CẢM NHẬN THƠ VĂN 1

*

gồm những bài viết sau:

 

1. VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH: ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ

2. VÀI SUY NGHĨ VỀ 4 VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA

3. VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH: SÓNG GIÓ NỘI CUNG

4. VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC TRUYỆN NGẮN ĐÙA CỦA TẠO HÓA

5. VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

6. ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG DƯƠNG CẦM”CỦA NGUYỄN THANH LÂM

7. VỀ PHONG CÁCH BÌNH THƠ CỦA CHÂU THẠCH

8. CẢM NHẬN KHI ĐỌC TẬP THƠ “SÓNG NGẦM” CỦA NGÔ NGUYỄN

9. ĐÔI ĐIỀU KHI ĐỌC: QUẢNG NGÃI - CÂU THƠ NẶNG TÌNH CỐ THỔ

10. ĐỌC “TÌNH NHÂN ƠI” CỦA TRẦN HẠ VI

11. ĐỌC ĐỖ HOÀNG “CẢM” NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG?

12. VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC: GỌI ĐÊM TRỞ GIÓ CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG

13. BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM TRONG RỪNG XANH MƯA

14. NGẪM CHIỀU - BÀI THƠ  ĐỘC ĐÁO CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG

15. ĐỌC: “MỢ HỮU”CỦA TRẦN NHUẬN MINH

16. MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ” CỦA NGUYỄN KHÔI

17. VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ TRẦN MAI NGÂN

18. ĐỌC “QUÊ TRONG PHỐ” CỦA NGUYỄN XUÂN MÔN

19. VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌCLÃO GÀN CHỬI QUAN THAM

20. THẦY PHONG THỦY BÙI ĐỒNG VÀ NHỮNG COMMENT BÌNH THƠ

21. VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC: "THUYỀN THEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN

22. THƯA CHUYỆN CÙNG BẠN ĐỌC ... VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC

23. ĐỌC: RÉT BÂN NHỚ MẸ - NGÀY 8 THÁNG 3

24. VÀI LỜI VỀ CẢM NHẬN BÀI THƠ “RÉT BÂN NHỚ MẸ”

25. VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA LÊ MAI

26. CẢM ĐỌC GÃ KHỜ TRONG “MỘNG MỊ” CỦA NHỤY GIALAI

27. VÀI CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ “NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ”

28. ĐỌC “THÁNG TƯ MÀU NHỚ” CỦA PHẠM ĐỨC MẠNH

29. ĐỌC NGUYỄN XUÂN DƯƠNG BÌNH THƠ

30. NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN - THƠ TRẦN VẤN LỆ

31. ĐỌC “ĐÔI BỜ SÔNG BẾN HẢI” - VÀI LỜI VỚI NHÀ THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI

32. VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ TÌNH CỦA CẬU HỌC TRÒ LỚP 12

33. CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ “NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN”

34. CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ “ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ”

35. VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ VIẾT VỀ CHIỀU 30 TẾT

36. THƠ VIẾT VỀ MẸ CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

37. VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC "THĂM BẠN" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

38. ĐỌC "CÕNG MẸ" CỦA NGUYỄN VĂN SONG

39. VÀI SUY NGHĨ VỀ MẤY CÂU KẾT BÀI THƠ "KHÓC GIỮA BAN CHIỀU"

40. NGUYỄN HOÀNG ĐỨC QUA MẤY BÀI VIẾT TÔI ĐÃ ĐỌC

 

VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH:

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ

*

(LỜI GIỚI THIỆU cuốn ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ, 

Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, xuất bản năm 1997)

 

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ là tập V của bộ sách "CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC" do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - Nhà sách Bảo Thắng liên kết xuất bản, giới thiệu các gương mặt hôn quân vô đạo trong gần một trăm quân chủ phản diện mà bộ sách đề cập. Nếu các tập trước bạn đọc đã làm quen với những vị hoàng đế hoặc ít hoặc nhiều có những cống hiến nhất định trong lịch sử Trung Quốc nhưng vì một vài lý do nào đó: Hoặc kiêu căng ưa xiểm nịnh, hoặc không thể vượt quá phạm vi mà điều kiện lịch sử cho phép nên buộc phải rời khỏi vũ đài chính trị, thì ở tập sách này bạn đọc sẽ gặp những vị hôn quân ngu muội, bạc nhược, với những việc làm xằng bậy, quái đản dẫn đến sự diệt vong của một vương triều mà trước đó tổ tiên của họ đã cống hiến nhiều cho lịch sử Trung Quốc.

Trước hết phải nhắc đến Lưu Sưởng, vị hoàng đế cuối cùng của vương triều Nam Hán, đã tự phế truất cơ nghiệp của ông cha bằng những việc làm xằng bậy, những điều luật quái gở, những hành vi hoang dâm vô đạo trong quãng đời xưng "trẫm" của mình.

Lịch sử phong kiến Trung Quốc nói riêng, lịch sử phong kiến thế giới nói chung hẳn không có vị đế vương thứ hai ra điều kiện tuyển dụng làm quan trong triều thì trước hết phải tự thiến, nếu không tự thiến được thì triều đình sẽ thiến hộ như hôn quân Lưu Sưởng. Và cũng không có vị đế vương nào lại tuyển dụng những ai thật đẹp trai, thật giỏi chuyện ái ân vào cung "hầu hạ chuyện gối chăn" với những phi tần được vua sủng ái. Vậy mà hôn quân Lưu Sưởng lại làm cái chuyện quái đản ấy. Tệ hơn nữa, đốn mạt hơn nữa, tên hôn quân vô đạo này lại thích thú những trò quái vật: Chung chăn gối với thần dân trăm họ bất kể thân phận sang hèn ra sao, miễn là y đạt được khoái cảm; hành lạc tập thể để y ngó nhìn  bình phẩm, tùy theo sự điêu luyện mà phạt roi hay ban thưởng...

Ngán ngẩm thay cho vương triều Hán với "thâm cung bí sử" đã ẩn giấu biết bao chuyện xằng bậy của Hán Thành Đế Lưu Ngao không chỉ đắm chìm trong nhục dục với các phi tần mỹ nữ như: Hứa thị, Phi Yến, Hợp Đức... mà còn “bắt” những thanh niên đẹp trai như Trương Phóng, Thuần Vu Trường... vào hậu cung làm "thiếp yêu", khiến cả triều đình dở mếu dở cười khi chứng kiến những mối tình chàng - chàng chướng tai gai mắt, giờ lại thêm những "thú vui quái đản" của hôn quân Lưu Sưởng khiến người đọc lắc đầu khi ngẫm về lịch sử vương triều Hán.

Hầu như suốt chiều dài lịch sử vương triều Hán, suốt từ thủa Lưu Bang chém rắn phất cờ đến ngày Lưu Thiện nhục nhã quỳ gối dâng giang sơn xã tắc cho dòng họ Tư Mã, không hiếm những hôn quân vô đạo kiểu như Lưu Sưởng với đời sống tình dục quái đản, loạn luân, coi thường đạo lý nhưng có lẽ, chỉ có Lưu Sưởng mới "nổi đình đám" với đạo luật quái gở và những thú vui mất hết tính người như thế. Cuộc đời của y là cuộc đời độc nhất vô nhị của kẻ hoang dâm vô đạo mà cổ kim chưa hề từng có.

Cao Vĩ, Hậu chủ Bắc Tề lại nghiện những việc làm xằng bậy dẫn đến nước Bắc Tề vốn đang cường thịnh chỉ trong khoảng thời gian Cao Vĩ chấp chính phải lâm vào cảnh đói nghèo tang tóc, dân chúng oán thán, triều đình rệu rạo, để rồi triều chính phải "bàn giao cho người khác, chịu chết thê thảm trong tay Vũ Văn Ấp". Vị hôn quân trẻ con này đã không từ một việc làm bần tiện, vô học nào để đạt được những khoái cảm rồ dại, những nhục dục thấp hèn. Đường đường là một đấng quân vương, vậy mà Cao Vĩ lại bày trò chơi ngu muội: Vua đóng giả đầy tớ, ăn xin, bề tôi đóng giả chúa thượng, người bố thí. Trong suy nghĩ của Cao Vĩ, Tư Mã Trung thời Tây Tấn là kẻ ngu xuẩn vì đã hỏi cận thần câu hỏi quá ngớ ngẩn: "Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?". Hắn biện rằng: "Có lẽ Tư Mã Trung chưa bao giờ trông thấy con ếch? Thằng cha thật đáng thương! Như Cô gia đây vừa có khả năng làm vua, lại vừa có khả năng làm thằng ăn mày, thử hỏi xưa nay mấy ai làm nổi?" Hắn thật khoan khoái với suy nghĩ của mình nên càng hăng hái trổ tài ăn xin làm cho quần thần phải dở khóc dở cười. 

Đứng trước ba quân để uý lạo tướng sĩ. Cao Vĩ không làm được như ông tổ của y là Cao Hoan cao giọng ngâm bài ca trước quân lính, để khích lệ ba quân xông pha nơi chiến trận, mà y lại cười phá lên khi ba quân im phăng phắc đang cúi đầu chờ hiểu dụ. Tiếng cười ngu xuẩn của Cao Vĩ đã thức tỉnh những tướng sĩ đang mông muội trung thành với Bắc Tề: Không thể bỏ vợ, bỏ con xông pha nơi chiến trận để giữ ngai vàng cho tên hôn quân vô lại! Lòng quân tan rã, chỉ sau hai tháng (tháng 12 năm 577), hôn quân Cao Vĩ trở thành tù binh của Bắc Chu, đưa vương triều Tề đi vào dĩ vãng.

Có người cho rằng, nếu Cao Vĩ nghe lời Hũ Luật Hiếu Khanh nhìn nhận đúng mực đề nghị của trung thần: Thuộc lòng bài từ do Hũ Luật Hiếu Khanh soạn rồi ngâm, lại thêm vài giọt nước mắt trước ba quân tướng sĩ thì làm gì mà không giữ được tông miếu tổ tiên. Chúng tôi thì cho rằng, điều đó không bao giờ có được, bởi một kẻ lấy thoả mãn nhục dục làm lẽ sống như Cao Vĩ thì làm sao chú tâm tới việc quốc gia đại sự. Đứng trước nguy cơ nước mất, bất chấp lời khẩn cầu thống thiết của Hũ Luật Hiếu Khanh: Hãy học thuộc bài Từ rồi uý lạo tướng sĩ giữ vững cõi bờ, y vẫn đùa bỡn với Phùng Thục phi thì làm sao mà nước không mất. Hơn nữa, bộ óc đần độn đến xơ cứng của y, một bài Từ thật ngắn mà không nhớ nổi (Dưới chân thành, địch đánh dữ. Nguy nan lắm, trông vào các ngươi. Tầng mây thấp, tầng sương dầy, phá được giặc rồi, ta cùng vui) thì y làm sao giải quyết được việc quốc gia đại sự. Một hôn quân như vậy thì nhà Tề sớm bị diệt vong là điều dễ hiểu.

Còn Bắc Tề Văn Tuyên Đế Cao Dương lại là kẻ tâm thần, hành động ngang ngược, cuộc đời của vị hôn quân này chỉ mải mê với hai thú vui đó là uống rượu và giết người. Thời gian tiếm quyền ngồi trên ngôi báu, mỗi khi uống rượu vào là Cao Dương thẳng tay chém giết. Để bảo toàn tính mạng cho những cung nữ, hoạn quan hầu hạ Cao Dương và cũng nhằm để thoả mãn nhu cầu chém giết của vị đế vương tàn bạo, Bộ Tư pháp buộc phải đưa những "tử tù", thậm chí cả những kẻ phạm pháp nhưng chưa xét xử vào cung theo hầu Cao Dương đế để mỗi khi tên hôn quân nổi "máu điên" sẽ có thú để “giải sầu”. Thời gian đó "Bộ Tư pháp" Bắc Tề đưa ra một quy định: Những phạm nhân đi theo nhà vua (một ngày) mà không bị giết thì coi như vô tội và được tha. Thật là một điều luật nực cười, báo hiệu một thể chế chính trị thối nát, đang rệu rạo chờ ngày sụp đổ.

