DÂN VIỆT NAM
MỘT KHỐI NHÂN QUẦN
ĐANG Ở TUỔI THIẾU NIÊN
*
(Tác giả Nguyễn Hữu Liêm) |
Năm 1916 Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu viết bài thơ
ngắn “Bính Thìn Xuân Cảm,” trong đó có hai câu lừng danh, "Dân hai lăm
triệu ai người lớn. Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con."
Hơn 100 năm sau, cho đến ngày hôm nay, 2021, nhìn vào con
người, chính thể và văn hóa Việt Nam tổng quan, chúng ta nên tự vấn, Nước và
Dân ta đã hết trẻ con chưa?
Theo tôi, câu trả lời là Chưa. Dân ta, như là một khối nhân
loại trên trường tiến hóa tâm thức, vẫn còn mang nặng bản chất trẻ con. Dù có
trưởng thành lên chút ít, nhưng tựu chung thì Việt Nam vẫn còn đang ở trong
giai thời thiếu niên, và chưa thực sự trưởng thành.
Từ bản sắc Sử tính sợ hãi ‘the unknown’
Từ trong chiều dài Sử tính Việt, mặc cảm tự ty của một tâm
thức nô lệ của dân tộc nầy đã biến hóa ra thành nhiều dạng thức mà bản chất vẫn
là phủ định, tiêu cực. Lòng hận thù và sợ hãi ngoại bang là động cơ chính cho
lòng yêu nước, rồi thành chủ nghĩa yêu nước, thứ dừng lại ở ý thức hệ quốc
gia – rồi trở thành một tôn giáo, một giáo điều. Những lễ lạt ‘về cội
nguồn’ ngày càng rầm rộ gần đây là một bằng chứng.
Tổ quốc trở thành thần linh - một sự hình thành ý thức dân
tộc gần giống như là của dân Do Thái khi họ tự coi nòi giống họ, đất nước họ,
là con và của riêng của Chúa Trời.
Có hai hình thái chủ nhân, masters, của dân Việt vốn phát
xuất từ tâm thức nô lệ. Về địa lý chính trị thì ông chủ là Trung Hoa; về sinh
mệnh và biến cố thì chủ thể là số Trời. Tinh hoa Sử tính Việt là của một năng ý
phủ định và vươn thoát hai ông chủ khắc nghiệt đó nhằm kiến tạo cho chính mình
một Sử Mệnh mới.
Qua chiều dài Sử tính khắc nghiệt đó, và vì mang tâm thức
thuần phủ định trong lòng yêu nước - đối với ngoại bang - Sử tính Việt thiếu
hẳn đi một năng ý tích cực và tự tin cần thiết. Tính tích cực nội tại nầy là
thiết yếu vốn đòi hỏi mỗi con dân Việt phải tự mình chuyển hóa chính mình, đứng
dậy mà trưởng thành và lớn lao lên trên cơ bản cá nhân - để từ đó xây dựng quốc
gia trên nền tảng định chế đại thể và giá trị nội tại cho nhu cầu bảo vệ tổ
quốc đồng thời đưa đất nước lên đến một tầm mức tiến hoá cao hơn theo nhịp
trống thời đại.
Sự khiếm khuyết của một bản sắc tích cực trong năng thức Việt
đã tạo ra một lịch sử hiện thân cho khuyết điểm nầy. Điều nặng nề là tâm ý Việt
vừa sợ và vừa thần phục Trung Hoa - và sau này cũng như thế đối với Pháp và các
cường quốc Âu Mỹ. Ta luôn đối đãi với Trung Quốc và Âu Mỹ với một tâm thức nô
lệ - vừa tự ty mặc cảm đồng thời hãnh diện bất khuất, vừa thần phục nhưng ghét
bỏ.
Từ mặc cảm tự ty và bất an, cái Ta của người Việt, khi đặt
trước Văn minh Trung Hoa, nhìn ra đại dương ta thấy nó là một giới hạn. Trong
khi đó, người Tây Âu cũng nhìn ra đại dương và đã thấy nó là cơ hội. Vì cái
Ta dân tộc nầy, nước nhược tiểu, chưa bao giờ có khả năng lớn mạnh đủ để thử
thách cơn sóng lớn của biển khơi, để đứng ngang hàng với các cường quốc khác.
