Công ty Văn Hóa Bảo Thắng liên kết xuất bản
*
1.
CHỬ ĐỒNG TỬ
Thời xưa ở làng Chử Xá, có hai cha con Chử Cù
Vân và Chử Đồng Tử, nhà nghèo đến nỗi phải chung nhau một cái khố, hễ ai đi đâu
thì người đó đóng. Cù Vân bị ốm nặng, khi sắp chết, dặn lại con rằng: Bố chết,
con cứ táng trần cho bố, còn cái khố con giữ lấy mà dùng. Cù Vân chết, Chử Đồng
Tử không nỡ để cha trần truồng, lấy khố đóng cho cha, rồi mới chôn. Ở một túp
lều nhỏ ven sông, ngày ngày Chử Đồng Tử xuống đánh cá rồi đổi gạo ở các thuyền
qua lại.
Thời bấy giờ có nàng công chúa tên là Tiên Dung,
nhan sắc tuyệt trần, tuổi đã mười bảy mười tám mà không chịu lấy chồng, chỉ
thích đi xem sông núi. Vua chiều con, cấp cho thuyền và đủ người hầu hạ, mặc
cho muốn đi chơi đâu thì đi.
Một hôm, Tiên Dung đi chơi thuyền trên sông, thuyền
của Tiên Dung đi giữa, còn trước sau là thuyền của binh lính và thị nữ. Khi đến
khúc sông thuộc làng Chử Xá, đám thuyền làm rợp cả mặt nước. Chử Đồng Tử trông
thấy, vội vứt vó vào bụi, chạy lên bãi, bới cát vùi mình xuống, rồi lấy cát phủ
lên.Thấy bãi rộng rãi, lại có từng bụi cây lớn toả bóng mát êm dịu, Tiên Dung
lấy làm ưa thích, ra lệnh cho thuyền ghé vào bãi, rồi chọn một chỗ có bóng mát,
sai thị nữ giăng màn tứ vi để tắm. Tiên Dung vào màn, cởi xiêm áo, dội nước
thoả thích. Không ngờ chỗ Tiên Dung dăng màn tắm là chỗ Chử Đồng Tử náu mình.
Tiên Dung dội nước một lúc thì bỗng nhiên Chử Đồng Tử trồi lên. Tiên Dung trông
thấy giật mình, hỏi duyên cớ thì Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy quân
quan thì sợ, nên phải vùi mình xuống cát để ẩn.
Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng: Tôi đã nguyện không lấy
chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng ở trốn này, mới biết cương không
được với trời. Nàng bảo Đồng Tử tắm sạch sẽ, lấy quần áo cho mặc, đưa xuống thuyền
và sai thị nữ sửa soạn tiệc hoa. Thấy thế, Chử Đồng Tử ngỏ ý chối từ. Tiên Dung
bảo chàng rằng: Thiếp với chàng là trời xe duyên, việc gì mà từ chối! Đồng Tử
đành nghe theo. Từ hôm ấy, hai người thành vợ chồng. Vua được tin nổi giận gọi
hết binh lính và người hầu của Tiên Dung về. Tiên Dung sợ cha, đành cùng chồng
ở lại với nhân dân, tìm kế sinh nhai. Nàng làm ăn ngày càng thịnh vượng, dần
dần lập thành một xóm. Sau có người khuyên nàng cho người ra biển tìm vật lạ
đem đổi lấy các thứ khác. Nàng nghe theo, để chồng đi.
Đồng Tử đi qua một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, trông
lên núi thấy có cái am nhỏ. Đồng Tử trèo lên núi gặp một nhà sư xưng tên là
Phật Quang. Thấy Đồng Tử là người chân thật, Phật Quang muốn truyền phép cho
Đồng Tử. Đồng Tử không nghĩ đến việc ra biển nữa, liền ở luôn đó. Đồng Tử học
được hơn một năm thì Phật Quang cho chàng một cái gậy và một cái nón, cho phép
chàng xuống núi và dặn rằng: Phép biến hoá ở cả cây gậy và cái nón này.
Đồng Tử về nhà, đem phép màu truyền lại cho Tiên
Dung, rồi hai vợ chồng rời bỏ xóm làng, đi tìm nơi thanh vắng để ở. Một hôm
đang đi đường, trời tối mà chưa đến chỗ dân cư, hai vợ chồng chống cái gậy
xuống đất và lấy cái nón úp lên đầu gậy để che sương. Rồi hai người tựa vào
nhau dưới nón mà ngủ. Đến quá nửa đêm, hai vợ chồng tỉnh dậy thì thấy mình ở
trong một cung điện lộng lẫy có đủ các thứ giường sập, màn trướng, lại có cả
tiểu đồng, thị nữ và binh lính đi lại rộn rịp ngoài hành lang. Sáng hôm sau,
hai vợ chồng ra ngoài xem thì thấy có thành cao bao bọc cung điện và có tướng
sĩ canh gác rất đông, chẳng khác nào một toà thành lớn.
Tin lạ ấy đến tai vua. Vua cho là Đồng Tử và Tiên
Dung làm loạn, liền sai quan quân đến đánh. Quân nhà vua đến gần nơi Tiên Dung
và Đồng Tử ở thì trời vừa tối, không sang sông được. Đến nửa đêm, trời nổi cơn
dông, cát bay, cây đổ, rồi toàn khu Đồng Tử và Tiên Dung ở bay cả lên trời, chỉ
còn lại bãi đất không ở giữa đầm. Bãi ấy về sau gọi là bãi Tự Nhiên1 còn đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ. Thấy có sự lạ lùng như
vậy, nhân dân lập miếu thờ trên bãi. Đời sau, Triệu Việt Vương đóng quân trong
đầm để chống lại quân xâm lược nhà Lương. Lúc bị quân giặc vây nguy cấp, Triệu
Việt Vương thiết đàn, cầu thần giúp mình tiêu diệt quân địch để cứu nạn nước,
bỗng thấy một vị thần cưỡi rồng xuống đàn, cho Triệu Việt Vương một cái vuốt
rồng và dặn: "Người cắm cái vuốt này lên chỏm mũ đầu mâu thì đi đến đâu,
giặc sẽ tan đến đấy". Nói xong, thần cưỡi rồng bay vụt lên trời.
Theo lời thần dạy, Triệu Việt Vương cắm vuốt rồng
lên chỏm mũ, thấy sức khoẻ tăng lên gấp bội, mới đem quân phá vòng vây, chém
được tướng giặc là Dương Sàn. Quân xâm lược nhà Lương bị tan vỡ, phải rút khỏi
đất nước.
2.
SƠN TINH, THỦY TINH
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên
gọi là Mị Nương, sắc đẹp tuyệt trần. Mị Nương được vua cha yêu thương rất mực.
Nhà vua muốn kén cho nàng một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến, xin ra mắt nhà vua
để cầu hôn. Một người ở núi Ba Vì, tuấn tú tài giỏi khác thường: chỉ tay về
phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh, chỉ tay về phía tây, phía tây
mọc lên hàng dãy núi. Nhân dân trong vùng gọi chàng là Sơn Tinh. Còn một người
ở mãi miền biển Đông tài giỏi cũng không kém: Gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa tới
- chàng này tên gọi là Thuỷ Tinh. Một người là chúa của miền non cao, một người
là chúa của vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể vua Hùng.
Hùng Vương băn khoăn không biết nhận lời ai, từ
chối ai. Nhà vua cho mời các quan lạc hầu vào bàn mãi vẫn không tìm được kế
hay. Cuối cùng, Hùng Vương phán rằng: - Hai
người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho người
nào? Ngày mai, nếu ai đem đồ sính lễ đến đây trước: một trăm ván cơm nếp, hai
trăm bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, thì được rước
dâu về.
Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến
trước và được phép đưa dâu về núi. Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng
đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, một hai đòi cướp lại Mị Nương. Thủy Tinh hô
mưa, gọi gió, làm dông bão đùng đùng rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông
lên cuồn cuộn tiến đánh Sơn Tinh. Nước ngập lúa, ngập đồng rồi ngập nhà cửa.
Sơn Tinh không hề nao núng, dùng phép màu bốc từng quả đồi, di từng dãy núi
chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi,
núi mọc cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng
Thuỷ Tinh đuối sức phải rút quân về.
Từ đó, oán ngày càng thêm nặng, thù ngày càng thêm
sâu, không năm nào Thuỷ Tinh không làm mưa làm bão, dâng nước lên đánh Sơn Tinh
và lần nào Thuỷ Tinh cũng bị thua, phải bỏ chạy.
3.
TIẾNG HÁT CỦA NGƯỜI ĐÁ
Trên đỉnh một ngọn núi cao vùng Chư Bô-đa
có một mỏm đá xanh, giống hệt như hình một em bé kháu khỉnh, xinh xắn cưỡi trên
một con voi. Mỏm đá đứng ở chỗ ấy tự bao giờ, không ai biết cả. Chỉ biết từ
trước, đời ông, đời cha, lâu lắm, mỏm đá ấy đã có rồi....
Ở trên cao, những tia nắng vàng rất dịu, những hạt
mưa trong vắt, sáng như ngọc, thay nhau tắm gội cho mỏm đá. Và gió từ biển khơi
phía đông, từ núi cao phía tây, rì rào nhè nhẹ thổi về, kể cho mỏm đá nghe thật
nhiều chuyện kỳ lạ của những miền đất nước xa xăm. Chỉ có những con chim bay
cao nhất, bay xa nhất, mới đặt chân tới được đấy. Trước cảnh mây núi đẹp tuyệt
vời, chim chớp mắt nghiêng đầu nhìn ngắm, rồi vươn cổ, cất giọng hay nhất của
mình mà hát cho mỏm đá nghe những bài ca thần tiên, những điệu hát đẹp nhất,
quý nhất của loài chim. Cứ thế, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác,
giọng nỉ non của gió, tiếng thánh thót của chim, như từ từ quyện vào từng thớ
đá, thấm sâu vào mỏm đá hình em nhỏ trên đỉnh núi cao.
Một buổi sáng, trời trong suốt, gió thoảng nhẹ, núi
rừng trải rộng ra và im lặng. Mỏm đá hình người bỗng rùng mình nhè nhẹ, khẽ cựa
quậy, rồi từ từ biến thành một em bé bằng thịt bằng xương, xinh đẹp chưa từng
thấy. Em bé đứng yên lặng, mở to mắt nhìn núi, nhìn mây, mỉm cười vui thích,
rồi thong thả bước xuống núi.
Sáng hôm ấy, dưới chân núi, dân làng từng toán,
từng đoàn, vai mang gùi, tay cắp rổ, đang tấp nập suốt lúa, bẻ ngô. Bỗng nhiên,
từ phía rừng xa, nai, mang, công, trĩ, chim phí, lợn rừng... từng đàn kéo về
đông nghịt. Động rừng rồi! Chưa năm nào động rừng dữ dội như năm ấy. Dân làng
hoảng hốt cầm gậy chạy đuổi đằng đông, chạy đuổi đằng tây, rướn cổ, gào thét
đứt cả hơi để đuổi thú, đánh chim mà vẫn chẳng ăn thua gì. Mọi người lại ào vô
rừng, hối hả dứt hàng vác mây song về giăng chằng chịt, buộc bù nhìn, rồi gõ
thanh la, khua mõ nhưng vẫn vô hiệu. Cuối cùng, họ phải bỏ cả nương rẫy mùa
màng, chạy như bay về làng, tìm dao, kiếm nỏ....
Vắng bóng người, chim lông vàng lông đỏ chắp cánh
bay, xa trông như một đám mây ngũ sắc. Hươu sao, nai vàng, hàng đàn kéo thẳng
tới, xông vào nương rẫy. Giữa lúc ấy, em bé từ trên núi cao cũng vừa xuống tới
nơi. Thấy cảnh hỗn độn, em bé đứng nhìn đám muông thú mà cười, vẫy tay đùa bỡn
với chúng. Thấy chuyện lạ, chim sà xuống bìa nương, ngẩng đầu lấm lét nhìn.
Hươu sao, nai vàng cũng lùi lại bãi tranh rộng, vẻ ngờ vực, mắt giương tròn lơ
láo. Bỗng nhiên em bé từ từ mở miệng, cất giọng hát. Tiếng hát của em vang khắp
nương rẫy, núi rừng. Tiếng hát mới hay làm sao, lôi cuốn như hoa thơm quyến rũ
ong vàng, bướm trắng. Nghe tiếng hát lạ lùng ấy, từng đàn chim công, chim sẻ,
từng đàn hươu nai, lợn lòi ... tất cả đều quên hẳn chuyện phá rẫy. Chúng gật
đầu xoè cánh, đập đập móng... và bắt đầu nhảy múa nhịp nhàng. Tiếng hát khoan
thai, chúng nhảy chậm; tiếng hát dồn dập, chúng nhảy nhanh; tiếng hát dặt dìu,
chúng lim dim mắt, gật gù như người chếnh choáng hơi men. Khi dân làng cầm dao,
vác ná chạy ra đến nương, nghe tiếng hát, thấy cảnh ấy, mọi người đều sửng sốt,
kinh lạ. Lũ muông thú vẫn cứ mê say nhảy múa, mãi cho đến khi nhận ra dân làng
đang cầm lao, ná, ập tới, chúng mới giật mình đánh thót, đạp cánh bay vù, chen
nhau chạy giạt đi mất.
Dân làng vây quanh em bé, mừng rỡ như gặp được
tiên. Họ tranh nhau hỏi em bé từ đâu tới, học ở đâu mà có tiếng hát thần tiên
như vậy. Nhưng em bé chỉ cười. Dân làng lại hỏi tên em là gì, em cũng chỉ cười.
Tiếng cười ròn rã làm rộn lòng dân làng, và nụ cười tươi tắn làm rạng rỡ khuôn
mặt xinh xắn của em. Dân làng liền mời em bé về làng. Họ sửa soạn đốt lửa, dựng
chòi cho em bé hát. Một cô gái xinh đẹp nhất làng thấy em bé đáng yêu quá, liền
đặt tên cho em là Nai Ngọc. Nghe tên ấy, em gật đầu, rồi lại cười, dân làng
cũng cười theo, vui thích vì đã chọn được một tên đẹp cho một em bé kỳ lạ.
Tối hôm ấy, trăng sáng lắm, Nai Ngọc ngồi giữa dân
làng cất tiếng ca. Em hát những bài anh hùng ca cho bà con nghe. Trăng lặn, sao
mờ nhưng không một ai chịu về ngủ cả. Họ ngồi như vậy cho đến lúc nắng vàng
chiếu rọi trên nương. Từ đó, Nai Ngọc sống chung với dân làng. Tiếng hát của em
khiến mọi người làm việc không biết mệt mỏi, tiêu tan mọi sự buồn thảm, khiến
cho nương đầy lúa, rẫy đầy bông, rừng núi nở đầy hoa.
Nhưng một ngày kia, khi Nai Ngọc đang cùng dân làng
làm việc trên nương, thì bỗng thấy bốn phương lửa cháy rừng rực, rồi tiếng
chiêng tiếng trống rầm rập nổi lên. Có những người đội khăn đỏ, ngồi trần trên
lưng ngựa, phi như gió, vải đỏ của họ thắt chéo trước ngực, một tay cầm đuốc,
một tay cầm kiếm, cầm vòng đồng. Đoàn người ngựa phi như bay hết làng này sang
làng khác. Lệnh truyền của Mơ-tao vang khắp núi rừng: Bọn giặc ở dưới biển sắp
lên cướp phá quê ta. Chúng kéo lên đông như lá rừng, nhanh như chớp giật, giáo
mác tua tủa như bông lách bông lau. Ai là người thương mẹ, thương cha, ai là người
thương đất nước, ông bà, hãy mau ra đánh giặc. Nghe tin, dân làng bỏ cả công
việc, chạy ào về nhà. Thanh niên trai tráng, các cụ già, thảy đều cầm chặt tên
nỏ, giáo mác, sẵn sàng đi giúp Mơ-tao đánh giặc. Nai Ngọc cũng cầm khiên, dao
theo đoàn quân xuất trận.
Quân hai bên đã gặp nhau. Quân địch tấn công ồ ạt,
thế mạnh như nước tràn bờ. Quân đôi bên xông vào đâm nhau, chém nhau, máu chảy
tràn sông, đỏ cả suối. Nai Ngọc mở to mắt mà nhìn cảnh chém giết ghê sợ đó, rồi
em từ từ trèo lên một mỏm núi, cất tiếng hát. Lúc đầu, tiếng hát còn chìm trong
tiếng sắt thép chạm nhau, lúc sau, tiếng hát vút lên ngân nga, dìu dặt, quân
giặc ngừng tay kiếm, đứng sững sờ như pho tượng. Chúng đứng đờ người ra, như
nuốt lấy từng lời ca, binh khí tuột khỏi tay, rơi xuống đất lúc nào không biết.
Rồi từ từ, chúng ngã xuống, ngủ say như chết dưới chân những đàn voi, đàn ngựa.
Mơ-tao hết lời khen ngợi Nai Ngọc, ban thưởng cho
Nai Ngọc rất nhiều nhưng em chỉ cười và lắc đầu. Nai Ngọc lại cùng dân làng trở
về nương rẫy, sớm chiều cất cao tiếng hát của mình cho bà con nghe. Được vài
ngày thì dân làng không thấy Nai Ngọc đâu nữa. Em đã đi khỏi làng, một mình
theo đường cũ trở lên núi, biến thành đá như thủa nào. Dân làng vội vã đi tìm,
nhưng không thấy. Họ chờ đợi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, từ mùa
xuân sang mùa hạ, từ năm này sang năm khác, nhưng Nai Ngọc vẫn không trở về.
Dân làng bảo với nhau rằng sau khi giúp dân trừ giặc, Nai Ngọc đã trở lên núi
cao, biến trở lại thành người đá như thủa nào. Mọi người tin rằng, một ngày
kia, nhất định Nai Ngọc sẽ trở lại làm người, về với dân làng, lại cất tiếng
hát kỳ diệu giữa cảnh núi rừng thanh bình, tươi đẹp ...
4.
THẠCH SANH
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng bác tiều phu,
tuổi đã cao mà không có con. Vợ chồng bác ngày đêm lo buồn, càng ra sức làm
việc nghĩa để mong trời thương tình mà cho một mụn con. Quả nhiên trời đã không
phụ lòng mong mỏi của hai vợ chồng già. Vợ bác tiều phu đã mang thai nhưng mãi
ba năm mà vẫn chưa sinh nở. Người cha chưa được nhìn mặt con đã qua đời. Thế rồi
một ngày kia vợ bác tiều phu đã sinh ra một bé trai khôi ngô, tuấn tú, bác đặt
tên con là Thạch Sanh. Chẳng bao lâu sau mẹ Thạch Sanh qua đời, từ đó Thạch
Sanh sống côi cút một mình trong túp lều dưới gốc đa. Gia tài chẳng có gì ngoài
một mảnh khố che thân và một chiếc rìu đốn củi. Năm Thạch Sanh mười ba tuổi,
Ngọc Hoàng thương tình sai tiên xuống dạy chàng đủ các môn võ nghệ, mọi phép
thần thông.
Một hôm có anh buôn rượu tên là Lý Thông đi ngang
qua đó ghé lại nghỉ chân. Lý Thông thấy Thạch Sanh khoẻ mạnh lại mồ côi, có thể
lợi dụng được bèn kết nghĩa anh em, rồi đưa Thạch Sanh về nhà.
Bấy giờ ở trong vùng có một con trăn tinh thường
bắt người ăn thịt, quan quân mấy lần vây đánh nhưng nó có nhiều phép thần thông
nên không ai làm gì được. Nhà vua truyền lập miếu thờ và cứ hàng năm phải nộp
cho nó một mạng người. Năm ấy đến lượt Lý Thông phải đi nộp mạng. Mẹ con Lý
Thông nghe tin, rất hoảng hốt liền bàn mưu tính kế đưa Thạch Sanh đi chết thay.
Chiều hôm đó Thạch Sanh đi kiếm củi về, Lý Thông đã đợi sẵn để đãi rượu rồi
bảo: "Hôm nay có việc quan trọng, triều đình cắt phiên cho anh đi miếu
thờ. Ngặt vì anh trót cất mẻ rượu, sợ hỏng việc ở nhà, mong em chịu khó đi thay
anh một đêm". Nghe nói, Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả thuận tình đi
ngay.
Nửa đêm, giữa khu rừng rậm bỗng gió thổi, cây rung,
không khí lạnh buốt, trăn tinh hiện ra giơ nanh vuốt phun lửa phì phì, sấn đến
định ăn thịt Thạch Sanh. Thạch Sanh bình tĩnh đánh nhau với trăn tinh, hồi lâu
thì con yêu quái bị giết chết, hoá ra là một con trăn lớn. Thạch Sanh chặt lấy
đầu mang về. Đến nhà thì hết canh ba. Thạch Sanh gọi cửa, mẹ con Lý Thông ngỡ
là hồn Thạch Sanh hiện về báo oán. ở trong nhà mẹ con cứ lạy lục khấn vái.
Thạch Sanh mới rõ dã tâm của hai mẹ con Lý Thông cố tình đưa mình đến chỗ chết.
Nhưng Thạch Sanh tính tình vốn hiền lành, không giận, vui vẻ kể chuyện giết
trăn tinh cho mẹ con Lý Thông nghe. Lý Thông nghe xong, nảy ra một mưu thâm
độc. Lý Thông dọa Thạch Sanh rằng trăn tinh là của nhà vua nuôi xưa nay, bây
giờ giết đi tất thế nào cũng bị tội chết. Rồi khuyên Thạch Sanh nên trốn đi, để
hắn kiếm cách thu xếp cho Thạch Sanh trở về nơi cũ ở gốc đa. Còn Lý Thông thì
đi tâu vua về chiến công của hắn đã diệt trừ được trăn tinh và hắn đã được đức
vua phong chức đô đốc.
Bấy giờ nhà vua mở hội kén phò mã cho công chúa,
nhưng vẫn không chọn được ai vừa ý. Một hôm công chúa đi dạo trong vườn hoa,
bỗng một con đại bàng sà xuống cắp đi mất. Tình cờ đại bàng bay ngang trên cây
đa có Thạch Sanh đang ngồi thẫn thờ ở dưới gốc. Thạch Sanh thấy vậy liền giương
cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Nhưng con đại bàng rút tên vứt xuống rồi
tiếp tục bay đi, Thạch Sanh lần theo vết máu đỏ, thấy đại bàng chui vào một cái
hang rất kiên cố. Chàng đánh dấu lối vào hang và trở về.
Khi nghe tin công chúa bị đại bàng bắt nhà vua rất
đau lòng, truyền cho Lý Thông đi tìm, hứa nếu tìm được sẽ gả công chúa và
truyền ngôi cho. Lý Thông vừa mừng vừa lo, bèn lập mưu mở hội hát xướng trong
mười ngày, mục đích là để nghe ngóng tin tức. Tám, chín ngày đã qua mà không
nghe ai nói lời gì về chuyện đại bàng bắt người cả. Tin Lý Thông mở hội hát
xướng đến tai Thạch Sanh, chàng lần về thăm.
Gặp Thạch Sanh, Lý Thông tỏ mối lo không tìm được
công chúa, Thạch Sanh thật thà kể lại việc bắn trúng chim đại bàng. Lý Thông
mừng lắm, lập tức nhờ Thạch Sanh dẫn đường, mang quân lính đến tận cửa hang đại
bàng. Tới nơi, Thạch Sanh tình nguyện xuống hang tìm công chúa hộ Lý Thông. Quả
nhiên gặp công chúa ở đó. Gặp lúc đại bàng đang ngủ không biết gì, Thạch Sanh
buộc dây vào người công chúa kéo lên. Xong việc, Thạch Sanh chuẩn bị lên theo
nhưng Lý Thông đã kịp ra lệnh cho quân lính lấp kín cửa hang lại. Giữa lúc ấy
đại bàng tỉnh giấc. Thấy mất công chúa, lại có một người lạ có mặt trong hang,
hắn nổi giận lôi đình, gầm lên, vách đá ầm ầm rung chuyển. Thạch Sanh hoá phép
đánh nhau với đại bàng, cuối cùng đại bàng cũng bị giết chết, Thạch Sanh mò tìm
lối ra.
Đi thêm một đoạn, chàng thấy có một cũi sắt bên
trong giam một người con trai. Thì ra đó là Thái tử con trai của vua Thuỷ tề bị
đại bàng bắt giam đã ngót một năm. Thạch Sanh lấy cung vàng bắn tan cũi sắt,
cứu Thái tử ra. Thái tử mời Thạch Sanh về cung vua để vua cha được đền ơn. Vua
Thuỷ tề mừng lắm, tặng Thạch Sanh vô số vàng bạc châu báu nhưng chàng đều từ
chối không nhận, chàng chỉ lấy một cây đàn làm kỷ niệm, rồi chàng từ giã vua và
Thái tử trở về chốn cũ nơi gốc đa. Lý Thông nghe tin Thạch Sanh lại trở về túp
lều cũ ở gốc đa, e lộ chuyện hắn bèn sai người lấy ngọc ngà châu báu vứt vào
lều Thạch Sanh rồi vu cho chàng ăn cắp để hắn lấy cớ bắt Thạch Sanh giam vào
ngục tối.
Lại nói về công chúa, từ khi được cứu lên khỏi
hang, chứng kiến cảnh Lý Thông lấp mất cửa hang, công chúa uất ức mà hoá câm.
Khi trở về cung ai hỏi gì nàng cũng không nói. Vua buồn rầu sai Lý Thông lập
đàn cầu nguyện, đàn đã lập một tháng mà công chúa vẫn không nói được. Lúc ấy
Thạch Sanh đang bị giam trong ngục, buồn tình chàng lấy cây đàn ra gẩy, không
ngờ cây đàn ấy là cây đàn thần. Đàn phát ra những lời ai oán như trách móc: Đàn
kêu tích tịch tình tang, ai mang công chúa dưới hang trở về. Tiếng đàn vang
vọng trong cung vẳng đến tai công chúa. Nghe tiếng đàn công chúa bỗng reo mừng,
cười nói, xin vua cha cho gọi người gẩy đàn. Vua đòi Thạch Sanh đến và trước cả
triều thần, bá quan văn võ, Thạch Sanh kể lại sự tình cho vua nghe. Vua nghe
xong tức giận truyền lệnh cho bắt mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh toàn
quyền xử tội. Thạch Sanh thương tình xin vua tha tội cho hai mẹ con Lý Thông để
họ trở về làng. Nhưng dọc đường về hai mẹ con gặp mưa dông và cả hai đều bị sét
đánh chết.
Kế đó, vua cho Thạch Sanh kết hôn cùng công chúa.
Tin ấy truyền đi, Thái tử mười tám nước chư hầu trước đã ôm hận vì công chúa
không để ý đến mình, nay lại nghe tin vua cha gả công chúa cho một tên mồ côi
nghèo xơ xác liền cất binh mã đến hỏi tội. Vua sai Thạch Sanh ra dẹp giặc. Khi
giáp trận, Thạch Sanh vốn không muốn gây đổ máu vô ích bèn đem cây đàn của mình
ra gẩy. Tiếng đàn khi khoan khi nhặt, êm ái lạ thường, khiến cho quân địch phải
xúc động. Người thì bồi hồi thương con, nhớ vợ, kẻ thì bâng khuâng nhớ tới quê
hương, không một ai còn nghĩ đến đánh nhau nữa. Thái tử mười tám nước chư hầu
thấy thế khiếp sợ vội vàng xin hàng. Thạch Sanh dọn một niêu cơm nhỏ cho chúng
ăn nhưng chúng ăn mãi không hết, niêu cơm cứ vơi rồi lại đầy. Chúng cảm phục
Thạch Sanh dập đầu lạy tạ rồi kéo nhau về nước.
Sau khi quân giặc đã chạy hết, vua liền làm lễ
nhường ngôi cho Thạch Sanh. Từ đó Thạch Sanh cùng công chúa sống yên vui, hạnh
phúc đến trăm tuổi.
5.
HAI CÔ GÁI VÀ CỤC BƯỚU
Xưa có một cô gái con nhà nghèo không may là khi
sinh đã mang một cục bướu ở mặt. Người càng lớn, cục bướu càng to, vì vậy nhan
sắc của cô thua em kém chị. Tuy nhiên cô gái không lấy thế làm buồn, suốt ngày
vẫn thường vui đùa ca hát.
Một buổi trưa hè cô theo bạn lên rừng kiếm củi. Vì
mải mê tìm nấm cô vui chân quá bước vào rừng sâu, quên bẵng mất trời đã về
chiều và mây thì đang kéo tới mỗi lúc một đen sầm, báo hiệu một cơn dông sắp
tới. Quả nhiên khi cô định trở về để gặp chúng bạn thì không kịp nữa. Gió thổi
mạnh làm cây rừng xào xạc, cành khô gãy răng rắc, những giọt mưa hắt vào mặt.
Bất đắc dĩ cô phải tìm chỗ ẩn. May làm sao cô chạy kịp đến một gốc cây cổ thụ,
thu mình chui vào một cái hốc để tránh mưa. Nhưng đến lúc mưa tạnh, bước ra
khỏi hốc thì trời cũng đã tối mịt. "Các bạn ta bây giờ chắc đã rủ nhau
về cả. Đường rừng lại tối, đi một mình thật là đáng sợ. Thôi, đành ở đây đợi
sáng, không còn cách nào khác". Nghĩ vậy, cô dọn lại chỗ hốc sạch sẽ
rồi lách mình vào đó nằm nghỉ, không quên đặt bó củi chắn cửa để để phòng thú
dữ.
Khuya lại, có những tiếng hát, tiếng cười và tiếng
đàn sáo làm cho cô tỉnh giấc. Cô nhìn ra thấy trăng sáng như ban ngày. ở một
bãi đất bằng phẳng phía bên kia gốc cổ thụ có một đám người đang múa hát vui
vẻ. Cô bước ra khỏi hốc. Thoạt đầu cô cứ ngỡ là một đám người đi rừng nào đó lên
đây sớm ngồi đợi trời sáng nên bày ra múa hát mua vui. Nhưng khi nhìn kỹ thì
hoá ra không phải. Đó là những người hình dung dị thường, ăn mặc khác lạ, có
những bộ mặt đen đúa đầy những lông lá gớm ghiếc. Cô gái bụng bảo dạ: "Đúng
là một bọn quỷ", và cô bỗng rùng mình, nhưng rồi cô liền đánh bạo bước
lại nấp sau cây cổ thụ rình xem. Bọn quỷ vẫn múa hát không biết có người đang
rình mình. Giọng hát của chúng không hay nhưng thật là vui làm cho cô vui lây.
Cho nên cô cũng lẩm bẩm hát theo bằng một giọng nho nhỏ trong cổ họng. Dần dần
hứng lên, tự nhiên cô cất cao giọng, quên bẵng là mình đang nấp.
Nghe tiếng hát, bọn quỷ bỗng im bặt. Rồi cả bọn ùa
nhau đến gốc cây. Một đứa nói: Hà
hà, khá quá! Ra đây, ra đây, ta cùng hát cho vui. Rồi chúng dắt cô ra bãi,
bảo cô hát tiếp. Cô lấy can đảm hát lại bài hát vừa rồi. Giọng cô rất ngọt làm
cho bọn quỷ phải lắng nghe. Xong một bài, chúng tấm tắc khen ngợi rồi nhảy múa
thích thú. Chúng lại đưa những quả sim, quả ổi mời cô ăn. Ăn xong, lại bảo cô
hát tiếp, rồi chúng còn lần lượt đàn hát và nhảy nhót suốt đêm.
Tiếng gà rừng gáy buộc bọn quỷ phải ngừng cuộc vui.
Một đứa bảo: Cô hát hay quá!
Tối mai đến đây hát nữa nhá! Cô
gái đáp: Cái đó thì cũng còn
tuỳ. Nó kêu lên: Ấy, còn
tuỳ thế nào. Chúng mày ơi! Ngộ tối mai cô ấy không đến thì sao? Một tiếng ứng theo: Phải bắt cô ấy để lại cái gì làm
tin mới được! Một đứa chỉ vào
cái bướu: Ta hãy giữ lấy cái
này, chắc là của quý. Mai cô đến đây mà lấy nhé! Nói xong phẩy tay một cái, rồi cả
lũ biến đi lúc nào không hay.
Sáng hôm sau cô gái ra về, lòng mừng khấp khởi. Cục
bướu đã được bọn quỷ lấy đi một cách thần diệu, làm cho cô trở nên nhẹ nhõm.
Gặp ai cô cũng kể chuyện tối hôm trước cho họ nghe. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn
đã lan khắp đầu đường, xó chợ. Một cô gái con nhà phú ông ở làng bên cạnh cũng
không may mang một cục bướu trên mặt, khi nghe câu chuyện, cô này vội vàng đến
gặp cô kia xin chỉ chỗ cho mình đi thay, hy vọng nhờ lũ quỷ nhổ cho cái bướu
xấu xí trên mặt. Cuối cùng, cô gái nhà phú hộ cũng tìm được đến gốc cây cổ thụ
nọ và nấp sẵn trong hốc cây. Nửa đêm, bọn quỷ hiện ra dưới ánh trăng. Chúng tìm
đến chỗ cô gái nấp: - Nào, cô
hãy xuống hát với chúng tôi đi! Vốn
quen thói gắt gỏng, lại thấy những cánh tay lông lá giơ ra kéo lấy áo, cô vội
gạt đi: - Buông ra đã nào,
tránh để cho tôi xuống. Ôi, kinh tởm! Rồi
cô cũng nhảy xuống khỏi hốc, nhưng vẫn tỏ vẻ sợ hãi, gớm ghiếc, không dám lại
gần lũ quỷ. Cô để cho chúng giục hai ba lần mới cất giọng hát, song nét mặt thì
không được vui. Giọng của cô cũng vì thế mà mất tự nhiên. Mỗi lần cô cố gắng
cất cao thì giọng lại the thé, nghe chẳng hay ho gì. Cô mới hát được một bài,
bọn quỷ tỏ ý không hài lòng! Một đứa nói: Hôm
qua hát hay thế, sao bây giờ thì chán ngắt! Thôi cô về đi cho rảnh. Cả lũ quỷ đồng thanh: Phải đấy, về đi! Tiếng đuổi của lũ quỷ nhao nhao làm
cho cô gái phật ý, quay lưng trở lui. Nhưng mới đi được mấy bước, cô đã nghe có
tiếng chạy theo: Này cô kia,
trả lại cô cái làm tin hôm qua. Cô vừa ngoảnh lại thì thấy có vật gì mềm
nhũn văng vào má. Sờ tay vào mới biết bây giờ không phải là một mà có tới hai
cục bướu.
6.
ANH HỌC TRÒ VÀ 3 CON QUỶ
Ngày xưa, ở một vùng nọ có hai vợ chồng một nhà phú
hộ tuổi đã già mới sinh được mụn con gái nên hết sức chiều chuộng. Cô gái lớn
lên hình dung đẹp đẽ ít ai bì kịp, bố mẹ lại càng nâng niu như vàng như ngọc.
Họ bỏ tiền ra xây một ngôi lầu cho con ở. Lầu dựng xong, phú hộ lại cho người
đi tìm hoa thơm cỏ lạ, trồng xung quanh vườn để con thưởng ngoạn.
Bấy giờ trong đám rừng sâu gần đấy, có ba con báo
sống lâu năm thành quỷ, có phép biến hoá, thường quen thói hại người. Nghe tin
có cô gái đẹp cấm cung mà bố mẹ thì đang bỏ tiền ra mua các cây hoa trồng ở
vườn, chũng rắp tâm phá phách, bèn hoá thành một thứ cây có hoa rất lạ. Hoa có
ba cánh, mỗi cánh một màu. Một người tiều phu lên rừng hái củi, thấy hoa đẹp
chưa từng có, liền bứng lấy đưa về bán cho phú hộ. Thấy cây hoa đặc biệt, phú
hộ vội mua ngay rồi đem trồng ở vườn. Tuy hoa rất lạ và trông thật đẹp mắt
nhưng cô gái lại tỏ vẻ không thích, vì thế mưu kế của lũ quỷ không thành. Lâu
ngày hoa tàn cây héo, lũ quỷ sắp sửa bỏ đi nơi khác. Giữa lúc ấy, người phú hộ
chặt cây thấy thớ gỗ đẹp, bèn chọn lấy một khúc, đẽo thành cái then cửa đem về
chốt ở cửa buồng của con gái.
Thế rồi sau đó mấy hôm, một đêm kia trong khi cô
gái đang ngủ, thì một con quỷ từ chiếc then cửa bỗng hiện ra, lên giường toan
sinh sự với cô. Nhưng cô đã vùng dậy, hết sức chống cự và kêu la inh ỏi. Biết
không xong, con quỷ liền hớp lấy hồn nàng rồi lại biến vào then cửa. Khi vợ
chồng phú hộ và người nhà chạy vào buồng thì thấy cô gái nằm thiêm thiếp trên
giường như người đã chết, ngực thoi thóp đập, nhưng lay gọi mãi vẫn không tỉnh.
Chưa kịp tìm thầy cứu chữa, thì tối hôm sau trong khi người cha một mình chăm
sóc cho con, con quỷ thứ hai lại hiện ra hớp lấy hồn ông. Tối hôm sau nữa, lại
đến lượt một người nhà bị con quỷ thứ ba hớp hồn. Vợ phú ông sợ quá, vội cho
người mời một thầy phù thuỷ đến bắt quỷ trừ tà. Thầy làm phép trong ba ngày ba
đêm thì phú ông và người hầu tỉnh lại. Duy chỉ có cô con gái thì con quỷ đầu
đàn vẫn không chịu buông tha. Thầy tuy đã cao tay nhưng quỷ vẫn chẳng coi ra
mùi gì. Cuối cùng thầy đành xách gói cáo từ, vì phép thuật đã giở ra hết mà cô
gái vẫn ngày đêm nằm trên giường, nửa mê nửa tỉnh. Từ đấy người ta tin rằng
ngôi lầu có quỷ nên không một ai dám lui tới.
Một buổi chiều nọ, có một thầy cử tên là Long đi
thi hội, đến đây thì lỡ độ đường. Thấy có ngôi nhà tốt, anh bèn ghé vào xin
nghỉ trọ. Người nhà kể lại câu chuyện đã qua và nói: - Chẳng giấu gì ông, nhà chúng tôi
đang bị quỷ quấy nhiễu. Ông nên đi tìm chỗ khác mà trọ, kẻo mang vạ vào thân.
Nghe đoạn, Long nói với vợ chồng phú ông. - Đã
là học trò, đọc sách thánh hiền thì yêu tinh ma quỷ dám đâu trêu ghẹo. Ông bà
cứ cho tôi nghỉ lại một đêm. Biết đâu tôi lại không trừ được nạn cho ông bà.
Vợ chồng phú hộ nghe nói, bèn mở cửa đón khách vào. ăn xong bữa chiều, Long
khoan thai bước trên lầu. Anh chỉ xin nhà chủ cho mình một ngọn đèn, một con
dao sắc. Đêm lại, anh thắp đèn ngồi trước án thư đọc sách, con dao để sẵn bên
người. Đến khuya, một con quỷ từ then cửa buồng cô gái hiện ra với trạng mạo
một cô gái xinh đẹp. Long vẫn điềm nhiên đọc sách không nói gì cả cho đến lúc
nó biến đi. Lần thứ hai, một con khác tiến vào dưới dạng một người mặt mày hung
ác, tóc xoã, lưỡi thè chừng một gang. Nó chạm vào người Long, nhưng anh vẫn thi
gan mặc kệ. Đến lượt con thứ ba tức là con quỷ đầu đàn đang hớp hồn cô gái,
bước vào. Thấy bóng anh học trò, nó vội quay trở ra, chỉ kịp rú lên mấy tiếng:
“Có bậc quí nhân... Trốn cả mau!” Long lần này đã cầm sẵn dao ngồi rình,
nhanh như cắt, nhảy đến chém một nhát, con quỷ đứt mất một chân. Long chạy theo
đến cửa buồng cô gái thì thoáng thấy cả ba con quỷ chui biến vào then cửa. Anh
cầm lấy chân quỷ soi vào đèn xem, thì thấy đấy là một cái chân con cáo. Vì quỷ
đau quá phải buông thả hồn ra nên ngay lúc đó cô gái cũng tỉnh dậy. Long liền
đến gần hỏi chuyện. Biết đó là người đã cứu mình, nàng cúi đầu chào và ngỏ lời
cảm on. Long dẫn nàng ra cho vợ chồng phú hộ. Lại đem chân con quỷ cho mọi
người xem. Ai nấy đều lắc đầu lè lưỡi phục tài anh học trò.
Sáng hôm sau lúc lên đường, Long từ chối vàng bạc
của hai vợ chồng phú hộ đưa tặng, chỉ xin cái then cửa buồng giắt vào thắt
lưng. Đi được nửa ngày, anh đã thấy ba con quỷ hiện ra, phủ phục trước mặt,
khẩn khoản xin anh làm phúc bỏ lại cái then cửa. Long cười: - Không được! Chúng mày có tài phép
gì thì cứ giở ra cho hết để tao xem, rồi tao sẽ cho chúng mày vào lửa. - Xin ngài tha cho chúng tôi! - Ba con quỷ đáp - Chúng tôi xin tặng ngài những vật
quí. - Vật gì đưa ra đây ngay, nếu không thì đừng có trách! Con quỷ thứ nhất đưa tặng Long một
cái mặt trời đựng trong túi, dặn rằng ban đêm, hễ rút ra khỏi túi thì trời sẽ
sáng như ban ngày, cất vào túi thì trời lại tối sầm như cũ. Con thứ hai tặng
một mặt trăng cũng vậy, hễ ban đêm tối tăm rút ra khỏi túi thì không cần đến
đèn đuốc. Còn con thứ ba tặng một con ngựa, mỗi ngày có thể đi ngàn dặm đượng.
Long vui lòng nhận lấy những món quà tặng rồi ném cái then cửa vào một bụi rậm
bên đường. Sau đó, Long nhảy lên lưng con ngựa, bảo đưa mình tới kinh đô. Lập
tức, ngựa hí lên một tiếng rồi lao rất nhanh, bốn chân không chạm đất. Chỉ một
lát sau, ngựa đã đặt anh xuống ở phía ngoài hoàng thành. Long ở lại đây sắm sửa
mọi thứ để dự kỳ thi hội.
Hôm bắt đầu thi, bài của Long làm rất đắc ý. Cho
nên thi vừa xong buổi sang, anh bỗng nhớ đến vợ. Sẵn có con ngựa quí, anh nhảy
ngay lên lưng, bảo nó đưa mình về quê nhà. Ngựa phóng tít mù, chỉ vừa chập tối
là đã đến nơi. Anh khe khẽ gọi cửa. Vợ Long đang nghủ, rất kinh ngạc vì thấy
chồng mình đi thi chưa được mấy ngày đã vọi trở về. Long không muốn đánh thức
cha mẹ dậy nên dặn vợ giấu kín chuyện mình về. Rồi hai vợ chồng nhỏ to trò
chuyện cho đến mờ sáng anh mới lên đường.
Mặc dầu vậy đêm ấy tiếng chuyện trò rì rầm của đôi
vợ chồng đã thức tỉnh cha mẹ Long nằm ở buồng bên. Hai ông bà ngờ rằng nàng dâu
có nhân tình nhân ngãi chi đây. Cho nên sáng hôm sau ngủ dậy - lúc ấy Long đã
cưỡi ngựa trở lại kinh đô để kịp nghe loa báo tin - hai ông bà vội vào buồng
nàng dâu gạn hỏi. Vợ Long trước còn giấu quanh, nhưng sau thấy không giấu được,
đành phải kể lại câu chuyện chồng về tối hôm qua, cùng những việc chồng mình
trị quỷ và được chúng tặng ngựa quí ra sao... Nhưng bố mẹ chồng làm sao mà tin
được một việc khó nghe đến thế, nên trách mắng con dâu thậm tệ. Vợ Long không
biết lấy gì làm chứng, đành chỉ ôm mặt ngồi khóc. May sao chiều hôm ấy Long lại
về. Được tận mắt thấy con trai và con ngựa thần, hai ông bà mới tin là thực,
Long kể chuyện cho bố mẹ và mọi người cùng nghe: - Sáng hôm sau, ngựa đưa con
vào đến kinh đô thì cũng vừa lúc tiếng loa trường thi bắt đầu gọi tên những ai
thi đỗ. Nghe loa gọi đến tên con, con mừng rỡ, vội ra nhà trọ thu xếp hành lý,
phóng ngựa về đây. Ba ngày nữa con lại trẩy kinh để còn dự yến đêm do đức hoàng
đế đãi các ông nghè ở điện Thiên Quang. Nghe nói có con ngựa thần đi một ngày
ngàn dặm, người cha ngỏ ý muốn cưỡi thử, Long hỏi: - Bố muốn đi chơi đâu bây giờ? - Bố
thường ao ước được vào tận trong Đồng Nai, Gia Định để du ngoạn một phen. -
Được.
Sáng hôm sau, ông già cơm nước xong, nai nịt chỉnh
tề bước ra sân, Long nắm dây cương trao cho cha. Ông vừa nhảy lên yên thốt ra
hai tiếng “Gia Định”, ngựa đã phóng đi vùn vụt, loáng một cái không thấy đâu
nữa. Cho đến chiều, vào lúc mặt trời gác núi, con ngựa quí lại phóng như bay
trở về, đặt ông già xuỗng giữa sân. Ông mở tay nải lấy quà mời mọi người nếm
thử, rồi kể chuyện tai nghe mắt thấy ở Gia Định.
Mẹ Long nghe chồng hết lời ca ngợi con ngựa thần,
cũng có ý định muốn đi chơi Đồng Nai, Gia Định một chuyến dối già. Qua hôm sau,
Long lại dắt ngựa ra sân rồi đỡ mẹ lên yên. Nhưng ngựa chưa kịp bước ra khỏi
cổng, tự nhiên ngã khuỵu, hất bà già ngã lăn xuống đất. Một luồng khói trắng từ
trong mình ngựa phóng ra và bay cuộn lên trời. Mọi người xúm lại xem thì con
ngựa đã tắt thở từ lúc nào. Thì ra bà mẹ Long đã cưỡi ngựa thần không đúng lúc
vì bà đang thấy kinh nên thần ngựa hoảng sợ, bỏ lốt ngựa mà đi. Thiệt hại cho
ông tiến sĩ mới cả đơn lẫn kép. Không những mất một tặng vật quí vô giá, ông
còn khó thoát tội “khi quân”, vì trước mắt không có cách gì để tiến kinh cho
kịp chiều mai dự yến. Đường từ quê Long đến kinh thành đi bộ mất bốn năm ngày,
đi ngựa cũng phải hơn hai ngày. Không còn kế gì hơn, Long đành bắt một con ngựa
thường, chẳng kịp từ biệt cha mẹ vợ con, vội ra roi cho ngựa phi nước đại.
Con ngựa đi đến tối mịt mà vẫn chưa được nửa đường.
Nằm nghỉ ở quán trọ, Long lo lắng hết sức. Anh sực nhớ tới tặng vật “mặt trời”
do con quỷ thứ nhất biếu vẫn còn cất trong túi vải. Thế là Long nghĩ ra một
diệu kế. Ngày hôm sau, Long lại lên ngựa phóng đi. Cho đến lúc mặt trời sắp gác
núi, anh bèn lôi “mặt trời” của mình ra treo trước đầu ngựa. Thốt nhiên, một
chuyện lạ chưa từng có xảy ra: đâu đâu cũng không thấy tắt ánh mặt trời. Cho
đến khi con ngựa đưa Long đến trước điện Thiên Quang, anh mới cất mặt trời vào
túi, bấy giờ bầu trời từ ngày mới chuyển sang đêm một cách đột ngột.
Long buộc ngựa xong, bước vào điện. Nhưng cũng đã
muộn mất rồi. Mọi người chớ mãi không thấy đêm xuống, song thức ăn thì đã nguội
cả, nên sau cùng hoàng đế đành ra lệnh cho các ông tiễn sĩ cứ bốn người một,
ngồi vào mâm. Khi Long bước vào thì tiệc rượu đã hầu tàn. Biết việc chậm trễ có
thể khiến mình mất đầu như chơi, nên anh cởi mũ “phủ phục” trước sân điện, một
hai viện lý do “không thấy trời tối” để mong được nhẹ tội. Vua tha cho anh,
nhưng để anh nhớ lỗi, bắt bổ anh về làm tri huyện một huyện từng nổi tiếng có
nhiều vụ án ma. Mặc dầu vẫn nghe nhiều tin đồn rùng rợn rằng từ trước đến nay,
hễ quan nào được bổ về huyện ấy đều bị ma quỷ vật chết, Long vẫn ung dung về
trị nhậm.
Theo tục lệ vùng này, mỗi khi quan mới bổ đến, dân
các làng xã đều phải mang lễ vật đến chào quan. Cho nên những ngày Long mới
chân ướt chân ráo đến nơi, dân các làng kéo nhau đội lễ vật đến đầy cả công
đường, Long tiếp chuyện mọi người rất ân cần, nhưng nhất mực từ chối mọi lễ
vật. Chàng kín đáo dặn lính hầu mỗi khi có toán dân vào ra về thì bí mật đi
theo để biết rõ tung tích. Vào ngày thứ ba một trong những người lính hầu mà
Long phái đi, đã theo bén gót hai người dân đội một mâm lễ vật trở về. Người
lính thấy hai người dân đi mãi, đi mãi, bóng chiều đã ngả mà vẫn chưa đến nơi.
Cho đến khi tắt ánh mặt trời mới thấy họ đến sát một cái giếng hoang bên cạnh
đường. Thốt nhiên họ đội cả mâm, lội vùng xuống giếng, rồi thoáng một cái đã
biến mất. Vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, người lính vội đi suốt đêm trở về báo lại
tình hình cho quan biết.
Sáng hôm sau, Long hạ lệnh cho một toán lính huyện
tới tát cạn cái giếng ấy. Họ ra sức tát suốt cả ngày. Nhưng thật là lạ lùng!
Tát được bao nhiêu nước lại đầy ắp bấy nhiêu. Bọn lính huyện cảm thấy rất chán
nản. Một hôm nọ, vào giữa canh khuya, một người lính nằm ngủ, bỗng thức giấc
thấy có hai con quỷ đang ngồi vắt vẻo trên cành cây nói chuyện với nhau. - Nếu chúng nó kéo tới đông thì có
tát cạn chăng? - Một con hỏi. - Nhiều người cũng vô ích thôi. Chỉ
có rồng mới có thể tát cạn, ngoài ra không có cách nào khác - Con kia đáp. Người lính bèn đem câu
chuyện ấy trình lên quan. Long nói ngay: -
Chính ta là rồng đây! Ta sẽ thân hành tát cạn giếng. Nói xong, Long cưỡi
ngựa về đến tận nơi. Sau khi xem xét tình hình, quan xắn áo quần, cầm lấy gầu
tát lấy tát để. Quả nhiên chỉ một mình Long cũng đã làm cho nước giếng dần dần
cạn thấu đáy. Nhưng khi giếng cạn hết, cả quan và lính đều không thấy quỷ. Giữa
ban ngày, quỷ có phép tàng hình, mắt người không thể nhìn thấy được. Nhưng đêm
đến, quỷ lại dựa vào tối trời, lẩn lút trống nấp trong các hang hốc làm cho
Long và lính hầu tìm hết hơi mà mãi không ra. Họ thắp đuốc lên nhưng bó đuốc
nào hễ đưa vào cửa hang cũng đều tắt ngấm, không thể chẹm lên được, Long sực
nhớ tới món tặng vật bèn mở túi lấy “Mặt trời” ra treo trên đầu ngọn tre. Lập
tức cả một vùng sáng rực như ban ngày. Nhưng vì là ban ngày nên quỷ lại tàng
hình lọt khỏi mắt của người. Sau cùng Long nhớ đến món tặng vật thứ hai. Vừa
đưa ra khỏi túi, “mặt trăng” toả một thứ ánh sáng dịu mát vào khắp mọi nơi.
Long liền mang “mặt trăng” đi lần xuống giếng, tiến vào các hang, các hốc. Dưới
ánh sáng trăng, quỷ đành lộ mặt, không thể tàng hình nổi. Cho nên chỉ một chốc,
chưa dập miếng bã trầu, quan và lính đã tóm được hai con quỷ. Chính đó là hai
con xà tinh quen thói hại người, thường dùng một cái hang ở đáy giếng làm sào
huyệt. Trước mặt Long, hai con quỷ cúi đầu lạy lục xin quan sinh phúc tha cho
tính mạng, từ rày không dám làm hại ai nưa. Long sai lính giải chúng đi đày
thật xa. Từ đấy dân huyện ấy sống yên ổn.
7.
CÂY KHẾ
Một nhà kia có hai anh em, cha mẹ đều chết cả. Hai
anh em chăm lo làm lụng nên trong nhà cũng đủ ăn. Muốn cho vui cửa vui nhà, hai
người cùng lấy vợ. Nhưng từ khi có vợ, người anh sinh ra lười biếng, bao nhiêu
việc khó nhọc đều trút cả cho vợ chồng người em. Vợ chồng người em thức khuya
dậy sớm, lại cố gắng cày cấy, làm cỏ, bón phân, lúa tốt hơn trước, nên đến mùa
được bội thu. Thấy thế, người anh sợ em kể công chiếm lấy phần hơn, vội bàn với
vợ cho hai vợ chồng người em ra ở riêng.
Ra ở riêng với vợ, người em được người anh chia cho
có một căn nhà tranh lụp xụp, trước nhà có một cây khế. Hai vợ chồng người em
không phàn nàn một lời, hết vào rừng đốn củi đem ra chợ bán lại đi gánh mướn,
làm thuê. Còn người anh có bao nhiêu ruộng nương đều cho làm rẽ để ngồi không
hưởng sung sướng với vợ. Thấy em không ca thán, người anh cho là em ngu si, lại
càng lên mặt, không lui tới nhà em và cũng không để ý đến em nữa.
Những ngày sung sướng nhất của hai vợ chồng người
em là những ngày cây khế chín. Quanh năm, hai vợ chồng đã chăm bón và bắt sâu,
đuổi kiến cho khế, nên cây khế xanh mơn mởn, rợp bóng khắp mảnh vườn bé nhỏ,
quả sai trĩu cả những cành la sát mặt đất, chỉ cần với tay cũng lấy được. Một
buổi sáng, hai vợ chồng mang quang gánh và thúng bị ra gốc khế, định trèo lên
hái quả đem ra chợ bán thì thấy trên ngọn cây rung động rất mạnh, như có người
đang trèo. Hai vợ chồng nhìn lên thì thấy một con chim rất lớn đang ăn những
quả khế chín vàng. Hai vợ chồng đứng dưới gốc cây xem chim ăn, đợi chim bay đi
rồi mới trèo lên lấy quả. Từ ấy, cứ mỗi buổi sáng tinh mơ, hai vợ chồng ra hái
khế thì đã lại thấy chim ở trên cây rồi. Thấy có người, chim vẫn cứ ăn, ung
dung một lúc lâu rồi mới vỗ cánh bay đi. Chim ăn ròng rã như thế ngót một tháng
trời, cây khế vợi hẳn quả.
Đến một hôm, đứng đợi chim ăn xong, người vợ mới
nói nửa bỡn nửa thật với chim: "Chim ơi, chim ăn như thế thì còn gì là
khế của nhà tôi nữa! Cây khế nhà tôi cũng sắp hết quả rồi đấy chim ạ!".
Chim nghển cổ, đáp lại: "Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang đem
đi mà đựng". Chim nhắc đi nhắc lại câu ấy ba lần rồi vỗ cánh bay đi.
Hai vợ chồng thấy chim biết nói đã lấy làm lạ, lại thấy chim bảo mình như thế,
nhắc cho mình đến ba lần, nên lại càng suy nghĩ phân vân. Nhưng rồi hai vợ
chồng cũng làm theo lời chim. Người vợ lấy vài vuông vải nâu may cho chồng một
cái túi, ngang dọc đúng ba gang.
Sáng hôm sau, hai vợ chồng vừa ăn xong thì thấy một
luồng gió mạnh cuốn cả cát bụi trước sân nhà, rồi trong chớp mắt một con chim
cực kỳ lớn hạ xuống giữa sân, quay đầu vào nhà kêu lên mấy tiếng như chào hỏi.
Người chồng xách túi ba gang ra sân, chim nằm rạp xuống, quay cổ ra hiệu cho
anh ngồi lên lưng mình. Anh ngồi lên lưng chim, bám vào cổ chim thật chặt, chim
đứng dậy vươn cổ, vỗ cánh bay bổng lên trời xanh. Chim lúc bay cao, lẩn vào mây
bạc, lúc bay thấp, là là trên rừng xanh, đồi núi trập trùng. Rồi chim bay ra
biển cả mênh mông, sóng biếc cao ngất, ập vào sườn những hòn đảo nhỏ, làm tung
lên bọt trắng xoá. Anh ngồi trên lưng chim thấy biển tuyệt mù, không biết đâu
là bờ... Thốt nhiên, chim bay vào một hòn đảo toàn đá trắng, đá xanh, đá đỏ, đá
ngũ sắc phản chiếu ánh sáng rực rỡ, anh chưa từng thấy bao giờ, chim bay một
vòng thật rộng xung quanh đảo như muốn tìm một nơi hạ cánh, rồi bay những vòng
hẹp hơn, là là trên các ngọn đá, lắm lúc anh tưởng như mình sắp va vào những
tảng đá khổng lồ. Bay đến trước mặt cái hang rộng và sâu, chim từ từ hạ xuống.
Đặt chân xuống đảo, anh nhìn ngó khắp nơi, tuyệt nhiên không thấy một sinh vật
nào, không có đến một ngọn cỏ hay một con chim sâu.
Chim ra hiệu bảo anh vào hang, muốn lấy gì thì lấy.
Ở ngay cửa hang, anh đã thấy toàn những thứ đá trong như thuỷ tinh và hổ phách
đủ các màu sắc, có thứ màu xanh như mắt mèo, có thứ đỏ ối như mặt trời, còn
vàng thì nhiều như sỏi đá. Thấy hang sâu và rộng, anh không dám vào vì sợ lạc.