Cao Dương không chỉ giết những cung ngự tù (phạm nhân cung cấp cho nhà vua) những hoạn quan, cung nữ để mua vui mà với tất cả mọi người đều bị y khinh rẻ "dù đó là mẹ đẻ, mẹ vợ, gươm trong tay, đầu thiên hạ, oán hận có kể gì".

 Tháng 10 năm 533, một hôm Cao Dương đột ngột đến nhà mẹ vợ (thân sinh ra Hoàng hậu Lý Tố Nga - người được Cao Dương sủng ái), không hiểu Lý phu nhân đã động đến dây thần kinh nào của Cao Dương mà y giật lấy cung tên từ tay vệ sĩ bắn một phát trúng mặt Lý phu nhân, rồi quát: - "Trẫm mà say thì bất chấp cả mẹ đẻ, mụ là cái thá gì?". Trước đó ít ngày, mẹ đẻ của Cao Dương là Lâu Thái hậu vì thấy y suốt ngày uống rượu, say sưa chém giết, bỏ bê triều chính nên cho gọi đến để nghĩ cách răn đe, vừa giơ gậy doạ đánh thì tên hôn quân nghịch tử lớn tiếng mắng chửi: - "Đồ chết dẫm! Định đánh trẫm hả? Ít hôm nữa sẽ gả ngươi cho bọn rợ Hồ, xem ngươi có còn hung hăng nữa thôi". Thật là một tên hôn quân vô đạo, ngay cả người đẻ ra y mà y còn ngang ngược xúc phạm thì thử hỏi xã hội có còn kỷ cương, phép tắc?.

Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời Nam Triều cũng là một vị vua hôn quân tàn bạo. Thời gian chấp chính của ông ta thật ngắn ngủi nhưng với quãng thời gian ấy, Lưu Dục đã "kịp" làm những việc kinh thiên động địa mà hậu thế sau này phải lè lưỡi lắc đầu. Trước khi chết, Lưu Bị dặn con trai của mình là Lưu Thiện: - "Việc thiện dù nhỏ, đừng nghĩ nhỏ mà không làm, việc ác dù nhỏ, đừng thấy nhỏ mà làm". Hai trăm năm sau, Lưu Dục vị đế vương của triều Lưu Tống lại ngang nhiên bài trừ việc thiện, chạy theo việc ác dẫn đến cái chết thê thảm, kết thúc cuộc đời chuyên làm điều xằng bậy của y vào ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 477.

Có thể nói, tính ngông ngênh, ngang ngược của Lưu Dục so với Cao Dương có phần nào dễ chịu hơn, nhưng công bằng mà nói thì "kẻ tám lạng người nửa cân" thật khó mà phân định.

Lưu Dục rất thích thú trong việc chém giết người, với hắn niềm khoái cảm chỉ đạt tới cực điểm khi chứng kiến sự chết chóc, bị hành hạ thân xác của người khác. Hắn ngang nhiên như Đôngkixốt dưới ngòi bút Xen Văngtéc điên cuồng chém giết người dân vô tội trên đường hắn gặp. Hắn ngang ngược biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến Long Sàng thành nơi buộc ngựa. Chốn tôn nghiêm của triều đình, đã bị Lưu Dục biến thành nơi chăn nuôi súc vật: Cùng ở với người, cùng thiết triều với Thiên Tử. Thật khó bắt gặp một vị đế vương khác lại có thú chơi ngông cuồng và thất học như hôn quân Lưu Dục.

Hắn không chỉ thích chém giết người, thích nuôi lừa, nuôi ngựa ở nội điện mà hắn còn thích ăn trộm con gái, ăn trộm súc vật của dân lành. Vụ trộm nổi "đình đám" trong cuộc đời làm vua càn quấy của y đã được sử sách ghi lại tiếng nhơ cho muôn thuở, đó là vụ trộm chó ở chùa Tân An vào ngày 7 tháng 7 năm 477, ngày mà âm lịch gọi là Khất Xảo. Hôm đó, sau cuộc mây mưa tình ái với ái nữ của Hữu vệ Dực Liễn Doanh, hắn lặng lẽ cùng bọn du côn vào chùa Tân An bắt trộm chó về làm thịt, rồi sai người đến chùa bắt vị sư trụ trì chùa Tân An đến cùng ngồi uống rượu thịt chó. Vị cao tăng kia vì sợ oai Lưu Dục đã không giữ được giới luật tối thiểu và ngay trong đêm ấy, vị "hỗn thế ma vương" Lưu Dục đột nhiên bạo bệnh mà chết.

Cái chết của Lưu Dục đến giờ vẫn còn nhiều giả thiết được đặt ra, nhưng cho dù thế nào thì vị "hỗn thế ma vương" chấm dứt sự hiện diện ở cõi đời cũng là điều đáng mừng cho thần dân Lưu Tống, mở ra một trang sử mới với vị đế vương mới, để rồi lại xuất hiện kẻ hôn quân mới. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì đó vẫn là điều tất yếu phải xảy ra trong trong dòng chảy của lịch sử phong kiến Trung Quốc.

Đọc ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ hẳn bạn đọc sẽ phì cười khi "gặp mặt" mẹ con hôn quân Lưu Hồng - ông vua thứ 12 đời Đông Hán, được người đời phong danh hiệu “Tổ sư của ngành keo kiệt” - thi nhau mua quan bán tước. Chuyện tưởng chỉ có trong văn học dân gian nhưng thật trớ trêu đó lại là sự thật được ghi chép rõ ràng, đầy đủ trong chính sử Trung Hoa làm hậu thế (Trung Hoa) sau này phải gục đầu tủi nhục.

Làm Hoàng đế thì hết thảy tài sản trong xã tắc là của vua thì Lưu Hồng cần gì tiền mà phải cho bán quan bán tước? Vậy mà Linh đế Lưu Hồng lại làm cái việc mà từ thủa Bàn cổ khai thiên lập địa đến bấy giờ chưa ai dám nghĩ đến chứ đừng nói dám làm. Với lối sống bản năng của những kẻ “đầu đường xó chợ”, Linh đế Lưu Hồng không từ bất kỳ thủ đoạn nào để vơ vét tiền của của muôn dân cho vào hầu bao, nhằm thoả mãn dục vọng bẩn thỉu, ti tiện của y. So đo tính toán từng ly từng tý trong chuyện giành lợi lộc chưa hẳn đã là "biệt tài" duy nhất của hôn quân thất học này mà Lưu Hồng còn nổi danh biến Ngự hoa viên rộng mấy dặm trở thành kẻ chợ tấp nập chuyện mua bán, đổi chác từ thượng vàng hạ cám tới nhân phẩm của con người. Nếu Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời Nam Triều nổi danh với chiến tích biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến Long Sàng thành nơi chăn ngựa thì với Lưu Hồng, Ngự hoa viên trở thành kẻ chợ với thập cẩm trò nhố nhăng chối tai, nhức mắt, và đều tạo thành tiếng nhơ muôn thủa trong lịch sử Trung Hoa về dòng họ Lưu lố lăng và đốn mạt.

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ đề cập đến mười lăm quân chủ phản diện, đặc trưng cho đời sống sa đoạ và tàn bạo của những kẻ thường tự vỗ ngực, xưng danh "thiên tử", thay trời hành đạo, chăn dắt con dân". Thấp thoáng trong chốn thâm cung hào nhoáng mà sặc mùi son phấn là những con quỷ đội lốt người, đắm chìm trong nhục dục, ra sức tác oai tác quái, mất hết luân thường đạo lý, như: U Vương Cơ Cung Niết vì đắm say sắc đẹp của Bao Tự mà thả hổ hại con, hay như Hán Hậu chủ Lưu Thiện ở ngôi mấy chục năm chẳng làm nổi trò trống gì ngoài việc quỳ gối xưng thần, dâng nộp cơ đồ tông miếu tổ tiên để kéo dài kiếp sống. Hoặc như Tấn Huệ đế Tư mã Trung là một ông vua bù nhìn, đần độn ngu xuẩn đến lạ lùng. Mười mấy năm trời ngồi trên ngôi báu chỉ để làm con rối cho thiên hạ giật dây. Chính lệnh ban ra đều do người khác ban bố, khắp nơi đói rét, lại hỏi một câu kỳ quặc: - "Sao không ăn cháo thịt?". Những ông vua như vậy thử hỏi làm sao mà sinh linh không điêu đứng, loạn lạc không xảy ra, lòng người không ly tán!

ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ là tập V của bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC giới thiệu mười lăm quân chủ phản diện kiểu như vậy. Có thể trong số mười lăm vị quân chủ đó, có vị đế vương ban đầu chưa phải là hôn quân, đứng ở một góc độ nào đó họ có những đóng góp nhất định cho lịch sử Trung Quốc, như Vương Mãng giành lấy chính quyền không phải để thoả mãn dục vọng cá nhân mà để tái tạo "nền văn minh thượng cổ". Sau khi nắm quyền thống trị, ông ta thực thi một loạt chính sách mới đi trước thời đại, mang hình thái của chủ nghĩa xã hội (không tưởng)... Nhưng rất tiếc, những vị đế vương có tài tề gia trị quốc như vậy không nhiều và những biểu hiện đó, nếu có cũng không nhiều trong cuộc đời xưng đế của họ, để cuối cùng, họ trở thành những kẻ hôn quân, hậu thế ngàn đời sau còn nguyền rủa.

Chúng tôi hy vọng với tập sách này, đặc biệt là qua thân phận và những việc làm xằng bậy của những tên hôn quân trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, bạn đọc sẽ tìm ra được nguyên tắc sống cho mình, sao cho cuộc đời hữu ích. Và chúng tôi cũng tin rằng bạn đọc sẽ tâm niệm cùng chúng tôi: Việc thiện dù nhỏ đến mấy cũng cố mà làm, việc ác dù nhỏ thế nào cũng quyết không làm, để cuộc đời này không có những kẻ hôn quân, hôn thần bất nhân bất nghĩa.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ do Trần Đình Hiến dịch thuật.

*.

Hà nội, ngày 12 tháng 02 năm 1997

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI SUY NGHĨ VỀ 4 VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI

TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA

*

(LỜI ĐẦU SÁCH cuốn KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ

NHỮNG TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI ; Văn Hóa Thông Tin ; 1997)

 

CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC là bộ sách dài nhiều tập, do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Nhà sách Bảo Thắng liên kiết xuất bản, giới thiệu gần một trăm quân chủ phản diện, đại diện cho những mặt trái, những hậu quả tất yếu của chế độ thế tập quyền uy trong suốt quãng thời gian dài dằng dặc mà chế độ phong kiến "trị vì".

Thật là sai sót nếu bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC chỉ giới thiệu những hôn quân vô đạo, những kẻ đã cản trở bước tiến của lịch sử, phản lại lợi ích của dân tộc Trung Hoa vì những thú chơi ngông cuồng, rồ dại, những dục vọng về quyền lực, ái tình đến bệnh hoạn của các đế vương mà không giới thiệu những đấng quân vương có tài tề gia trị quốc, xứng đáng được nhận sự tôn vinh của lịch sử là thánh vương, là minh quân như Vũ, Thương, Tống Tổ... Và sẽ càng sai sót nếu CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC không giới thiệu những gương mặt tận trung với nước, hết lòng vì giang sơn và xã tắc (Trung Hoa) của các bà hoàng hậu, các thừa tướng, đại thần đã hết lòng giúp rập quân vương điều hành triều chính.

KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ NHỮNG VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI là tập tiếp theo của bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC giới thiệu bốn vị tướng lừng danh trong lịch sử Trung Hoa về mưu lược dụng binh, về lòng bao dung, đức độ, về sự cúc cung tận tuỵ với giang sơn xã tắc (triều đình) để lại tiếng thơm cho muôn thuở. Họ như những vì sao lấp lánh chiếu toả. Năm tháng trôi đi, vật đổi sao dời nhưng tên tuổi và sự nghiệp bất hủ của họ sẽ mãi không thể xoá nhòa trong dòng chảy của lịch sử đất nước Trung Hoa.