Cũng đã có vài lần trong chiến sử, các hạm đội của hải quân
Việt Nam đã chứng tỏ một sức mạnh ấn tượng – như thời Nguyễn Ánh - nhưng tất cả
cũng chỉ vừa đủ cho nhu cầu chiến tranh ngắn hạn, chứ chưa hề là hiện thân cho
một ý chí thử thách đại dương và làm chủ lãnh hải.
Cho đến sau 1975, từ cao trào vượt biển tỵ nạn thì lần đầu
dân Việt mới ít nhiều vượt qua tâm lý sợ hãi và tiêu cực đối với đại dương.
Nhưng nên nhớ rằng, phần lớn người Việt vượt biển lúc đó đã biết hành trình sẽ
đến nơi nào - chứ không như người Tây Âu nhiều thế kỷ trước, khi lên tàu bước
ra khơi họ - dân TâyBan Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan...đã không biết là đại
dương như thế nào và sẽ đi về đâu. Thử thách cái không biết đến, the unknown,
vẫn là sức mạnh của người Tây Âu. Cho ý chí và tinh thần thử thách tương lai
thì dân Việt vẫn còn yếu kém.
Thiếu sáng tạo và lười biếng về tư duy
Tiếp theo, từ trong tâm thức tiêu cực và chấp nhận, văn hóa
Việt gần như hoàn toàn là một văn hóa trích mượn – a derivative culture. Nó thể
hiện tâm chất bất an và thiếu tự tin. Do đó, họ vừa cực đoan và vừa nhu nhược.
Như tôi thấy trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rất nhiều vụ việc hễ người
khác xúc phạm người Việt thì chúng ta phản ứng mạnh mẽ cao độ. Nhưng chỉ cần
một thế hệ, hầu hết con cháu ta đã từ bỏ, hoặc không màng gì đến những bản
sắc văn hóa Việt.
Dân Việt nói chung rất thiếu tự tin về nguồn gốc dân tộc
mình. Không như dân Ấn Độ hay gốc Hoa ở Mỹ đến mấy thế hệ vẫn còn sử dụng một
cách tốt và hãnh diện ngôn ngữ, y phục, phong hóa tập thể trong cộng đồng họ.
Trong khi đó, chỉ cần hai thập niên thì người Việt gần như từ bỏ hết bản sắc
gốc gác của họ. Từ ngôn ngữ, cách đặt tên cho con, từ cách nhuộm tóc hoe vàng
cho đến cung cách văn hóa tập thể, cái Ta của người Việt ở hải ngoại là hiện
thân của hai mặt tiêu cực từ một tâm thức bất an và nô lệ đó. Tất cả đều có
nguồn gốc từ Sử tính Việt như đã trình bày ở trên.
Hãy nhìn vào thế giới tri thức. Người cầm bút Việt Nam hầu
như chỉ có làm được ba chuyện: làm thơ, viết truyện ngắn, và dịch thuật sách
ngoại ngữ. Ngay cả về văn chương, văn sĩ Việt vẫn không có khả năng viết chuyện
dài, hay trường thiên tiểu thuyết. Trí thức Việt không có ý chí đại thể lớn lao
về năng lực tri thức. Họ không có đủ tự tin – dù rất có thể là về khả năng thì
họ có đủ - để sáng tạo lý thuyết, triết học cho mình.
Hơn nữa, trí thức Việt mang bệnh lười biếng suy nghĩ sáng
tạo. Họ nỗ lực cao độ - nhưng phải dựa vào một nội dung có sẵn. Vì vậy, họ chỉ
thích dịch sách mà thôi. Vì công việc phiên dịch, chuyển ngữ, họ không cần suy
nghĩ về khái niệm, về ý tưởng, về cấu trúc bố cục cho sách. Họ ưa tranh luận về
câu văn, cụm từ nào đó có dịch cho đúng với ý nghĩa theo văn bản tiếng ngoại
quốc hay không. Họ không bàn đến ý nghĩa của khái niệm hay lý thuyết. Họ chỉ
muốn tranh cãi về những tiểu tiết – the trivial facts - vốn chỉ là vay mượn.