Anh nhặt một ít vàng và kim cương bỏ vào túi ba gang rồi trèo lên lưng chim, ra
hiệu cho chim bay về. Chim tỏ vẻ vui mừng, gật gật cái đầu, vươn cổ kêu vài
tiếng, rồi vỗ cánh bay lên trời xanh, bay qua biển, qua rừng núi. Mặt trời vừa
mới đứng bóng, chim đã hạ cánh xuống cái vườn nhỏ có cây khế ngọt. Người vợ
thấy chồng về bình yên, mừng rỡ vô cùng, chạy ra vuốt lông chim tỏ ý cảm ơn, ra
hiệu mời chim bay lên cây khế giải khát. Chim bay lên cây khế ăn một lúc, rồi
kêu lên ba tiếng như chào vợ chồng người nông dân, rồi bay đi. Từ đấy, lâu lâu
chim lại mới đến ăn khế một lần.
Tiếng đồn hai vợ chồng người em đột nhiên giàu có
bay đến tai hai vợ chồng người anh. Hai vợ chồng người anh vội vã đến chơi nhà
em để dò xét. Nghe em thật thà kể chuyện, người anh gạ đổi hết tài sản của mình
để lấy túp lều tranh và cây khế. Hai vợ chồng chỉ lo người em không chịu đổi,
không ngờ người em vui vẻ ưng ngay. Hai vợ chồng người anh mừng rỡ như mở cờ
trong bụng, lập tức giao hết tàn sản của mình cho em và sáng hôm sau dọn ngay
đến ở túp lều tranh trên mảnh vườn nhỏ có cây khế ngọt. Đến ở mảnh đất chật
hẹp, hai vợ chồng người anh không làm việc gì cả. Còn được ít tiền hai vợ chồng
đem tiêu dần, cả ngày chỉ nằm khềnh ngoài hè, hí hửng nhìn lên cây khế, chờ
chim bay đến. Một buổi sáng, có một luồng gió mạnh tạt vào nhà, rồi hai vợ
chồng thấy ngọn cây khế rung chuyển, hai người hí hửng chạy ra sân, vội vàng
nhìn lên cây khế thì quả nhiên thấy một con chim lớn đang ăn khế.
Chim mới ăn vài quả, hai vợ chồng đã tru tréo lên:
"Cả nhà chúng tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn tào ăn huyện như
thế thì chúng tôi còn trông cậy vào đâu!". Chim liền đáp: "Ăn
một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, đem đi mà đựng" rồi chim bay
vụt đi. Hai vợ chồng người anh mừng quá, cuống quýt vái theo chim, rồi bàn nhau
may túi, cãi cọ om sòm. Mới đầu, hai người định may thật nhiều túi, sau lại sợ
chim không bay đi, nên rút cục cũng chỉ may một cái túi như người em nhưng may
to gấp ba lần, thành một cái tay nải lớn.
Sáng hôm sau, chim hạ cánh xuống sân trước túp lều
tranh, người anh đang ăn, thấy chim đến, bỏ cả ăn hấp tấp chạy ra, tay xách cái
túi lớn trèo tót lên lưng chim, còn người vợ vái lấy vái để chim thần. Chim cất
cánh bay bổng lên mây xanh, qua núi, qua biển cả, rồi cũng hạ cánh xuống cái
đảo lần trước. Từ trên lưng chim bước xuống, người anh hoa cả mắt về những ánh
ngũ sắc của các loại kim cương, và ngọc quý chiếu ra. Đến khi vào hang, người
anh lại càng mê mẩn tâm thần, quên cả đói, cả khát, cố nhặt vàng và kim cương
cho thật đầy tay nải, lại buộc đầu ống quần và tay áo cho thật chặt rồi nhét
đầy cả hai tay áo và hai ống quần.
Chim đợi lâu quá, chốc chốc lại kêu lên vài tiếng
vang cả đảo thúc dục anh chàng ra về. Mãi gần chiều, anh ta mới kéo được cái
tay nải đầy vàng và kim cương đến chỗ chim đang đợi. Muốn cho vàng bạc khỏi
rơi, anh ta đặt tay nải dưới cánh chim rồi lấy thừng buộc chặt tay nải vào lưng
chim và vào cổ mình.
Chim vỗ cánh bay lên, nhưng vì quá nặng, mới bay
lên khỏi mặt đất một ít lại sa xuống. Sau chim cố gắng đạp hai chân thật mạnh
xuống đất, vươn cổ bay bổng lên. Anh chàng ngồi trên lưng chim khấp khởi mừng
thầm, cho là chỉ trong vài phút mình sẽ về đến nhà, sẽ có nhà cao, cửa rộng,
vườn ruộng khắp nơi, tiêu pha đến hết đời cũng không hết của.
Lúc ấy, chim đã bay trên biển cả, trời trở gió,
những con sóng xám xì cất cao lên bằng mấy nóc nhà. Chim bay ngược gió rất là
nhọc mệt, cổ gập hẳn xuống, hai cánh mỗi lúc một yếu dần. Túi vàng lớn bỗng
nhiên bị gió hất mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi hai cánh, đâm bổ từ lưng
trời xuống biển. Chỉ trong chớp mắt, người anh bị sóng cuốn đi, cái túi lớn và
những ống quần, tay áo chứa đầy vàng và châu báu dìm anh ta rất mau xuống đáy
biển.
Còn chim chỉ bị ướt lông, ướt cánh một lúc, rồi
chim lại vùng khỏi mặt nước, bay về núi rừng.
8.
CHUYỆN NGHÈ HOÁ CỌP
Ngày xưa, ở một làng nọ, có một gã thanh niên bố
chết từ hồi hắn còn nhỏ và để lại cho hắn một gia sản khá lớn. Hắn dư của ăn
học, thường nói với mọi người trong làng: "Thầy tôi khi xưa làm một
chức quan nhỏ, tôi nhất định sẽ làm quan to hơn". Rồi đối với những
người hắn không ưa, hắn nói: "Ông mà đỗ ông nghè thì chúng bay chết với
ông". Đến khoa thi, nhờ đút lót tiền cho quan trường, hắn đỗ hương
cống. Đỗ hương cống về làng hắn không còn coi ai ra gì. Đối với người hai thứ
tóc hắn cũng mày tao, làm cho cả tổng lo ngay ngáy, chỉ sợ hắn mà đỗ ông nghè
thì rồi dân hàng tổng không ai cất đầu lên được. Chẳng bao lâu, cứ lấy tiền mà
đút lót, gã thanh niên ấy đỗ ông nghè thật. Đỗ tiến sĩ, hắn được vua ban cho
áo, mũ, cờ biển, võng lọng vinh quy về làng, có lính theo hầu có dân làng đón
rước.
Đường từ Kinh về làng xa lắm, qua rừng, qua đèo,
lội suối, lại đi trong mùa hè nên nhân dân và binh lính phục dịch rất vất vả.
Đến một khu rừng rậm, binh lính và nhân dân dừng lại để nghỉ. Mọi người mệt
nhọc, nằm dưới bóng mát ngủ thiếp đi. Nghè ta được người võng nên không mệt
nhọc gì cả. Thấy rừng xanh um, lại nghe tiếng suối chảy róc rách ở gần, hắn
liền dạo chơi, lần đến bờ suối, tìm tảng đá ngồi nghỉ, định nghĩ mấy vần thơ
vịnh cảnh vinh quy giữa núi cao rừng thẳm, nhân đây cũng để tỏ "chí thanh
cao" của mình. Thấy suối xanh trong và mát lạnh, lại vắng vẻ không người
qua lại, nghè định tắm cho thân thể mát mẻ, tinh thần sảng khoái, để nghĩ cho ra
những vần thơ hay...
Hắn cởi quần áo lội xuống suối. Chao ôi! Nước mát
làm sao. Nhưng tắm xong, hắn thấy ngứa ngáy khác thường, ngứa và nóng bỏng như
rôm sảy mọc lên khắp mình mẩy, hắn lấy tay gãi thì thấy da thịt bị xước, máu
chảy ròng ròng. Nhìn các đầu ngón tay, móng tay đã mọc dài nhọn và sắc từ bao
giờ , nhìn đến chân tay mình mẩy thì thấy lông lá xồm xoàm. Hắn thấy trong bụng
cồn cào như hun, như đốt, cổ họng như bị bỏng, bị khát, tưởng như có thể uống
cạn giếng nước đầy. Hắn đến bờ suối, cúi đầu xuống dòng nước trong mát để uống
thì thấy mặt mình hoá ra mặt hổ, thân hình mình cũng như thân hình hổ. Hắn kinh
hãi quá, lên tiếng gọi quân sĩ thật to, mong họ cứu chữa cho mình, thì tiếng
của hắn đã trở nên như những tiếng gầm của hổ. Hắn càng gào thét thì những
tiếng ở miệng hắn thốt ra đều là những tiếng gầm vang, chấn động cả khu rừng.
Nghè ta thấy mình đá hoá cọp, tức tối chạy rong một lúc, rồi cúp đuôi chạy
thẳng vào hang sâu. Quân sĩ và phu tráng đang ngủ say, bỗng nghe tiếng hổ gầm
dữ dội, đều thức dậy. Họ tìm khắp nơi không thấy ông nghè đâu, yên trí là ông
nghè đã bị hổ tha mất. Mọi người đành nhặt nhạnh khăn gói, cùng nhau ra khỏi
rừng tìm đường quang đãng để đi, phu tráng thì trở về làng, còn quân lính thì
trở về kinh.
Từ đấy, cứ cách vài ngày, người ta lại thấy một con
hổ xám gầm lên những tiếng ghê rợn trên một ngọn núi trọc. Trong có ba tháng
trời con ác thú ấy đã ăn thịt hơn mười người qua lại. Chỉ còn một số phường săn
đến thăm dò, để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác thú tinh lắm, đặt mồi
to và ngon đến đâu cũng không lừa nổi nó. Người ta nói: Trong đêm thanh vắng,
nó khóc thút thít như người, săn mãi không được, những người phường săn cũng
chán nản, bỏ khu rừng ấy không đến nữa. Câu chuyện ông nghè về vinh quy bị hổ
tha mất cũng lu mờ dần trong trí nhớ mọi người.
Năm sáu năm sau, có một anh nông dân cùng làng với
nghè hoá cọp đi lính được về làng. Anh đi đến địa đầu khu rừng thì trời đã xế
chiều. Anh tính nếu đi qua khu rừng thì sáng sớm hôm sau đã về đến nhà, còn nếu
đi vòng qua đồi, qua các bản làng thì hai ngày nữa mới tới nơi. Anh vào một cái
quán bên đường uống nước, giở cơm nắm ra ăn và đem việc tính toán đường đi nói
chuyện với nhà hàng. Mấy ông già đều khuyên anh không nên đi qua rừng và nói
cho anh biết con cọp xám mỗi ngày một hung dữ. Anh vốn người gan dạ, lại đi
lính thú đã lâu năm đang nóng lòng gặp gia đình, nên anh quyết băng rừng. Ăn đã
chắc dạ rồi, anh vác một ngọn giáo, một bó nứa để phòng làm đuốc, đeo tay nải,
bùi nhùi, mạnh dạn đi thẳng vào rừng...
Lâu năm cỏ đã mọc kín đường mòn, phải tinh mắt lắm
mới nhận ra lối đi. Anh rảo bước để ra khỏi khu rừng trước khi mặt trời lặn.
Mới đầu nghe tiếng lá rơi, tiếng cành khô rơi, anh cũng nhìn trước nhìn sau,
rồi càng đi sâu vào rừng, càng thêm hiu quạnh, âm u, nhưng lòng hăng hái của
anh càng tăng lên. Không những anh không sợ nữa mà còn thầm nghĩ: "Thật
người ta cũng quá nhát! Hổ xám hoạ hoằn mới ra, chứ có đâu lúc nào cũng ngồi
chồm chỗm bên đường để rình người". Anh vừa nghĩ xong thì chợt có
tiếng động ở một bụi rậm bên đường. Tiếng sột soạt lúc nhẹ, lúc mạnh, như có
người đang kéo cành khô, anh cầm chặt ngọn giáo, lắng tai nghe...Thốt nhiên có
tiếng gọi, tiếng khàn khàn, ồ ồ như kẻ rụt lưỡi, không hẳn là tiếng người,
nhưng dùng lời thì thật sõi: Anh
Lương đấy à? Hãy dừng lại, tôi hỏi một tí. Anh nông dân thấy gọi đúng tên
mình, liền đứng lại. Trong bụi có tiếng nói tiếp: "Tôi là Bành đây,
không biết anh có còn nhớ không? Tên Bành đã đốt nhà anh, làm cho anh phải bỏ
làng đi mất mấy năm ấy mà!" Anh nông dân đáp: "Tôi nhớ ra rồi,
sao người ta nói anh bị hổ tha đi mất? Còn chuyện cũ kia, thôi đừng nhắc đến
làm gì? Nếu có phải anh nhỡ độ đường thì ra đây, tôi đưa về làng. Trời sắp tối
rồi!" Có tiếng thở dài trong bụi, rồi có tiếng nói ra: "Tôi
chỉ lo anh chưa quên chuyện cũ. Bây giờ thì tôi... tôi không ra với anh được.
Anh hãy nán lại một chút, tôi xin kể nông nỗi của tôi cho anh nghe...".
Rồi Bành kể hết mọi việc của hắn từ ngày hắn đỗ ông
nghè, về vinh quy và hoá cọp. Anh nông dân hỏi: "Thế bây giờ muốn tôi
giúp gì?" Hổ đáp: "Tôi có đứa con trai, ngày vào kinh thi, nó
mới lên hai. Tôi lại còn mẹ già và vợ dại... Không biết có còn cả hay không?
Nếu còn, nhờ anh trông nom, giúp đỡ cho."
Rồi hắn hỏi: "Anh Lương ơi! Anh có thịt
chín đấy không? Bao nhiêu năm nay, tôi ăn toàn thịt sống, những lúc tỉnh như
lúc này, thèm thịt chín quá..." Anh nông dân lục trong tay nải, rồi
bảo hổ: "Còn một gói nem và một mẩu chân giò luộc đây. Ra mà ăn!"
Con hổ nói một giọng sung sướng: "Xin anh ném vào bụi cho tôi. Bây giờ
khắp người tôi lông lá hôi hám lắm, không dám đến gần anh". Anh nông
dân ném mẩu chân giò và gói nem vào bụi, rồi dặn con hổ: "Từ nay nên
vào rừng sâu, tìm kiếm hươu nai mà ăn, không nên luẩn quẩn trên đường này mà
hại người". Hổ đáp: "Xin nghe lời anh".
Từ đó, trong đêm tối, người ta không nghe thấy
tiếng con hổ xám gầm trên ngọn đồi trọc nữa. Con đường tắt qua rừng lại tấp nập
người qua lại. Và khắp miền ấy, ai ai cũng thuộc câu chuyện ông nghè hoá cọp.
9.
CHUYỆN AN TIÊM
(hay chuyện sự
tích dưa hấu)
Đời xưa, thời Vua Hùng Vương, đất nước ta có núi
cao, có sông rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa
có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Vua Hùng Vương thứ mười bảy có một người
con nuôi là An Tiêm có tài tháo vát và có trí hơn người. Vua yêu mến An Tiêm
thường ban cho của ngon vật quý. Thói thường các quan được một chút lộc Vua thì
nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm thường bảo: "Của biếu là của lo, của
cho là của nợ" và xem thường các thứ ấy. Việc đến tai Vua, Vua giận
lắm, bảo: "Đã thế ta cho nó cứ trông vào tài sức của nó xem có chết rũ
xương hay không".
Thế là một buổi sớm, tự nhiên An Tiêm thấy lính đến
giải cả chàng lẫn vợ con xuống thuyền, chẳng cho mang theo một cái gì hết.
Chàng nói mãi chúng mới để cho đem một cái gươm cùn hộ thân. Buồm căng gió,
thuyền tròng trành nhằm biển khơi thẳng tiến. Bãi cát trắng, vệt cây xanh trong
bờ lần lượt khuất đi, rồi bèo bọt, rác rểu, dấu của dân cư cũng không còn, bây
giờ chỉ còn thấy trời với nước xanh ngắt một màu.
Hôm sau thuyền đến một đảo nhỏ. Họ để gia đình An
Tiêm lên bờ với năm ngày lương thực, một chiếc nồi, rồi nhổ neo quay lái. Nàng
Ba, vợ An Tiêm bế con nhìn theo chiếc thuyền dần dần ra xa rồi khuất mất, nước
mắt nhỏ như mưa. Từ nay có bao giờ nàng lại được cùng hàng xóm chia nhau những
bắp ngô đầu mùa, hay nói một câu chuyện dưới trăng ! Quay vào hòn đảo hoang vu
nàng lại càng khiếp sợ hãi hùng, không biết rồi đây lấy gì mà ăn để sống cho
qua ngày tháng.
An Tiêm dắt vợ con tìm được một cái hốc đá ở tạm.
Rồi chàng cắp gươm đi thăm dò. Hòn đảo quả thật hoang vu, chỉ có ít cây cỏ lơ
thơ và mấy loài chim biển. Tìm mãi mới thấy vài thứ quả chan chát và rau dại ăn
tạm cho đỡ đói. Từ đấy, ngày ngày An Tiêm trồng rau và tìm quả, nàng Ba thì ra
biển mò con ngao, cái hến. Đứa con lớn của An Tiêm bắt chước cha cũng cặm cụi làm
bẫy đánh chim. Nhưng rồi chim dần dần quen bẫy, có khi suốt ngày thằng bé chẳng
bắt được con nào. Cá nhiều nhưng không lưới, quả thì có mùa. Cho nên thức ăn
chính của vợ chồng con cái An Tiêm vẫn là mấy thứ rau dại mà chàng trồng thành
rau vườn. Cuộc đời của bốn người vô cùng lao đao, vất vả, chẳng khác giống chim
muông bao nhiêu. Tuy nhiên An Tiêm vẫn tin là một ngày khi mình có thể làm cho
đời sống khá lên.
Một hôm, có con chim đương ăn ngoài bãi thấy An
Tiêm đến, vội bay đi bỏ lại một miếng mồi đo đỏ. An Tiêm cầm lên xem thì ra là
một mảnh quả dưa bằng hai ngón tay. Chàng nghĩ thầm chim ăn được có lẽ người
cũng ăn được, bèn nếm thử thì thấy có vị ngọt. Chàng ăn hết miếng dưa và nhặt
hạt gói lại. Ngồi nghỉ một lát thấy mát ruột và đỡ đói, chàng có ý mừng, lấy
gươm xới một khoảng đất và gieo hạt xuống.
Ít ngày sau mấy hạt dưa mọc mầm đâm lá, bò toả ra
khắp khoảng đất. Nàng Ba cũng giúp chồng sớm chiều săn sóc lấy dây dưa lạ. Vợ
chồng hồi hộp trông thấy mấy cái hoa đầu tiên hé nở, rồi ra hoa kết quả, lúc đầu
bằng ngón tay út, ít lâu sau đã như con chuột, rồi con lợn con. Thấy nó lớn mãi
như không bao giờ thôi, An Tiêm cũng không biết lúc nào nên hái.
Một buổi sáng sớm tinh mơ, nghe tiếng quạ kêu ngoài
bãi, nàng Ba bảo chồng: - Ở
đây hoang vắng, quạ không tụ họp bao giờ, nay chúng nó kêu inh ỏi một nơi, tất
là có sự lạ. Chàng ra xem thế nào ! An Tiêm ra đến bãi thì đàn quạ bay tan
tác, bỏ lại quả dưa chúng vừa mổ thủng vài nơi. Chàng cắt dưa về. Khi chàng bổ
dưa ra, cả nhà loá mắt vì màu đỏ tươi của ruột dưa. Đây đó giữa màu đỏ có
những hạt huyền và bọc ngoài một lớp vỏ trắng viền xanh. Hai đứa bé thèm nhỏ
nước dãi, nàng Ba thì cứ tấm tắc khen quả trông ngon mắt. An Tiêm cẩn thận cắt
cho mỗi người một mảnh nhỏ ăn thử. Bốn người như một, khen ngợi cái vị thanh
ngọt, cái mùi thơm nhẹ nhàng của quả lạ và không những không xót ruột lại còn
đỡ khát và khoẻ người ra. Đến trưa, An Tiêm mạnh dạn bổ hết quả dưa cho con ăn
đến no.
Bây giờ cả nhà An Tiêm mừng rỡ, bồng bế nhau ra
bãi, chọn những quả sẫm màu da đem về, còn lại thì thay phiên nhau canh quả. Và
từ đấy, họ cứ trồng thêm ra mãi. Tất cả nông cụ chỉ gồm một cái gươm cùn và mấy
hòn đá mài bén, vì vậy thêm một gốc dưa là thêm không biết bao nhiêu mồ hôi
nước mắt. Nhưng họ chăm sóc hết lòng, nhờ vậy giống dưa ngày càng sai, quả càng
to, thịt dày thêm mãi, vỏ mỏng dần đi, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi lần hái dưa,
An Tiêm lấy mấy quả đánh dấu thả ra biển. Dưa trôi biệt tăm tích không biết bao
nhiêu lần, trăng non, rồi trăng già không biết bao nhiêu bận, An Tiêm vẫn không
ngã lòng. Quả nhiên một hôm có một chiếc thuyền ghé đến hỏi xem ai đã trồng
được giống dưa quý, để đổi đem về bán trên đất liền. Từ đấy, An Tiêm đổi được
các thức ăn dùng thường ngày và còn cất được một cái nhà xinh xinh.
Về phần Vua Hùng Vương, từ ngày bỏ An Tiêm ra hoang
đảo, Vua yên trí rằng An Tiêm đã chết rồi, đôi khi nghĩ đến cũng có bùi ngùi
thương hại. Cho đến một ngày kia, thị thần dâng quả dưa lạ, Vua ăn ngon miệng
bèn hỏi thăm tung tích, mới biết là do An Tiêm trồng ngoài đảo. Vua ngẫm nghĩ
thấy mình sai, cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. An Tiêm và nàng Ba mừng rỡ,
thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng
xóm, và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc dưa hấu mà chúng
ta ăn ngay nay.
Về sau khắp nước ta đều có giống dưa hấu. Nhưng
người ta chỉ nói có huyện Nga Sơn là trồng được những quả ngon hơn cả, chỉ có
nơi ấy xưa là hòn đảo An Tiêm ở, trải qua mấy nghìn năm nước cạn, cát bồi nay
đã liền vào với đất.
10.
MỴ CHÂU - TRỌNG THUỶ
Sau khi An Dương Vương xây thành Cổ Loa, thần Kim
Quy cho vua một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần
dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát
trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. An Dương Vương
chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao
cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất
lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi.
An Dương Vương quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.
Lúc bấy giờ Triệu Đà làm chúa đất Nam Hải, mấy lần
đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì An Dương Vương có nỏ thần, quân Nam Hải
bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. Triệu Đà thấy dùng
binh không lợi, bèn xin giảng hoà với An Dương Vương, sai con trai là Trọng
Thuỷ sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần.
Trong những ngày đi lại để giả kết tình hoà hiếu,
Trọng Thuỷ được gặp Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương, một thiếu nữ mày
ngài, mắt phượng, nhan sắc tuyệt trần. Trọng Thuỷ đem lòng yêu dấu Mị Châu, Mị
Châu dần dần cũng xiêu lòng. Hai người trở nên thân thiết, không còn chỗ nào
trong Loa thành là Mị Châu không dẫn người yêu đến xem. An Dương Vương không
nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả Mị Châu cho Trọng
Thuỷ.
Một đêm trăng sao vằng vặc, Mị Châu cùng Trọng Thuỷ
ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất.
Trong câu chuyện tỷ tê, Trọng Thuỷ hỏi vợ rằng: Nàng ơi bên Âu Lạc có bí quyết
gì mà không ai đánh được? Mị Châu đáp: Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có
thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như
thế còn có kẻ nào đánh nổi được. Trọng Thuỷ làm bộ ngạc nhiên, vờ như mới nghe
nói đến nỏ thần lần đầu. Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Mị Châu không ngần
ngại, chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem. Nàng lại
chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho
Trọng Thuỷ cách bắn. Trọng Thuỷ chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn
khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho vợ cất đi.
Hôm sau, Trọng Thuỷ xin phép An Dương Vương về thăm
cha. Hắn thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân
chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ của An Dương Vương. Lẫy giả làm xong, Trọng
Thuỷ giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. An Dương Vương vốn chiều con gái,
thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba
cha con cùng vui. Trọng Thuỷ uống cầm chừng, còn An Dương Vương và Mị Châu say
tuý luý. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thuỷ lẻn vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng
móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào.
Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại
ngồi không yên, Mị Châu hỏi chồng rằng: Chàng như có gì lo lắng phải không?
Trọng Thuỷ đáp: Tôi sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền
Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Mị Châu buồn rầu lặng thinh, Trọng Thuỷ nói tiếp:
Bây giờ đôi ta sắp xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy
ra binh đao, tôi biết đâu mà tìm? Mị Châu nói: Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ
thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy
theo dấu lông ngỗng mà tìm. Nói xong Mị Châu nức nở khóc.
Về đất Nam Hải, Trọng Thuỷ đưa cái móng rùa vàng
cho cha, Triệu Đà mừng rỡ vô cùng, reo lên rằng: "Phen này đất Âu Lạc
sẽ về tay ta". Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà ra lệnh cất quân sang đánh Âu
Lạc. Nghe tin báo, An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi
quân giặc đã đến sát chân thành, vua mới sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy
linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. An Dương Vương vội lên
ngựa, đèo Mị Châu sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau.
Ngồi sau lưng cha, Mị Châu bứt lông ngỗng ở áo rắc
dọc đường. Đường núi gập gềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn
gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến.
Thấy đường núi quanh co, dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào
chạy, vua hướng ra biển, khấn thần Kim Quy phù hộ mình. Vua vừa khấn xong thì
một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim
Quy xuất hiện, bảo An Dương Vương: "Giặc ở sau lưng nhà vua đấy".
An Dương Vương tỉnh ngộ, liền rút gươm chém Mị Châu, rồi nhảy xuống biển tự tận
Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn
Trọng Thuỷ một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm Mị Châu. Đến gần bờ
biển, thấy xác vợ nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Trọng
Thuỷ khóc oà lên, thu nhặt thi hài đem về chôn trong thành, rồi đâm đầu xuống
giếng trong thành mà xưa kia Mị Châu thường tắm.
Ngày nay, ở làng Cổ Loa, trước đền thờ An Dương
Vương, còn cái giếng gọi là giếng Trọng Thuỷ. Tục truyền khi Mị Châu đã bị cha
giết chết rồi, máu nàng chảy xuống biển, trai ăn được nên mới có ngọc châu. Lấy
được ngọc trai ấy đem về rửa bằng nước giếng trong thành Cổ Loa thì ngọc trong
sáng vô cùng.
11.
HAI NÀNG CÔNG CHÚA
Vào thời nhà Trần có một ông vua sinh được năm nàng
công chúa, trong đó có hai nàng xinh đẹp: một người tên là Bảo Nương; một người
tên là Ngọc Nương. Năm hai nàng đến tuổi lấy chồng vua cha toan hạ chiếu kén rể
nhưng cả hai đều từ chối. Họ chỉ thích đi xem núi sông, cảnh vật trong nước. Họ
tâu với vua cha trong một buổi vấn an: - Thưa
cha! Phong cảnh nước nhà ta vô cùng đẹp đẽ. Chúng con chưa muốn lấy chồng.
Chúng con chỉ xin phép cha đi chơi một chuyến, để xem cho thỏa thích. Vua
Trần không biết làm sao mà can ngăn được, đành chiều ý hai con. Họ cải trang
thành hai gã con trai, mang theo một số người hầu, và từ đấy, đoàn du lịch
không quản gió sương, đi khắp mọi nơi trong nước, đặt dấu chân ở nhiều danh lam
thắng cảnh.
Vào hồi đó, có giặc Nguyên sang cướp nước ta. Quân
của chúng rất hung ác, đi đến đâu thì cướp bóc tàn phá đến đấy. Dưới tay chúng,
những đình đài miếu mạo cũng như nhà cửa, dân cư đều làm kiếp tro bụi. Nhà vua
phái bao nhiêu quân đội đến biên thuỳ nhưng không sao ngăn được bước tiến của
chúng. Chẳng bao lâu, chúng đã chia nhau chiếm khắp đầu gò, cuối bãi một vùng hữu
ngạn sông Thương, đóng đồn la liệt, để rồi hãm hiếp, chém giết, đốt phá không
còn kiêng nể.
Bấy giờ, hai nàng công chúa đang ở bên tả ngạn sông
Thương. Vì vùng Đa Mỗi có nhiều phong cảnh đẹp, nên hai chị em sai làm nhà trên
bờ sông để tiện trú chân ngắm cảnh. Thấy đất nước dân cư bị tàn phá vì lũ giặc
hung hãn, hai nàng xiết bao căm tức. Họ bèn bàn với nhau cho người về xin phép
vua cha một phen liều mình để diệt giặc.
Cầm đầu lũ giặc lúc đó ở vùng Bắc Giang có hai tên
tướng tiên phong. Chúng lăm le vượt sông tiến nhanh về phía Kẻ Chợ. Hai nàng bí
mật bàn với các phụ lão làng Đa Mỗi giúp cho mình được thực hiện mưu kế. Thấy
họ quả quyết quá, các phụ lão đành phải vâng lời. Hai nàng bèn trang điểm rất
đẹp, giả làm hai cô gái bán hàng ở chợ bên sông, cố làm cho giặc ở bên kia
trông thấy. Quả nhiên, hai tên tướng giặc vừa nhác thấy bóng hồng thì tâm thần
mê mẩn, chúng liền rút lệnh tiễn cho quân hầu qua sông, truyền lệnh cho làng Đa
Mỗi phải đưa sang sông dâng nạp hai người con gái đó, nếu kháng cự thì toàn dân
không thoát được cái vạ “làm cỏ” một khi quân “thiên triều” sang sông.
Hai nàng bảo chúng: - Chị em chúng tôi vẫn có lòng chờ
hai tướng quân. Nhưng chúng tôi vốn là con vua cháu chúa, cũng biết chút lễ
nghĩa. Nếu hai tướng quân có lòng thương thì cho sang đây hai chiếc thuyền hoa
chọn ngày lành tháng tốt, đón về tử tế. Nếu tính chuyện "cầu hợp",
thì chị em chúng tôi thà nhảy xuống sông phó cho dòng nước, chứ không chịu để
nhơ nhuốc tấm thân. Quân hầu trở về tin lại. Hai tên tướng giặc bèn sai lấy
hai chiếc thuyền, trang hoàng đẹp đẽ, cho mười quân hầu và thị nữ mang vàng bạc
chèo sang đón về. Thấy chúng đến, hai nàng đón tiếp rất tử tế, sai dọn cỗ bàn
mời chúng ăn. Trong khi đó, có mấy người thợ mộc đã cắt sẵn, bí mật lôi thuyền
lên bãi dùng khoan, đục mỗi thuyền chừng vài chục lỗ nhưng chú ý đút nút kín
lại, rồi đưa xuống nước như cũ.
Sau khi phái mấy người thân tín phi ngựa về Kẻ Chợ
báo tin cho quân triều đình, hẹn ngày tiến quân, đồng thời gửi lời vĩnh biệt
của mình tới hoàng hậu, vua cha và anh chị em hoàng thân quốc thích, hai nàng
quay ra bảo mấy tên quân hầu của giặc: - Các
ngươi về bẩm với hai tướng quân rằng, chị em tôi đã chọn được ngày lành tháng
tốt, đúng giờ Thân sẽ xin xuống thuyền sang sông. Nhưng chị em chúng tôi phải
lên chỗ muôn tên nghìn giáo thì rất sợ hãi, chỉ mong hai tướng quân cùng đi
thuyền đến làm lễ hợp cẩn ngay trên thuyền hoa này.
Đúng ngày hẹn, hai nàng công chúa xuống thuyền. Sắp
sang bên kia sông, hai nàng nhất định bắt quân hầu cắm lại để đợi. Quả nhiên,
hai tướng giặc chờ không được, phải thân đi thuyền đến. Trông thấy hai nàng
xinh đẹp, bọn chúng hết sức thèm muốn. Cho nên sau chén rượu hợp cẩn, chúng đã
ra lệnh cho bao nhiêu thuyền khác lui ra xa.
Giữa lúc hai tên tướng giặc đang say sưa vì rượu
nồng gái đẹp thì những chàng trai làng Đa Mỗi đã ước hẹn sẵn, lặn ra sông rộng
lần đến dưới đáy hai chiếc thuyền hoa, tháo tất cả các nút to nhỏ ra. Nước chảy
mạnh vào thuyền và không mấy chốc đã đưa tất cả xuống thủy phủ.
Bấy giờ quân triều đình đã bí mật kéo tới rất đông.
Khi được người Đa Mỗi kể lại tin đó, họ vượt sông ba mặt tiến lên đánh úp. Bọn
giặc không tướng, như rắn mất đầu nên tan vỡ rất chóng. Cuối cùng, quân ta đã
tiêu diệt được cả một cánh tiên phong địch, chặn được bước tiến của chúng, nhờ
đó đủ thì giờ cho toàn bộ vua quan và tướng sĩ rút lui.
Về sau, ngày đại quân của nhà vua đuổi giặc ra khỏi
đất nước, người ta nhớ đến công lao hai nàng công chúa Bảo Nương và Ngọc Nương
nên dựng đền tại nhà của họ ở Đa Mỗi để thờ.
12.
CHUYỆN TÌNH TRẦU CAU
Ngày xưa, một viên quan Lang họ Cao có hai người
con trai hơn nhau một tuổi và giống nhau như đúc, đến nỗi người ngoài không
phân biệt được ai là anh, ai là em. Hai anh em vốn yêu quý nhau, nay gặp cảnh
nhà hiu quạnh, lại càng thương nhau hơn trước.
Không còn được cha mẹ dạy dỗ nữa, hai anh em đến
xin học ông đạo sĩ họ Lưu. Hai anh em học hành chăm chỉ lại đứng đắn, nên
được thầy yêu mến như con. Ông Lưu có một người con gái tuổi chừng mười sáu
mười bảy, nhan sắc tươi giòn, con gái trong vùng không người nào sánh kịp.
Trông thấy hai anh em họ Cao vừa đẹp vừa hiền,
người con gái sinh lòng yêu mến, muốn kén người anh làm chồng, nhưng không biết
người nào là anh, người nào là em.
Một hôm, nhân nhà nấu cháo, người con gái múc một
bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn. Thấy người anh nhường người em ăn,
người con gái mới nhận ra được ai là anh, ai là em. Sau đó, người con gái nói
với cha mẹ cho phép mình lấy người anh làm chồng. Từ khi người anh có vợ thì
tình yêu thương giữa hai anh em không còn được thắm thiết như trước nữa. Người em
rất buồn, nhưng người anh vô tình, không để ý đến.
Một hôm, hai anh em cùng lên nương, tối mịt mới về.
Người em vào nhà trước. Chàng vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì người chị dâu
chạy ra, lầm chàng là chồng mình vội ôm chầm lấy. Người em liền kêu lên, cả hai
đều xấu hổ. Giữa lúc ấy, người anh cũng vừa bước vào nhà. Từ đấy, người anh
nghi ngờ em có tình ý với vợ mình, lại càng hững hờ với em.
Một buổi chiều, anh chị đều đi vắng cả, người em
ngồi một mình nhìn ra khu rừng xa xa, cảm thấy cô đơn quá, lại càng buồn tủi,
vùng đứng dậy ra đi.
Chàng đi, đi mãi cho đến khu rừng trước mặt, rồi
theo đường mòn đi thẳng vào rừng âm u. Trời bắt đầu tối, trăng đã lên mà chàng
vẫn cứ đi. Đi đến một con suối rộng, nước sâu và xanh biếc, chàng không lội qua
được, đành ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thổn thức, tiếng suối reo vang, át cả
tiếng khóc của chàng. Đêm mỗi lúc một khuya, sương xuống mỗi lúc một nhiều,
sương lạnh thấm dần vào thịt chàng, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành
một tảng đá.
Người anh về nhà, không thấy em đâu, lẳng lặng đi
tìm, không nói cho vợ biết. Theo con đường mòn vào rừng, chàng đi mãi, đi mãi
và sau cùng cũng đến con suối nước xanh biếc đang chảy cuồn cuộn dưới ánh trăng
vàng. Chàng không thể lội qua được, đành ngồi bên bờ suối, tựa mình vào tảng
đá. Chàng có ngờ đâu tảng đá ấy chính là em mình! Sương vẫn xuống đều, sương
lạnh rơi lã chã từ cành lá xuống, thấm dần vào da thịt chàng. Chàng gọi em rền
rĩ khóc than hồi lâu, ngất đi và chết đứng, biến thành một cây không cành, mọc
thẳng bên tảng đá.
Ở nhà, vợ không thấy chồng đâu, vội đi tìm và cũng
theo con đường mòn vào rừng thẳm. Nàng đi mãi, bước thấp bước cao, cuối cùng
cũng gặp con suối nước sâu và xanh biếc. Nàng không còn đi được nữa. Nàng ngồi
tựa vào gốc cái cây không cành mọc bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng có ngờ
đâu nàng đã ngồi tựa vào chồng mình và ở gần kề tảng đá là em chồng. Nàng than
khóc, nhưng tiếng nước reo át cả tiếng than khóc của nàng. Đêm đã ngả dần về
sáng, sương xuống càng nhiều, mù mịt cả núi rừng, nàng vật vã khóc than. Chưa
đầy nửa đêm mà đã mình gầy xác ve, thân mình dài lêu ngêu, biến thành một cây
leo quấn chặt lấy cái cây không cành, mọc bên tảng đá.
Về sau chuyện ấy đến tai mọi người, ai nấy đều
thương xót. Một hôm Vua Hùng đi qua bến ấy, dân đem chuyện ba người kể lại cho
Vua nghe và rước Vua đến xem. Vua bảo thử lấy lá cây leo và lấy quả ở cái cây
không cành nghiền với nhau xem sao, thì thấy mùi vị cay cay, nhai thử thấy thơm
ngon và nhổ nước vào tảng đá thì thấy bãi nước biến dần ra sắc đỏ. Dân trong
vùng gọi cái cây mọc thẳng không cành ấy là cây cau, cây dây leo kia là cây
trầu, lại lấy tảng đá ở bên đem về nung cho xốp để ăn với trầu cau, cho miệng
thơm môi đỏ.
Tình cảm của ba người tuy đã chết mà vẫn keo sơn,
thắm thiết, cho nên mọi sự gặp gỡ của người Việt Nam, miếng trầu thường là đầu
câu chuyện, để bắt mối lương duyên. Và khi có lễ nhỏ, lễ lớn, cưới xin, hội hè,
ăn trầu đã trở nên một tập tục của dân tộc Việt Nam.
13.
HÀ RẦM HÀ RẠC
Ngày xưa, một nhà nọ có hai anh em, cha mẹ mất sớm
để lại một tư cơ cũng vào hạng khá trong vùng. Từ trước hai người vẫn ở chung
với nhau. Ít lâu sau, người anh lấy vợ, anh bảo em: "Bây giờ đã đến lúc
phải chia gia tài ra để cho mày học ăn, học làm với người ta". Đến
ngày chia của, anh chìa một tờ giấy, bảo em: "Của cải của cha mẹ để lại
có ba giống: giống đực, giống cái và giống con. Mày bé bỏng nên tao nhường cho
mày tất cả những đồ đạc có giống đực, còn giống cái và giống con thì phần tao.
Nếu mày bằng lòng thì ký vào đây!" Em ngây thơ tưởng anh thương thật
nên không nghi ngờ gì cả, ký ngay. Cuộc chia của bắt đầu. Nhưng đồ vật nào mà
chả gọi là "cái" hay "con" nên người anh đếm mãi: "Cái
nhà này của tao, con trâu này của tao, cái cày này của tao...". Suốt
từ sáng đến chiều, những của chìm của nổi, chia đã sắp vợi mà vẫn chưa có một
vật nào thuộc giống đực cả. Mãi đến lúc trời đã tối, người em tức mình mới chụp
lấy một cây dao rựa dựng ở hè nhà mà nói: Còn
đây là "đực rựa" thuộc về phần tôi! Nói
xong, người em vác rựa lùi lũi đi ra giữa lúc người anh cười ha hả vì thấy mưu
kế của mình đã đạt. Từ đấy, người em ngày ngày vác rựa vào rừng chặt củi làm kế
sinh nhai. Vì không có nhà ở nên anh phải nay nằm ở đình, mai nằm ở chùa, ngủ
cầu ngủ quán như kẻ cầu bất cầu bơ. Nhưng anh vẫn chăm chỉ làm ăn để khỏi cái
nhục ngửa tay xin ăn.
Một hôm, trăng non vừa mọc, anh đang ngủ say, tỉnh
dậy tưởng trời đã sáng bèn tới lấy rựa đi miết lên rừng. Đến cửa rừng mới hay
là mình nhầm: trời vẫn còn khuya. Bèn nằm duỗi chân dưới một gốc cây cổ thụ đợi
sáng nhưng bỗng dưng anh ngủ quên lúc nào không hay. Anh chàng không ngờ rằng
nơi đây là chốn chơi đùa của một bầy khỉ. Hôm ấy, chúng cũng kéo nhau đến đây,
nhưng khi thấy dưới gốc cây có một người lạ nằm thẳng đuỗn thì chúng nghĩ là
một thây người, chúng bèn xúm nhau khiêng đi chôn để lấy chỗ nhảy nhót. Đang
đi, anh chàng bỗng tỉnh giấc, toan la lên nhưng thấy chuyện hay hay nên cứ nằm
im để thử xem bọn khỉ khiêng mình đi đến đâu. Hồi lâu, anh nghe bọn khỉ dừng
lại nói với nhau: Hà rầm hà
rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng! Nhưng
trong bầy khỉ có một con khỉ đột đứng đầu, bảo chúng: Hà rầm hà rạc, chôn vào hố vàng,
không chôn hố bạc! Thế là bầy
khỉ lại tiếp tục khiêng anh tới một chỗ khác xa hơn. Đến nơi, chúng đặt anh
xuống rồi kéo nhau trở về gốc cây cổ thụ. Anh chàng nhìn thấy xung quanh mình
có những cục vàng sáng chói thì mừng lắm, bèn chờ cho chúng đi khuất mới đứng
dậy nhặt đầy túi mang về. Từ khi trở nên giàu có, anh chàng hết làm nhà cửa lại
tậu ruộng vườn, nuôi trâu bò, cuộc đời muôn phần tươi hơn trước.
Câu chuyện một người tiều phu lên núi bắt được vàng
từ đấy lan đi khắp nơi. Người anh nghe nói nửa tin nửa ngờ. Một hôm, vào ngày
giỗ cha, hắn thấy em mình đến tìm mời về nhà ăn giỗ. Hắn vội vã nhận lời. Bước
vào nhà em, người anh không giấu được kinh ngạc: Từ dạo ấy đến giờ chú mày làm thế
nào mà phát tài dữ vậy? Người
em vui vẻ kể tỉ mỉ cho anh nghe câu chuyện lên rừng gặp khỉ và từ hố bạc tình
cờ được chúng chuyển sang hố vàng. Nghe đoạn, người anh mượn ngay cây rựa và
cũng chờ một đêm trăng non, một mình vác rựa lên cửa rừng, hắn ta cũng giả vờ
duỗi chân nằm dưới gốc cây cổ thụ non. Lát sau, quả có một bầy khỉ đến nhảy
nhót xung quanh gốc cây và khi thấy có người lạ nằm choán chỗ chúng vui chơi,
chúng xúm lại khiêng đi chôn, vì chúng cũng tưởng đó là thây người chết. Nhưng
đến lúc nghe bầy khỉ nói: Hà
rầm hà rạc, chôn vào hố bạc, không chôn hố vàng! Thì hắn vội ngẩng đầu cãi lại: Chôn vào hố vàng chứ! Chôn vào hố
vàng chứ! Bầy khỉ không ngờ
cái thây người vẫn còn sống, cuống cuồng vứt hắn xuống rồi bỏ chạy. Hắn bị lăn
xuống sườn núi, va đầu vào đá vỡ sọ chết.
14.
EM BÉ THÔNG MINH
Ngày xưa, có một ông vua sai một viên quan đi dò la
khắp nước tìm người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi nhiều nơi, đến đâu hắn cũng ra
những câu đố oái oăm để hỏi mọi người, nhưng tuy mất nhiều công sức mà chưa
thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, viên quan đi qua một cánh đồng làng kia
chợt thấy bên vệ đường có hai cha con nhà nọ đang làm ruộng. Hắn bèn dừng ngựa
lại hỏi: Này, lão kia! Trâu
của lão cày một ngày được mấy đường? Người
cha đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời như thế nào thì đứa con chừng bảy, tám
tuổi nhanh miệng hỏi lại quan rằng: Thế
xin hỏi lại ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được
mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được mấy đường. Viên quan nghe nó hỏi lại như thế thì
há hốc mồm sửng sốt, không biết đáp sao cho ổn. Hắn thầm nghĩ, nhất định nhân
tài ở đây rồi, chả phải tìm đâu mất công. Hắn bèn hỏi tên họ hàng làng xã quê
quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch về tâu vua.
Nghe nói vua lấy làm mừng lắm. Nhưng, để biết đích
xác hơn nữa, vua giao thử lại. Vua sai cho làng ấy ba thúng gạo nếp với ba con
trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn
năm sau phải đem nộp đủ, nếu không cả làng phải chịu tội. Khi dân làng nhận
được lệnh vua thì ai nấy đều tưng hửng và lo lắng không hiểu thế nào. Bao nhiêu
cuộc họp làng, bao nhiêu lời bàn tán, vẫn không có cách gì giải quyết cả. Từ
trên xuống dưới, mọi người đều tin là tai vạ. Việc đến tai em bé con nhà thợ
cày. Em liền bảo cha: Chả mấy
khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai con, còn hai thúng gạo
nếp để mọi người ăn một trận cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta
sẽ xin làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo việc đó. Người cha bực tức: Mày đừng có làm dại mà bay đầu đi
đó con ạ! Nhưng đứa con quả
quyết: Cha cứ mặc con lo liệu,
thế nào cũng xong xuôi mọi việc. Người
cha vội ra trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói, bắt cha con họ phải làm giấy
cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.
Sau đó mấy hôm, hai cha con khăn gói tìm đường tiến
kinh. Đến hoàng cung, con bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì nhè lúc mấy tên
lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu vào xét hỏi: Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao
lại đến đây mà khóc. - Tâu đức vua - Em
bé đáp - mẹ con chết sớm mà
cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho con có bạn, cho nên con
khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ. Nghe nói, vua và
các triều thần đều bật cười, vua phán: Mày
muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực thì làm
sao mà đẻ được! Em bé bỗng
tươi tỉnh: Thế sao làng chúng
con nuôi trâu đẻ nộp đức vua được? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ? Vua cười bảo: Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng
mày không biết đem trâu ấy mà thịt với nhau à? Cậu bé tủm tỉm cười rồi bẩm: Tâu đức vua, làng chúng con sau khi
nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng
với nhau rồi.
Vua và đình thần chịu thằng bé là thông minh
lỗi lạc. Nhưng vua vẫn còn muốn thử một lần nữa. Qua hôm sau, khi hai cha con
đang ăn cơm ở nhà công quán, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ
bảo làm thịt để đãi các quan trong triều. Em bé bảo cha lấy cho mình một cái
kim may rồi đưa cho sứ giả bảo: Phiền
ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt
chim. Vua nghe nói, từ đó mới phục hẳn. Lập tức, vua cho gọi hai cha con
vào, ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm bờ
cõi nước ta. Để dò xem bên ta có nhân tài không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ
ốc vặn dài, rỗng hai đầu, để làm sao xâu một chỉ xuyên qua đường ruột ốc. Khi
nghe sứ thần trình bày mục đích cuộc đi sứ, vua quan nhìn nhau. Không ai trả
lời được câu đối oái oăm ấy tức là tỏ ra thua kém và thừa nhận sự thần phục của
mình đối với nước láng giềng. Các đại thần bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để cho
dễ xâu... Nhưng, tất cả mọi cách đều vô hiệu, bao nhiêu ông Trạng và các nhà
thông thái triệu vào đều lắc đầu bó tay. Cuối cùng, triều đình đành mời sứ thần
ra ở công quán để có thì giờ hỏi ý kiến em bé thông minh nọ. Khi một viên quan
mang dụ chỉ của vua đến thì em còn đùa nghịch ở sau nhà. Và khi nghe nói xâu
chỉ vào vỏ ốc, em bé hát lên một câu: Tang
tình! Tang tình tang! Bắt con kiến vàng buộc chỉ ngang bên thời lấy giấy mà
bưng, bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang! Tang tình tang! Rồi bảo: Cứ theo cách đó là xâu được ngay!
Viên quan sung sướng, lật đật trở về tâu vua. Quả nhiên con kiến càng đã xâu
được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc trước con mắt thán phục của sứ thần nước
láng giềng.
Rồi đó, vua phong cho em làm Trạng nguyên, vua lại
sai xây dinh thự ở cạnh hoàng cung cho em ở, để tiện hỏi han.
15.
SỌ DỪA
Hai vợ chồng nọ đã nghèo lại hiếm con, mãi về già
mới được mụn con. Khốn thay, đứa con ấy lại dị hình, dị dạng, lọt lòng mẹ chỉ
có cục thịt đỏ hỏn, có mắt, có mũi nhưng không có mình mẩy chân tay. Người ta
kể rằng, người vợ vào rừng hái củi, trời nắng to, bà ta khát nước quá, thấy một
cái sọ dừa có đựng ít nước mưa, không chần chừ, bà ta bưng lấy uống, thế rồi về
nhà có mang. Đủ tháng đủ ngày, bà sinh nở nhưng thấy con không ra hình người,
bà ta buồn lắm, định vứt đi. Nhưng nghĩ đến cũng thương, dù sao cũng là khúc
ruột đứt ra, bà ta cứ để nuôi, đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lóc
trong nhà, chẳng làm được việc gì, một hôm bà mẹ than phiền: Con nhà người ta
bằng ấy tuổi đã đi ở chăn bò lấy tiền về nuôi cha mẹ. Còn mày chẳng được tích
sự gì! Sọ Dừa nói: Gì chứ chăn bò thì con cũng chăn được. Mẹ cứ hỏi phú ông cho
con đến ở chăn bò vậy. Bà mẹ đến hỏi phú ông, phú ông ngần ngại. Cả đàn bò giao
cho thằng bé không ra người không ra ngợm, chăn dắt làm sao? Nhưng mà nuôi nó
thì được cái tốn ít cơm, công sá chẳng bao, hơn nuôi đứa khác nhiều. Thôi cứ
thử xem! Thế là Sọ Dừa đến ở.
Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Hàng ngày, cậu lăn sau đàn
bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về chuồng, bò con nào con nấy bụng no
căng. Phú ông mừng lắm. Tiết nông nhàn phú ông làm trại trên núi thả bò ăn cỏ,
bảo Sọ Dừa ở lại trông, cơm nước có người đưa lên tận nơi. Phú ông có ba cô con
gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị xinh đẹp nhưng kiêu kỳ,
thường hắt hủi Sọ Dừa, còn cô em út hiền lành, tính hay thương người, đối đãi
với Sọ Dừa rất tử tế.
Một hôm, cô út vừa mang cơm đến dưới chân đồi thì
nghe tiếng sáo ví von. Cô út lấy làm lạ, rón rén bước lên, nấp sau bụi cây rình
xem thì thấy một chàng trai, mặt mũi khôi ngô, đang ngồi trên chiếc võng đào
mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Có tiếng động, chàng trai
biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc đâu đấy. Nhiều lần như thế, cô gái biết
Sọ Dừa không phải người phàm trần. Cô đem lòng yêu, có của ngon vật lạ đều giấu
đem lên cho Sọ Dừa.
Cuối mùa ở, Sọ Dừa về bảo mẹ đến hỏi con gái phú
ông làm vợ. Bà mẹ hết sức sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ, cũng chiều lòng,
đành kiếm buồng cau đến gặp phú ông. Phú ông cười mỉa: Ừ được, muốn hỏi con
gái tôi, hãy về sắm đủ mười mâm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm và
một chĩnh vàng cốm đem sang đây làm lễ vấn danh! Tưởng thách thế, mẹ con Sọ Dừa bẽ mặt,
không ngờ, sáng hôm sau, Sọ Dừa mang lễ sang đầy đủ. Phú ông lúng túng, nhưng
đành gọi ba cô gái lên hỏi xem ý con ra sao. Hai cô chị bĩu môi, nguýt Sọ Dừa
một cái rõ dài rồi đi vào. Cô em út e lệ, cúi mắt xuống, tỏ ý bằng lòng, thế là
thành đôi thành lứa.
Từ hôm cưới, Sọ Dừa không còn là Sọ Dừa nữa mà hiện
thành một chàng trai thanh lịch. Vợ chồng ăn ở với nhau đầm ấm. Không những
thế, Sọ Dừa còn tỏ ra thông minh khác thường, ngày đêm miệt mài đèn sách, chờ
khoa thi. Năm ấy, Sọ Dừa đỗ Trạng nguyên. Chẳng bao lâu, có chiếu nhà vua sai
quan Trạng đi sứ.
Khi chia tay, quan Trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa,
một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi cần
đến.
Từ khi cô em út lấy được chồng Trạng nguyên, hai cô
chị sinh lòng ghen ghét, định tâm hại em để thay em làm bà Trạng. Nhân quan
Trạng đi sứ vắng, hai cô chị sang chơi, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em
rơi xuống nước. Một con cá kình đã nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao, cô em
đâm chết cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô em lại
lấy dao khoét bụng cá chui ra, lấy hai hòn đá đánh bật lửa lên, rồi xẻo cá
nướng ăn, sống cho qua ngày, chờ có thuyền đi qua thì gọi vào cứu. Hai quả
trứng cũng nở thành một đôi gà đẹp làm bạn với cô giữa cảnh đảo hoang vắng.
Một hôm, có thuyền quan cắm cờ đuôi nheo lướt
qua đảo. Con gà trống thấy, gáy to ba lần: Ò...ó...o... Phải thuyền quan Trạng
rước cô tôi về. Quan Trạng cho thuyền vào xem, vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi
tủi. Về đến nhà, quan Trạng mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại
dấu vợ trong buồng không cho ra mắt.
Hai cô chị không hay biết gì hết, khấp khởi mừng
thầm, chắc chuyến này được thay em làm bà Trạng. Hai cô chị tranh nhau kể
chuyện cô em rủi ro, khóc nức nở ra chiều thương tiếc lắm. Quan Trạng không nói
gì.
Tiệc xong, quan Trạng liền gọi vợ ra giới thiệu với
mọi người. Hai người chị xấu hổ quá, lén ra về lúc nào không hay và từ đó bỏ đi
biệt xứ.
16.
CHIẾC ÁO TÀNG HÌNH
Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay
đây mai đó làm nghề chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài
bộ đồ nghề làm ăn. Nhưng tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều
cá, anh thường đổi lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp.
Vì vây, người nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh.
Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh
cá ở vùng Thái Nguyên. Ở đây, anh lại cứu mọi người không tiếc sức. Một hôm,
anh không đánh được mẻ cá nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy ông lão ăn
mày trần truồng đang nằm run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay
chiếc áo đang mặc đắp vào người ông cụ.
Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa
sông, bỗng nghe trên núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách
say sưa. Qua ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua.
Hôm sau nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai
anh. Lấy làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi,
quyết tìm cho ra người gảy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến
bước. Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá.
Ông cụ mê mải gảy đàn không biết có ngừơi tới gần. Triều nhận ra khuôn mặt cụ
già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản đàn dứt hẳn, anh
đến trước mặt hỏi: - Thưa cụ,
cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây? Ông
cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá trước mặt, bảo:
- Ta ngồi đợi con đây! Con
trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống đây nghỉ một tý. Triều vừa đỡ chén nước ở tay ông
cụ, đã nghe ông cụ hỏi: - Con
có nhớ ta không? - Có - Triều
đáp ngay - Cụ có phải là người
năm ở gốc cây đa đầu làng hôm nọ không? - Đúng - Ông cụ trả lời - “Hôm nọ, con đành chịu mình trần để
nhường áo cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền ơn con một chiếc
áo khác.”. Nói xong ông cụ cởi ngay chiếc áo đang mặc rồi biến mất.
Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy là
một bảo vật, có phép làm cho ngừơi ta tàng hình. Mỗi lần mặc áo, không ai nhận
ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà
bọn giàu có, đường hoàng đi vào tận buồng của chúng, lấy tiền gạo ra chia cho
những người nghèo. Anh kín đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những
người vì quá cơ cực đang nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những
quan tiền ở đâu bay đến trước mặt. Có những tên quan đang nọc người ra giữa
công đường mà đánh thì chính hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng
ngoảnh lại vẫn không hề tìm thấy một ai.
Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn
đại lan khắp cả một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng trời Phật
đã có con mắt.
Cứ như thế, Triều đi khắp mọi nơi và giúp đỡ người
cùng khổ. Một hôm, anh tìm đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây
cho thỏa mắt. Hết vào nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa
không một người nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó khăn nhan
nhản khắp phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà vua lấy của ra phân phát cho
họ.Vì thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả.
Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu giúp
những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có mặt,
nhưng lại không “xuất đầu lộ diện” bao giờ.
Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý
đang ỷ thế đánh người, anh vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ
của hắn nghe tiếng động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào
một chiếc gai tre ở bờ giậulàm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy
bị lộ, nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó hàng ngày anh lại vào kho nhà
vua tiếp tục phận sự.
Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà vua hết sức
lo lắng. Vua hạ lệnh cho bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí
mật, nếu không sẽ trị tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng
chỉ hoài công vô ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra
một dấu vết đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới nhạy để chụp
vào những nơi mà chúng ngờ.
Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm
bướm trắng từ ngoài cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại trên những đĩnh bạc
trắng xóa, rồi bướm lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống
chỗ có bướm. Và thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình
khiến anh bị lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên
vua, vua sai bỏ ngục để chờ ngày xét xử.