Lật từng trang sử, các sử gia Trung Hoa đã làm sống lại một Gia Cát Lượng dụng binh như thần, quyết chí hiến thân, không hề núng nao ý chí. Ông là nhà chính trị, nhà quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc, là hoá thân của trí tuệ dân tộc Trung Hoa. Những chiến lược quân sự mà Gia Cát Khổng Minh vạch ra đã trở thành những trước tác bất hủ. Đọc Khổng Minh Gia Cát Lượng của Hàn Phấn Phát, tuy không có những chương đoạn hào hùng, sôi động, những tình tiết ly kỳ huyền hoặc như Tam quốc Diễn nghĩa của La Quán Trung, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tài năng xuất chúng, chí khí phi phàm của Khổng Minh và trân trọng một Gia Cát Lượng mà Hàn Phấn Phát đã phác hoạ. Ở đây, ta gặp một Gia Cát Lượng không bị ngòi bút cường điệu hoá nên Gia Cát Lượng của Hàn Phấn Phát rất đời thường mà lại vĩ đại, ta thấy gần gũi, giản dị và chân thực hơn những gì mà La Quán Trung đã viết: Bình thường, giản dị nhưng cũng phi thường, thông minh và đầy bí ẩn. Nói như thế, không có nghĩa là chúng tôi đánh giá giá trị tư tưởng và nghệ thuật của hai tác phẩm, so sánh những thành công của hai tác giả vì Tam quốc Diễn nghĩa là một tác phẩm văn học thuộc dạng tiểu thuyết cổ điển, kết hợp giữa dã sử và tín sử, được liệt vào kho tàng văn hoá Trung Quốc, đồng thời cũng là tài sản của văn hoá thế giới. Còn Khổng Minh Gia Cát Lượng của Hàn Phấn Phát là một công trình khoa học, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của một danh nhân, với cách nhìn nhận, đánh giá của một nhà khoa học hiện đại. Chúng tôi cho rằng những phác họa của Hàn Phấn Phát không làm mất đi hình ảnh dụng binh kỳ diệu đến bí ẩn của Gia Cát Lượng mà ngược lại càng làm cho hình ảnh nhà mưu lược kỳ diệu này thêm sức sống. Và đấy chính là một đóng góp của Hàn Phấn Phát cho đương đại những tài liệu quý giá về cuộc đời và sự nghiệp của một bậc tiền bối.

Tiêu Hà, một khai quốc công thần của nhà Hán, đã phò tá Lưu Bang từ lúc cơ hàn, phải sống nương nhờ vào sự cưu mang của những hiền nhân quân tử đến tận khi lập nên nghiệp bá với lòng cúc cung tận tụy của một công thần ái quốc, một trung thần hiếm có. Cho tận đến lúc tàn hơi kiệt lực, Tiêu Hà vẫn luôn canh cánh bên lòng trách nhiệm phò tá "Thiên tử" giữ yên cuộc sống ấm no cho muôn họ, để lại cho hậu thế một nguồn sáng chiếu rọi về tình người, tình đời và lẽ sống cao đẹp không thể phai mờ. Ai đó đã nói: Có Tiêu Hà mới có nhà Hán, quả thật nếu nhìn nhận ở một góc độ nào đó thì câu nói đó không phải là cường điệu. Thủa Lưu Bang còn cầu bơ cầu bất, còn dưới trướng của Tiêu Hà đã được Tiêu Hà ban cho nhiều ân sủng: Coi như tình huynh đệ, lo chuyện trăm năm, bàn mưu tính kế giúp Lưu Bang tạo lên nghiệp lớn. Từ cuộc khởi nghĩa ở huyện Bái, đến tận sau này khi Lưu Bang đã bình định xong thiên hạ, Tiêu Hà luôn luôn ở bên để hiến kế dâng mưu, hết lòng lo cho nghiệp bá của tiên chủ nhà Hán. Công lao to lớn của Tiêu Hà với nhà Hán thật nhiều, nhưng chỉ kể một vài công trạng của ông với Lưu Bang trước khi lập nên nhà Hán cũng đủ thấy điều mà ai đó đã nhận xét không phải là không có căn cứ:

- Cưu mang và khích lệ nghiệp lớn trong ý chí của Lưu Bang.

- Lo chuyện trăm năm cho Lưu Bang và Lã Thị.

- Tiến cử và lưu giữ Hàn Tín giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán.

Chúng tôi nói rằng: Tiêu Hà và Hàn Tín là hai trụ cột chính giúp Lưu Bang thu phục được thiên hạ, nhưng chúng tôi không cho rằng: Có Tiêu Hà mới có nhà Hán vì nếu nhìn nhận và đánh giá như vậy thật là phiến diện. Công trạng và đức độ của Tiêu Hà với vương triều nhà Hán quả thật không nhỏ nhưng bên cạnh Lưu Bang đâu thiếu những anh hào? Sở dĩ Lưu Bang thu phục được thiên hạ là bởi ông ta đã biết sử dụng tài năng thiên bẩm của những hiền nhân quân tử quy tụ dưới trướng sao cho đúng với khả năng của họ. Tiêu Hà rất giỏi về cơ mưu, Hàn Tín rất giỏi về chiến trận nhưng cả hai không có cái mà Lưu Bang có, đó là những âm mưu, thủ đoạn chính trị mà bất kỳ một chính trị gia nào cũng phải có. Cái chết oan nghiệt của Hàn Tín và những ngày tháng sống cảnh "cá chậu chim lồng" của Tiêu Hà là bằng chứng cho tài năng hoạt động chính trị của Hán Cao Tổ, cũng có nghĩa là Tiêu Hà và Hàn Tín chỉ có thể là người "giúp việc" cho “Thiên tử” mà thôi.

Với gần 80 trang sách, Mục Bình Triều đã cung cấp cho độc giả những dữ liệu lịch sử quý báu về cuộc đời và sự nghiệp lừng lẫy chiến công của vị thừa tướng khai quốc, một công thần tận trung, tận nghĩa đã phò tá Lưu Bang bình định được thiên hạ, đó là Tiêu Hà! Một con người cả đời liêm khiết, trong sạch, hết mình vì dân vì nước dù những năm tháng cuối đời, để bảo toàn mạng sống cho bản thân và gia tộc ông đã buộc phải tự làm lu mờ hình ảnh của mình mà lẽ ra một con người như ông không nên làm vậy, nhưng cho dẫu có bàn luận thế nào thì hậu thế vẫn cảm thông với ông trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ và những chiến tích của ông, tấm lòng của ông mãi để lại tiếng thơm trong lịch sử Trung Hoa.

Cũng trong tập sách này, chúng ta được gặp danh tướng Trần Bình, người cũng có công rất lớn trong việc giúp Lưu Bang thu phục thiên hạ.

Có thể nói, trong số những danh tướng lừng lẫy chiến công, hiển hách công trạng thì Trần Bình là một danh tướng được yên ổn nhất sau khi Lưu Bang đã lập xong nghiệp bá. Không như Tiêu Hà phải sống cảnh "cá chậu chim lồng" suốt ngày nơm nớp lo sợ bị tiên chủ nhà Hán "phế diệt", cũng không giống như Hàn Tín "chuốc hoạ vào thân", bị chu di cả họ mà Trần Bình cả đời được nhà Hán trọng dụng, được tôn lên tận mây xanh, thậm chí đến cả đời con đời cháu sau này vẫn được thừa tập hầu tước.

Trong "Sử ký Tư Mã Thiên" phần Cao Tổ bản kỷ có ghi lời Hán Cao Tổ khi ông ta cùng các hạ thần thảo luận: "Sở dĩ thắng Hạng Vũ mà lấy được thiên hạ là do: Ăn nói giỏi có mưu sĩ Trương Lương, tể tướng có Tiêu Hà, đại tướng có Hàn Tín. Ba người này đều là kiệt xuất, trẫm biết dùng họ cho nên được thiên hạ". Căn cứ vào đó, có người cho rằng Trần Bình không bị Lưu Bang "phế bỏ" bởi ông không thuộc "tam kiệt", không phải là đối thủ của Lưu Bang trong việc củng cố ngôi đế của mình, cũng có nghĩa họ cho rằng Trần Bình chỉ là một vị tướng chứ không thể là một danh tướng xứng đáng nhận sự tôn vinh của hậu thế. Chúng tôi cho rằng: Trong quá trình phò tá Lưu bang thu phục thiên hạ, các danh tướng đều có những đóng góp nhất định của họ vào lịch sử, không thể đem những công lao, chiến tích, "mọi người đều nhìn thấy" để so sánh, bình phẩm về tài năng, đức độ giữa các danh tướng. Đại tướng Hàn Tín sở dĩ được đương đại đánh giá là một đại tướng cực giỏi bởi chiến trận đánh đông dẹp bắc lừng lẫy chiến công của ông dễ được mọi người nhìn thấy còn Trần Bình, ông là một nhà chính trị chứ không phải là một nhà quân sự vì lẽ đó mà những "chiến tích" của ông, đương thời khó nhìn thấy hết.

Trong chiến tranh Hán-Sở, Trần Bình hiến rất nhiều kế mà mỗi kế đều có sự liên quan đến sự sinh tử, tồn vong của Vương triều nhà Hán, và đặc biệt nhất là sau khi Hán Cao Tổ tạ thế, Trần Bình đã cùng các vị trung thần dẹp loạn các Chư Lã (dòng họ của Lã Thái hậu), giữ nguyên ngôi "Thiên tử" cho các ông vua nhà Hán: Huệ đế, Thiên đế, Văn đế... bằng những mưu quốc xuất chúng.

Trong suốt cuộc đời làm tướng của mình, Trần Bình có những đóng góp rất lớn cho vương triều nhà Hán, tuy nhiên những mưu kế mà ông hiến cho Hán Cao đế, cũng như các "Thiên tử" sau này của nhà Hán quả thật còn nhiều điều mà hậu thế còn bàn cãi về tài năng và đức độ của ông, nhất là kế bắt Hàn Tín ở đầm Vân Mộng đã làm cho một vị đại tướng hết lòng trung thành với cơ nghiệp nhà Hán phải chịu cảnh chết không nhắm được mắt. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, thì chúng tôi cũng tin rằng những người bàn luận, tranh cãi về ông cũng sẽ tán đồng quan điểm của chúng tôi: Ông là một nhà chính trị tài giỏi, hết lòng với giang sơn nhà Hán, những lỗi lầm mà ông mắc phải trong cuộc đời làm tướng là điều có thể cảm thông được bởi ở cái chế độ thế tập quyền uy ấy mạng người thật sự là khó bảo toàn, cho dù đó có là Thiên tử, mà đã là con người thì ai chẳng muốn bảo toàn mạng sống ?!.

Lịch sử phong kiến Trung Quốc đã ghi lại những tích về sự lộng quyền, can thiệp vào triều chính, làm cho xã tắc bị nghiêng ngả, sụp đổ của những tên thái giám nửa nam nửa nữ lòng dạ độc ác như Triệu Cao, Hoa Hâm... Với ba tấc lưỡi, cùng với lòng đố kỵ hẹp hòi, chúng đã mê hoặc các đấng quân vương để "thanh trừng" những trung thần ái quốc, những danh tướng lẫy lừng chiến tích để thoả mãn nhục dục của những kẻ nô tì thèm khát quyền lực.

Khấu Hoài - một danh tướng thời Bắc Tống, suốt đời ấp ủ chí lớn để mong được cống hiến sức lực cho đất nước nhưng con người tài cao chí lớn, liêm chính cương trực ấy đã bị xã hội Bắc Tống đen tối hủ bại với những kẻ thống trị u mê nhu nhược, tin yêu gian thần, thái giám, ngược đãi, đày ải làm cho hoài bão của ông không thực hiện được.

Sáu mươi năm sống với trần thế, ông đã từng được Tống Thái Tông tin yêu trọng dụng, ban cho nhiều ân sủng nhưng cũng chính tài năng và đức độ của ông đã làm cho Tống Thái Tông nhiều phen tức giận dẫn đến việc nhiều lần bị giáng chức. Tính cương trực thẳng thắn của Khấu Hoài còn tự làm hại ông nhiều hơn nữa khi Tống Chân Tông cả nghe lời gièm pha của những kẻ ham sống sợ chết, bụng dạ tiểu nhân, ghen ghét hiền tài, nên đã giáng chức ông từ một Tể tướng oai liệt xuống làm Chi Châu ở Tương Châu. Cuộc đời hoạt động chính trị của ông thật chông gai, gấp khúc, biết bao sóng gió của chính trường cố trào lên để hòng nhấn chìm thân thế và sự nghiệp của ông nhưng tất cả chỉ làm cho hình ảnh của ông rực sáng hơn, nhân cách cao đẹp của ông càng rõ nét và trở thành bất tử.

KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ NHỮNG TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI là tập mở đầu cho phần hai của bộ CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC, do nữ dịch giả Tô Thị Khang dịch thuật, giới thiệu bốn vị tướng lừng danh trong lịch sử phong kiến Trung Hoa về tài cao, đức trọng, về những cống hiến lớn lao cho các vương triều phong kiến nói riêng và lịch sử trung Hoa nói chung.

Chúng tôi tin rằng cuốn sách nhỏ này sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin giá trị, những chứng cứ khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của các danh tướng trung Hoa suốt đời tận tuỵ vì dân, vì nước (Trung Hoa) mà các cuốn sách khác chưa đề cập đến hoặc đề cập đến còn ở mức độ nào đó.

Trân trọng giới thiệu KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ NHỮNG TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI do nữ dịch giả Tô Thị Khang dịch thuật.

*

Hà Nội, ngày 3 tháng 4 năm 1997

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH:

SÓNG GIÓ NỘI CUNG

*

(Thay cho lời nói đầu cuốn SÓNG GIÓ NỘI CUNG)

 

Lịch sử phong kiến Trung Quốc là lịch sử thay đổi liên tục các vương triều, các "thiên tử". Mỗi triều đại, mỗi quân vương, nhìn chung chỉ tồn tại với quãng thời gian ngắn ngủi. Sở dĩ các vương triều chết yểu do nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản là do người kế vị sau đó, sau vị vua khai quốc một vài đời đã không xứng đáng là "con trời" để "thay trời hành đạo", "chăn dắt muôn dân". Họ là những kẻ hoặc ngu đần, bạc nhược hoặc bất tài, hoang dâm, hoặc kiêu căng, ưa xiểm nịnh, bụng dạ tiểu nhân... nên trong thời gian tại vị đã làm đảo điên xã hội, gây ra bao thảm cảnh mà "thần và người đều căm giận" nên đã bị "trăm họ" phế truất vai trò của họ ra khỏi chính trường.

Chế độ phong kiến là chế độ thế tập quyền uy nên quyền lực của nhà vua là tối thượng. Nền chính trị tập quyền khiến các đế vương không cần sức kiềm chế. Một đấng minh quân hết lòng chăm lo đến muôn dân, xã tắc sẽ ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành động của các cận thần dưới quyền, làm cho muôn dân no ấm, đất nước được cường thịnh, nhưng một vị hôn quân thì xuất phát từ ân oán cá nhân, tin dùng bọn xiểm nịnh làm cho muôn dân điêu đứng, đất nước bị loạn lạc, triều chính bị tan nát để rồi dẫn đến sự diệt vong vương triều.

Dương Long Diễn, đường đường là một quân vương, mà bị cha con Từ Tri Huấn phỉ báng, làm nhục. Thời gian ở ngôi đế vương của ông ta dễ đến mười năm nhưng chưa một lần Dương Long Diễn thực sự được làm thiên tử. Bản chất hèn mạt, ham sống sợ chết đã biến ông ta thành kẻ hầu hạ cho cha con họ Từ, làm đảo lộn luân thường đạo lý: Bề tôi bỡn cợt thiên tử, đại thần đánh đập nhà vua.

Chu Cẩn vì dốc lòng phò tá nhà Ngô mà ra tay tiễu trừ Từ Tri Huấn, nhưng thật nực cười, trớ trêu, vị đế vương bù nhìn Dương Long Diễn (Ngô Cảnh Đế) đã quay lưng phản bội lại sự cúc cung, tận tuỵ quên mình của các trung thần nghĩa sĩ, dẫn đến cái chết thê thảm của đại tướng Chu Cẩn và mấy chục trung thần.

Lưu Sưởng, vị hoàng đế cuối cùng của vương triều Nam Hán là một vị đế vương ngu muội và lẩm cẩm. Cuộc đời của y là cuộc đời của những việc làm xằng bậy, những điều luật quái gở, tàn ác, những hành vi hoang dâm vô đạo. Từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến Tam Hoàng Ngũ đế, rồi đến tận bấy giờ chưa có một đế vương nào lại ra điều kiện tuyển dụng làm quan trong triều thì trước hết phải tự thiến, nếu không tự thiến được thì triều đình sẽ thiến hộ, vậy mà Lưu Sưởng lại ban ra cái chiếu chỉ chết người ấy.

Quái đản và vô đạo hơn nữa, Lưu Sưởng còn bắt bề tôi giao hết xe ngựa, áo cầu cho nhà vua sử dụng, còn chuyện chăn gối của “thiên tử” thì “trẫm” vui lòng dùng chung với thần dân trăm họ. Bản thân Lưu Sưởng không những dâm dật, thiện nghệ trong chuyện làm tình mà còn rất thích xem người khác hành lạc. Nhà vua thường xuyên tuyển những đám thiếu niên hư hỏng cho cặp đôi với cung nữ, từng đôi, từng đôi trần truồng mà làm tình ở hậu viên để nhà vua thưởng thức, tùy theo sự điêu luyện mà phạt roi hay ban thưởng. Tệ hơn nữa, Lưu Sưởng còn cho tuyển những diện thư (đĩ đực) thật đẹp trai vào cung để chăn gối với Mị - Trư (người được vua sủng ái nhất). Thật là trường hợp độc nhất vô nhị mà cổ kim chưa hề có.

Võ Tắc Thiên, vị nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc đã không từ một thủ đoạn tàn khốc nào để đả kích và tiêu diệt những kẻ đối lập về chính trị để dần dần chiếm đoạt ngôi báu. Thời gian ở ngôi đế vị, Võ Tắc Thiên có nhiều cống hiến cho lịch sử Trung Quốc, nhưng những việc làm tàn bạo để củng cố địa vị của bà thì mãi mãi lịch sử Trung Quốc còn nhiều đàm luận.

Từ địa vị một tài nhân, Võ Tắc Thiên bước dần lên ngôi hoàng hậu để rồi từ đó trèo lên chiếc ngai vàng, tự xưng là hoàng đế. Bà không những thẳng tay đàn áp những người đối nghịch, (cho dù đó là người trong gia tộc) mà ngay cả con cái đứt ruột đẻ ra, bà cũng thẳng tay trấn áp. Việc trả lại triều chính cho nhà Đường, loại bỏ đế hiệu, trở lại ngôi hoàng hậu lúc cuối đời là biểu hiện sự bế tắc, khủng hoảng về tư tưởng của Võ Tắc Thiên. Điều đó cho thấy dù Võ Tắc Thiên có là một bậc kỳ tài, có thể lập lên những kỳ tích trong lịch sử nhưng bà cũng không thể thoát khỏi sự trói buộc về tư tưởng trọng nam khinh nữ, không thể vượt quá phạm vi mà điều kiện lịch sử cho phép, buộc phải rời khỏi vũ đài chính trị với tư thế của kẻ chiến bại.

Những ai đã đọc và hiểu về lịch sử vương triều Tây Tấn, hẳn sẽ không quên câu chuyện về Huệ Đế Tư Mã Ai (tức Tư Mã Trung) khi còn làm Thái tử đã hỏi cận thần những câu hỏi ngớ ngẩn: - “Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?”. Dân tình đói khổ, hôn quân Huệ đế lại phán một câu thật nực cười: - “Sao không nấu cháo thịt mà ăn?”. Huệ đế Tư Mã Ai là ai? Xin thưa đó là hoàng thượng của nhà Tây Tấn! Là chồng của người đàn bà thác loạn trong tính giao: Giả Nam Phong!

Sống cạnh một hôn quân ngu ngốc, ngớ ngẩn như Tấn Huệ Đế, người đàn bà “mặt hai màu” ấy đã viết vào lịch sử Trung Quốc những dòng nhơ bẩn, với những tội ác không thể tha thứ. Vì hoang dâm vô độ, ả đã giết biết bao thiếu niên xinh đẹp, sau khi đã hầu hạ chăn gối qua đêm cho ả. Không những tàn bạo trong tính giao, Giả Nam Phong còn làm biết bao điều bạo ngược: Ra lệnh bắt giam thái hậu Dương Chính vào cung Vĩnh Ninh rồi bỏ chết đói; Thẳng tay giết chết những trung thần tài giỏi không thuộc phe cánh của mình; Đầu độc thái tử, biến dần Thái tử từ người có tư chất, ham học hỏi, nhân nghĩa thành kẻ bạo ngược, hoang dâm và bần tiện để rồi chọn đúng cơ hội ra tay tàn sát. Chén thuốc độc mà Tấn Huệ Đế ban cho (thực ra là của Triệu vương Tư Mã Luân) đã kết thúc cuộc đời người đàn bà bạo ngược, hoang dâm và tàn ác có một không hai trong lịch sử Trung Hoa. Cái chết của Giả Nam Phong cũng đồng thời kéo theo chấm dứt sự tồn tại của nhà Tây Tấn, đưa đất nước Trung Hoa vào một thời kỳ hỗn loạn: Nam Bắc phân liệt kéo dài suốt 400 năm.

Chu Do Kiểm, vị vua cuối cùng của vương triều Minh kế nghiệp tổ tiên khi đất nước ngày một sa sút, các mâu thuẫn xã hội phát triển gay gắt, các thế lực chính trị đang trong tình trạng quyết đấu một mất một còn. Những năm đầu nắm quyền bính, Minh Nghị Tông đã mang hết khả năng của tài trai, sức trẻ phụng sự cho xã tắc, đưa vương triều Minh tránh được nguy cơ của sự diệt vong, tiến lên một bước. Nhưng thật đáng tiếc, ông vua trẻ tuổi này đã sớm hỉ hả trước những thành tựu của mình để lao vào trò chơi quyền lực, tin yêu hoạn quan, bỏ bê triều chính. Mười bảy năm làm vua, Chu Do Kiểm đã đuổi hơn 50 người ra khỏi nội các, thay đổi các thượng thư như đèn cù, không khống chế được tài chính quốc gia, giết và bãi chức rất nhiều trung thần tài giỏi, đặc biệt là giết oan Viên Sùng Hoán một danh tướng dũng cảm, lắm mưu nhiều kế, hiếm có bấy giờ để sau mười bảy năm cầm quyền, Chu Do Kiểm vị vua thứ tư của vương triều Minh đã để mất nước, tự kết thúc cuộc đời bằng sợi dây treo cổ.

Ngũ Tử Tư, một trung thần của vương triều Ngô, có nhiều công lao trong việc xây dựng và bảo vệ triều đại nhà Ngô. Ông là nỗi khiếp sợ của cả vua tôi Việt Vương, là niềm tin và ý chí của người dân nước Ngô, thế nhưng chỉ vì nóng nảy, trực tính mà đang là “tướng phụ” đầy quyền uy phải chấp nhận hình phạt tự xử của Ngô Phù Sai. Chiến trận đã sinh ra “tướng phụ”, gươm đao và hào khí của chiến trường đã tạo ra một Ngũ Tử Tư đại tài, dũng mãnh nhưng rồi cũng chính gươm đao ấy đã kết thúc cuộc đời ông trong nỗi đau của trần thế, trong tiếng nức nở nghẹn ngào của người dân nước Ngô và trong tiếng rên rỉ của một triều đại phong kiến đã đến ngày mạt vận. Những giọt nước mắt hối hận của Phù Sai không thể làm sống lại một Ngũ Tử Tư trung thần, ái quốc, không thể làm dịu đi nỗi uất hận của người dân nước Ngô và càng không thể vực dậy được vương triều Ngô đã đến ngày tận thế.

Khuất Nguyên, một chính trị gia uyên bác thời chiến quốc rất giỏi về ngoại giao, có tài về chính trị, ông đã nhận thấy: Nước Sở có giàu mạnh lên mới có thể thoát khỏi sự uy hiếp của nước Tần. Vì vậy ông đã đề xuất những chính sách: "Liên Tề chống Tần", "Cải cách những tệ hại về chính trị để chấn hưng đất nước" được Sở Hoài Vương tín nhiệm. Nhưng chẳng bao lâu, Khuất Nguyên gặp phải sự chống đối kịch liệt của tầng lớp quý tộc hủ bại, sợ cải cách vì sợ ảnh hưởng đến quyền lợi của bản thân nên đã đặt điều vu khống, bài xích ông trước mặt Sở Hoài Vương khiến Sở Hoài Vương đày ông biệt xứ.