Hoang tưởng văn hóa và giấc mơ cường quốc...buôn đất
Tâm ý Việt mang nội dung bất an của một dân tộc, vừa hãnh
tiến nhưng đồng thời cũng không đủ tự tin về văn hóa của mình. Từ đó, vì thiếu
chiều dày tích lũy giá trị của một nền văn minh có chiều sâu, trí thức Việt
mang ý chí huyền thoại hóa lịch sử dân tộc và sáng tác ra những câu chuyện văn
hóa Việt cổ đại huyễn hoặc để tự phong cho dân Việt là tác giả của những nguồn
mạch văn hóa lớn – chứ không phải của Trung quốc. Hai vị trí thức đáng kính gần
đây, Kim Định và Lê Mạnh Thát, là biểu trưng cho năng ý huyền thoại hóa văn hóa
Việt nầy.
Về chính trị địa lý thì giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay,
than ôi, vẫn mang điều hoang tưởng về khả thể cường quốc – một “tiểu Trung Hoa”
theo mô hình xã hội chủ nghĩa mơ hồ, ‘vì lý tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa’ bền hơn
ở quê hương của nó. Họ thực ra bị chi phối bởi tầm nhìn ngắn hạn và thực
dụng. Sự loay hoay giữ hoang tưởng vĩ cuồng cho quốc gia trung thành với ý
thức hệ Marx-Lenin đã bị châu Âu đào thải đang gây mâu thuẫn trầm trọng
với khả năng kinh tế và chính trị của thể chế cũng như của giới doanh nhân Việt.
Hãy nhìn đến nguồn gốc của sự giàu có của giới đại gia Việt –
hầu hết, gần như tuyệt đối, là nhờ kinh doanh bất động sản.
Hãy thử đi ngang qua những khu chung cư cao tầng ở Hà Nội hay
Sài Gòn, ta sẽ thấy một quang cảnh phát triển phố thị vô lý – và nhất là phản
cảm, thiếu thẩm mỹ. Từ đường Nguyễn Hữu Cảnh ở Sài Gòn, khi nhìn vào khu chung
cư cao tầng Central Park, ta sẽ rùng mình bởi một cảnh tượng xây cất mang sắc
thái hiếp đáp hồn người. Quang cảnh phố thị với những nhà cao tầng thiếu thẩm
mỹ đã triệt tiêu cái đẹp của tâm hồn người phố thị.
Ở Sài Gòn hiện nay, hầu hết các dự án căn hộ cao cấp đều dành
cho giới siêu giàu để họ đầu cơ với chính sách thuế khóa vô lý, phản tiến bộ –
trong khi giới trung lưu (tương lai của dân chủ) và nghèo khó đang đối mặt
với khủng hoảng gia cư trầm trọng.
Mặc cảm quốc tế và nhu cầu trưởng thành
Vậy hôm nay chúng ta đang ở đâu trên Trái Đất này?
Nhìn lại, ý chí Sử tính quốc gia đối với Trung Hoa, và sau
là đứng trước Âu Mỹ, hệ thống chính trị Việt Nam muốn được coi trọng và
công nhận một cách chính thức, nhưng ít đủ dũng cảm để tạo vị thế mà
không cầu xin.
Sau khi đánh đuổi được quân xâm lăng Hán, Nguyên, Minh, Mông,
Thanh các vua chúa Việt Nam phải cử sứ thần sang Trung Hoa để triều cống và xin
được phong vương vị.
Về chiến thuật, dĩ nhiên, đó là công việc ngoại giao mềm
mỏng, ổn định quan hệ quốc tế với đại cường để phục hồi và xây dựng sau chiến
tranh.