Hồi ấy, có ông vua một nước láng giềng từ lâu vẫn
nuôi ngầm mưu mô đánh chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn
binh mã của nước láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà vua đã cho quân đội
ra chống giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch
tiến như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới một
ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô nháo nhác.
Nghe được tin, Triều liền bảo quan coi ngục tâu vua
cho mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho
anh, và gọi anh đến hỏi: - Nhà
ngươi cần bao nhiêu binh mã? - Tâu bệ hạ -
Anh đáp, - Chỉ cần một mình
tôi cũng có thể đuổi được giặc giữ. Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm.
Vua liền tháo gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng quân,
vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.
Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ từ lâu
được Triều cứu giúp, nay nghe tin anh được tha và phong tướng đi đánh giặc, đều
tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng
kéo nhau lên đường.
Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng, Triều mặc
ngay chiếc áo tàng hình vào người rồi cầm gươm đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một
lát sau, anh chém chết tên chỉ huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như
rắn không đầu, bỏ chạy toán loạn. Những người đi theo Triều chỉ có việc chia
nhau đón khắp các nẻo tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc, Triều cũng
làm như vậy. Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và
bị bắt sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là
bên phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình
đều bị chém đầu.
Thấy quân sĩ ngã lòng, tên vua láng giềng đành hạ
lệnh rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy đều ca tụng công lao
của Triều.
Lúc Triều kéo quân khải hoàn, vua khen ngợi anh hết
lời. Vua phong cho anh làm quan đại thần, cắt đất hai huyện cho anh ăn lộc, lại
gả con gái cho anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay
ở Cao Bằng và Thái Nguyên còn có đền thờ.
17.
NGƯỜI THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG
Ngày xưa, ở huyện Nam Xương tỉnh Nam Hà, có một
người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết, chồng là Trương Sinh, người
cùng làng. Hai vợ chồng yêu nhau, tuy trong cảnh túng thiếu nhưng hai người
không bao giờ có điều tiếng qua lại. Chỉ có điều là chàng Trương hay đa nghi,
làm cho vợ lúc nào cũng phải ý tứ giữ gìn.
Lấy nhau chưa được bao lâu thì Trương bị gọi đi
lính. Lúc ấy, vợ chàng có mang sắp đến ngày sinh. Trương Sinh đi chưa được nửa
tháng thì nàng sinh được một đứa con trai kháu khỉnh. Một mình nuôi con mọn,
lại có mẹ chồng già, nàng thay chồng làm đủ mọi việc. Mẹ chồng ốm nặng, nàng
hết sức chạy chữa trong nửa năm trời nhưng bà cụ không qua khỏi được. Nàng làm
ma cho mẹ chồng rất chu đáo, xóm làng ai cũng khen.
Hơn một năm sau, quân lính đều trở về làng. Trương
Sinh về thì đứa con trai đã bập bẹ nói. Trương giơ tay bế con thì thằng bé
không chịu theo. Anh hỏi nó: "Bố đây mà, sao con lại không cho bố bế?"
Thằng bé bập bẹ nói: "Bố tối mới đến kia." Trương Sinh tính đa
nghi, trong lòng bực tức, nhưng không nói ra. Đợi khi đứa bé ngồi một mình,
chàng gạn hỏi thì thằng bé lại nói: "Đến tối bố mới đến, hễ mẹ đi, bố
cũng đi theo, mẹ ngồi, bố cũng ngồi theo..." Nghe con nói,
Trương Sinh yên trí vợ mình đã tằng tịu với một kẻ nào đó trong khi mình đi vắng
và kẻ ấy rất say mê vợ mình, nên mới không rời được ra như thế. Thấy vợ xinh
đẹp, tươi giòn "gái một con trông mòn con mắt", máu ghen của chàng
lại càng xung lên. Trương tra hỏi vợ và giữ kín là không phải do con nói. Nàng
một mực chối cãi nhưng chàng không tin, mắng chửi, đánh đập vợ tàn nhẫn.
Làng xóm, họ hàng biết chuyện đến can ngăn, chàng
nhất định không nghe, cho là vợ quá khéo cái mồm nên mới được lòng mọi người.
Người thiếu phụ uất ức, ôm con khóc nức nở, rồi thừa lúc chồng sang hàng xóm,
chị đặt con xuống giường, chạy ra sông, đâm đầu xuống dòng nước chảy xiết.
Chồng về, biết sự chẳng lành, vội chạy ra sông, nhưng mò mãi không thấy xác vợ
đâu. Đến tối, đứa trẻ khóc, Trương bế con, thắp đèn dỗ con nín. Thốt nhiên, đứa
trẻ chỉ vào cái bóng của Trương trên vách và nói: - Bố kia kìa! Thì ra trong những ngày Trương đi
vắng, buổi tối đứa trẻ hay hỏi mẹ "bố đâu?", người thiếu phụ thường
chỉ vào cái bóng của mình trên vách, nói đùa với con "bố kia kìa".
Bây giờ người chồng mới hiểu lời con nói.
Về sau nhân dân mới dựng miếu thờ nàng họ Vũ gọi là
"Miếu vợ chàng Trương".
18.
YẾT KIÊU
Ngày xưa có một người tên là Yết Kiêu ở làng Hạ Bì
làm nghề đánh cá. Một hôm, trời đã tối, Yết Kiêu đi dọc theo bờ biển về làng
bỗng nhiên thấy trên bãi cỏ có hai con trâu đang ghì sừng húc nhau dưới bóng
trăng. Sẵn đòn ống, ông xông lại phang mạnh mấy cái vào mình chúng. Tự dưng hai
con trâu chạy xuống biển, rồi biến mất. Ông rất kinh ngạc đoán biết là trâu
thần. Khi nhìn lại đòn thì ông thấy có mấy cái lông trâu dính vào. Ông mừng quá
bỏ vào miệng nuốt đi. Từ đó sức khoẻ của Yết Kiêu vượt hẳn mọi người, không một
ai dám đương địch. Đặc biệt ông có tài lội nước. Mỗi lần ông lặn xuống biển bắt
cá, người ta cứ tưởng như ông đang đi trên đất liền. Nhiều khi ông sống ở dưới
nước luôn sáu bảy ngày mới lên.
Hồi ấy, có quân giặc ở nước ngoài sang cướp nước
ta. Chúng cho một trăm chiếc tàu lớn tiến vào cửa biển Vạn Ninh, vây bắt tất cả
thuyền bè, đốt phá chài lưới. Đi đến đâu, chúng cũng cướp của giết người gây
tang tóc khắp mọi vùng Duyên Hải. Chiến thuyền nhà vua bị quân giặc đánh đắm
mất cả. Nhà vua rất lo sợ, sai sứ giả loan tin trong thiên hạ ai có cách gì lui
được quân giặc sẽ phong cho quyền cao chức trọng.
Yết Kiêu đến tâu với vua rằng: - Tôi tuy tài hèn sức yếu nhưng xin
quyết tâm cho lũ chúng nó vào bụng cá. Vua
hỏi: - Nhà ngươi cần bao nhiêu
người? Bao nhiêu thuyền? Yết
Kiêu tâu rằng: - Tâu bệ hạ,
chỉ một mình tôi cũng có thể đương đầu với lũ chúng nó. Nhà vua mừng lắm, liền phong cho ông
làm Đô Thống, chỉ huy thuỷ quân đánh giặc.
Ông đến Vạn Ninh cho quân sĩ nghỉ ngơi. Đoạn ông
bảo họ sắm cho mình một cái khoan, một cái búa, rồi một mình lặn xuống đáy
biển, tiến ra chỗ tàu giặc, tìm đến đáy tàu vừa khoan vừa đục. Ông làm rất lẹ
và rất im lặng, tàu giặc cứ đắm hết chiếc này đến chiếc khác. Trong một hôm,
chúng bị đắm luôn một lúc hơn hai mươi chiếc. Thấy thế, quân giặc hoảng hốt rối
rít cả lên. Chúng sai những tên quân tài bơi lội xuống nước do thám. Mấy tên
quân dò tìm mãi mới thấy Yết Kiêu đang khoan một chiếc tàu. Bọn chúng xông lại
nhưng ông không để cho một đứa nào trở về.
Quân giặc vô cùng sợ hãi. Về sau tên tướng giặc đem
một cái ống nhòm bằng thuỷ tinh có phép nhòm được thấu qua nước đến đáy biển.
Chúng thấy ông đi lại thoăn thoắt như đi trên bộ. Chúng bèn đem cái vó bằng sắt
nhè lúc ông mải đục một chiếc tàu, buông xuống chụp lấy ông.
Quả nhiên chúng vớt lên và bắt sống được Yết Kiêu,
lập tức chúng tra khảo ông:- Trong
nước mày những người lặn như mày có bao nhiêu người? Ông bảo chúng: - Không kể những người đi lại dưới nước
suốt mười ngày không lên, còn như hạng ta thì một trăm chiếc tàu của chúng mày
cũng không chở hết. Hiện giờ ở dưới đó hết lớp này xuống lại lớp kia lên không
mấy khi vắng người. Nghe nói
thế, bọn giặc kinh sợ, chúng dỗ dành:- Mày
muốn tốt phải đưa chúng tao đi bắt, sẽ có hậu thưởng, nếu không chúng tao sẽ
giết chết. Làm ra vẻ đắn đo vì tính mạng, ông gật đầu: - Được, ta sẽ chỉ cho.
Quân giặc tưởng thật, bắt ông cùng với mười tên
quân đem vó sắt ngồi trên thuyền nhỏ ra biển dò tìm. Thừa lúc chúng vô ý, ông
nhảy tòm xuống nước trốn đi. Chúng nó trông nhau ngơ ngác. Bấy giờ quân giặc đã
bị thiệt hại nặng, lại nghe Yết Kiêu nói nước Nam có nhiều người tài lặn nên cuối cùng
chúng đành phải quay tàu trở về không dám quấy nhiễu nữa.
Nhà vua mừng quá khen ngợi Yết Kiêu vô cùng, phong
ông làm Đại Vương. Sau khi ông mất, mọi người nhớ ông lập đền thờ ở cửa Vạn
Ninh và ở nhiều cửa biển khác.
19.
CÂY TRE TRĂM ĐỐT
Đời xưa có một trưởng giả gian ác, xảo trá. Hắn ta
dùng mọi thủ đoạn để bóc lột người ở và người làm thuê cho nó, nhờ đó mà hắn
trở nên giàu có nhất vùng. Hắn có người con gái út, có nhan sắc, chưa chồng.
Trong nhà có anh Khoai, ở với hắn từ thuở nhỏ, làm
đủ trăm công ngàn việc nhọc nhằn. Năm anh mười tám đôi mươi, vì sợ anh đi nơi
khác, một hôm hắn gọi anh lên bảo: - Mày chịu khó ở với tao làm lụng cho thật
giỏi, thức khuya, dậy sớm, siêng năng, rồi tao gả cô út cho mày. Anh Khoai nghe
nói tưởng thực, mừng lắm từ đó lại làm việc gấp năm gấp mười lần. Được ba năm,
bấy giờ cô út đã lớn lắm rồi. Nhân trong vùng có một cai tổng khét tiếng giàu
có đến hỏi cô con gái cho con trai nó, lão trưởng giả nhận lời chuẩn bị làm lễ
cưới linh đình.
Thấy mình bị lừa, anh Khoai bực lắm, lên hỏi lão
trưởng giả: - Ông đã hứa gả cô
út cho tôi, sao bây giờ nuốt lời mà lại gả cho kẻ khác? Hắn ta hầm hầm nổi giận, định đánh cho
anh ta một trận, song nghĩ thế nào hắn lại thôi. Hắn trả lời anh rằng: - Ấy! Tao thấy năm nay cô út cũng đã
lớn rồi, cho cưới đi thì vừa. Tao chuẩn bị đám cưới là chuẩn bị cho mày đấy
chứ! Nhưng mày mà muốn cưới ngay thì mày phải làm cho tao cái việc này: Mày
chịu khó lên rừng tìm lấy một cây tre có một trăm đốt, mày gánh về đây để vót
đũa dùng trong cỗ cưới, làm xong thì tao cho mày cưới cô út ngay. Khoai thật thà tin, lập tức vác dao
lên rừng. Nhưng hết ngày nọ đến ngày kia, hết khu rừng này đến khu rừng khác
anh tìm đâu cũng không ra cây tre có đủ trăm đốt. Thất vọng, anh ngồi trong khu
rừng khóc hu hu. Bỗng anh thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, da đỏ hồng hào, mắt
sáng, miệng tươi, khoan thai chống gậy đến gần anh hỏi:- Làm sao con khóc? Khoai thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Ông
lão nghe xong bảo rằng: - Con
đi chặt cho đủ một trăm đốt tre, mang về đây cho ta. Anh nghe lời, vác dao
chặt bên tả, bên hữu, chỉ một loáng đã đủ một trăm đốt tre. Ông lão khẽ bảo: - "Khắc nhập ! Khắc nhập". Vừa đọc xong, thì trăm đoạn tre đang
nằm ngổn ngang, tự nhiên chạy tới với nhau, nối liền lại thành một cây tre đủ
trăm đốt. Khoai mừng quá, toan sụp xuống lạy tạ ông lão nhưng ông cụ đã biến
mất rồi. Lúc này anh mới biết đó là ông Bụt.
Anh ghé vai định vác tre về nhà, nhưng không làm
thế nào mà đi được vì tre dài quá, nó cứ vướng vào cây này, cây khác giữa rừng.
Lo buồn, anh lại ngồi xuống và khóc hu hu. Tức thì anh lại thấy ông Bụt hồi nãy
hiện lên. Ông hỏi: - "Làm
sao con khóc?". Anh kể rõ sự tình. Bụt đưa tay chỉ vào cây tre mà đọc:
- "Khắc xuất ! Khắc
xuất". Tự nhiên cây tre lại rời từng đốt. Anh bó lại làm hai bó, gánh
về nhà.
Lúc về tới nơi thì thấy hai họ đông đảo đang ăn
uống ồn ào và đầy sân bày cỗ đang trực sẵn để rước dâu đi. Anh tức quá xông
thẳng tới trước mắt lão trưởng giả mà hỏi, thì hắn cười bảo anh rằng: - Tao bảo mày đốn cho được một cây
tre có một trăm đốt, chứ tao bảo mày đốn một trăm đốt tre đâu.
Cả hai họ ngừng tay đũa, đều cười theo chế nhạo anh
Khoai khờ khạo. Anh bảo lão trưởng giả ra sân mà xem. Rồi anh khẽ đọc: - "Khắc
nhập! Khắc nhập!". Tức thì trăm đốt tre dính liền nhau thành một cây
tre dài và dính luôn cả lão trưởng giả vào đấy, hắn cố dứt mấy cũng không ra.
Lão cai tổng thông gia và con trai lão thấy thế
cũng chạy ra định gỡ, anh Khoai đợi hai đứa tới gần, lại khẽ đọc: - "Khắc
nhập! Khắc nhập!". Lập tức lão cai tổng và con trai đều dính vào với
lão trưởng giả, càng giãy càng đau, cả ba ôm nhau kêu khóc.
Cả hai họ lúc bấy giờ tái mặt, dựng tóc gáy, không
còn ai nghĩ đến chuyện ra gỡ hoặc chế nhạo nữa. Họ mặc áo rộng, đứng sắp hàng
van xin anh Khoai thả ba người kia ra. Chờ một lúc lâu, anh Khoai mới đọc khẽ:
- "Khắc xuất! Khắc xuất!". Bấy giờ hai thông gia và chú rể mới
rời nhau ra được và cây tre cũng đổ xuống, chia làm trăm đoạn.
Nhà trai thoát nạn cuốn gói ra về và lão trưởng giả
ngay ngày hôm sau phải gả cô út cho anh Khoai.
20.
CÔNG CHÚA BÁN THAN
Ngày xưa có một ông vua sinh được ba nàng công
chúa. Ba nàng đều xinh đẹp như nhau, nhưng tính tình lại rất khác nhau. Hai
công chúa lớn chỉ sống ỷ lại. Cả hai đều lấy được chồng con nhà quan, giàu có.
Sẵn có vàng bạc của cải, ngày ngày hai nàng chỉ ngồi ăn chơi. Công việc nhà cửa
đều phó thác cho người làm, người ở. Còn công chúa Ba thì nghĩ và làm khác hai
chị. Nàng không sống dựa vào giàu có mà trái lại rất siêng năng làm việc và
nhất định không chịu lấy chồng con nhà giàu.
Một hôm, vì không nhận lời con trai quan tể tướng
nên công chúa Ba bị vua cha đuổi ra khỏi cung. Nhà vua sai người trao cho nàng
một con ngựa mù và nói: - Mày đã không muốn sống giàu có thì hãy đi ra khỏi nhà
này. Ta muốn xem mày làm giàu cách nào bằng hai bàn tay kia và cấm không được
trở lại cung điện chừng nào chưa có nhiều tiền bạc của cải hơn hai chị gái.
Công chúa Ba không chút buồn rầu, nàng vỗ về con ngựa mù và nói: - Sau này ta
sẽ trở nên giàu có và chữa cho ngựa khỏi mù. Nói rồi nàng nhảy lên lưng ngựa,
lặng lẽ lên đường. Con ngựa tuy mù cả hai mắt nhưng đi rất đều chân. Đến lúc
xẩm tối, ngựa dừng lại trước một túp lều nho nhỏ ven đường mòn bên một cánh
rừng. Công chúa xuống ngựa vào bước vào lều. Nàng hỏi ra mới biết đây là nhà
của một bà già goá chồng. Bà cụ đã ngoài sáu mươi tuổi, có một người con trai
vừa tròn ba mươi, chuyên làm nghề đốt than. Vì vậy người ta quen gọi chàng là
chàng Đốt Than.
Sau một hồi chuyện trò thăm hỏi, công chúa tự xưng
tên và hoàn cảnh của mình và nàng có ý xin ở lại làm dâu bà cụ. Nghe nói vậy bà
cụ sợ hãi chắp tay vái lạy công chúa và hết lời từ chối. Chàng Đốt Than cũng
không dám nhận lời. Chàng mời công chúa nghỉ lại một đêm rồi sáng sớm mai công
chúa định đến đâu chàng dẫn đi đến đó. Công chúa Ba hết sức thành thực xin ở
lại làm dâu bà cụ và làm vợ chàng Đốt Than. Bà cụ không còn cách nào từ chối,
đành phải nhận lời. Sau bữa cơm rau bình thường, công chúa hỏi han mọi việc làm
ăn và mọi sinh hoạt sớm tối ở trong nhà. Ba mẹ con thân mật trò chuyện mãi tới
khuya.
Sáng hôm sau, hai mẹ con bà cụ lại mỗi người mỗi
việc như thường lệ. Bà cụ dậy sớm nấu cơm cho con trai ăn trước khi đi làm.
Chàng Đốt Than cũng dậy rất sớm quẩy sẵn hai gánh nước cho mẹ. Công chúa cũng
bắt tay vào công việc. Nàng dậy sớm hơn mọi hôm ở trong cung điện để dọn dẹp
nhà cửa, quét tước sân ngõ, thả ngựa đi ăn cỏ.
Sau bữa cơm sáng, chàng Đốt Than lại đeo dao, quẩy
sọt vào rừng. Công chúa Ba ngỏ ý muốn đi theo nhưng bà cụ bảo nàng ở lại cùng
cuốc vườn để kịp trồng ngô đúng ngày đúng vụ. Nàng làm việc suốt từ sáng đến
chiều nên rất mệt. Đến cuối buổi nàng còn tranh thủ cắt thêm một gánh cỏ cho
ngựa ăn đêm. Chiều tối, chàng Đốt Than quẩy một gánh than về. Công chúa ra tận
ngõ đón chồng. Từ khi có vợ, chàng không phải đi chợ bán than như mọi khi nữa.
Việc bán than đã có vợ giúp nên chàng có nhiều thì giờ vào rừng và đốt ngày
càng được nhiều than hơn.
Công chúa Ba đã quen dần với công việc. Sau mỗi
buổi đi chợ về, nàng lại vác cuốc ra làm vườn. Một hôm, nàng cuốc phải một vật
rất cứng màu vàng, to bằng quả trứng, nhặt lên xem thì đó là một cục vàng, thấy
con dâu nhặt hòn đá cho vào túi bà cụ phì cười cho là người cung các muốn chơi
đá làm cảnh và cũng không hỏi nàng. Sáng hôm sau công chúa lại cuốc được một
cục vàng giống như hôm trước, nàng lại nhặt bỏ vào túi rồi đem cất vào đầu
giường nằm. Ngày ngày nàng vẫn cùng mẹ chồng cuốc đất rồi tiếp tục cùng bà cụ
gieo trồng. Chàng Đốt Than vẫn vào rừng làm than và quẩy về mỗi ngày một gánh
nặng.
Tuy bận việc suốt ngày nhưng công chúa không lúc
nào quên con ngựa. Hôm nào nàng cũng dành thì giờ cắt thêm cỏ, hái thêm lá rừng
cho ngựa ăn đêm.
Một hôm dắt ngựa đi uống nước nàng gặp một đạo sĩ.
Thấy con ngựa béo đẹp nhưng lại mù, đạo sĩ đứng lại hỏi chuyện. Công chúa ngỏ ý
muốn chữa mắt cho ngựa. Đạo sĩ mách, muốn chữa cho ngựa khỏi mù thì phải lấy lá
mản ở trên đỉnh núi Tiên cho ăn và lấy nước giếng phun ở trên đỉnh núi Tiên cho
uống trong ba tháng liền. Công chúa cảm ơn đạo sĩ. Rồi từ đấy, chiều nào, sau
khi làm vườn xong nàng cũng nhanh chân leo lên đỉnh núi Tiên hái lá mản và múc
nước thần về cho ngựa. Nàng kiên trì làm công việc này trong suốt ba tháng
ròng. Quả nhiên con ngựa đã khỏi mù.
Một hôm, nàng ngỏ ý muốn theo chồng vào rừng đốt
than nhưng chồng không ưng vì sợ vợ không leo được lên dốc. Chờ chồng đi khỏi,
nàng lén theo sau. Tới nơi, công chúa hỏi chồng cách đốn cây chặt cành rồi nàng
bắt tay vào công việc. Công việc chặt cây rồi cũng quen dần. Chẳng bao lâu
những khúc cây chặt xếp đống chật xung quanh lò than. Công chúa bàn với chồng
đào thêm một hai cái lò nữa.
Sáng hôm sau, vừa coi lò, chàng Đốt Than vừa cùng
vợ đào thêm cái lò thứ hai. Đang đào, chợt công chúa thấy hai cục vàng, rồi bới
lại được thêm hai ba cục nữa. Nàng kêu lên sung sướng. Sau đó hai vợ chồng còn
tìm thêm được rất nhiều vàng nữa. Công chúa dặn chồng phải giữ kín chuyện và
tìm cách chuyển vàng dần về nhà. Từ hôm ấy, chiều nào hai vợ chồng cũng gánh về
một gánh than và cho ngựa thồ thêm một gánh. Trong thồ và gánh than nào cũng có
mươi, mười lăm cục vàng. Suốt ba tháng trời, hai vợ chồng nàng đã chuyển hết
hang vàng về nhà, chôn giấu cẩn thận.
Vườn ngô do hai bàn tay nàng và bà mẹ vun trồng đã
tới vụ bẻ. Nàng phải cùng chồng dựng thêm lều chứa ngô thu hái về. Từ đấy,
trong nhà đã có đủ ngô ăn quanh năm và có vàng chi dùng.
Thấy trong nhà đã có vàng gấp năm gấp mười kho vàng
của vua cha, công chúa bàn với chồng và mẹ dựng nhà tậu trâu, mua ruộng. Nàng
bảo chồng vào cung đo nhà của nhà vua để làm một cái nhà y như thế. Chàng Đốt
Than theo lời vợ dặn vào cung đo chiều dài, chiều rộng, chiều cao của cung vua.
Nhà vua thấy vậy liền quát hỏi chàng Đốt Than. Chàng không chút sợ hãi đáp: - Tôi là người đốt than, chồng của
nàng công chúa Ba, là con rể của vua. Theo
lời công chúa, tôi vào đây đo đạc cung vua để về dựng một cái nhà to cao như
vậy. Nghe xong nhà vua giận lắm, lớn tiếng quát tháo và sai lính đuổi
chàng Đốt Than. Hai công chúa lớn cũng ra sân xỉa xói, xỉ vả, mắng nhiếc chàng
thậm tệ. Chàng Đốt Than không nói không rằng, bình thản đi ra cổng thành. Về
đến nhà, chàng kể lại cho vợ nghe câu chuyện vừa xảy ra ở trong cung điện. Công
chúa an ủi chồng: - Sau này ta sẽ làm vua cha và hai chị biết. Bây giờ chàng
hãy chịu khó ít lâu.
Chàng Đốt Than vào thành thuê một đoàn thợ về xây
nhà. Đoàn thợ làm ngày làm đêm, chỉ trong vòng hai tháng, toà nhà đã dựng xong.
Ngày về nhà mới, nàng bảo chồng sang mời vua cha và hoàng hậu sang chơi. Lần
này vua không quát như trước nhưng vua mỉa mai bảo chàng Đốt Than về làm kiệu
bằng vàng và võng vàng sang đón thì vua và hoàng hậu mới đi. Công chúa Ba cho
thợ đúc ngay một cái kiệu vàng và một cái võng vàng sang đón vua và hoàng hậu.
Thấy vậy, nhà vua lấy làm lạ lắm. Tuy vua không ưa gì nàng công chúa ngang
ngạnh, khó bảo nhưng cũng muốn đến tận nơi xem công chúa làm ăn như thế nào.
Vua cùng hoàng hậu và hai công chúa lớn sang bên nhà công chúa Ba.
Bốn người đến nhà công chúa Ba giữa lúc trong nhà
đang đông nghịt những khách đến chúc mừng nhà mới. Ngắm nhìn toà nhà đồ sộ,
cột, kèo, xà đều chạm trổ rồng phượng công phu, lại sơn son thiếp vàng sáng
chói, nhà vua càng ngạc nhiên. Hai công chúa chị ngẩn người, hết ngắm nhà cửa
lại nhìn mâm bàn rồi cùng nhau gật gù thầm khen em gái mãi. Cùng lúc ấy, con ngựa
trong tàu hý vang. Chàng Đốt Than dắt con ngựa ra sân. Con ngựa ngẩng cao đầu,
vểnh đôi tai, đập bốn vó thình thịch, hý vang như có ý chào mừng nhà vua, hoàng
hậu và hai công chúa chị. Nhìn con ngựa tốt, khoẻ mạnh, hai mắt lành lặn và
sáng ngời, nhà vua vô cùng cảm động, đến bên ôm lấy cổ ngựa vỗ về.
Sau ba ngày ăn uống linh đình mừng ngôi nhà mới,
nhà vua cùng hoàng hậu và hai công chúa chị ở lại chơi thêm vài ngày. Người nào
cũng hỏi han đủ điều. Nghe công chúa Ba kể đầu đuôi mọi công việc làm ăn trong
những tháng năm qua, nhà vua hết lời khen ngợi. Biết hai công chúa chị ngồi ăn
núi lở, vốn liếng đã cạn nhiều, công chúa Ba tặng mỗi chị vài chục cục vàng.
Nàng tha thiết khẩn khoản mời hoàng hậu ở lại với nàng cho vui. Từ đó vợ chồng
nàng cùng sống với hai bà mẹ những ngày tháng yên ấm, hạnh phúc.
21.
HAI ÔNG TRẠNG NHỎ
Xưa, có một tên vua kiêu căng, tự cho mình là thông
minh nhất thiên hạ, thường bày các trò chơi hay câu đố theo ý thích để cuộc với
người khác, cốt để khoe khoang tài mình.
Một hôm, vua sai người bếp phải đi tìm cho
được giống dưa đỏ ruột. Người bếp rất lo sợ vì ở miền núi này có bao giờ ai
biết tới giống dưa lạ kỳ đó. Thậm chí anh cũng chưa thấy ai nhắc đến bao giờ.
Mặc dầu vậy anh vẫn phải đi tìm dưa đỏ ruột vì lệnh vua như lệnh trời. Anh lang
thang dọc đường, buồn lắm. Có hai em học trò nhỏ thấy vậy, hỏi chuyện anh. Nghe
rồi, các em nói: - Anh đừng
lo, anh bế chúng em qua chỗ cây đổ chắn đường này, chúng em sẽ mách anh nơi có
dưa đỏ ruột. Qua được chỗ khó đi, các em cười nói: - Anh cứ mua trứng gà, trứng vịt cho
vua ăn là đúng ý. Người bếp như chợt tỉnh, mừng quýnh, tìm mua ngay trứng
gà, trứng vịt về trình vua. Vua gật đầu khen ngợi.
Mấy hôm sau, vua lại muốn ăn món râu tôm trên cạn.
"Phải tìm mua được", lệnh vua ban. Người bếp lần này lại lúng túng,
lo sợ không kém lần trước. Đi hỏi ai người ta cũng chế giễu anh. Anh chán nản,
lang thang trên rừng, định bụng nếu không làm vừa lòng vua thì không về nữa.
Anh lại gặp hai em bữa trước. Hai em đang chơi, lại đòi anh bế qua chỗ cây đổ,
các em sẽ mách nơi có giống tôm trên cạn. Anh bếp vui lòng giúp các em. Hai em
hồn nhiên cười nói: - Cái ấy
có gì khó, anh cứ mua kiệu về cho vua ăn là đúng thôi! Lần này thì tên vua ngạc nhiên
lắm. Hắn chịu anh bếp là người thông minh. Nhưng thấy có người đoán biết ý
mình, tự nhiên lòng hắn không vui. Hắn nghi ngờ, gọi người bếp lên tra hỏi xem
ai đã mách nước. Người bếp phải thú thật. Tên vua tức lắm, cho hai đứa trẻ như
thế là hỗn láo.
Vua sai người mang hai gói thuốc độc tới bắt hai em
phải uống để trừng phạt, nhưng lại nói dối là hai gói thuốc bổ vua thưởng cho
người thông minh. Các em biết dã tâm của vua nhưng không cưỡng lại được đành
cầm lấy thuốc. Các em xin phép được nói chuyện với mẹ trước khi uống thuốc. Các
em dặn mẹ: - Tên vua độc ác,
định hại chúng con. Nếu chúng con chết thì mẹ đừng chôn vội, cứ đặt chúng con
nằm trên gác, bắt hai tổ ong về, để hai cuốn sách bên cạnh cửa sổ. Khi nào được
tin vua chết thì mẹ gọi một người mù và một người què đi chôn chúng con. Mẹ bảo
người mù đi trước, người què đi sau. Xong
đâu đấy, các em uống thuốc ngay trước mặt người nhà vua cử đến. Thấy các em
uống rồi họ mới ra về. Thuốc ngấm, chỉ lát sau các em chết. Bà mẹ đau đớn
thương xót hai đứa con kháu khỉnh, thông minh của mình mà chỉ dám lau nước mắt
khóc thầm. Bà làm đúng như lời các con dặn.
Trên gác, từ lúc đó có tiếng ong kêu, như trẻ con
khóc. Cơn gió nhẹ thổi qua cửa sổ lật đi lật lại những trang giấy như có người
đang giở sách. Tên vua sai người đến dò chuyện. Quân hầu về báo với vua rằng
hai đứa trẻ vẫn còn sống. Lúc thì chúng khóc, lúc thì chúng giở sách đọc ê,
a... Vua nghe tức lắm, cho là thuốc không hiệu nghiệm, liền lấy chỗ còn thừa
uống thử. Vua bị nhiễm độc, chết ngay tức khắc.
Tin vua chết lan nhanh khắp nơi. Bà mẹ nhớ lời hai
con, đi gọi ngay anh mù và anh què đến giúp việc. Mù khiêng áo quan đi trước,
què khiêng sau. Mù không thấy đường, vướng phải sợi dây rừng. Anh què chặt luôn
dây, sợi dây bật mạnh đúng khớp xương tàn tật của anh. Khớp xương tự nhiên nhập
vào nhau, anh què khỏi què. Cầm dây lên xem anh mù lấy nhựa xoa vào mắt, dụi
mấy cái bỗng nhiên thấy mắt sáng, nhìn rõ trời đất như mắt người thường. Cho đó
là thuốc quý, hai anh liền đặt áo quan xuống, mở ra lấy nhựa cây rừng xoa lên
khắp mình hai em. Da dẻ các em tự nhiên hồng hào trở lại. Đôi mắt các em chớp
chớp rồi mở hẳn. Mũi các em phập phồng. Hai em đã sống lại.
Bốn người may mắn, lành lặn, rủ nhau trở về làng.
22.
LÁ THUỐC
Có một bà goá nghèo sống trong một túp lều rách
nát, tần tảo nắng sương nhịn ăn, nhịn mặc dành dụm nuôi ba đứa con trai từ tấm
bé cho đến lúc lớn khôn. Năm tháng làm lụng vất vả, bữa đói bữa khát, sức bà
mỗi ngày một yếu và rồi bà lâm bệng nặng. Thấy mẹ lâm bệnh nặng, người con út
lo lắng, anh đi hết thôn nọ đến bản kia tìm thuốc, kiếm thức ăn về cho mẹ.
Trong lúc ấy thì người anh Cả, anh Hai thì thậm thụt bàn nhau. Anh Cả nói: - Bố chết, để lại cho chúng ta chỉ có
một cái nỏ và ống tên, một cái ninh đồng đồ xôi, một cái chài. Bây giờ mẹ chết,
tao là anh Cả, tao phải lấy cái nỏ và ống tên, cái ninh, còn cái chài thì phần
chú. Anh Hai nói: - Không được rồi, nỏ và tên còn mới,
ninh bằng đồng, còn cái chài kia chỉ là sợi gai và nó đã rách. Còn hai thứ ninh
và nỏ, anh phải chia thêm cho tôi một thứ.
Thế rồi, người nhận nỏ, kẻ nhận ninh mãi vẫn không
ngã ngũ. Cuối cùng anh Cả lấy quyền của mình và gọi cả chàng út đến nói: - Tao là anh Cả, tao lấy cái ninh,
thằng Hai lấy cái chài và nỏ, thằng út lấy cái lều này mà ở. Chàng út buồn rầu bảo hai anh: - Các anh thích cái gì thì cứ việc
lấy, còn tôi, tôi chỉ cần lo cho mẹ qua được cơn bệnh nặng này. Người mẹ thấy các con bàn tính nhau
chia của trong lúc mình chưa qua khỏi liền uất lên và tắt thở. Ba anh em lo
khâm niệm mẹ, nhưng khi mọi việc đã xong thì tạo bản không cho chôn trong nghĩa
địa của bản vì tang chủ không có đủ rượu, thịt, gạo làm lễ cúng nhập hồn với ma
bản, ma rừng. Tạo bản bắt ba anh em phải khiêng mẹ đi một ngày đường mới được
chôn cất. Thấy vậy, anh Cả vội phân chia việc: - Tao đưa mẹ đi từ sớm đến trưa,
thằng hai đưa mẹ từ trưa đến chiều, thắng út đưa mẹ từ chiều đến tối.
Khi đưa người xấu số về nơi an nghỉ cuối cùng, bà
con dân bản đều có mặt đông đủ để tiễn đưa. Người anh khôn ngoan nhờ các trai
bản khiêng giúp linh cữu, tới lúc mọi người khấn chào người quá cố ra về thì
anh Cả nói với hai em: - Tao
đã hết phận sự và phải quay về lo liệu nhà cửa, chúng mày hãy đưa mẹ đến nơi an
táng. Người anh Cả ra về, còn
lại hai anh em, họ vất vả lắm mới khiêng được quan tài mẹ đi. Tới chiều, anh
Hai nói: - Út ơi! Tao đã hết
phần việc của mình, mày hãy đưa mẹ đi tiếp lo chôn cất cho mẹ. Nói xong, anh
quay về.
Mặt trời sắp hết nắng, còn lại một mình giữa rừng
sâu, anh út ôm lấy quan tài mẹ khóc thảm thiết. Các loài chim nghe thấy tiếng
khóc của người con trai gọi mẹ, chúng thấy lạ, hết đàn nọ đến đàn kia bay lại
quanh anh. Khi biết rõ sự việc, chúng đồng thanh hót theo những giọng trầm
buồn. Bỗng một con chim mỏ vàng, chân bạc bay tới sau cùng, nói được tiếng
người, bảo anh: Đừng khóc!
Chàng trai! Theo đường thẳng đó, gặp cây hoa đỏ, lá óng ánh xanh, hái về cho
nhanh, đắp lên miệng mẹ.
Theo lời chim mách, chàng út lần ngược theo khe
nước gần đấy, anh gặp những cây có lá xanh óng ánh, hoa đỏ rực rỡ, anh hái lấy
ba lá, đem về nhai ra rồi đắp lên miệng mẹ. Một lúc sau người mẹ từ từ mở mắt,
anh mừng quá gục đầu vào lòng mẹ thổn thức. Chàng út đưa mẹ về đến nhà thì gà
đã gáy sáng lần thứ nhất. Lúc ấy, anh Cả, anh Hai vẫn chưa ngủ vì họ còn cãi
nhau ai lấy nỏ, ai lấy ninh, lấy chài. Người em gọi mở cửa. Họ tưởng mẹ đã hoá
thành ma hiện về, người anh Cả hốt hoảng tay vái lia lịa, miệng líu ríu khấn: Ơi mẹ thương! Mẹ quý! Vắng mẹ có
một đêm chúng con thương mẹ không tài nào nhắm mắt được. Chúng con đã lo liệu
cho mẹ mồ yên mả đẹp, mẹ hãy trở về trời của mẹ đi, ngày mai chúng con sẽ mua
trâu mổ để cúng mẹ! Người anh
Hai cũng vội vàng chắp tay lạy và nói theo: Lạy
mẹ thương! Lạy mẹ quý! Chúng con đang bàn lấy những thứ còn lại để mua trâu
cúng cho mẹ đấy, mẹ hãy phù hộ cho chúng con. Người
mẹ mệt mỏi, đưa mắt nhìn hai người con rồi bảo: - Đủ rồi! Đủ rồi! Chúng mày hãy xéo
đi đâu thì đi đi. Út ơi! Vào trải đệm cho mẹ ngủ, mẹ mệt lắm rồi. Thấy chàng út vào, hai người anh
ngơ ngác, mặt cắt không ra một giọt máu và đến lúc ấy họ mới tin được là mẹ
sống lại.
Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Tiếng lành chở
bằng thuyền xuôi tận mường Kinh vùng biển, thồ bằng xe ngựa lên đến ngọn núi
cao người Mèo, rằng "Có ba anh em nhà nọ, người em út thương mẹ, thương
từ trong lòng thương ra và được chim thần mách cho thuốc thần để cứu sống mẹ.
Còn hai người anh thương mẹ chỉ thương cửa miệng nên đang ế vợ!".
Tiếng đồn đi xa, rồi tiếng đồn lại trở lại chui vào tai hai người anh kia. Chỉ
nghe lời đồn, hai người anh đã thấy bực bội trong người. Không những thế, họ đi
đến đâu các cô gái mường, gái bản cũng đều tránh mặt họ và còn nói bóng gió:
"Hổ vằn ngoài da, con người ta vằn trong bụng". Suy đi tính
lại, nếu không có thằng út kia thì họ đâu đến nỗi thành tiếng thành tăm như
thế, tất cả là do thằng út và họ căm ghét đứa em mình thật sự.
Năm ấy, cô con gái của chẩu mường ở mường nọ không
may bị bệnh nặng và khó qua được cái chết. Chẩu mường cho loan báo: Nếu ai chữa khỏi bệnh cho con gái
thì chẩu mường sẽ gả cho làm vợ và cho cai quản nửa mường.
Nghe được tin đồn đó, người anh Cả dỗ ngon dỗ ngọt
chàng út: - Út ơi! Em hãy giúp
anh nhé! Em chịu khó vào rừng lấy cho anh nắm lá thuốc cứu sống người để anh
đến chữa cho con gái chẩu mường. Anh đã đến tuổi lấy vợ và khi anh được cai
quản nửa mường thì em và mẹ cũng được nhờ. Người anh Hai cũng thì thầm với
chàng út: - Này út ơi đừng lấy
lá thuốc cho anh Cả nhé! Bình thường anh ấy còn đối với mẹ như thế, huống chi
anh ấy được cai quản nửa mường. Còn anh, anh luôn nghĩ tới mẹ và em, vậy em hãy
giúp anh mà lấy cho anh nắm lá thuốc, khi anh được cai quản nửa mường thì mẹ và
em sẽ được sung sướng.
Chàng út trả lời chung cho cả hai anh: - Việc gì tôi phải lấy cho các anh?
Tôi lấy cho tôi thì sao? Hai
người anh vội gắt: - Mày còn
bé, chưa xứng làm chồng cô gái chẩu mường. Chàng út trả lời: - Thôi được, tôi sẽ giúp các anh, còn
tôi không cần một thứ gì cả. Chàng
út nói lại điều đó với mẹ, mẹ anh bảo:- Cứu
giúp người là một điều tốt nên làm, nhưng đừng bắt người ta phải cho mình cái
này, cái kia để mình làm giàu. Còn con lấy lá thuốc cho hai thằng anh con thì
con phải ngậm sẵn ba lá thuốc ở dưới lưỡi.
Sáng hôm sau, chàng út vào rừng lấy lá thuốc. Hai
người anh đòi đi theo cùng nhưng chàng út dứt khoát không cho đi. Chàng út vừa
đi được một lúc thì anh Cả đã lẻn xuống cầu thang phải, anh Hai lẻn xuống cầu
thang trái đuổi theo. Mỗi người đi một đường, họ đuổi mãi mà không gặp chàng
út. Đến một bờ vực, anh Cả dừng lại nghỉ thì cũng vừa gặp anh Hai đến. Vừa mệt,
vừa lo người này sẽ cướp phần của người kia, hai người quay ra cãi nhau, cãi
nhau không xong, họ đánh nhau. Người anh Cả khoẻ hơn, đẩy ngã anh Hai xuống
vực. Vừa lúc ấy chàng út đi tới. Anh Cả tươi cười hỏi: Lá thuốc đâu đưa cho anh. Chàng
út vừa đưa lá thuốc cho anh vừa hỏi anh Hai đi đâu? Anh Cả chỉ tay xuống vực
thản nhiên nói: Nó trượt chân ngã xuống vực rồi, mày hãy xuống cứu nó đi. Chàng
út ra mép vực nhìn xuống, người anh Cả đẩy nhẹ tay một cái, chàng út mất đà ngã
luôn xuống. Nhưng nhớ lời mẹ dặn, trước khi đưa thuốc cho anh chàng út đã ngậm
sẵn ba lá thuốc dưới lưỡi nên anh không bị làm sao cả. Nhìn thấy anh Hai nằm
chết trong một vũng nước, chàng út vội vớt lên và lấy ba lá thuốc vắt nước vào
mũi, vào mồm anh. Một lúc sau anh Hai tỉnh dậy và hai anh em tìm đường về nhà.
Nói về người anh Cả, sau khi được ba lá thuốc, hắn
vội vã chạy thẳng đến nhà chẩu mường. Hắn khoác lác là hắn đã chữa cho mẹ, cho
các chẩu mường. Chẩu các mường ấy đã biếu hắn nhiều vàng bạc và gả con gái cho
hắn nhưng hắn đều từ chối. Hắn khoa chân múa tay làm phép, rồi làm thuốc cho
con gái chẩu mường, quả nhiên một lúc sau con gái chẩu mường tỉnh dậy và ba
ngày sau cô gái đã khoẻ mạnh như trước. Giữ đúng lời hứa, chẩu mường chia cho
hắn một nửa mường để hắn cai quản, còn việc gả con gái, chẩu mường hứa khi nào
cô gái thật khoẻ mạnh sẽ nói chuyện sau.
Nhưng một điều không may cho chẩu mường và cũng cho
người anh Cả kia. Vợ chẩu mường lại sinh bệnh nặng, chẩu mường gọi anh Cả kia
đến giao cho việc lấy thuốc lá để chữa. Hắn đâm ra hoảng sợ vì nghĩ rằng chàng
út đã chết rồi, không thể nhờ chàng út được nữa, hắn tìm cớ chối quanh. Thấy
vậy, chẩu mường sinh nghi ngờ và nói nếu không chữa được sẽ chém đầu. Hắn càng
lo sợ và vội vã đi vào rừng tìm thuốc. Nhưng một ngày đi, rồi hai, ba ngày...
hắn vẫn chưa tìm được thuốc, trong khi đó vợ chẩu mường bệnh càng tăng. Chẩu
mường vội loan báo, nếu ai chữa được cho vợ chẩu mường khỏi bệnh thì chẩu mường
nhường lại chức.
Nghe được tin loan báo của chẩu mường, anh Hai bảo
chàng út: Ở đời này người ta
chỉ lừa nhau được một lần. Chú có lòng thương người, tính thật thà ngay thẳng,
chú đáng làm chẩu mường lắm, chú hãy đi lấy lá thuốc đi. Chàng út cảm động nhìn anh Hai rồi
lẳng lặng đi vào rừng lấy thuốc. Khi lấy được thuốc, chàng út không cầm đến nhà
chẩu mường mà đem về đưa cho anh Hai mang đến chữa. Người anh Cả không tìm được
thuốc đang nói dối quanh với chẩu mường thì gặp anh Hai đến. Mặt hắn tái đi như
gà cắt tiết. Chẩu mường nhận ra điều đó và gặng hỏi nguyên do. Người anh Hai
nói xin chữa khỏi bệnh cho vợ chẩu mường đã rồi mọi chuyện sẽ nói sau.
Trong lúc người anh Hai chữa bệnh cho vợ chẩu mường
thì anh Cả vội tìm đường lẩn trốn. Nhưng hắn đi đến đâu mọi người cũng đều xa
lánh. Vừa uất ức, vừa xấu hổ hắn vào rừng thắt cổ tự tử.
Sau khi nghe anh Hai kể rõ mọi việc, chẩu mường cho
mời chàng út đến gả con gái và chia cho nửa mường để chàng cai quản. Chàng út
cảm ơn và từ chối tất cả, chàng chỉ xin chẩu mường được quyền đi khắp mọi nơi
để chữa bệnh cho tất cả mọi người. Những lá thuốc quý ấy do chàng út truyền lại
được lưu truyền đời này đến đời khác và bản mường nào cũng biết.
23.
HAI ÔNG QUAN VÀ NGƯỜI TỬ TÙ
Thuở xưa có hai ông quan, một người là quan bộ hình
và một người là quan bộ binh. Quan bộ binh là người ích kỷ, lúc nào cũng muốn
kiếm cớ hại quan bộ hình.
Một ngày nọ có một người phạm tội nặng bị xử tội
chết chém. Nằm trong ngục chờ sáng mai thọ hình, anh ta khóc lóc than vãn:
"Ôi, cuộc đời ta đến mai đây là chấm dứt. Làm người ai không khỏi một
lần chết, ta đâu có tiếc gì. Ta chỉ tiếc ta có cái nghề quý chưa truyền cho ai
được mà phải chết. Rồi đây nghề ấy thất truyền và loài người không ai nối
nghiệp nữa..." Người gác
ngục nghe tử tù than vãn như vậy, tò mò hỏi: - Này, anh có cái nghề gì mà quý đến
vậy? Người tử tù ra vẻ đau
đớn, trả lời: - Nghề gì ư?
Nghề nghe hiểu được tiếng chim hót. Trên đời này ngoài tôi ra không ai biết
được. Ôi, thật tiếc quá.
Người gác ngục nghe thế bèn vào thưa lại với quan
bộ hình. Quan bộ hình nghe qua nhủ thầm: "Đúng! Nghề ấy quý thật",
rồi cùng người lính đến gặp tử tù. Quan bộ hình hỏi chuyện tử tù một lúc và tử
tù đồng ý truyền lại nghề nghe được tiếng chim cho ông. Tên tử tù bảo quan bộ
hình đưa mình vào chùa, đến trước mặt Phật đài để mình làm lễ Phật và truyền
nghề cho. Ngay đêm đó, quan bộ hình sai lính canh đưa tên tử tù đến chùa. Khi
đèn nhang đã được đốt lên, hai người cùng quỳ trước mặt Phật đài đảnh lễ.
Đảnh lễ xong tên tử tù bèn nói: Xin đức Phật hãy cứu giúp chúng
con. Con tên là tử tù, ngày mai quan bộ hình sẽ đem con ra chém. Con thấy lòng
mình quá sợ hãi và tiếc cho mạng sống của mình. Xin đức Phật từ bi ban cho con
sống. Sự sống của con ở nơi quan bộ hình này... Nói rồi, tên tử tù quỳ lạy
quan bộ hình xin ông tha chết cho mình và hắn thú thật là mình đã nói dối để
được gặp quan chứ không biết nghe tiếng chim gì cả. Quan bộ hình khi nghe lời
thỉnh cầu của tên tử tù thì thở dài, cảm động nói với người lính gác ngục: - Ôi, ta gặp phải tình huống thật khó
xử. Nó đã xin đức Phật sự sống của nó trong tay ta, nếu ta không tha cho nó thì
hoá ra ta không có từ tâm và như vậy đã phụ lòng đấng từ bi. Thôi được, ta và
ngươi vào lạy trước Phật đài, bằng lòng trả lại sự sống cho nó. Từ đây ngươi
phải giữ kín việc này, nếu không ta và ngươi sẽ bị họa lớn.
Lạy xong, quan bộ hình sai lính canh mở trói cho
tên tử tù, ông dặn hắn từ nay về sau đừng làm điều tội lỗi nữa và đừng cho ai
biết việc này. Tên tử tù cúi đầu tạ ơn và vội vàng đi khỏi xứ ấy, tìm đến một
xứ xa sinh sống. Còn quan bộ hình trở về phao tin là tên tử tù đã vượt ngục.
Chẳng bao lâu câu chuyện quan bộ hình tha chết cho tên tử tù đến tai quan bộ
binh. Quan bộ binh mừng rỡ vì đã có cớ để trừ khử quan bộ hình.
Một hôm, đến ngày lễ lớn, vua và các quan đang đặt
bát cho các nhà sư thì có một đàn quạ bay đến hoàng cung. Chúng đậu trên nóc
hoàng thành và kêu ầm ĩ những tiếng kêu buồn bã. Vua lấy làm lạ, hỏi bá quan.
Quan bộ binh được dịp bèn tâu: - Muôn
tâu thánh thượng. Tất cả mọi người không ai có thể nghe được tiếng của loài
chim nên không sao rõ được. Ở đây chỉ có quan bộ hình đã học được nghề ấy của
tên tử tù và quan đã tha "ông thầy" của mình trốn khỏi tội chết chém.
Nếu bệ hạ không tin điều đó xin cho đòi quan bộ hình đến thì biết ngay.
Vua truyền lệnh đòi quan bộ hình đến hỏi lại sự
việc cũ rồi bảo quan bộ hình đi nghe đàn quạ nói những gì. Quan bộ hình thoạt
tiên rất lo lắng nhưng ông giả vờ đi ra sân lắng tai nghe tiếng quạ. Biết quan
bộ binh hại mình, lát sau ông trở vào tâu: - Muôn
tâu thánh thượng, đàn quạ đậu trên nóc hoàng thành là đàn quạ ở trong thành từ
trước đến nay. Còn quạ đậu trên cành cây là đàn quạ từ các tỉnh thành mới bay
về đây. Chúng nói với nhau và than trách rằng năm nay cuộc sống của người dân ở
các tỉnh thành rất khốn khổ nên họ không đi làm phước ở chùa như mọi năm. Chúng
bảo mấy năm trước dân chúng no đủ nên đem bánh trái dâng cho sư sãi ê hề. Phần
còn dư người ta lại đem bố thí cho loài vật, trong đó có cả quạ. Nhưng năm nay
quan bộ binh lộng quyền cho lính đi thu vén hết tất cả lúa, ngô, khoai của dân.
Dân chúng không dám chống lại nên đành phải chịu đói khổ cùng cực. Do vậy đàn
quạ ở các tỉnh mới bay về đây nhờ đàn quạ ở hoàng thành tâu lên với hoàng
thượng.
Vua nghe qua cả giận cho người đi dò xem thực hư
ngoài dân dã thì quả đúng như lời tâu của quan bộ hình. Vua truyền lệnh cắt
chức quan bộ binh đuổi về quê cày ruộng và phong cho quan bộ hình làm thừa
tướng.
24.
NGẬM NGẢI TÌM TRẦM
Ngày xưa, trên một vùng núi cao tại một tỉnh Đàng
trong, có hai vợ chồng nhà nọ đến sinh cơ lập nghiệp. Họ cũng trồng lúa bắp,
chăn nuôi gà lợn và săn chim bắt thỏ như những nhà khác. Nhưng nhờ của cải của
bố mẹ để lại họ sống vui vẻ phong lưu. Vì thế tuy có vất vả, hai vợ chồng vẫn
vui thú với đứa con trai lên năm tuổi. Đột nhiên, một hôm có một người bạn cũ
đến thăm. Hai người đàn ông lâu ngày không gặp, tay bắt mặt mừng. Người bạn
nói: "Nghe nói anh chị rời đến đây ở đã lâu, nay có việc đi qua lối này
tôi mới ghé qua thăm được. Sẵn có cặp ngỗng mang đến biếu anh chị".
Chủ nói: "Bấy lâu nay vợ chồng chúng tôi ở đây không hề có tin tức gì
của anh cả?". "Tôi chẳng nghề ngỗng gì cả. Chẳng giấu gì anh
từ lâu tôi đã tu tiên để mong đắc đạo. Trong năm năm ngồi tù cẳng một nơi, bây
giờ có việc phải lên núi". "Lên núi để làm gì". "Để tìm
trầm, phải có trầm đốt khi muốn đạt một lời cầu nguyện. Trầm sẽ đưa lời cầu
nguyện đến cung Tam Thanh. Nhờ đó "Chư tiên"
mới biết được điều ước của mình và sẽ cho mình như nguyện". Chủ lại
hỏi: "Núi rừng trùng điệp, cây cối hàng ngàn, làm sao mà tìm cho ra
trầm?" Khách đáp: "Khó
gì, tìm trầm phải ngậm ngải". Nói rồi khách móc trong tay ra gói nhỏ
bọc vải điều, giở ra lấy ngải cho bạn xem rồi nói: "Đây! Ngải tôi đã
luyện, trải qua bao nhiêu năm nay mới thành. Chỉ cần ngậm một tí ngải này, có
thể đi suốt năm trong rừng sâu, không sợ hùm beo rắn rết làm hại, không cần
phải ăn uống gì cả, lại có hy vọng được "Chư tiên" phù hộ giúp cho
tìm được trầm. Lúc đó thì có thể cầu được ước thấy, trường sinh bất lão".
Chủ nhân thấy bạn cũ tu luyện sắp thành công, có
thể cầm chắc sự phú quý trong tay, thì hoa cả mắt. Hắn cầm lấy ngải nâng lên đặt
xuống mấy lần, bụng bảo dạ: "Chà, chỉ cần một tí thuốc này có thể cầu
được ước thấy, trường sinh bất lão, sung sướng biết bao nhiều". Vui,
hắn cũng kể cuộc sống của mình trong mấy năm qua cho bạn nghe, rồi giục vợ làm
khoản đãi. Trong mấy ngày cầm khách ở lại, vốn biết tính khách thích chơi cờ,
chủ nhân lấy ra một bộ cờ bằng ngà rồi mời đánh. Hắn chọn một con cờ đưa cho
bạn, rồi nói: Bộ cờ này của
tiền nhân tôi để lại bằng ngà rất quý. Nhưng chúng không quý bằng con tốt này.
Nó bằng ngọc bích không mảy may tì vết, mà bao giờ cũng sáng óng ánh, kể cả khi
để trong xó tối. Khách cầm lấy con cờ bằng ngọc xem đi xem lại, thấy quả là
của quý, hiếm có ở trên thế gian thì tắc lưỡi khen thầm, đoạn nhủ: "Làm
sao ta có được một viên như thế để dâng lên lão tổ..." Tuy hai bên suy nghĩ nước cờ nhưng
trong bụng người nào cũng tìm mưu lập kế chiếm đoạt của nhau: một bên muốn làm
chủ gói ngải, một bên muốn có con cờ bằng ngọc bích.
Ngày chia tay đã đến. Giữa hai chủ khách đang
"vượt xe, thách pháo" thì bỗng có tiếng gọi của vợ, chủ vội đi vào
nhà trong. Sau đó một tiệc rượu bưng ra, trong khi thu dọn cờ, khách đã giấu
biến con cờ bằng ngọc vào trong tay áo. Nhưng khách không ngờ chính mình cũng
bị tước đoạt. Sau khi chén chú, chén anh được một chốc, khách nằm vật xuống bên
trường kỉ. Thấy người bạn đã bị mấy chén rượu pha thuốc của mình làm gục, chủ
nhân bèn lục tay nải chọn lấy gói ngải, rồi lật đật đi ra không kịp giã từ vợ
con.
Khách ngủ một giấc đến hai ngày sau mới tỉnh dậy.
Hắn ta giật mình khi sờ vào tay nải không thấy gói ngải quý đâu nữa, tìm bạn,
bạn cũng đi mất đường nào, hỏi vợ con bạn cũng không ai biết đâu mà trả lời,
khách bèn lủi thủi ra đi, quyết tìm bạn để đòi lại vật quý. Từ núi này sang núi
nọ, khách trèo không nghỉ, nhưng tuyệt nhiên không thấy kẻ bất lương. Một hôm,
hắn trèo lên một đỉnh núi cao để phóng tầm mắt nhìn ra xa, nhưng chẳng may
trượt chân rơi xuống dốc, viên ngọc văng ra hoá thành đá, thân hắn hoá thành
cây, rễ cây luôn luôn quặp chặt lấy đá như muốn bảo vệ của quý.
Còn về phía chủ nhân khi bước chân ra đi, nghe theo
cách bày vẽ của bạn, hắn cũng bỏ ngải vào miệng để tìm trầm nhưng hắn đi mãi,
vượt qua trăm núi ngàn khe mà trầm đâu chẳng thấy. Khi bụng đã chán nản muốn
quay trở về thì khốn nỗi lại quên mất lối. Năm này qua năm khác, gói ngải dần
dần chỉ còn lại có một tí bằng cái móng tay. Hắn đâu có ngờ rằng nếu ngải tan
hết thì con người sẽ hoá thành hổ. Lúc này da hắn lông đã mọc tua tủa thay cho
những chỗ quần áo rách bươm, rồi một hôm hắn biến thành một con hổ xám.
Lại nói chuyện vợ con hắn ở nhà trông đợi mỏi mắt.
Nước mắt của hai mẹ con mỗi ngày chảy một ít đã xói đất thành suối. Cuối cùng,
ngày lụi tháng qua, hai mẹ con đã biến thành đá cùng với gia súc và các đồ dùng
quen thuộc.
Về sau, hổ xám ta cũng tìm được về nhà cũ. Từ đằng
xa nhìn thấy bóng vợ con, cả con chó, con gà đang quanh quẩn bên cạnh, hổ lấy
làm mừng rỡ, bèn ba chân bốn cẳng chạy nhanh. Nhưng khi biết vợ con và gia súc
đã hoá thành đá thì nó lồng lộn, gầm lên mấy tiếng đau xót, rồi bỏ đi biệt.
Ngày nay ở quận Khách Dương, tỉnh Khánh Hoà, còn có
núi đá gọi là núi mẫu tử. Nổi bật là một hòn đá dựng bên cạnh có một hòn nhỏ
hơn. Người ta nói đó là hai mẹ con. Xung quanh còn có nhiều hòn khác nằm rải
rác, người ta nói đó là con chó, con gà, cái rổ may, và sợi chỉ, cái cối xay, cối
giã, cái chày, cái sàng, cái chổi... lại còn một tảng đá khác vuông vắn, người
ta gọi đó là bàn cờ có nhiều quân nhưng thiếu mất con tốt. Gần đấy có một dòng
suối gọi là suối Tên, nước không bao giờ cạn, người ta nói đó là do nước mắt
của hai mẹ con khơi thành, trên dòng suối thỉnh thoảng có bóng một cặp ngỗng
vùng vẫy, người ta cho rằng dòng dõi của cặp ngỗng mà khách mang đến biếu, sở
dĩ chúng không hoá đá là vì gia súc quen thuộc của chủ.
Còn ở tỉnh Phú Yên, trên núi Tịnh Sơn có một hòn đá
gọi là con cờ, người ta cho đó là con tốt bằng ngọc trong tay áo khách văng ra.
Bên cạnh là một cây cổ thụ to, rễ mọc chi chít, nhưng rễ cây bao giờ cũng quấn
chặt lấy đá, người ta nói đá là người bạn biến thành.
25.
TẤM CÁM
Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Mẹ Tấm
chết từ hồi Tấm mới biết đi. Sau đó ít năm, người cha cũng chết. Tấm ở với dì
ghẻ là mẹ của Cám. Tấm làm lụng suốt ngày, còn Cám được mẹ nuông chiều, chơi
dông dài ngày nọ qua ngày kia.
Một hôm, mẹ Cám đưa cho Tấm và Cám mỗi chị em một
cái giỏ, ra đồng hớt tép, ai đầy giỏ thì được thưởng một cái yếm đỏ. Tấm ra
đồng không quản trời nắng, mải miết hớt được đầy một giỏ vừa tôm vừa tép. Còn
Cám nhởn nhơ hết bờ này bụi nọ, hái hoa, bắt bướm, trời đã về chiều mà giỏ của
Cám vẫn chưa có tí gì. Thấy Tấm giỏ đầy tép, Cám bảo chị: Chị Tấm ơi chị Tấm, đầu chị lấm,
chị hụp cho sâu kẻo về dì mắng. Tấm tin là thật, xuống ao, ra tận chỗ sâu
tắm rửa. Tắm xong, Tấm lên bờ, sờ đến giỏ tép chỉ còn giỏ không. Cám đã trút
hết giỏ tép của Tấm vào giỏ của mình và về trước mất rồi.
Tấm ngồi xuống bờ ruộng, bưng mặt khóc nức nở. Thốt
nhiên, Tấm thấy ánh sáng ngời trước mặt... Bụt hiện lên hỏi: Làm sao con khóc? Tấm kể sự
tình cho Bụt nghe, Bụt bảo: Con thử tìm xem trong giỏ còn gì không? Tấm nhìn
vào giỏ và thưa: Chỉ còn một
con cá Bống thôi ạ. Bụt bảo Tấm: Con
đem cá Bống về thả xuống giếng mà nuôi: mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai
bát, còn một thì đem cho Bống. Mỗi lần cho ăn thì con nhớ gọi: "Bống bống
bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người".
Dứt lời, Bụt biến mất. Tấm theo đúng lời Bụt dặn, mỗi bữa ăn, Tấm bớt một bát
cơm, giấu đi đem cho Bống ăn. Mỗi lần nghe tiếng gọi là Bống lại ngoi lên mặt
nước, đớp kì hết cơm rồi mới lặn.
Thấy sau bữa ăn nào Tấm cũng ra giếng, mụ dì ghẻ sinh
nghi, sai con đi rình. Một lần kia, sau bữa ăn, Cám ra giếng, nấp sau một bụi
cây. Nghe Tấm gọi Bống, Cám nhẩm cho thuộc, về kể cho mẹ nghe. Sáng hôm sau, mẹ
Cám nắm sẵn một nắm cơm, gọi Tấm đến đưa cho và dặn rằng: Con ơi, con! Hôm nay, chăn trâu thì
chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu. Tấm vâng lời dì ghẻ, cho
trâu đi ăn thật xa, ở nhà hai mẹ con Cám đem bát cơm ra giếng, cũng gọi Bống
như Tấm đã gọi. Bống nổi lên mặt nước, hai mẹ con Cám vội bắt lấy đem về nhà
làm thịt. Đến chiều Tấm dắt trâu về. Cũng như mọi lần ăn xong, Tấm đem cơm cho
Bống. Tấm đứng bên bờ giếng gọi mãi mà mặt nước vẫn phẳng lặng, không thấy Bống
đâu cả. Một lúc sau, một cục máu nổi lên, Tấm bưng mặt oà khóc. Giữa lúc ấy,
Bụt hiện lên, hỏi Tấm: Sao con
khóc? Tấm kể hết sự tình, Bụt
bảo: Con Bống của con, người
ta ăn thịt mất rồi. Con về nhà nhặt lấy xương nó, kiếm một cái lọ mà đựng, rồi
đem chôn ở bốn chân giường. Về
nhà, Tấm tìm mãi không thấy được cái xương nào. Con gà thấy thế, kêu: Cục ta cục tác cho ta nắm thóc ta
bới xương cho! Tấm bốc một nắm thóc cho gà. Gà vào bếp bới một lúc thì
xương Bống phơi lên hết trên mặt tro. Tấm nhặt bỏ vào bốn cái lọ, đem chôn ở
bốn chân giường.
Dì ghẻ bắt Tấm làm việc mỗi ngày một nhiều, còn hai
mẹ con mụ thì ăn trắng mặc trơn, không hề nhúng tay vào một việc gì cả. Được ít
lâu, có tin vua mở hội. Hai mẹ con Cám hí hửng sắm sửa quần lành, áo tốt, còn
Tấm thì vẫn quần áo rách mướp. Đến ngày hội, mẹ con Cám lấy một đấu gạo trộn
với một đấu thóc, bảo Tấm rằng: Phải
nhặt cho xong mớ gạo lẫn thóc này mới được đi xem hội. Dặn xong, mụ tất tả đưa con gái đi
ngay.
Ngồi nhặt thóc được một lúc, Tấm bực dọc, tủi thân,
oà lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: Sao
con khóc? Tấm thưa: Hôm nay là ngày hội, dì con đem
thóc trộn với gạo, bắt con nhặt hết thóc rồi mới được đi xem... Bụt bảo Tấm: Để ta sai một đàn chim sẻ xuống
nhặt thóc giúp con. Đàn chim
sẻ sà xuống kêu ríu rít, nhặt thóc ra đằng thóc, gạo ra đằng gạo. Chỉ trong
chớp mắt đàn chim đã nhặt xong. Nhưng nhìn thấy bộ quần áo rách như xơ mướp của
mình, Tấm tủi thân muốn khóc. Bụt lại hiện lên bảo Tấm: Con hãy đào bốn cái lọ ở dưới chân
giường thì sẽ có quần áo để mặc. Tấm đào các lọ lên thì thấy có đủ cả quần
áo, khăn, giày đẹp đẽ. Một bộ quần áo mới ba màu quan lục, màu hoa đào, màu
hoàng yến, một cái yếm màu hoa hiên, một cái quần nhiễu điều, rồi nào thắt lưng
hoa đào, khăn nhiễu tam giang. Đến đôi giày văn hài thì thật xinh xẻo, chỉ đôi
chân bé nhỏ của Tấm thì mới đi vừa. Tấm mặc cả quần áo, nong giày vào chân,
thấy thứ nào cũng đều vừa cả. Tấm lại lấy ở trong lọ ra một con ngựa bé tí tẹo.
Tấm vừa đặt con ngựa xuống đất thì nó hí lên một tiếng rồi lớn lên bằng con
ngựa thật, có đủ cả yên cương.
Vui sướng quá, Tấm tắm rửa sạch sẽ, rồi thay bộ
quần áo mới vào, cưỡi ngựa đi xem hội. Đến chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày
xuống nước, Tấm vội xuống ngựa mò mãi mà không thấy. Một lúc sau, voi của vua
đi đến chỗ lội, cứ gầm lên không chịu đi. Vua sai lính hầu thử xuống nước mò
xem thì nhặt được một chiếc giày văn hài thật xinh xẻo. Vua ngắm nghía chiếc giày
thấy rất vừa ý. Vua truyền lệnh hễ trong đám đàn bà, con gái đi xem hội, ai ướm
thử vừa chiếc giày này thì vua sẽ cưới làm vợ.
Đàn bà, con gái trong đám đi xem hội chen nhau đến
ướm thử chân. Cả hai mẹ con Cám cũng đến thử, nhưng không vừa chân ai cả. Đến
lượt Tấm xin đến thử, thì vừa vặn xinh. Chiếc giày văn hài mà lính của nhà vua
nhặt được cùng với chiếc giày mà Tấm cầm ở tay cùng đúng một đôi.
Cám đứng ngoài xem, thấy một người con gái tươi
giòn rõ là Tấm, liền gọi mẹ bảo rằng: Mẹ
ơi mẹ, trông ai như chị Tấm nhà ta! Mẹ
nó bảo: Chuông khánh còn chẳng
ăn ai, Nữa là mảnh chĩnh ném ngoài bờ tre. Chị Tấm nhà mày làm gì có quần áo
đẹp mà đến đây! Đến khi quân
lính đem kiệu đến rước Tấm về cung, hai mẹ con Cám sán đến gần xem, mới biết
đích là Tấm. Hai mẹ con đều lấy làm lạ, không biết Tấm đã lấy được quần áo ở
đâu mà đẹp thế.
Vào cung vua, Tấm rất sung sướng, nhưng Tấm vẫn còn
nhớ con trâu mình thường chăn dắt trên đồng cỏ xanh, nhớ ruộng vườn mình còn
chăm sóc những ngày sương thu, nắng hạ. Nhân ngày giỗ cha, Tấm xin phép vua về
thăm nhà.
Thấy Tấm bây giờ sung sướng, mụ dì ghẻ rất ghen
ghét, nhưng ngoài miệng thì niềm nở, vui cười. Mụ bảo Tấm: Con trèo lên cây cau, xé lấy một
buồng để cúng bố. Tấm vâng lời, trèo lên cây. Tấm đang mải với tay để xé
buồng cau thì mụ dì ghẻ ở dưới chặt gốc cây. Thấy cây rung mạnh, Tấm hỏi, mụ
trả lời: Dì đuổi kiến cho con
đấy mà! Cây cau gãy, Tấm ngã
lộn xuống ao chết. Mụ dì ghẻ lột hết quần áo của Tấm, mặc vào cho Cám và đưa
con gái mình vào cung vua, nói Tấm không may bị ngộ cảm chết, nên đưa em vào
thay chị.
Tấm hoá thành chim vàng anh, bay thẳng vào cung
vua. Vua đi đâu, chim cũng bay theo. Thấy Cám thua chị đủ mọi bề, và thấy con
chim quấn quýt quanh mình, vua thương nhớ Tấm, bảo chim vàng anh rằng: Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh,
chui vào tay áo. Vừa dứt lời,
chim vàng anh chui tọt vào tay áo vua.
Một hôm, trong khi Cám giặt quần áo cho vua, chim
vàng anh đậu ở cành cao, bảo nó: Giặt
áo chồng tao, thì giặt cho sạch, phơi áo chồng tao, thì phơi bằng sào, chớ phơi
bờ rào, rách áo chồng tao. Nghe
chim kêu, Cám vừa lo sợ vừa tức giận. Vua rất yêu chim, cho chim ở trong lồng
son, đi đâu cũng xách đi theo. Thấy thế, Cám càng thêm ghét chim.
Một hôm, Cám về nhà chơi, đem chuyện kể với mẹ. Mẹ
nó bảo: bóp chết con chim đi,
đem nướng cho mèo ăn, rồi chôn lông chim đi cho mất tích. Về cung vua, Cám rình lúc vắng, bóp
chết chim vàng anh, nướng cho mèo ăn, còn lông chim đó đem chôn sâu ở ngoài
vườn, đúng như lời mẹ nó dặn. Chẳng bao lâu, ở chỗ chôn lông chim mọc lên một
cây xoan đào, cây lớn rất mau, cành lá sum suê. Vua thấy cây xoan đào đẹp liền
mắc võng vào cây nằm nghỉ. Cứ mỗi khi nằm dưới cây xoan đào, vua như thấy hình
ảnh của Tấm hiện ra trước mắt, nên càng vấn vít với cây, không thiết gì đến
Cám. Cám không nói nhưng trong lòng ghen lồng ghen lộn. Nhân một ngày vua lại
đi vắng, Cám chặt cây đi, lấy gỗ xoan đóng khung cửi. Trong khi Cám ngồi dệt
vải, con ác bằng gỗ trên khung cửi kêu: Cót
ca cót két, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra! Nghe con ác kêu, Cám sởn cả tóc
gáy, vội ném thoi đi không dám dệt nữa. Cám lại kể với mẹ, mẹ nó bảo: - Đốt khung cửi đi và đem tro đi đổ
thật xa. Cám đốt khung cửi đi, rồi đem đổ bên đường thật xa cung vua.
Ở đống tro bên đường, không lâu sau mọc lên một cây
thị lớn, cành lá sum suê. Cây thị ra nhiều hoa, nhưng chỉ đậu có một quả to ở
một cành cao vút.
Gần đó, có một bà cụ bán hàng nước rất hiền hậu,
mỗi khi đi qua dưới gốc cây thị, bà lại ngửng đầu lên nhìn quả thị tấm tắc
khen: Sao mà thị đẹp thế.
Một hôm, bà thấy quả thị đã chín vàng, bà cụ đứng tần ngần dưới gốc cây giơ bị
ra hứng, nói lầm rầm: Thị hỡi
Thị hời! Thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi, chứ bà không ăn. Bà cụ nói dứt lời thì quả thị rụng
ngay vào giữa bị. Bà cụ đem thị về nâng niu trên tay. Đêm ngủ, bà để thị ở đầu
giường. Ngày nào đi chợ bà cũng dặn: Thị
ở coi nhà, để bà đi chợ, mua quà Thị ăn. Bà
cụ vừa đi khỏi nhà thì một cô gái bé tí từ trong quả thị chui ra, và trong phút
chốc, cô bé đã trở thành cô Tấm xinh đẹp. Tấm quét dọn nhà cửa sạch sẽ, làm cơm
canh để phần bà cụ. Lần nào đi chợ về, bà cụ thấy mọi thứ đều ngăn nắp, có sẵn
cơm dẻo, canh ngọt để phần.
Một hôm bà cụ giả vờ đi chợ, rồi rón rén trở về nấp
ngoài cửa. Tấm lại ở trong quả thị chui ra như mọi lần, thu va thu vén trong
nhà. Nhìn thấy một người con gái xinh đẹp mà lại hay làm như thế, bà cụ sung
sướng quá, chạy ngay vào ôm chầm lấy Tấm và xé toạc vỏ thị đi. Từ đó, Tấm ở lại
với bà cụ hàng nước, hai người thương nhau như hai mẹ con, người ngoài không ai
hay biết, tưởng Tấm là con gái bà cụ mới ở xa về. Bao nhiêu công việc gói bánh,
têm trầu, Tấm đều làm hết. Chỉ riêng việc bán hàng, mời khách là Tấm để bà cụ
trông coi.
Một hôm, vua đi qua, thấy quán nước sạch sẽ, ghé
vào ngồi nghỉ. Bà cụ rót nước, đưa trầu vua ăn. Thấy trầu têm cánh phượng rất
khéo, giống hệt như miếng trầu vợ mình têm ngày xưa, vua liền hỏi bà cụ: Trầu này ai têm? Bà cụ đáp: Con gái già têm. Vua ngỏ ý muốn
gặp con gái bà cụ. Bà cụ gọi Tấm ra, vua nhận ra ngay vợ mình. Vua kể rõ sự
tình với bà cụ và xin đón Tấm về cung. Còn mẹ con mụ Cám, do sợ vua trừng trị
nên vội dắt nhau bỏ trốn, giữa đường cả hai mẹ con đều bị sét đánh chết.
26.
CHUYỆN CHÀNG TỪ THỨC
Thời xưa ở Thanh Hoá, có một người tên là Từ Thức,
vốn con quan nên được bổ nhiệm làm một chức quan nhỏ ở một địa hạt thuộc xứ
Kinh Bắc. Cạnh huyện có một ngôi chùa to, trong chùa có một cây mẫu đơn lớn. Cứ
đến mùa xuân hoa nở thì khách bốn phương đến chùa xem hoa đông như hội.
Một hôm, có một thiếu nữ tuổi chừng mười sáu, mười
bảy, nhan sắc xinh đẹp, đến xem hoa, nhỡ tay vịn gãy một cành, không có gì để
đền, nên bị nhà chùa bắt giữ lại. Từ Thức đi qua trông thấy, liền cởi áo mặc
ngoài chuộc cho thiếu nữ. Mọi người đứng xem đều khen Từ Thức là người nhân
đức.
Đi ngao du, xem phong cảnh đẹp và làm thơ thì Từ
Thức rất ưa thích, còn việc quan thì chàng thường bỏ mặc, nên bị quan trên quở
trách. Chẳng bao lâu Từ Thức xin từ quan. Thấy huyện Tống Sơn có nhiều núi đẹp,
chàng đem theo một tiểu đồng và một túi đàn đến dựng một nhà nhỏ ven chân núi
để ở. Từ ấy, những nơi phong cảnh đẹp quanh vùng không nơi nào là không có vết
chân của Từ Thức.
Một hôm, dậy sớm, trông ra cửa Thần Phù thấy có mây
ngũ sắc kết thành hình hoa sen. Từ Thức một mình chèo thuyền ra phía ấy. Đến
chân một dãy nũi cao ngất, chạy sát mặt biển, Từ Thức buộc thuyền lên bờ và
trèo lên một mỏm đá cao, chợt trông thấy một cái hang bên sườn núi, cửa hang
tròn và rộng, chàng thử vào hang xem sao. Từ Thức mới đi được vài bước thì cửa
hang bỗng đóng sập lại. Hang tối mịt mùng, không còn biết đường lối nào, Từ
Thức phải lần theo khe nước mà đi. Đi được một lúc lâu, thấy có ánh sáng, chàng
lần ra khỏi hang và đi đến một chân núi khác. Thấy núi cao vời vợi, sườn núi
dốc ngược, Từ Thức cố bám vào hốc đá và leo lên. Lên cao, chàng thấy có đường
rộng, rồi lên đến đỉnh núi thì trời quang đãng, ánh sáng rực rỡ, xa xa có lâu
đài cung điện nhấp nhô bên những lùm cây xanh. Từ Thức đi theo đường lớn đến
một lâu đài. Bỗng có hai thiếu nữ mặc áo xanh chạy ra, bảo với nhau rằng:
"Chú rể nhà ta đã đến kia kìa!" Rồi hai người chạy vụt vào toà
nhà lộng lẫy. Một lúc sau, hai người lại ra, nói với Từ Thức rằng: - Phu nhân sai chúng tôi ra mời người
vào chơi.
Từ Thức đi vào theo hai người con gái, thấy lầu son
gác tía, tường gấm, bậc đá xanh, trước kia chàng chỉ thấy nói trong sách, bây
giờ mới trông thấy tận mắt. Trên mấy cửa đi qua, chàng thấy có đề chữ
"Điện Quỳnh Hư", "Gác Giao Quang", chàng theo hai thiếu nữ
lên gác, thấy một phu nhân mặc áo lụa trắng ngồi trên sập thất bảo, trước có kê
đôi kỉ gỗ đàn hương. Phu nhân mời Từ Thức ngồi và hỏi: - Ông vốn hay đi xem cảnh lạ, có biết
đây là chốn nào không? Từ
Thức đáp: - Tôi đã đi nhiều
nơi, nhưng không biết vùng này lại có cảnh tiên, xin phu nhân chỉ bảo cho tôi
được biết. Phu nhân cười, rồi nói: - Ông
biết đâu được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba mươi sáu động Phi Lai, tôi
là Nguỵ phu nhân, địa tiên núi Nam Tạc. Vì thấy ông có cao nghĩa nên mới mời
đến chơi. Phu nhân bảo thị nữ
gọi một tiểu thư ra. Vừa trông thấy, Từ Thức nhận ra là người con gái đánh gẫy
cành hoa mẫu đơn trong chùa ngày nọ. Phu nhân chỉ vào người con gái bảo Từ Thức
rằng: - Em nó tên là Giáng
Hương, dạo nọ đi xem hoa gặp nạn, may có ông cứu cho, tôi vẫn còn hàm cái ơn
ấy. Nay tôi muốn cho em nó kết duyên với ông để đáp lại ơn sâu. Ngay đêm hôm ấy, phu nhân sai mở tiệc
hoa cho hai người làm lễ thành hôn.
Từ Thức ở được chừng một năm, có ý nhớ nhà, nói với
Giáng Hương rằng: Tôi đi xa
nhà đã lâu, lắm lúc nhớ quê cũ, muốn về thăm một chút. Giáng Hương tần ngần, không đáp.
Từ Thức lại nói: Tôi chỉ về
chơi ít bữa lại đến đây với nàng. Giáng Hương khóc mà nói rằng: Thiếp không phải vì tình lưu luyến
hẹp hòi mà ngăn trở ý định của chàng, chỉ vì ở trần gian ngày tháng ngắn ngủi,
sợ chàng về nhà không thấy còn như trước nữa. Giáng
Hương đem chuyện nói với phu nhân. Thấy Từ Thức trần duyên chưa dứt, phu nhân
mới sai người lấy xe để tiễn đưa chàng. Giáng Hương lấy một phong thư dán kín
đưa cho chồng, dặn đến nhà hãy mở ra xem.
Từ Thức từ biệt Giáng Hương và phu nhân, rồi lên
xe, chỉ trong chốc lát đã trở về đến làng cũ. Nhìn phong cảnh chàng thấy khác
hẳn xưa, chỉ còn hai bên khe núi là vẫn như xưa. Chàng đem tên mình hỏi thăm
các cụ già trong làng thì có một cụ trả lời: Hồi
nhỏ, tôi cũng nghe có một cụ tổ bốn đời nhà tôi họ tên cũng như thế, nhưng lạc
vào hang đá cách đây đã hai trăm năm rồi. Từ Thức buồn rầu, muốn lại ngồi
lên xe tiên để đi, thì xe đã hoá thành con chim Loan bay đi mất rồi. Mở bức thư
của Giáng Hương ra xem, chàng chỉ thấy có một dòng chữ vắn tắt: "Ở nơi
tiên cảnh, cùng nhau kết bạn, nay duyên xưa đã hết, không còn mong hội ngộ".
Về sau, người ta thấy Từ Thức đội cái nón nhỏ vào
núi Hoàng Sơn (Nông Cống - Thanh Hoá), không thấy trở về nữa.
27. HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
Ngày xưa, có một người tên là Trương Ba, còn trẻ
tuổi nhưng đánh cờ tướng rất cao. Nước cờ của anh chàng không mấy ai trong
thiên hạ địch nổi. Bao nhiêu giải cờ trong những hội hè mùa xuân đều về tay
anh. Tiếng đồn vang khắp nước, sang tận nước Trung Quốc. Thời ấy ở Trung Quốc
có ông Kỵ Như cũng nổi tiếng cao cờ. Khi nghe tiếng Trương Ba, Kỵ Như liền xách
khăn gói sang nước Nam tìm đến tận nhà tỉ thí. Hai người đo tài với nhau hai
ván liền không phân thắng thua. Nhưng đến ván thứ ba, Trương Ba dồn Kỵ Như vào
thế bí. Thấy đối phương vò đầu suy nghĩ, Trương Ba kiêu hãnh bảo: Nước cờ này
dù có Đế Thích xuống đây cũng đừng hòng gỡ nổi.
Bấy giờ Đế Thích là thần cờ đang ngồi trên thiên
đình, bỗng nghe câu nói hỗn xược của Trương Ba xúc phạm đến mình, liền cưỡi mây
xuống trần định cho y biết tay. Trương Ba và Kỵ Như đang đánh, chợt có một ông
cụ già đến ngồi cạnh bàn cờ, ông cụ thủng thỉnh mách cho Kỵ Như mấy nước. Phút
chốc Kỵ Như chuyển bại thành thắng. Trương Ba cau có, trong bụng tức giận ông
già ở đâu đến làm cho mình lâm vào thế bí. Nhưng nhìn thấy ông cụ râu tóc trắng
xoá, mặt mũi không có vẻ là người trần chàng chợt hiểu, liền sụp lạy nói rằng:
"Ngài hẳn là thần Đế Thích đây rồi, tôi là người trần mắt thịt không
biết, xin thứ lỗi". Đế Thích cười bảo: "Ta nghe nhà ngươi tự
phụ là cao cờ nên xuống xem cho biết". Trương Ba liền giữ Đế Thích lại
mua rượu, giết gà khoản đãi rất chu tất. Đế Thích tuy mới gặp cũng rất yêu mến
Trương Ba. Thấy anh chàng khẩn khoản muốn học nước cờ của mình. Đế Thích bảo:
"Ta thấy nhà ngươi có bụng chân thành. Vậy ta cho một bó hương này, mỗi
lần cần đến ta thì thắp lên một cây, ta sẽ xuống". Nói đoạn, cưỡi mây
bay về trời.
Từ đó, Trương Ba thỉnh thoảng lại dọn cỗ mời thần
Đế Thích xuống chơi. Hai bên rất tương đắc. Nhưng một hôm, Trương Ba bị cái
chết mang đi một cách đột ngột. Sau khi chôn cất chồng, người vợ dọn dẹp nhà
cửa. Thấy có nén nhang giắt ở mái nhà, chị ta vô tình lấy xuống đốt lên cắm
trước bàn thờ chồng, ở thiên đình, thần Đế Thích nhận được tin bằng mùi hương
liền xuống. Thấy vắng mặt Trương Ba, Đế Thích ngạc nhiên: Trương Ba đâu? Vợ Trương Ba sụt
sùi: Nhà tôi chết đã gần một
tháng nay rồi! Đế Thích bực tức: Chết nỗi! Sao lúc mới tắt thở không
gọi ta xuống liền, để đến bây giờ còn làm thế nào được nữa. Suy nghĩ một
lúc, Đế Thích lại hỏi thêm: Trong
xóm hiện nay có ai mới chết không? Vợ
Trương Ba đáp: Có một người
hàng thịt mới chết hôm qua. Thần
Đế Thích bảo chị ta dẫn mình đến nhà người hàng thịt rồi bảo nhỏ với chị:"Ta
sẽ kiếm cách làm cho chồng chị sống lại". Nói xong thần hoá phép rồi
trở về trời.
Nói chuyện trong nhà người hàng thịt lúc đó, mọi
người đang xúm quanh linh sàng khóc lóc kể lể thì tự nhiên thấy người chết ngồi
nhỏm dậy. Anh ta vét tất cả mọi đồ khâm niệm rồi chẳng nói chẳng rằng đi thẳng
một mạch về nhà Trương Ba. Vợ Trương Ba thấy người hàng thịt biết là thần Đế
Thích đã làm cho chồng mình sống lại, mừng rỡ đón vào ngay. Giữa lúc đó thì vợ
con người hàng thịt cũng chạy theo níu lấy chồng. Nhưng không những họ bị vợ
Trương Ba giằng lại, mà ngay chính chồng họ cũng nhất định không chịu về. Đôi
bên cãi cọ nhau, cuối cùng biến thành một cuộc ẩu đả rất kịch liệt. Xóm làng
không biết phân xử ra sao, đành đem việc đó đến quan.
Quan cho đòi các nhà hàng xóm tới hỏi cung thì ai
cũng bảo người sống lại đó là anh hàng thịt. Nhưng chỉ có vợ Trương Ba thì nhất
định nhận là chồng mình. Quan hỏi rằng: "Chồng chị ngày thường làm gì?"
Đáp: "Chồng tôi chỉ thạo đánh cờ thôi". Quan lại hỏi vợ hàng
thịt: "Chồng chị ngày thường làm gì?". Đáp: "Chồng tôi
chỉ thạo nghề mổ lợn".Nghe đoạn, quan sai đem một con lợn vào công
đường cho anh hàng thịt mổ. Nhưng anh ta lúng túng không biết làm thế nào cả.
Quan lại sai mấy người giỏi cờ vào tỉ thí với người hàng thịt thì không ngờ con
người đó đi những nước cờ rất cao không ai địch nổi. Quan bèn phán cho về nhà
Trương Ba.
Vì thế mới có câu hồn Trương Ba, da hàng thịt.
28.
AI MUA HÀNH TÔI
Ngày xưa, có một anh chàng trẻ tuổi chưa có vợ,
sống bằng nghề làm ruộng. Một ngày nọ, anh xách búa lên rừng đốn củi. Trong khi
đang lúi húi chặt cây, anh trông thấy một con quạ tha một con chim sẻ tới đậu
trên một phiến đá ở gần chỗ mình làm việc. Nhìn thấy thế, anh bỗng động lòng
thương con chim bé bỏng sắp sửa lọt qua miệng loài ác điểu. Anh bèn nhặt hòn đá
ném con quạ. Quạ giật mình bỏ mồi vỗ cánh bay lên. Tức mình vì hỏng ăn,
quạ chửi rủa om sòm. Anh nhặt đá ném thêm và mắng: "Đồ chim dữ, hãy cút
đi!". Quạ hậm hực bay đi, miệng còn đe doạ sẽ báo thù. Anh chàng chạy
lại nhặt con chim sẻ đang thoi thóp, cố tìm cách ấp ủ cho nó sống lại. Quả
nhiên, chỉ chừng giập bã trầu, con chim sẻ đã hồi tỉnh và bay được. Nó cảm ơn
anh và bảo anh ngồi chờ để nó đưa biếu một vật.
Một lát sau, con chim đã bay trở lại, miệng ngậm
một cái lọ nước thần "Có phép làm cho người già thì trẻ lại, vật nhỏ
thì lớn thêm, trần gian không ai có". Nói rồi, nó vỗ cánh bay đi. Anh
ngồi lại tần ngần mở nút ra xem thì thấy đầy một lọ nước mùi thơm ngào ngạt.
Anh nghĩ bụng: "Những thứ này chỉ để cho các bà quan làm đỏm",
rồi gánh gánh củi về, treo lọ lên kèo nhà. Và rồi thời gian trôi qua, vì bận
công việc làm ăn, anh cũng quên đi, không nghĩ tới cái lọ ấy nữa.
Ít năm sau, chật vật mãi anh mới cưới được vợ. Vợ
anh cũng con nhà nông, quanh năm chân lấm tay bùn nên đen đủi, xấu xí. Nhưng
hai vợ chồng thì rất thương yêu nhau.
Một hôm, chồng đi vắng, vợ ở nhà quét dọn khắp nơi.
Thấy một cái lọ con treo trên kèo nhà, chị bèn bắc ghế lấy xuống mở nút ra xem.
Khi ngửi, thấy mùi thơm, chị ta cho là dầu thơm gội đầu. Lát sau, chị lấy nước
tắm gội rồi tiện tay đổ nước ra bôi khắp tóc tai, mình mẩy. Không ngờ, sau khi
tắm gội xong, chị ta tự nhiên xinh đẹp, trắng trẻo, nhan sắc mỹ miều ít ai sánh
kịp. Nước thần trôi xuống mấy luống hành bên cạnh giếng, khiến cho những cây
hành cũng tự nhiên lớn phổng lên một cách lạ thường. Củ to như bình vôi, dọc
hành dài bằng đòn gánh.
Khi người chồng đi cày về, nhìn mặt vợ thì ngẩn cả
người cứ tưởng là tiên sa xuống cõi trần, nếu không có tiếng nói thì cơ hồ anh
ta không nhận ra vợ mình nữa. Nghe vợ nhắc đến lọ nước thơm, anh mới sực nhớ
tới chuyện báo đền của con chim sẻ ba năm về trước. Nỗi mừng biết lấy chi cân,
anh ngắm vợ mãi không chán mắt, rồi kể lại câu chuyện cũ cho vợ nghe.
Từ đấy, anh cứ quấn quýt lấy vợ không rời. Công
việc đồng áng vì thế cũng một phần bê trễ. Nhưng cứ ở nhà mãi thì đói mất nên
anh đành phải đi làm. Để khỏi nhớ vợ, anh thuê một người vẽ hình vợ, mỗi khi
anh ra đồng làm việc, anh lại treo bức tranh ở bờ ruộng để nhìn cho thoả.
Một hôm, anh đang cày ruộng, bức tranh được treo
lên một cái cọc cắm ở trên bờ. Vừa cày được mươi luống, tự nhiên con quạ năm
xưa ở đâu sà xuống quắp lấy bức tranh mang đi. Anh chàng ở bên kia bờ thấy vậy,
bèn hò hét đuổi theo nhưng không kịp. Quạ đã cất cánh bao cao và bay đi rất xa,
chỉ một thoáng là mất hút. Báo thù việc anh ném đá giành mồi của nó năm xưa,
quạ mang bức tranh vào đến tận kinh đô, thả xuống giữa sân rồng. Bọn lính thị
vệ thấy sự lạ lùng, bèn nhặt lên đem trình vua. Cầm lấy bức truyền thần, vua
ngắm nghía mãi không chán mắt, bụng bảo dạ: "Trong ba cung sáu viện của
ta đã có nhiều người đẹp, nhưng chưa có người nào đẹp bằng người đàn bà trong
tranh này. Hẳn là trời sai con quạ đến mách cho ta đây".
Lập tức vua ra lệnh cho một quan đại thần và một
trăm thị vệ phải tìm cho được người đàn bà như đã vẽ trong tranh mang về. Quan
đại thần cho người về các địa phương sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Để việc
tìm tòi có hiệu quả, chúng bày ra trò mở hội ở các vùng chúng đến để cho mọi
người đổ về xem. Mỗi lần thấy dân tập hợp đông đúc, chúng đưa bức tranh ra giả
tảng nói là tình cờ bắt được, người nào mất thì đến mà nhận.
Một hôm, chúng tới vùng quê hai vợ chồng anh chàng
có lọ nước thần và cũng bày trò mở hội ba đêm ngày. Quả nhiên anh chàng sa vào
mưu gian. Khi nhìn thấy bức tranh không đắn đo gì cả, lật đật bước tới để nhận,
nhưng anh không ngờ là bọn lính chộp lấy anh như chộp con mồi. Chúng theo ngay
anh về nhà và chúng tìm thấy ngay người đàn bà trong tranh. Mừng quá chúng vội
đưa kiệu rước về kinh đô, mặc kệ cho người chồng vật mình than khóc.
Sau khi bị bắt vào cung, người đàn bà không cười
không nói, áo đẹp không mặc, đầu không chải và không cho một ai đến gần. Đem
được người đẹp về cung, nhà vua hết sức mừng rỡ, nhưng cũng hết sức buồn phiền
vì mọi thứ dỗ dành, doạ nạt đều không làm cho người ngọc nở một nụ cười. Vua
bèn hạ lệnh hễ ai có cách gì làm cho nàng cười nói lên được, thì sẽ ban thưởng
cho quan cao lộc hậu. Nghe tin này, có nhiều người từ những vai hề nổi tiếng,
những ông trạng cười cho đến các bậc lương y, các pháp sư phù thuỷ... đua nhau
trẩy kinh, hy vọng dùng tài phép làm cho người đàn bà phải buột miệng nói cười
để mong ân thưởng. Nhưng dù đã giở đủ mọi trò, đều vô hiệu.
Lại nói chuyện anh chồng từ khi vợ bị quan quân bắt
đi thì không còn thiết làm ăn gì nữa. Khi nghe tin loan báo ai làm cho người
đẹp trong cung nói cười được thì vua sẽ ban thưởng, anh biết là vợ mình đang ở
cung vua, bèn quyết vào cung tìm vợ. Trước khi đi anh nhổ mấy củ hành ở cạnh
giếng buộc làm một gánh, quảy theo. Đến kinh đô, anh quảy gánh của mình đi lại
trước cửa hoàng cung rao to lên những câu: Dọc
bằng đòn gánh, củ bằng bình vôi. Ai mua hành tôi, thì thương tôi với.
Tiếng rao của anh vọng vào cung mỗi lúc một lớn.
Nét mặt của vợ anh tự nhiên cũng mỗi lúc một tươi. Cuối cùng, nàng quay lại bảo
thị nữ: Hãy gọi người hàng
hành vào cho ta! Khi nhìn
thấy mặt chồng, vợ anh cười lên một tiếng. Thấy người đàn bà lần đầu tiên cười
nói, vua sung sướng như mở cờ trong bụng, lại thấy những cây hành to lạ thường
thì lấy làm kinh ngạc. Vua liền nảy ra ý nghĩ muốn tự mình cải trang gánh hành
để làm vui lòng người đẹp. Vua bảo anh chồng: Hãy
đặt gánh hành lại đó và cởi áo ra mau!
Vua cởi áo long bào vứt cho anh và mặc áo của anh
vào. Vua còn bắt anh bày cho mình học thuộc câu rao, rồi quảy gánh qua lại
trước mặt người đàn bà, cất tiếng rao mới học được. Thấy vậy, vợ anh hàng hành
cười ngặt ngẽo. Vua thích thú lại càng làm già. Nhưng đột nhiên người đàn bà
bảo thị nữ thả đàn chó ra. Chó thấy vua ngỡ là người lạ liền nhảy sổ tới cắn
chết. Người đàn bà vội bảo chồng: Mình
hãy mau mau trèo lên ngai vàng đi! Anh
chồng lật đật trèo lên ngai vàng giữa lúc trăm quan và cung nữ rập đầu bái
mạng. Từ đó anh làm vua và ở với vợ trọn đời.
29.
CÔ GÁI LẤY CHỒNG HOÀNG TỬ
Ngày xưa, ở một làng nọ có một cô gái đẹp. Thấy mọi
người trầm trồ về nhan sắc của mình, cô bỗng có cái nguyện vọng thầm kín là lấy
được hoàng tử làm chồng. Ngày ngày cô đi chợ mua hương đến một ngôi đền trong
vùng cầu thần phù hộ cho mình lấy được chồng như nguyện. Ở chợ hồi ấy có một
người lái buôn hương. Thấy cô gái xinh đẹp lui tới gánh hàng của mình, hắn
thường thả lời chòng ghẹo, nhưng lần nào cũng bị cô nghiêm sắc mặt cự tuyệt.
Tuy vậy, hắn vẫn tìm cách lân la gạ chuyện không nản. Một hôm, hắn chợt có ý
muốn tìm hiểu để biết ngày nào cô gái cũng chịu khó mua hương để làm gì. Nhân
khi cô vừa mua hương xong, sắp sửa ra về, hắn vội gửi gánh hàng cho người quen
rồi lén đi theo bén gót. Thấy cô gái đi vào trong đền, hắn cũng vào theo. Nấp
sau một cánh cửa hắn nghe được tất cả những lời khấn rì rầm của nàng và hiểu
được điều nàng muốn.
Lần khác, khi cô mua hương xong hắn ba chân bốn
cẳng chạy trước tới đền, nấp sau pho tượng thần. Khi nghe cô khấn vừa dứt, hắn
nói vọng xuống giả lời phán của thần: Con gái như thế kia làm sao dám đòi lấy
chồng hoàng tử. Trên thiên đình đã định cho con làm vợ người lái buôn hương ở
chợ. Số là thế, không thể khác được. Nghe lời truyền phán rõ ràng, cô gái lủi
thủi ra về, trong bụng đinh ninh không thể tránh khỏi số trời đã định. Ngày hôm
sau, khi cô đi chợ, người buôn hương lại thả lời ong bướm, nhưng khác với các
lần trước, lần này, hắn được cô gái bắt lời. Biết mưu mẹo của mình có kết quả,
hắn hết sức tán tỉnh và cuối cùng cá đã cắn câu. Nhưng người buôn hương nghĩ
rằng mình đã luống tuổi, nếu đưa người đến dạm hỏi, chắc chắn bố mẹ nàng sẽ
không đời nào chịu gả nên tìm cách dỗ dành cô gái theo không, rồi kín đáo đưa
nàng trốn về quê. Khi thấy mười phần đã chắc ăn cả mười, hắn bèn hẹn nàng một
ngày nọ tới chờ mình ở một cái lùm cây sau chợ, hắn sẽ đưa đi trốn.
Đúng hẹn, hai người gặp nhau ở lùm cây. Người buôn
hương bảo cô gái ngồi vào trong một chiếc bồ lớn đạy mẹt và buộc chặt lại để
hắn gánh đi cùng với một bồ khác đựng hàng. Hắn ghé vào tai dặn nàng: "Làm
như thế sẽ không bị lộ, qua một thời gian anh sẽ về thú thật với bố mẹ sau''.
Cô gái nọ cả tin ở số phận nên vâng lời theo hắn không chút ngần ngại.
Đường đi phải băng qua một khu rừng vắng, có nhiều
thú dữ nhưng vì rút ngắn được khá nhiều thời gian nên gã buôn hương đành tặc
lưỡi. Trong khi người lái buôn lòng mừng khấp khởi với gánh hàng quý trên vai,
thì tiếng thét của toán lính làm cho hắn giật nẩy mình. Hắn không ngờ rằng ngày
hôm ấy, có một hoàng tử đang đi săn ở khu rừng này. Đầu cửa rừng, người ngựa,
chó săn đang vây bọc các ngả đường. Vì đang làm việc gian lận, lái hương ta sợ
quá, vội quẳng cả gánh hàng bỏ chạy. Sau đó, có mấy con chó săn đi qua bồ ngửi
thấy hơi người bèn lên tiếng cắn inh ỏi. Nghi ngờ, bọn lính dừng lại lục soát.
Khi thấy cô gái xinh đẹp ở trong bồ, bọn chúng rất đỗi kinh ngạc, vội dẫn nàng
đến gặp hoàng tử lúc đó cũng vừa phi ngựa tới nơi.
Hoàng tử bàng hoàng vì từ trước tới giờ chưa gặp
một cô gái nào lại xinh đẹp đến thế, bèn xuống ngựa bảo nàng ngồi lại chuyện
trò. Nghe cô gái kể hết nỗi lòng, hoàng tử ngỏ ý đưa nàng về cung làm vợ. Nhân
săn được con hổ, hoàng tử bèn sai bỏ con thú vào bồ đậy mẹt và buộc chặt lại
như cũ. Đoạn, ra lệnh cho mọi người trở về kinh thành.
Sau khi hoàng tử và quân lính đi xa, người buôn
hương từ chỗ trốn quay về tìm gánh hàng quý của mình. Thấy cặp bồ vẫn còn
nguyên chỗ cũ, hắn vội vã đặt gánh lên vai và vội rảo bước về nhà. Đến nơi,
người nhà xúm vào hỏi: Bồ chứa
gì mà nặng thế? Hắn đáp đùa
để hù doạ: Đừng có nhìn mà
chết. Hổ đấy! Nói đoạn, hắn
vội vào buồng đóng cửa lại. Nhưng vừa mở mẹt thì con hổ từ trong đã nhảy ra, vồ
hắn ăn thịt.
30.
CỦA THIÊN TRẢ ĐỊA
Ngày xưa, có hai người chuyên cày thuê cuốc mướn ở
cùng một làng tên là Thiên và Địa. Họ giống nhau ở chỗ anh nào cũng nghèo rớt
mùng tơi và đều mồ côi cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, Thiên rất sáng dạ, bảo gì hiểu
nấy. Một hôm Địa bảo Thiên: Nếu chúng ta cùng như thế này cả thì không biết bao
giờ mới cất đầu lên được. Sẵn anh là người có khiếu thông minh, nếu được học
hành chắc ngày sau sẽ thi đậu làm quan to. Vậy từ nay anh đừng đi làm nữa, tôi
sẽ cố sức làm thêm để lấy tiền nuôi anh ăn học. Lúc nào anh làm nên, đôi ta sẽ
chung hưởng phú quý. Thiên nhận lời nhưng Địa còn dặn: Lúc nào hiển đạt, anh
đừng có quên tôi nhé! Từ đó Địa trần lực ngày đêm làm thuê để nuôi bạn. Thấy
Thiên học mỗi ngày một tiến, anh chàng lại càng hăng hái làm việc, không quản
gì cả. Cứ như thế, sau mười năm đèn sách, Thiên đậu khoa thi hương rồi vào thi
đình đậu luôn Trạng nguyên. Hắn được nhà vua bổ làm quan to, có kẻ hầu người hạ
đông đúc, có dinh thự nguy nga, được mọi người trọng vọng.
Được tin, Địa rất sung sướng, lập tức anh chàng đem
trâu và cày về trả chủ. Rồi anh bán phăng cái nhà ở, lấy một số tiền mua đồ lễ
tìm vào dinh bạn. Địa có ngờ đâu khi tìm đến Thiên thì Thiên đã thay lòng đổi
dạ. Hắn dặn quân canh cấm cửa không cho Địa vào. Địa bị đuổi tủi thân, lủi thủi
ra về. Vừa đến bờ sông anh ngồi lại nghỉ, nước mắt rơi lã chã, nghĩ đến lòng
người đen bạc, số phận hẩm hiu và bây giờ về làng cũng không biết ở vào đâu nữa
vì nhà đã bán mất rồi. Địa lại càng buồn tủi, càng khóc hơn. Động lòng đến tai
ông Bụt. Bụt hiện lên giả làm người khách qua đường đứng lại hỏi: Con làm sao
mà khóc? Địa kể lại đầu đuôi câu chuyện cho ông nghe. Bụt bèn hoá phép cho anh
một chiếc đò và dặn rằng: Con
cứ ở đây chở khách qua lại trên sông này cũng đủ ăn, không phải đi làm thuê
nữa.
Địa nghe lời, ở lại đó làm nghề chống đò ngang.
Nhưng anh chàng chỉ kiếm vừa đủ nuôi miệng, không để dành được đồng nào cả, đến
cả ngày giỗ cha mà Địa cũng chẳng có gì để cúng. Buổi chiều hôm ấy sau khi chở
mấy người khách sang bờ bên kia, Địa vừa chèo thuyền về đến nửa sông thì lại
nghe có tiếng gọi đò. Anh cho đò quay trở lại. Người khách đó là một cô gái rất
trẻ và xinh đẹp. Trời lúc ấy nhá nhem, người con gái đó nói với Địa: Trời đã tối mà đường còn xa, anh làm
ơn cho tôi nghỉ nhờ một đêm. Nhà
Địa chỉ là túp lều bên sông, trong nhà chỉ có một cái chõng nhưng anh cũng
nhường cho người con gái đó nằm. Thấy Địa toan đi kiếm một nơi khác ngủ, người
đó bỗng hỏi anh: Anh đã có vợ
chưa? Địa trả lời: Chưa. Người con gái đó liền nói: Tôi xin nguyện làm vợ anh! Địa rất ngạc nhiên và bỡ ngỡ, không
biết trả lời thế nào thì nàng lại nói: Tôi
là người trên cung tiên. Trời thấy anh là người tử tế mà chịu khổ sở đã nhiều
rồi nên cho tôi xuống giúp anh.
Nói rồi nàng hoá phép biến túp lều bên bờ sông
thành một dinh cơ rất đẹp: Nhà ngói, tường dắc, hành lang, sân gạch, trong nhà
đồ dùng thức đựng đầy đủ, kẻ hầu người hạ từng đoàn. Địa vừa kinh ngạc vừa vui
sướng, nàng tiên lại hoá phép làm ra cỗ bàn linh đình để cho anh chàng làm giỗ
cúng cha. Sáng hôm sau nàng tiên bảo Địa hãy mặc đồ gấm vóc, ngồi kiệu đến mời
Thiên sang nhà mình ăn giỗ. Lần này Địa được Thiên tiếp đãi có phần tử tế.
Nhưng khi nghe nói mời đến nhà ăn giỗ, hắn cười khẩy bảo Địa: Chú muốn ta đến nhà chơi thì hãy
trải chiếu hoa từ đây về tới nhà, ta sẽ đến.
Địa về kể chuyện lại cho vợ nghe. Nàng tiên lại hóa
phép chiếu hoa trải một đoạn đường dài từ nhà mình đến dinh Thiên ở. Thiên
không ngờ trong thời gian vừa qua Địa cũng trở nên giàu có lớn, mới đến xem cho
biết sự tình. Đến nơi, hắn rất làm lạ khi thấy nhà cửa và mọi thứ đồ đạc của
Địa ít có một nhà nào bì kịp. Khi ăn giỗ, vợ Địa thân hành ra mời rượu, thấy
nàng đẹp quá, Thiên đâm ra ghen tị với hạnh phúc của Địa. Rượu say, hắn nói:
Chú đổi vợ chú và cơ nghiệp của chú cho tôi thì tôi nhường chức quan và dinh cơ
của tôi cho chú. Địa không bao giờ muốn như vậy, nhưng nàng tiên xui Địa bằng
lòng. Hai bên cùng làm cam kết và sau đó Địa lên võng về dinh, còn Thiên say
rượu nằm ngủ một giấc li bì. Sáng hôm sau, khi bừng tỉnh giấc, hắn ngạc nhiên
thấy mình nằm ở giữa một túp lều bên sông. Người vợ đẹp cùng dinh cơ của hắn
biến đâu mất cả. Từ đó hắn làm chèo đò thay Địa. Còn Địa, từ đó khôn ngoan hơn,
thông minh hơn và sống cuộc đời tràn đầy hạnh phúc.
Câu của Thiên trả Địa là do sự tích trên mà có.
31.
NỢ NHƯ CHÚA CHỔM
Vào thời nhà Lê, có một ông quan lớn trong triều
tên là Mạc Đăng Dung có chí muốn cướp ngôi vua. Nhà vua biết được tin đó, nhưng
thế lực của Mạc rất lớn, hắn cầm binh quyền, lại bè đảng đông nên không thể làm
gì được. Cuối cùng nhà vua lẻn trốn đi nhưng chẳng được bao lâu đã bị Mạc Đăng
Dung bắt đem về giam lại.
Hồi ấy ở gần trại giam có một cô hàng rượu vẫn
thường gánh rượu đến bán cho lính canh ngục. Một hôm, cô hàng đưa rượu vào bán,
thấy có một phạm nhân mới, mặt mũi khôi ngô, bị giam riêng ra một nơi. Khi biết
người đó là vua, cô hàng có ý muốn làm quen. Mỗi lần bán rượu cho ngục tốt nàng
đều rót rượu cho vua uống. Dần dần giữa hai người có một tình yêu nhen lên. Một
hôm, cô hàng cất một mẻ rượu rất ngon, lại có pha thuốc mê đến cho quân canh
uống. Khi thấy họ nằm gục xuống, nàng bèn vào tình tự với vua.
Từ đó cô hàng rượu có thai. Nhà vua biết mình không
thoát khỏi bàn tay tàn bạo của nhà Mạc, bèn giao ấn ngọc lại cho nàng và nói:
"Nàng giữ vật này làm dấu tích, nếu sau này đẻ con trai, nó sẽ có ngày
phục thù cho cha". Không bao lâu nhà vua quả bị họ Mạc sai người vào
ngục giết chết. Tất cả những hoàng hậu, thái tử, công chúa, phi tần của nhà vua
cũng đều bị chung số phận. Xong việc đó, Mạc chiếm lấy ngôi nhà Lê làm vua nước
Đại Việt. Cô hàng rượu được tin không còn hồn vía nào nữa. Nàng trốn đi một nơi
khác làm thuê, làm mướn sống cuộc đời lẩn lút. Đủ ngày đủ tháng, nàng sinh được
một người con trai đặt tên là Chổm. Lớn lên, Chổm được vào chùa ở với sư cụ Thạch
Toàn học kinh kệ. Hắn rất sáng dạ nhưng phải cái nghịch ngợm không ai bằng.
Một hôm, đi chơi về thấy đói, Chổm thấy trước tượng
Mụ Thiện có bày một mâm bồng đầy chuối và quýt. Anh chàng rón rén đến bệ, bịt
mắt Mụ Thiện lại và bẻ chuối ra ăn. Bất đồ sư cụ ở đâu đi vào trông thấy liền
nọc cổ Chổm ra đánh. Chổm tức lắm, chờ lúc sư cụ đi vắng lấy giấy viết mấy chữ:
"Mười tay, mười mắt không giúp được gì cho ta. Thật là vô ích. Phải đày
đi phương xa". Viết xong dán vào ngực Mụ Thiện. Đêm hôm ấy sư cụ mộng
thấy Mụ Thiện bảo rằng: "Nhà vua đói nên mới ăn, sao lại đánh ngài để
ngài đuổi ta đi. Vậy phải xin lỗi ngài để ngài tha cho ta". Tỉnh dậy,
sư cụ rất phân vân mới gọi chú tiểu Chổm vào và kể chuyện cho biết và bảo bóc
giấy đi. Sư cụ hỏi anh chàng: "Cha mày đâu?". Chổm đáp: "Tôi
lớn lên chưa từng nghe nói có cha". Sau đó Chổm trở về hỏi mẹ: "Cha
con đâu?". Mẹ sợ không dám nói sự thật cho con biết, đáp: "Cha
con họ Lê, bị hổ ăn thịt chết rồi". Nghe nói Chổm rất buồn. Từ đó anh
chàng lập tâm giết hổ để báo thù cho cha.
Một hôm, Chổm đi chơi thấy một con hổ đang ngủ dưới
hốc cây, liền cầm một hòn đá lớn ném mạnh vào đầu hổ, hổ vỡ óc chết tươi. Đang
nắm đuôi hổ về thì Chổm bỗng gặp một con hổ khác xông ra. Chổm sợ quá quẳng xác
hổ cắm đầu chạy. Khi hổ sắp đuổi kịp thì tự nhiên có một ông già tay cầm côn
sắt ở trong rừng hiện ra đánh chết con hổ dữ. Chổm thoát chết, sụp lạy ông già.
Ông già trao cho chàng cái côn, bảo: "Con hãy học một ít miếng võ mà hộ
thân". Chổm sung sướng vâng lời. Dạy xong, ông già cho Chổm cái côn
rồi đi mất.
Từ đó, Chổm dùng côn làm vũ khí tuỳ thân. Một hôm
đi qua một cái miếu. Chổm từng nghe nói có nhiều yêu quái hại người, bèn cầm
côn trèo tường nhảy vào tìm yêu quái. Một lát sau ở trong hang sâu bò ra một
con rắn lớn mắt sáng như sao, miệng phun khí độc toan vồ lấy Chổm, Chổm giơ
thẳng côn vụt lấy vụt để vào đầu rắn. Rắn chết, từ đó trong xóm được yên ổn.
Hai mẹ con Chổm về sau thấy yên lại trở về chốn cũ.
Hàng ngày anh chàng đi kiếm củi làm thuê làm mướn nuôi mẹ. Những lúc đói, Chổm
thường vào ăn cơm hay mua thức ăn ở các quán cơm tại cửa ô. Hàng nào được Chổm
vào ăn là hôm đó đắt hàng như tôm tươi, còn các nhà khác thì chỉ ngồi xua ruồi.
Người ta cho là Chổm nhẹ vía nên hàng nào cũng mời anh vào ăn, dù bán chịu cũng
được. Chổm được thể, ngày nào cũng đánh chén loang toàng và tiêu pha bạt mạng.
Toàn là ăn chịu, mua chịu, ai hỏi nợ, hắn cũng bảo: "Đến ngày tôi làm
nên, sẽ xin trả chu tất!".
Hồi bấy giờ có một ông quan khác tên là Nguyễn Kim
trốn sang Lào mưu đồ diệt Mạc. Vua nước Lào nhường cho ông miếng đất Sầm Châu
làm căn cứ để lo việc khởi nghĩa. Qua mấy năm chiêu quân mãi mã, Nguyễn Kim đã
gây dựng được lực lượng. Nhưng ông ta còn muốn tìm một người thuộc dòng chính
thống để bố cáo với thiên hạ. Khốn nỗi con cháu vua Lê đã bị nhà Mạc sát hại
hầu hết. Một đêm nọ Nguyễn Kim thấy một vị thần nhân hiện ra trong giấc mộng
bảo "Thiên tử xuất thế đã lâu sao không đón về còn chờ gì nữa".
Ông hỏi: "Ở đâu?". Vị thần nhân bảo: "Cứ đi về phía
Tây kinh thành ở dãy hàng cơm đúng ngày thìn giờ ngọ, hễ thấy rồng đen quấn
quanh cột là chính thị Thiên tử". Sau khi tỉnh dậy, Nguyễn Kim rất
mừng, bèn mang theo một ít bộ hạ cải trang đi tìm con cháu nhà Lê theo như lời
thần nhân đã mách. Hôm đó, Chổm đang ngồi ở hàng cơm, thấy mấy người khách lạ
đi qua, bèn đứng ôm lấy cột nhìn ra, Nguyễn Kim rảo qua một lượt chỉ thấy quấn
cột là một một chàng trai đen sì, nhưng thấy dáng điệu hèn hạ nên không để ý
nữa.
Đêm hôm đó Nguyễn Kim lại mộng thấy thần nhân
trách: "Ta mách cho biết Thiên tử mà không nghe, ngày mai ra bờ sông hễ
thấy ai đội mũ sắt, cưỡi thuyền rồng là đúng". Hôm sau, Nguyễn Kim
trực ở bờ sông nhìn những thuyền bè qua lại nhưng chờ mãi chả thấy ai đội mũ
sắt cả. Mãi đến gần tối có một chuyến đò ngang, trong có Chổm và một người bán
chảo gang. Gặp khi trời đổ mưa Chổm không có nón, phải mượn chiếc chảo úp lên
đầu cho đỡ ướt. Nhưng Nguyễn Kim không chú ý vì thấy y không có vẻ là người
quyền quý. Thần lại xuất hiện trong giấc mộng của Nguyễn Kim trách ông ta không
nghe lời mình rồi lại bảo: "Ngày mai cứ đến quán cơm cũ tìm người nào
đi chữ đại, trở lại chữ vương thì đón về".
Qua ngày sau Nguyễn Kim và bộ hạ lại kéo nhau đi
tìm. Họ quả thấy anh con trai hôm nọ bây giờ đang rượu say nằm trong quán cơm,
đầu gối trên ngọn côn, hai tay bỏ xuôi xuống, hai chân dạng ra hai bên. Bỏ đi
một chốc, đến lúc trở lại thấy Chổm đã cựa mình, lúc này ngọn côn trượt lên
khỏi đầu, hai tay bỏ ra trước ngực còn hai chân thì xếp bằng tròn. Bấy giờ
Nguyễn Kim mới tin chắc anh chàng này là người mà thần nhân có ý mách bảo cho
mình, bèn giả cách vào quán ăn uống, chờ Chổm dậy sẽ tiến đến làm quen.
Chổm chợt tỉnh, thấy một người khăn áo có vẻ quyền
quý đến sát chỗ mình nằm thì cầm côn chực bỏ chạy. Nhưng Nguyễn Kim đã giữ Chổm
lại thưa rằng: "Xin điện hạ đừng sợ" - "Ơ hay, điện hạ
nào. Tôi là Chổm đây!". Thấy người quyền quý ấy có vẻ ân cần khi hỏi
thăm cha mẹ và chỗ ở, Chổm an tâm trả lời: "Tôi họ Lê, cha tôi bị hổ ăn
thịt, mẹ ở nhà". Nghe nói là họ Lê, bọn Nguyễn Kim mười phần đã chắc
đến bảy tám, liền theo Chổm về đến tận nơi. Trước những người khách lạ, mẹ Chổm
nửa mừng nửa sợ. Khi biết bọn họ có thiện ý, mới đưa ấn ngọc ra và kể rõ đầu
đuôi. Thế là từ đó Chổm cùng mẹ từ giã ngôi nhà nát ở ngoại ô lên đường đến Sầm
Châu lo việc phục thù cho cha. Thanh thế quân Lê mỗi ngày một to. Vua Mạc nghe
tin sai tướng đem sáu mươi vạn quân vào đánh. Qua bao nhiêu trận kịch chiến,
quân Lê đại thắng, rồi không bao lâu quân Chổm lại đánh tiến ra Bắc, quân Mạc
hễ thấy quân Lê đến đâu là chạy trốn như vịt.
Bấy giờ Chổm đường đường là một vị chúa uy thế lẫy
lừng. Khi quân gia trên đường tiến vào cửa ô bỗng có một số người chủ hàng cơm
ngày xưa bán chịu cho Chổm đã trực sẵn để chào hỏi người quen và đòi nợ cũ.
Thấy thế, bọn lính tiền đại quân toan bắt bọn vô lễ. Chúa Chổm ngăn lại và kể
chuyện ăn chịu ngày còn hàn vi cho các tướng nghe, đoạn bảo quân hầu lấy tiền
ra trả nợ. Lúc đó, có nhiều người thấy kẻ kia đòi được nợ cũng xúm lại kể ơn
nghĩa cũ, kẻ tính thành năm quan, người kể thành mười quan... thành ra một cuộc
truy nợ đông như đám hội. Bọn quan hầu đếm tiền mãi không xiết vì con số chủ nợ
mỗi lúc một tăng dần. Sau đó, bọn họ nghĩ ra được một kế là đứng trên kiệu vung
tiền xuống cho ai nhặt được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. Mọi người thấy thế đổ
xô ra cướp. Dần dần quan quân tiến đến phố cũ mà bây giờ là vườn hoa Cửa Nam.
Một viên đại tướng nghĩ chúa mình sắp lên ngôi tôn
mà khách nợ cứ chạy theo réo mãi như thế kia thì còn ra thể thống gì nữa, mới
viết vào tờ giấy hai chữ "Cấm chỉ" dán ở phố và sai một toán quân
đóng lại đó, ra lệnh hễ thấy ai còn đòi nợ chúa nữa sẽ chém đầu. Nhờ thế người
ta mới thôi réo và thôi đuổi theo xe chúa Chổm.
Chúa Chổm vào đến hoàng cung thì trời sắp tối. Thấy
văn võ bá quan ai cũng mong mình lên ngôi tôn ngay để yên lòng thiên hạ, Chổm
bèn ngửa mặt khấn trời rằng: Hỡi
thượng đế, nếu tôi xứng đáng nối nghiệp nhà Lê thì xin quay mặt trời trở lại
chính ngọ, bằng không thì thôi, tôi sẽ trở về chốn cũ làm ăn, giao quyền lại
cho người khác. Khấn được một
lúc, quả nhiên trời bỗng sáng hẳn, mặt trời treo giữa đỉnh đầu. Chổm đường
hoàng bước lên làm lễ đăng quang, tự xưng là Hoàng đế. Lễ hoàn tất, mặt trời tự
nhiên kéo một mạch về phương Tây lặn mất. Trời tối sầm lại như mực, lúc mọi nhà
thắp đèn lên thì gà vừa gáy.
Ngày nay còn có câu tục ngữ Nợ như chúa Chổm và ở
chỗ vườn hoa Cửa Nam bây giờ cũng do sự tích trên mà người ta gọi là "Ngã
tư Cấm Chỉ".
32.
GIAO LONG VÀ HỒ BA BỂ
Vào hồi đó xã Nam Mẫu có mở một hội "vô
già" cúng Phật. Mọi người nô nức đi xem, ai nấy một lòng ăn chay niệm
Phật, thả cá, thả chim... làm những việc cầu phúc cho ngày hội.
Hôm ấy, xuất hiện ở đám hội một bà già ăn mày.
Người ta không biết mụ ta từ đâu lại, bộ dạng thật là gớm ghiếc: những mảnh vải
vá víu của mụ không đủ che tấm thân gầy còm và lở loét. Mùi hôi thối sông ra
rất khó chịu. Đến đâu mụ cũng thều thào mấy câu: "Đói lắm các ông bà
ơi!". Rồi cầm cái rá, mụ giơ ra bốn bề đầy vẻ cầu khẩn. Nhưng mãi đến
chiều, người đàn bà đó vẫn chẳng được tí gì. Đến đâu mụ cũng bị xua đuổi, bọn
thanh niên cho mụ là hủi nên trốn như trốn dịch. Hễ thấy mụ đâu là chúng xô
nhau chạy đi chỗ khác. Mấy bà đang lễ thì rất bực tức. Họ ngừng những tiếng
"Nam mô đà Phật" lại và quay ra mắng xả vào mụ sao dám đi sát vào
người. Cuối cùng bọn hương lý sai tuần phu đuổi mụ đi. Mụ không thể kiên gan
trước những trận mưa roi của bọn tuần, đành phải lê mình ra khỏi đám hội. Sau
khi ra khỏi đám hội, người đàn bà ấy tiến vào xóm. Cũng như ở đám hội, vào nhà
nào, mụ cũng bị nghi là hủi và bị đuổi. Mấy nhà giầu có đóng chặt cửa lại và
thả chó ra. May sao đến ngã ba, mụ gặp mẹ con nhà kia vừa đi chợ về. Thấy bà
lão ăn mặc tội nghiệp, người mẹ đưa về nhà mình lấy cơm nguội cho ăn.
Khuya hôm đó hai mẹ con đang ngủ thì người đàn bà
ấy gọi cửa. Mụ xin ngủ nhờ một đêm vì mọi chỗ người ta đều cấm lửa không cho
vào. Hai mẹ con vui lòng đón người ấy vào nhà, lấy cơm cho ăn và trải chiếu ở
một cái chõng cho mụ ngả lưng, còn mẹ con thì ngả lưng ở chỗ khác.
Người đàn bà vừa nằm là ngủ liền, tiếng mụ gáy như
sấm. Hai mẹ con nhìn thấy cái chõng sáng rực lên trong bóng tối. Đây không phải
là một mụ ăn mày già yếu lở loét nữa mà là một con giao long đang quận mình lù
lù một đống, đầu gác lên xà nhà, đuôi thò xuống đất. Người mẹ rụng rời kinh
hãi, nhưng vì chỗ ở của mình cách biệt với xóm không biết kêu cứu ai, đành chùm
chăn kín mít, phó mặc cho may rủi.
Nhưng đến sáng hôm sau, khi người mẹ nhìn ra thì
chẳng thấy giao long đâu cả. Trên chõng, người đàn bà đã dậy và sắp sửa ra đi.
Khi họ gặp nhau, người đàn bà nói: - Chúng
nó thờ Phật, mà kì thực là buôn Phật. Chúng
nó xứng đáng phải chịu trầm luân. Chỉ có mẹ con nhà ngươi là tốt bụng. Hãy cầm
lấy gói tro này, nhớ rắc ngay xung quanh chỗ ở và nội trong ngày đêm hôm nay
chớ đi đâu cả. Hoặc nếu có đi thì đưa nhau lên đỉnh núi cao mà tránh. Người mẹ băn khoăn hỏi thêm: - Nhưng làm thế nào để cứu mọi người
được? Người đàn bà ấy ngần
ngừ hồi lâu rồi lấy từ trong áo ra một hạt thóc cắn ra đưa đôi vỏ trấu cho hai
mẹ con rồi nói: - Hai mảnh vỏ
trấu này sẽ giúp cho hai mẹ con làm việc thiện. Người mẹ toan hỏi thêm thì vụt một
cái đã không thấy người đàn bà hủi đâu nữa. Hai mẹ con vội làm theo lời dặn rồi
đi kể chuyện cho mấy người gần đó biết. Họ nghe nói chỉ mỉm cười cho là một
chuyện bâng quơ.
Quả nhiên tối hôm đó giữa đám hội náo nhiệt, lúc
thiện nam tín nữ đang tấp nập lễ bái thì tự nhiên có một dòng nước từ dưới đất
phun lên ngay chính giữa đàn tràng. Nước càng phun càng mạnh làm lở dần đất ở
xung quanh. Người ta ngơ ngác không hiểu thế nào, tưởng là phép Phật hiển hiện
nên lại càng vái lấy vái để. Nhưng dòng nước mỗi lúc một mạnh nuốt hết người và
vật. Chỉ trong nháy mắt đã ngập bằng cái ao. Thấy thế mọi người hoảng hốt bỏ cả
lễ bái đua nhau chạy. Nhưng họ không thể chạy được nữa, ở dưới chân họ đất nứt
nẻ, rung động hất họ ngã xuống. Bỗng chốc một tiếng ầm phát ra: đất đá, nhà
cửa, người vật đều chìm nghỉm, nước tung toé mù trời. Một con giao long to lớn
từ mặt nước hiện ra bay vòng quanh xã Nam Mẫu. Trong khi đó thì nền nhà, chuồng
lợn, chuồng gà của mẹ con người đàn bà từ thiện mỗi lúc một cao hơn mức nước.
Đau xót trước cảnh nước lụt hai mẹ con đem hai mảnh
vỏ trấu ra. Vừa đặt xuống nước, họ bỗng thấy hai mảnh vỏ trấu biến ngay làm hai
chiếc thuyền. Thế rồi mặc gió mặc mưa, họ chèo đi mọi nơi cố sức vớt những
người bị nạn. Chỗ đất sụt ấy ngày nay là hồ Ba Bể ở Bắc Cạn, còn cái nền nhà ấy
tức là một hòn đảo nhỏ trong đó mà người địa phương thường gọi đó là Pò Già
Mải.
33.
CON CHÓ CON MÈO VÀ
ANH
CHÀNG NGHÈO KHỔ
Ngày xưa, có hai mẹ con nhà kia sống trong cảnh rất
nghèo khổ. Người mẹ thì già yếu, đứa con tuy khoẻ mạnh nhưng tìm việc mãi mà
cũng không có ai thuê mướn. Mãi về sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh ta mạnh
khoẻ và bơi lội giỏi nên thuê làm thuỷ thủ. Anh ta nói: - Nghề thuỷ thủ phải đi xa, mà mẹ tôi
thì già nua, ở nhà một mình thì không tiện. Chủ
thuyền buôn thương tình trả trước tiền thuê cho anh cả một năm bốn mươi quan để
cho mẹ già có tiền nuôi sống. Anh ta mừng rỡ, cầm ba mươi quan về đưa cho mẹ,
còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.
Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một
thị trấn lớn, bọn thuỷ thủ bảo chàng: - Ở đây thứ gì cũng buôn được, cứ mua một
chút ít đem về quê thì tức khắc có lời. Anh chàng xưa nay không quen buôn bán,
nên cầm mười quan tiền trong tay đi khắp nơi mà chưa biết mua thứ gì. Bỗng anh
ta thấy một người mang ra bến một con chó bị trói, toan vứt xuống sông. Thấy
thương hại, anh chàng vội ngăn lại, nói: - Tại
sao con chó này lại bị thả sông? Người
kia nói: - Đây là một con chó
có tính ăn vụng. Chủ tôi đi chơi mua thịt về chưa kịp nấu nướng, nó tha đi mất
nên chủ tôi tức giận bắt trói đánh một trận thừa sống thiếu chết và sai tôi ném
nó xuống sông. Anh chàng thuỷ
thủ nói: - Thôi, ông bạn đừng
giết nó tội nghiệp, tôi sẽ mua nó. Người kia vừa cười vừa nói: - Đồ chó ăn vụng anh mua làm gì?
Anh chàng đáp: - Thây kệ, cứ
bán cho tôi đi. Cuối cùng anh
chàng chìa ra ba quan mua con chó, cởi trói cho nó, đem về để nơi chỗ làm việc.
Sau đó một lúc, anh lại trông thấy một người đàn bà
mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại hỏi duyên cơ. Khi
biết được tội trạng của con mèo cũng do ăn vụng, anh liền bỏ tiền ra mua luôn.
Thế là hai con vật thoát chết. Người chủ mới của nó cho nó ăn uống tử tế rồi
cột nơi khoang thuyền.
Bỗng chốc, anh ta lại thấy ba đứa trẻ chăn trâu,
bắt được một con rắn nước, toan dùng cây đập nát đầu. Chàng vội chạy đến cản
lại nói: - Các em đừng giết
nó! Nó là rắn nước, nó có làm hại ai đâu? Mấy
đứa trẻ nói: - Mặc kệ chúng
tôi! Chúng tôi bắt được nó thì chúng tôi đánh, can gì đến ông? Thấy bọn trẻ cố tình giết rắn, anh
ta phải bỏ tiền ra mua để cứu con rắn. Mua được con rắn, anh ta lập tức thả
xuống nước. Thế là số tiền anh ta định mua hàng đem về bán đã hết trơn. Bọn
thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán vừa rồi thì bụm miệng cười
ngất, cho là một anh chàng khờ khạo chưa từng thấy. Nhưng anh ta chỉ ngồi lặng
thinh không tỏ ra tức giận gì cả. Khi thuyền sắp trở về, vào lúc nửa đêm, chàng
đang vuốt ve hai con chó và mèo thì rắn nước từ đâu bơi tới ném cho chàng một
viên ngọc, và nói: - Cha tôi
là Long Vương, cảm ơn anh cứu mạng tôi nên cho tôi đem đến biếu anh viên ngọc
"băng xuyên". Viên ngọc này có thể rẽ nước để tôi mời anh xuống thuỷ
cung chơi một chuyến. Anh chàng nghe nói chuyện lạ, muốn thử xem, liền cầm
ngọc lội xuống nước, quả nhiên nước rẽ ra hai bên, chừa chỗ cho anh chàng đi
dưới nước như đi trên bộ vậy.
Chàng theo rắn nước vào đến thuỷ cung, được Long
Vương tiếp đãi rất hậu, đem tặng châu báu, vàng ngọc rất nhiều, rồi cho người
tiễn chàng về đến tận nhà. Chủ thuyền thấy mất hút anh ta, tưởng anh đã rơi
xuống nước, bèn đỗ thuyền lại, lên bộ trình với xã sở tại. Nhưng khi mọi người
về đến quê hương lại thấy anh ta về trước đó hơn ba ngày rồi.
Từ đó anh trở nên giàu có, nhưng anh vẫn sống cuộc
đời bình thường cùng với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu sống vẫn theo
anh không rời. Sau đó, anh ta lấy một cô vợ rất trẻ đẹp, nàng rất thích đeo
nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" để ở góc tủ chói sáng, nàng
thích lắm nên lấy trộm đem đến người thợ kim hoàn đánh cho mình một chiếc nhẫn
ngọc. Người thợ kim hoàn biết là ngọc quý, hiếm có trên đời nên đã đánh tráo
một viên ngọc khác, cướp lấy bảo vật. Anh chàng thuỷ thủ biết được câu chuyện
trở nên buồn bã, hàng ngày ra đứng ở nơi bờ sông để mong gặp được rắn nước,
nhưng không làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ buồn bã, nói với nhau: - Chúng ta sẽ đi tìm lại viên ngọc
cho chủ. Thế rồi mèo, chó ra đi.
Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một
con sông rộng, mà chúng không có cách nào để vượt qua sông cả, nên hai con vật
cứ chạy loanh quanh. Bỗng con mèo nhìn xuống nước và thấy một con rái cá đang
bơi lội, con mèo gọi lớn:- Kìa
anh rái cá! Anh có cách nào giúp chúng tôi sang sông không? Rái cá nói: - Chị mèo ơi! Đừng có phỉnh phờ chúng
tôi. Nếu chị có thèm thịt chúng tôi thì đi tìm nơi khác. Mèo vội vã kể cho
rái cá nghe câu chuyện đau thương của người chủ mà hiện nay mèo và chó muốn
sang sông tìm ngọc để trả ơn cho chủ. Rái cá động lòng, gọi cả bầy rái cá lại
kết thành một cái bè đưa mèo và chó sang sông.
Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó: - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy
tiếng cho những con chó trong nhà xúm lại sủa, rồi mày lẻn vào cổng không ai
biết. Quả nhiên bầy chó của
người thợ kim hoàn nghe mèo kêu, bèn ra đuổi. Mèo dẫn theo bầy chó chạy ra một
khoảng xa rồi nhảy trở lại. Hai con vật gặp nhau, chúng tìm khắp nhà. Tất cả
các báu vật của người thợ kim hoàn đều bỏ vào trong một cái rương bằng gỗ, khoá
lại. Mèo cố sức tìm tòi nhưng không có cách nào mở được khóa. Mèo bỗng bắt được
một con chuột. Chuột năn nỉ tha mạng. Mèo bảo chuột dẫn mình đến gặp chuột chúa
và nói rõ mục đích của mình đến đây cho chuột chúa nghe, nhờ chuột khoét rương
gỗ lấy viên ngọc.
Chuột chúa vâng lời, huy động lũ chuột khoét rương
của chủ kim hoàn. Nhưng đến khi lọt được vào rương, chuột tìm mãi mà vẫn không
thấy ngọc đâu. Chuột nói với mèo: - Trong
rương này có hộp bằng bạc không lớn lắm, có lẽ ngọc giấu trong đó, nhưng cái
hộp bằng bạc thì không thể khoét được. Mèo bối rối hỏi: - Như vậy thì làm sao bây giờ? Chuột nói: - Chỉ có cách là chúng tôi huy động
cả làng chuột hợp lực khoét lỗ rương thật lớn, kéo chiếc hộp bạc ra. Mèo
nói: - Thế thì hay lắm! Hãy
làm gấp đi! Rồi chỉ trong một đêm cả làng chuột đã khoét xong, lấy
được cái hộp đem ra cho mèo. Con chó bây giờ mới tìm cách phá hộp, quả nhiên,
trong hộp có viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.
Sau khi được ngọc, chó tranh với mèo tha ngọc đi. Nhưng
đến lúc sắp sang sông, chó thấy con chó lạ vội đuổi cắn làm cho viên ngọc băng
xuống sông. Một con cá thấy ngọc đớp ngay, nuốt vào bụng.
Thấy chó làm mất ngọc, mèo giận dữ mắng cho một
trận nên thân. Chó biết lỗi lặng thinh không dám cãi, chỉ buồn than: - Biết làm sao bây giờ? Mèo suy nghĩ một lúc, tìm được một kế
bảo chó: - Chúng ta tìm đến
nhà người đánh cá, xin ở với họ. Chờ cho họ bắt được con cá đó thì sẽ tìm cách
đem nó về. Chó khen phải, cùng mèo đi tìm một gia đình đánh cá để nương
tựa. Hai con vật rất ngoan làm cho người đánh cá rất mến. Hôm sau, người đánh
cá thả lưới bắt được một con cá khá lớn, mổ ruột ra thấy có viên ngọc. Chó và
mèo khấp khởi mừng thầm.
Trong khi cả nhà người đánh cá đang trao ngọc cho
nhau để xem thì mèo đến cọ vào chủ mình, rồi nhân lúc vô ý, mèo nhảy phốc lên,
ngoạm lấy viên ngọc rồi chạy mất. Thấy thế chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo.
Ra khỏi nhà người đánh cá, mèo bảo chó: - Lần
trước ngậm ngọc bị rơi, lần này thì đội ngọc lên đầu, chẳng sợ gì nữa. Nào
ngờ, mèo mới chỉ đi được một đoạn đường thì bị con quạ từ đâu bay tới, thấy có
cái gì nhấp nháy trên đầu mèo vội xà xuống đớp lấy rồi bay đậu trên cành cao.
Thấy lại mất ngọc, lần này chó lại mắng chửi mèo thậm tệ: - Ngọc rơi xuống nước thì có thể tìm
lại được, chứ bay lên trời thì còn làm gì được. Mèo buồn rầu, nhưng lại nghĩ ra một
kế, nói: - Để tao giả chết,
bắt quạ cho! Nói xong, mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước cho phình
bụng ra, rồi trở về bảo chó trốn vào một chỗ, con mèo thì nằm dưới gốc cây,
phơi bụng giả chết. Quạ đang ngậm ngọc đậu trên cây cao nhìn xuống thấy có bóng
con vật nằm chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại
thì mèo đã nhảy lên vồ lấy quạ. Quạ van lạy xin trả viên ngọc cho mèo để mèo
tha mạng. Mèo chấp thuận, lấy ngay viên ngọc rồi thả quạ bay đi. Lần này cả hai
con hỗ trợ cho nhau, đưa được ngọc về đến nhà an toàn.
Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được viên ngọc của Long
vương tặng, hết sức vui mừng càng quý mến tình nghĩa của hai con vật trung
thành với chủ.
34.
HŨ BẠC
Ngày xưa, có một ông nông dân chịu khó làm ăn. Ông
có một đám rẫy lớn nhưng không lúc nào đất bị bỏ hoang cả. Hết trồng bắp, ông
lại trồng ngô, trồng khoai, trồng lúa… Làm ăn quanh năm vất vả, đất không phụ
công ông nên năm nào thóc cũng đầy bồ, bắp treo đầy bếp còn khoai, sắn thì đầy
gầm giường. Làm mùa xong ông lại lên rừng chặt củi đốt than đem bán. Mỗi lần
bán than, ông giấu vài hào cất riêng một nơi. Đến lúc tuổi già sức yếu, ông đã
để dành được một hũ bạc. Tuy nhà làm ăn no đủ nhưng lúc nào ông cũng buồn phiền
vì đứa con.
Đứa con này được mẹ cưng chiều hết mức thành ra hư
hỏng, lười biếng. Lúc nhỏ suốt ngày chỉ biết chơi bời, lêu lổng. Lớn lên, anh
ta cũng chỉ có mặt ở nhà vào 2 bữa cơm, thời giờ còn lại, anh ta theo đám trai
làng tụ tập rong chơi, uống rượu. Ông già nhắc con rất nhiều, bảo con điều hay
lẽ phải, anh ta chỉ vâng dạ lấy lệ rồi vẫn chứng nào tật ấy.
Đến khi lâm bệnh, ông gọi vợ bảo: “Sức tôi chẳng
sống được bao lâu nữa, bà cũng chẳng thể sống với con mãi được. Trước khi nhắm
mắt, tôi muốn trông thấy nó kiếm nổi bát cơm. Xưa nay tôi giấu bà để dành được
hũ bạc. Tôi muốn cho con nhưng cho bây giờ e hại nó. Bà hãy bảo nó đi làm, bao
giờ kiếm được ít bạc vụn về đây thì tôi cho nó hũ bạc đó.” Nghe chồng nói,
người vợ ngậm ngùi nhưng bảo con trai đi làm thì bà không muốn vì thương con,
sợ con vất vả. Ngẫm nghĩ, bà dồn số tiền chắt bóp được, gọi đứa con vào “bảo
nhỏ” và đưa cho số tiền đó.
Anh kia mang số tiền mẹ cho đi chơi lang thang, đến
khi trong túi chỉ còn vài hào lẻ mới trở về đưa cho cha. Hôm đó, ông lão đang
ngồi cạnh bờ ao đan rổ rá, vợ ông cũng ngồi đó vót nan. Nghe đứa con trai nói
và đưa tiền, ông lão chìa ta cầm mấy hào bạc vứt thẳng xuống ao. Vợ ông tiếc
tiền tái mặt, còn anh con trai tỉnh bơ nhìn đi chỗ khác. - Tiền này không phải tiền nó tự
kiếm. Ông lão chỉ nói vậy rồi
bỏ vào nhà nằm. Bấy giờ bà mẹ lại to nhỏ với con: Cha con sống lâu, khôn nhiều, không
thể lừa được. Bây giờ mẹ cho con đồng tiền cuối cùng của mẹ, con kiếm nơi mà
làm ăn. Khi nào kiếm được tiền con hãy về. Cha con nói phải… Cha mẹ đâu có sống
đời để nuôi con mãi được.
Người con trai nhận tiền của mẹ cho, nhưng lần này
ít tiền lắm vì có bao nhiêu bà đã cho anh lần trước hết rồi. Anh cầm số tiền ít
ỏi đó ra đi được mấy ngày đã hết sạch. Bụng đói, anh đi xin ăn nhưng mọi người
không cho, thậm chí còn dè bỉu, mắng nhiếc anh là sức dài vai rộng mà lại lười,
làm kẻ ăn xin. Chợt thấy giữa đồng có hai người đang tát nước, anh chàng lần
đến, trông thấy rá cơm hẩm với mấy quả cà thâm của hai người để trên bờ, anh
ngửa tay xin nhưng hai người tát nước đáp: Rá
cơm ấy là công tát cạn cái đầm này. Nếu anh muốn ăn cơm thì hãy vào đây tát
nước cùng chúng tôi. Đói quá anh đành phải chịu tát nước để kiếm lưng cơm. Lúc đầu anh ngã xiêu ngã vẹo nhưng
sau cũng tát được lưng gầu nước. Đến lúc ăn cơm, anh ngồi khóc. Nhìn hai bàn
tay phồng rộp, anh đã biết muốn có bát cơm ăn phải tốn bao nhiêu sức lực, phải
đổ bao nhiêu mồ hôi, thậm chí phải đổi cả tính mạng. Xong việc tát nước, anh
vào làng xin việc. Thấy anh khỏe mạnh, người ta thuê anh chẻ củi, gánh nước…
Gặp gì anh làm nấy. Công việc nặng nhọc mà tiền công chẳng đáng là bao nên anh
chẳng dám ăn nhiều, cố gắng dành dụm để mang tiền về cho cha.
Sau ba tháng lao động cực nhọc, anh đã có chút
tiền, lòng vui như mở hội, anh vội vàng về gặp cha. Bấy giờ đã sang mùa đông,
ông già ngày càng yếu mệt. Hôm ấy, ông đang ngồi bên bếp lửa thì anh con trai
đưa tiền. Tiện tay, ông ném luôn mấy hào bạc vào lửa. Anh con trai giật thót,
không sợ bỏng, vội cho tay vào bếp cào than lấy mấy hào bạc ra.
Ông già sung sướng đến chảy nước mắt. Ông nắm tay
con và bảo: Con ơi, cha mãn
nguyện lắm rồi. Bây giờ cha đã tin con trưởng thành. Tiền đó mới đích thực là
tay con làm ra. Khi nào làm lụng vất vả mệt nhọc, người ta mới biết quý trọng
đồng tiền. Ông đưa hũ bạc cho con trai và dặn: Nếu con không chịu làm lụng thì dù
cha có cho con hàng ngàn hũ bạc thế này vẫn thiếu. Nay con đã biết kiếm ra bạc
thì hũ bạc này của con mãi mãi có thừa. Hũ bạc đầy không bao giờ vơi chính là
hai bàn tay con đó.
35.
MIẾNG TRẦU KỲ DIỆU
Ngày xưa có một anh học trò tầm thường tên là Hồ
Sinh. Gia đình của hắn cũng không lấy gì là thiếu thốn nhưng ngày đêm hắn chỉ
những mong muốn một chút danh phận. Vì thế, khi nghe nói ở huyện có khuyết chân
thơ lại là hắn vội bán ruộng, cố đi lo lót cho được. Sau mấy phenn chạy vạy
không xong, hắn sực nhớ đến một người bạn học cũ có người thân quen với cụ
Thượng, bèn tìm đến nhờ vả. Người bạn của Hồ Sinh khi nghe hắn bày tỏ ý định
của mình, liền bảo: “Sao bác không giữ ruộng lại để cầy cấy làm ăn, có hơn
lại phải quỵ luỵ để mua cái lo vào thân cho khổ?” Nhưng sau mấy lần khuyên,
hắn vẫn không thay đổi ý định, người bạn mới giới thiệu cho hắn một người bạn
khác của mình và nói: “Người quen của tôi chả có thế lực gì đâu. Sắn có quen
một vị đạo sỹ trên núi Ba Vì, ông ấy quen biết rất nhiều vị quyền cao chức
trọng, có thể hơn cả cụ Thượng nữa. Ông ấy có cách làm cho bác nên công danh.
Để tôi viết mấy chữ, ông ấy sẽ vì tôi mà giúp bác hết sức.”
Hồ Sinh cầm thư của bạn tìm đường lên núi Ba Vì.
Hắn hỏi thăm mãi, quả đến một cái hang, cửa hang có một viên đá lớn lấp kín.
Theo lời dặn, hắn kêu to: “Có phải đây là hang của đạo sĩ không? Nếu
phải xin mở cửa cho vào!” Tự nhiên hòn đá xoay ra mở lối cho hắn vào. Phía
trong rất im lặng nhưng sáng sủa. Hắn bước vào chừng chục bước đã thấy vị đạo
sỹ đang nằm trên một một cái chõng, miệng nhai trầu, mắt lim dim nghĩ ngợi. Bên
cạnh đó có một cái chõng khác, trên có một cơi trầu chỉ còn hai miếng. Tuy có
khách mà đạo sỹ cũng không ngồi dạy, chỉ với tay cầm lá thư đọc, miệng vẫn nhai
trầu bỏm bẻm.
Một lát, nhìn trừng trừng vào mặt khách rồi nói: “Ta
sẽ cho anh được làm quan. Nào anh muốn quan to hay quan nhỏ? Như thế nào?”
Hắn vội đáp: “Tôi học hành ít ỏi, chỉ muốn làm một chân thư lại cũng đủ mãn
nguyện rồi.” Đạo sĩ gật gù: “Được! Anh hãy ngồi nghỉ, ăn miếng trầu đã
rồi ta sẽ liệu.”
Hồ Sinh rón rén lại ngồi ở chõng, lấy một miếng
trầu trong cơi ra ăn. Miếng trầu rất ngon nhưng vừa nhai giập bã trầu thì hắn
đã thiu thiu ngủ.
Trong mơ hắn thấy: Sau khi về nhà mấy ngày, bỗng
một hôm có một người lính lệ mang tráp đến đòi. Hắn sợ quá, tưởng có việc gì
xảy ra. Nhưng khi vào dinh cụ Thượng, hắn được đón tiếp rất niềm nở. Người ta
để dành cho hắn không phải chức thư lại ở hưyện mà là một chân thông biện ở
dinh quan bố tại tỉnh nhà. Công việc cũng chẳng có gì là khó khăn và tốn kém vì
có “tay trong” của nhà đạo sĩ, làm cho hắn hết sức sung sứóng. Thế là từ đó, Hồ
Sinh hằng ngày ra vào công đường, dạ dạ bẩm bẩm, khúm lúm trước mặt các quan.
Ban đầu hắn cảm thấy nhục, nhưng mỗi lần đứng trước bọn tổng lý và những người
dân có việc đén cửa quan thì hắn lại cho là một sự vinh hiển. Ban đầu hắn ngần
ngại chối từ cả lễ lạt của những người có việc đưa đến lo lót, nhưng dần dần
hắn bạo dạn và khôn ngoan hơn. Chẳng những hắn thành thạo trong nghề bóp nặn mà
còn học được nhiều mánh khoé kiếm tiền kỳ lạ, là tạo ra những vụ án bất ngờ mà
kết quả là cả nguyên cáo và bị cáo tiền bạc xủng xẻng dắt nhau đến công đường
đút cho hắn và quan trên của hắn. Vì thế, chỉ trong vài năm, tiền bạc của hắn
bộn bề. Hắn làm nhà, mua trâu, tậu ruộng và cuộc sống xa xỉ hơn trước. Hắn lại
được một phú thương trưởng giả trong hạt gả con gái cho. Mười năm sau, hắn đã
được hai trai hai gái và được cất nhắc làm một quan nhỏ. Cuộc đời hắn cứ lên
như diều, không có ai theo kịp.
Nhưng một ngày kia, giữa lúc Hồ Sinh đang ngồi cho
vợ chải đầu, thì bỗng có lính lệ cầm trát đến đòi. Hắn không nghi ngờ gì cả.
Nhưng khi đến dinh cụ Thượng, hắn liền bị bỏ ngục. Một viên khâm sai đặc phái
cải trang đi thanh tra đã tìm ra nhiều chứng cớ về những vụ tham tiền hối lộ
của bọn quan tỉnh, mà tất cả đều có liên quan tới hắn. Thế rồi, trong khi chờ
xét xử, thì những người dân bị vu oan giá họa ngày trước đều đổ xô tới quan
khâm sai kiện hắn. Đơn kiện cao kể tội hắn chất thành đống. Ngày xử hắn là ngày
đông hơn hội. Hắn bị tử hình không cần tâu về triều vì quan khâm sai có quyền
“tiền trảm hậu tấu”. Trước khi ra pháp trường hắn hồi tưởng lại chuyện cũ và ăn
năn rằng phải chi hắn đừng đến hang đạo sĩ nhờ chạy chọt chức quan thì có đâu
đến nỗi này.
Hồ Sinh bỗng choàng tỉnh vì có một tiếng động rất
dữ dội. Hắn hé mắt thì té ra mình vẫn còn nằm trên chiếc chõng thứ hai của nhà
đạo sĩ, chân đạp phải cơi trầu lăn xuống đá đánh choảng một tiếng, miếng trầu
còn lại vẫn nằm lăn lóc trên chõng. Còn đạo sĩ vẫn lim dim mắt, bỏm bẻm nhai
trầu. Chợt đạo sĩ ngồi dậy hỏi hắn: Bây giờ chúng ta sẽ bàn một chút. Anh sẽ
cầm lá thư của tôi đến cụ Thượng…
Nhưng lúc này Hồ Sinh không còn đủ can đảm để tính
chuyện danh phận nữa. Hắn vội nhả miếng trầu đang ngậm ở miệng và cáo từ ra về.
Từ đó, hắn trở nên một người chí thú làm ăn trên ruộng đất của mình.
36.
GÁI NGOAN DẠY CHỒNG
Ngày xưa, có một người giàu, vợ chết sớm, chỉ có
độc một con trai. Đứa con vốn người xấu nết, đần độn, lại là tay chơi bời lêu
lổng không chịu học hành làm ăn gì cả. Thấy con không lo nối nghiệp nhà, người
nhà giàu rất buồn phiền, biết rằng của cải của mình sẽ có một ngày đội nón ra
đi. Bởi vậy, ông mới tính chuyện kiếm cho con một người vợ khôn ngoan đảm đang,
để may chi nó sẽ ngăn chặn chồng, bảo vệ một phần nào cơ nghiệp. Nghĩ vậy ông
cất công đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng đi đã được nhiều nơi mà chưa thấy một
người nào vừa ý.
Một hôm, đến một vùng kia, mỏi chân, ông nghỉ lại ở
một quán nước bên đường. Ông bỗng thấy một cây táo gần đấy có một bọn trẻ đang
tranh nhau trẩy ăn. Một chốc sau, một cô gái chừng đôi tám cũng đến trẩy táo.
Ông lân la hỏi xin ăn, lúc này táo chín đã bị bọn trẻ trẩy hết, chỉ còn lại
những quả xanh, nhưng cô gái cũng cố chọn những quả ngon nhất đưa cho khách.
Thấy cô gái tốt bụng, ông ta nghĩ: "Sởi lời
trời gởi của cho, quanh co trời gò của lại. Chỉ có người nào tốt bụng với mọi
người mới xứng đáng được hưởng giàu sang sung sướng". Bởi vậy, ông tìm
đến nhà cô gái, giả làm người lỡ lộ đường xin nghỉ trọ một tối. Và rồi ông được
gia đình cô gái ân cần tiếp đãi. Để thử xem cô gái có khôn ngoan không, ông lân
la làm quen với nàng. Khi biết cô sắp đi chợ, ông đưa một quan tiền nhờ mua hộ
mình "Một nắm gió, một bó lửa". Cô gái chẳng nói chẳng rằng, mua về
cho ông một cái quạt và một con dao đánh lửa. Thấy thế ông thầm khen ngợi,
nhưng vẫn định thử thêm cho biết.
Qua ngày mai, ông dậy sớm, giở tay nải đưa cho cô
gái mấy bát gạo nếp, nhờ nàng thổi giúp mình vừa cơm, vừa bánh để đem đi ăn
đường. Cô gái không từ chối, vội lấy gạo ra vo. Trước khi cho vào nồi, nàng bớt
lại ít gạo làm vắt bánh rồi hấp luôn vào cơm. Khi nàng bưng ra, ông già lấy làm
vừa ý, cho là con người đủ đức hạnh, khôn ngoan, đảm đang ít có. Bèn quyết định
trở về sửa lễ hỏi cho con trai làm vợ.
Đứa con trai ông từ ngày có vợ lại càng lêu lổng,
hắn thường bỏ nhà đàn đúm với bọn vô lại làm cho ông hết sức buồn. Và điều làm
ông lo lắng nhất là hắn thỉnh thoảng lại trộm tiền của ông, khi dăm bảy quan,
khi một vài vác, tung vào cuộc đỏ đen. Mặc dù ông đánh đập, mặc dù vợ hắn
khuyên bảo, nhưng hắn vẫn chứng nào tật ấy. Dần dần ông buồn phiền thành bệnh.
Một hôm, biết mình sắp chết, ông gọi con dâu đến
bên giường dặn nhỏ:- Nay cha
đã gần đất xa trời, chồng con là một thằng "phá gia chi tử" cơ nghiệp
này chỉ có một sớm một chiều mà thôi. Cha rất thương con xấu số. Từ lâu cha làm
ăn dành dụm, có để được hũ vàng chôn sau vườn. Vậy cha cho riêng con hũ vàng
đó, đừng cho chồng con biết. Sau này chồng con có thật sự ăn năn hẵng giúp nó
làm lại cuộc đời.
Đứa con trai ông sau khi người cha qua đời lại càng
chơi bời mặc sức. Vợ hết khuyên lơn đến cầu khẩn, hắn chẳng những không nghe,
lại còn phũ phàng với vợ. Mỗi lần thua bạc, hai người lại càng xô xát. Nhiều
lần bị vợ cản trở, hắn đánh đập vợ không tiếc tay và làm nhục nàng trước mặt
mọi người. Một hôm, để khỏi vướng, hắn viết giấy cho vợ đi lấy chồng khác rồi
đuổi nàng ra khỏi cửa. Từ đó, hắn phỉ chí tung hoành không một ai dám cản. Quả
như lời đoán của bố hắn, mấy chục mẫu ruộng đều lần lượt "nướng" vào
sòng bạc. Hết ruộng vườn tới nhà ở, chẳng bao lâu tất cả cái cơ nghiệp mấy đời
lưu truyền lại đều sạch sành sanh, hắn bỏ làng mạc quê hương đi lang thang,
khắp đầu đường xó chợ, ngửa tay xin ăn qua ngày.
Lại nói chuyện người đàn bà sau khi bị chồng đuổi,
mới đổi tên tìm đến thị trấn mở một quán hàng nước, sau ít lâu kiếm được một số
vốn nhỏ, nàng bắt đầu buôn hàng tấm. Số vốn của nàng ngày một lớn dần lên. Một
hôm, gặp hai em bé mồ côi đi ăn xin, nàng thương tình đưa về nuôi, coi như ruột
thịt của mình. Trong một dịp đi kiếm củi, hai con nàng nhặt được khúc gỗ mục,
về chẻ ra bỗng thấy có mấy thoi vàng bên trong. Có vốn lớn lại có tài kinh
doanh nên chẳng bao lâu nàng trở nên giàu có, nổi tiếng trong thị trấn. Tiền
bạc tuôn về như nước. Tuy sống sung sướng nhưng nàng vẫn ở một thân một mình.
Thấy nàng giàu có, nhiều kẻ ngấp ngé muốn "gá nghĩa châu trần" nhưng
người đàn bà ấy nhất định từ chối mọi lời đường mật. Mặc dầu người chồng bạc
bẽo đã mười lăm năm xa cách nhưng nàng vẫn không quên tình vợ chồng xưa cũ. Đã
nhiều lần nàng thuê người lần đi các chợ búa, phố phường dò hỏi, nhưng tin tức
của chồng càng dò hỏi càng bặt tăm.
Năm ấy, sau mấy tháng hạn, lúa khoai chết dần chết
mòn, những cánh đồng nứt nẻ. Giá gạo lên vùn vụt. Ngoài đường người đi ăn xin
kéo đến hàng đoàn. Người đàn bà lúc này đã là bà chủ hiệu. Bà xin phép quan
trên cho mình đem tiền gạo ra phát chẩn cho kẻ khó. Làm như thế, nàng còn mong
thấy yết thị dán khắp thôn xóm thì chồng mình nếu còn sống tất sẽ lần mò về. Y
như thế thật, ngày bắt đầu phát, nàng đã thấy bóng dáng của chồng ngồi ở hàng
cuối đội ngũ lĩnh chẩn. Đúng là hắn. Từ ngày bắt đầu cầm bị gậy đến nay, hắn
chưa có cách gì để sống khá hơn, và đỡ hèn hạ hơn trước. Bây giờ nghe nói có
phát chẩn, hắn vội mò đến đây và ngồi hàng phía tả. Thế nhưng khi phát, những
người giúp việc của bà chủ hiệu lại được lệnh phát từ phía hữu lại. Khi sắp sửa
đến hắn bọn họ tự nhiên nói lớn: "Hôm nay hết gạo, mời bà con về đợi
đến ngày mai!". Hắn buồn bực trở về, qua ngày mai hắn cố tìm đến thật
sớm, ngồi vào hàng đầu bên hữu, nhưng hắn không ngờ người phát chẩn lại phát từ
đầu bên kia. Lúc sắp đến hắn thì họ lại giơ thúng không lên: "Hôm nay
hết gạo, mời bà con về đợi đến ngày mai!". Hắn ra về, thở than cho số
đen đủi. Hôm sau hắn lại mò đến thật sớm, lần này hắn leo đúng vào chính giữa
đội quân lĩnh chẩn. Trong bụng hắn nghĩ, lần này thì không thể để mất phần
được. Nhưng đến giờ phát, hắn không ngờ người nhà bà chủ hiệu lại phát từ hai
đầu lại và cuối cùng người không được gì cả lại vẫn là hắn. Ba lần hỏng cả ba,
hắn rất ngao ngán, bèn đánh liều đi tìm đến dinh cơ bà chủ để xin ăn.
Gặp hai đứa con gái nuôi của vợ, hắn ngả nón kêu
van hết lời. Ở trong nhà người đàn bà nhìn ra biết là do mưu của mình mà đến
đây, bèn sai người hầu ra hỏi xem hắn có biết làm việc gì không để thuê mướn.
Nghe hỏi thế, hắn vội trả lời: Xin
ông bẩm với bà lớn rủ lòng thương cho tôi được ở hầu bà, rửa bát, quét nhà, mọi
việc tôi đều làm được hết. Chỉ cho tôi ăn ba miếng là đủ rồi. Người nhà trở
ra cho hắn biết là bà chủ nhận lời. Từ đó, hắn chăm chỉ làm lụng, cố vừa lòng
chủ. Nhưng chung quy hắn không biết chủ chính là vợ cũ của mình. Về phần người
vợ cũng không để lộ tí gì cho hắn biết, chỉ dặn hai con và người nhà đối đãi tử
tế mà thôi.
Sau một thời gian, thấy hắn chịu khó làm ăn, người
đàn bà mừng lắm. Một hôm, nàng gọi hắn lên mà hỏi xem có biết chữ nghĩa gì
không. Hắn đáp: Tôi lúc nhỏ đi
học có biết ít nhiều. - Vậy từ mai trở đi, anh không phải hầu hạ nữa, cho anh ở
gian nhà khách dạy đám trẻ học, tôi sẽ trả mỗi năm ba mươi quan. Nghe nói, hắn tưởng không có gì sung
sướng hơn thế nữa, cảm thấy lòng nhân đức của bà chủ đối với mình bằng trời
bằng biển, vội nhận lời ngay. Từ đó hắn đóng vai thầy đồ, cố sức làm cho chủ
tin cậy. Người vợ vẫn thử mãi không thôi.
Một lần, gặp ngày tết, vợ sai lấy tiền ra
cho kẻ hầu người hạ. Nàng nói: "Ta cho mỗi người năm quan, hãy mang đi
đánh bạc cho vui, nếu ai hết sẽ cho thêm". Thầy đồ ta cũng được năm
quan tiền. Nhưng trong khi mọi người nướng vào xóc đĩa bài mười, thì trái lại,
hắn mang nguyên vẹn số tiền đó về gửi cho chủ. Vợ hắn hỏi: Tại sao anh không thích đánh bạc? Hắn trả lời: Bẩm bà, tôi ngày xưa vì cờ bạc mà
đến nông nỗi này. Cho nên bây giờ buộc chỉ cổ tay thề rằng không dùng đến nó.
Thế là hắn luôn miệng kể hết cho chủ nghe, từ cuộc đời cũ có ruộng nhiều, vợ
ngoan như thế nào, rồi bán ruộng đuổi vợ ra sao, cho đến lang thang đói rách,
và ngày nay đã ăn năn hối lỗi... Vợ hắn hỏi: Anh
còn thương vợ nữa không? Hắn rầu rĩ: Tôi đã nhiều lần dò tìm mà không thấy.
- Nghe anh nói tôi rất thương
tình. Vậy tôi cho anh năm quan để anh đi tìm vợ. Nếu hết tiền mà vẫn chưa
thấy, anh cứ đi về đây, tôi sẽ cho thêm mà tìm cho ra.
Hắn mừng rỡ vâng dạ, mang tiền đi tìm. Nhưng sau ba
tháng trở về với bộ mặt thiểu não, hắn cho chủ biết không hề thấy tung tích đâu
cả, chắc là vợ đã chết. Từ đấy vợ thấy hắn chí tình, lại có lòng tu tỉnh, nên
rất mừng. Nhưng nàng vẫn chưa ra mặt vội, chỉ an ủi hắn hãy ở lại đây, may chi
sẽ có ngày hội ngộ.
Một hôm, nhân ngày giỗ cha chồng, người đàn bà nhờ
thầy đồ chép bài văn tế. Hắn ta ngạc nhiên và bội phần mừng rỡ khi thấy bài vị
tổ tiên nhà chủ chính là bài vị tổ tiên mình. Lập tức hai vợ chồng ôm nhau khóc
lóc. Rồi sau khi cúng xong, họ mời hàng xóm và người nhà ngồi lại kể rõ sự
tình. Ai nấy đều cho là một cuộc tái ngộ hiếm có.
Về sau hai vợ chồng dựng vợ gả chồng cho hai con
nuôi, giao cửa hiệu lại cho chúng cai quản. Sau đấy họ dắt nhau trở về quê
hương xưa, chuộc lại vườn tược nhà cửa cũ. Và sau khi đã sống yên ổn ở quê nhà,
vợ mới sai đào hũ vàng của bố chồng cho mình ngày xưa lên. Nàng nói: Có vàng chưa chắc có hạnh phúc.
Cho nên trong những lúc túng thiếu nhất, tôi vẫn không cần đến nó. Nói đoạn,
đem số vàng ấy cúng cho đền chùa, bố thí cho người nghèo. Từ ấy hai vợ chồng
sống với nhau đến đầu bạc.
Có câu tục ngữ: Làm
trai rửa bát quét nhà / Vợ kêu thì.... Dạ, bẩm bà tôi đây!.. .Là do truyện
này mà ra.
37.
CHIM SƠN CA
Ở bản nọ có một chàng trai khôi ngô tuấn tú làm
nghề thợ săn. Anh là một thợ săn giỏi, đã vào đến rừng là có thú mang về. Một
lần vào rừng săn thú, chàng đi từ sáng đến chiều mà chẳng gặp con thú nào. Chẳng
lẽ hôm nay mình về tay không? Anh đang nghĩ ngợi nên về hay đi vào rừng để tìm
thú. Vừa lúc ấy, anh thấy một con chim sơn ca bé nhỏ bị gãy một bên cánh đang
mắc ở bụi gai. Thương tình, anh nhặt chim rồi đem về nhà đắp thuốc. Chim sơn ca
được anh chăm sóc nên chỉ ba ngày vết thương đã lành. Từ hôm đó sơn ca ở lại
làm bầu bạn với anh. Có chim sơn ca nhà anh vui vẻ hẳn lên, suốt ngày chim nhảy
nhót và cất tiếng hót véo von. Anh thợ săn quý chim lắm, anh làm một cái lồng
đẹp lộng lẫy cho chim ở.
Thực ra, con chim sơn ca luôn nhảy nhót và
hót véo von kia là nàng tiên trên trời cao lạc đường bị diều hâu đuổi bắt và mổ
gãy cánh. Được người thợ săn trẻ thương tình cứu chữa, sơn ca biết ơn chàng nên
muốn giúp chàng làm các công việc lặt vặt trong nhà để chàng đỡ vất vả. Khi
chàng thợ săn trẻ ra rừng làm nương thì ở nhà chim sơn ca hoá thành một cô gái
xinh đẹp. Cô dọn dẹp nhà cửa, lấy nước, dệt vải, nấu cơm. Công việc xong xuôi
cô lại biến thành chim sơn ca chui vào lồng ca hót. Ngày đầu tiên đi làm về
chàng ngạc nhiên không hiểu ai tốt bụng đã giúp mình thế này. Chàng gọi to xem
có ai không. Chờ một lúc chẳng có ai trả lời chàng ngồi xuống ăn cơm. Cơm ngon
quá, chàng vừa ăn vừa tấm tắc khen. Ngày thứ hai, chàng thợ săn đi rẫy về lại
đã thấy cơm canh dọn sẵn, còn có cả chăn màn quần áo sạch đẹp cho mình. Chàng
ngạc nhiên quá bèn đi hỏi khắp làng xem ai đã giúp mình cơm nước lại còn gửi
bao nhiêu đồ quý giá cho nữa. Nhưng tất cả dân làng đều kinh ngạc vì làm sao
người thường dệt được vải đẹp như thế. Phân vân trong lòng, chàng quyết rình
xem.
Sáng ngày thứ ba, như thường lệ, chàng thợ săn vác
dao vào rừng. Đi được nửa đường, chàng quay về đứng nấp sau nhà xem thử. Vừa
lúc ấy chàng nghe thấy tiếng động ở lồng chim. Trong phút chốc không thấy chim
sơn ca đâu cả mà là một cô gái xinh đẹp, da trắng, tóc dài bước đi mềm mại,
uyển chuyển. Nàng bắt đầu công việc hàng ngày, nàng nấu nướng, đan dệt quần áo.
Bàn tay nàng thoăn thoắt, mắt nàng rạng rỡ. Chàng thợ săn nhìn nàng một cách
say sưa, bỗng có một con kiến vàng cắn vào bắp vớ của chàng khiến chàng thợ săn
giật mình làm rơi con dao xuống đất. Thấy động, nàng định biến thành chim sơn
ca chui vào lồng nhưng không kịp nữa. Chàng thợ săn trẻ chạy lại nắm tay nàng
và hỏi: Nàng là ai? Sao lại
đến đây giúp ta? - Thiếp là con gái Ngọc Hoàng, hôm nọ đi chơi chẳng may bị
thương đã được chàng cứu giúp. Thiếp nguyện làm người vợ hiền dịu của chàng,
nếu chàng ưng thiếp thì hãy đốt bỏ xác chim kia đi. Chàng trai trẻ nghe lời cầm xác
chim sơn ca ném vào bếp lửa. Hôm ấy chàng thợ săn trẻ cùng nàng tiên xinh đẹp
từ trời cao xuống tâm sự suốt đêm. Hôm sau, họ thành vợ thành chồng. Chẳng bao
lâu nàng sinh được một đứa con bụ bẫm. Họ sống với nhau thật đầm ấm, tràn đầy
hạnh phúc.
Một hôm, người vợ gùi nước, không may gặp phải một
đàn trâu uống nước đầu nguồn suối, nàng phải chờ cho nước trong mới múc được.
Vắng mẹ đứa con khóc ra rả, khóc đến nỗi người chồng không làm sao dỗ được,
người chồng bực mình lắm nên người vợ vừa về đến nhà, chưa kịp hỏi han gì người
chồng đánh ngay vợ. Người vợ không nói gì chỉ ôm con ngồi khóc. Nàng ôm con
ngồi khóc ba ngày ba đêm.
Một buổi sáng thức dậy, người vợ buồn bã nói: Bây giờ chàng không còn yêu thiếp,
chàng không muốn ở với thiếp nữa, thiếp phải về với cha mẹ. Thiếp không thể
mang theo con được, thiếp để con lại cho chàng. Nước mắt ròng ròng, nàng trao con
cho chồng. Người chồng chưa kịp đỡ con thì nàng oà khóc, tiếng khóc nức nở bay
vút lên, nàng biến thành con chim sơn ca bé nhỏ bay về trời cao. Người thợ săn
trẻ cứ bế con đứng nhìn theo mãi đến khi chỉ còn thấy ánh sáng lấp lánh ở chiếc
vòng nơi cổ chân chim. Chàng gục đầu xuống hối hận vì việc làm nóng nảy của
mình và ôm con ngồi khóc.
Đêm ấy chàng thợ săn trẻ nằm trằn trọc mãi không
sau ngủ được. Cảnh nhà vắng vẻ, con nhớ mẹ khóc nỉ non. Chàng quyết định ôm con
đi tìm vợ. Trên đường đi chàng gặp một chú chuồn chuồn đỏ thắm đang đậu trên
cành cây ở giữa lối đi. Thấy chàng, chuồn chuồn hỏi: Kìa anh thợ săn, anh có khoẻ không?
Sao trông anh buồn quá vậy? Chàng
thợ săn buồn bã trả lời: Tôi
khổ lắm chuồn chuồn ơi, vợ tôi đã bỏ đi rồi. Chuồn chuồn bảo: Nếu cần gì thì anh bảo tôi, giúp
được tôi sẽ giúp anh! Người thợ săn thổn thức: Tôi mất vợ, con tôi mất mẹ, tôi
muốn chuồn chuồn đưa tôi lên trời để tôi đón vợ về. Chuồn chuồn giúp tôi nhé! Chuồn chuồn nhận lời đưa chàng đi.
Chàng ngồi lên lưng chuồn chuồn, đang bay thì bỗng gặp một cơn mưa ập đến,
chuồn chuồn ướt cánh không bay được nữa, thế là chàng đành phải quay về. Trên
đường về nhà, chàng vừa đi vừa khóc, gặp chim gáy, chim hỏi: Chào anh thợ săn! Lâu lắm mới gặp
anh, mà sao anh lại vừa đi vừa khóc, có chuyện gì mà đau lòng thế? - Chim gáy
ơi! Vợ tôi đã bỏ tôi mà đi rồi, tôi sống làm sao được nếu không có nàng ở bên
cạnh? - Thế vợ anh đi đâu? - Cô ấy giận tôi nên về ở với cha mẹ ở trên trời
kia. Vừa nói, người thợ săn
vừa chỉ lên trời xanh nơi có những áng mây trắng, mây hồng đang bay lãng đãng.
Chim gáy thủng thỉnh nói: Tôi
cũng muốn giúp anh lắm, nhưng bụng đang đói meo đây, làm gì được bây giờ. - Tôi
cho chim ăn rồi chim giúp tôi nhé. Ăn
xong chim gáy để chàng thợ săn ngồi lên lưng, tay ôm cổ chim, nhưng sức yếu,
chàng thợ săn lại nặng quá nên chim không đủ sức đưa chàng đi. Một lần nữa
chàng lại phải quay về.
Lần thứ ba, người thợ săn gặp đại bàng. Đại bàng
nhận lời đưa anh đi. Nhưng để có đủ sức khoẻ chàng phải cho đại bàng ăn ba cân
thịt bò và một chục chú gà con. Anh thợ săn đi tìm đủ cho đại bàng ăn để đại
bàng lấy sức đưa chàng đi. Trước khi đi, đại bàng dặn anh phải làm thịt một con
lợn dài bảy gang để khi bước chân đến cổng nhà, nàng phải ném thịt cho lũ chó
ngao ăn thì mới vào nhà được. Chim bay qua ba sông, bảy núi, bốn đèo rồi lại
qua bao nhiêu núi non trùng điệp. Đến ngày thứ hai mươi thì đến được cổng trời.
Đại bàng bảo: Đấy, vợ anh đang
ngồi dệt vải bên cửa sổ trong toà nhà to nhất kia kìa!
Cám ơn đại bàng, chàng thợ săn cắm cúi bước đi,
bỗng một đàn chó ngao ở đâu nhảy bổ ra nhe những cái răng trắng nhởn, nhọn hoắt
chực lao vào xé xác chàng. May quá có thịt con lợn bảy gang, anh thợ săn ném
cho lũ chó, bọn chúng tranh nhau vồ thịt mà không để ý đến chàng nữa. Nhân cơ
hội ấy chàng ba chân bốn cẳng chạy thẳng đến nhà nàng. Anh chàng thợ săn phân
vân mãi không biết mình có nên gặp vợ hay không? Liệu gặp mình vợ có thèm nhìn
mặt nữa không? Cũng may lúc đi chàng đem theo chiếc lược của nàng thường chải tóc
ngày xưa, chiếc trâm cài đầu và cái khăn tay thêu tên nàng.
Người thợ săn đứng bên ngoài cửa sổ lén đặt cái
lược vào khung cửi. Người vợ trông thấy, cầm lên ngắm nghía hồi lâu rồi nói một
mình: "Đây đúng là cái lược của tôi ngày trước đã dùng, nhưng tôi đã để
lại cho chồng tôi rồi cơ mà". Người thợ săn lại lén để chiếc trâm cài
tóc vào khung cửi, người vợ reo lên: "Sao chiếc trâm cài tóc của tôi
lại ở đây? Tôi tặng chiếc trâm này cho chồng tôi ngày mới cưới cơ mà".
Đến khi người thợ săn để chiếc khăn tay có thêu tên nàng lên khung cửi, thì
nàng nước mắt lưng tròng nói: Nếu
chàng thật tình thương thiếp thì hãy đón thiếp về. Thiếp nhớ chàng và thương
con lắm! Nghe vợ nói thế, chàng thợ săn đặt con xuống đất, thằng bé nhìn
thấy mẹ, nó lẫm chẫm đi vào, miệng líu lo: Mẹ,
mẹ. Người mẹ ôm chầm lấy con
hôn hít vuốt ve sung sướng. Tuy vậy, lúc người thợ săn bước tới nàng vẫn còn
hờn giận cố giữ kín sự sung sướng của mình và nói: Chàng đã biết hối hận việc cũ rồi
thì hãy nghe lời thiếp. Nếu muốn chung sống cùng thiếp thì phải làm bảy gian
nhà gỗ, cột nhà phải to như cột đình và phải cao chạm đến đám mây kia. Bao giờ
làm xong thiếp sẽ về ở cùng chàng. Lần
này người thợ săn chiều theo ý vợ. Chàng chặt cây đẽo cột nhưng cây to nặng quá
chàng không sao đưa được chúng ra khỏi rừng. Thất vọng người thợ săn ôm mặt
buồn rầu. Lúc ấy có một đàn voi đi ngang qua thấy chàng buồn rầu, chúa voi hỏi
duyên cớ làm sao? Chàng thợ săn kể lại chuyện phải làm nhà để đón vợ về ở mà
bây giờ không sao đem được gỗ ra khỏi rừng. Nghe xong chúa voi nói: Tưởng
chuyện gì chứ chuyện kéo gỗ chúng tôi có thể giúp anh chỉ một loáng là xong.
Thế rồi chúa voi huy động cả đàn voi của mình kéo chỉ một loáng là xong.
Bây giờ đến lúc dựng nhà. Thật là khó khăn vì gỗ
dài quá, một mình chàng không sao đóng được cọc. Một ngày, hai ngày, ba ngày
trôi qua mà không sao dựng được. Chàng buồn quá ngồi khóc, một đàn khỉ đi qua
trông thấy, nghe chuyện của chàng chúng giúp chàng dựng cột buộc sườn. Buộc đến
đâu thì có loài sóc vàng lợp nhà cho đến đó.
Ngắm từ xa, người vợ thương chồng lắm, nàng vội vã
bế con về. Từ đó họ ăn ở hoà thuận, thương yêu nhau và sống hạnh phúc trong căn
nhà mới đó.
38.
RẮN BÁO THÙ
Ngày ấy, trong một gò đất cây cối mọc um tùm ở làng
Nhị Khuê, gọi là gò Rùa, có một con rắn mẹ sống với một đàn con. Con rắn làm tổ
ở đó đã ngót một trăm năm, chỉ còn chờ ít lâu nữa là trở thành xà tinh, có thể
đi mây về gió, biến hoá huyền diệu.
Vào thời ấy có một ông đồ họ Nguyễn mở trường dạy
học trong làng. Thấy đám đất ở gò Rùa có mạch rất đẹp: Trước mặt là đầm làm
minh đường, sau lưng là gò làm án, ông đồ bèn xin làng cấp cho mình đám đất để
dựng một ngôi nhà, làm nơi tĩnh mịch dạy học. Được phép làng, một buổi chiều
nọ, trước khi tan lớp, thầy bảo trò: - Từ mai các con tạm nghỉ học một vài
ngày, rồi đến phát dọn hộ cho thầy đám đất bên gò Rùa kia. Nghe tin ông thầy đồ
sắp cho người đến phá phách chỗ ở của mình, đêm ấy, rắn mẹ bèn báo mộng cho ông
thầy đồ biết. Ông đồ đang ngủ bỗng mơ màng thấy một người đàn bà vẻ mặt hầm hầm
đến sừng sộ. - Này ông kia!
Nào ta có gây thù, chuốc oán gì với nhà ngươi mà nhà ngươi lại toan phá nhà phá
cửa của ta. Muốn tốt thì chớ có động đến, nếu không thì đừng mong được ăn ngon,
ngủ yên với ta đâu. Nói xong
quay ngoắt trở ra.
Ông đồ giật mình tỉnh dậy thì trời đã sáng. Suy
nghĩ mãi về giấc mộng lạ, ông chưa hiểu thế nào cả. Sực nhớ hôm nay là ngày học
trò mình bắt tay khai phá đám đất hoang, ông cho rằng hẳn có ma quỷ gì ở đây
muốn ngăn cản không cho mình tới ở. Sợ tai vạ, ông đã toan bảo học trò ngừng
tay, nhưng suy đi nghĩ lại, ông thấy không nên: Ồ, mộng mị vô chừng, tội gì
phải bận tâm cho mệt. Rồi đó, ông đồ chống gậy đi đến khoảng đất mới, xem học
trò làm việc. Đến lúc đến nơi, thì thấy học trò đã dọn quang một đám khá rộng.
Ông đồ hỏi: - Các con có thầy
gì lạ không? Trò đáp: - Nếu
có gì lạ, chúng con sẽ báo cho thầy biết!
Đêm hôm sau con rắn lại báo mộng. Ông đồ đang mơ
mơ, màng màng, bỗng thấy người đàn bà hôm trước lại đến, tay bê ba đứa con nhỏ,
nhưng lần này vẻ mặt thay đổi hẳn: - Xin
thầy hoãn cho ba hôm nữa, để cho đàn con tôi cứng cáp đã, rồi sẽ xin đi. Thấy người đàn bà vật nài mấy lần thì
động lòng trắc ẩn, ông nói: - Được,
được, tôi sẵn lòng để cho nhà chị nán lại ít hôm.
Sáng dậy, ông đồ nghĩ mãi vẫn chưa hiểu ra thế nào.
Ông bèn đến thăm đám đất đã được phát dọn xem sao. Vừa đến nơi, người trưởng
tràng đã đến nới ông: - Thầy
ạ, vừa rồi có một con rắn lớn, tiếc rằng chúng con mới chém phải một nhát ở
đuôi thì nõ đã chạy mất. Trong hang có một ổ ba con rắn con, chúng con đều đánh
chết cả. Ông đồ chợt hiểu ra, bèn tắc lưỡi ân hận: - Đúng là người đàn bà ở trong con
rắn đã đến cầu khẩn với ta. Và ta đã không kịp cứu bầy con như ta đã hứa.
Lại nói con rắn mẹ bị mất cả đàn con, lại bị thương
tích nặng nề, thì căm tức ông đồ vô hạn. Nó quyết tìm dịp báo thù. Một hôm,
trong khi ông đồ đang đọc sách ở ngôi nhà mới dựng xong, con rắn lén rò vào mái
tranh đến sát gần chỗ ông ngồi, toan sự cắn chết. Nhưng ông đồ vừa liếc thấy đã
kịp hô hoán cho người nhà chạy lại. Rắn ta hoảng hốt bỏ trốn, chỉ kịp nhỏ xuống
trang sách một giọt máu. Ông đồ kinh hãi nhìn lại trang sách, thì thấy giọt máu
nhỏ thấm xuống đến tờ thứ ba. Thở dài, ông lẩm bẩm: “Chắc nó sẽ báo oán đến
đời con cháu ta chứ không sai”.
Mấy chục năm trôi qua. Con rắn ẩn nấp trong chằm
lúc này đã lành vết thương và đã trở thành xà tinh. Nhớ lại món nợ cũ nó bèn
hoá thành một người con gái rất đẹp đi tìm kẻ thù. Lúc này ông đồ đã mất, con
ông cũng lưu lạc chết ở quê người, chỉ còn cháu bé lúc này là Nguyễn Trường,
bấy giờ đang làm quan đại thần ở kinh đô, chức cả quyền cao, vua quan đều trọng
vọng. Một hôm, Nguyễn Trường nhân thong thả đi chơi chợ ở ngoài kinh thành. Con
rắn biết tin, bèn hoá làm một người con gái, gánh một gánh chiếu đi chợ bán.
Cho nên, lúc ông vào đến chợ đã trông thấy một cô gái trẻ tuổi đang đặt gánh
chiếu đứng đọc tờ cáo thị dán ở cổng.
Thấy người con gái bán chiếu ăn mặc nghèo khổ mà
mặt mũi đẹp tựa trăng rằm, lại dáng điệu thanh tú, chẳng có gì lam lũ, ông sai
dừng cáng, bảo người lính hầu gọi cô tới và hỏi: - Ả tên là gì, con cái nhà ai, tại
sao lại làm nghề này? Nàng đáp: - Thiếp
tên là Nguyễn Thị Lan, vì bố mẹ mất cả. Không biết nương tựa vào ai nên đi ở
với một người làm nghề dệt chiếu. - Làm sao lại biết chứ? - Hồi còn nhỏ, cha mẹ
thiếp có cho theo đòi bút nghiên. - Nếu vậy thì ta có bài thơ này, thử hoạ xem:
Ả ở đâu bán chiếu gon? Chẳng hay chiếu đã hết hay còn? Xuân xanh chừng độ bao
nhiêu tuổi? Đã có chồng chưa? Được mấy con? Cô
gái liền đọc bài thơ hoạ: Thiếp
ở Tây Hồ bán chiếu gon, Cớ chi ông hỏi hết hay còn. Xuân xanh mới độ trăng tròn
lẻ. Chồng còn chưa có, hỏi chi con. Nguyễn
Trường tấm tắc khen: - Chao
ôi! Tài này thật nàng Ban, ả Tạ dễ không sánh kịp! Ta đang cần một người hầu
bút nghiên, chẳng hay nàng có muốn bỏ nghề bán chiếu, về ở với ta trong phủ
không? Biết mưu đã đắt, cô
gái gật đầu.
Sau lần đi dạo chợ ấy, Nguyễn Trường đưa Thị Lan về
làm hầu gái. Càng ngày ông càng yêu vì nết, trọng vì tài. Với ông, Thị Lan vừa
là người vợ, vừa là người bạn văn chương. Sắc đẹp của nàng làm cho cả phủ nổi
ghen. Nhưng nàng rất khôn ngoan, biết lấy lòng tất cả mọi người. Đối với Nguyễn
Trường thì hết sức chiều chuộng, lại giúp ông thảo các giấy tờ việc quan rất
trôi chảy, nên ông rất yêu dấu.
Tiếng đồn về người hầu gái của Nguyễn Trường chẳng
mấy chốc vang đi khắp nơi. Buổi ấy, nhà vua đang cần một người hầu giảng sách,
nghe tiếng Thị Lan tài sắc hơn đời, vua bèn buộc Nguyễn Trường dâng luôn cho
mình. Thị Lan lại trở tài và chiều chuộng rất mực ông vua trẻ. Càng ngày vua
càng yêu mến không rời, phong làm nữ học sĩ.
Một hôm, mẹ vua bị bệnh đau mắt nặng thái y viện
không có cách gì chữa khỏi. Nghe tin này, Thị Lan bèn tây vua: - Thiếp ngày trước ngoài việc học chữ
còn võ vẽ đôi chút về nghề y. Nếu được phép bệ hạ, thiếp xin thử chữa cho hoàng
thái hậu xem sao. Vua không
ngờ nữ học sĩ lại lắm tài nghề, bèn y cho. Thị Lan đến nơi, chỉ dùng lưỡi mình
liếm vào con mắt của mẹ vua, tự nhiên bệnh đau mắt của mẹ vua khỏi hẳn, không
cần tra thuốc men gì. Sau việc đó, vua lại càng yêu dấu và tin cậy.
Một hôm, vua bị đau lưỡi. Sực nhớ tới Thị Lan, nhà
vua bèn đòi nàng vào cung để chữa cho mình. Thấy đúng là cơ hội đến nơi, Thị
Lan liền bảo nhà vua thè lưỡi cho mình chữa. Vua thè lưỡi ra, rắn bèn cắn vào
lưỡi một cái. Vua ngã chết ngay, không kịp kêu lên một tiếng. Triều đình lập
tức bắt giam Thị Lan và bắt giam luôn họ nhà Nguyễn Trường để xét xử.
Chẳng mấy chốc mà cái án giết vua đã thành. Thị Lan
bị trảm quyết. Khi đao phủ sắp sửa đem xử tù, thì nàng xin phép được xuống sông
tắm gội lần chót. Người ta y theo lời xin, cho một người lính gác tù đi theo
canh giữ. Nhưng khi vừa bước xuống nước, rắn lập tức trở lại nguyên hình và
trườn xuống sông mất tích. Người lính gác để sổng mất nữ tù, liền bị bắt giam
và theo luật phải chết thay.
Vụ án Thị Lan vì chính phạm trốn mất nên búa rìu
pháp luật tự nhiên giáng xuống đầu cả họ Nguyễn Trường. Theo lệnh triều đình,
bà con thân thích của ông bất kể nam nữ già trẻ, tất cả đều bị xử giảo. Riêng
có Nguyễn Trường và người lính gác tù thì đem chôn sống. Hôm thi hành bản án,
người lính gác là kẻ chịu cực hình đầu tiên. Khi sắp đến lượt Nguyễn Trường,
bỗng có một người đàn bà vợ anh lính, ở đâu chạy tới nhảy chồm lên mộ chồng gào
khóc thảm thiết, đòi một hai chết theo cho trọn đạo. Trước cảnh thương tâm,
Nguyễn Trường khuyên chị: - Ta
vì một thiếp mà bị chết oan cả họ, còn chồng nàng thì lại vì ta mà bị thiệt
thân. Thôi, nàng lãy coi đó là số mệnh, đừng khóc nữa. Hãy ngửa bàn tay cho ta
ghi lại một chút dấu tích. Sau này nếu có việc gì thì đừng quên ta!
Vợ người lính gác vừa hứng lấy bãi nước bọt thì
bỗng nhiên rùng mình cảm động. Từ đấy, nàng có mang, đủ chín tháng mười ngày,
sinh được một người con trai rất khôi ngô. Nàng đặt tên là Anh Vũ. Và nghĩ rằng
đó là dấu tích của vị đại thần chết oan, nên tuy mình họ Phạm, nàng cũng khai
cho con họ Nguyễn. Khi con lớn khôn, nàng cố gắng cho nó đi học. Anh Vũ thông
minh, học chóng tấn tới. Năm Anh Vũ hai mươi tuổi cũng là năm có lệnh ân xá cho
cả nhà Nguyễn Trường, vì đức hoàng đế mới lên ngôi đã thấu rõ mối oan tày trời
của bậc công thần. Tất cả những của cải, ruộng đất, nô tì trước đây triều đình tịch
thu đều trả lại cho dòng họ của ông. Nhưng dòng dõi của Nguyễn Trường thì chẳng
còn một ai. Thấy thế, vợ người lính gác bèn đưa Anh Vũ đến kinh thành đánh
trống đăng văn. Nhà vua cho gọi vào. Trước sân rồng, nàng kể lại lúc Nguyễn
Trường nhổ bãi nước bọt vào tay đến lúc mình nuôi khôn lớn. Vua nghe đoạn trầm
ngâm một hồi, rồi phán rằng: “Đúng đây là dấu tích của Nguyễn Trường. Chưa nói
đến sự hiển ứng, chỉ xem nét mặt cũng phảng phất giống vị công thần”. Anh Vũ
bèn được coi là con đẻ của Nguyễn Trường và được bổ làm quan. Càng ngày lòng
vua thương xót vị đại thần chết oan càng dồn vào Anh Vũ. Sau một thời kỹ bước
dần lên nấc thang danh vọng, Anh Vũ được cử đi sứ Trung Quốc vì nhà vua biết
chàng không những có tài văn chương mà còn có tài hùng biện.
Lại nói chuyện con rắn từ ngày báo được thù cũ và
trốn thoát thì nó ngao du trên mọi ngã sông hồ, không có chỗ ở nhất định. Một
hôm, nghe tin dòng dõi của Nguyễn Trường vẫn còn, lòng căm tức của nó lại bừng
bừng bốc lên. Lúc thuyền sứ bộ đi qua hồ Động Đình, thì bỗng dưng mọi người
thấy có một con rắn rất lớn đuổi theo thuyền; đuôi nó như cột buồm quẫy sóng
rất dữ làm cho thuyền tròng trành cơ hồ muốn chìm nghỉm. Cả đoàn sứ bộ và thuỷ
thủ đều sợ xanh mắt. Một lúc sau, con rắn vừa lội theo thuyền vừa ngóc đầu lên khỏi
mặt nước réo tên Anh Vũ. Thấy vậy, Anh Vũ biết là món nợ của tổ tiên hãy còn
dai dẳng chưa thôi. Ông phải tính liệu một bề để cứu lấy mọi người trên thuyền.
Suy nghĩ một chốc, ông bèn đứng ra ở mũi thuyền nói to: - Hỡi rắn thần, nghe ta đây! Hãy để
cho ta làm tròn sứ mạng của nhà vua. Xong việc nước, ta sẽ về đây nộp mình. Nói đoạn, tự nhiên sóng êm, gió lặng.
Con rắn đã biến mất.
Mấy tháng sau, công việc giao thiệp đã xong, thuyền
sứ bộ lại trên đường về qua hồ Động Đình. Rắn lại hiền ra đằng mũi thuyền réo
tên Anh Vũ. Sau khi dặn dò sứ bộ mọi điều, Anh Vũ cầm một con dao nhọn vào tay
và nói: - Tôi phải xuống để
báo thù cho cha tôi! Đoạn từ
mũi thuyền, chàng lao thẳng xuống mặt hồ. Cả đoàn sứ bộ nhìn theo ứa nước mắt
khi thấy vị chánh sứ trẻ tuổi của mình một đi không trở lại. Nhưng lúc ấy bọt
tung sóng vỗ, rồi máu đỏ lênh láng trên mặt nước.
39.
CHUYỆN NÀNG CÓC
Ở làng nọ có một gia đình người nông dân đã già mà
chẳng có được một mụn con. Hai vợ chồng cầu trời khấn Phật mãi, cuối cùng người
vợ cũng có thai. Sau chín tháng mười ngày, bà vợ trở dạ nhưng lại sinh ra một
con Cóc xấu xí. Hai vợ chồng thất vọng, thở ngắn than dài cho là trời không
thương, cho họ con thì chẳng cho lại cho một con vật xấu xí. Lúc đầu, họ định
vứt Cóc đi nhưng nghĩ đi nghĩ lại, họ thấy dù sao cũng là khúc ruột của mình
nên để Cóc lại trong nhà và nuôi nấng chăm sóc như một đứa trẻ. Ngày qua tháng
lại, dù cho Cóc ăn uống bao nhiêu thì Cóc vẫn cứ bé như lúc mới sinh. Được cái
Cóc cũng bi bô nói được tiếng người nên ngôi nhà của họ cũng đầm ấm hẳn lên.
Một hôm, người vợ ở đồng về phàn nàn với chồng: Lúa
nhà ta chín rồi, mọi người qua lại giẫm bừa lên, nhà chẳng có ai trông nom,
sinh được một mụn con thì lại là Cóc, còn trông mong được gì. Nghe mẹ than vãn,
Cóc liền thưa: Cha mẹ để con ra đồng trông lúa cho. - Mày là Cóc, người ta qua lại dứt
lúa còn giẫm cho bẹp gí chứ nom được gì. - Cha mẹ yên tâm, con ở dưới ruộng,
nếu thấy ai dứt lúa thì nói thiệt hơn chắc họ sẽ nghe thôi. Cóc năn nỉ mãi, cuối cùng cha mẹ
đành phải bằng lòng.
Ở làng bên có anh học trò nghèo nhưng rất đẹp trai,
ngày hai buổi đi qua con đường có ruộng lúa của nhà Cóc. Cóc ở trong ruộng
trông thấy có ý phải lòng anh ta nên lần nào thấy anh, Cóc cũng chọc ghẹo:
"Anh đồ ơi, anh đồ ơi!". Anh học trò ngoảnh đi ngoảnh lại không
thấy ai, lần thứ hai, thứ ba thì nghe thấy tiếng người mời ngồi xuống ruộng nói
chuyện. Tò mò, anh học trò xuống ruộng, anh kêu lên kinh ngạc vì trước mắt là
một con cóc xù xì nói tiếng người: Tôi
thấy anh là một người học trò chăm chỉ, tôi muốn kết duyên cùng anh, chẳng hay
anh có bằng lòng không? - Tôi
và cóc khác nhau thì làm sao chung sống? - Tuy tôi là cóc nhưng tôi làm được
mọi việc như những người vợ đảm đang, anh cứ lấy tôi rồi mọi việc sẽ được như
ý.
Trên đường về nhà, anh học trò phân vân ngẫm nghĩ:
Có lẽ là duyên số. Cóc mà biết nói như người hẳn không phải là chuyện bình
thường. Ta lấy Cóc về để nàng giúp đỡ mẹ già chẳng tốt sao? Anh liền thưa với
mẹ đến nhà Cóc xin lấy Cóc về làm vợ. Nghe bà cụ trình bày, cha mẹ Cóc đều từ
chối: Con tôi là Cóc, bà hỏi
làm gì cho vợ chồng tôi thêm tủi. Cóc
ngồi trong buồng nghe chuyện, thưa vọng ra: Bà
cụ đã có lòng đến hỏi, cha mẹ cứ nhận lời đi cho bà vui. Về làm dâu con sẽ chăm
chỉ làm việc. Thấy Cóc nói vậy, cha mẹ đành nhận lời. Hôm cưới, hai họ đưa
đón, cô dâu nhảy lóc cóc đằng sau, về đến nhà chồng, cô dâu nhảy ngay vào
buồng.
Từ đó, ngày ngày mẹ chồng ra đồng, chồng đi học,
Cóc ở nhà trút bỏ lốt cóc hiện thành người dọn dẹp cửa nhà, thổi cơm nấu nước,
cơm dẻo canh ngọt. Công việc xong xuôi, Cóc lại lấy da cóc mặc vào. Khi mẹ và
chồng về thì công việc đã xong đâu vào đấy. Gia đình sống rất đầm ấm và vui vẻ.
Các bạn của anh học trò nghèo thấy anh lấy vợ cóc
thì đều chê cười, khinh bỉ. Một hôm, sắp đến ngày nhà thầy đồ có giỗ, bọn học
trò bẩm với thầy rằng: Nay mai nhà thầy có giỗ cụ, chúng con muốn mỗi người có
một mâm cỗ để tỏ lòng thành kính, nhân thể nhờ thầy chấm cho xem ai làm cỗ
khéo. Thầy đồ bằng lòng, cả bọn hỉ hả chắc mẩm phen này anh chàng có vợ cóc
chắc chắn phải tìm kẽ nẻ mà chui xuống. Anh học trò có vợ cóc lấy làm lo lắng,
về đến nhà anh liền lăn ra giường thở ngắn than dài. Vợ hỏi nguyên do, anh
chồng nói cho Cóc nghe chuyện phải làm. Nghe xong, Cóc nhỏ nhẹ bảo chồng:
"Chàng cứ an tâm đi học, lúc nào người ta bưng cỗ đến thì chàng về nhà,
sẽ có cỗ ngon cho chàng đem thi".
Ngày giỗ đã tới, các trò tới tấp bưng cỗ đến nhưng
mâm nào thầy cũng chê, đến mâm cỗ của anh chàng có vợ cóc thì thầy khen nức nở.
Mâm cỗ ấy được thầy chấm cho giải nhất, không những cỗ trông đẹp mắt mà ăn lại
rất ngon miệng. Bọn học trò thua cuộc lấy làm tức tối, không ngờ cóc lại giỏi
đến thế. Bọn chúng lại nghĩ ra trò mới để hạ nhục đồng môn. Chúng thưa với thầy
cho thi may áo mừng thầy.
Anh học trò có vợ Cóc lo lắm, bồn chồn đứng ngồi
không yên. May áo là một việc rất khó, cóc làm sao mà may được. Về đến nhà, anh
đưa bộ mặt ủ rũ kể chuyện cho vợ nghe. Cóc nghe xong liền vui vẻ bảo chồng:
"Chàng cứ yên tâm đi học, lúc nào người ta mang áo đến nhà thầy, chàng
về nhà sẽ có áo đẹp cho chàng đi thi". Bọn học trò háo hức đem áo đến
nhà thầy, nhưng khi thầy mặc vào, cái thì dài lê thê, cái thì ngắn cũn cỡn, cái
thì rộng thùng thình, cái lại hẹp bó lấy người, thầy chẳng ưng cái nào cả. Cuối
cùng, thầy thử đến cái áo của anh học trò có vợ cóc thì áo vừa như in. Thầy tấm
tắc khen áo may khéo đến thế và lần này, anh học trò có vợ cóc lại được giải.
Bọn học trò cay cú bàn nhau:- Vợ nó là cóc, tuy có tài nhưng nhất
định không đẹp. Lần này, đến đúng mùng một tết, ta xin với thầy, tất cả học trò
phải đưa vợ đi cùng để mừng tuổi thầy và thi xem học trò nào có vợ đẹp nhất. Vợ
chúng ta dù xấu hay đẹp cũng là người, lẽ nào lại không hơn vợ nó. Anh học trò có vợ cóc nghe
tin này thì bạt vía kinh hồn, anh ta chạy một mạch từ nhà thầy về nhà mình hổn
hển than với vợ. Chàng quả quyết rằng tết năm nay chàng xin khất không đến mừng
tuổi thầy vì chàng nghĩ vợ mình dẫu sao cũng chỉ là cóc. Cũng như những lần
trước, Cóc khuyên chồng yên tâm học tập, mọi việc đã có nàng lo liệu.
Rồi ngày tết cũng đến, học trò đua nhau đưa vợ xúng
xính trong bộ váy áo sặc sỡ đến chúc tết thầy. Cóc giục chồng đi trước rồi lóc
cóc nhảy theo sau. Anh chàng thấy vợ mình như thế thì chán quá, dừng lại không
đi, đành chịu thất lễ với thầy vậy. Thấy chồng chán nản, Cóc động viên: Chàng cứ đi đi, rồi đâu sẽ vào đấy.
Đến gần cổng nhà thầy, cóc nhảy vào bụi cỏ trút lốt cóc, hiện ra là một cô gái
xinh đẹp nõn nà. Anh chồng vội lấy lốt cóc xé đi rồi dẫn vợ vào nhà thầy. Tất
cả mọi người có mặt đều ồ lên ngạc nhiên, không ngờ chị Cóc lại xinh đẹp đến
thế, hai vợ chồng họ thật là đẹp đôi và lần này chị Cóc lại được giải nhất. Bấy
giờ bọn học trò mới lấm lét nhìn nhau chịu thua và cũng từ đấy chúng không còn
dám khinh thường anh chàng lấy vợ cóc nữa.
40.
HUYỀN QUANG
Vào thời nhà Trần có một người học trò trẻ tuổi ở
xứ Bắc tên là Huyền Quang. Nhà chàng không đất cắm dùi nhưng cha mẹ chàng thì
cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để nuôi con ăn học. Khi Huyền Quang
đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái con một nhà khá giả trong vùng.
Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm
rể bên nhà vợ khá vất vả. Cho đến ngày gia đình sắm sanh lễ vật xin cưới thì
đột nhiên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ hôn. Huyền Quang lấy làm buồn lòng
vì thói đời tráo trở, chàng càng thấy đau lòng hơn khi cô gái thuận lấy người
cháu họ một viên án phủ sứ. Sau đó cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác,
nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không
có mả mà nên, không phải là nơi nương tựa. Vì vậy cho đến năm ngoài hai mươi
tuổi, Huyền Quang vẫn một thân một mình.
Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang
lại càng quyết chí về đường kinh sử. Năm hai mươi tuổi, chàng thi đậu ở trường
thi quê nhà, rồi vào triều đình đậu Trạng nguyên. Nghe tin Huyền Quang đậu
Trạng, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin có con gái đến tuổi lấy chồng,
kèm theo cả một tư cơ đồ sộ. Một ông quan lớn ở kinh kì cũng mời quan tân khoa
về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám. Tiếp đó, ngày chàng
vào kinh bái mạng để nhận chức, một viên nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ vào
tai: Hoàng hậu đang kén phò mã cho công chúa ba đấy, nếu quan Trạng muốn thì
việc tốt đẹp nhất định phải thành. Thấy tình đời như vậy, Huyền Quang than: Khó
khăn thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên. Than đoạn, chàng
nguyện suốt đời sẽ không lấy vợ. Thế rồi người ta thấy chàng nhất quyết từ chối
mọi hứa hẹn tốt đẹp. Nhưng cuộc đời danh vọng cũng không làm cho chàng vui
lòng. Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng
ghê tởm. Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời. Làm quan chưa được bao lâu chàng đệ
đơn lên vua xin từ chức để đi tu. Bấy giờ cha mẹ chàng đã nối gót nhau qua đời.
Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được. Huyền
Quang tu hành rất chăm chỉ. Chẳng bao lâu chàng đã thuộc tất cả các kho tàng
kinh sách của nhà Phật. Rồi nhờ có học vấn không ai bì kịp, Huyền Quang được
nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư. Vua còn cho chàng trông nom viện Trúc Lâm và
cho trụ trì ở một ngôi chùa lớn cai quản hàng mấy nghìn tăng ni. Còn ít tuổi
như chàng được trở thành một bậc giáo chủ, đời bấy giờ coi là việc hiếm có.
Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng. Thấy vị
tổ Trúc Lâm là người còn ít tuổi, vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt
dục khổ hạnh, "cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã".
Nghĩ vậy, vua có ý định thử xem đạo đức của
vị sư tổ trẻ tuổi này như thế nào. Nhân mấy ngày hoàng hậu se mình vua cho
triệu sư tổ về kinh làm lễ cầu siêu. Sau mấy đêm việc cầu siêu đã xong, trước
khi chàng trở về chùa, vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền công khó nhọc. Huyền
Quang không tiện chối từ đành phải cầm lấy, nhưng chàng đâu có ngờ rằng cái bẫy
đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.
Sau đó ít lâu, vua cho một cung nữ nhan sắc xinh
đẹp tên là Điểm Bích tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến
rũ cho bằng được. Vua còn dặn Điểm Bích làm sao lấy được ở nhà sư ít nhất một
lạng vàng đưa về làm tang chứng.
Biết Lại nói chuyện Huyền Quang hôm ấy nghỉ tại một
thiền trai cất trên một ngọn đồi cách viện Trúc Lâm chừng vài dặm. Đây là một
gian nhà nhỏ rất tĩnh mịch mà vua sai xây cho chàng để nghỉ ngơi sau những ngày
giảng kinh mệt nhọc. Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ
mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo sống tơi tả: Bạch thầy, người này bị cướp đuổi, vừa
gọi kêu cứu. Đó là Điểm Bích lúc này cải trang thành một cô gái quê mùa. Nàng
khóc sướt mướt, một hai xin nhà chùa cho ở trọ một đêm nay. Nàng bịa ra câu
chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy trốn vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang
không thể từ chối được. Cuối cùng theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho
Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài thiền trai.
Sự việc xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng
không được yên tĩnh. Chàng để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi dở quyển kinh ra tụng
niệm mãi tới khuya. Sắp sửa đặt lưng xuống giường, chàng bỗng nghe thấy tiếng
rên rỉ của người đàn bà. Chàng lại phải đánh thức chú tiểu dậy xem như thế nào.
Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong thiền trai vì ở
ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối. Nhà hẹp có ba
gian, và chỉ có hai thầy trò, các tăng chúng đều ở xa không kịp gọi. Suy nghĩ
giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào chỗ tiếp khách, còn mình
thì lui vào trong phòng khoá cửa lại. Nhưng vừa chợp mắt được một lúc thì lại
nghe thấy tiếng rên rỉ ở phía ngoài. Chàng lại ngồi dậy cầm lấy tràng hạt và
quyển sách. Nhưng khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng đã
thấy người đàn bà nằm loã lồ trên bộ vách. Chàng quyết định ngồi trên giường
tụng niệm cho tới sáng để chống lại sự cám dỗ. Không ngờ giữa lúc những tiếng
tụng niệm vừa cất lên, thì Điểm Bích ở đâu đã sán lại ngồi cạnh chàng, nói
những câu cám ơn nhưng lại xen những lời khêu gợi.
Người đàn bà đến đây có mục đích không lương thiện,
Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại: A
di đà Phật. Nàng là ai? Tại sao lại tìm đường vào đây để quấy rối những người
tu hành? Nếu không mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người
đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện. Thấy Huyền Quang không phải là hạng người
dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ. Nàng chuyển sang bộ mặt rất
rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn. Nàng nói: Thiếp vốn là con nhà thế phiệt. Cha
thiếp làm quan huyện ở vùng biển. Mùa tháng năm vừa rồi nhân đi thu thuế được
ba nghìn quan, cho dân phu đài tải về kinh. Không ngờ bị bọn cướp đường, đón
lấy mất cả. Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm. Hiện nay cha thiếp thu
gom tư trang chừng một nửa. Bởi vậy thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ
thiện kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu. Hôm nay đánh bạo đến đây định xin
hoà thượng rủ lòng thương xót quyên cấp cho ít nhiều. Nhưng thấy cảnh chùa tôn
nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mưu mẹo nhỏ để gặp hoà
thượng, sau đó mới bày tỏ mục đích. Dám xin hoà thượng mở lượng hải hà cứu vớt
lấy cha thiếp và cả nhà thiếp. Thiếp nguyện đưa thân nữ tì hầu hạ suốt đời.
Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động. Chàng vội trả
lời: Nàng đừng có lo lắng gì
cả. Ngày mai ta sẽ tiến triều, tâu với vua xin tha tội cho cha nàng. Sợ
Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói: Bạch hoà thượng, việc của cha thiếp
nay còn chưa đến tai Thánh vương, hoà thượng về tâu giúp cho, thật là công đức
vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền hoà thượng phải
xuống núi nhọc sức. Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của vua còn bày ở
trai phòng. Chàng vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng: Ta biếu nàng tất cả, nàng đem về mà
chuộc tội cho cha.
Lại nói chuyện khi trở về cung, Điểm Bích liền đưa
nộp mười nén vàng và tâu với vua rằng mình đã cám dỗ được con mồi. Để vua tin,
nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình
trước khi phá giới: Vằng vặc
trăng mai ánh nước / Hiu hiu gió trúc ngầm sinh / Người vừa tươi tốt, cảnh vừa
lạ / Mầu Thích Ca nào chẳng hữu tình. Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy
nén vàng, nhà vua thở dài hối hận: Chao
ôi! Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi. Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định
con chim khó tránh được. Biết làm thế nào bây giờ? Nghe nói thế, một viên quan ghé vào
tai vua hiến kế: Tâu bệ hạ,
xin bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật dọn toàn cỗ mặn rồi mời thầy về làm
lễ. Nếu quả là thầy còn trong sạch thì chư Phật sẽ độ cho cỗ mặn hoá ra chay,
nhược bằng hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ. Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho
gọi Huyền Quang về triều để làm một lễ chay trọng thể vào dịp rằm tháng bảy sắp
tới. Vua còn bắt quân hầu dựng một đàn tràng nguy nga, các rạp đều trần trướng
toàn bằng lụa hoàng quyến. Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ,
vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Khi sắp bước vào rạp, Huyền Quang biết nhà vua cố ý
làm nhục mình. Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên bàn kia nếu không phải là một
sự xỉ vả thì còn là gì nữa. Lụa hoàng quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ tiếng
"Huyền Quang". Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn: Kẻ đệ tử
này nếu có điều gì bất chính, xin chư Phật cho đày xuống âm ti địa ngục, còn
không thì xin cho những cỗ mặn kia hoá thành chay tất cả! Tự nhiên một trận gió
mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại. Một chốc gió tan, mọi
người nhìn lên đàn tràng thì lạ thay tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành mâm
cỗ chay tinh khiết, thơm tho, mọi mùi tanh tưởi đều bị quét sạch từ bao giờ.
Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của chúng tăng và
mọi người. Vua Anh Tông được tin, lập tức bắt Điểm Bích tra hỏi cho ra sự thật.
Biết là bại lộ, người cung nữ cúi đầu thú nhận hết tội lỗi. Vua truyền bắt Điểm
Bích bỏ ngục chờ ngày phán xử rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi. Câu nói
đầu tiên của Huyền Quang khi gặp nhà vua là xin tha tội cho Điểm Bích.
41.
ĐỒNG TIỀN VẠN LỊCH
Ngày xưa, có một lái buôn tên là Vạn Lịch. Anh ta
có ngót đến một trăm chiếc thuyền dùng để chở hàng. Buôn to lãi lớn, anh ta là
một trong những người giàu có nhất nước. Do phải lênh đênh sông nước quanh năm
suốt tháng nên thuyền riêng của Lịch cũng có buồng ăn buồng ngủ... không khác
gì trên mặt đất. Trong khoang thuyền, quanh chỗ nằm, chỗ nào chỗ nấy đầy ắp lụa
là gấm vóc và rất nhiều vàng bạc. Lịch có một người vợ rất trẻ và xinh đẹp tên
là Mai thị. Do hay phải đi buôn bán xa, vợ lại trẻ đẹp nên lúc nào Lịch cũng
ngờ vực vợ mình không thực lòng với mình. Lúc nào hắn cũng tìm cơ hội đay
nghiến, xét nét nàng từng ly từng tí khiến nàng rất khổ tâm.
Một hôm, thuyền của Lịch đậu ở một bãi vắng. Lúc
đó, vợ Lịch lại đang ngồi têm trầu ở trước mui thuyền. Bỗng đâu có một anh đánh
giậm mình mẩy lấm láp đến cạnh thuyền xin một miếng trầu. Mai thị thấy người
nghèo khổ thì thương hại, hỏi thăm mấy câu rồi lấy miếng trầu trong cơi vàng
đem cho. Lịch đang ngủ trong khoang thuyền chợt tỉnh giấc. Bắt gặp cảnh tượng
đó, hắn gây chuyện với Mai thị rồi xỉ vả nàng thậm tệ mặc cho nàng đã hết lời
thề thốt van xin. Đoạn hắn vứt trả xống áo cho nàng cùng với một thoi vàng, một
thoi bạc rồi đuổi nàng đi.
Mai thị bơ vơ một mình trên bãi biển vắng không
biết đi đâu. Đang hoang mang, nàng gặp lại người đánh giậm khi nãy. Nàng khóc
lóc kể lể sự tình, còn anh đánh giậm thì chẳng hiểu sao cứ ngẩn cả người ra.
Khi biết anh ta chưa có vợ, Mai thị nói: Hắn đặt điều bảo tôi gian díu với anh,
âu cũng là cái số tôi nó khổ, không lấy được kẻ giàu sang. Tôi xin theo anh về
làm vợ, dẫu có khổ sở thế nào đi nữa tôi cũng chịu được. Hai ta sẽ làm ăn nuôi
nhau. Anh chàng đánh giậm nghe vậy cũng không biết từ chối thế nào. Sau một hồi
ngẩn ngơ, cuối cùng chàng dẫn Mai thị về túp lều của mình bên bờ sông. Họ trở
thành vợ chồng từ đấy. Anh chồng vẫn làm nghề cũ, còn chị vợ ở nhà chăn nuôi,
tuy cuộc sống nghèo nàn nhưng họ sống rất hạnh phúc.
Ba năm trôi qua, hôm ấy trời mưa rất to, anh chồng
rỗi việc ngồi nhà. Thấy đàn gà thi nhau mổ thóc trong thúng, lại sẵn có thoi
vàng trong thúng khâu của vợ, anh ta không biết là vật gì liền cầm ném đàn gà.
Chị vợ đang ngồi vá áo, trông thấy, chưa kịp ngăn lại thì chồng đã ném đi. Thấy
vậy, vợ trách chồng: Ô kìa!
Người sao mà ngu thế! Anh có biết anh vừa ném cái gì không? Anh chàng đáp, mặt tỉnh bơ: Không
biết! - Đấy là vàng, quý lắm đấy biết không? - Ôi dào, thứ ấy thiếu gì. Những lúc đi
bắt cá ở vũng kia, tôi nhặt được luôn nhưng chẳng biết dùng làm gì nên lại vứt
bỏ. Chị vợ nghe chồng nói bỗng ngẩn cả người. Bán tín bán nghi, chị giục
chồng đi lấy về. Quả nhiên, đó là vàng thực, rất nhiều vàng. Điều khiến chị
ngạc nhiên hơn, đó là trên mỗi thỏi vàng đều có dấu hiệu của Vạn Lịch. Nguyên
Vạn Lịch từ ngày đuổi vợ đi, buôn bán có phần thua lỗ. Trong một chuyến đi gần
đây, thuyền của Vạn Lịch gặp bão bị đắm. Lịch may mắn thoát chết nhưng của cải
vàng bạc đều trôi theo dòng nước và dạt vào chỗ gần hai vợ chồng Mai thị. Thế
là một cách ngẫu nhiên, kho vàng của Lịch lại thuộc về vợ chồng Mai thị.
Từ khi có của, Mai thị xây dựng nhà cửa, sắm sửa
may mặc cho chồng. Hai vợ chồng họ trở nên giàu có và nổi tiếng trong vùng.
Phải cái anh chồng quá ngờ nghệch, giàu có mà vẫn không mở mặt được với đời. Vợ
anh luôn mồm bảo anh phải năng chơi bời với người ta để mà học khôn thì mới
mong ngẩng mặt lên được. Chồng nghe lời vợ, vào xóm gạ chuyện với mọi người để
làm quen kết bạn nhưng chẳng ai thèm chơi với một thằng đần độn như anh. Cứ
thế, mấy hôm liền anh chồng chẳng chơi được với ai. Hôm anh về, chị vợ hỏi: Đã chơi được với ai chưa? - Chưa. Mai thị ngán ngẩm: Người đâu mà cứ như trên trời rơi
xuống, u mê thế là cùng. Thế này thì chơi được với ai, hoạ có chơi với phỗng
thì được. Chồng nghe vợ nói
thế thì tưởng mình chỉ được chơi với phỗng bèn tìm một ngôi đền vắng ít người
qua lại. Anh lân la làm quen và nói chuyện rất say sưa với mấy bức tượng phỗng
đặt hai bên sân đền. Anh chơi đùa, cười nói vui vẻ, lại còn bá vai bá cổ mấy
bức tượng như chơi đùa với người thật. Sau đó, anh đi mua bún lòng về mời mấy
bức tượng ăn. Thấy mấy bức tượng không nhúc nhích, anh nhét cho mỗi tượng một
miếng vào miệng. Vậy mà cũng chẳng thấy tượng nói gì. Anh tức mình xô phỗng từ
trên bệ lăn kềnh xuống đất rồi bỏ về. Về đến nhà, vợ hỏi, anh trả lời thực
tình. Mai thị nghe xong ngán ngẩm đành giữ chồng lại ở nhà dạy khôn.
Thật không ngờ là ngôi đền mà anh đánh giậm đến
chơi lại là nơi phát tích của nhà vua. Từ sau hôm anh đánh giậm xô đổ pho
tượng, vua bỗng bị liệt nửa người. Bao danh y trong nước đã triệu vào cung chữa
bệnh cho vua nhưng vị nào cũng bó tay. Cuối cùng một vị quan trong triều gieo
quẻ báo tin là ngôi đền này có động. Lập tức vua truyền lệnh từ kinh đô cho
quan tỉnh về làm lễ tạ. Đang lúc tiến hành làm lễ, quan trên bỗng chú ý đến pho
tượng phỗng bị đổ. Quan truyền lệnh cho mọi người dựng tượng dậy, nhưng kỳ lạ
thay hàng chục người xúm lại đều không nâng nổi, bức tượng không hề nhúc nhích.
Mặc cho họ đã làm đủ cách nhưng bức tượng vẫn trơ như đá. Nhà vua nghe tin thì
càng lo lắng hơn, vì thế bệnh tình cũng ngày một nặng hơn. Vua bèn sai yết bảng
cho tất cả thần dân trong nước, ai có phép gì dựng được tượng phỗng lên thì sẽ
hậu thưởng. Qua mấy hôm yết bảng, hôm ấy, Mai thị đi chợ qua tình cờ nhìn thấy.
Nhớ ra đó chính là ngôi đền mà chồng mình đã tới trước đó, nàng về hỏi chồng: Hôm ấy anh làm thế nào đẩy ngã pho
tượng đó? Anh chồng đáp: Chẳng có gì cả. Tôi chỉ đẩy nhẹ là
nó đã đổ - Bây giờ anh có dựng được lên không? - Có gì mà không được. Hai vợ chồng bèn ra giật bảng xin quan
vào nâng thử. Quả nhiên, anh đánh giậm chẳng tốn mấy sức đã nâng được pho tượng
lên. Ngay lúc đó, nhà vua cũng khỏi bệnh. Vua sai lấy vàng bạc thưởng cho vợ
chồng Mai thị nhưng họ không nhận. Họ chỉ một mực xin làm một chân tuần ty,
ngồi thu thuế ở bờ sông Cả. Nhà vua rất ngạc nhiên, tuy vậy vẫn ưng thuận. Hai
vợ chồng đi nhậm chức ngay. Sẵn nhiều vàng bạc, họ bỏ ra xây dựng nhiều nhà cửa
rất nguy nga ở cửa sông.
Một ngày nọ, thuyền của Vạn Lịch đi qua đấy đỗ lại
để nộp thuế. Mai thị chỉ chờ có vậy liền bắt chủ nhân phải đích thân nộp thuế.
Lên công đường, Lịch sửng sốt khi nhìn thấy người ngồi trước án chính là vợ cũ
của mình và anh đánh giậm. Lịch cúi mặt không nói câu gì, còn Mai thị mỉa mai
bảo hắn: Biết rằng anh vẫn đi
buôn / Em về kiếm chốn nha môn ngồi tuần / Dù anh buôn bán xa gần / Làm sao
tránh khỏi cửa tuần của em. Vạn
Lịch nghe xong thì vô cùng xấu hổ. Trở về thuyền, hắn vừa uất vừa hối hận. Đoạn
hắn làm giấy kê khai toàn bộ tài sản cho Mai thị để gọi là chuộc lại lỗi lầm
năm xưa rồi đâm cổ tự vẫn. Đến lúc đó, Mai thị hối hận thì đã muộn. Nàng bèn
đem tất cả tài sản của Vạn Lịch xin vua đúc một thứ tiền gọi là "tiền Vạn
Lịch" rồi đem phân phát cho người nghèo làm phúc.
Người đời về sau có câu hát:
Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng
Anh tiếc công anh gian díu với nàng bấy lâu.
42.
CHUYỆN THẦN GIỮ CỦA
Ngày xưa, ở Vạn Lai Triều, thuộc trấn Sơn Nam có
người lái buôn từ nước ngoài sang lập nghiệp. Sau mấy chục năm, nhờ có óc kinh
doanh, tích trữ lương thực, đầu mùa rẻ, cuối mùa bán mắc, lãi mẹ đẻ lãi con,
trở nên giàu có phi thường, trong nhà vàng bạc, châu báu không kể xiết. Khi đã
giàu có, phú thương này định chuyển của về nước để cho con cháu thụ hưởng,
nhưng luật lệ triều đình lúc đó nghiêm cấm ngặt, không cho khách buôn nước
ngoài chuyển đi ra khỏi bờ cõi. Đã có nhiều người lén lút đưa của đi nhưng
không thoát khỏi sự kiểm soát quốc gia. Vì thế, người phú thương tìm cách chôn
giấu một số của cải quý báu để mai sau chờ cơ hội mách cho con cháu sang lấy
về. Việc này hắn chuẩn bị rất kỹ lưỡng, lấy cớ xây cất chùa phật trên một đồi
hang ở gần nhà để giấu của.
Trong lúc đào móng, xây nền chùa, hắn bí mật xây
một cái hầm ăn sâu dưới đất rất kiên cố. Nhưng để bảo đảm cho khỏi mất của hắn
định tìm một người con gái đồng trinh chôn luôn bên cạnh kho vàng để làm thần
giữ của cho hắn. Hắn tin tưởng vị thần con gái này khi đã phục dịch, nếu người
lạ đến lấy của, không phát ra đúng tín hiệu thì thần sẽ vật chết. Khi mưu tính
đã kỹ lưỡng hắn lặn lội đi tìm một cô gái đồng trinh mà hắn vừa ý nhất.
Hồi ấy, ở trong vùng có một giám sinh nhà rất nghèo
nhưng có một cô con gái tuổi mới mười tám và chưa có chồng. Nghe tin người
khách buôn đem vàng bạc đến gạ hỏi cô con gái, xin cưới làm vợ lẽ. Tuy nhiên,
người khách buôn giàu có vô cùng nhưng cha cô gái không có ý định gả con bởi lẽ
ông ta không thích có chàng rể người nước ngoài, lại không thích lối buôn bán
làm ăn của những người khách thương. Ngược lại, người khách thương thì cũng đến
tìm đủ cách dò la xem cô con gái ông ta có phải thực sự đồng trinh không đã rồi
mới quyết định.
Người khách buôn trước đó một thời gian bỏ tiền
thuê bọn trai làng chọc ghẹo cô gái nhiều lần, đem bạc tiền đến quyến rũ để dò
la tính nết, nhưng cuối cùng cô gái quả nhiên không chịu dan díu với ai. Biết
được cô gái tính tình trinh bạch, người phú thương đem vàng bạc dụ dỗ ông giám
sinh là cha của nàng. Gặp lúc gia đình túng quẫn, nợ nần chồng chất không có
tiền trả, người con gái xin với cha nàng liều thân để cứu vãn cảnh khó khăn
túng thiếu của gia đình. Ông giám sinh bất đắc dĩ phải nhận lời gả con cho hắn.
Từ khi lấy vợ về, người khách luôn cho nàng ở một
ngôi nhà riêng. Chẳng bao giờ nằm chung hay động chạm đến xác thịt của nàng. Cả
đến thịt, cá, hành, tỏi hắn cũng cấm nàng ăn, lấy cớ là trong lúc xây chùa phải
ăn chay niệm Phật. Cứ như thế, qua một thời gian khá lâu, ngôi chùa đã sắp hoàn
thành, cô gái vẫn ở riêng một mình trong cảnh phòng không lạnh lẽo.
Một hôm nàng xin phép chồng về thăm cha. Người
khách thương không cách gì từ chối được, đành phải thuận lòng. Cha con lâu ngày
gặp nhau mừng rỡ vô cùng. Ông giám sinh tỉ tê hỏi việc vợ chồng, nàng thuật lại
mọi việc đầu đuôi. Ông giám sinh tỏ ra rất kinh ngạc, nói: - Thôi rồi! Hắn lấy vợ lẽ với mục
đích gì đây, chắc là nó có một âm mưu gì kỳ bí. Vậy con có thấy trong nhà hắn
có gì lạ không? Cô con gái
nói: - Trước kia khi ăn cơm
tối xong là nó đuổi con vào phòng, khoá cửa ngay. Nhưng độ vài tháng nay, tối
nào hắn cũng vác cuốc thuổng đi đến mờ sáng mới về. Nghe nói, ông giám sinh kêu lên: - Thế là việc sắp tới rồi đó. Chắc là
hắn đang chôn của cải và bắt con làm thần giữ của cho nó. Suy nghĩ một lúc, ông giám sinh lấy
các vật liệu trong nhà chế ra một chiếc mặt nạ có để một ống thông hơi dài và
dặn đứa con gái: - Nó sẽ đem
con chôn ở hầm giấu của, vào lúc ban đêm, lúc chúng lấp đất con mang chiếc mặt
nạ này vào và chú ý để cho ống thông hơi ló lên trên mặt đất để khỏi chết ngạt.
Cha giao cho con hai gói hột cải và hột mè, chúng nó dẫn con đi đến đâu thì con
rắc loại hột này lên đó. Từ đó
ông giám sinh đến thăm con luôn, có khi ba ngày một lần, có khi năm ngày một
lần. Ông không vào nhà người con rể, chỉ đứng bên ngoài nhìn vào, hễ thấy mặt
con gái là ông yên tâm lui gót.
Một hôm, ông đến thăm thì không thấy con gái đâu
nữa. Chờ lâu sốt ruột, ông bước vào nhà người con rể, làm bộ đến thăm. Người
khách buôn thấy ông đến thăm lăng xăng tiếp đón. Hắn nói dối vợ mình còn bận đi
cất hàng ở kinh đô nên chưa về kịp. Ông giám sinh vẫn giữ vẻ mặt bình thản,
nhận lời mời của con rể ngồi lại ăn cơm.
Thừa dịp đi tiểu, ông ra sau vườn nhìn quanh quất,
quả thấy hai lối đi lên đồi, sau nhà có rắc hột mè và hột cải, hột đã nảy mầm.
Lập tức ông đi một mạch đến dinh quan trấn Sơn Nam trình bày mọi việc xảy ra.
Quan trấn thủ liền điểm năm trăm quân đi đến Vạn Lai Triều, cho đòi người khách
buôn đến đối chất. Người khách buôn chối lấy chối để. Quân sĩ theo chân ông
giám sinh lần theo con đường có rắc hột cải, hột mè cách nhà người khách buôn
chừng nửa dặm thì thấy một cái am nhỏ vừa mới xây xong trên ngọn đồi hoang. Ông
giám sinh nói: - Hẳn là chỗ này chứ không sai. Xin quân gia cho đào lên để khám
xét. Người khách buôn không cho đào, lấy cớ là động mạch đất có quan hệ đến vận
mệnh đời hắn.
Quan trấn thủ bắt hai bên làm cam kết. Nếu đào
không thấy gì thì ông giám sinh phải bỏ tiền ra xây lại cổ am và phải bồi
thường thiệt hại cho chàng rể, ngược lại, nếu phát hiện được tiền nong, của cải
gì thì người chủ cái am đó không được nhận của cải của mình đã giấu. Giấy cam
kết làm xong, người khách buôn không chịu ký. Quan trấn thủ nghi ngờ, ra lệnh
cho quân sĩ cứ việc đào lên, dù người khách buôn không đồng ý cũng mặc kệ. Mới
đào được một khoảng rộng bằng cái nong đã thấy đường hầm xây chìm, bên trên lát
gạch bát tràng rất kiên cố. Lớp gạch vừa đổ xuống thì nghe tiếng kêu của người
con gái. Quân sĩ vội chạy vào đường hầm, phát hiện người con gái của ông giám
sinh bị trói trong một chiếc ghế đá, ngồi giữa hai ngọn đèn trong hầm đất, có
đeo mặt nạ, dây thông hơi ăn thông ra ngoài, hai chân nàng dang ra, mỗi chân
đạp lên một cái chum bằng vàng rất lớn. Miệng cô gái có ngậm một củ nhân sâm
chưa tan hết. Ngực nàng còn đang thở thoi thóp vì không đủ dưỡng khí. Người ta
vội mở trói, bốc nàng lên cứu chữa, đồng thời gông tên lái buôn gian ác, giải
đi.
Nhờ được sự chăm sóc chu đáo, cô gái dần tỉnh lại.
Quan trấn thủ chia số tài sản đã đào được của tên lái buôn ba phần: Cha con ông
giám sinh được một phần, còn lại hai phần sung vào công quỹ. Người lái buôn bị
đem ra pháp trường xử trảm.
43.
QUAN ÂM THỊ KÍNH
Ngày xưa, có một người hiền đức, đã trải qua nhiều
kiếp, mà kiếp nào cũng giữ được đức hạnh, chân tu. Cứ luân hồi mãi, liên tiếp
đến chín lần, nhưng chưa kiếp nào được thành Phật. Đến kiếp thứ mười, người này
được thác sinh ở Cao Ly, làm con gái nhà họ Mãng, có tên là Thị Kính. Thị kính
vóc người đầy đặn, mặt mũi đoan trang, tính tình điềm đạm, nhân hậu. Lớn lên
nàng thờ cha mẹ rất hiếu thảo, việc nhà cửa rất đảm đang, ăn ở với làng xóm đều
hoà nhã, trong gia đình, ngoài xã hội ai cũng khen. Khi đến tuổi lấy chồng, cha
mẹ nàng gả cho một chàng học trò họ Sùng, tên Thiện Sĩ, nhà cũng không khá giả
gì, nhưng Thiện Sĩ tính chăm học, không lêu lổng chơi bời. Thị Kính cũng chẳng
ước ao gì hơn, nàng tần tảo làm lụng giúp chồng ăn học.
Một đêm bên cạnh án thư, Thiện Sĩ ngồi đọc sách,
Thị Kính ngồi may áo một bên, hai người chung nhau một ngọn đèn dầu. Chồng học
mãi thấy mỏi mệt, ngả lưng xuống giường, kê đầu trên đầu gối vợ, trò chuyện một
chốc rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính cố giữ yên lặng cho chồng yên giấc và ngắm
nghía khuôn mặt tuấn tú của chồng. Bỗng nàng nhận ra ở dưới cằm của chồng có
một sợi râu mọc ngược. Nàng nhủ thầm: - Ồ,
sợi râu mọc ngược là không tốt. Đó là tướng bạc ác! Ta phải nhổ đi cho chàng
mới được. Nghĩ vậy, Thị Kính
liền lấy con dao nhíp trong rổ đựng đồ may, mở ra định nhổ sợi râu, không ngờ
lưỡi dao sáng loáng vừa đưa đến thì Thiện Sĩ cũng vừa chợt tỉnh, thấy vợ cầm
dao trên tay chĩa vào cổ mình, trong lúc đang ngủ, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay
vợ la lên: - Ôi chao! Nàng
định cầm dao giết ta trong lúc ta ngủ ư? Thị
Kính đáp: - Không phải đâu!
Thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tâm lén nhổ đi kẻo trông nó xấu xí
lắm. Nhưng trong cơn hoảng
hốt, chồng nàng không tin như vậy, la lên: - Thôi
thôi! Đừng khéo bịa chuyện! Làm gì lại có chuyện nhổ râu khi ta đang ngủ. Sao không
đợi ta thức dậy đã.
Giữa lúc ấy, mẹ Thiện Sĩ nằm ở buồng bên cạnh nghe
tiếng cãi vã nhau vội xô cửa chạy sang, nghe con trai kể lại câu chuyện, bà lớn
tiếng rủa: - Trời ơi! Đồ chết
dịch, to gan dám giết chồng. May mà con ta tỉnh dậy, nếu không thì còn gì tính
mạng. Thị Kính nước mắt giàn dụa, cố sức phân trần: - Mẹ nghĩ xem, con có thù oán gì
chồng con mà lại làm như vậy, chẳng qua là con muốn làm đẹp mặt chồng con mà
thôi. Bà mẹ chồng hét lên: - Rõ ràng mày định giết chồng! Đã bắt
được rõ ràng còn lẻo mép. Thị
Kính cố giãi bày, nhưng chẳng ích gì, nên chỉ còn biết ngồi sụp xuống đất, cúi
đầu nức nở.
Sau đó, gia đình họ Sùng không muốn sinh ra những
đứa con cháu sau này có ác tâm như vậy, họ đã đuổi Thị Kính ra khỏi nhà. Buồn
chán với số phận éo le, Thị Kính cải trang làm một chàng trai, cạo đầu vào tu ở
chùa Vân, một ngôi chùa thật xa quê hương, để xóa bỏ những ký ức đau buồn đã
qua. Sư cụ trong chùa cũng không biết nàng là gái giả trai, nên nhận làm chủ
tiểu, đặt hiệu là Kính Tâm. Sự đời như đã tắt lửa lòng, tiểu Kính Tâm chỉ còn
biết làm bạn cùng kinh kệ. Nhưng nàng tu ở chùa Vân chưa được bao lâu thì
chuyện đời lại xảy đến với nàng.
Tuy ăn mặc nâu sồng, đầu cạo trọc, nhưng vẻ mặt của
tiểu Kính Tâm lại làm cho trái tim cô con gái trong làng thổn thức. Trong làng
có con gái phú ông tên Thị Mầu nhiều lần đi lễ chùa, thấy tiểu Kính Tâm đem
lòng yêu trộm nhớ thầm. Tuy Kính Tâm nhiều lần khước từ cử chỉ trêu ghẹo của cô
ta, nhưng Thị Mầu quyết không từ bỏ tình cảm say mê, quyến rũ trước vẻ mặt xinh
xắn của Kính Tâm. Thị Mầu là cô gái lẳng lơ, quen thói gió trăng, nên đã tư
thông với một người đày tớ trai trong nhà rồi mang thai, bụng càng ngày càng
lớn. Thị Mầu không chồng mà chửa, vi phạm lệ làng, nên bị làng phạt vạ. Nàng
thấy nếu khai thật sẽ không hay ho gì, nên đổ tội cho chú tiểu Kính Tâm ở chùa
Vân. Vì thế Kính Tâm cũng bị làng bắt đến tra khảo, nhưng dù bị đánh tơi tả,
nàng vẫn không tiết lộ mình là gái. Sư cụ chùa Vân thấy Kính Tâm bị đòn đau nên
thương tình, kêu xin với làng nộp vạ, bảo lãnh cho chú tiểu được tha về. Nhưng
sợ tiếng thế gian mai mỉa, nên sư cụ bắt chú tiểu phải ở một cái lều, cư ngụ
bên ngoài cổng chùa, để khỏi mang tiếng. Nàng cam tâm chịu đựng sự hành hạ này,
cắn răng không hề có một lời than thở.
Thị Mầu sau đó sinh được một bé trai, đã trót đổ vạ
cho tiểu Kính Tâm, nên đem con giao cho Kính Tâm nuôi nấng. Kính Tâm lại một
phen bối rối, nhận lấy đứa bé không khác nào hành động thú tội mà không nhận
thì thương hại cho một đứa bé vô tội bị bỏ rơi. Nàng bế đứa bé vào nuôi và hàng
ngày nàng phải đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm. Mặc dù dân làng kẻ cười, người
chê nhưng nàng vẫn âm thầm chịu đựng, không hề tiết lộ nỗi oan ức của mình. Cứ
thế, sau sáu năm nàng trông nom đứa bé như con đẻ. Trong khi đứa bé ngày càng
khôn lớn thì sức nàng ngày càng kiệt quệ, mỏi mòn. Một hôm biết mình không thể
sống được nữa, tiểu Kinh Tâm bèn viết một phong thư để lại cho cha mẹ mình,
trong đó nàng thuật hết đầu đuôi nỗi mình nhẫn nhục bấy lâu, lại dặn dò đứa bé
sau khi mình chết thì trao thư cho sư cụ trong chùa. Khi khâm liệm, mọi người
mới hay tiểu Kinh Tâm là đàn bà và ai nấy đều nhận thấy rằng sự chịu đựng của
nàng từ trước đến nay quả là cùng cực.
Để tỏ lòng hối hận, sư cụ chùa Vân bèn cho lập một
đàn chay, cầu cho nàng được siêu độ. Hôm cử hành đàn chay thì trên trời, giữa
một đám mây năm sắc, đức Phật Thiên Tôn hiện ra, phán truyền cho Kính Tâm thành
Phật Quan Âm.
44.
BÀ CHÚA ONG VÀ ANH HỌC TRÒ
Ngày xưa, có một anh học trò sống với bà mẹ già
trong một ngôi làng nhỏ. Nhà anh nghèo lắm, mẹ anh thì đã già lụ khụ, mắt loà,
chân chậm chỉ ngày ngày quanh quẩn ở nhà, không đi được đâu cả. Để kiếm sống
cùng mẹ rau cháo qua ngày, anh phải làm đủ nghề, ai có việc thì anh làm, từ làm
thuê, chăn trâu đến đốn củi... Anh cũng muốn lấy vợ để đỡ đần phần nào công
việc cho anh và phụng dưỡng mẹ già nhưng anh nghèo thế, ăn còn chẳng đủ thì làm
gì có nhà nào chịu gả con gái cho anh. Biết vậy, anh tu chí học hành, cả ngày
anh làm việc, tối đến lại đèn sách đến khuya.
Ngày tháng trôi đi, nhờ học hành chăm chỉ, chẳng
bao lâu anh đã học thành tài. Khoa thi năm ấy, anh quyết lên kinh dự thi. Song
nếu anh đi thì mẹ già ở nhà không ai chăm sóc. Hơn nữa, anh cũng chẳng kiếm đâu
ra tiền. Không có tiền nuôi mẹ, anh nào dám nghĩ đến tiền ăn tiêu dọc đường.
Anh lo lắng suốt mấy ngày liền mà vẫn không tìm ra phương cách nào. Gần đến kỳ
thi, khi bạn học của anh đã lần lượt lên đường, có mấy láng giềng tốt bụng nhận
chăm sóc mẹ già giúp anh để anh yên tâm ra đi. Anh cũng bớt lo phần nào nhưng
còn phía anh, lấy gì ăn tiêu dọc đường. Anh rất băn khoăn. Chẳng lẽ lại bỏ phí
bao năm dùi mài kinh sử? Nghĩ thế, cuối cùng anh cũng đánh liều cất bước lên
đường dù trong túi không có một đồng.
Trên đường đi, anh phải tìm đủ mọi cách để kiếm
sống. Từ việc gánh hàng thuê cho bọn lái buôn đến việc phục vụ trong một quán
rượu. Làm bở hơi tai liên tục trong hai ngày anh nhận được một ít cơm ăn và một
quan tiền. Dù ăn tiêu rất dè sẻn, một quan tiền ấy cũng giúp anh cầm cự được
trong hai ngày. Những ngày sau đó, anh chỉ có nước uống cầm hơi. Nhưng dù thế
nào anh cũng quyết không bỏ cuộc với hy vọng sẽ kiếm được ai đó thuê mướn, kiếm
được miếng ăn dọc đường. Vậy mà rủi thay, mấy ngày sau đó trời mưa rất to,
không có ai thuê mướn gì cả. Anh đói lả đi nhưng cũng không thể nấn ná được vì
thời gian không còn nhiều. Anh lê từng bước nặng nề rồi không biết thế nào anh
đã lạc vào một khu rừng. Khu rừng vắng lặng đến ghê người, ngoài tiếng lá cây
xào xạc, anh không còn nghe thấy một âm thanh gì khác. Quanh quẩn mãi như thế
anh sẽ chết đói trong rừng mất. Nhìn thấy một cái cây cổ thụ, anh thu hết sức
lực trong người trèo lên, định nghỉ tạm trên đó tránh thú rừng, sáng mai tính
sau. May sao, từ trên cây cao anh nhận ra ánh đèn thấp thoáng đằng xa. Vui mừng
không tả xiết, anh tụt từ trên cây xuống đi về hướng có đèn ấy. Tới nơi, anh
nhận ra đó là một ngôi nhà nhỏ, khắp người run lên vì lạnh và đói, vui sướng
lẫn lộn, anh hồi hộp giơ tay gõ cửa. Lạ thay, anh vừa chạm tay vào cửa, cánh
cửa mở ngay như có người chờ sẵn. Một cô gái bước ra, tay cầm cây nến. Dưới ánh
đèn, anh nhìn rõ cô gái. Đó là một cô gái rất xinh nhưng hai mắt cô bị mù. Cô
gái có vẻ rất hiếu khách:- Chào
thầy khoá, thiếp chờ thầy nãy giờ, mời thầy vào trong này, ngoài trời lạnh lắm.
Anh không còn hồn vía nào nữa. Thật quá bất ngờ!
Làm sao cô gái mù này lại biết anh là học trò, biết anh sẽ tới đây. Hoạ chăng
chỉ có yêu ma quỷ quái thì mới như vậy. Anh ngần ngại, toan bỏ đi nhưng lúc đó
anh đói quá rồi, hai mắt tưởng như mờ đi, hai chân không vững nữa. Nếu anh rời
khỏi ngôi nhà này, có lẽ anh sẽ không còn đủ sức để lê bước trở về cái cây ban
nãy. Hơn nữa, đêm đến, sương đã ướt đẫm áo anh rồi, lạnh thấu xương. Thế là anh
đánh liều bước vào nhà, tặc lưỡi phó mặc cho số phận. Tất nhiên anh cũng rất
cảnh giác đề phòng xung quanh. Trong nhà chẳng có ai ngoài người bõ già và cô
gái mù. Cô gái đon đả mời anh ngồi, còn bõ già thì đốt lửa cho anh hong quần áo
và sưởi ấm. Anh cảm thấy trong người bắt đầu ấm lên, bõ già bưng lên một mâm
cơm, cô gái ngồi cạnh mâm mời mọc: - Nhà
thiếp thanh đạm, khách đến cũng chẳng có gì hơn để tiếp đón. Vậy xin thầy khoá
cứ thực tình cho.
Ngồi một lúc ấm chỗ, anh cũng bớt lo phần nào. Nay
cơm canh bưng lên anh đâm ra nghi hoặc:- "Trong cơm này có gì mờ ám
chăng?" - Anh tự nhủ nghĩ là nghĩ vậy, chứ cơn đói cũng không cho phép
anh do dự. Và lại một lần nữa anh phó mặc cho số phận, cầm đũa cắm đầu ăn. Bữa
cơm quả là thanh đạm nhưng anh đang rất đói lại thêm cơm nóng, canh sốt anh cảm
thấy trong đời chưa bao giờ ăn một bữa cơm ngon như thế. Ăn xong, anh đã thấy ổ
rơm được sắp sẵn từ bao giờ. Mệt quá, anh vừa nằm xuống đã thiếp đi. Trông thì
có vẻ anh ngủ rất say nhưng thực chất anh còn nhiều phân vân nên giấc ngủ cứ
chập chờn. Cho đến nửa đêm, có lẽ do quá mệt anh ngủ thiếp đi.
Đang ngon giấc, anh bỗng giật mình tỉnh dậy bởi cơn
gió mạnh đang hoành hành dữ dội ngoài kia. Từng đợt gió quất vào khiến căn nhà
mái lá đơn sơ rung lên run rẩy. Tiếng lá cây ào ào khiến anh cảm thấy một trận
bão lớn sắp xảy ra. Bỗng anh nghe thấy tiếng cô gái mù:- Bõ già ơi, gió đổi hướng sang phía
Bắc rồi. Gió rít mạnh thế này thì cái tổ nhỏ ở cành thứ ba đổ mất thôi. Ấy kìa,
đổ rồi đấy, bõ ra xem thử đi, bõ nhanh lên, bõ ơi! Anh lấy làm lạ là tại sao cô gái
mù ấy ăn nói như một người sáng mắt vậy. Đang suy nghĩ vẩn vơ, anh thấy hình
như gió đã bớt gầm rú hay tại anh đã quen với tiếng gió ấy rồi cũng nên, anh
lại ngủ thiếp đi.
Một lúc sau, anh lại cảm thấy gió đập ầm ầm, cảm
giác căn nhà lại rung lên dữ dội hơn. Rồi anh nghe thấy cô gái nói: - Bõ già ơi, gió mạnh quá bõ nhỉ? Thế
này thì chắc chúng nó lạc nhiều đấy. Nhưng không sao, mai kia thế nào chúng
cũng về, ở cái tổ thứ bảy, nhiều con đang đợi lắm mà chưa vào được. Ngay
sau đó, anh nghe tiếng bước chân mà anh đoán chắc là của bõ già đi ra vườn.
Ngoài đó, gió vẫn dữ dội. Trong nhà, trong ổ rơm của mình, anh lại băn khoăn không
hiểu cô gái mù ấy đang nhắc đến những con gì vậy. Con gì mà lạc rồi mai kia lại
tìm đường về được? Phần vì tò mò muốn biết, phần vì đã tỉnh giấc, anh bước chân
ra cửa. Dưới ánh chớp, anh nhìn thấy cô gái mù đang đứng dưới gốc cây. Có rất
nhiều tán lá xoè rộng. ở những cành thấp, ong vàng đậu chi chít, chúng đậu cả
lên nón, lên áo cô gái. Xung quanh cô, ong vàng nhiều vô kể, tiếng ong bay vù
vù cơ hồ át cả tiếng gió bão, sấm chớp.
Quan sát xong cảnh tượng lạ lùng đó, anh lặng lẽ
quay trở vào nhà, lòng vẫn đầy mối hoài nghi. Quanh quẩn trong nhà, giữa lúc
đang không biết phải làm gì, anh tình cờ bắt gặp một quyển sách trên án thư ở
đầu ổ rơm. Sẵn có cây nến đang cháy, anh giở ra xem. Đó là một quyển sách nói
về đạo Phật, anh đọc rất mải mê, quên cả thời gian.
Khi cơn bão đã bắt đầu tạnh, cô gái cùng bõ già
bước vào nhà, khi đó anh mới chợt nhận ra trời đã tảng sáng. Thấy không thể giữ
mãi mối nghi hoặc trong lòng, anh bèn đánh bạo hỏi cô gái: Đa tạ cô và bõ già đã cho kẻ nhỡ
bước độ đường này ăn nghỉ đêm qua. Nhưng tôi có một số điều rất lấy làm khó
hiểu. Nếu không ngại, xin cô giải đáp giúp tôi. Cô gái đáp: Thiếp rất vui lòng. - Tôi mạn phép
xin hỏi tại sao hai người lại sống trơ trọi trong khu rừng này? Hai người lấy
gì để nuôi thân? Tại sao hôm qua cô lại biết tôi sắp đến đây...?
Cô gái khẽ cười, rồi chậm rãi nói:- Trước đây thiếp không sống ở đây.
Cha mẹ thiếp làm nghề nuôi ong, vì ghét bọn quan trên hống hách cửa quyền, cha
mẹ thiếp mới tìm đến đây dựng lên ngôi nhà này. Cách đây năm năm cha mẹ thiếp lần
lượt qua đời, chỉ còn lại thiếp cùng bõ già và đàn ong ở chốn núi rừng này. Đàn
ong cho mật và sáp, bõ già mang ra chợ đổi lấy gạo, muối... Về phần thiếp, sau
khi cha mẹ qua đời, mắt thiếp bị đau rồi đột nhiên mờ đi, dần dần thiếp không
còn nhìn thấy gì nữa, nay thì đã mù hẳn. Nhưng cũng từ lúc đó, thiếp lại có
linh tính rất nhạy về mọi chuyện. Nếu thiếp có linh tính đàn ong bị nạn thì quả
nhiên bị nạn thật. Cũng như vậy, hôm qua, tự nhiên thiếp linh tính có một thư
sinh đi thi lỡ độ đường đang cần sự giúp đỡ. Quả nhiên, thiếp vừa thắp đèn lên
thì thầy khoá đã gõ cửa.
Nghe đến đó, anh thấy thương cho cảnh ngộ của cô
gái mù tội nghiệp. Thì ra, trên đời này còn những cảnh ngộ gian nan hơn anh.
Anh toan hỏi về cuốn sách thì cô gái lên tiếng: - : Quyển sách đó là của cha thiếp để
lại, thầy khoá cứ đọc đi, còn bảy ngày nữa mới đến kỳ thi, thầy cứ thong thả.
Anh cảm ơn cô gái rồi cầm sách đọc tiếp cho đến sáng. Gần đến ngày thi, khi anh
khăn gói từ giã cô gái và bõ già để lên đường thì cô gái giữ anh: - Thế nào kỳ thi năm nay cũng hoãn
lại dăm hôm. Thầy hãy nghe thiếp ở lại vài hôm nữa rồi hãy lên đường. Thấy
anh vẫn nhất quyết cáo từ, cô gái không nài ép nữa. Trước khi anh lên đường, cô
đưa cho anh một nắm cơm và một quan tiền. Tiền thì anh từ chối không nhận, chỉ
nhận nắm cơm rồi nói, giọng rất cảm kích: Đa
tạ tấm lòng của cô và bõ già, sau này nếu có tên trên bảng vàng, tôi sẽ không
bao giờ dám quên ơn hai người.
Đi miết hơn một ngày đường, anh mới đến trường thi.
Nhưng vừa đến nơi anh mới giật mình được tin kỳ thi đã hoãn lại năm ngày đúng
như lời cô gái mù nói. Nguyên nhân do hoàng đế bị mệt đột ngột.
Năm ngày sau, kỳ thi bắt đầu. Năm ấy, đề do nhà vua
ra có nhiều điển tích về đạo Phật. Sĩ tử bốn phương đều bị bất ngờ vì không có
mấy người đọc sách Phật. Chỉ có anh học trò nhà nghèo, nhờ vô tình đọc quyển
sách ở nhà cô gái mù giữa đêm giông bão đã làm bài trôi chảy. Anh đỗ Tiến sĩ,
được vua ban cờ quạt, áo mũ, tiền bạc vinh quy. Trên đường về, anh lệnh cho đám
lính hầu rẽ vào khu rừng để tạ ơn cô gái mù. Nhưng khi đoàn người vừa lên đèo,
chuẩn bị rẽ vào khu rừng, anh thoáng trông thấy một cô gái đứng đợi ở chân đèo.
Đến gần, anh mới nhìn rõ cô gái rất xinh đẹp, tay bê một rổ hoa, trên áo cô,
ong vàng bám chi chít như thêu kim tuyến. Anh nhớ lại đêm mưa gió ở nhà cô gái
mù, ong cũng bám vào người cô như vậy. Đúng là cô gái ấy. Nhưng lạ chưa? Cô gái
ấy đâu có nhìn thấy đường đi. Còn cô gái này lại có đôi mắt đen láy, đang mỉm
cười với anh. Anh vội bước xuống, chạy lại phía cô: - Có phải nàng đấy không? Ai đã giúp nàng
sáng mắt lại thế? Ôi, tôi phải đa tạ nàng lần nữa, nếu không có quyển sách của
cha nàng thì có lẽ tôi đã hỏng thi rồi. Cô gái mỉm cười đáp: - Nhờ ong chúa hút được nhị hoa thần
rồi thả nhị đó vào mắt nên thiếp đã sáng trở lại. Hôm nay, thiếp cảm thấy quan
tân khoa sắp về nên đã vội vàng ra đón.
Hai người nhìn nhau, ánh mắt tràn đầy hạnh phúc.
Rồi không nói gì, quan tân khoa, cô gái nuôi ong và đoàn tuỳ tùng kéo về ngôi
nhà nhỏ của cô. Mấy ngày sau đó, chàng đưa cô gái cùng bõ già về quê rồi xin
phép mẹ cho lấy cô gái làm vợ. Đám cưới được tổ chức linh đình. Đặc biệt, đám
cưới còn có sự góp mặt của đàn ong, mỗi con ong vàng ngậm một bông hoa bay trên
đầu bà chúa của nó, trông như một đám mây lung linh sắc màu.
45.
DÃ TRÀNG XE CÁT
Có hai vợ chồng ông già tên là Dã Tràng, trong vườn
họ có một cái hang rắn. Thường ngày làm cỏ gần đấy, ông vẫn thấy một cặp vợ
chồng rắn hổ mang ra vào trong hang.
Một hôm, con rắn chồng bò ra khỏi hang một mình,
ông nhìn vào thấy rắn vợ đang nằm cuộn ở trong. Vì mới lột lên mình mẩy của nó
yếu ớt, không cựa quậy được. Một lúc sau, rắn chồng bò trở về, miệng tha một
con nhái đút cho vợ ăn. ít lâu sau, Dã Tràng lại thấy rắn vợ bò ra khỏi hang
một mình, lần này rắn chồng đến kỳ lột xác, nằm im thin thít, da cũ còn bỏ lại
bên hang. Hồi lâu rắn vợ trở về, theo sau rắn vợ có một con rắn đực khá lớn. Dã
Tràng thấy hai con bò đến cửa hang thì dừng lại rồi quấn lấy nhau như bện dây
thừng. Một lát sau, con rắn đực bò một mình vào hang.
Dã Tràng biết con đực này toan làm gì rồi. Tự nhiên
ông thấy ngứa mắt muốn trừ bỏ con rắn đó để cứu con rắn chồng đang suy nhược.
Lúc đó bên mình không có cái gì cả, ông bèn rút một mũi tên nhằm con rắn đực
mới đến bắn ngay một phát. Không ngờ mũi tên lại trúng vào đầu con rắn vợ chết
tươi, còn con kia hoảng hồn chạy mất. Dã Tràng nghĩ cũng thương con rắn cái
nhưng thương cái thành có lẫn cả giận nên ông chán nản bỏ về nhà. Từ đó ông
không thèm để ý đến hang rắn nữa.
Chừng tuần sau, một hôm Dã Tràng nằm võng thuật
chuyện vợ chồng rắn cho vợ nghe và kể những việc mình đã thấy và đã làm. Ông kể
vừa dứt lời thì tự nhiên nghe trên mái nhà có tiếng phì phì. Cả hai hốt hoảng
nhìn lên thì thấy có một con rắn hổ mang rất lớn, đuôi quấn lấy xà nhà, đầu
vươn xuống gần chỗ ông nằm, miệng nhả một viên ngọc. Ông vừa cầm lấy thì bỗng
nghe được tiếng rắn nói: - Ông
là ân nhân mà tôi cứ ngỡ là kẻ thù. Mấy hôm nay tôi đợi ông trên mái nhà chỉ
chực mổ chết để báo thù cho vợ tôi. Nhưng nãy nghe ông kể chuyện, tôi mới biết
là lầm. Xin biếu ông viên ngọc này. Đeo nó vào mình có thể nghe hiểu được mọi
tiếng chim muông ở trên thế gian. Từ
kinh ngạc đến sung sướng, Dã Tràng nhận viên ngọc quý và từ đó không bao giờ
rời.
Một hôm, Dã Tràng đang hái dâu, tự dưng có một bầy
quạ đậu ở mấy ngọn cau nói chuyện lao xao. Chúng nó bảo Dã Tràng rằng: Ở núi
Nam có một con dê bị hổ vồ. Hãy đến đó mà lấy về ăn nhưng nhớ để lòng lại cho
chúng nó. Dã Tràng làm theo lời quạ, quả thấy xác một con dê trên núi Nam. Ông
xẻo lấy một ít thịt xâu lại xách về. Đến nhà ông vội mách cho xóm giềng
biết mà đi lấy, không quên dặn họ để bộ ruột dê lại cho bầy quạ. Nhưng ông
không ngờ người trong xóm nghe tin ấy đua nhau đi đông quá, thành ra họ lấy hết
cả, chẳng còn thừa tí nào.
Lũ quạ không thấy ruột dê, cho là Dã Tràng lừa, bèn
đổ xô đến vườn ông réo om sòm. Thấy vậy, ông biết là người trong xóm đã hại
mình, không giữ chữ tín với bầy quạ. Ông phân trần mấy lần nhưng bầy quạ không
nghe, cứ đứng đó chửi mãi. Tức mình ông bèn lấy cung tên ra bắn chúng, chủ ý
muốn chúng đi chứ không định giết. Chẳng ngờ bầy quạ thấy vậy cho là ông lấy
oán trả ơn, liền cắp lấy mũi tên có để tên Dã Tràng ở đuôi, tìm dịp báo thù.
Lúc bay qua sông thấy một xác chết trôi, đàn quạ bèn đem mũi tên ấy cắm vào yết
hầu xác chết. Khi quan sở tại đến làm biên bản, thấy mũi tên liền đoán ngay Dã
Tràng là thủ phạm, sai lính bắt ông hạ ngục. Dã Tràng bị bắt bất ngờ, hết sức
kêu oan, nhưng mũi tên là một chứng cớ sờ sờ làm cho ông đuối lý, đành chịu
chui đầu vào gông. Tuy nhiên, ông vẫn một mực xin quan xét nỗi oan uổng. Thấy
vậy, quan sai lính giải ông về kinh để Vua xử.
Từ đề lao tỉnh, ông lại bị điều đi. Dọc đường trời
tối bọn lính dừng lại quán ăn uống và nghỉ ngơi. Dã Tràng cổ bị gông, chân bị
xiềng xích nằm trên đống rơm buồn rầu không ngủ được. Lúc trời gần rạng, ông
nghe có một đàn chim sẻ bay ngang đầu nói chuyện với nhau: "Nhanh lên,
chuyến này sẽ không lo đói nữa, mà cũng chẳng sợ ai đánh đuổi cả". Một
con khác hỏi: "Của ai mang đến bỏ vương vãi như thế?" - Con nọ
trả lời: "Của Vua nước bên kia, họ toan kéo sang đánh úp bên này. Ngày
hôm qua quân đội giáo mác kéo đi liên miên không ngớt. Nhưng xe thóc vừa đến
biên giới thì bị sụp đổ hết. Họ đang trở về lấy lương khác cho nên chúng ta tha
hồ chén". Nghe đoạn, chờ lúc bọn lính thúc giục lên đường, Dã Tràng
bảo họ: "Xin các ông bẩm lại với quan rằng, việc của tôi là việc oan
uổng và nhỏ mọn không nên bận tâm và giờ đây chỉ nên lo việc quốc gia trọng đại
thôi, mà còn cấp bách nữa là khác". Bọn lính tra gạn ông mãi nhưng ông
không nói gì thêm, chỉ nài nỉ hễ có mặt quan, mình mới tỏ bày rõ ràng.
Khi gặp mấy vị quan đầu tỉnh, Dã Tràng mới cho họ
biết rằng Vua Hiến Đế ở phương Bắc đã sai tướng đem quân sang đánh úp nước
mình. Hiện họ đang đóng quân đầy ở biên giới, chỉ vì bị sụp hầm, xe lương đổ
hết chưa tấn công được. Bây giờ họ đang vận chuyển thêm lương, chờ đầy đủ sẽ
vượt cửa ải sang Nam. Bọn quan quân tỉnh lấy làm lo lắng nhưng vẫn cố hỏi ông
có dám chắc như vậy không. Dã Tràng chỉ vào đầu mình mà đoán rằng nếu nói sai,
ông sẽ xin chịu chết. Nhưng nếu lời của ông đúng thì xin bề trên thả ra cho.
Ngay lúc đó những tên quân do thám được tung đi tới tấp mọi ngả để lấy tin. Và
nội ngày hôm sau, Dã Tràng được thả vì lời mách bảo của ông quả không sai, và
vừa vặn đúng lúc để chuẩn bị đối phó với địch.
Được tha, Dã Tràng đi bộ lần về quê nhà, bóng chiều
vừa ngả, ông mới đến vùng Hồng Hoa, ông tìm vào nhà người bạn rất thân là Trần
Anh nghỉ chân.
Khi gặp bạn cũ, vợ chồng Trần Anh vui mừng khôn
xiết, nghe tin ông bị tra tấn giam cùm và suýt mất đầu, hai vợ chồng rất cảm
thương bạn. Thấy bữa ăn tối thết bạn không có gì cả, Trần Anh xuống bếp bảo vợ:
"Bạn ta đến lại gặp lúc trong nhà chả có gì ăn. Sẵn có cặp ngỗng, con
nó đã khôn, ta làm thịt một con ngày mai đãi bạn lên đường”. Người vợ đồng
ý nhưng dặn chồng sáng dậy sớm bắt ngỗng và vặt lông giúp một tay.
Trong khi hai vợ chồng bàn tính thì cặp ngỗng ở
ngoài chuồng nghe được câu chuyện. Ngỗng trống bảo ngỗng mái: "Mình ơi!
Mình hãy ở lại nuôi các con, tôi sẽ đứng sẵn cho chủ nó bắt". Ngỗng
mái không nghe, xin chết thay cho chồng. Nhưng ngỗng trống nhất định hy sinh,
chạy ra sân từ giã đàn con: "Con ơi! Các con ở lại với mẹ nhé, cha sẽ
không bao giờ gặp các con nữa". Nhưng bỗng ngỗng mái lạch bạch chạy
theo, đòi chết thay cho chồng bằng được. Lúc ấy Dã Tràng nằm trên ván đặt kề
cửa sổ nên nghe được tiếng ngỗng than thở. Ông bỗng thấy thương con vật vô tội
chỉ vì mình mà ngỗng phải lìa đàn con bé bỏng. Ông toan nói trước với bạn,
nhưng thấy bất tiện. Ông đành nghe ngóng ở chỗ chuồng ngỗng chờ lúc bạn ra bắt
thì sẽ cản lại.
Suốt đêm hôm đó, tuy mệt mà ông không dám ngủ. Quả
nhiên vào canh tư, Trần Anh thức dậy bước ra chuồng, ngỗng trống xua ngỗng mái
chạy rồi vươn cổ để cho bắt. Khi Trần Anh sắp cắt cổ ngỗng thì Dã Tràng đã lật
đật chạy xuống bếp nắm lấy dao. Ông nói "Xin bạn thả nó ra, tính tôi
không hay sát sinh. Tình thân của đôi ta đâu phải cỗ bàn mới thân. Nếu bạn giết
thịt nó thì tôi lập tức đi khỏi chỗ này". Thấy bạn có vẻ quả quyết,
Trần Anh đành thả ngỗng ra, rồi giục vợ chạy đi mua tép về đãi bạn.
Cơm nước xong, Dã Tràng từ giã bạn lên đường về
nhà. Đến ao, ông đã thấy vợ chồng ngỗng cùng với bầy con đứng trực ở đấy. Ngỗng
đực tặng Dã Tràng một viên ngọc và nói: "Đa tạ ân nhân cứu mạng, không
biết lấy gì báo đền, chúng tôi xin tặng người viên ngọc này, mang nó vào người
có thể đi được dưới nước dễ dàng như không khác gì trên bộ. Nếu đem ngọc này
xuống nước mà khoắng thì sẽ rung động đến tận đáy biển". Ngỗng nói
tiếp: "Còn như con tép là vật đã thế mạng chúng tôi thì từ nay dòng dõi
chúng tôi sẽ xin chừa tép ra không ăn, để tỏ lòng nhớ ơn!". Dã Tràng
không ngờ có sự báo đáp quá hậu như thế, sung sướng nhận lấy viên ngọc rồi về.
Khi đến bờ sông, Dã Tràng muốn thử xem công hiệu
của viên ngọc mới, liền cứ để nguyên áo quần đi xuống nước. Tự nhiên nước rẽ ra
cho ông đi thẳng xuống đáy sông. Ông dạo cảnh hồi lâu rồi cầm viên ngọc khoắng
vào nước nhiều lần để thử xem thế nào. Hôm đó, Long Vương và các triều thần
đang hội họp ở thuỷ phủ bỗng thấy nhà cửa lâu đài và mọi kiến trúc khác tự
nhiên rung động cơ hồ muốn đổ. Ai đấy đều nháo nhác không hiểu duyên cớ gì. Vua
lập tức truyền cho bộ hạ đi dò la sự tình.
Bộ hạ Long Vương theo đường sóng ngầm lọt vào cửa
sông thì thấy Dã Tràng đang cầm ngọc khoắng vào nước. Mỗi lần khoắng như thế,
họ cảm thấy xiêu người nhức óc. Tuy biết đích là thủ phạm, họ cũng không dám
làm gì, chỉ tiến đến dùng lời nói khéo mời ông xuống chơi thuỷ phủ.
Gặp Long Vương, Dã Tràng cho biết đó chính là mình
chỉ mới làm để thử phép có hiệu nghiệm chăng. Long Vương và triều thần nghe
nói, ai nấy đều xanh mặt. Nếu hắn làm thật thì thế giới thuỷ phủ sẽ còn gì nữa.
Vì thế, Long Vương đãi Dã Tràng rất hậu. Ông muốn gì có nấy, cho đến lúc ra về,
Long Vương còn đem vàng bạc tống tiền rất nhiều để mong ông nể mặt.
Dã Tràng lên khỏi nước có bộ hạ của Long Vương tiễn
chân về tận nhà mới trở lại. Bà con xóm giềng thấy ông đã không làm việc gì mà
trở nên giàu có ai cũng lấy làm mừng cho ông. Từ đó Dã Tràng rất quý hai viên
ngọc. Ông mang một cái túi đựng nó và luôn đeo nó ở cổ.
Một hôm, Dã Tràng đi bộ nửa ngày đường đến nhà
người bà con ăn giỗ. Lúc đến nơi ông sờ tay lên cổ thì giật mình mới nhớ là vì
vội quá nên đã bỏ quên túi ngọc ở nhà. Ông thấy không thể nào an tâm ngồi ăn
được. Mọi người đều lấy làm ngạc nhiên thấy ông vừa chân ướt chân ráo đến nơi
đã vội về ngay. Nhưng khi về đến nhà, ông tìm mãi không thấy ngọc đâu cả. Ông
rụng rời cả người. Đi tìm vợ, vợ cũng không thấy nốt. Nóng ruột, ông lục lọi
khắp nơi, cuối cùng ông bắt được một mảnh giấy gài ở chỗ treo áo. Trong đó vợ
ông có nói rằng có người của Long Vương lên bảo cho biết hễ ai bắt được túi
ngọc đưa xuống dâng Long Vương thì sẽ được làm Hoàng hậu. Bởi vậy, bà đã trộm
phép ông đưa túi ngọc xuống thuỷ phủ rồi, không nên tìm làm gì cho mệt.
Đọc xong thư vợ, Dã Tràng ngất đi, ông không ngờ vợ
ông lại có thế đối xử với ông như vậy. Ông cũng không ngờ âm mưu của Long Vương
thâm độc đến nước ấy. Nghĩ đến hai thứ bảo vật, ông tức điên ruột. Sau cùng,
ông dự tính chở cát lấp bể thành một con đường xuyên thuỷ phủ để lấy lại túi
ngọc, vì ông còn nhớ cả đường lên xuống thuỷ phủ của Long Vương. Mặc dầu mọi
người can ngăn, ông cũng vẫn dọn nhà ra bờ biển để làm việc đó. Ngày ngày xe
cát chở đến bờ, quyết lấp cho bằng được.
Cho đến chết, Dã Tràng vẫn không chịu bỏ công việc.
Chết rồi, ông hoá thành con còng còng hay cũng gọi là Dã Tràng, ngày ngày xe
cát để lấp biển. Tục ngữ có câu: Dã
Tràng xe cát biển đông / Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì.
Người ta nói loài ngỗng sở dĩ không bao giờ ăn tép
là vì chúng nó nhớ ơn loài tép đã thế mạng cho tổ tiên của mình ngày xưa. Họ
còn nói loài ngỗng có một cái mào trắng trên đầu là dấu hiệu để tang Dã Tràng
vì nhớ ơn cứu mạng.
46.
KHỔNG LỒ ĐÚC CHUÔNG
Vào đời nhà Lý, có một người gọi là Khổng Lồ, vì
thân thể người ấy to lớn, đến nỗi các tay lực sĩ trong triều trông thấy đều
khiếp sợ. Từ lúc tuổi trẻ, Khổng Lồ đã đi tu, và chu du khắp thiên hạ với một
cây sắt trong tay, sức nặng không ai tưởng tượng nổi. Ông ta còn có một cái đẫy
rất màu nhiệm. Bề ngoài không khác gì một cái túi vải thường, nhưng bỏ lọt vào
đấy bao nhiêu đồ vật to lớn, cồng kềnh, chất chứa thế nào cũng không đầy và cũng
không bao giờ to thêm.
Bấy giờ, nhà vua cần rât nhiều đồng đen để đúc
tượng và các vật dụng thờ Phật, nhưng ngặt vì nước Nam không có đồng đen. Nghe
tiếng Khổng Lồ có sức mạnh phi thường, thân mình lực lưỡng, nhà vua đòi vào
triều và sai đến Trung Quốc quyên giáo. Khổng Lồ vâng lệnh xách đẫy sang Trung
Quốc. Sau bao ngày lặn lội, trèo non, lội suối Khổng Lồ đến được kinh đô nước
Trung Quốc, xin vào yết kiến.
Quân sĩ canh gác thấy Khổng Lồ một nhà sư to lớn
phi thường xin vào yết kiến, lấy làm lạ hỏi: -
Hoà thượng từ đâu đến đây, mục đích để làm gì? Khổng Lồ chắp tay niệm phật, nói: - Bần tăng đến đây chỉ cầu xin bệ
hạ cho bần tăng một ít đồng đen đem về đúc tượng phật ở nước Đại Việt. Nhà
vua ngỡ là có nhiều vị tăng già theo ông, nên hỏi: - Quý quốc cần bao nhiêu đồng và có
bao nhiêu đệ tử đi theo hoà thượng? Khổng Lồ giơ cao đẫy lên, tâu: - Kẻ hạ thần chỉ có một mình và chỉ
xin một cái đẫy này là đủ. Thấy
cái đẫy có chút xíu, vua Trung Quốc mỉm cười nói: - Hoà thượng có lấy trăm đẫy như
vậy trẫm cũng không từ chối. Đoạn
nhà vua sai một tên thị vệ dẫn Khổng Lồ đến quan giữ kho, bảo mở kho đồng đen
cho Khổng Lồ muốn lấy bao nhiều thì lấy.
Trước khi vào kho, phải đi qua một cái sân rộng, ở
đó dựng tượng một con trâu bằng vàng, to như cái nhà, sáng chói cả một vùng
trời. Quan giữ kho chỉ vào tượng con trâu, nói đùa với Khổng Lồ: - Hoà thượng có cần dùng cả con trâu
này không? Khổng Lồ đáp: - Không!
Tôi chỉ cần một ít đồng đen mà thôi. Khổng
Lồ vào kho, trút tất cả đồng trong kho vào cái đẫy vẫn không đầy. Sau đó, Khổng
Lồ gút miệng đẫy, mắc dây vào đầu gậy, quảy về nước.
Quan giữ kho xem thấy Khổng Lồ chỉ dùng cái đẫy rất
nhỏ mà lấy được hết số đồng đen chứa trong kho, lấy làm lạ tâu với vua. Vua
Trung Quốc không ngờ xảy ra chuyện phi thường như vậy, truyền quân đuổi theo
bắt lại để xét rõ sự tình. Lúc ấy, mặc dù gánh nặng đè lên vai, nhưng Khổng Lồ
đã đi được hơn ba trăm dặm rồi vừa đến một con sông rộng, bỗng nghe có tiếng
ngựa hí, quân reo ở đằng sau, ông biết có quân triều đình đuổi theo liền thả
chiếc mũ tu lờ xuống nước, hoá thành chiếc thuyền, vươn gió qua sông.
Quân sĩ nhà vua vừa đến bờ sông thì Khổng Lồ đã
tiến ra giữa sông rồi. Bọn chúng tìm lời dối gạt, nói: - Hoà thượng, hãy giúp chúng tôi với.
Chúng tôi vâng mệnh vua đi khiêng giúp đồng và hộ tống Hoà thượng về nước.
Khổng Lồ nói vọng lên: - Bần
tăng gởi lời về cảm ơn Hoàng thượng. Còn cái đẫy này để tự bần tăng mang lấy
cũng được, đâu cần phải làm phiền thiên sứ. Bọn lính biết không thể đuổi
theo kịp, bèn quay trở lại.
Khổng Lồ sau đó đi dọc theo bờ biển, tìm đường về
phương Nam. Đến tận cửa sông, bỗng gặp một chiếc thuyền buôn rất lớn, kéo buồm
sang nước Việt. Khổng Lồ xin thuyền quá giang. Chủ thuyền thấy Khổng Lồ chỉ
mang một cái đẫy rất nhỏ mà khi xuống thuyền thì nước mấp mé muốn trào vào nên
ngần ngại không dám nhổ neo. Khổng Lồ nói: - Các
người chớ ngại, tôi quyết không để thuyền chìm đâu. Thế rồi thuyền nặng nề rẽ
nước, sóng thuận gió êm.
Được mấy ngày, bỗng xảy ra một trận phong ba dữ
dội. Một con Ngô Công mình dài trăm trượng, miệng há đỏ như lửa, đang vẫy vùng
giữa sóng gió, tiến tới trước mũi thuyền, toan nuốt các thuỷ thủ. Mọi người
trên thuyền đều kinh sợ. Khổng Lồ mới nói: - Cứ
ngồi yên! Để tôi trừ con quái vật này. Nó là một loại rít biển, vì to lớn nên
hung hăng như vậy. Dứt lời, sẵn có một quả bí chở trên thuyền, ông ta ném
vào miệng Ngô Công. Ngô Công vừa đớp lấy quả bí thì Khổng Lồ đã nhảy xuống
nước, dùng gậy đánh vào mình nó, làm cho nó đứt làm ba khúc hoá thành ba hòn
đảo nổi giữa biển khơi. Ngay sau đó, sóng gió yên lặng và thuyền lại đi một
mạch tới đất Việt.
Về tới kinh đô, Khổng Lồ vào chầu vua và kể lại mọi
việc. Vua sai sư Khổng Lồ đem đồng ra đúc bốn thứ bảo khí thờ Phật, để cho mọi
người ngưỡng mộ và truyền lại cho đời sau. Khổng Lồ triệu tập tất cả thợ đúc
lành nghề trong nước rồi mở túi lấy đồng ra chia làm bốn phần.
Đầu tiên, ông đúc một cái tháp cao chín tầng, gọi
là tháo Báo Thiên. Tháp đúc xong hình tháp sừng sững giữa kinh thành, đứng đâu
cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng Phật cao sáu trượng và một cái đỉnh to
vừa bằng mười người ôm. Còn lại bao nhiêu đồng Khổng Lồ cho đúc một quả chuông
rất lớn. Chuông đúc xung, đánh thử lần đầu tiếng vang xa bốn cõi, vang đến tận
Trung Quốc, con trâu vàng đúc ở trước kho đồng đen là mẹ của vàng cho nên
nó nghe tiếng ngân biết là mẹ nó đã sang nước Việt. Nó liền ba chân bốn
cẳng chạy một mạch sang nước Nam, không một sức mạnh nào có thể cản nổi.
Cuối cùng, trâu vàng tìm đến quả chuông do Khổng Lồ
mới đúc. Nó hôn hít hồi lâu rồi nằm bên cạnh. Thấy việc xảy ra bất ngờ như thế,
Khổng Lồ tự nghĩ, nếu để chuông lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng bốn biển sẽ
quy tụ vào nước mình mà như thế thì nguy hiểm và các nước sẽ gây chiến. Ông bèn
tâu với vua xin đem quả chuông này ném cho mất tích để tránh việc đao binh có
thể xảy ra. Thấy ý kiến của Khổng Lồ có lý, nhà vua truyền đem quả chuông ném
xuống nước.
Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi, xách quả chuông
ném xuống Hồ Tây. Chuông bị tung lên không, bay ra giữa hồ, vang lên một tiếng
rất dữ dội. Con trâu vàng nghe tiếng vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ.
Từ đó về sau, thỉnh thoảng những lúc thanh vắng,
người ta thấy quai chuông nổi lên mặt nước, còn trâu vàng thì đôi lúc lên bờ
hồ, đi dạo quanh, hễ thấy bóng người là trâu lặn xuống nước ngay. Cũng vì câu
chuyện trên mà Hồ Tây còn có tên là hồ Kim Ngưu. Riêng Khổng Lồ về sau được thợ
đồng thờ làm thần nghề đúc đồng.
47.
CHÀNG RỂ CỌP
Ngày xưa, có một ông vua sinh được ba người
con gái xinh đẹp. Có nhiều quan võ đến xin làm rể nhưng người nào cũng không
được các cô ưng thuận. Một hôm, vua gọi ba người con gái lại và phán rằng: Trong triều, quan tài tướng giỏi có
nhiều nhưng ai hỏi các con cũng không chịu lấy. Từ nay cha để các con tuỳ ý kén
chọn, thuận ai thì lấy người ấy làm chồng. Ba
cô vâng lời, mỗi người đóng một cái mảng, chở theo dòng sông, đi kén chồng.
Nàng Cả đi được một quãng thì gặp một chàng trai
đứng ở bờ sông, vẫy tay gọi mình: Nàng
chở mảng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với! Thấy người ấy đen thủi, đen thui, xấu
xí, nàng Cả bĩu môi: Ôi giào,
xấu thế kia, ai thèm chở. Nói đoạn đi thẳng. Nàng Hai chở mảng đến nơi,
chàng trai lại gọi: Nàng chở
mảng kia ơi, cho tôi sang nhờ với! Nàng
Hai nhăn mặt: Thứ người xấu xí
thế, ai mà thèm chở! Đến lượt nàng Ba. Mảng vừa trôi tới, chàng trai
cũng cất tiếng xin chở giùm. Nàng Ba vui vẻ ghé mảng vào bờ, mời người đó lên.
Chàng trai vừa bước lên mảng, bỗng biến thành một con cọp vằn ngồi chễm chệ
đằng trước. Nàng Ba vẫn vui vẻ. Nhưng nàng ra sức khoả nước mà mảng vẫn đứng
yên, không nhúc nhích.
Nàng Cả và Nàng Hai xuôi mảng, mỗi nàng tìm được
người chồng xinh đẹp, thích lắm, ngược sông trở về. Tới chỗ cũ, hai nàng vẫn
thấy em mình loay hoay giữa dòng, trên mảng lại có một con cọp ngồi chồm chỗm,
bèn chế nhạo: Chồng người
không lấy, quanh quẩn ở đây lấy chồng cọp à? Hai
người chị vừa nói, vừa gắng hết sức chở chồng đẹp về nhà. Tiếng nói vừa dứt,
thì mảng của nàng Ba tự nhiên rời bến, bơi vượt lên, lướt vun vút như có cánh
bay.
Về đến nhà, hai chị vào cung tâu với vua cha: Hai chúng con xuôi mảng, kén được
chồng đẹp, còn em Ba ngại đi xa, nên lấy ngay phải chồng cọp rồi! Vua nói: Ta đã cho các con tự ý đi tìm
chồng, ưng thuận ai thì lấy người ấy. Nay nàng Ba đã lấy phải chồng cọp cũng là
chồng. Hai nàng cười lui ra.
Một hôm vua gọi các con rể lại bảo: Trâu bò, ngựa, lợn ta thả ở trong
rừng. Rể nào lùa được chúng về chuồng của mình, rể đó làm ăn giỏi, ta sẽ thưởng
cho số gia súc đó.
Hai chàng rể xinh đẹp sai gia nhân làm mỗi người
một cái chuồng thật đẹp rồi đi vào rừng. Hai chàng ngợp mắt trước đàn gia súc
của nhà vua, nhưng không biết làm cách nào dồn chúng về chuồng mình. Họ vác gậy
hò hét, rượt đuổi nhưng hai chàng đuổi ở đầu núi này, thì đàn gia súc lại chạy
sang núi nọ, toát cả mồ hôi mà vẫn không lùa chúng về được. Trong khi đó chàng
rể Cọp hì hục vác gỗ to cọc lớn, quây một vùng đất rộng làm chuồng. Hàng rào
của chàng tuy xấu nhưng chắc chắn, bên trong lại rộng, chiều tối, khi hai người
anh đã mệt lử, Cọp mới lững thững đi vào rừng. Lạ thay, vừa trông thấy chàng
tất cả, trâu, bò, ngựa, lợn của nhà vua ngoan ngoãn theo chàng về nhà. Thấy
vậy, hai chàng rể người chạy về tâu với vua: Hai
chúng con có chuồng đẹp, chẳng biết vì sao đàn súc vật không một con nào chạy
vào cả. Trâu bò, ngựa, lợn đi vào cái chuồng xấu xí trơ trọi của em rể Cọp hết
rồi! Nàng Cả, nàng Hai tức
tối nói: Trâu, bò, lợn không được thì thôi, chồng đẹp mới quý! Vua nói: Rể Cọp làm ăn giỏi xứng đáng lấy
được nàng Ba. Từ đó vua rất
quý Cọp.
Đến ngày sinh của vua cha, rể Cọp bảo vợ: Hôm nay
là ngày sinh của bố, để tôi đi lấy ít cá về làm cơm mời bố ăn. Hai chàng rể
người thấy Cọp đi lấy cá cũng đi theo. Ra đến suối, cả ba chung nhau một cái
chài. Hai người anh tranh lấy chài, đòi quăng chài trước. Nhưng họ sợ ướt quần
áo đẹp, chỉ lội quanh quẩn ở chỗ nước nông lên không lấy được một con cá nhỏ.
Hai người anh bèn đưa chài cho Cọp và bảo: Chú Cọp làm ăn giỏi, hãy quăng thử
xem có được nhiều cá không? Cọp xách chài lội ra chỗ vực sâu, lấy cành cây vỗ
vỗ trên mặt nước dồn cá vào một chỗ rồi quang chài xuống đó. Một lát, Cọp kéo
chài lên, bắt được vô số cá. Cọp quăng mấy tay chài, được một mẻ cá đầy, gánh
về cho vợ, dặn: Mình đem cá này làm cơm mời bố. Tôi có việc đi vắng vài ba
ngày. Khi nào thấy mưa to gió lớn là tôi về đấy. Nói xong, rể Cọp chạy ra bờ
sông, nhảy tùm xuống nước biến mất. Hai chàng rể người thấy vậy, hớt hải
chạy về báo với vua: Rể Cọp
ngã xuống sông chết đuối rồi. Vua thương tiếc Cọp lắm. Còn rể Cọp, sau khi
xuống nước, chàng trút lốt da, trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặc
quần áo đẹp, lên ngựa trở về nhà.
Lúc ấy, trời mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng.
Mọi người bỗng thấy một chàng trai da trắng, môi hồng, mắt chàng sáng như sao,
cưỡi ngựa từ xa đi lại. Biết là chồng mình, nàng Ba vui mừng chạy ra đón. Bấy
giờ mọi người mới biết đó là rể Cọp, vô cùng kinh ngạc. Ai cũng trầm trồ ngắm
nghía. Riêng hai người chị thì vừa ghen tức, vừa xấu hổ.
Chàng Cọp đón vợ về nhà. Khi hai vợ chồng vừa đến
nơi, căn nhà cũ bỗng biến thành một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, xung quanh
có vườn, có ao, có nương, có ruộng. Hai vợ chồng Cọp ở khu nhà ấy, ngày ngày
cùng nhau làm nương phát rẫy, sống cuộc đời đầm ấm, hạnh phúc. Họ nuôi được
nhiều trâu, bò, ngựa, lợn. Đến mùa thì thóc lúa đầy vựa, đầy bồ. Còn hai cô
chị, tuy lấy được chồng đẹp nhưng không làm ra được gì cả.
48.
CẬU BÉ NGHÈO KHỔ VÀ CÂY BẬT LỬA THẦN
Xưa, có một đứa bé mồ côi, không anh em, cũng chẳng
có họ hàng thân thích. Mồ Côi phải đi xin ăn. Nhưng lang thang hết làng nọ sang
xóm khác, chẳng mấy khi Mồ Côi được no bụng. Một hôm, Mồ Côi gặp thầy mo già đi
cúng ở làng bên đang trên đường về. Thầy mo thấy Mồ Côi quần áo rách rưới, mặt
mày hốc hác, bèn hỏi: Này thằng bé nghèo khổ kia, mày muốn có nhiều tiền tiêu
không? Cậu bé Mồ Côi buồn bã đáp: Sao cụ lại hỏi thế? Cháu cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, bây giờ có tiền tiêu sao lại không muốn. Nhưng làm thế nào lại có
được hả cụ? Thầy mo bảo: Cứ theo lời tao bảo mà làm thì tức khắc có nhiều tiền.
Tao biết ở dưới hang núi sâu kia có rất nhiều vàng bạc. Mày vào lấy ra. Nhưng
mày hãy nghe cho kỹ mà nhớ lấy điều này: vàng bạc thì cho tha hồ, mày muốn lấy
bao nhiêu cũng được. Nhưng còn chiếc hộp nhỏ nằm trên phiến đá vuông thì đấy là
của tao. Mày cầm ra cho ta thì khắc sung sướng. Mồ Côi nghe theo lời dặn, cố
lần theo đường hang tối dưới nước đi tìm cái hộp. Hang sâu lắm, càng đi sâu vào
càng thăm thẳm. Mồ Côi vẫn cố dò dẫm tiến vào. Một lúc sau, trong hang bớt tối,
lại còn ít ánh sáng mờ mờ ở góc hang. Mồ Côi liền mạnh bạo đi đến, thì thấy một
con chó đá ngồi sừng sững trong hang. Mồ Côi sợ quá, nhìn quanh lại chẳng thấy
vàng bạc đâu cả. Nó bèn lên tiếng hỏi chó đá: Chó đá ơi! Chó đá ngồi đây canh
giữ hang, có thấy vàng bạc ở đâu chỉ giúp tôi với. Mồ Côi vừa nói dứt lời thì
bỗng nhiên chó đá cất tiếng nói: Bạc thì phía sau lưng ta đây rồi. Còn vàng thì
ở sâu phía trong kia, cứ việc vào mà lấy.
Mồ Côi mừng rỡ đi vào trong trước, lấy vàng đã. Vừa
bước vào phía trong hang sâu, nó giật mình vì lại thấy con chó đá vừa rồi. Mồ
Côi hết sợ, lên tiếng hỏi xin, con chó đá lại chỉ ra phía sau: Vàng ở sau lưng
ta ấy, vào mà lấy. Mồ Côi nhanh nhẹn giắt vàng vào người rồi quay trở ra. Mãi
đến lúc này nó mới chợt nhớ đến cái hộp thầy mo dặn. Nhưng chiếc hộp ấy nằm
ngay trên lưng phiến đá, chẳng phải tìm lâu. Nó nhặt chiếc hộp rồi tìm đường ra
khỏi hang. Bao nhiêu vàng bạc, Mồ Côi không quên khuân hết ra cửa hang, lão
thầy mo vội vã giục: Cái hộp đâu? Đưa ngay cho tao đi đã! Thầy mo cuống quýt vì
cái hộp, cậu bé Mồ Côi giấu đi và nói: Trong hang chỉ toàn là vàng bạc thôi,
chẳng thấy cái hộp ở đâu cả! Không tin ông thử lần vào hang mà xem. Thầy mo
nghe thế thì giận lắm. Vừa tiếc, vừa chẳng biết làm thế nào hơn, lão đành bảo:
Mày thật là đồ ăn hại! Thôi thế này vậy: không tìm thấy cái hộp thì mày phải
nhường hết vàng này cho tao. Còn bạc thì phần mày. Thế là may lắm rồi đấy! Nói
rồi thầy mo lấy vàng, Mồ Côi lấy bạc, đường ai nấy đi.
Mồ Côi được bạc trở nên giàu có. Nhưng cậu không
giữ lấy một mình. Cậu đi khắp thiên hạ, thấy ai nghèo khổ thì lại lấy bạc đem
cho. Chẳng bao lâu số bạc đã hết sạch, Mồ Côi lại trở nên nghèo túng. Một hôm
trong lúc vét túi, Mồ Côi mới sực nhớ ra có cái hộp mà bấy lâu nay quên bẵng.
Cậu vội mở hộp thì bên trong có một chiếc bật lửa, cậu lấy tay thử bật một lần
đầu. Chiếc bật lửa vừa kêu "xạnh" một tiếng thì xung quanh sáng loé
lên: Tiền bạc ở đâu đã theo lửa bắn ra tung toé. Cậu lấy tay bật liên hồi một
lúc thì đã đầy vàng bạc. Mồ Côi lại lấy tiền vàng bạc đi khắp nơi cho người
nghèo, và ai ai cũng yêu quý cậu. Mồ Côi trở nên giàu có nhưng vẫn không quên
cuộc sống nghèo khổ cũ. Vì thế hễ thấy các em bé đói rách, bao giờ cậu cũng mua
quần áo và cho ăn uống. Các em bé nghèo rất quý bạn mới của mình, trong số đó
có một em bé nhà nghèo thấy Mồ Côi, cứ đi theo không rời nửa bước.
Tin đồn về cậu bé có bật lửa quý xôn xao đến tai
vua. Vua sai lính bắt Mồ Côi đến. Nhưng Mồ Côi đoán biết được mưu mô nên đã để
bật lửa ở nhà. Vừa nhìn thấy Mồ Côi, vua đã vội vã hỏi ngay: Nghe nói mày có
bật lửa quý bật ra tiền và bạc phải không? Mày hãy nộp cho tao. Mồ Côi không
chịu. Vua sai quân lính bắt nhốt Mồ Côi, đánh đập rất đau. Tin đó lan truyền đi
trong dân chúng, cậu bé nhà nghèo chạy về nhà lấy chiếc bật lửa ra. Cậu bé bật
lên hai cái thì hai con hổ xông ra chỗ nhà vua. Cả lũ quan cũng bị hổ cắn chết.
Từ đấy Mồ Côi lại lang thang khắp các bản làng, với chiếc bật lửa thần trong
tay, cậu mang đến sự no ấm và bình yên cho mọi người.
49.
CHUYỆN CHÚ CUỘI
Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé tên là Cuội, Cuội
là một đứa trẻ thông minh, nhưng như cái tên của nó gợi cho bạn thấy, nó dùng
trí thông minh để nói dối. Nó rất khoái đánh lừa những người xung quanh. Không
một ai tránh khỏi bị nó lừa dối. Thậm chí cả chú thím nó là những người đã mang
nó về nuôi sau khi cha mẹ nó qua đời, nó cũng không tha.
Một hôm, chú nó đi cày ở cánh đồng xa, còn thím nó
thì ở nhà lo toan công việc nội trợ. Nhìn thấy thím nó bận rộn, Cuội chợt nghĩ
ra một trò dối trá để trêu trọc cả ông chú lẫn bà thím. Nó lẻn ra khỏi nhà,
chạy thẳng ra đồng, nơi chú nó đang cày, vừa chạy đến ruộng, nó đã gọi giật
giọng: - Chú ơi! Chú! Chú về
nhà ngay! Thím bị ngã thang, máu chảy đầm đìa chẳng biết xoay sở thế nào.
Chẳng kịp nói năng, chú nó lao về nhà. Thằng Cuội theo đường tắt chạy tót về
trước, nó nhảy bổ vào nhà kêu tướng lên: - Thím
ơi ! Thím! Chú bị trâu húc ở ngoài đồng. Sừng trâu đâm xọc vào bụng chú. Thím
đi nhanh lên không chú chết mất! Cuội
nói chưa dứt lời, thím nó đã chạy ra khỏi nhà. Cuội nhìn theo, toe toét cười
khoái trá và đứng nấp đằng sau nhà. Thím nó chạy vắt chân lên cổ mà vẫn sợ
không kịp. Thế rồi đúng vào lúc thím nó vừa đến chỗ đường ngoặt thì đâm sầm
phải một người, hoá ra đó chính là chồng mình đang thở hồng hộc và đầm đià mồ
hôi. Hai người nhìn nhau lặng người đi.
Cái thằng Cuội! Hai người hiểu ngay ra là họ lại bí
mắc lừa thằng cháu. Chú thím nó nổi cơn thịnh nộ. Ông chú nói: - Từ nay về sau, chúng ta sẽ quyết
không để thằng nhãi con ấy đánh lừa nữa! Hai
vợ chồng trở về nhà và tìm thấy Cuội đang nấp ở sau nhà. Hai người đem nhốt nó
vào trong một cái sọt tre to, buộc chặt nắp lại cho chắc chắn. Ở đấy cho đến tối - chú nó đe - rồi thím mày và tao sẽ mang cái sọt
này ra sông quẳng xuống nước để mày chẳng còn bao giờ nói dối được nữa. Đến
chiều, chú thím nó mang sọt ra sông. Nhưng đúng vào lúc họ định quẳng nó xuống
nước. Cuội kêu lên: - Chú thím
ơi! Cháu biết mình có lỗi rồi. Cháu xin sẵn lòng chịu tội. Nhưng xin chú thím
cho cháu một ân huệ cuối cùng: Cháu có một quyển sách dạy nói dối giấu kín ở
đằng sau bồ thóc trong nhà. Nay cháu muốn mang theo để đọc ở dưới âm ti. Cả
chú và thím nó đều không nỡ chối từ. Vả lại, chú nó cũng còn tò mò muốn biết
quyển sách đó nói gì. Thế là ông ta về nhà lục tìm.
Giữa lúc Cuội ngồi trong sọt chờ đợi, thì một người
mù đang dò dẫm dọc bờ sông. Thằng bé liền gọi to. - Ông mù ơi! Ông mù! Nếu ông muốn
sáng được mắt thì hãy đến đây! Nghe
thấy thế, người mù liền dò đường đến chỗ cái sọt: - Nhanh lên nào, nhanh lên - Cuội nói - Ông hãy tháo cái nắp sọt này ra,
rồi tôi sẽ bảo cho ông biết cách chữa bệnh mù. Người mù dò dẫm quanh cái
sọt và rốt cuộc cũng tìm cách mở được cái nắp ra. Nắp sọt vừa bật mở, Cuội nhảy
vọt ra ngoài chuồn thẳng. Khi chú thím nó trở lại sông để nói cho nó biết là họ
chẳng tìm thấy quyển sách đâu cả, thì thằng bé đã không còn ở trong sọt nữa.
Chỉ có một người mù tội nghiệp đang đứng đợi để học cách chữa cho mắt mình khỏi
mù. Chú thím nó lại bị lừa một lần nữa.
Thằng Cuội chạy đến bụi tre dày đặc ở gần bờ sông.
Trong lúc đang tha thẩn quanh bụi tre, nó vớ được một cái hũ cổ đựng đầy vàng.
Thật là may biết mấy. Cuội liền mang về nhà cho chú thím. Nhờ có hũ vàng, gia
đình chú thím trở lên giàu có. Chú thím nó giờ đây hiểu rằng có mắng mỏ mấy
cũng không làm thằng bé thay đổi được tính nết. Họ nghĩ: hay cưới cho nó một cô
vợ tử tế, có thể nó sẽ thôi nói dối và bỏ cát tật ăn không ngồi rồi. Vì vậy hai
người cưới cho Cuội một cô gái người làng. Dường như trong một thời gian, việc
cưới xin đó có làm cho Cuội đỡ nói dối đi, nhưng chỉ mấy tháng sau, khi thím nó
chết, Cuội lại tiếp tục nói dối và đánh lừa mọi người như trước.
Một hôm, Cuội đi lang thang trong rừng bắt gặp mấy
con hổ con đang nằm trên cỏ. Cuội bắt đàn hổ con bẻ gẫy chân của chúng. Đau
quá, lũ hổ con kêu lên, liền nghe có tiếng gầm kinh rợn từ một nơi nào đó. Chắc
là hổ mẹ. Cuội vội lẩn ngay vào đằng sau một bụi cây. Một lát sau, hổ cái xuất
hiện. Khi thấy con bị đau, nó cắp từng con đến dưới một gốc cây non cành lá
xanh tốt. Nó bứt vài chiếc lá rồi nhai nhỏ và rịt vào chỗ chân bị gãy của đàn
con. Cuội vô cùng sửng sốt, lũ hổ con chỉ sau một ít phút đã lành lặn. Cuội
rình cho đến khi đàn hổ đi hết, rồi đào cây vác về nhà. Cuội trồng cây đó ở
trong sân và đặt tên cho nó là cây đa. Từ đấy trở đi, Cuội chăm bón cây rất cẩn
thận. Cuội nói với vợ rằng, cái cây này là của một vị thần cho, lá cây có thể
chữa lành các vết thương, chữa khỏi mọi chứng bệnh và còn có thể cải tử hoàn
sinh. Cuội dặn vợ phải giữ cho cây đa luôn được sạch sẽ. Nhiều lần Cuội đe vợ:
- Cấm có đổ rác vào gốc cây,
kẻo nó bay đi mất! Thoạt đầu
vợ Cuội làm theo đúng lời chồng dặn. Nhưng dần dần về sau, ả đâm bực mình với
chồng vì thấy Cuội tỏ ra quý cây hơn cả vợ, ả cũng phát ngấy về những lời chồng
răn dạy. Thế rồi một hôm, xảy ra chuyện cãi cọ về cái cây, ả không còn kiềm chế
được nữa, hét lên: - Tôi cứ đổ
rác vào gốc cây nếu tôi muốn. Tức
tối, ả mang một thúc rác đầy từ trong nhà bếp ra đổ cả đống vào gốc cây. Đột
nhiên, cây đa bắt đầu lung lay, rồi từ từ bật rễ khỏi mặt đất và bốc lên cao.
Nhìn thấy sự thể xảy ra, Cuội lao sấn đến cây đa, bám chặt vào một cái rễ.
Nhưng cây đa cứ tiếp tục bốc lên cao. Nó cứ bay lên mãi, cao vút lên bầu trời
cùng với chú Cuội bím chặt lấy rễ.
Cây đa bay mãi, bay mãi cho đến khi tới mặt trăng
và đứng ở đấy suốt từ đó cho đến bây giờ.
Nếu bạn nhìn kỹ mặt trăng, bạn vẫn có thể trông
thấy bóng cây đa ở trên đó, có chú cuội ngồi dưới gốc cây, nhất là vào lúc trời
quang và gặp khi trăng tròn và sáng.
50.
CHƯA ĐỖ ÔNG NGHÈ ĐÃ ĐE HÀNG TỔNG
Ngày xưa, có một anh học trò nghèo nhưng học giỏi,
trong sổ thiên tài hồi đó có ghi tên anh sau này đỗ tiến sĩ, làm quan to. Nhà
anh ở gần miếu Thổ thần, mỗi lần đi học, anh ta đều đi ngang qua ngôi miếu đó.
Vị Thổ thần ở miếu nhân một bữa về chầu thượng đế, có xem sổ Thiên tài, nên
biết được, báo mộng cho người giữ đền phải tỏ ra cung kính với anh ta.
Một hôm, người giữ đền nằm mơ, thấy Thổ thần bảo: - Ngày mai phải quét dọn sạch sẽ, có
khách quý đến chơi. Người giữ
đền y lời suốt ngày đứng ngoài cửa cổng chờ đón khách quý, nhưng đợi mãi chỉ
thấy anh học trò nghèo xơ xác ghé vào nghỉ chân một lúc rồi ra đi. Ít lâu sau,
người giữ đền lại nằm chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này người
giữ đền cũng không thấy ai lạ hơn người học trò nghèo hôm trước. Anh học trò
nghèo này chỉ ghé vào ngâm một bài phú rồi ra đi. Người giữ đền lấy làm lạ,
nhưng không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bấy giờ người giữ đền mới tin chắc
anh học trò nghèo là người khách quý, có tên trong sổ Thiên tài, mai sau đỗ
tiến sĩ làm quan lớn, nên kể lại với người học trò. Người học trò nghe nói như
mở cờ trong bụng, biết chắc sau này sự vinh hoa, phú quý sẽ được hưởng thụ suốt
đời. Ước mơ chồng chất trong lòng những gì tươi đẹp nhất.
Một hôm, anh nằm dưới ánh trăng, mơ tưởng đến một
người đẹp tuyệt trần rồi ngắm lại vợ mình, thấy vợ mình không có chút nhan sắc
gì, thở dài thầm nhủ: - Rồi ta
sẽ bỏ nàng thôi! Một khi ta đã đỗ đạt, giàu sang thì thiếu gì con vua cháu chúa
sắc nước hương trời. Lúc đó ta tìm một mỹ nữ vừa đẹp vừa giàu sang không khó.
Nghĩ thế qua ngày hôm sau, hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đuổi đi. Mọi người hàng
xóm đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ hắn là một người có học hành mà nhẫn tâm
đến như vậy. Nhưng hắn chỉ cười ngạo nghễ mà không để ý đến dư luận.
Hôm khác, có người đến đòi nợ, vừa bước chân vào
sân hắn đã chỉ tay vào mặt mắng nhiếc: - Ta
chưa trả, không khéo ngày mai ta sẽ cắm đất vào vườn của mày cho mà xem. Sở dĩ hắn nói câu này là vì theo lệ
xưa hễ đỗ tiến sĩ thì được gọi ông nghè, và nhà vua thưởng ba mẫu đất làm nhà
ở, muốn cắm đất nơi nào cũng được. Hắn còn đe nhiều người nữa, gặp ai không vừa
lòng là hắn dọa: - Rồi chúng
bay sẽ biết tay ông. Những
hành động của người học trò đều được tâu lên thiên đình. Ngọc Hoàng phật ý
truyền bôi tên hắn trong sổ Thiên tài. Một thời gian sau, người giữ đền lại nằm
mộng thấy ông thần cho biết là không còn phải kính trọng người học trò đó nữa.
Người giữ đền hỏi: - Tội nó
như thế nào? Thổ thần đáp: - Nó bị kết án: "Dưới trăng bỏ
vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức". Quả nhiên, người học
trò ấy thi mãi vẫn không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa
nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu: "Chưa đỗ ông nghè đã đe
hàng tổng".
51.
CÔNG CHÚA THỦY TỀ
Ngày xưa, trên đất Mường Ai có hai anh em mồ côi
cha mẹ từ lúc còn nhỏ, người anh tên Cả, người em tên Hai. Hàng ngày hai anh em
vác cần câu ra suối. Câu được cá đem đi đổi quần áo để mặc, đổi cơm gạo để ăn.
Ngày nào Cả và Hai cũng câu được rất nhiều cá.
Một hôm, câu từ sớm đến trưa mà chẳng được con cá
nào, Hai bàn với anh: - Anh ạ,
ta đi về thôi. Cả rút dây câu, lại thấy lưỡi câu động đậy, cái phao chìm
nghỉm. Anh giật cần câu nhưng không kéo nổi. Hai lội xuống mò thì thấy lưỡi câu
bị một hòn đá như cái trứng gà đè lên. Tưởng là có cá to, họ lại câu nữa. Nhưng
mỗi lần phao chìm là lưỡi câu lại mắc vào hòn đá nọ. Lần này, Hai mò hòn đá lên
nhìn kỹ rồi reo to: - Ồ, quả
trứng.
Ngồi câu suốt buổi mà chỉ được mỗi quả trứng lạ, họ
bèn quay về nhà. Hai bèn bỏ cái trứng vào nồi đem luộc. Nước sôi lâu lắm mà quả
trứng vẫn nổi lên kêu loong coong. Anh Cả bàn nên đập quả trứng ra xem, Hai
ngăn lại, nói: - Ta đem cho gà
ấp thử coi. Gà mái ấp được
nửa tháng, quả trứng vẫn không nở. Cả lại toan đập trứng, Hai lại ngăn lại, và
họ đem quả trứng cất lên gác. Hai bàn với Cả: - Trời mưa, ta không đi câu được, ta
sẽ đi phát rẫy để có ngô, lúa. Hôm
sau, họ đã phát xong đám rẫy to bằng mười gian nhà thì chợt có con quạ đậu ở
chót ngọn cây kêu: - Ta khát
quá! Người ơi cho ta uống nước ta sẽ đáp ứng những gì mà người muốn. Nghe
quạ kêu vậy, Hai mừng lắm, cầm vòi nước giơ lên nói: - Ta cần hạt thóc, hạt ngô để làm
giống gieo trồng, nếu quạ cho ta hạt giống thì mời quạ xuống đây uống nước.
Quạ liền sà xuống uống một hơi cạn cả vòi nước, rồi nó vỗ cánh bay đi.
Hôm sau Cả và Hai lên rẫy thì thấy một đống ngô
vàng và một gùi lúa. Họ liền lấy hạt ngô trỉa xuống rẫy, hạt thóc gieo xuống
nương. Ngày tháng trôi đi, ngô đã vàng áo, lúa đã trổ bông. Cả và Hai gánh ngô
lúa được xếp vào gác cẩn thận. Lại có hôm, họ thấy có nhiều đong lúa được vò
sẵn thành hột, có cả gạo giã đầy cót, đầy nong. Hai chàng ngạc nhiên lắm. Lạ
hơn nữa là buổi chiều nào về nhà cũng thấy cơm canh dọn sẵn. Hai chàng chưa
biết người nào đã tốt bụng giúp mình để đền ơn, hỏi nhà nào họ cũng lắc đầu
không biết.
Hôm ấy, Cả ra rẫy, Hai ở nhà rình, nhưng chẳng thấy
gì lạ. Chiều họ bèn lên nương. Xẩm tối về nhà lại thấy cơm canh dọn sẵn. Sáng
hôm sau hai chàng lại lên nương, đến nửa đường. Hai lại trở về núp kín sau
những tàu lá cọ che cổng. Đứng nhìn lâu, bỗng anh thấy một cô gái đẹp trong quả
trứng chui ra. Cô gái nhìn ngó chẳng thấy ai, bèn lấy lúa ra vo, lấy gạo ra nấu
cơm. Hai vừa sợ, vừa mừng, anh đoán đó là người tốt thương hai anh em, nên yên
bụng. Cô gái làm xong việc, định trở lại vỏ trứng, thì Hai chạy bộ ra nắm chặt
vỏ trứng bóp nát.
Mất vỏ trứng, cô gái đành đứng run sợ. Hai hỏi: - Nàng là ai? Cô gái trả lời: - Tôi là con út vua Thuỷ Tề. Vua cha
thấy hai chàng nghèo khó, siêng năng chăm chỉ nên sai tôi lên giúp việc cửa
việc nhà. Từ hôm có nàng Vỏ
Trứng ở trong nhà, hai chàng làm ăn mỗi ngày mỗi khấm khá. Hai bàn với anh là
nàng Vỏ Trứng nên kết làm vợ chồng với anh mình. Nàng Vỏ Trứng trồng một cây
cam trước cổng nhà. Chẳng bao lây câu cam có quả sai và to.
Tin đồn anh Cả có vợ đẹp vang đi khắp Mường Ai. Tạo
Nòi con lão lang lấy cớ đi săn nai ghé qua nhà Cả và Hai. Hắn thấy quả là cô
gái đẹp nhất vùng. Hắn liền sắm trâu, bò, lợn, rượu khiêng đến nhà Cả và Hai.
Tạo Nòi nói: - Tao thương các
anh siêng năng nên đem ít vốn này đến giúp đỡ. Anh Cả định nhận lấy, thì
nàng Vỏ Trứng ra hiệu cho anh biết. Biết ý nàng, Cả liền nói: - Nhà tôi đã có hạt ngô, hạt thóc
rồi! Xin ông Tạo Nòi chở các thứ này vào nhà khác. Nói rồi, Cả bảo vợ làm
thịt gà, dọn cơm rượu cho Tạo Nòi ăn no, uống say.
Hôm sau, Tạo Nòi ốm liệt giường. Nhà lang chạy đến
chữa hết thuốc này đến thuốc nọ, bệnh của Tạo Nòi càng tăng lên. Nhà lang vội
kéo đến bắt vạ anh em Cả. Lão lang nói: - Thằng
Tạo Nòi chết, tao sẽ chặt cổ cả nhà. Hai nhìn chị dâu, nàng Vỏ Trứng lễ
phép nói: - Tôi cho thuốc sẽ
lành bệnh ngay nhưng nhà lang không được đến nhà tôi làm tình làm tội nữa.
Lão lang ngậm miệng chịu lời.
Tạo Nòi uống thuốc khỏi ngay. Nhưng vài hôm hắn lại
ốm nặng hơn. Nhà lang lại kéo đến bắt vạ anh em Cả. Không chịu nổi cảnh ức hiếp
này nữa. Hai giương ná, lắp tên chỉ thẳng vào lão lang, nói: - Nhà lang chém anh em tôi thì cái ná
này sẽ cho các ông chết trước. Lão lang vốn nhát gan, sợ tên thuốc độc, bèn
gọi quân lính kéo nhau trở về.
Một hôm, hai chàng lên nương làm cỏ lúa, nàng Vỏ
Trứng ở nhà làm cơm nấu canh. Bỗng con trâu cột dưới sàn giẫm chân thình thịch.
Nàng nhìn xuống chân thì thấy các góc nhà có người cầm dao nhọn. Nàng vừa ló
mặt ra cửa, họ xô đến bắt nàng bỏ vào võng khiêng đi. Nghe trâu ò ọ. Cả và Hai
bỏ công việc về ngay. Đến nhà, thấy nhà cửa tan nát, họ xộc lên nhà thì chẳng
thấy nàng Vỏ Trứng đâu nữa.
Từ hôm bắt nàng Vỏ Trứng mang về, Tạo Nòi cứ quẩn
quanh chỗ nàng. Nhưng lạ thay, tối nào cũng có con rắn nằm ở xà ngang giữ cửa
cho nàng. Tạo Nòi vừa xô cửa định vào buồng nàng thì con rắn lao vút xuống Tạo
Nòi lăn đùng ra chết ngất.
Nàng Vỏ Trứng bắt buộc phải ra đỡ Tạo Nòi dậy. Con
rắn xanh tự nhiên cũng biến mất. Thế nhưng hễ xẩm tối là con rắn lại xuất hiện.
Tạo Nòi tức lắm, hắn tìm đủ cách để giết rắn mà không nổi. Tạo Nòi bèn nói với
cha là phải tìm cách giết chết anh em Cả. Rắn xanh mách tin này vào tai nàng Vỏ
Trứng. Nàng Vỏ Trứng nói với Tạo Nòi rằng: - Chàng
thương tôi xin chàng chớ giết anh em Cả và Hai. Hắn chiều lòng nàng, nhưng
lại sai người đến nhà họ đào tróc lấy cây cam quý. Tạo Nòi lấy được cây cam thì
thực là hê hả trong lòng. Nhưng cây cam mỗi ngày một héo úa. Tạo Nòi định đẵn
cam, nàng Vỏ Trứng ngăn lại nói: - Để
tôi tưới xem cam có sống lại không. Nàng liền vác nước suối ra tưới cam,
cây cam xanh tươi trở lại.
Hôm nữa, Tạo Nòi lại ra suối xem nàng vác nước,
chợt thấy nàng trượt chân ngã xuống nước, Tạo Nòi liền nhảy theo để vớt nàng.
Nước xoáy cuốn cả hai người chìm nghỉm. Nghe người làng kêu là Tạo Nòi và Vỏ
Trứng chết đuối, lão lang từ trong nhà cũng nhảy xuống nước, hắn cũng bị nước
cuốn phăng luôn. Lúc ấy, nàng Vỏ Trứng rẽ nước về thăm vua cha. Vua Thuỷ Tề cho
nàng rất nhiều vàng, bạc, nhưng nàng nói: - Hàng
năm xin cha cho mưa nắng thuận hoà. Vua
Thuỷ Tề gật đầu, rồi trao thêm cho nàng một giọt nước: - Cha cho con cái ao cá thần để con
làm ăn sinh sống. Nàng nhận
giọt nước ao thần và từ biệt vua cha trở về trần gian.
Từ hôm nàng Vỏ Trứng ngã xuống nước. Cả và Hai
tưởng nàng đã chết, lòng họ buồn hơn. Một đêm nghe thấy tiếng gõ cửa. Hai ra mở
thì thấy nàng Vỏ Trứng trở về mừng lắm. Cả nắm tay vợ mà rơi nước mắt. Lúc ấy,
nàng mở bàn tay trao cho em Hai một giọt nước ao thần và nói: - Chị cho em cái ao cá thần của vua
cha trao cho chị, em hãy chăm nom đàn cá cho nhiều. Hai giơ tay đỡ lấy giọt
nước thần. Giọt nước liền nở tung ra thành cô gái xinh đẹp như nàng Vỏ Trứng, e
lệ bên cạnh bờ ao trong xanh. Nàng Vỏ Trứng bảo:- Đó là vợ của em đấy. Hai nắm
tay vợ và đưa về nhà. Từ đó bốn anh chị em cùng đi nương, phát rẫy, nuôi cá,
làm ăn sinh sống. Còn của cải nhà Tạo Nòi thì nàng Vỏ Trứng bàn rằng: - Người trong Mường ai thiếu trâu bò
cứ lấy mà chăn dắt cày bừa. Lúa ngô chia đều cho các bếp.
Dân Mường ai nấy được sống yên vui, ai cũng mến
thương, quý trọng nàng Vỏ Trứng.
52.
CHÀNG GÙ
Cách đây chín mười đời, có hai vợ chồng người nghèo
tính nết hiền lành, ăn ở ngay thật, rộng rãi với tất cả mọi người. Hai người
lấy nhau đã ba mươi năm mà chưa có con. Dành dụm được bao nhiêu, vợ chồng đều
bỏ ra làm phước, bắc cầu qua mương, để nước uống ở truông vắng, lại đi cầu các
miếu đền, chùa chiền. Mãi cho đến khi mái tóc lốm đốm bạc thì người vợ mới đẻ
được một đứa con trai.
Em bé lọt lòng mẹ, mắt đã sáng như sao, mặt đẹp như
ngọc, lại biết làm mọi việc trong nhà. Hiềm một nỗi, em đã lùn lại còn lưng bị
gù, chân tay ngắn ngủi. Vợ chồng nhà kia chưa vui mừng đã phải lo lắng vì đứa
con "một nửa đẹp, một nửa xấu" ấy. Bố em buồn đến nỗi chẳng thiết cày
cấy. Bà mẹ cũng nản bỏ bê cả việc canh cửi, bếp núc. Chẳng bao lâu, nhà này đã
nghèo, lại càng nghèo. Thấy vậy, em Gù xin đi ở đợ kiếm thóc gạo về nuôi cha
mẹ. Chủ nhà của Gù rất giàu, ruộng rẫy mênh mông, phải đi ngựa mới thăm xuể.
Nhưng đàn trâu của nhà này con nào con ấy gầy teo vì phải kéo cày quá sức. Gù
đến ở, xin chăn đàn trâu đó. Người chủ nhà chê: Trâu tao thiếu người chăn thật.
Mày đã lùn lại gù sao theo kịp trâu mà đòi ở, đòi chăn! - Tôi không lấy thóc công trước đâu.
Nếu tôi để mất trâu, để trâu đói thì ông cứ trừ công.
Nhà giàu bằng lòng cho Gù ở, ngày ngày Gù đuổi đàn
trâu ăn tít trên núi, chỗ ngày xưa chưa có trâu đến ăn nên cỏ còn nguyên. Trâu
đói, gặp cỏ non, con nào cũng cúi đầu ăn từ sáng đến chiều. Gù lại còn tranh
thủ kiếm thêm củi, bó lại thành bó buộc vào lưng trâu mỗi con hai bó. Chẳng bao
lâu, đống củi Gù đem về cho nhà chủ cao bằng mấy ngôi nhà, đàn trâu cũng lại
sức, con nào cũng béo tốt, da căng, lông mượt. Chủ nhà bằng lòng lắm. Nên hôm
Gù đòi thóc công, chủ nhà vui vẻ bảo: Tao
cho mày vào kho thóc, gánh ba gánh. Gánh được càng nhiều càng được nhờ.
Thấy Gù siêng việc, lấy được nhiều củi, giỏi chăn trâu, người Gù lại lùn, sức
chẳng gánh được bao nhiêu nên chủ nhà dễ dãi bảo vậy. Không ngờ Gù chìa bàn tay
lên, nắm lại nói: Tôi chỉ lấy
thóc đủ đổ đầy lòng bàn tay thôi!
Gánh ba ngày, chủ nhà còn cho huống hồ chỉ đổ đầy
lòng bàn tay! Người chủ đưa Gù vào kho. Gù nắm lòng bàn tay, để ở giữa một lỗ
trống, đưa cho nhà chủ đổ thóc vào. Bỗng bao nhiêu thóc trong nhà kho đổ rào
rào, rồi xếp thành hàng, dựng đứng chui vào lòng bàn tay Gù và chui ra phía bên
kia, cuộn lăn miết về nhà cha mẹ em! Ba vựa thóc hết nhẵn trong chốc lát. Chủ
nhà ngẩn ngơ, nhưng đã muộn rồi lão đành bấm bụng chịu.
Nhà đã thừa thóc ăn, Gù bảo cha mẹ đi hỏi vợ. Nhà
giàu ở làng bên, có ba cô gái đẹp chưa chồng, Gù bảo cha mẹ đi hỏi một trong ba
cô ấy. Nghe con nói, vợ chồng ông già lại cười: Con còn ít tuổi, người vừa lùn vừa
gù. Họ giàu có sang trọng, mạnh khoẻ. Ai bằng lòng lấy con mà hỏi với cưới.
Gù không nghe: Con chưa vợ, họ
chưa chồng cha mẹ cứ đi hỏi. Ông
bà không chắc hỏi được, nhưng chiều con nên phải liều. Người nhà giàu kia chẳng
thương gì Gù nhưng biết em giỏi việc, siêng năng, nên nhận cho ở rể, để lấy
người làm rồi sau sẽ tìm cách đuổi ra.
Muốn cho Gù yên lòng,
lão gọi ba đứa con, hỏi đứa nào thương nó thì lấy nó. Cô cả đến, đạp Gù một
đạp: Mày đứng chưa đến đầu gối
tao, mà muốn chơi trèo. Cô thứ hai cũng đến bĩu môi, nhổ nước bọt vào đầu
Gù. Cô thứ ba bước ra can hai chị: Người
ta đi hỏi vợ, mình không lấy thì thôi, sao lại đánh người ta. Hai cô chị mắng em: Mày muốn lấy nó hay sao mà bênh nó?
- Nó chưa vợ, tôi chưa chồng, lấy nó cũng được chứ sao? Hai cô chị bĩu môi, nhổ nước bọt
vào người em rồi bỏ đi. Gù ở đấy làm rể. Em dỡ nhà ra dựng lại cao hơn và rộng
hơn, xây cửa đúng hướng gió. Cái sân đang méo, em sửa lại cho vuông. Mọi việc
trong nhà đều được Gù sắp xếp đâu vào đấy. Cô gái út cũng thương Gù nhiều hơn.
Được ba năm, Gù xin cưới. Con gái đã thương người
đày tớ, không thể lừa được, chủ nhà thách cưới cao, cho Gù không lấy được vợ: Mày giỏi đấy. Nhưng nhà tao giàu.
Họ tao đông, mày phải lo đủ ngựa đi cho hai họ. Ngựa phải đủ yên cương, roi da,
bịt bạc, người phải có đủ nón dấu, nón gò găng (loại nón đắt tiền). Phải như
vậy mới xứng với con gái tao. Thiếu một thứ, tao không cho cưới. Lão nhà giàu tưởng thách cưới cao như
vậy, Gù không thể nào lo nổi, phải bỏ cuộc. Em lặng thinh về nhà nói với cha
mẹ. Vợ chồng ông già càng lo, ăn không ngon, ngủ không yên. Gù bảo cha mẹ: Cha
mẹ cứ ăn ngon như mọi bữa, ngủ ngon như mọi đêm. Việc của con, để con tự lo
lấy.
Gù nói vậy, song cha mẹ không yên lòng. Ông bà
trách mắng nhà giàu kia xảo quyệt, muốn đặt điều để cướp không ba năm ở rể của
con mình. Gù thản nhiên, không hề bận bịu lo lắng. Gần ngày cưới, lúc nửa đêm,
em lấy gậy chọc vào chiếc thờ (đan bằng tre, hình vuông, có nắp dùng đựng đồ
dùng) treo giữa nhà. Chiếc thờ xưa nay im lìm, bỗng rục rịch, cựa quậy. Ngựa ở
đó giậm chân, khua nhạc vang nhà.
Bà tỉnh giấc, gọi ông dậy. Hai người rình xem ngựa
hồng, ngựa ô, ngựa kim, ngựa bạch từng đàn từng lũ trong chiếc thờ nhảy xuống,
đứng chật sân, chật nhà. Chàng Gù cầm roi, đứng đếm từng con. Bỗng lông đuôi
con ngựa chui ra cuối cùng bị rối, cuốn vào kẽ chiếc thờ. Con ngựa bị treo lủng
lẳng giữa nhà. Gù bắc thang lên gỡ, cái thang bị trượt. Gù phải ôm cổ con ngựa.
Con ngựa lắc lư, người Gù lắc theo. Rồi lưng Gù thẳng dần và dài ra, cân xứng
với thân thể, Gù cùng với con ngựa nhảy xuống cùng một lúc.
Gù trở thành một chàng trai xinh đẹp. Vợ chồng ông
già ôm lấy cổ con, mừng rỡ khôn xiết. Gù lại lấy chiếc thờ xuống, mở nắp ra
xem. Bên trong có rất nhiều khăn thêu, áo mới, chuỗi ngọc, chuỗi vàng, roi da,
nón dấu, nón gò găng. Chiếc thờ chỉ to bằng quả bí, mà lấy mãi không hết của
cải, đồ đạc. Ông bà đem những thứ đó xếp chật nhà. Sáng hôm sau, chàng Gù dắt
ngựa xếp hai hàng dài, thẳng như kẻ chỉ, rồi cùng cha mẹ cưỡi ba con ngựa trắng
đi trước. Đàn ngựa kia theo sau, thẳng cổng nhà giàu nọ.
Nghe tiếng nhạc ngựa, lão chủ ghé mắt nhìn ra. Thấy
một đàn ngựa đủ màu sắc, đủ cả yên cương, quá sự thách thức của lão, lão gọi cả
nhà ra rước. Hai cô chị láo xược, thấy chàng Gù đẹp như tiên, thấy đàn ngựa
đứng chật cổng, chật đường, vội che mặt, bỏ chạy trốn vào trong kho thóc. Chàng
Gù mời hết cả hàng xóm đến ăn uống rượu, thịt cưới liền trong ba ngày. Tiếng
cười đùa, chúc tụng vang nhà dậy cửa.
Hai cô gái láo xược kia bị đói mà xấu hổ, không dám
ra ăn cơm, phải ngồi cắn từng hạt thóc lấy gạo ăn sống. Tan tiệc cưới, chàng Gù
cho mỗi người khách một con ngựa có đủ yên cương. Hai cô gái kia tủi thân, ôm
nhau khóc, rồi cùng chết hoá thành những con mọt thóc. Lũ mọt đó, mãi mãi không
dám ra ngoài, mà cứ rúc vào xó tối, đục thóc ăn, để sống qua ngày.
53.
NGƯỜI CHẾT SỐNG LẠI
Ngày xưa, ở huyện Đông Sơn có anh chàng họ
Hồ. Anh đẹp trai sáng dạ, chỉ phải mỗi tội là nhà rất nghèo. Thường ngày, anh
vừa làm thuê vừa học hành ở nhà một thầy đồ làng bên. Cuộc sống bữa no bữa đói
thật vất vả. Trong mấy năm trời, mặc cho ai nấy dè bỉu, anh vẫn vừa làm vừa học
không chịu bỏ dở. Thấy anh chăm chỉ chịu khó, một cô gái con nhà khá giả ở cạnh
nhà thầy đồ đem lòng yêu anh và cũng được anh yêu lại. Mối tình kín đáo của họ cứ
thế kéo dài được hai năm.
Một thời gian sau, anh chàng họ Hồ mượn mối đến dạm
hỏi cô gái, nhưng cha mẹ cô gái chê anh nghèo không gả. Họ nói thẳng: Anh có
một thân một mình mà sống còn chật vật, nếu lấy vợ về thì lấy gì mà nuôi vợ.
Nếu thật sự anh có tài chữ nghĩa thì hãy đợi đến lúc ngựa xe võng lọng trở về
hãy hay. Nghe cha mẹ cô gái nói, anh chàng họ Hồ vừa giận vừa xấu hổ. Anh nghĩ
bụng quyết ra đi tạo lập công danh để khi về bố mẹ cô gái không khinh mình
được. Nghĩ vậy, anh bỏ nhà lên kinh đô vừa làm thuê, vừa học. Nhờ có đầu óc
thông minh, anh học rất giỏi. Sau năm năm, anh đi thi và đã đỗ cử nhân.
Hôm vinh qui trở về quê nhà, lòng anh khấp khởi
mong được gặp người yêu và tỏ rõ cho mọi người biết mình là một người có trí,
hơn nữa cũng là báo cho cha mẹ cô gái biết là mình đã thành đạt để ông bà khỏi
khinh mà gả con gái cho mình. Nhưng không ngờ, khi anh đến chào người thầy học
cũ thì anh được biết, sau khi anh bỏ làng ra đi cô gái đã bị ép gả cho một anh
chàng cùng làng, mặc dù cô không ưng thuận và vẫn có ý định chờ anh. Nghe đến
đây, anh chàng họ Hồ thở dài thất vọng. Anh nghĩ giờ ván đã đóng thuyền rồi,
gặp gỡ mà làm chi, vì gặp lúc nào chỉ làm cho anh đau khổ mà lại khiến chồng
nàng ngờ vực. Thế nhưng khi trở về đến con đường làng ngày nào, anh gặp nàng
mang cơm cho chồng đang làm nghề mộc ở khu nhà giữa làng. Gặp lại nhau, họ e lệ
nhưng cũng đứng lại hàn huyên. Họ bày tỏ những trắc trở, éo le của duyên phận.
Hai người chia tay nhau, cô gái gạt nước mắt nhìn theo tủi cho số kiếp của
mình. Nàng đâu có ngờ anh chồng thô kệch của mình đã nhìn thấy được cảnh trò
chuyện, cơn ghen và tính đa nghi của hắn bốc lên bừng bừng. Nàng vừa đến nơi,
hắn lấy cớ đưa cơm chậm liền lên tiếng chửi mắng. Người vợ chưa kịp thanh minh
thì đã bị kẻ vũ phu đó cầm cái đục phang ngay vào chỗ hiểm, người vợ gục xuống
bất tỉnh. Hắn lo sợ vội đưa vợ về nhà nói dối là ngộ cảm, rồi sau đó cử hành
chôn cất không để cho ai nghi ngờ.
Về đến nhà mình, chưa kịp ngồi nóng chỗ, chợt nghe
tin người yêu chết đột ngột, anh chàng họ Hồ không khỏi kinh ngạc. Anh thương
nàng vắn số và ngay sau đó làm một mâm cơm cúng nàng để nàng khỏi tủi. Rồi
không tiện đến nhà, chàng đem ra cúng ở mộ nàng. Nhưng thật lạ, khi anh đang
sụt sùi khấn vái thì nghe thấy trong mộ có tiếng nói phát ra. Anh vội vã trở về
nhà gọi người đem cuốc thuổng đến đào lên. Khi bật nắp quan tài mới biết là
người chưa chết. Nguyên do là cô bị chồng ném cái đục vào đầu nên ngã xuống
ngất lịm nhưng không chết. Còn người chồng thì sợ mang tội giết người nên vội
vàng khâm liệm rồi chôn cất sơ sài. Sau khi bị chôn xuống đất, người chết dần
dần tỉnh lại và đạp vào thành áo quan cầu cứu đúng vào lúc người yêu đang cúng
khấn ở mộ nàng.
Anh chàng họ Hồ mừng rỡ vô cùng, suýt nữa người yêu
bị chết oan. Anh cùng người nhà đắp mộ lại như cũ rồi vực nàng về nhà chạy chữa
thuốc thang. Khi đã bình phục, cô gái kể hết đầu đuôi sự việc cho anh nghe. Anh
dặn người nhà giữ kín việc này rồi sau đó bí mật đưa người yêu đến dinh cơ của
mình ở chỗ làm việc. Hai người chung sống như vợ chồng.
Bên gia đình nhà chồng và bà con xóm giềng không ai
biết chuyện người chết sống lại, nên hàng năm hắn vẫn cúng theo đúng ngày, đến
hôm nay nàng chết đã được ba năm.
Môt hôm, ở đàng ngoài có lễ hội, hắn chuẩn bị thật
chu đáo để đi xem. Trên đường đi đến hội, hắn bỗng thấy một người đi cáng trông
nét mặt giống vợ mình. Hắn lấy làm lạ vội đuổi theo để nhìn cho thật kỹ. Hắn
đứng nấp sau một đám đông, thấy bà quan từ trên cáng bước xuống cùng đi xem
hội, hắn thấy từ vóc dáng hình hài đến lời ăn tiếng nói quả đúng là người vợ cũ
của mình. Không còn nghi ngờ gì nữa, hắn bèn lân la hỏi thăm mấy người lính hầu
thì được biết chồng của nàng không phải ai xa lạ, chính là anh học trò thi đậu
cử nhân ở làng bên đã đến thăm trò chuyện với vợ mình trước khi bị hắn ném cái
đục vào đầu vợ. Nhưng tại sao hắn đã chôn hai năm rõ mười mà bây giờ nàng lại
sống đàng hoàng vui vẻ như thế kia? Trong bụng hắn nghi nghi hoặc hoặc, đoán
chắc là có uẩn khúc gì đây. Cho nên khi vừa về đến làng, hắn bèn bày đặt ra
chuyện bói toán cải táng để đào mộ vợ lên xem cho rõ sự thật. Và khi thấy áo
quan rỗng, hắn vội phát đơn kiện anh chàng họ Hồ đã quyến rũ vợ mình.
Nhưng sau khi đã nắm được uẩn khúc với đầy đủ tang
chứng do hắn tự khai ra, quan xử cho hắn không những mất vợ mà còn bị án khổ
sai chung thân về tội đã phũ phàng đánh chết vợ và lén lút đem chôn. Còn vợ hắn
thì được phép lấy anh chàng họ Hồ, người đã có công giành lại nàng từ tay thần
chết.
54.
BÀ GOÁ NHÂN TỪ
Ngày xưa, dân làng Thông Hoà và các làng sống rất
sầm uất, làm ăn đông vui và thịnh vượng. Vì làng ở gần sông nên dân chúng thả
cá nuôi vịt rất thuận tiện dễ dàng.
Bỗng một hôm có đôi thuồng luồng to bằng cái cột
nhà, dài bằng cây tre, mình đốm đem đốm trắng, mào đỏ xù xì ở trên đỉnh đầu,
không biết từ đâu đến sống ở cái vực nước sông dưới dòng Thông Hoà. Ngày nào
đôi thuồng luồng cũng xuất hiện, nó bắt vịt của dân làng thả trên sông để ăn
thịt. Thấy vịt mất dần mất mòn, dân làng bảo nhau theo dõi. Sau một thời gian
theo dõi, dân làng phát hiện ra đôi thuồng luồng. Có lần thuồng luồng nổi lên,
họ đã đâm lao làm một con bị thương, máu nó loang đỏ cả một khúc sông. Từ đấy,
đôi thuồng luồng càng trở nên dữ tợn hơn. Chúng tìm đủ mọi cách để trả thù.
Ngoài những lúc bắt vịt ngan của dân làng, nó còn rình bắt trẻ em khi chúng ra
sông tắm. Có nhiều khi thuồng luồng lao lên bờ bắt cả những người đang cày cuốc
ở cánh đồng ven sông. Cuộc sống của dân làng ở đây tự dưng bị xáo trộn, ai cũng
nơm nớp lo sợ.
Trong làng Thông Hoà có một bà goá nhà rất nghèo,
chồng lại mất đã lâu và bà cũng chẳng có đứa con nào. Ngày ngày, bà phải ra
sông mò cua bắt ốc đem bán để lấy tiền đong gạo. Trong làng ai cũng sợ thuồng
luồng dữ tợn, ít người dám ra sông. Nhưng bà goá vì nghề làm ăn nên lúc nào
cũng phải len lỏi ngoài bến sông nhặt ốc và bắt cua, mặc dù bà cũng sợ thuồng
luồng nhưng vì kế sinh nhai nên phải liều thân.
Một hôm, khi xúc tép ở sông, bà xúc được một quả
trứng to như quả trứng ngỗng trông rất trong và đẹp. Bà đem trứng về để vào rổ
cám định để bữa sau sẽ đem luộc ăn. Nhưng khi đến bữa bà lại quên trứng, đến
bữa sau bà nghĩ phải cố nhớ luộc trứng để ăn. Thế rồi cứ quên quên nhớ nhớ như
vậy hết ngày này sang ngày khác, quả trứng vẫn cứ nằm gọn trong rổ cám gà.
Ngày qua tháng lại, một hôm quả trứng tự mổ vỏ và
nở ra một con rắn con. Mình nó bé như cái đũa và cũng đốm đem, đốm trắng, đốm
vàng. Bà goá không đánh chết mà để ra vườn cho nó bò đi. Nhưng con rắn không bò
đi, nó bò từ vườn vào sân rồi từ sân bò vào nhà, rồi lại bò vào rổ đựng cám. Bà
goá lấy làm lạ, thấy con rắn non yếu ớt bà lấy rơm phủ lên người nó cho ấm áp. Rồi
bà đi bắt cua, đến chiều đi làm về, nhìn thấy rắn con đầu gục xuống im lìm, bà
nghĩ chắc là nó đói. Đến bữa, bà gọi rắn ra ăn cơm. Con rắn nhoai mình từ từ bò
ra khỏi rổ cám thong thả tiến lại gần mâm cơm, nhặt từng hạt cơm mà bà goá gẩy
cho nó. Ăn no, nó lại từ từ bò vào rổ cám. Thấy con rắn hiền lành, bà goá chơi
với rắn cho vui.
Từ đấy, hàng ngày những lúc rảnh rỗi bà goá lại
chơi với rắn con một lúc. Rắn con ngoan ngoãn bò quanh quẩn bên bà goá, và cứ
như vậy, bà đã nuôi nó trong nhà. Rắn con ngày một lớn, ở với người lâu ngày
rắn còn biết nói cả tiếng người, nó không nằm trong rổ nữa mà bò vào gầm giường
để nằm. Bà goá đặt cái nong cho rắn con nằm trong đó.
Chuyện bá goá nuôi rắn ở trong nhà làm nhiều người
tò mò rủ nhau đến nhà bà goá để xem, họ thủ thỉ hỏi có phải con rắn đó được nở
ra từ quả trứng bà nhặt ở bờ sông phải không? Bà goá gật đầu kể lại mọi chuyện
cho dân làng nghe.
Mỗi khi có người lạ đến chơi với bà goá, rắn con từ
trong gầm giường từ từ bò ra sân ngẩng cao đầu rồi gật gật như muốn chào. Những
vị khách nhìn kỹ con rắn thấy nó có vẩy đen, vẩy trắng, có cái mào nhu nhú ở
trên đầu như mào gà, ai cũng nghĩ nó là con thuồng luồng con. Nhiều người thẽ
thọt khuyên bà goá đem thả nó ra sông, có người xui bà goá đem giết nó đi cho
đỡ sợ, nhưng bà goá không nghe lời ai cả. Bà vẫn âu yếm nuôi con rắn và quyến
luyến vui chơi với nó.
Có một điều thật lạ là từ khi bà goá nuôi con rắn
con ở trong nhà thì đôi thuồng luồng kia không xuất hiện bắt ngan vịt trên sông
nữa. Những đàn vịt của mọi người thả trên sông không có con nào bị thất lạc.
Thỉnh thoảng họ có thấy đôi thuồng luồng xuất hiện nhưng chúng chỉ nổi lên bơi
đi bơi lại một lúc mà không thấy chúng quấy nhiễu gì cả. Trẻ con ra sông tắm
không sợ thuồng luồng bắt, người cày cuốc ven sông cũng không bị đe doạ tính
mạng. Bà goá vẫn ngày ngày ra sông mò cua bắt ốc, rắn con ở nhà trông nhà chờ
bà đi làm về. Bây giờ rắn đã lớn, cái mào trên đầu nó đã nhú cao đỏ như mào gà.
Rắn con ngày càng to, ăn ngày càng nhiều. Bây giờ nó đã to gần bằng cây mai, dài
bằng con sào. Bà goá phải chạy gạo cho mình và nuôi rắn khá vất vả. Có ngày mưa
to, không bắt được tôm tép, cả bà và rắn đều phải nhịn đói. Tuy vậy bà goá
không phàn nàn gì và cũng không có ý gì khác đối với con rắn. Tối hôm đó, trong
lúc vui chơi với rắn, bà goá thủ thỉ tâm sự: Hôm nay trời mưa to lũ lớn, mẹ
không kiếm được gì nên không có tiền đong gạo. Ngày mai nước sông rút, mẹ bắt
được cua, cá đem bán đong gạo mẹ con ta ăn bù. Rắn con mắt đỏ hoe nhìn ra ngoài
trời. Trời vẫn mưa rả rích. Đêm hôm đó, rắn con lặng lẽ trườn ra sông lặn bắt
cá đem về bỏ ở sân nhà bà goá. Bà goá không hay biết gì, sáng hôm sau như
thường lệ, bà dậy thật sớm. Vừa mở cửa nhìn ra sân bà ồ lên kinh ngạc vì thấy ở
sân nhà có nhiều cá quá. Rắn con bò đến bên bà nhỏ nhẹ: Con bắt cá về cho mẹ
đem bán.
Rồi từ đấy, đêm nào rắn con cũng ra sông bắt cá đem
về nhà. Bà goá vừa có cá ăn, vừa có cá đem bán và được rất nhiều tiền đong gạo.
Cuộc sống của người và rắn ngày một khá hơn. Bà goá rất vui và rắn cũng rất
vui. Rắn con ngày một lớn, bây giờ không ai gọi nó là rắn nữa mà đều gọi nó là
thuồng luồng con. Và nó cũng giống hệt như đôi thuồng luồng ngày trước xuất
hiện ở khúc sông này. Người làng rất ngại khi đến chơi nhà bà goá vì họ trông
thấy thuồng luồng con thì rất sợ. Bà goá cũng phải công nhận rắn con nay đã trở
thành thuồng luồng con thật. Thấy xóm giềng ít đến chơi với mình, bà goá nhiều
lúc cũng băn khoăn nghĩ ngợi. Tuy vậy, bà vẫn vui vẻ âu yếm thuồng luồng con và
thuồng luồng con cũng rất quý bà.
Một hôm, sau bữa cơm chiều, bà goá ôn tồn nói với
thuồng luồng con: Đã mấy năm trôi qua, con ở với mẹ, mẹ rất yêu quý con. Nhưng
nay con đã lớn, ban ngày con hãy ra vực sâu chơi cùng đàn thuồng luồng, đến tối
con hãy về nhà để bà con dân làng đỡ sợ. Thuồng luồng con gật đầu nhỏ nhẹ: Con
xin vâng lời mẹ. Sáng hôm sau, nó nhoai ra vực sâu thật. Lúc ngủ dậy không thấy
thuồng luồng đâu, bà goá liền ra bờ sông thì thấy bốn con thuồng luồng đang
vùng vẫy bơi lội. Hai con to và hai con nhỏ. Tối hôm ấy, thuồng luồng con về
nhà bà goá và bò vào nằm dưới gầm giường. Bà gọi nó ra ăn cơm, thuồng luồng con
ăn rất ngon lành.
Sau khi bà goá ngủ say, nó lẻn ra sông. Rồi đêm ấy,
cả bốn con thuồng luồng cùng bắt cá đem về để ở sân cho bà goá. Hai bố mẹ
thuồng luồng còn để lại hai viên ngọc ở trước cửa nhà bà. Trời gần sáng, ba con
thuồng luồng kia trở lại vực sâu, còn thuồng luồng con lại chui vào gầm giường
như mọi khi. Bà goá ngủ say không biết việc gì xảy ra trong đêm đó. Sáng sớm
tỉnh dậy, mở cửa nhìn ra sân, bà thấy một đống cá to lù. Quay vào nhà, bà trách
yêu thuồng luồng: Làm cách nào mà con bắt được nhiều cá thế. Con đi sao không
cho mẹ biết? Thuồng luồng con trườn ra sân nhìn đống cá rồi cặp hai viên ngọc
vào mồm đến nhả trước mặt bà goá. Nó gật gật đầu như có ý chào. Bà goá âu yếm
vuốt ve cái mào đỏ tươi trên đầu nó. Thuồng luồng con nhìn bà rồi nhẹ nhàng
nói: Đống cá kia là bố mẹ và anh con bắt về giúp mẹ đấy. Đây là hai viên ngọc
quý, bố mẹ con biếu để mẹ dùng. Nói xong nó bò quanh nhà, quanh sân, quanh cái
nong nó đã nằm trong mấy năm trời, rồi bò đến bên bà goá, bà mẹ đã nuôi nấng,
nâng niu nó từ thuở trứng nước, nó nhìn bà với đôi mắt buồn rầu. Bà bảo nó: Ban
ngày con ra vực chơi, tối lại về với mẹ.
Buồi chiều, bà goá lững thững ra bờ sông, thấy bà
đến, cả bốn con thuồng luồng từ từ bơi đến trước mặt bà, nghển cao đầu chào bà
rồi lao nhanh rẽ sóng xuôi dòng từ biệt. Con thuồng luồng con bơi đến ghé đầu
vào lòng mẹ nhỏ nhẹ: Đội ơn mẹ đã nuôi con lớn. Nay con phải theo bố mẹ con đi
kiếm ăn nơi khác. Mẹ ở lại mạnh khoẻ nhé. Nói rồi nó lao nhanh, xuôi dòng theo
ba con thuồng luồng nọ. Bà goá tần ngần nhìn theo mãi cho đến khi không còn
trông thấy thuồng luồng con đâu nữa. Bà cảm thấy hụt hẫng như vừa đánh mất một
vật gì quý nhất. Về đến nhà, bà mời dân làng đến chơi, kể lại cho mọi người
nghe câu chuyện vừa xảy ra lúc sáng rồi bà chia hết đống cá cho mọi người. Từ
đấy, trong lưu vực sông Thông Hoà không còn có thuồng luồng đến quấy phá nữa.
Người ta ca ngợi bà goá đã có công nuôi thuồng luồng con nên họ hàng nhà thuồng
luồng biết ơn và từ đấy không đến quấy nhiễu dân làng. Cuộc sống của họ nay
được yên vui, người ta lại nuôi thêm nhiều đàn ngan, vịt trên sông. Bà goá giờ
đây không phải mò cua bắt tép nữa. Bà bán ngọc, mua sắm đầy đủ đồ đạc cần
thiết, bây giờ bà đã thừa ăn, thừa mặc.
Thấy vậy, ai cũng mừng cho bà ở hiền gặp lành, họ
mang ơn bà vì bà đã có công đem lại cuộc sống yên vui cho họ. Sau này bà goá
chết, dân làng Thông Hoà rủ nhau lập đền thờ bà để tỏ lòng nhớ ơn đức của bà.
55.
CÂY NÊU NGÀY TẾT
Thuở ấy, Quỷ làm chủ trên trái đất, Người chỉ ăn
nhờ ở đậu. Hàng năm, Người phải đến xin cấy rẽ ruộng đất của Quỷ. Tính Quỷ vốn
tham lam, nên thường đặt ra những luật lệ rất khắt khe ác nghiệt. Năm ấy, lúa
Người trồng rất tốt, Quỷ muốn chiếm lấy cả thóc, bèn đặt ra lệnh: "Quỷ
ăn ngọn cho gốc". Thế là Người làm quần quật suốt năm, đổ mồ hôi sôi
nước mắt, đến mùa chỉ được toàn gốc rạ.
Người đói khổ quá, khấn với Bụt. Bụt hiện lên bảo:
- Nó đặt ra lệ "Ăn
gốc cho ngọn", thế thì mùa tới sao các con không trồng khoai lang?
Người hiểu ý Bụt, làm theo, đến mùa người cắt ngọn dây khoai nộp cho Quỷ, còn
bao nhiêu củ bới lên, Người ăn tất cả. Quỷ thấy vậy, tức tối lồng lộn, đặt ra
lệnh mới: "Quỷ ăn cả ngọn lẫn gốc". Người lại khấn với Bụt,
Bụt hiện lên bảo: - Sao các
con không trồng ngô? Người mừng rỡ, bỏ khoai trồng ngô, thế là mùa ấy,
Người cứ ung dung bẻ bắp ăn, còn bao nhiêu gốc ngô, ngọn ngô dành phần cho Quỷ
cả.
Quỷ hai lần bị mắc mưu, căm giận Người lắm! Chúng
bàn nhau, bày kế hiểm độc, đòi ruộng đất về, không cho Người cày rẽ nữa. Người
lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các
con đến hỏi Quỷ tậu lấy một miếng đất đủ trồng một cây tre. Nhưng nhớ phải giao
hẹn với chúng: Hễ bóng tre ngả đến đâu là chỗ ấy thuộc về các con. Người
vâng lời Bụt, đến nhà Quỷ tậu đất trả giá rất cao, Quỷ thích quá, bằng lòng bán
cho Người một miếng đất và nhận luôn cả lời hẹn.
Người đem trồng tre ngay lên miếng đất vừa tậu. Bụt
lại hiện lên, lấy áo của mình trùm lên đầu ngọn tre. Cây tre mọc càng cao, bóng
chiếc áo ngả xuống mặt đất càng rộng. Bóng đổ đến đâu, Người trồng lúa, trồng
ngô, trồng khoai đến đấy. Cây tre cao vút lên mãi, giống tre đẻ lan thêm ra,
Người cứ theo bóng tre mà lấn đất, đẩy Quỷ lùi dần. Cuối cùng, Người đuổi được
Quỷ ra tít tận ngoài biển.
Từ đấy, đời sống của Người ấm no hẳn lên, còn Quỷ
tiếc của, hung hăng đem quân vào định cướp lại đất, thả bầy thú dữ ra tàn hại
người. Người họp nhau lại chống giữ. Hai bên đánh nhau hết năm này qua năm khác
mà không phân được thua.
Người lại khấn Bụt, Bụt hiện lên bảo: - Các con cứ lấy cung tên mà bắn, lấy
vôi mà rắc, giã tỏi trộn với nước mà phun, lấy lá dứa có gai nhọn mà vụt thì
Quỷ và bầy thú dữ có hung hăng đến đâu cũng phải bỏ chạy. Người làm theo
lời Bụt. Quả nhiên, Quỷ và bầy thú dữ bị Người đánh cho tan xác, không dám bén
mảng vào đất liền nữa. Quỷ chỉ xin mỗi năm, đến dịp tết Nguyên đán, được vào
thăm phần mộ tổ tiên vài ba ngày.
Do đó, dân ta có tục ngày tết trồng nêu. Nêu là một
cây tre cắm ở giữa sân, có treo chuông khánh. Tiếng chuông khánh kêu leng keng
luôn nhắc nhở Quỷ nhớ tới đây là đất của Người.
-------------
MỜI
NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:
Mời thư giãn với nhạc
phẩm BỐNG BỐNG BANG BANG
của Nguyễn Phúc Thạch
(Ongly C) qua tiếng hát Nhóm 365:
0 comments:
Đăng nhận xét