Dời khỏi vũ đài chính trị, ông trở thành "kẻ bị biếm thích". Cuộc sống của người bị lưu đày biệt xứ khốn quẫn vô cùng nhưng nỗi đau duy nhất, cao hơn nỗi khổ nhục của kẻ bị đày biệt xứ là nỗi đau phải chứng kiến sự diệt vong đang đến dần của nước Sở - nơi ông đã yêu thương, hi sinh đến trọn đời. Đô thành nước Sở bị quân Tần chiếm đóng đã kết thúc vương triều Sở, cũng đồng thời kết thúc cuộc đời và lý tưởng cao đẹp của Khuất Nguyên dưới dòng sông Mịch La cuộn trào sóng hận. Sở Hoài Vương! Vị đế vương thích nghe những lời phỉnh nịnh ngọt ngào kia dẫu có chết đến nghìn lần cũng không thể chuộc lại những lỗi lầm mà y đã mắc phải.

Ở chế độ mà đế vương có quyền hạn tối thượng ấy, không những sinh mạng của mọi người khó bảo toàn mà thậm chí đến sinh mạng của đấng chí tôn cũng khó được bảo đảm vì những âm mưu cung đình cứ ngấm ngầm tạo dưỡng trong nội bộ vương triều từng giờ từng phút. Chế độ thế tập quyền uy đã sản sinh ra những âm mưu, thủ đoạn, những việc làm bất nhân, bất nghĩa, chà đạp lên luân thường đạo lý. Chỉ vì chiếc ngai vàng, vì chỗ ngồi quyền lực mà gia đình tan nát, nồi da xáo thịt: Cha giết con, em giết anh, con giết bố... dẫn đến cảnh đất nước loạn lạc. Đi hết tập sách này, bạn đọc sẽ thốt lên đau đớn, phẫn nỗ: Đâu rồi tính người ở những ông vua? đâu rồi phụ tử tình thâm - đặc trưng cơ bản của xã hội loài người - ở các hoàng tộc?

Bộ sách "CHUYỆN VUA CHÚA TRUNG HOA" ghi chép gần một trăm quân chủ phản diện kiểu như vậy. Họ là những kẻ đại diện cho thế lực thống trị thối nát ở Trung Quốc từ xã hội nô lệ đến chế độ phong kiến. Trong số những vị hôn quân đó, có những vị đế vương trong những năm đầu nắm quyền bính là những ông vua sáng suốt, có nhiều công tích, hoặc đứng ở mặt nào đó là những thiên tài nhưng hoặc do kiêu căng, dâm dật, hoặc do ân oán cá nhân, hoặc do bị lung lạc bởi hoạn quan, ngoại thích mà trở nên bạo ngược, dẫn đến cảnh nước mất nhà tan; nhưng có những vị đế vương ngay từ ngày mới được kế vị đã lao vào ăn chơi đàng điếm, không có ý chí, thậm chí còn có ngớ ngẩn, đần độn trong hành xử... nên trong thời gian tại vị họ chỉ biết lao vào những lạc thú riêng tư, bỏ bê triều chính, xáo trộn xã hội, dẫn đến sự sụp đổ cả một vương triều.

Công ty Văn Hóa Bảo Thắng trân trọng giới thiệu với Quý bạn đọc: "SÓNG GIÓ NỘI CUNG", tập đầu của bộ sách 15 tập về “thâm cung bí sử” của các ông hoàng bà chúa (Trung Hoa) như thế, do Lý Khắc Cung dịch thuật.

*.

Hà nội, ngày 17 tháng 04 năm 2002

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC

TRUYỆN NGẮN ĐÙA CỦA TẠO HÓA

*

Truyện ngắn ĐÙA CỦA TẠO HÓA của nhà văn Phạm Hoa đã miêu tả khá thành công tính cách nhân vật Tuấn, đại diện cho một trong những điểm yếu của người đàn ông hiện đại.

Tuấn là con trai duy nhất của một gia đình căn cơ, khá giả với đầy đủ lợi thế: Đẹp trai, học giỏi, hiếu thuận và lịch lãm. Bố hy sinh khi anh còn quá nhỏ, mẹ ở vậy thờ chồng nuôi con. Lớn lên trong tình yêu, sự hy sinh và kỳ vọng vô bờ của người mẹ, anh đã có tất cả: Đẹp trai, thành đạt, được mọi người quý trọng, cưới được cô vợ xinh đẹp thảo hiền. Nhưng thật oái oăm, hay như cách nói của nhà văn Phạm Hoa, gọi đó là trò đùa của tạo hóa, bỗng chốc anh trở thành trắng tay, như chưa tồn tại ở cõi đời.

Đọc ĐÙA CỦA TẠO HÓA, hình ảnh bà Thuận được tác giả khắc họa rất rõ nét và sinh động: Bản lĩnh mà yếu đuối, nhân hậu mà ghê gớm, bao dung mà ích kỷ... trước và sau khi Tuấn cưới vợ. Con người bà chứa đầy mâu thuẫn giữa cho và nhận, giữa tình thương và trách nhiệm vì tình yêu bà dành cho con theo kiểu “độc chiếm yêu thương”. Người đọc yêu bà đấy, cảm phục bà đấy nhưng cũng trách giận bà đấy, khó có thể cảm thông cho sự cứng rắn, ích kỷ đến mù quáng của bà sau khi Tuấn cưới vợ.

Xưa tới nay, muôn đời vẫn vậy, người mẹ luôn hết lòng vì con, sẵn sàng chấp nhận mọi đắng cay, khổ cực, thậm chí đánh đổi cả mạng sống của mình để đứa con được hạnh phúc. Đó là lẽ thường tình, người mẹ nào cũng làm vậy, nhưng việc yêu con đến cạn kiệt bản năng làm mẹ như bà Thuận, người đời khó có thể chấp nhận. Người đọc, thậm chí có thể kính phục bà trong việc nuôi dạy Tuấn nên người, lo lắng chở che cho Tuấn đến quên bản thân mình nhưng không ai chấp nhận tình yêu kiểu “độc chiếm yêu thương” bà dành cho Tuấn. Đấy chính là điểm “thắt nút” buộc Tuấn phải tháo gỡ, là đầu mối bi kịch cuộc đời Tuấn, và cũng chính là bi kịch cuộc đời của một gia đình tưởng sẽ mãi ấm êm, hạnh phúc.

Trái ngược với hình ảnh bà Thuận, hình ảnh Tuấn hiện lên qua phác họa của Phạm Hoa thật yếu đuối và nhu nhược. Con người anh rất hoàn hảo về hình thức và tri thức, nhưng cứ nhàn nhạt về tính cách. Cả cuộc đời anh là một xâu chuỗi sự “răm rắp vâng lời”. Tuốt tuột anh làm theo ý mẹ, nghe theo sự sắp đặt của mẹ. Anh giỏi trong tri thức nhưng lại quá mù mờ về bổn phận của thằng đàn ông. Anh nhanh nhẹn, hoạt bát trong các mối quan hệ xã hội nhưng lại quá ngớ ngẩn trong ứng xử gia đình. Giữa hai người phụ nữ (mẹ và vợ), anh cư xử như một thằng “trẻ con”: Không chính kiến, không suy nghĩ, không hành động.

Mâu thuẫn giữa mẹ và vợ đã đẩy đến điểm đỉnh. Cuộc chiến giành giật “quyền sở hữu” Tuấn - (theo chữ của Nguyễn Kiên là “vùng khuất trong tiềm thức (...) có ẩn ức sinh lý”) - từ hai người đàn bà đã ở mức quyết liệt, một mất một còn mà hành động của Tuấn vẫn chỉ là: Luống cuống quỳ xuống chân mẹ, khóc rưng rức, van xin. Hành động “đáng kể” nhất của anh, được Phạm Hoa viết: “May thay, hóa ra Tuấn lại tỉnh táo hơn cả”, là kéo vợ chạy khỏi nhà, chạy ào ra đồng.

Giữa hai người phụ nữ yêu thương của mình, Tuấn không biết phải làm gì (mà đúng ra anh chẳng chịu làm gì cả). Anh bị họ giằng xé, đun đẩy. Anh là cái cớ để họ bám víu, để họ quyết chiến sống còn nhưng anh vẫn bàng quan, vô cảm. Với họ, anh chỉ là con xúc sắc xinh xinh, đẹp mắt cần phải độc chiếm. Với anh, họ là người thân yêu như ngàn vạn người khác ngoài xã hội. Phạm Hoa đã lột tả tất cả sự nhu nhược, ươn hèn và ích kỷ trong tâm lý và tính cách của Tuấn, chỉ qua một đoạn ngắn: “Tuấn cảm giác rõ sự hết lời của mình. Giới hạn cuối cùng của cuộc xin xỏ đã hết. Chợt anh mỉm cười mềm yếu và dễ dãi. Anh không thể chặt xác Loan ra làm ba được. Anh bỗng thấy lạnh run người. Anh im lặng đứng dậy, nước mắt cũng thôi chảy. Vừa đi ra ngõ, anh vừa thấy loáng thoáng ý nghĩ. Thôi mẹ muốn thế nào cũng được. Anh sẽ ra đi vậy. Để cho các người ở lại giành giật, cắn xé lẫn nhau. Một khi đến yêu mà vẫn không biết yêu thì tồn tại sao nổi. Chính lúc đó, trong con người anh như diễn ra cuộc biến đổi dữ dội. Anh cảm thấy cô đơn, lạnh vắng, như đang lững thững bước trên miền đất nào đó rất xa lạ.” Vâng! Tuấn đã “biến đổi dữ dội” (!) để nhận ra sự cô đơn, vô vị, bất lực của mình nhưng anh vẫn không làm gì, ngoài hành động bỏ trốn. Người đọc cảm mến anh ở những trang đầu bao nhiêu thì nay bực tức anh bấy nhiêu, thậm chí lên án anh vì hành động trốn chạy, vô trách nhiệm của mình.

Ích kỷ và nhu nhược phải chăng là tính cách tạo nên con người Tuấn? Thằng đàn ông có dáng dấp mạnh mẽ, thành đạt của anh chỉ là vỏ bọc của một tâm hồn yếu đuối, bạc nhược, của suy nghĩ rất con trẻ chẳng biết làm gì và thật xa lạ với xã hội, đại diện cho những “cậu ấm” suốt ngày quẩn quanh bên mẹ, yêu mẹ bằng sự tôn thờ tuyệt đối. Kết thúc truyện, hay kết thúc bi kịch cuộc đời Tuấn là sự tan vỡ gia đình, là bước đi vô định của anh giữa màn đêm cô tịch, để mãi mãi không còn ai thấy sự tồn tại của anh trên cõi đời này.

Có lẽ Phạm Hoa đã gặp không ít người đàn ông kiểu như Tuấn trong cuộc sống nên đã xây dựng nhân vật Tuấn trong ĐÙA CỦA TẠO HÓA rất đặc trưng cho những chàng công tử chỉ được cái mẽ người “hào hoa và diêm dúa” nhưng vô tích sự ở đời. Qua tác phẩm của mình, Phạm Hoa cảnh báo: Nếu tình yêu của người mẹ dành cho cậu con trai theo kiểu “độc chiếm yêu thương” sẽ biến con mình trở thành người đàn ông nhu nhược, yếu đuối và ích kỷ, hay còn gọi là người đàn ông “nửa vời”, bị “cắt xén”. Sự ra đi của Tuấn là cần thiết cho cho sự chấm dứt hình ảnh người đàn ông “trẻ con” yếu đuối về tâm hồn, nhu nhược về tính cách đang có chiều hướng gia tăng trong xã hội hiện đại.

*.

Làng Đá, mùa hè, năm 2002

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ

VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

*

Nghèo mà tài không được bằng ai nên tôi chọn sách (viết và kinh doanh sách) làm nghề kiếm kế sinh nhai. Ngót nghét hai mươi năm với nghề, khi thấy nghề sách có dấu hiệu “suy thoái”, tôi quyết định bỏ nghề, “về hưu” và tìm thú tiêu khiển với facebook... Lên mạng, tôi chăm chú đọc những bài về văn hóa tín ngưỡng, về đối nhân xử thế... chứ không mặn mà với thơ, truyện vì... ngại đọc, sợ phải “động não” nhiều nên khi thi sĩ Nguyễn Đăng Hành rủ Văn Thùy “dị nhân” đến thăm nhà - ở làng Đá, Ân Thi, Hưng Yên - tôi mới biết ông là thi sĩ cùng quê, là kẻ bấy lâu được giới văn chương “phong tặng” là “dị nhân”, là “lục bát giang hồ”... Cầm mấy tập thơ ông đề tặng, tôi cám ơn cho phải phép rồi cất vào tủ sách. Đêm. Ám ảnh bởi cuộc nói chuyện của ông, tôi vùng dậy “lôi thơ” của ông ra đọc.

Tôi thật sự bị thơ ông cuốn hút!

Ông tung hứng, nhảy múa với từng câu chữ. Ông bắt người đọc phải trầm trồ, ngả mũ vì cách chơi chữ táo bạo mà đắc địa: Phải tay này gặp Thị Màu / Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông... hay: Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín vía chột mười cũng xong.

Câu chữ, qua sự nhào nặn của ông - của “dị nhân” Văn Thùy - trở nên sinh động, nhuần nhuyễn và tài hoa: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay ngồi phệt mặt đầy rong rêu... hay: Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rã rời mái gianh. 

Viết về tình yêu với vợ (cũ), người phụ nữ từng nhiều năm đầu gối má kề, ông dành cho bà những lời dịu dàng, đằm thắm: Bao nhiêu chữ nghĩa hương hoa / Cũng bay về phía thật thà ngày xưa; bằng trải lòng rất thật: Quay về tầm mắt em thôi / Tắm trong giọt lệ thương người phù sinh. Ông dằn vặt, tự trách, ông nhận hết phần sai về mình: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay ngồi phệt mặt đầy rong rêu / Mải mê thơ phú cánh diều / Bỏ trâu gặm cụt nắng chiều mồ côi. Tình yêu ông dành cho người vợ nhiều lắm nên bất chấp tính sĩ diện cố hữu của thằng đàn ông, ông thấp giọng “xin” bà cho ông cơ hội: Xin em hết sức lượng tình / Cho tôi tìm lại chính mình hôm qua. Và rồi, cả mãi sau đấy, khi bà rời xa ông, đã trở thành người phụ nữ “của người ta”, thì tình yêu ông dành cho bà vẫn âm ỉ. Sau nhữngTrong nhà luýnh quýnh một người chạy mưa”, ông ngồi thần người nghĩ về người vợ cũ. Hình ảnh người đàn ông cô đơn, tuổi xế chiều, cố nén tiếng thở dài để chặn tiếng khóc chực bật ra trong Nhà Dột như cứa vào tâm trí người đọc: Giá như đôi đũa chẳng cong / Thì đâu lẻ bóng long đong chống trời / Giá như… ừ… giá như thôi / Mình không dại dột chia đôi nếp nhà.

Có lẽ là người thất bại trong hôn nhân nên mặc dù khao khát một tình yêu mãnh liệt, luôn sẵn lòng đắm đuối với ái tình nhưng những khao khát, đắm đuối ấy luôn gặp phải sự cản trở từ chính con người ông. Những câu tếu táo, bông đùa: “Vừa ban thông điệp yêu đương / Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh”, hay “Có gì mạnh đến lạ thường / Yêu suông đã bốn chân giường còn hai” tưởng gia vị cho tình yêu thêm thi vị, máu lửa thì thực ra đó là lời chống chế ngầm của kẻ sợ sẽ bại trận trong tình yêu. Như con chim sợ đậu phải cành cong, ông đắm đuối, bỏng cháy với tình yêu nhưng lại dè dặt, e ngại mở lòng với cuộc tình “sắp” đến. Rất nhiều tính từ (có lúc lại là động từ) như “yêu chay”, “yêu khan”, “yêu suông”... được ông sử dụng để diễn tả tâm trạng e ngại, kìm nén những xúc cảm yêu đương: “Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi”, “Yêu chay loang lổ mảng tường phong rêu”, “Đã âm thầm nỗi yêu khan”, “Đã thành hội chứng yêu khan”...

Ông viết nhiều về tình yêu trai gái, nhưng thường là thứ tình yêu trớ trêu, thuộc lứa nạ dòng gặp phải trai lơ, bằng thứ ngôn ngữ bình dị của người thôn quê pha chút ngông ngông, “bất cần” của gã trai “bụi” phóng đãng: Cổng chùa xin tiểu lỏng then / Kẻ trần tục dễ lẻn lên thăm chùa... hay: Em nguyền khổ hạnh ăn chay / Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.

Nhưng khi viết về mẹ thì thơ ông lại trầm lắng mà da diết, từng lời, từng lời như bào xát tâm can, khiến người đọc day dứt, rưng rưng: Vinh hoa con ướm trên người / Phất phơ tóc mẹ dệt thời yêu thương / Đã đi nhẵn một con đường / Còn nghe tóc mẹ bốn phương rối bời / Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái gianh - (Tóc Rối Của Mẹ Năm Xưa). Hay những câu thơ thật hay, thật sinh động, được viết bởi tấm lòng của người con hiếu thảo trong Hoài Cảm Tích Cũ khắc sâu trong tâm trí người đọc: Chân trần mài vẹt đường quê / Lưng về như đặt đoạn đê giữa nhà / Lá trầu dứt cuống đi xa / Nồng cay hương quế thơm qua xứ người.

Viết về mảng nào, dù là tình yêu trai gái hay nhân tình thế thái, thơ ông cũng có sự mượt mà, đằm thắm của ca dao, pha chút tếu táo, bỡn cợt của dân dã, cộng thêm chút khệnh khạng của Văn Thùy, đã tạo nên thương hiệu thơ rất riêng, rất “dị nhân” Văn Thùy, dễ say đắm lòng người.

Trong gia tài thơ ca của ông, có nhiều câu thơ đặc sắc, thể hiện nét tài hoa đặc biệt của ông, nhưng thật tiếc, sự lặp lại về tứ, về ý đến gần như sao y bản chính của không ít câu thơ: “Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín vía chột mười cũng xong.” - “Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong.”, hay: “Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rã rời mái gianh.” - “Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái gianh”..., thậm chí sự tương đối giống nhau của cả những bài thơ (Xin Em - Xin Em Đừng Mặc Áo Dày) đã làm thơ ông xuất hiện sự nhàm chán, nhạt đi và bớt duyên, khiến những người yêu thơ, yêu sự sáng tạo, chỉn chu sẽ khó chịu, cho rằng ông lười sáng tạo nên mới xào sáo, làm giảm sức hấp dẫn với chính thơ của mình.

*.

Hà Nội, 26 tháng 12 năm 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG DƯƠNG CẦM”

CỦA NGUYỄN THANH LÂM

*

HƯƠNG DƯƠNG CẦM

 

Mưa vừa đủ cho hàng cây nhỏ giọt

Như giọt cafe trắng trong

Gió vừa đủ cho mưa rơi nghiêng

Hòa tiếng dương cầm ru trong đêm

 

Hà Nội đêm

Tiếng dương cầm lan xa hương

Thơm thơm mùi nhớ

Vương vương dặm tình

Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp

Tiếng dương cầm loang loáng ướt

Ngập ngừng rơi

 

Bên kia sông Hồng mưa có rơi

Tiếng dương cầm có cùng hạt mưa thấm vào lòng đất

Phia bên này năm cưa ô thao thức

Hay đang mơ giấc nhạc dương cầm

 

Hà Nội đêm tỏa hương dương cầm

Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ

Hương lan xa đến đâu tự mình thấu tỏ

Trong thế giới bao la riêng một hương mình.

*.

NGUYỄN THANH LÂM

LỜI BÌNH:

Mở đầu bài thơ là giọng thơ thiền, ngộ đạo thường thấy của nhà thơ: Lặng lẽ quan sát, lặng lẽ chiêm nghiệm để lặng lẽ rút ra những kinh nghiệm sống trong cõi tạm của đời người:

Mưa vừa đủ cho hàng cây nhỏ giọt

Như giọt cafe trắng trong

Gió vừa đủ cho mưa rơi nghiêng

Hòa tiếng dương cầm ru trong đêm

Ở đây, ở khổ thơ này, tất cả sự vật, hiện tượng như cây cối, mưa, gió... đều vừa vặn, vừa đủ để tạo nên một không gian đẹp, một khung cảnh thơ mộng, ấn tượng, rất Hà Nội, mà cũng đậm chất triết lý Á Đông. Tuy là thế, người đọc vẫn sẽ thắc mắc sự phi lý khi đọc đến câu: “Như giọt cafe trắng trong” bởi thường thì người ta nói giọt cafe đen, giọt cafe nâu... chứ chưa nghe ai nói“giọt cafe trắng trong” như nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm đã viết. Phi lý như thế nhưng lại rất có lý, bởi giọt cafe mà ông lặng lẽ quan sát là giọt cafe của trời, của thiên nhiên, chứ không phải giọt cafe đen hay nâu của trần tục. Chính giọt mưa đang tí tách nhỏ giọt trên cây kia khiến ông liên tưởng tới giọt cafe, và với sự liên tưởng “ảo của thơ” ấy đã khiến giọt mưa trong thơ Nguyễn Thanh Lâm có hồn, ấm áp, thơ hơn và đẹp hơn. Phải quan sát thật kỹ, thật tỉnh thì ông mới đưa được ra “nhận xét” độc đáo, chính xác, tinh tế như thế, và mới có được những câu: “Mưa vừa đủ cho hàng cây nhỏ giọt”/ “Gió vừa đủ cho mưa rơi nghiêng, đấy không chỉ là những câu thơ mà còn là những chiêm nghiệm, những triết lý của cuộc sống, những ngộ thức về đạo của đời người. Vâng! Tôi rất tán đồng với những điều ông viết nhưng thưa nhà thơ, biết cân đong đo đếm thế nào cho vừa vặn, cho đủ đây? Thật khó, nào có dễ, thưa nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm!

Khổ 2, là khổ thơ tôi thích nhất bởi tình yêu của tác giả dành cho Hà Nội được nhà thơ nâng niu, chắt lọc trong từng câu chữ, hình ảnh:

Hà Nội đêm

Tiếng dương cầm lan xa hương

Thơm thơm mùi nhớ

Vương vương dặm tình

Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp

Tiếng dương cầm loang loáng ướt

Ngập ngừng rơi

Cái hay ở đây là sự cảm của nhà thơ về mưa đêm Hà Nội. Nhà thơ không chỉ nghe mà còn “ngửi” được, “nhìn” được hương mưa đêm dìu dịu của Hà Nội qua bảng lảng, dìu dặt của tiếng dương cầm. Nhà thơ dùng: “Tiếng dương cầm lan xa hương”, rất sáng tạo để dụ người đọc nhẹ nhàng bước vào cõi nhớ thương rất riêng của ông, với những “Thơm thơm mùi nhớ/ Vương vương dặm tình”, chỉ có thể tìm thấy trong thơ Nguyễn Thanh Lâm.

Hà Nội đã thẩm thấu vào con người ông, thành máu thịt của ông đến độ khi tiếng dương cầm dìu dặt ngân lên đã khiến ông rạo rực về Hà Nội, khiến những nét vẽ của ông về Hà Nội trong mưa đêm cựa quậy, trở nên huyền ảo, lung linh, đẹp đến liêu trai:

Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp

Tiếng dương cầm loang loáng ướt

Ngập ngừng rơi

Tiếng dương cầm trong thơ của Nguyễn Thanh Lâm không còn là tiếng âm thanh của nhạc cụ, mà thành hương của lòng, thành hồn của nhà thơ đã ôm lấy, quyện lấy Hà Nội, để vẽ nên một Hà Nội gợi cảm, mềm mại. Câu thơ: “Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp đã hay, đã đẹp nhưng có thể sẽ có ai đó nghĩ được, viết được giống thế nhưng để cảm được “Tiếng dương cầm loang loáng ướt/ Ngập ngừng rơi” sống động đến mê hoặc như Nguyễn Thanh Lâm thì thật khó, thật hiếm. Riêng khổ thơ thứ 2 này đã là một bài thơ hay, hoàn chỉnh về Hương Dương Cầm trong mưa đêm Hà nội. Bài thơ hay và đứng được trong tâm trí người đọc chính ở khổ thơ này!

Hai khổ cuối của bài thơ là nỗi lòng trăn trở, thắc thỏm của nhà thơ với tình yêu của ông dành cho Hà Nội, cho “người Hà Nội” của ông:

Bên kia sông Hồng mưa có rơi

Tiếng dương cầm có cùng hạt mưa thấm vào lòng đất

Phia bên này năm cửa ô thao thức

Hay đang mơ giấc nhạc dương cầm

 

Hà Nội đêm tỏa hương dương cầm

Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ

Hương lan xa đến đâu tự mình thấu tỏ

Trong thế giới bao la riêng một hương mình.

Nhịp thơ chậm lại, giọng thơ trầm, lắng, dung dị và mộc mạc của ngôn ngữ đời thường, như thủ thỉ tâm sự, nói chuyện để trải lòng. Nếu ở khổ thứ 2 là những hình ảnh liêu trai, đẹp đến ma mị, được diễn đạt bằng cách nhìn nhận của tư duy phóng khoáng, hiện đại thì ở 2 khổ thơ này, cách nhìn nhận và diễn đạt hình ảnh, lại bằng suy nghĩ, triết lý rất phương Đông. Chất thiền đặc trưng của thơ ông ở khổ thơ 3 và 4 lại khiến người đọc tò mò, thích thú vì thấy cảm được thơ ông, hiểu được thơ ông nhưng lại khó diễn đạt cho ra ý thành lời, đọc thơ mà như có cảm giác đang chơi trò thách đố diễn đạt câu chữ với nhà thơ. Phải chăng vì điều đó mà thơ Nguyễn Thanh Lâm kén bạn đọc!

Kết thúc bài thơ là quan điểm của nhà thơ về cuộc sống:Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ/ Hương lan xa đến đâu tự mình thấu tỏ”, đượm triết lý phương Đông, triết lý của Lão Tử.

Tôi mãi phân vân về câu kết của bài thơ vì 20 năm chơi với ông, tôi hiểu ông là người tự trọng, khiêm nhường, sống trọng tình trọng nghĩa nhưng câu “Trong thế giới bao la riêng một hương mình” thì rất dễ bị hiểu lầm là cao ngạo, coi mình là riêng một vũ trụ nên tôi đã lướt qua, cố tình không đả động đến. Thế nhưng, trước khi đưa bài lên trang, tôi lại phân vân, rồi tự trách: Nguyễn Thanh Lâm đâu có cao ngạo? Ông ung dung điềm đạm nhìn đời đấy chứ! Hương Dương Cầm đã là hương “riêng của Hà Nội” chứ đâu còn là của riêng của Nguyễn Thanh Lâm mà bảo ông là người kiêu căng! Lần nữa, tôi lại tán đồng với quan điểm thấm đẫm triết lý phương Đông của ông về cuộc sống: “Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ/ Hương lan xa đến đâu tự mình thấu tỏ”.

Tôi không có ý định bình thơ vì không có khiếu bình thơ nhưng vì đọc Hương Dương Cầm thấy hay quá, buộc lòng cầm bút để ghi lại vài dòng.

*

Hà Nội, chiều 08.07.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VỀ PHONG CÁCH

BÌNH THƠ CỦA CHÂU THẠCH

*

Khi tìm tài liệu đọc để viết bài CHỮ TÔI, CHỮ TA VÀ CÁI TÂM LÀNH, tôi chợt có ý định thử tìm hiểu về phong cách bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch nên cần mẫn ngồi đọc 130 bài bình thơ của ông. Đọc xong, tôi phấn chấn, nảy thêm ý định “tận dụng sự đọc 130 bài bình thơ” để viết một bài làm “kỷ niệm”... Tôi điện gặp nhà phê bình Châu Thạch, nói ý định của mình, ông cười sảng khoái: - “Vâng! Đặng Xuân Xuyến cứ viết theo đúng như những gì Đặng Xuân Xuyến cảm nhận về Châu Thạch, như thế mới quý. Cám ơn Đặng Xuân Xuyến trước nhé.”.

Tôi liền cặm cụi ghi lại những cảm nhận của mình về phong cách bình thơ của ông. Vì đây là bài cảm nhận của một đọc giả về một tác giả nên cấu trúc bài viết và những dẫn giải đưa ra sẽ không mang tính nghiên cứu khoa học, nên bài viết sẽ có những hạn chế, những thiếu sót khiến bạn đọc không được vừa ý.

&.1

Đọc những bài bình thơ của tác giả Châu Thạch, tôi hay gặp (nhiều) cách ông giả định khi bình thơ, tôi tạm gọi đó là phương pháp giả định để liên tưởng và giả định để gợi mở trong cảm thụ thơ văn. Có thể nói, đấy chính là phong cách đặc trưng, là cách nổi trội trong phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch. (Đây chỉ là quan điểm cá nhân của tôi khi đọc Châu Thạch bình thơ, không là bài phê bình của người viết phê bình, vì thế “thuật ngữ” giả định để liên tưởng, giả định để gợi mở và một số “thuật ngữ” khác sẽ dùng trong bài viết nếu chưa sát nghĩa hoặc không đúng, mong quý vị thể tất.)

Chẳng hạn, khi bình bài thơ Bến My Lăng của Yến Lan, ông đã dùng phương pháp giả định để liên tưởng khi tiếp cận với ý thơ (tứ thơ):

“Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,

Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.

Khổ thơ này cho ta liên nghĩ đến điều gì? Liên nghĩ đến vận mệnh. Vận mệnh của một cuộc gặp, vận mệnh của một đời người, vận mênh của quốc gia không tùy thuộc vào ta, có khi tùy thuộc vào phút giây nào đó. Bài thơ không cho ta biết hai người có liên quan nhau không nhưng bài thơ cũng cho ta đoán định đây là hai con người nghĩa khí. Một người có học, canh cánh bên lòng nổi u uẩn. Một người đang mang trọng trách trong mình. Nếu họ gặp nhau và đưa nhau qua đò biết đâu sẽ làm việc lớn, và chuyến đò kia sẽ là chuyến đò định mệnh. Vì họ không gặp nhau, vì định mệnh không cho họ hội ngộ nên ông lái đò phải:

Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng

Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.

Như vậy, người khách kia đi đâu không biết nhưng ông lái đò đã phí cả thơi gian, phí đi kinh sử, mất đi chí lớn, u uất nép mình chèo đò bao năm trên bến My lăng để đợi một người khách sang sông, người khách sẽ làm cuộc đời ông thay đổi. Đó là nhân vật nào ta đâu biết. Một tri kỷ? một đồng chí? Một lảnh tụ chăng? chứ dứt khoát không phải chỉ là một chàng kỵ mã bình thường.”

Đúng ý hay sai ý của tác giả thơ chưa biết nhưng trong trường hợp này, thì phương pháp giả định để cảm nhận Bến My Lăng theo cách của tác giả Châu Thạch là cách tiếp cận hợp lý.

Hay như khi bình Một Buổi Trưa của Bùi Giáng, mà theo Châu Thạch, thì đó là một bài thơ hay nhưng rất bí hiểm, khó lý giải trong số “những bài thơ tỉnh táo của Bùi Giáng”. Và để bình bài thơ này, tác giả Châu Thạch đã vận dụng phương pháp giả định để liên tưởng, giả định để gợi mở, để “cảm” Một Buổi Trưa.

Xin mời cùng đọc trích dẫn:

“Em có định sẽ cùng ai kể lể

Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao

Vừng hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ

Một mùi hương nồng tụ ở nơi nào

Em có định sẽ cùng ai kể lể” là một câu nghi vấn mà không có dấu hỏi, nó có công dụng cho ta biết tác giả không trực tiếp hỏi em mà tự nhủ trong lòng mình. Câu thơ này cũng cho ta một phỏng đoán có thể em đang ở đó và cũng có thể em không có đó, nghĩa là tác giả đang một mình giữa bao la suy nghĩ về em. “Em” trong ba câu thơ còn lại như là một bóng ma. Bóng ma có một cuộc đời “hư huyễn giữa chiêm bao”, sống ở một vùng “hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ” mà nơi đó là một nơi có thể hiểu là nơi vô định vì nó có “một mùi hương nồng tụ” mà tác giả không biết “ở nơi nào”.

Vế thơ này cho ta cảm giác gì? Cảm giác một bóng người lãng đãng trong một khung trời ảm đạm. Và cho ta một cảm nhận gì? Cảm nhận đây là linh hồn của tác giả. “Em” ở đây không ai khác là tâm thần của người nằm mộng. Cái tâm thần đó đã trải qua bao hệ lụy của cuộc đời, nay nó bước ra từ tâm tác giả và hóa hình vào trong  cơn mơ ấy. Cái tâm thần đó u ám trong lòng tác giả, nay nhân dịp thể xác êm ái trong giấc trưa, nó hiển hiện trong cơn mơ làm nên một bóng dáng của bao điều hệ lụy.

Cũng dùng phương pháp giả định để cảm thụ, Châu Thạch đã thả nguồn cảm hứng của ông lạc trôi theo cánh “Chuồn Chuồn bay...”, phiêu cùng thơ Trần Mai Ngân đến với cõi mộng:

Chuồn chuồn mà bay được đến cổng trời là chuyện không thể vì thân nó quá nhỏ, cánh nó quá mỏng. Vậy chỉ có  con chuồn chuồn hóa thân vào linh hồn tác giả thì mới đến được cổng trời trong mơ ước. Con chuồn chuồn bây giờ trở nên vô hình vì nó nằm trong ảo tưởng. Đây thật sự là một giấc mơ với muôn vàn khắc khỏai. Đây thật sự là tấm lòng ăn năn của người trong cuộc, ăn năn vì số phận ly tan, duyên trời chia cách chớ không phải ăn năn vì phụ bạc tình nhau. Bởi vì con chuồn chuồn đã yêu sâu đậm và thủy chung đến suốt một đời: “Ví dầu…dẫu mộng không thành/ Buồn, vui vẫn đậu…ngọt lành vẫn xin”. Chuồn chuồn mà bay đến cổng trời cũng có thể hiểu được là người xưa có thể đã trở thành người thiên cổ không còn ở thế gian. Câu chuyện chẳng khác chi Điệp ngày xưa đã đến cổng chùa để tạ lỗi với Lan. Điệp còn biết có Lan khi dây chuông bị cắt đứt nhưng con chuồn chuồn của Trần Mai Ngân chỉ đến cổng trời trong mơ ước mà thôi. Chính hình ảnh đó cho ta hiểu được niềm quặn thắt triền miên của người ở lại giữa cuộc đời nầy. Hình ảnh cánh chuồn chuồn chuồn mỏng manh mà bay đến tận cổng trời cũng cho ta thấy được tình yêu vĩ đại chất chứa trong lòng người đi tìm quá khứ. Vế thơ thứ nhất đưa con người vào mộng, vế thơ thứ hai đưa con người vào đau, một nỗi đau lớn chất nặng trên cánh con chuồn chuồn bé bỏng. Cái đẹp được pha trộn nỗi đau làm tăng thêm nỗi đau và nỗi đau làm tăng thêm cái đẹp. Người đọc thơ ở đây sẽ hưởng được thi vị trong nỗi đắng cay vì những câu thơ rất đẹp lướt qua một cuộc tình ngang trái.”.

&.2

Tuy phương pháp giả định được ông vận dụng khá nhiều trong các bài bình thơ nhưng không phải phương pháp này được ông ưu tiên làm chính yếu, mà trong nhiều trường hợp, ông đã linh hoạt khi tiếp cận để tìm tòi, khám phá sự “đặc biệt”, tinh tế về cấu tứ, âm điệu, kỹ thuật... của bài thơ, lấy đó làm “nguyên liệu” cho việc “cảm” và bình thơ. Đấy cũng là một điểm nhấn đáng lưu ý trong phong cách bình thơ của Châu Thạch.