Nguyễn Trãi là một trường hợp điển hình. Dù là tác giả của
Bình Ngô Đại Cáo oai phong, tuyệt vời cả về văn ngữ lẫn tinh thần nội dung,
nhưng khi đọc Trung Quân Từ Mệnh Tập mà Nguyễn Trãi đã viết thay mặt Lê Lợi gởi
cho nhà Minh, chúng ta cũng không khỏi ngậm ngùi cảm nhận được cái nhục nhã,
cái thái độ khom mình cúi đầu thần phục đối với phương Bắc. Thế nhưng dần dần
chiến thuật nhún nhường cần thiết với nghi thức phong kiến và ngôn ngữ của kẻ
yếu đã trở nên một bản chất cá tính của tầng lớp chính trị Việt.
Bản sắc cá tánh muốn được công nhận ảo này còn thành
‘yếu tố di truyền’ trong văn hóa bằng cấp, học hàm , học vị của người Việt. Với
truyền thống thi đỗ thì được làm quan để cho cả họ được nhờ, học vị khoa bảng
đã trở thành chìa khóa cho thực tại tiến thân trong xã hội - cũng như cho tâm ý
được coi trọng và công nhận giá trị nhân bản bởi tha nhân và đại thể khách
quan. Ta chỉ là một công dân khi được có bằng cấp, hay chức vị trong triều
đình. Ta chỉ hiện hữu khi Ta được công nhận bởi tha nhân. Từ đó, cái Ta được
định hình bằng cái không-Ta, mà bản chất là một biện chứng tiêu cực có gốc rễ
từ một tâm ý nô lệ. Bệnh cầu cạnh khoa bảng danh vọng còn đang rất thịnh
hành trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Bạn hãy suy nghẫm về kinh nghiệm bản thân khi tiếp xúc, giao
tiếp, làm ăn, sinh hoạt với người Việt ta. Không ít người lớn tuổi, bằng cấp
học vị, học hàm, chức vụ, nghề nghiệp, kể cả giới tu sĩ các tôn giáo hay lãnh
đạo chính trị, nhà nước, trong hay ngoài nước, vẫn mang tính tình niên thiếu.
Nếu bạn có dịp giao tiếp hay làm việc với người Âu Mỹ thì sẽ
thấy rằng họ - người phương Tây - chững chạc, trưởng thành hơn chúng ta nhiều,
kể cả khi họ không có bằng cấp cao, hay khi còn rất trẻ tuổi. Dĩ
nhiên là cũng có những thành phần quần chúng lao động Mỹ chẳng hạn, vẫn còn
mang nặng tính tình trẻ con.
Thế nhưng tôi dám nói rằng nhìn tổng thể, đại đa số
dân Việt khắp thế giới, vẫn là một tập thể chưa chín chắn, rất bồng bột, hơi
ngây thơ và nhiều hoang tưởng. Nhìn vào các cộng đồng mạng xã hội mấy năm nay
để thấy được cái tệ hại của sự thiếu trưởng thành và tính trẻ con thích cãi
lộn. Có người đã nhận xét rằng hãy lên Facebook để thấy cái bản mặt xấu xí của
dân Việt – the truly ugly side of Vietnameseness - với tính tình nặng chất trẻ
con của họ là như thế nào.
Từ đó, người Việt, tuy là trẻ con - và cũng vì thế - không
thể ngồi chung, làm việc với nhau trên bình diện dân sự. Nguyên do chính là vì
dân ta thiếu vắng văn hóa cộng đồng. Người Việt không thể thành lập hội đoàn
dân sự vững mạnh, lâu dài, uy tín. Hầu hết các tổ chức tự nguyện người Việt
khắp thế giới đều tự tan rã vì không ai chịu ai. Hệ quả là nền văn hóa duy tập
thể của Đảng Cộng Sản Việt Nam - ít nhất là trong nước - hình như là câu trả
lời cần thiết và đương nhiên cho sự khiếm khuyết của chất keo văn hóa dân sự và
công dân đó.
Không lẽ hơn trăm năm sau, nay ta lại phải ngâm tiếp bài thơ
đó của Tản Đà, rằng, "Cám cảnh khói cây mờ mịt biển. Lo đời sương tuyết
bạc đầu non".
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
Định cư tại: thành phố San Jose,
Tiểu bang California, Hoa
Kỳ.
Email: liemesq@yahoo.com
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email nguyenhung967812@gmail.com ngày 12.05.2021.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn:
internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét