà trồng
vang / Đất vàng bà trồng nghệ.
Những người dân bảo
nhau: - Bà Dạ Dần đã bày cách làm ăn cho
ta đó. Nước rút đi rồi, chỗ nào trồng được cái gì thì ta trồng để kiếm cái mà
ăn. Thôi hãy đi làm đi! Họ cùng nhau đi cuốc đất trồng lúa ở đất đen, trồng
sắn ở đất đồi, trồng ngô ở đất bãi. Những người bị lụt phiêu dạt đi các nơi,
nghe nói cùng đang trở về tỉa lúa ngô, dựng nhà dựng cửa.
Dân mường Tạ rất nhớ ơn
cô gái đã mách bảo cho họ cách làm ăn. Bây giờ có lẽ cô gái đã về với bà Dạ Dần
hay thương hay xót rồi. Nhưng cô vẫn để lại hình dáng của mình. Mỏm núi làng
Nhàng (1) vẫn còn mô đá tạc hình cô gái đang còng lưng
kéo sợi, quay xa. Bà con đặt tên cho cô là nàng ả Còm và lập
đền thờ nàng ngay cạnh đó. Con gái Mường Tạ luôn nhớ nàng bằng cách tập nghề
quay xa, dệt vải và thuộc lòng nhiều bài xường bắc bông, kêu vía lúa.
92. SỰ TÍCH ỐNG SÁO
"ÔI"(1)
Ngày xửa ngày xưa, khi
trời còn rất thấp, thấp đến nỗi từ những nóc nhà cao nhất có thể nhìn thấy cổng
nhà trời. Ở một làng kia có một chàng trai săn bắn tài, làm nương giỏi, con gái
trong làng ai cũng ước ao có được người chồng như chàng, nhưng chàng lại chẳng
để ý đến ai cả. Chàng trai ấy tên là Khun Lồ. Khun Lồ mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ
chàng rất thương chàng. Chàng đã đến tuổi trưởng thành, bà thường khuyên con
lấy vợ để gia đình thêm vui, nhưng chàng chỉ cười không nói nói. Một hôm nghe
mẹ hát: - Nhà không có con dâu sớm tối /
Lúa chín ngoài nương không ai đi hái / Bắn được con tòi, con mang ngoài rẫy /
Chẳng có ai nấu bát canh ngon...
Thương mẹ, Khun Lồ thú
thật là từ lâu đã yêu một người. Người đó có con mắt như trăng mồng năm, nhìn
mãi không chán, nước da như mặt trời buổi sáng, nhúng vào chàm chàm không nỡ
nhuốm xanh. Váy nàng thêu, nàng dệt đẹp hơn áng cỏ non. Rượu nàng ủ thơm ngon,
uống một ngụm là say, nhớ mãi.
Nghe nói, mẹ chàng đoán
ra ngay là nàng U Tiệm. U Tiệm nết na nhu mì, khéo chân khéo tay, trong mường
bản chẳng có ai sánh kịp. Mẹ chàng rất vui mừng. Nhưng khi sực nhớ ra U Tiệm là
con nhà lang thì bà rất lo sợ. Dòng họ U Tiệm phép tắc rất nghiêm, con nhà dân
mà lấy con nhà lang thì trai sẽ bị phạt vạ hàng trăm trâu trăm bò lại bị đuổi
đi xứ khác, gái thì bị úp rổ vào mặt và bị đuổi ra khỏi nhà.
Bà nói với con: - Thôi con ạ, nhà ta nghèo, ta nên kết bạn với
người nghèo thì hơn. Khun Lồ an ủi mẹ: - Mẹ không lo, con cọp nó bị đuổi rừng này nó còn rừng khác để ở, huống
gì là con người. Lấy được nàng rồi, nếu họ đuổi khỏi mường này ta đi mường
khác, đuổi mường thấp ta lên mường cao, ở đâu có đất có nước, ở đó sẽ có cơm có
gạo. Thấy con quả quyết, bà không nỡ nói thêm, chỉ lẳng lặng thở dài.
U Tiệm cũng nghĩ như
Khun Lồ, đã nhiều lần nàng nói với Khun Lồ: Bạc nén, trâu bò nàng không mang,
cha mẹ từ bỏ nàng không sợ. Nàng chỉ sợ không lấy được chàng mà thôi. Một hôm,
hai người hẹn nhau ra nương cầu trời đất và các vị thần khe, thần núi giúp cho
họ nên vợ nên chồng. Khi U Tiệm đã về rồi Khun Lồ cất tiếng hát vang cả rừng
xanh: - Bụng đã thương em / Tay không
biết mệt / Tha hồ phát rẫy trồng bông / Tháng chín lấy cánh kiến nhuộm hồng /
Nên vợ nên chồng / Nước chàm càng xanh đậm / Em ra khe tắm / Đàn bướm lượn
quanh váy tưởng hoa. Tiếng hát chưa dứt, bỗng từ dưới làng vọng lên tiếng
trống, tiếng chiêng rộn rã. Không hiểu chuyện gì xảy ra. Khun Lồ chạy một mạch
về nhà. Đến con suối đầu làng hỏi thăm mới biết đó là con trai nhà trời kéo
quân lính xuống hỏi nàng U Tiệm làm vợ. Cha mẹ nàng đã bằng lòng gả, hiện đang
giết trâu mổ lợn làm tiệc cưới.
Nghe tin Khun Lồ bàng
hoàng cả người. Chàng xăm xăm chạy đến nhà nàng, quyết giành lại cho được nàng
U Tiệm. Nhưng quân lính nhà trời đã dùng lưỡi mác chặn chàng lại, thế là mối
tình giữa hai người đứt đoạn, không kịp nói với nhau một lời, không kịp nhìn
nhau lần chót.
Thấm thoát đã mấy mùa
trăng tròn rồi lại khuyết, hai người chỉ nhớ thương nhau. Khun Lồ thường lên
những ngọn núi cao nhất, nhìn lên các toà ngang dãy dọc nhà trời để mong nhìn
thấy hình bóng người yêu. Còn U Tiệm thì từ ngày bị bắt lên trời suốt ngày ủ
rũ. Chồng nàng đành để nàng ở một nhà riêng thật yên tĩnh. Được ở một nơi vắng
vẻ, ngày nào cũng vậy, cứ chiều chiều là nàng mở cửa ngó xuống trần gian.
Một đêm trăng sáng, đang
ngồi bên cửa sổ tưởng nhớ người yêu. Bỗng U Tiệm nghe vọng lên tiếng hát quen
thuộc của Khun Lồ từ chỗ nàng và chàng thường ngồi tình tự với nhau. Tự nhiên
nàng ứa lệ, nhưng nàng cố nén cảm xúc, lau nước mắt ngó xuống trần gian tìm
chàng. Bỗng tim nàng đập liên hồi, khi thấy chàng đang đứng trên đỉnh núi mà
ngước mắt lên nhìn trời. U Tiệm bèn lấy chiếc khăn thêu buộc vào ngọn cây và
vít cho ngọn cây hạ xuống. Khun Lồ trông thấy khăn của người yêu vụt chạy tới,
vừa lúc đó U Tiệm buông dây lưng xuống. Khun Lồ bám lấy đu lên gặp nàng. Khun
Lồ than thở: - Ta tưởng ông trời công
bằng sẽ giúp chúng ta nên vợ nên chồng, không ngờ ông trời lại là kẻ dùng quyền
thế cướp mất vợ của ta. U Tiệm cũng nói: - Ông trời ác nhưng ông trời chỉ cướp được phần xác của em thôi, còn phần
hồn vía em thì ông trời không cướp được đâu. Hồn vía em vẫn là của chàng. Chàng
đi ra rẫy thì hồn em đi theo, lúa của chàng bông sẽ to như đuôi trâu mộng.
Chàng đặt bẫy thì vía em đi theo, bẫy của chàng sẽ được nhiều thú nhiều chim
làm canh cho mẹ ăn.
Câu nói của người yêu có
sức mạnh kỳ lạ. Mẹ thấy Khun Lồ ngày
càng làm việc giỏi, càng thương con xót xa trăm phần. Còn Khun Lồ thì cứ đêm
đêm theo lối cũ bám lấy dây lưng do U Tiệm dòng xuống mà lên tình tự với nàng.
Nhưng câu chuyện lâu
ngày khó bề giữ kín. Người chồng của U Tiệm sinh nghi. Hắn nghĩ: người có ngoại
tình con mắt hay long lanh và hay cười một mình. Thế rồi hắn để ý và rình, rồi
một đêm hắn bắt được quả tang Khun Lồ. Hắn tự tay chém đầu chàng và sai lính
đâm vào đầu chàng. U Tiệm thấy người yêu bị giết, đau đớn quá nàng chỉ thét lên
một tiếng rồi chết ngất đi không hồi tỉnh nữa.
Khun Lồ bị giết, máu
chảy xuống trần gian nhuộm đỏ khắp núi đồi, nhuộm đỏ cả rừng trúc trước cửa. Mẹ
già thương con khóc vật vã suốt ngày đêm. Trai gái trong làng trước cảnh đó
cũng ra rừng trúc khóc thảm thiết. Bỗng một đêm, trăng mờ mây toả, người ta
nghe ngoài rừng trúc có tiếng vi vu, lúc khoan nhặt, lúc trầm lúc bổng, rung
cảm lòng người một cách kỳ lạ. Gái dừng tay dệt vải, trai nghỉ việc đan lát,
ông già bà cả thôi không trò chuyện. Họ lắng nghe một lúc rồi kéo nhau ra rừng
trúc để tìm nghe cái tiếng kỳ lạ ấy. Đến nơi, họ thấy cây trúc thẳng tắp, ngọn
chọc lên nền trời, giữa thây cây có bốn lỗ thủng, khi gió lùa vào thì bốn lỗ
thủng đó vang lên tiếng nhạc réo rắt du dương. Thấy lạ mỗi chàng trai tìm lấy
một ống trúc, khoét mấy lỗ tròn, rồi ghé miệng vào thổi. Từ những ống trúc ấy
cũng vang lên tiếng nhạc, tiếng nhạc réo rắt như thương như nhớ, như giận như
hờn. Các chàng trai làng cứ thổi mãi, thổi mãi. Nghe thấy tiếng sáo kỳ lạ ấy,
ông trời sợ quá vội kéo màn trời lên, kéo mãi đến khi xa mãi trần gian không
còn nghe thấy tiếng sáo nữa mới thôi.
Từ đó, ban đêm mường
dưới khắp nơi vang lên tiếng nhạc. Họ đặt tên cho cái ống trúc kỳ diệu ấy là
"sáo Ôi", chiếc sáo ca ngợi tình yêu chung thủy của Khun Lồ và U
Tiệm, chiếc sao nói lên những nỗi oán hờn của đôi bạn đối với kẻ đã chia rẽ
tình yêu, đến cả trời cao kia cũng phải sợ.
93. SỰ TÍCH NGƯỜI LÀM
CHÚA MUÔN LOÀI
Ngày xưa cõi trời và cõi
trần rất gần nhau cũng như cõi trần và cõi nước ở liền sát bên nhau vậy. Trong
một ngày, tất cả muôn loài ở trên ba cõi đều có thể đi lại chơi bời vài ba bận
mà trời vẫn chưa tối. Vua thiên đình là Đức Ngọc Hoàng cai quản tất cả muôn
loài trên ba cõi. Nhưng vì muốn cho các tôi muôn loài ở trên cõi trần và cõi
nước có một vị đại diện coi sóc hàng ngày, Ngọc Hoàng đặt ở cõi trần một vị vua
nhỏ gọi là Hoàng Đế và đặt ở cõi nước một vị vua gọi là Thuỷ Tề. Thời ấy, Hoàng
Đế ở trần gian là rùa còn Thuỷ Tề ở cõi nước là thuồng luồng.
Nhưng ở cõi trần, muôn
loài ngày càng chia làm nhiều giống vật, ngày càng sinh sôi nảy nở. Hoàng Đế
rùa chân ngắn mai dày, đi lại chậm chạp, không còn đủ tài đủ sức cai quản muôn
loài được nữa. Vì vậy nhiều lần Hoàng Đế rùa tâu lên Ngọc Hoàng xin từ chức, để
một loài khác lên ngôi. Nhưng khi Ngọc Hoàng hỏi rùa nên cử ai thì rùa lúng
túng vì rùa chưa biết kẻ nào thật xứng đáng. Có những lần, Ngọc Hoàng và Hoàng
Đế rùa bàn luận hàng vài tháng, điểm qua hết thảy muôn loài nhưng vẫn chưa tìm
được kẻ đáng tin cậy nhất để làm vua thay rùa.
Một hôm, Ngọc Hoàng tìm
ra được một kế, bèn cho gọi Hoàng Đế rùa ở trần gian lên bàn bạc, rồi về loan
báo cho muôn loài: - Đức Ngọc Hoàng đã chết, ai có lòng nhớ ơn Ngọc Hoàng thì
lên thiên đình mà phúng viếng.
Ngọc Hoàng có ý định là
qua sự phúng viếng của muôn loài sẽ chọn lấy kẻ nào đó có ý thực tâm thương xót
mình nhất thì cho làm vua trần gian. Nhận lệnh của Ngọc Hoàng, về trần gian.
Hoàng Đế rùa phải đi suốt ba tháng ròng rã mới loan báo được hết khắp các loài.
Được tin, muôn loài ở trần gian rủ nhau lên thiên đình để phúng viếng và vào tế
Ngọc Hoàng. Hoàng Đế rùa cùng đi nhưng thỉnh thoảng vẫn dừng lại dọc đường để
nghe ngóng và hỏi thăm những con đi chậm.
Các loài, từng đàn lũ
lượt kéo nhau lên thiên đình. Trước tiên là loài chim vì chúng cậy mình nhẹ
người lại có cánh nên rủ nhau bay vùn vụt. Trên đường đi, thấy Hoàng Đế rùa
lạch bạch bước một, chúng còn quay lại chế giễu. Thứ hai là đoàn thú rừng, đi
đầu là các giống hươu, nai, theo sau là các giống chồn, sóc, thỏ, sau cùng là
giống hổ lang… Đoàn này nối đuôi nhau hung hăng xông xáo, đi đến đâu cũng kêu
la inh ỏi, làm động cả đất, dạt cả cỏ, đổ cả cây. Khi vượt qua Hoàng Đế rùa,
chúng thi nhau trêu tức. Thứ ba là loài bò sát gồm rắn, rết, thằn lằn, kỳ
nhông, trăn gió… cũng không kém phần hung hăng. Chúng cũng bỏ xa rùa, có con
còn phun bọt vào mắt làm cho rùa phải thụt đầu lại. Sau cùng là đoàn người.
Loài người đi rất thong thả. Họ vừa đi vừa kể cho nhau nghe công lao của Ngọc
Hoàng đối với muôn loài và đặc biệt là đối với loài người. Họ ca tụng Ngọc
Hoàng có nhiều khó nhọc khi ấp ủ làm ra đất trời, sinh ra cỏ cây và muôn loài.
Đi được nửa đường, đoàn người lại gặp Hoàng Đế rùa đang cất từng bước chân nặng
nề mỏi mệt. Họ liền thay phiên nhau cõng Hoàng Đế rùa cùng đi cho nhanh.
Tất cả các loài đều đã
đến nhà Ngọc Hoàng. Khi vào tế, loài chim đến trước nên được mời tế trước.
Chúng đứng con trên con dưới, con dọc con ngang, con quay mặt lên, con quay mặt
xuống rất lộn xộn. Chúng gào: - Hỡi Ngọc Hoàng! Hỡi Ngọc Hoàng! Vua nhà trời mà
còn chết được sao? Chúng tôi cứ tưởng rằng đã là vua nhà trời thì phải sống để
ngày đêm làm mưa làm gió, bắt sống bắt chết chứ. May mà Ngọc Hoàng chết đi,
loài chim chúng tôi sẽ được bay lượn tự do. Hỡi Ngọc Hoàng! Thật là thương tâm!
Bầy lũ chúng tôi từ nay sẽ được tung hoành rộng cánh.
Nằm giả chết ở trên
giường, nghe lời chim chóc khóc than, Ngọc Hoàng giận ứ đến tận cổ. Chúng chỉ
khóc lóc, kêu gào ở ngoài mồm. Con nào mắt cũng ráo hoảnh. Chúng tuôn ra toàn
là những lời châm biếm mỉa mai. Bao nhiêu lần Ngọc Hoàng toan vùng dậy đánh cho
chết bọn bội bạc, nhưng cố nén lòng để con thử lòng các loài khác nữa.
Kêu than giả dối một
hồi, đàn chim láo nháo đi ra nhà ngoài chờ ăn uống. Tiếp đến đoàn thú rừng vào
tế, chúng đứng ngổn ngang, lộn xộn hơn cả loài chim. Đến giờ cử ai, tiếng khóc
của chúng lại càng ồn ào. Giống hươu, nai khóc vang trời, làm inh tai nhức óc.
Giống hổ báo gầm gừ, nhe nanh, giơ vuốt làm cho ai cũng phải run sợ. Chúng cũng
mắt ráo hoảnh cùng một giọng mỉa mai. Đến lượt loài bò sát cũng vậy. Lộn xộn,
ồn ào, giả dối lộ ra trong cách ngồi, cách trườn, trong tiếng khóc kêu gào, có
con tỏ ra ngạo mạn hung hăng, bội bạc hơn loài chim, loài thú. Ngọc Hoàng nghe
thấy rõ hết nhưng cũng cố nén lòng chờ đoàn người vào tế xong sẽ liệu.
Đến lượt đoàn người vào
tế. Họ biết nghe lời nhau, đứng xếp hàng im lặng, kẻ trên người dưới. Người nào
cũng mắt buồn rười rượi. Hàng trên không ai nói một lời, hàng dưới không khí im
lặng không ai hé một câu và chính không khí im lặng ấy càng làm cho buổi tế trở
nên nghiêm trang. Theo lệnh người đứng đầu, tất cả đoàn người cùng một lúc cất
lên tiếng khóc. Họ cùng nhau khóc lóc và than rằng: - Ô hô! Ô hô! đức Ngọc
Hoàng sáng tạo và cai quản muôn loài, thương Ngọc Hoàng như thương mẹ, nhớ Ngọc
Hoàng như nhớ cha. Công ơn Ngọc Hoàng cao như trời rộng như biển. Ngọc Hoàng
chết đi là hết. Quỳ trước vong linh Ngọc Hoàng, chúng tôi dâng cả tấm lòng biết
ơn của loài người đối với Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng..
Khóc lóc kêu than xong,
đoàn người còn xụp lạy, ai cũng nước mắt chảy thành dòng. Nằm im trên giường
nghe tiếng khóc thảm thiết, Ngọc Hoàng cảm động vô cùng. Chờ muôn loài tế xong,
Ngọc Hoàng vùng nhổm dậy, rồi vẫy gọi tất cả lại gần và nghiệm nghị nói: - Ta bày ra trò này chỉ là để thử lòng muôn
loài đấy thôi. Hiện nay Hoàng Đế rùa đã già yếu, ngày càng chậm chạp, ta muốn
tìm kẻ có tài có đức thay, nhưng chưa biết chọn ai. Cho nên ta muốn qua buổi
phúng viếng này mà chọn lấy một loài vừa có nhân lại vừa có đức và có lòng
chủng thuỷ đối với ta lên ngôi thay Hoàng Đế rùa. Cuộc phúng viếng và tễ lễ này
ta đã biết ai tốt, ai bội bạc. Vì vậy, bây giờ ta có thể chọn kẻ xứng đáng lên
ngôi Hoàng Đế.
Thấy Ngọc Hoàng còn
sống, phán như thế, các loài chim và thú rừng quay lại trách móc lẫn nhau, vì
quá nông nổi đã trót nhỡ lời mỉa mai, châm biếm Ngọc Hoàng. Nhưng chúng cũng
quyết định giành ngôi Hoàng Đế cõi trần cho tộc mình. Loài chim bèn đưa ngay
diều hâu ra ứng cử. Chúng hết lời tán tụng Diều hâu có tài bay cao, bay khoẻ,
chỉ một lúc có thể bay đi toàn thiên hạ. Diều hâu có đôi mắt tròn xoe và sáng
quắc, có cái nhìm thấy được tất cả mọi cái hay, cáo dở của muôn loài để đặt ra
các hình phạt hoặc có phần thưởng một cách chính xác. Diều hâu lại có cái mỏ
quặp và cứng, có bộ móng sắc và nhọn, sẽ có đủ tài lực để mổ thủng đầu, xé tan
xác những loài, những giống ngang ngạnh và bướng bỉnh.
Loài thú rừng cũng hăm
hở đưa chàng Hổ ra tranh cử. Chúng bảo rằng Hổ có tài nhảy cao và chạy xa, một
loáng có thể đi khắp nơi, mọi ngõ ngách, từ ngọn suối đến cuối ghềnh, từ nơi
hang cùng ngõ hẻm đến các nơi hẻo lánh, nên có thể đủ sức để xem xét muôn loài.
Hổ lại còn có sức khoẻ vô địch, có bộ nanh sắc, có bộ vuốt nhọn, thừa sức quật
chết tươi bất cứ loài nào không chịu tuân theo lệnh của Hoàng Đế.
Loài bò sát thì hết lời
tán dương Rắn. Chúng bảo rắn có tài bò lên trên các cây cao xem xét các loài chim
lại có tài trường mình khắp mặt đất để thăm hỏi các loài thú, có tài lén lút
chui vào mọi làng mạc xó xỉnh để dò xét từng việc làm hay dở của các loài.
Loài người vẫn chưa lên
tiếng, họ có ý chờ Ngọc Hoàng kén chọn, nhưng Hoàng Đế rùa vốn mến loài người
có nhân nghĩa, tài trí nên tiến cử. Ngọc Hoàng đồng ý, phán rằng: - Ta cũng có
ý như Hoàng Đế rùa, vậy ta bằng lòng chọn loài người lên ngôi và thay Hoàng Đế
rùa cai quản muôn loài ở cõi trần gian.
Nghe Ngọc Hoàng phán
chọn loài người lên ngôi Hoàng Đế, Hổ tức giận trợn tròn mắt xanh lè, giơ vuốt
nhe nanh, gầm lên vang trời, toan nhảy bổ vào cắn xé người. Diều hâu cũng trừng
đôi mắt, xoè năm đôi móng sắc nhọn, quắp cái mỏ quặm, định bay vù lại mổ loài
người. Loài rắn cùng trợn tròn đôi mắt lồi, bành cổ phun bọt phì phì định lao
mình nhả nọc độc.
Ngọc Hoàng trợn mắt quát
lớn, tiếng quát của Ngọc Hoàng vang ran như sấm động làm cho hổ, rắn, diều hâu
phải đứng sững lại. Chúng nép vào nhau, run cầm cập. Ngọc Hoàng phán tiếp: - Loài người có trí thông minh, biết giữ đạo
lý, biết trọng nhân nghĩa cho nên ta chọn loài người làm Hoàng Đế cai quản muôn
loài ở dưới cõi trần. Tất cả các loài từ nay phải nghe theo lệnh của loài
người. Hổ có bụng dạ xấu xa, từ nay phải chịu cho người ăn thịt và ninh xương.
Diều hâu độc ác, từ nay sẽ phải chịu cho người săn bắt, còn rắn thường phun
người bằng nọc độc thì sẽ phải chịu cái hình phạt nằm co quắp ở trong hang chịu
nhịn đói suốt nửa năm và chỉ được ra ánh sáng khi có mặt trời chiếu sáng. Loài
thảo mộc hôm nay không chịu đến chầu. Ta ra lệnh cho loài thảo mộc nhất nhất
phải chịu lệnh của loài người không được cưỡng lại.
Sau đó Ngọc Hoàng lệnh
tan buổi chầu, muôn loài ở đâu lại về đấy. Loài người trở về lên ngôi Hoàng Đế,
thay rùa trị vì trần gian. Từ đó, người được săn bắt loài thú, đánh bẫy loài
chim, có quyền chặt cây, đốn gỗ, cắt cỏ, nhặt gọn, hái quả, lượm hạt bất cứ
loài thảo mộc nào. Loài thảo mộc y lệnh Ngọc Hoàng nhất thiết nghe theo sự sai
bảo của loài người. Duy chỉ có Hổ, Rắn và Diều hâu hãy còn bướng bỉnh. Chúng không
hoàn toàn tuân lệnh Ngọc Hoàng. Nhưng chúng không dám công nhiên phản lại loài
người. Hổ còn rình vồ trộm loài người tha về rừng ăn thịt, diều hâu bất chợt sà
xuống tha vụng vài con gà của người đem tít lên ngọn cây. Loài rắn còn lén lút
thả nọc độc vào một vài người vô ý. Tuy Hổ, Rắn và Diều hâu có bụng độc ác
nhưng chúng đều rất sợ uy của loài người. Mỗi khi gặp người chúng thường tránh
mặt.
Loài người có quyền cai
trị trần gian từ đó.
94. SỰ TÍCH CON CHẪU
CHÀNG
Xưa có một gia đình
không biết cách làm ăn nên suốt đời túng thiếu. Mặt nữa, không biết cách dạy
con, thường để chúng chơi bời lêu lổng, nên khi hai vợ chồng chết đi để lại cho
hai đứa con trai một gia tài rỗng tuếch chỉ có một con dao cùn để sống. Thằng
em còn nhỏ chưa biết gì đã đành, thằng anh đã vào tuổi thanh niên nhưng thích
lêu lỏng hơn thích làm, lại thêm tính tham lam, ích kỷ.
Bố mẹ chết đi, thóc gạo
chỉ vừa đủ ăn vài ngày. Người anh nói với em.- Ta phải đi khỏi làng nghèo khó
này, tìm đến xứ nào giàu có hơn, may ra anh em ta sống được. Thế là người anh
dắt vào lưng một con dao cùn duy nhất và xăm xăm bước đi trước, mặc cho em lầm
lũi chạy theo sau. Vừa đi, người anh vừa nghĩ: "Bố mẹ chỉ để lại cho ta
một con dao cùn mà bắt ta phải nuôi một đứa em!". Điều đó làm anh ta hậm
hực hơn tình máu mủ ruột thịt. Thỉnh thoảng anh ta lại quay lại gắt đứa em tội
nghiệp, đến bữa anh ta chỉ véo cho em một nắm xôi nhỏ bằng quả trứng và bảo em
vừa ăn vừa đi cho chóng đến xứ giàu có.
Họ đã đi nhiều ngày,
lương thực mang theo đã cạn. Người anh càng trở nên bẳn gắt. Người em mệt nhoài
không muốn bước nữa nên lại càng bị anh mắng chửi.
Đến một đoạn đường, hai
anh em gặp một vật ngáng đường: Một cây gỗ, cây gỗ có phép lạ. Muốn trèo qua,
nó nâng cao lên, thấy thế định chui xuống, nó lại hạ xuống, muốn tránh sang bên
kia, nó lại dài vô tận. Thấy thế, người anh thầm nghĩ: "Cái cây này chắc là vật ngăn cách giữa thế
giới nghèo khổ và xứ giàu có đây. Bên kia ắt là thế giới đầy sung sướng".
Nghĩ thế, hắn nóng lòng muốn vượt nhanh sang bên kia. Nhưng chẳng thể nào sang
được. Người anh nghĩ rằng do đứa em ngờ nghệch nên vướng chân mình trên đường
đi tìm cuộc sống sung sướng. Hắn bèn nghĩ ra một kế: Lừa cho em chui qua cây gỗ
chắc chắn sẽ ẹp xuống, lúc ấy mình lấy đà nhảy qua chắc sẽ vượt được cây gỗ đến
xứ giàu có kia. Khi thật giàu sang, ta hãy quay lại đón em về nuôi, cũng chưa
muộn". Và hắn lại nghĩ: "A mà để nó lại, chưa chắc nó chịu ở mãi đây,
có chân chắc nó sẽ đi, lúc ấy biết đằng nào mà tìm. Chi bằng chém què chân để
nó không đi xa nơi này, sau này đỡ mất công tìm".
Nghĩ vậy, hắn nói với
em: - Bây giờ anh em ta phải có mẹo mới
qua được cây gỗ tai quái này mà sang với thế giới giàu sang bên kia. Anh bảo
thế này: Em giả vờ chui qua cây gỗ để nó hạ thấp xuống, anh nhảy qua, sau đó
anh sẽ trèo sang lại, lúc ấy chắc cây nâng lên cản anh, em sẽ chui sang.
Nghĩ vậy, nhưng trong
lòng người anh khó tin lừa cây được hai lần. Đằng nào cũng không thể sang được
cả hai anh em, nên người anh quyết chí thực hiện âm mưu của nó.
Chờ lúc người em nó đang
quỳ gối định chui qua và khi cây gỗ đã hạ dần xuống, người anh rút dao chém vào
kheo chân em làm đứt dây gân và lập tức hắn vọt sang. Hắn đã đánh lừa được cây
thần lẫn em hắn. Bây giờ đằng nào em hắn cũng chẳng thể đi được nữa dù có cách
cho nó vượt qua khỏi cây gỗ này. Nghĩ vậy, hắn một mình đi thẳng.
Hắn đi mãi, đi mãi và
tới được một bản mường to rộng, đông đúc ngựa xe, người qua lại. Hắn chắc mẩm:
đã đến xứ ta mong muốn rồi đây. Vừa vặn cũng hết cái ăn và do phải nhịn đói mấy
ngày, người anh hăm hở vào bản mường. Trước mắt có bao nhiêu là người đang ngồi
ăn uống rộn rịp, toàn những thức ăn ngon lạ và có cả rượu thơm lừng. Hắn mò
đến, nhưng đám người ngồi ăn không một lời chào mời. Ăn xong, thấy họ trả tiền
rồi đi, vừa lúc ấy, có người để ý đến hắn rồi hỏi: - Anh định dùng thứ gì? Sao chẳng thấy gọi? ở đây có đủ loại chiều khách.
Nếu không dùng gì thì mời anh đi chỗ khác cho chúng tôi bán hàng.
"À, hoá ra ở đây ăn
phải trả tiền, mình cứ tưởng họ đang ăn cỗ cưới gì đó, chắc mẩm được xơi một
bữa no nê!". Hắn nghĩ thế thấy xấu hổ vì chẳng có đồng tiền nào mà trả.
Nhưng khốn nỗi đói quá, xấu hổ cũng chẳng được, nên nó nài xin: - Thưa ông, tôi chẳng có tiền, nhưng tôi đã
nhịn đói mấy ngày rồi, mong ông thương cho xin thức gì ăn tạm.
Chủ hàng nói:- Trông anh khoẻ mạnh thế kia mà đi ăn mày -
Nói rồi ông ta sai lấy cho hắn một bát cơm thừa bảo hắn ăn rồi đi cho nhanh.
Ăn xong, thấy chẳng ai
muốn tiếp chuyện với mình nữa nên hắn đi tiếp. Trên đường tấp nập, người gánh,
người đội, người còng lưng kéo xe nặng nề, ăn mặc rách rưới. Cũng có người sang
trọng, đi thong thả hoặc ngồi ngựa, ngồi xe xúc xích. Hắn còn thấy một chỗ rất
đông người, cái gì cũng đầy ắp cá thịt, gạo, ngô, quần, áo, vải vóc nhưng chẳng
có ai cho hắn một ngụm nước lã. Hắn nghĩ: "Ở đây lắm của thế, mà cũng
nhiều người nghèo rách rưới, lại phải còng lưng, mưa nắng vất cả chẳng kém ở
quê mình, chỉ khác là họ làm nhiều việc khác nhau". Làm ruộng, làm nương ở
làng thì hắn đã biết, vì thấy việc đó khó nhọc lắm nên hắn mới bỏ đi.
Cái lạ đập vào mắt hắn
đầi tiên là việc xây nhà. Khác hẳn ở làng, ở đây người ta xây nhà không bằng
gỗ, tre mà bằng đất đá. Hắn mò đến xem, lạ mắt thật nhưng cũng vất vả lắm. Ngắm
mãi đến trưa, thấy người ta nghỉ và bầy cơm gói ra ăn tại chỗ. Hắn cũng đã đói
rồi, thèm ăn mà chẳng ai mời. Hắn lại phải xin ăn.
Mọi người lấy làm lạ hỏi
hắn: - Anh khoẻ thế, không biết đi làm
thuê làm mưới ăn mà phải đi ăn xin ở bọn cực khổ như chúng tôi sao? Hay anh
chưa tìm được việc làm? Cùng làm với bọn tôi đi, còn khối việc cho anh làm và
chắc anh cũng tạm có bữa ăn đấy.
Được sẻ vài lưng cơm,
hắn ngồi ăn chẳng nói, chẳng rằng. Ăn xong, thừa lúc mọi người nghỉ ngơi, hắn
chuồn luôn. Hắn lại tiếp tục cuộc hành khất, lang thang đây đó. Hàng ngày, lúc
ngủ hiên nhà người, lúc ngủ xó chợ, ngày thì lầm mò đến xem, lúc thì chỗ cưa xẻ
đóng các thứ đồ dùng lạ mắt, lúc thì chỗ xay giã, làm bánh, lúc trên bến tấp
nập bao nhiêu hàng hoá lên xuống giữa bến và thuyền, xe chở đủ loại.
Chỗ nào thoạt đầu hắn
cũng được tạm bữa lưng bụng và được rủ làm việc nhưng hắn đều thấy công việc
rất nặng nhọc, suốt ngày chẳng được nghỉ ngơi, hắn lại đi. Đi hết lượt, khi
phải trở lại chỗ đã từng đến, hắn được người ta bảo: - Anh muốn ăn mày thế thì đến chợ mà ăn mày! Đến chợ người ta lại
bảo: - Anh sức lực như thế
chẳng lẽ hàng ngày chẳng kiếm nổi gánh củi đổi lấy bát gạo mà ăn. Hắn nghĩ, chỉ còn cách
đó thôi, xin ăn mãi chẳng ai cho đến lần thứ hai. Hắn đành dắt con dao cùn vào
rừng hái củi. May sao cũng tạm được qua mấy ngày.
Hắn chọn một gốc cây to
ven rừng, có hốc lớn để tránh được mưa nắng, rét buốt làm chỗ ở. Mỗi ngày một
gánh củi ra chợ, đủ hai bữa lại trở về gốc cây nằm ngủ. Lúc đầu, hắn thấy:
"Thế này dễ chịu hơn, tự do hơn,
muốn ngủ bao nhiêu cũng được, mỗi gánh củi thì chẳng mất bao nhiêu sức lắm!".
Nhưng mãi về sau, tĩnh
tâm nghĩ lại: "Mình ngu thật, nếu
chỉ để hàng ngày hái củi thì tội gì mình phải đến đây. Cũng phải nai lưng mới
có cái ăn, thà ở bản này chịu khó phát nương cũng đủ sống, mặc dù không sung
sướng lắm!". Hắn bắt đầu tiếc, và đột nhiên, hắn nhớ đến em. “Giá như hai anh en ở nhà gắng làm nương, như
mọi người trong bản thì chẳng đến nỗi phải xa lìa nhau mà vẫn cực thân như thế
này". Hắn bắt đầu than thân trách phận, oán trách thân mình, hối hận
đã chém em và bỏ em một mình què đau. Giá còn anh còn em chung sức chắc chẳng
đến nỗi cực nhục thế này! Hắn ân hận thổn thức khóc, hắn cầu mong trời đất,
thần linh tha thứ lỗi lầm của hắn và nương nhẹ mở đường sống. Hắn hỏi thần linh
rằng, sao có người sống sung sướng thế, mà số mệnh hắn thế nào mà cực nhục lắm
vậy?
Sự hối hận, than khóc
của người anh làm cảm lòng thương của người con gái vua Thuỷ Tề đang đi đến bên
gốc cây này, bỗng anh chàng cảm thấy ngủ mê. Bừng mắt tỉnh dậy, anh ta đã thấy
mình đang sống trong một lâu đài bằng thủy tinh lộng lẫy mà anh ta chưa bao giờ
nghĩ tới. Một cô gái kiều diễm, xinh đẹp đã đến với anh và nói: - Nơi đây là chốn thuỷ cung, em là công chúa
duy nhất của Vua Thuỷ Tề. Cảm thấy lòng hối hận chân thành của chàng, em quyết
làm vợ chàng, để giúp chàng đạt được lòng mong ước phú quý, giàu sang, ở trên
trần gian chàng đã từng cực khổ quá rồi, ở đây, tại chốn thuỷ cung này chàng
chẳng có việc gì phải làm cả, tất cả đều thế. Cứ việc nhởn nhơ rong chơi khắp
chốn, cái ăn tự đến, không thiếu thứ gì. Lại có em luôn bên cạnh, chắc anh phải
sung sướng thoả mãn ước vọng của mình bây lâu nay.
Đó là cuộc sống hết sức
lý tưởng toại nguyện đối với một kẻ lười biếng mà lại muốn giàu sang, phú quý.
Chẳng bao lâu anh đã có một đứa con trai với công chúa Thuỷ Tề.
Bỗng nhiên có lệnh của
Thiên Đình mời các Vua Thuỷ Tề, Vua Mặt đất mọi phương đến dự yến tiệc chúc thọ
Vua Then - Vua của tất cả các Vua trong ba thế giới: Trời - Đất - Nước. Dạo đó,
Vua Thuỷ Tề ốm mệt, nên cử phò mã - anh chàng lười đi thay. Lúc đầu anh ta ngần
ngừ không muốn xa vợ con, không muốn vất vả dọc đường. Nhưng sau biết, Thiên
Đình là thế giới kỳ lạ, ít người có dịp được thấy, chốn đó còn giàu sang phú
quý, huy hoàng gấp bội so với thuỷ cung chật hẹp, lúc nào cũng cảm thấy như bị
nhốt trong lồng thuỷ tinh này. Thế là anh chàng vui vẻ nhận lời.
Đã thấy anh ta thực sự
hối hận mà thương, nhưng cũng chưa dám tin anh ta hoàn toàn hối cải nên trước
lúc chia tay, công chúa dặn chồng: - Trên
Thiên giới sẽ thấy nhiều điều kỳ thú hơn thuỷ cung gấp bội, nhưng mong chàng
đừng quên nơi đã cứu thoát khỏi nỗi cực nhọc ở mặt đất. Trên Thiên cung có hằng
nga và đa số những nàng tiên tuyệt đẹp, những mong chàng đừng sớm quên người vợ
đã đồng cảm với hoàn cảnh cực nhọc của chàng, chớ quên hòn máu chung của chúng
ta, đứa con trai xinh đẹp của chúng ta đây. Vừa nói xong, một con rồng xanh
đã cõng anh chàng bay vụt lên Thiên đường.
Trước mắt anh chàng là
những danh lam thắng cảnh kỳ thú, cảnh tấp nập rộn rịp của ngày lễ và biết bao
là nàng tiên xinh đẹp. Anh chàng từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hấp dẫn
đến mê mẩn tâm thần. Hình ảnh vợ con của thuỷ cung đã bay biến từ lâu. Cuối
cùng hắn mê mẩn chạy theo các cô tiên và một cô tiên đã sớm kết hôn với anh
chàng si tình này. Hắn đã nhanh chóng hàng ngày cùng vợ tiên ngồi xe du ngoạn
khắp nơi, sóng đôi cùng vợ tiên, thăm các vườn tiên, thưởng thức các hoa trái
của nhà Trời cho phép. Hắn không còn biết có thời gian.
Nhưng ở thuỷ cung, công
chúa Thuỷ Tề thì đếm từng khắc một. Đằng đẵng ba năm trời chẳng thấy chồng quay
về. Nàng hiểu ngay những điều phòng ngừa trước của mình đã đúng sự thật và
không còn cách cứu nữa. Chỉ còn cách bế con lên trời để thức tỉnh tình nghĩa vợ
chồng và cha con trong chàng mà thôi.
Nàng bế con đi và dễ
dàng đến được đất Then. Một hôm, vào lúc anh chàng sóng đôi vợ tiên trời dạo
ngắm vườn đào, mẹ con công chúa Thuỷ Tề chạy đến đón đường anh ta. Thế là diễn
ra cuộc chạn trán giữa nàng tiên trời và công chúa Thuỷ Tề và anh chàng phụ
bạc, lòng tham vô đáy kia. Cuối cùng anh ta chỉ có cách vô liêm sỉ là chối từ
mọi kỷ niệm và những lời khuyên ân tình sâu nặng của vợ.
Thấy tư cách quá tồi tệ
của anh chàng, nàng tiên khinh bỉ bỏ đi, còn lại hai vợ chồng dằng co mãi.
Công chúa Thuỷ Tề nói: -
Chẳng nhận vợ cũng được nhưng hãy nhận
lấy con!.
Nhưng anh chàng cũng từ
chối nốt, người vợ nói: - Nếu sợ phải
nuôi con vất vả mà không nhận lấy con thì ít ra hãy cầm lấy tay con, cho nó
được chút hơi tay bố bõ công từ chốn thuỷ cung đến tận Thiên giới tìm cha.
Anh chàng vẫn một mực từ chối.
Người gác cổng nhà Trời
thấy vậy nói: - Thời gian gặp nhau đã
hết, sao hai người ngoại giới này vẫn còn ở đây. Ra ngay!
Nói rồi, người gác cổng
Then đẩy ba vợ chồng, cha con ra khỏi cổng và đóng sầm cửa lại. Ra ngoài rồi
chàng vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn đuổi mẹ con nguây nguẩy chưa chịu nhận.
Người vợ cố kéo chồng
đến một gốc cây to, cạnh đó có một hồ nước xanh thẳm, người vợ cố ý muốn gợi
trong cái gốc cây đó có một con dao cùn để nhắc nhở anh chàng nhớ lại thủa hàn
vi của anh ta. Nhưng anh ta cố ý không chịu nhớ ra mà vẫn khăng khăng đòi quay
lại nhà Trời.
Không còn cách nào nữa,
người vợ thu lại mọi phép bùa, hoá anh chàng trở lại nguyên hình trong bộ quần
áo rách với con dao cùn dắt lưng đang ngồi rũ bên gốc cây ngày nào. Rồi nàng bế
con từ từ bước xuống hồ nước bên cạnh, phần thân dưới đã biến thành đuôi thuồng
luồng quẫy quẫy tinh sóng cuộn đập vào bờ, xô đến tận gốc cây hắn ngồi. Hắn
giật mình nhìn thấy mẹ con thuồng luồng há miệng phun nước phì phì làm nước như
muốn lôi hắn xuống hồ. Sợ quá, hắn vội trèo lên cây, nhưng run quá lại trượt
tụt xuống kêu plạt, plạt dọc thân cây. Dưới đất sóng nước lại vỗ đến, hắn lại
trèo, rồi lại tụt xuống, lại trèo. Cứ như thế không biết bao nhiêu lần plạt
diễn ra và biến thành phản xạ tự nhiên. Tiếng plạt - plạt (trượt - trượt) lặp
đi lặp lại. Dần dần anh chàng gầy tóp đi, biến hình thành thân con nhái với
cẳng chân tay dài ngoẵng và luôn mồm kêu plạt - plạt, plạt - plạt.
Lại nói chuyện người em,
đau đớn bất ngờ trước sự tàn ác của người anh, cái kheo chân đứt gân chảy máu
đầm đìa, cộng với sự thấm mệt trên mấy ngày đường luôn luôn chạy theo anh,
người em ngất lịm. Tỉnh dậy, cơn đau, cơn đói lại ập đến. Ngoái lại bên phải
anh nhìn thấy một cái cây vừa tầm với, toàn thân chỉ có một chiếc lá to bằng
bàn tay. Như một hy vọng cuối cùng, tự nhiên anh với tay ngắt chiếc lá đó. Ngắt
được anh đưa lên miệng nhá cho đỡ khát. Lạ thay, anh thấy tỉnh người, hết mệt
mà chỉ cảm thấy đau nhói ở chân. Anh bèn nhả bã dịt lên vết thương. Một lúc hết
đau, gân như nối liền lại, vết sẹo tự nhiên lành lặn.
Còn một ít chiếc lá
trong tay, có tiếng nói thầm: "Đây
là lá quý đây, là thứ nước thuốc thần cứu người chết sống lại". Anh
liền cất kỹ vào túi, lấy gai cài lại. Tự dưng anh thấy người lớn hẳn, trở thành
chàng trai thực thụ. Anh muốn đi tiếp, cái cây kỳ lạ không còn cản bước anh nữa
mà xoay đi một quãng sang phía tay phải, mở ra một lối chếch về tay trái cho
anh đi. Chàng trai nghĩ: "Mình sẽ
chẳng đi theo con đường người anh đã đi, đó là con đường ác. Cái cây này hẳn có
ý ngăn ta đi theo con đường ác đó".
Anh hăm hở đi theo đường
của mình chọn. Bắt gặp một ngọn suối chảy xuống núi về mãi phía xa, anh lần theo.
Đi một quãng xa, anh gặp một con chó nằm chết dưới một gốc cây to, phần mông
chó bị cắn xé nham nhở trơ xương, nhưng phần đầu vẫn nguyên vẹn. Chàng thương
hại, ngó đến cái lá đã cứu mình, anh vội lôi ra thử nhá một miếng phun vào con
chó. Con vật đứng dậy, nguyên vẹn, con chó vẫy đuôi vui mừng quấn quýt lấy anh.
Từ đó, anh có con chó làm bạn đường. Đi mãi một quãng xa nữa, anh lại gặp một
con gà. Hình như bị cáo bắt đến đây, toàn thân bị dóc hết thịt chỉ còn nắm
xương và lông. Anh lại nhá một miếng lá khác phun vào nắm xương và nắm lông gà.
Một con gà sống đẹp vỗ cánh gáy vang vang rồi bay lên đậu lên vai anh. Anh cùng
chó, gà đi tiếp. Tới một bản nhỏ, thấy tiêu điều vắng vẻ. Khi đến gần anh thấy
tiếng rên trong nhà, anh bước lên nhà thấy cả nhà nằm ngổn ngang chờ chết, lác
đác có vài người đã chết. Tất cả các nhà đều có hiện tượng ấy. Bản này bị dịch
tả hoành hành, tất cả bị ốm nên chẳng có ai chôn cất người chết nữa.
Để cứu dân bản, anh lấy
chiếc lá cắn một miếng, nhá nhá rồi nhổ ra cái bát to hoà thêm nước cho người
còn sống uống. Mọi người khỏi bệnh, anh lại hoà miếng khác rẩy lên những người
chết, họ sống cả lại. Dân bản xem anh như vị cứu tinh và dành cho anh những lời
ca tụng đẹp nhất. Họ còn để anh làm Tạo bản và tìm vợ cho anh. Nhưng cụ già nhất
bản, thấy anh là một trang tuấn tú khác thường nên nói với anh và cả bản: - Bản
ta cảm ơn anh đã cứu sống, ân nghĩa ấy, biết lấy gì đền đáp cho được! Ta quý
mến muôn vàn người con này. Nhưng bản ta nhỏ, mà chàng đây là một trang tuấn
kiệt. Chàng phải làm chủ cả một mường lớn mới xứng. Chàng còn phải cứu vớt cả
thiên hạ khỏi bệnh tật đói nghèo. Phải xa chàng chúng ta buồn nhớ nhưng để
chàng giúp ích được cả toàn thiên hạ, thì hẳn chúng ta đều vui lòng.
Thế là cả bản lưu luyến
với chàng, họ tiễn chàng ra đi, chàng đi qua nhiều sông suối và một hôm đến chỗ
cửa thành phố to lớn, rầm rập ngựa xe. Nhưng người nào cũng có bộ mặt đưa đám.
Khắp chốn người ta xả thịt trâu, bò. Chẳng ai nói với nhau. Lấy làm lạ, chàng
hỏi những người đang bận rộn kia: - Chẳng
hay mường ta có việc gì mà thịt lắm trâu bò làm vậy. Đã lắm thịt nhiều xôi mà
ai nấy lại rầu rĩ thế? Họ ngạc nhiên hỏi anh: - Chẳng nhẽ anh lại không biết sao? Cô con gái duy nhất muôn vàn xinh đẹp
là hy vọng của nhà Tạo và cả mường ta đã chết mấy ngày nay. Hôm nay là ngày đưa
đám đấy!
Mọi người như muốn bật
khóc khi người ấy nói hết. Chàng nghĩ, cái chết của người con gái này làm cả
mường buồn đau chắc hẳn đây là người tốt, ta nên giúp chữa. Không biết lá của
ta lần này có hiệu nghiệm không? Chàng rẽ đám đông đến nhà Tạo. Vừa lúc người
ta khiêng thi hài "công chúa" xuống nhà để mang chôn. Anh mạnh dạn
đón đường đám đưa tang và nói to: - Thưa
nhà Tạo, thưa tất cả mọi người. Thấy đám tang đau thương này, tôi không thể nào
ngồi yên được! Xin Tạo và mọi người cho phép tôi thử chữa lần cuối cũng xem
sao, may ra được chăng?
Có người nói: - Đã chết
mấy ngày, còn chữa thế nào được? Chàng đáp: - Tôi đã nói là thử, còn nước còn tát. Còn thi hài đó còn thử xem. Tôi đã
từng chữa cho con chó, con gà, mục xương sống lại, cứu cả một làng bệnh dịch
khỏi nên mới nói thử xem sao.
Nắp quan tài mở ra,
khuôn mặt xinh đẹp của công chúa đã trắng bệch, đôi môi nhợt nhạt mím chặt.
Chàng vội nhá miếng lá quý rồi cố cậy môi nàng nhét miếng lá nhá vào và lạ
thấy, chỉ lát sau đôi môi động đậy, mắt nhấp nháy rồi mở to, tiếng kêu yếu ớt
"Mẹ ơi!" thoát ra từ miệng
nàng. Mọi người xúm lại vực nàng dậy và bế ra khỏi quan tài lên nhà. Công chúa
sống lại, cả Mường vui mừng.
Ông Tạo sung sướng, gả
con gái cho chàng và truyền ngôi Tạo cho chàng. Chàng sống giàu sang phú quý
như một bậc Tạo và lại được cả dân Mường tin yêu. Chính lúc này làm cho chàng
chạnh lòng nhớ tới người anh. Dù thế nào đi nữa cùng chỉ có hai anh em là ruột
thịt mà thôi.
Chàng quyết đi tìm anh
bằng được. Người ta chỉ cho chàng cái hốc cây mà người anh từng dùng làm nhà
tránh mưa nắng.
Khi đến hốc cây, chàng
nhìn thấy con dao cùn. Chàng thốt lên: - Anh ơi! Nay anh ở nơi nào?
Có tiếng đáp: - Plạt -
plạt, plạt - plạt !
Nhìn lên cây, chàng thấy
một con chẫu chàng nhỏ gầy rạc, cẳng chân cố bám lấy thân cây xù xì, mồm không
ngớt "trượt - trượt". Muốn cứu anh nhưng chẳng may lá thần không còn
nữa. Người em nhìn chẫu chàng một lúc rồi quay về.
95. SỰ TÍCH CÓC KIỆN
TRỜI
Ngày xửa ngày xưa, con
cóc vẫn sần sùi xấu xí như ngày nay, nhưng cóc nổi tiếng giữa muôn loài là một
con vật tuy bé nhỏ nhưng rất gan dạ. Vào một năm không nhớ rõ năm nào, trời làm
hạn hán khủng khiếp. Nắng lửa hết tháng này đến tháng khác thiêu cháy cây cối,
hút cạn nước sông ngòi, đầm hồ. Muôn loài không còn một giọt nước để uống. Các
con vật to lớn hùng mạnh xưa nay tác oai tác quái trong rừng đều nằm lè lưỡi mà
thở để đợi chết, không ai nghĩ được kế gì để cứu mình, cứu muôn loài. Sức mạnh
của chúng chỉ để bắt nạt nhau thôi chứ đâu có thể làm gì nổi ông trời. Duy có
anh chàng Cóc tía bé nhỏ, xấu xí kia là có gan to. Anh tính chuyện lên thiên
đình kiện Trời làm mưa cứu muôn loài...
Khởi đầu chỉ có một mình
nhưng anh đâu có nản. Đi qua một vũng đầm khô, Cóc tía gặp Cua càng. Cua hỏi
Cóc đi đâu. Cóc bèn kể rõ sự tình và rủ Cua cùng đi kiện Trời. Ban đầu Cua định
bàn ngang. Thà chết ở đây còn hơn chứ Trời xa thế đi sao tới mà kiện với tụng.
Nhưng những con vật ở quanh Cua nghe Cóc nói lại tranh nhau mà bàn ngang bàn
lùi, làm cho Cua nổi giận. Nói ngang bàn ngang là chuyện ngang của Cua thế mà
họ lại dám tranh mất cái quyền ấy, cái quyền được phép ngang như cua cơ mà. Thế
là Cua làm ngược lại, Cua tình nguyện cùng đi với Cóc.
Đi được một đoạn nữa,
Cóc lại gặp Cọp đang nằm phơi bụng thở thoi thóp. Gấu đang chảy mỡ ròng ròng và
khát cháy họng. Cóc rủ Gấu và Cọp đi kiện trời. Cọp còn lưỡng lự thì Gấu đã gạt
đi mà nói rằng: - Anh Cóc nói có lý,
chẳng có lẽ chúng mình cứ nằm ở đây đợi chết khát cả ư... Ta theo anh Cóc thôi.
Đến ngang như anh Cua còn theo anh Cóc được thì tại sao chúng mình không theo.
Cả bọn nhập lại thành
đoàn. Đi thêm một chặng nữa thì gặp đàn Ong đang khô mật và con Cáo bị lửa
nướng cháy xém lông. Cả hai con vật này cũng hăng hái nhập vào đoàn loài vật đi
kiện Trời do Cóc dẫn đầu.
Cóc dẫn các bạn đi mãi,
đi đến tận cửa thiên đình. Khi đi trên đường cả bọn đều hăng hái nhưng đến
trước cửa Trời oai nghiêm, bọn Cọp, Gấu, Cáo, Ong, Cua đều sợ, duy chỉ có Cóc
là gan liền dõng dạc ra lệnh: - Bây giờ
các anh phải nghe lời tôi. Kia là chum nước của Trời, anh Cua vào nấp trong ấy.
Anh Cáo nấp ở phía bên trái tôi, anh Gấu nằm ở phía bên phải tôi, còn anh Cọp
chịu khó nằm đằng sau tôi. Các anh có nghe lệnh của tôi thì mới thắng được
Trời. Sắp đặt xong đâu đấy Cóc mới nhảy lên mặt trống đánh ba hồi ầm vang
như sấm động.
Ngọc Hoàng đang ngủ trưa
một cách lười biếng bị tiếng trống lôi đình đánh thức dậy nên bực tức, bắt
Thiên Lôi ra xem có chuyện gì. Thiên Lôi lười biếng vội phủi bụi và mạng nhện
giăng đầy trên lưỡi búa tầm sét cắm cổ chạy ra. Thiên Lôi ngạc nhiên vì ở ngoài
cửa thiên đình chẳng thấy có một người nào cả chỉ thấy mỗi một con Cóc xù xì
xấu xí đang ngồi chễm trệ trên mặt trống của nhà Trời. Thiên Lôi hết nhìn con
Cóc lại nhìn lưỡi búa tầm sét khổng lồ của mình và thở dài vì cái búa to quá mà
Cóc bé quá, đánh chưa chắc đã trúng được. Thiên Lôi bèn cắm cổ vào tâu Ngọc
Hoàng. Ngọc Hoàng nghe xong bực lắm bèn sai con gà trời bay ra mổ chết chú Cóc
hỗn xược kia.
Gà trời vừa hung hăng
bay ra thì Cóc đã nghiến răng ra hiệu, lập tức chàng Cáo nhảy ra cắn cổ gà tha
đi mất. Cóc lại đánh trống lôi đình. Ngọc Hoàng càng giận giữ sai Chó nhà trời
xổ ra cắn Cáo. Chó vừa xồng xộc chạy ra thì Cóc lại nghiến răng ra hiệu. Lập
tức anh Gấu lừng lững xổ ra đón đường tát cho Chó một đòn trời giáng. Chó chết
tươi.
Cóc lại thúc trống lôi
đình đánh thức Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng bèn sai Thiên Lôi ra trị tội gấu. Thiên
Lôi là vị thần trời có lưỡi tầm sét mỗi lần vung lên thì thành sét đánh ngang
trời, thành sấm động bốn cõi. Sức mạnh của Thiên Lôi không có ai bì được. Ngọc
Hoàng yên trí lần này cử đến ông Thiên Lôi ra quân thì cái đám Cóc, Cáo ắt hẳn
là tan xác. Vì thế khi ông Thiên Lôi vác lưỡi tầm sét đi là Ngọc Hoàng lại co
chân nằm trên ngai vàng mà ngủ tiếp.
Thiên Lôi vừa hùng hổ
vác búa tầm sét ra đến cửa thiên đình thì Cóc đã nghiến răng ra lệnh, lập tức
chàng Ong nấp trên cánh cửa bay vù ra và cứ nhè vào mũi Thiên Lôi mà đốt. Nọc
ong đốt đau lắm, mũi Thiên Lôi rát như phải bỏng. Nhớ là ở cửa trời có một chum
nước. Thiên Lôi vội vàng vứt cả búa tầm sét nhảy ùm vào chum nước chạy trốn.
Nào ngờ vừa nhảy ùm vào trong chum nước thì anh Cua càng nấp trong đó từ bao
giờ đã chờ sẵn để giương đôi càng như đôi gọng kìm cắp chặt lấy cổ. Thiên Lôi
đau quá gào thét vùng vẫy vỡ cả chum nước nhà Trời. Thiên Lôi tìm đường chạy
trốn thì Cóc tía lại nghiến răng ra lệnh. Lập tức Cọp nấp sau Cóc tía nhảy bổ
ra gầm lên một tiếng vang động xé tan xác Thiên Lôi thành hai mảnh.
Ngọc Hoàng thấy thế sợ
quá bèn xin giảng hoà với Cóc, và xin Cóc cho nhận lại xác của Thiên Lôi để cứa
chữa. Cóc bằng lòng ngay. Theo lệnh nghiến răng của Cóc, Cọp và Gấu vác xác
Thiên Lôi về xếp lại ở giữa sân điện thiên đình. Ngọc Hoàng phải ra tay làm
phép tưới nước cam lồ vào cái xác đầy thương tích đó. Nhờ phép của Ngọc Hoàng,
Thiên Lôi mới được sống lại. Ngọc Hoàng nghĩ mình đường đường là một ông Trời
mà lại chịu thua Cóc thì thật là điều sỉ nhục, nên tính lật lọng, sai Thiên Lôi
vác búa tầm sét chống lại Cóc và các bạn của Cóc. Biết thế nào Ngọc Hoàng cũng
tính chuyện lật lọng nên Cóc lại nghiến răng. Lập tức các bạn của Cóc dàn trận.
Ong giương nọc, Cáo giương nanh, Cọp giương vuốt, Cua giương càng, Gấu giương
cánh tay đầy sức mạnh... Thiên Lôi vừa mới thoát chết hoảng quá lui lại không
dám tiến lên, mà thụt vào nấp sau chiếc ngai vàng của Ngọc Hoàng. Các tướng nhà
Trời oai phong lẫm liệt thấy đến ông Thiên Lôi còn sợ sệt như thế thì hoảng quá
tìm kế thối lui.
Thấy tướng nhà trời của
mình như vậy, Ngọc Hoàng biết không thể thắng nổi Cóc và các bạn của Cóc. Đến
lúc bấy giờ Ngọc Hoàng mới thực bụng giảng hoà, và hỏi Cóc lên tận thiên đình
có việc gì. Cóc oai phong nhảy hẳn lên tay ngai vàng và dõng dạc thưa: - Đã bốn năm nay ở dưới trần gian hạn hán
kéo dài, không một giọt mưa. Muôn cây khô héo, vạn vật chết khát... Tưởng Ngọc
Hoàng bận gì hoặc là Ngọc Hoàng giận gì trần gian mà ra phúc hoạ, ai ngờ lên
đây mới biết Ngọc Hoàng và các tướng nhà trời ngủ quên không nhớ đến việc làm
mưa cứu muôn vật muôn loài dưới trần thế... Chúng tôi phải lên tận đây đánh
thức Ngọc Hoàng, xin Ngọc Hoàng làm mưa ngay cho trần gian được nhờ.
Thấy Cóc nói giọng oai
phong và bạn bè Cóc lại đằng đằng sát khí, Ngọc Hoàng vội cuống quýt chống chế:
- Cóc với ta là chỗ thân thích, việc gì
mà cậu phải mất công đến như vậy, ta sẽ sai thần mưa, thần gió xuống hạ giới
làm mưa ngay bây giờ... Cậu Cóc có bằng lòng thế không nào. Cóc gật gù
thưa: - Muôn tâu Ngọc Hoàng, trần gian
được một trận mưa cứu khát thì còn gì bằng nữa... Anh em tôi vô cùng đội ơn
Ngọc Hoàng... Nhưng nếu ở hạ giới mà hễ bị hạn hán là bọn anh em chúng tôi lại
lên đây kêu với Ngọc Hoàng đấy.
Nghe Cóc hẹn lại lên thiên
đình, Ngọc Hoàng hoảng hồn rối rít lắc đầu xua tay: - Thôi khỏi, thôi khỏi phải bận đến cậu như thế... Chỗ cậu và ta là tình
thân thích, cậu chả nên bầy vẽ vất vả mệt nhọc như vậy làm gì. Cậu không phải
lên thiên đình nữa... Khi nào có hạn hán cậu muốn ta làm mưa, cậu chỉ cần ngồi
dưới đất nghiến răng là ta nghe thấy liền.
Để chứng tỏ lòng thành
thật không lật lọng của mình, Ngọc Hoàng sai rồng đen bay xuống phun mưa, và
đưa Cóc cùng các bạn về hạ giới. Cơn mưa cứu hạn làm cây cối tươi tốt, muôn
loài nhảy múa chào đón anh em Cóc trở về.
Từ đó hễ Cóc nghiến răng
là trời lập tức đổ mưa; nên đồng dao của trẻ nhỏ ngàn năm vẫn có câu hát
rằng: Con Cóc là cậu ông Trời / Ai mà đánh nó thì Trời đánh cho
96. SỰ TÍCH SÔNG KỲ
CÙNG
Ngày xưa, ở vùng sông
Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia tư cũng vào hạng khá,
nhưng tuổi già mà chưa có con. Thường ngày họ cầu trời có một đứa con cho vui
tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng nhặt được hai quả
trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng định vứt đi, nhưng
người vợ ngăn lại: - "Đừng vứt, cứ
để cho nó nở xem thử con gì". Bèn đưa về bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp.
Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh.
Thấy vậy, người chồng định đánh chết, nhưng vợ ngăn lại: - "Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi
nuôi chúng làm con". Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người,
đi đâu cũng đi theo. Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to
bằng ngón tay.
Một hôm người chồng cuốc
vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật. Vô tình một
nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ kêu lên: -
"Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên
chân ông lão làm gì cho khổ thân thế này!". Từ đó con rắn bị đứt đuôi
ngày một trở nên hung dữ hơn con kia.
Hai con càng lớn càng ăn
khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm bắt gà con. Bị xóm
giềng chửi bới luôn, một hôm chồng bảo vợ: - "Thôi! Ta đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày
mang họa". Hai vợ chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói:
- Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm
lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ không đủ sức nuôi các con nữa! Cặp
rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm ầm, các loài thủy tộc ở các
nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng về
báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy tề cho cai quản khu vực sông
Tranh.
Từ đó hai con rắn làm
oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền thờ chúng bên sông,
gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông Cộc. Tuy mọi thứ cần
dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh thoảng bắt súc vật và
người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày một trở nên ngang
ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy nước nổi sống dữ
dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có xảy ra tai nạn,
hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông hết lời van vái
con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi chứng nào vẫn
tật ấy.
Một hôm, có hai vợ chồng
một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại. Người vợ là Dương thị vốn
người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng dưng từ dưới nước có hai
người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một mâm lễ vật. Chúng đặt mâm
xuống trước mặt anh học trò và nói: - "Đây
là lễ vật của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế
này, nhưng chỉ muốn nhà thầy vui lòng nhường lại cho người vợ". Người
học trò chưa bao giờ nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát: - "Về báo với đức ông chúng mày hãy mau mau bỏ
thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta lại sợ loài
quỷ quái".
Chưa dứt lời đã không
thấy hai người con gái đâu nữa. Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe
những câu chuyện về ông Dài, ông Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay
nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền bước lên bờ. Nhưng Ông Cộc đã nói là làm. Thấy
con mồi đã lên bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm
cho họ không thể tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi
đền gần đó. Mưa bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy
đã thấy vợ mình biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo
của vợ trút bỏ lại đó.
Đau xót vì mất người vợ
yêu, anh chàng họ Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm cách trả thù. Trải qua
bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng gặp một ông thầy bói
hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin một quẻ về gia sự.
Thầy bói gieo quẻ, nói: - "Nhà ngươi
đang có sự lo buồn". Anh đáp lời: - "Xin thầy cứ cho biết". - "Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất". - "Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở
đâu? và có cách gì cứu được vợ tôi không? " - "Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long
hầu vốn có phận sự làm mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà
ngươi trả được mối thù. Ta đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế
nhưng không thể làm loạn chính pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy
dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm được chứng cớ đầy đủ".
Người học trò tưởng
không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu, rồi bước theo bén
gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước đưa anh đi mãi,
đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông hỏi: - "Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm
tin không?" Người học trò đáp: - "Có". Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm
lấy đi ngay. Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và
nói: - Vợ người vẫn một lòng một dạ với
người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều
đình đánh trống "đăng văn", khi đưa nàng ra đối chất, tự nàng sẽ tố
cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn kiện mới được.
Chưa đầy ba ngày, vụ
kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương thị lại vạch tội hắn
trước tòa án vua Thủy tề, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một đứa con. Vua Thủy
tề khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình thì đùng đùng
nổi giận. Vua thét: - "Hãy bắt nó
đày đi thật xa cho đến tận cùng của đất nước!". Dương thị được đưa trở
về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ
ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc nuôi.
Ngày ông Cộc đi đày, tôm
cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính áp giải ông Cộc ra biển
rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm họ đến một vùng nhìn vào
thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi một số người địa
phương: - "Đây là đâu" Họ
đáp: - "Nơi đây đã sắp hết địa phận
nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác". Ông Cộc bảo quân lính áp
giải: - "Vậy là đã đến chốn kỳ cùng
rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây". Cả đoàn bấy giờ rẽ sóng kéo
vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng luồng trấn
trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên khi thấy ông
Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào cho đến
thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp, sinh
mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy
ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng
luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai.
Thấy thế, những quân
lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy tề biết. Cuối cùng việc lại đưa đến
tòa án cho vua Thủy tề. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh
giới rõ ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa
một tảng đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng
làm phép hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.
Nhưng thần thuồng luồng
vẫn chưa hết giận, vì cho rằng tự dưng vô cớ bị chia sẻ quyền hành là do ông Cộc
mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại gây sự đánh nhau với ông Cộc.
Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm
thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt. Về sau vua Thủy tề giận thuồng
luồng "bất tuân thượng lệnh", bèn sai quân kéo tới bắt sống, xích
lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy được cai quản cả
hai khu vực.
Ngày nay, bên bờ nam
sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn đá lớn như hình cái
đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái chuông bị xích, nhưng đã
đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do ông Cộc đặt làm mốc,
còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi xích tại đây. Cái tên
sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.
97. SỰ TÍCH SAO HÔM
SAO MAI
Xưa có một anh tiều phu
nọ đến suối thình lình gặp một bầy tiên đang tắm. Tiên vội khoác áo bay về
trời, còn sót lại một cô bay không được vì bộ áo của cô bị anh tiều phu giấu.
Nhờ vậy, anh tiều phu nọ bắt cô tiên nọ về làm vợ. Anh giấu bộ quần áo thật kỹ
dưới đáy bồ lúa, sợ vợ thấy được, sẽ mặc áo bay trở về trời.
Họ sinh được đứa con
trai. Một Hôm, anh tiều phu đi vắng nhằm lúc ở nhà có người đến xin lúa. Khi
xúc tới đáy bồ, bộ xiêm y lòi ra. Vợ hết sức mừng rỡ, mặc vào rồi nói lại với
đứa con: - Mẹ đây cốt tiên, không thể nào
ở mãi dưới trần thế được. Con đừng buồn, Mẹ để lại cho con cái lược này làm dấu
tích. Dứt lời nàng bay mất.
Anh tiều phu về, hay
được sự tình, ngã lăn ra khóc lóc rất thảm thiết. Từ đó, ngày ngày, anh dắt con
ra suối tìm hình dáng người xưa. Suối đó vốn là suối tiên. Khi về được nơi tiên
giới rồi, nàng tiên nọ không dám trở lại nữa, nên sai Ngọc Nữ xuống múc nước
thế cho mình.
Bữa đó hai cha con anh
tiều phu gặp hai cô gái đang múc nước tại suối. Anh hỏi han tin tức nàng tiên,
hai cô nọ trả lời không biết. Trong lúc nói chuyện qua lại đứa con anh làm rớt
cây lược vào trong hũ nước. Khi hũ nước đem về tiên giới, nàng tiên nhận ra
chồng con mình. Nàng nói: - Ngọc Nữ hãy
đem cái khăn này xuống cõi trần, bảo anh tiều phu và đứa con bịt nó ngang đầu,
khăn phép này sẽ giúp họ đằng vân về đây. Anh tiều phu làm y theo lời.
Quả nhiên đến cõi tiên
gặp mặt vợ. Sau phút sum họp, nàng tiên nói: - Ta là tiên, chàng là khách tục. Hai ta không thể xum họp được hôm nay
chỉ tạm gặp mặt nhau, rồi đây phải từ biệt.
Nàng tiên bèn thiết tiệc
rồi bảo chồng và con lên ngồi trên một cái trống lớn có cơm đem theo để ăn dọc
đường. Trên này có dây thòng xuống. Khi nào đến mặt đất thì anh phải đánh trống
lên để trên này biết chừng mà chặt đứt dây.
Trống được thả xuống
giữa trời. Bỗng nhiên, có con quạ thấy đứa bé đang ăn cơm nên bu lại mổ vào.
Trống kêu lên tung tung. Trên trời, ngỡ là chồng và con đã xuống tới đất an
toàn, nàng tiên liền chặt đứt dây, hai cha con anh tiều phu té xuống biển mà
chết.
Khi biết sự việc, nàng
tiên vô cùng đau sót, nàng vật vã đêm ngày vì thương chồng thương con, rồi lâm
bệnh mà chết. Ngọc Hoàng thương cảm cho mối tình của họ đã biến chàng tiều phu
thành sao Hôm, nàng tiên biến thành sao Mai, còn đữa con biến thành đòn gánh
giữa sao Hôm và sao Mai để nhắc nhở mối tình đau thương của họ.
98. SỰ TÍCH CHÙA
HƯƠNG
TRÊN NÚI NGÀN HỐNG
Vua Trang Vương nước Sở
chỉ sinh được ba người con gái, khi các công chúa đến tuổi cập kê, Trang Vương
xuống chiếu kén phò mã để giúp mình lo việc nước. Hai công chúa là Diệu Thanh
và Diệu Am đều vâng lời, lấy hai đại thần trong triều làm chồng. Riêng công
chúa thứ ba là Diệu Thiện bị ép lấy một tên quan tham lam, gian ác. Tên này
thường bày mưu tính kế xui Trang Vương làm nhiều điều bạo ngược, Vua không rõ
bản chất của nó nên vẫn tin dùng. Tuy là người con hiếu thảo, nhưng Diệu Thiện
một mực từ chối, không chịu làm vợ đứa vô liêm sỉ ấy. Vua cha hết lời khuyên,
khuyên không được thì doạ nạt, nhưng Diệu Thiện vẫn cự tuyệt. Nàng tâu bày:
-Con thà xin cam tội bất hiếu với phụ vương, nhưng con không thể nào ăn ở với
người bạc phúc ấy được.
Trang Vương bảo: - Hắn là viên quan tài trí, hết sức trung
thành, giúp ta giữ gìn ngôi báu. Con hãy vì ta mà kết duyên với hắn. Diệu
Thiện lại thưa: -Xin cúi đầu lạy phụ
vương soi xét, nếu chỉ vì phụ vương muốn đền công lao cho hắn mà bóp nát cuộc
đời con, bắt con phải chung sống với tên bạo ngược ấy, con xin đập đầu chết
trước mặt phụ vương.
Nàng nói đến đó thì khóc
nức nở. Nhưng Trang Vương vẫn hằm hằm giận phán: - Đứa con gái bất hiếu kia, mi hãy đi cho khuất mắt ta! Từ đó nhà Vua
đối xử với cô hết sức tàn tệ. Bà mẹ dù có thương nàng cũng không dám bênh vực.
Rồi cha truyền giam công chúa ngoài vườn. Hoàng hậu và hai chị trốn ra thăm,
khuyên nhủ nàng nên vâng lời Vua cha, nàng vẫn cương quyết không nghe. Quá phẫn
uất, nàng tìm cách quyên sinh để thoát khỏi cảnh khổ nhục.
Một hôm thị tì biết
chuyện liền thưa: - Công chúa ơi, không
nên phí tấm thân vàng ngọc của mình. Công chúa hãy tạm lánh một nơi nào đó ít
lâu, chờ cho Thánh hoàng nguôi giận, hãy tâu bày lại với người.
Biết Vua là người bạo
ngược không bao giờ tha thứ cho mình, nếu trốn đi, nhưng công chúa cũng nghe
lời thị tì, nhờ cô ta nhân đêm tối, tìm cách đưa nàng ra khỏi nơi cung cấm.
Người thị tì dẫn nàng
đến một ngôi chùa lớn ngoài kinh thành. Sư cụ nghe nàng bày tỏ sự tình thì lo
sợ bảo: - Công chúa ơi, nỗi éo le của
công chúa thì bần tăng đã có nghe, nhưng không ngờ đến nông nỗi này. Tình cảnh
của công chúa thật đáng thương. Song nếu bần tăng để công chúa ở lại thì nhà
chùa ắt không tránh khỏi tai vạ.
Nghe vị sư già nói đến
đây, Diệu Thiện biết không nên để vì mình mà người khác mang hoạ, bèn cảm tạ
rồi quay gót trở ra. Nàng vừa đi được mấy bước thì nghe thấy tiếng sư cụ gọi: -
Xin mời công chúa cứ vào chùa, bần tăng
sẽ thu xếp. Nàng ngập ngừng nói: - Nhưng
phụ vương tôi là người nhẫn tâm lắm. Lỡ ...
Nhà sư đáp: - Điều đó thì bần tăng cũng có biết. Song, đây
là cửa từ bi, lẽ nào... vả chăng, có sao thì Phật tổ cũng chứng giám và ra tay
cứu giúp, công chúa yên tâm... Thế là Diệu Thiện ở lại chùa, dốc lòng đọc
kinh niệm Phật, mong lãng quên cuộc đời đau khổ.
Trong khi đó, Trang
Vương sai người dò la tin tức con gái, biết nàng đang trụ trì trong ngôi chùa
kia, liền mật lệnh cho vị sư chủ trì bắt công chúa làm lụng sớm khuya rất nặng
nhọc để công chúa hối tâm về nhà. Nhưng Diệu Thiện không nản chí: ngày đêm ni
cô ngày không ngớt toạ thiền niệm Phật rồi gánh nước, nhặt rau, nấu cơm, quét
nhà, làm mọi việc trong chùa. Những lúc công việc bề bộn, chim tới nhặt rau,
rồng đen lấy nước giúp Diệu Thiện.
Nhiều tuần lễ trôi qua,
thấy Diệu Thiện không bỏ chùa về cung, Vua nghi ngờ các vị tăng trong chùa
không tuân lệnh Vua mà đoạ đầy công chúa, lại bị tên quan gian ác đang tức giận
vì công chúa ruồng rẽ, xúc xiểm. Vua liền hạ lệnh đốt chùa. Chính tên quan ấy
đã được Vua giao cho ba nghìn quân đi trừng phạt lũ tăng ni "khi
quân" và đứa con bất hiếu.
Đến nơi, hắn cho quân
vây chặt bốn phía, rồi cho phóng hoả đốt
chùa. Diệu Thiện tự cho mình là nguyên do khiến cho chùa bị đốt, liền cắn tay
ngửa mặt lên trời mà cầu nguyện. Lửa đang cháy ngùn ngụt, hàng mấy trăm nhà của
ngôi chùa và năm trăm tăng ni tưởng sẽ biến thành một đống tro tàn, bỗng rồng
lượn xuống phun nước làm tắt lửa. Năm trăm tăng ni vẫn điềm nhiên ngồi gõ mõ,
đọc kinh như thường. Bọn quân của triều đình thấy thế, đều kinh sợ chạy. Chúng
đâu có hiểu rằng, Phật đã ngăn chặn bàn tay tội ác của chúng, che chở cho các
tăng ni.
Vua xuống lệnh đem Diệu
Thiện ra xử chém. Nhưng lưỡi gươm của đao phủ gãy đôi khi chạm vào cổ của Diệu
Thiện. Bỗng nhiên, trời tối sầm lại, sấm chớp giông tố nổi lên, một con mãnh hổ
nhảy vào mang Diệu Thiện đi mất.
Mãnh hổ mang Diệu Thiện
lên một hòn núi, đặt nàng lên một hòn đá phẳng lì, rồi bỏ đi. Trong lúc thiêm thiếp,
Diệu Thiện thấy nàng đi xuống âm phủ, qua 18 cửa địa ngục, chứng kiến biết bao
cảnh trừng phạt đau đớn dưới địa ngục của những người gây bao tội ác, tàn nhẫn
lúc còn sống ở dương gian. Diệu Thiện nghĩ là mình đã bị Vua cha xử trảm, đã
chết, bây giờ linh hồn đi xuống địa ngục. Bỗng xứ giả chỉ cho Diệu Thiện biết
đây là ngục xe lửa và ngục cột đồng để trừng phạt những viên chức hại dân: Xe lửa là ngục hoả xa / Quay đi quay lại
thịt da tan tành / Bởi vì cậy thế cậy thần / Hiếp kẻ cô quả cướp tranh ruộng
vườn / Cột đồng là ngục đốt than / Mấy tay chức dịch tham tàn phải ôm. Còn đây
là ngục kéo lưỡi, trừng phạt những người ăn nói đảo điên: Kìa ngục bạt thiên lạ
sao/ Cầm kìm lôi lưỡi máu đào mà kinh/ Bởi vì miệng lưỡi co quanh/ Đảo điên đơm
đặt làm khuynh hãm người.
Chứng kiến tất cả đau
khổ đó, Diệu Thiện rất đau xót, càng quyết tâm trì chú niệm Phật tu hành. Sau
đó hồn Diệu Thiện trở về dương gian, nhập vào xác trở lại. Đang phân vân chưa
biết đi về hướng nào thì Phật Tổ Như Lai hoá thân làm một chàng trai tuấn tú,
tới gần kề thử nàng lần nữa về chuyện kết nghĩa trăm năm. Khi thấy Diệu Thiện
tâm nguyện vững chắc, Phật lại sai mãnh hổ đưa nàng về phương Nam. Chỉ một đêm,
nàng đã đến trước một cửa hang trong dãy Ngàn Hống, thuộc đất Việt Thường, hang
không rộng lớn, nhưng sâu hun hút, tối om. Trước cửa hang, mái đá nhô ra như
mái nhà. Cảnh quan ở đây: Núi non ngân
ngất mịt mù/Âm thanh cảnh vắng, bốn mùa cỏ cây/Trên thì trăm sắc tầng mây/Dưới
thì bể nước trong đầy như gương/Cá chim chầu lại tĩnh đường/Hạc thường hiến
quả, hươu thường dâng hoa.
Trong khi Diệu Thiện
đang còn bỡ ngỡ trước cảnh non xa nước lạ, thì bỗng nghe văng vẳng có tiếng
người kêu cứu trong hang. Nàng quên hết sợ hãi, lao vội xuống. Nhưng đó chỉ là
Phật thử thách lòng hỉ xả của nàng để giúp cho nàng tu luyện mà thôi.
Từ đó Diệu Thiện lập am
dưới mái đá trước cửa hang. Ngày ngày đọc kinh niệm Phật và đem hết sức mình
làm điều thiện. Chẳng bao lâu lòng bác ái của vị sư nữ Ngàn Hống truyền khắp cõi Việt Thường và cả
nước lân Quốc. Sau nhiều năm tu đạo, bà thành Phật Quan Âm Nam Hải, ngồi trên
toà sen báu: Thần thông biến hoá tự nhiên
/ Một thân hoá được ra nghìn muôn thân / Mắt trông khắp hết cõi trần / Lắng tai
nghe thấu xa gần bốn bên.
Sau này, Sở Trang Vương
bị bệnh nan y. Thầy thuốc cả nước đều bó tay, thuốc tốt bốn phương đều không
hiệu nghiệm. Vua yết bảng lương y, hứa rằng hễ ai chữa lành bệnh cho Vua thì sẽ
được trao ngôi báu. Không có thầy thuốc nào chữa được. Cuối cùng, Diệu Thiện,
bấy giờ là Quan Thế Âm Bồ Tát, biến thành một lương y, sang kinh thành nước Sở,
giật bảng yết, xin vào cứu Vua. Xem mạch xong, lương y nói: - Bệnh này không thể chữa trị được, vì nhà
Vua làm nhiều điều ác, ác khí ngấm nhập vào người đã thành ung, nay chỉ cần một
mắt một tay của người con gái, mới mong khỏi được.
Cả triều đình khắp văn
võ bá quan không ai làm điều đó. Ngay hai công chúa mà Vua thương cũng không
làm điều đó. Nhà Vua buồn lắm. Bệnh mỗi ngày một nặng thêm.
Lương y nói: - Vậy hãy sang Việt Nam đến chốn Việt Thường,
lên núi Hương Tích mà xin mắt xin tay. Thần cam quyết rằng, nếu Vua cho người
tới xin, vị sư ấy sẵn sàng bố thí.
Vua giữ lương y ở lại và
cho người đi qua Nam Việt, lên chùa Hương Tích xin được một mắt một tay của vị
sư nữ đem về. Nhưng bệnh chỉ thuyên giảm có nửa thân hình. Lương y bảo phải xin
nốt con mắt và cánh tay còn lại của vị sư nữ kia thì ai cũng thấy như vậy quá
đáng. Nhưng lương y quả quyết rằng, vị bồ tát xả thân cứu người, nên thế nào
qua cũng xin được. Kết quả là sư nữ bố thí con mắt và cánh tay còn lại.
Vua khỏi bệnh, định làm lễ
truyền ngôi cho lương y. Nhưng chưa thực hành được lời cam kết thì lương y đã
bỏ đi mất rồi.
Sau khi bình phục, Vua
và hoàng hậu lên đường qua Nam Việt tới núi Hương Tích để tạ ơn sư nữ. Trong
khi Hoàng gia đang trên đường đi tới dãy Ngàn Hống, thì kinh đô nước Sở có
biến. Phật bà Hương Tích dùng thần thông thấy được, đã sai các đệ tử đem
pháp thuật sang giải cứu, đồng thời cứu
thoát Diệu Thanh và Diệu Am. Hai người này đều bị quân phiến loạn bắt giam nơi
ngục tối. Hai công chúa được cứu thoát liền tháp tùng theo đoàn Hoàng gia.
Vượt qua bao nhiêu núi
non hiểm trở, phái đoàn Hoàng gia tới được dãy Ngàn Hống, lên chùa Hương Tích.
Cảnh tượng thật là trang nghiêm u nhã. Vào được tới động ngoài, Vua, hoàng hậu
và các công chúa chờ đợi để được tiếp nữ Bồ Tát quảng đại hỉ xả từ bi. Trang
Vương lên tiếng, nhưng từ phía động không có tiếng trả lời. Vua nghĩ mình là
đàn ông, không tiện bước vào động trong, nên bảo hoàng hậu và hai công chúa
bước vào trước để làm lễ tạ ơn sư nữ.
Lúc đó Phật bà Nam Hải
hiện thân là công chúa Diệu Thiện, đứng thẳng giữa động, hai mắt bị móc, hai
tay bị cắt, máu chảy ròng ròng. Nhận ra con mình trong hoá thân ấy, hoàng hậu
khóc và ngã ra bất tỉnh. Hai công chúa và cha cũng khóc.
Thấy tình cảnh như vậy,
Diệu Thiện nói rằng, mình đã móc mắt và cắt tay để cứu cha, nhưng nếu như cha
mẹ phát nguyện bỏ ác làm lành, tu hành theo đạo Phật, thì nàng sẽ có mắt và tay
nguyên vẹn trở lại. Vua cha và hoàng hậu phát nguyện. Lập tức tay mắt của Diệu
Thiện trở lại y nguyên như cũ, và đó là vị Quan Âm Nam Hải Bồ Tát.
Cả nhà ở lại tu hành tại
chùa Hương Tích trên núi Ngàn Hống. Sau đó Diệu Thanh trở thành Văn Thù Bồ Tát,
cưỡi con sư tử xanh và Diệu Am trở thành Phổ Hiền Bồ Tát, cưỡi con voi trắng .
Phật Quan Âm Hương Tích
có hai đệ tử nhỏ: Thiện Tài, em bé trai mồ côi từ nhỏ xin theo bà, và Long Nữ,
em bé gái con của Long Vương đội lốt Lý Ngư mắc cạn, được bà cứu vớt, trả về
thuỷ cung, sau trở lại xin theo bà để tu hành.
Chuyện nàng Diệu Thiện
tu hành tại Ngàn Hống ở ngọn núi Sư Tử để trở thành Quan Thế Âm Nam Hải Bồ Tát
đã lâu lắm rồi. Cuộc đời nàng ra sao, quá trình nàng tu hành thế nào, chưa ai
rõ tường tận. Nhưng không ai quên được đức độ của nàng. Nàng đã để lại tiếng
thơm trên đời, nên nơi nàng tu hành được gọi là động Hương Tích (dấu thơm).
Đã lâu rồi cứ ba năm một
lần, vào ngày 18 tháng 2 âm lịch - ngày Diệu Thiện thành Phật - nhân dân tổ
chức hội chùa. Hội chùa Hương Tích rất vui, thu hút hàng nghìn người. Bà con ở
Châu Hoan, Châu ái, Châu Bố Chính và nhiều nơi khác về dự.
99. SỰ TÍCH NHẬT THỰC
VÀ NGUYỆT THỰC
Ngày xưa, gia đình nọ có
ba anh em trai. Hôm nào ba anh em cũng dành phần cơm đặt 1 bát cho các vị tu sĩ khất thực. Một hôm, hai người anh bảo
người em út nấu cơm, nhưng vì củi bị mưa ướt nên người em út nhóm mãi lửa không
cháy được. Đến khi các vị tu sĩ đi khất thực ngang nhà
mà cơm vẫn chưa chín.
Không có cơm để đặt bát
cho các tu sĩ, hai người anh giận lắm, quát mắng và lấy vá xúc cơm đánh vào đầu
người em út. Người em út bị các anh đánh, tủi thân bỏ ra bờ con sông lớn sau
nhà ngồi khóc. Nhìn nước sông chảy xiết, người em út nguyện kiếp sau được hoá
thành người có sức mạnh như dòng nước chảy để không ai bắt nạt được mình.
Hai người anh thấy em bỏ
ra bờ sông ngồi khóc bèn theo ra xem xét. Nghe em cầu nguyện như vậy, hai người
anh lấy làm lo lắng và từ đó họ luôn cầu nguyện được hoá thành những người có
sức mạnh hơn dòng nước chảy để em mình không làm hại được.
Về sau, lời nguyện cầu
của ba anh em nọ đều được toại nguyện. Người anh cả được hoá kiếp thành Pờ-rặc
A-tít, tức là mặt trời, người anh thứ hoá kiếp thành Pờ-rặc Chanh tức là mặt
trăng, và người em út hoá thành Rìu-hu, một người to lớn, mặt mũi nhăn nhó xấu
xí, có sức mạnh vô địch, không ai có thể ngăn cản, chống chọi lại nổi. Người
anh cả trở thành mặt trời chiếu ánh sáng vàng rực rỡ như màu chiếc bát vàng mà
thuở trước anh ta thường dùng đựng cơm "đặt bát" cho các tu sĩ. Người
anh thứ hai trở thành mặt trăng có ánh sáng trắng bạc như chiếc bát bạc của
mình đựng cơm. Còn người em út thuở trước thường dùng cái gáo dừa để dâng cơm
cho các tu sĩ nên trở thành thần Rìa-hu to lớn với diện mạo nhăn nhó dị kỳ.
Một hôm, rắn thần Niét
đánh nhau với chim thần Ma-ha-Kờ-ruốt. Chim thần bị thua bỏ chạy và đến cầu cứu
Rìa-hu giúp sức. Rìa-hu đánh với rắn thần và rắn thần bị thua phải bỏ chạy.
Rìa-hu đuổi theo rắn thần. Khi chạy ngang qua hồ nước trường sinh Sơ-ra-ma-rít,
dành riêng cho đức Phật, Rìa-hu khát nước quá bèn ghé xuống hồ uống nước. Rắn
thần đến cầu cứu thần Pờ-rặc In giúp mình.
Lúc đó thần Pờ-rặc In nhìn ra, thấy Rìa-hu đang uống nước trường sinh mà không
hề xin phép mình, tức giận dùng con chốt gió ném đứt đôi Rìa-hu. Nửa dưới thân
hình Rìa-hu chìm sâu xuống đáy hồ, còn nửa trên từ ngực trở lên, nhờ uống nước
trường sinh nên không chết, vội vã bay thoát. Từ đó, phần nửa người Rìa-hu bay
đến đâu gây nên bão, gió, tai hoạ cho người đến đó.
Đối với hai người anh,
Rìa-hu vẫn nuôi trong lòng mối thù đã ức hiếp mình từ kiếp trước, nên hễ có dịp
là Rìa-hu đuổi bắt "ăn tươi nuốt sống" mặt trời và mặt trăng. Nhưng
vì Rìa-hu chỉ còn nửa người, cho nên khi "nuốt" mặt trăng hay mặt
trời thì sau đó mặt trăng hay mặt trời lại thoát ra ở cuống họng. Đó là hiện
tượng nguyệt thực và nhật thực ta thường thấy.
100. SỰ TÍCH ĐỀN CỜN
Ngày xưa, có ông vua của
nước láng giềng tên là Đế Bính. Vua lên ngôi giữa lúc đất nước có nạn binh đao.
Quân giặc rất đông và rất mạnh. Quân đội nhà vua đánh đuổi không nổi đành chịu
thất bại. Vì thế giặc tiến rất nhanh, chẳng bao lâu chúng đã chiếm được kinh
thành. Vua tôi Đế Bính chỉ còn cách đưa nhau chạy trốn. Trong cơn nguy cấp, một
trung thần đã đưa nhà vua cùng hoàng hậu lên thuyền kéo buồm chạy trốn ra biển
khơi. Không ngờ mới đi được một ngày thì cơn bão bất thần ập xuống đánh đắm
đoàn tàu. Những người trên tàu không thoát khỏi tai nạn, kể cả Đế Bính. Chỉ còn
lại hoàng hậu và hai công chúa xinh đẹp bám được vào một mảnh ván đành để cho
sóng nước trôi dạt.
Hồi ấy ở vùng Cửa Cờn,
xứ Nghệ có một ngôi chùa cổ dựng trên một hòn đảo. Trong chùa có một ông sư trụ
trì. Là người quyết chí tu hành nên sư ta tìm đến ngồi chùa hẻo lánh này để giũ
sạch bụi trần, ngày ngày kinh kệ.
Hôm ấy, trời đã về
chiều. Sư ta đang thong thả đi dạo quanh chùa miệng lẩm nhẩm đọc kinh, tay lần
tràng hạt thì trông thấy ngoài khơi có vật gì bập bềnh trên mặt nước. Nhà sư cố
nhìn đến đoán xem đó là cái gì. - Có thể
là người bị nạn. Sau trận bão vừa qua có bao nhiêu là ván và đồ đạc trôi vào
bờ. Ta phải đến tận nơi xem sao, may ra cứu được một mạng người thì thật là
"phúc đẳng hà sa". Nghĩ vậy, sư vội vàng xuống thuyền chèo ra
khơi. Một lát sau, sư đã đến gần và nhận thấy đó là ba người đàn bà đang bám
vào một mảnh gỗ. Lập tức, sư đỡ từng người lên thuyền của mình. Nhìn trang phục
của họ, sư đoán là những người thuộc dòng quyền quý.
Khi thuyền quay về đến
đảo, sư vực từng người lên chùa đốt lửa cho họ sưởi, lại nấu cháo nóng cậy
miệng đổ vào. Sự tận tình cứu chữa của nhà sư không uổng, đến nửa đêm, cả ba
người đàn bà dần dần tỉnh dậy. Sư vẫn ân cần chăm sóc chu đáo. Đến sáng thì cả
ba người tỉnh hẳn và có thể tự mình đứng dậy được. Họ cho sư biết họ là ba mẹ
con đi thuyền không may bị đắm. Tuy họ không nói ra mình là ai những trông họ
xinh đẹp và đài các. Khi biết sư là ân nhân cứu mạng, ba người đàn bà bèn cúi
rạp xuống lạy tỏ ý cảm ơn. Nhà sư vui vẻ nhường cho họ chỗ nằm trong tăng phòng
rồi lui ra ngoài nghỉ ngơi.
Những ngày đầu khi ba
người còn yếu nhà sư vẫn hết lòng chăm sóc họ. Họ dần dần đi lại được và ăn trả
bữa. Có bao nhiêu lộc chùa, sư đều lấy ra khoản đãi, sư còn chèo thuyền về đất
liền để tìm mua những thứ mà nhà chùa không có. Nửa tháng trôi qua, sức khoẻ
của họ đã trở lại bình thường. Họ chỉ hàng ngày ngồi than khóc. Nhưng về phía
nhà sư thì trong lòng bị xáo trộn. Chưa bao giờ sư được nhìn thấy những người
đàn bà mày ngài mắt phượng xinh đẹp đến thế, sư đâm ra thẫn thờ. Đã nhiều lần
nhà sư đọc kinh cầu nguyện suốt buổi, muốn cho lòng mình thanh thản, cố tránh
sự cám dỗ nhưng công trình hơn ba mươi năm tu luyện cũng không thể kìm được
lòng ham muốn. Vì vậy, việc trả họ về đất liền để trao cho quan sở tại là việc
dễ làm nhưng sư vẫn cứ dùng dằng không quyết. Giữa một ngôi chùa trơ trọi vắng
vẻ, xung quanh là trời mây non nước, bên cạnh lại có ba người đàn bà xinh đẹp
yếu đuối cô đơn, sư cho đó là cơ hội hiếm có. Rồi một đêm thanh vắng, nhân lúc
hai cô gái ngủ say, sư bèn đến bên cạnh người thiếu phụ. Nhưng người đàn bà đã
nghiêm khắc bảo. - Ôi! Sao lại thế? Sư là người đã cứu sống mẹ con chúng tôi,
suốt đời chúng tôi không quên được ơn đó. Nhưng việc đồi bại thì đừng có hòng.
Tôi là gái đã có chồng và cũng biết luân thường đạo lý. Còn người là kẻ ăn chay
niệm Phật, lẽ nào nói đến chuyện sắc dục mà không thấy hổ thẹn.
Nghe người thiếu phụ nói
điều phải trái, sư ta lủi thủi ra ngoài. Nhưng đến nửa đêm, sư lại mò vào, tay
cầm một con dao găm: - Nếu không sẽ giết
chết cả ba mẹ con rồi vứt xác xuống biển. Lời doạ của sư vẫn không làm
người thiếu phụ sợ hãi, nàng gọi hai con dậy và nói to: - Nếu anh cố tình phạm vào người mẹ con chúng tôi thì sẽ phải hối hận. Mẹ
con chúng tôi thà chết chứ không chịu nhục. Thấy ba người đàn bà quyết liệt
kháng cự và toan đập đầu vào cột chùa, nhà sư đâm ra hối hận. Sự bèn ngăn họ là
nói: - Xin mọi người đừng làm thế. Chính
ta mới là kẻ đáng chết. Chao ôi! Ta có ba tội đáng chết. Đi tu mà chẳng trót
đời: đó là một. Hai là: ép người đàn bà sa cơ lỡ vận. Ép nài không được lại
toan hành hung: đó là ba. Ba tội như thế ta chết là đáng lắm. Nói đoạn, sư cầm
ngược lưỡi dao đâm thẳng lên cổ.
Thấy cái chết của ân
nhân xảy ra quá đột ngột, người đàn bà đã tỏ ra hết sức hối hận. Nàng gục xuống
bên cái thây mà than khóc: - Ôi! Ta nhờ
người ấy mà sống. Thế mà người ấy vì ta mà chết. Vậy ta còn mặt mũi nào mà sống
lấy một mình nữa. Trong cơn xúc động không kiềm chế được, người đàn bà chạy
ra khỏi chùa rồi nhảy xuống biển tự vẫn. Thấy mẹ chết, hai người con gái khóc
lóc thảm thiết rồi cũng nhảy xuống biển chết theo.
Mấy ngày sau, những
người dân chài ở cửa Cờn vớt được xác ba người đàn bà. Nhìn kiểu ăn mặc và nhờ
những tin tức nhận được, các quan đoán ra đó là ba mẹ con hoàng hậu Đế Bính.
Cũng vào lúc ấy, những người dân địa phương tìm thấy xác ông sư tự tử trong
ngôi chùa trên đảo. Quan sở tại sau khi mở cuộc điều tra dần dần vén được tấm
màn bí mật bao phủ lấy câu chuyện éo le trong ngôi chùa cổ.
Về sau, để tưởng niệm
những người đàn bà tiết liệt, dân chúng đã tạc tượng ba mẹ con, lập đền thờ,
gọi là đền Cờn. Trong đền cũng có cả tượng nhà sư để nhắc đến một kẻ vừa là ân
nhân vừa là nạn nhân của họ.
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
Mời thư giãn với nhạc
phẩm BỐNG BỐNG BANG BANG
của Nguyễn Phúc Thạch
(Ongly C) qua tiếng hát Nhóm 365:
0 comments:
Đăng nhận xét