Gặp được bài thơ hay, ông phấn khích, ông “sướng nâng” như bị “lên đồng”. Chẳng hạn, khi đọc “Thềm Xưa, Em Đợi Người Về”, trước kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ khá “đắc địa” của Hà Nhữ Uyên, ông như chịu sự tác động của một loại chất kích thích cực mạnh, buộc ông “tự nguyện” thả hồn phiêu cùng Hà Nhữ Uyên, “tự nguyện” “lên đồng” cùng Hà Nhữ Uyên:

Thú thật, bốn câu thơ ở vế đầu đã làm tôi sướng nâng và đọc những vế thơ kế tiếp tôi có cảm nhận mình đã thèm, đã thèm như chất kích thích đầy hương vị của “Ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng” ngấm vào trong thớ thịt: 

Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng

nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn

ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng

nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.

Câu thơ tôi yêu mến đầu tiên là câu “nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn”: Bài thơ này tác giả dùng chữ “em” nghĩa là viết thay cho một người con gái, và câu thơ này cho thấy được hết cả cái tâm hồn uỷ mị của cô em, cũng cho ta thấy hết được cái khung cảnh cô liêu nơi cô ngồi, cả sự lãng mạn trong suy tư của em. Nhặt hạt nắng là hành động của một kẻ tâm thần, nhưng tất nhiên cô gái không là kẻ bị bệnh tâm thần, vậy nhặt hạt nắng là một cử chỉ siêu lãng mạn của con người đa cảm, một hành động vô tâm nhưng bày tỏ một tính cách rất nên thơ có trong một tâm hồn rất đẹp.

Câu thơ thứ hai tôi thích là “nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan”. Ở câu thơ trên ta thấy cô gái”nhặt bâng quơ hạt nắng”, ở câu thơ dưới ta thấy cô gái “nhặt hoài mong”. Vậy thì trong vế thơ này sự hoài mong của cô gái được thể hiện trên hạt nắng. Cô gái nhặt hạt nắng như nhặt sự hoài mong của mình, và tất nhiên hạt nắng thì trôi tuột qua “mười ngón tay đan” nên sự hoài mong cũng trôi theo hạt nắng. Câu thơ liên kết sự mong đợi với hạt nắng ngủ trên bàn thật là lý thú. Cái vô hình trong tâm được thể hiện bằng cái hữu hình trên bàn, và cả hai được lồng trong bức tranh tỉnh vật chứa đựng sự sâu kín trong hồn hoà điệu cùng phong cảnh.” 

Nhưng cũng có trường hợp ông nhấn sâu vào âm điệu của bài thơ, xoáy sâu vào cấu trúc của bài thơ để chọn cấu trúc, âm điệu của bài thơ làm “chất xúc tác” cho việc cảm thụ và bình thơ. Ví dụ như khi ông bình bài thơ “Chấp Chới” của Đặng Xuân Xuyến:

“Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

Người “xe chỉ luồn kim” là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se sắt”. Còn người ở lại thì lang thang đầu ghềnh và mê mải trong tâm đi tìm quá khứ.

Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà giựt”, nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng gì nhau, nhưng chính cái “cà giựt” đó làm cho tiếng thơ trở nên dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm xúc và trọn vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.

Qua khổ thơ thứ ba tác gỉả dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm cho nghẹn ngào, uất ức:

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.”

&.3

Một điểm nhấn nữa trong phong cách bình thơ của Châu Thạch là ông bình thơ bằng tâm thế của người cảm thụ thơ nên trước hết ông thả hồn vào bài thơ để phiêu cùng tác giả tới mọi ngóc ngách của bài thơ, để tìm cho được sắc thái riêng của bài thơ, để cảm thụ được hết vẻ đẹp của bài thơ và khi viết lời bình, ông cố gắng tiết chế cái tôi của người “phê bình văn học” sao cho hài hòa, hợp lý để lời bình được chân thực, khách quan.

Ví dụ, Mơ Trăng tôi viết trong tâm trạng: khi thấy người yêu vội vã tận hưởng những phút giây ân ái, cuống quýt thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, tôi lặng người, đớn đau, thấy tội nghiệp cho tình yêu em đang dâng hiến, và cũng xót xa, tội nghiệp cho cuộc tình của cả hai. Tôi muốn đẩy em ra, muốn hét lên: - Đừng yêu anh nữa! Hãy tránh xa anh đi! Nhưng tôi không làm được. Đúng ra là tôi không thể làm thế nên lại quấn lấy em, gồng lên để hòa vào cơn khát thèm thể xác với em. Tôi đã tả rất chân cuộc tình ấy, ngay từ khổ thơ đầu:

Em rướn mình hà hít nụ hôn anh

Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội

Môi khóa môi mà sao xa vời vợi

Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.

Và tôi run người khi đọc những lời bình của ông vì đã gặp lại mình trong cuộc tình ấy: “Bây giờ có hai Đặng Xuân Xuyến, một Đặng Xuân Xuyến đang vùi trong hương hoa của tình yêu và một Đặng Xuân Xuyến đang vùi trong trũng sầu bi, khắc khỏai và đắng cay. Lúc này nhà thơ đương yêu hay là không yêu? - Đâu biết được. Chỉ biết nhà thơ đang ôm một khối tình, khối tình nóng cháy như hỏa diệm sơn mà cũng rét cóng như băng giá miền cực bắc.”

Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình thường không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ luôn mơ mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc đời. Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng thơ Đặng Xuân Xuyến quả là đúng như vậy.”

Tôi không biết các nhà thơ khác sáng tác thế nào nhưng những bài thơ tôi viết là những tiếng lòng chân thật của tôi, dù đớn đau hay vui mừng, dù chán chường hay phấn chấn thì những cảm xúc trong thơ của tôi cũng phản ánh rất chân thật tâm trạng, tình cảm của tôi, tuyệt không hư cấu. Vì thế, khi đọc những dòng cảm nhận của ông về thơ của tôi, tôi như lần nữa được sống lại với những tâm trạng, cảm xúc mà tôi đã mượn thơ để giãi bày. Nếu không thả hồn để phiêu cùng bài thơ, để tìm cho được cái hồn, cái sắc thái riêng của bài thơ thì Châu Thạch không thể viết được những dòng cảm nhận như được moi ra từ gan ruột của tác giả.

Ví dụ, khi đọc tập thơ Cưỡng Xuân, Châu Thạch đã viết: “đọc“Cưỡng Xuân” của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự rung động cùng một lúc. Đó là sự rung động của con tim yêu chân tình, say đắm và độ lượng. Cùng lúc đó cũng bốc lên trong bầu máu nóng của ta một thứ hương tình cúa thể xác. Hai thứ hương đó quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng trong nỗi đau khổ quặn thắt. Khoái lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn lửa của ái ân thể xác và của âu yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến làm lạnh con tim, nỗi sầu được diễn tả như bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn lòng se thắt. Thơ đó không phải là thứ thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như những bông hoa trường trải được nẩy mầm từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập trong bao nhiêu biến động của đời.”.

Hay khi đọc Em Về Nhặt Chút Hương Phai của Huỳnh Gia, Châu Thạch đã không đứng phía bên ngoài để “cảm” thơ mà ông thả hồn mình phiêu cùng nữ sĩ Huỳnh Gia để cùng Huỳnh Gia cảm nhận bài thơ bằng những cảm xúc chân thật được cất lên từ tiếng lòng của nữ sĩ:

“Mai em về thăm

xuân chưa ấm nổi đất trời

tìm đến đồi Cù

tìm về khung trời cũ

bức rào chắn phân ranh

cỏ úa màu trách cứ

mỏi mắt tìm không thấy điểm hẹn xưa

Trong vế thơ này hai câu thơ “Cỏ úa màu trách cứ/ mỏi mắt tìm không thấy điểm hẹn xưa” làm người đọc thấy khung trời hoang sơ rộng vắng của đồi Cù, mà sự rộng vắng có giới hạn ấy trở thành mênh mông vô tận trong tâm hồn tác giả khi “mỏi mắt tìm” điểm hẹn xưa mà không thấy nữa. Cái lạnh của cuối đông vẫn còn vì “xuân chưa ấm nổi đất trời” sẽ càng lạnh thêm biết bao khi người về gặp “bức rào chắn phân ranh”. Đây là bức rào chắn phân ranh khung trời cũ trên địa thế đồi Cù nhưng nó cũng là bức rào chắn phân ranh quá khứ và hiện tại trong tâm hồn người quay lại. Vế thơ cho ta thấy tất cả sự tiêu điều, se lạnh của khung cảnh trùm lên tâm hồn và nỗi dằn vặt trong lòng cũng thể hiện ra trên cỏ úa, trên bức rào, trên điểm hẹn đã bị mất đi. Cảnh bây giờ hình như cũng gây trắc trở cho người vì có lẽ cảnh và người ở đây cùng chung số phận, định mệnh như nhau.” 

&.4

Thêm một điểm nhấn “son” nữa về phong cách bình thơ của Châu Thạch là khi bình thơ, ông chịu khó tìm tòi để phát hiện ra những tinh tế, những sáng tạo của nhà thơ trong bài thơ, rồi truyền tải nguyên vẹn, thậm chí có phần dầy hơn, đẹp hơn những cảm xúc được thăng hoa của nhà thơ tới bạn đọc.

Cảm nhận về Hà Nội Quê Tôi của Lê Mai là một ví dụ:

“Chùa Diên Hựu là của tôi!

Đóa sen tâm bừng nở ngát cõi người cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội cấp gạo thuyền giặc chết khỏi tha hương.

“Chùa Diên Hựu hay chùa Một Cột, là  một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội, có kiến trúc độc đáo như một bông sen từ dưới nước vươn lên. Nhà thơ đem cái bông sen đó làm biểu tượng cho tấm lòng nhân đạo của người Hà Nội ngày xưa, cùng với dân ta đem lúa gạo của mình cấp cho quân giặc Minh xâm lược bị thua trận có cái ăn mà quay về bản xứ. Cấp gạo cho giặc và xây chùa Một Cột không liên quan nhau, nhưng nhà thơ đã khôn khéo dùng hình tượng hoa sen của chùa, lấy kỳ quan đất nước sừng sững ngàn đời thể hiện cho lòng vị tha của dân tộc là một kết cấu giữa văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể vô cùng nhuần nhuyễn để tôn cao ý nghĩa của hai cái đẹp giữa lòng thủ đô Hà Nội.”

Hay như đoạn được trích dẫn dưới đây trong bài Vài Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn Khôi, ông luận bàn thật “đắt” về từ “tắt trăng”, một sáng tạo độc đáo của nhà thơ Nguyễn Khôi:

Với tôi Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng’ trong câu chót là một tứ thơ sáng tạo, độc đáo, khác lạ và tuyệt hay đã nâng cả bài thơ lên tầm cao thị vị. Nếu tác giả dùng chữ “lịm” hay chữ “khuất” thì câu thơ “Để cả bầu trời phải lịm trăng” hay “Để cả bầu trời phải khuất trăng” chỉ có ý nghĩa là trăng nhìn thấy sự lõa thể mà mê mẩn đến mờ đi ánh sáng hay trốn vào đâu đó để ghé mắt nhìn trộm. Tứ thơ này đã cũ quá và đã lạc hậu vô cùng vì đã có hàng ngàn thi nhân viết rồi từ xưa đến nay. Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng” đã đưa trăng có cái nhân cách người, có cái đạo đức của chính nhân quân tử khi trăng tự tắt ngọn đèn của mình, hay quay lưng đi không nhìn những người phụ nữ tắm ao. Tứ thơ này hoàn toàn mới, diễn đạt một ý thơ chỉ sự thanh cao của trăng, cũng chính bộc lộ sự thanh cao của tâm hồn tác giả mà từ xưa đên nay chưa một ai nghĩ đến trong thơ.”

&.5

Bên cạnh những phương pháp chủ quan, bao gồm cả phương pháp giả định và các phương pháp tiếp cận để cảm thụ thơ văn như đã dẫn giải ở trên, Châu Thạch cũng có khi dùng cả phương pháp khách quan cho việc tìm tòi, khám phá và cảm thụ thơ văn của ông. Ẩm Trời - Thơ Đặng Xuân Xuyến: Một Phong Cách Tình Khác Lạ là một ví dụ:

 “Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn gọn tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không phải thế. Đọc thơ, ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ phải là những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình trường, dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có thể yêu nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ biết họ trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô thiển.

Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng và cảm mến..”

Rõ ràng, ở đoạn vừa trích dẫn, tác giả Châu Thạch, bằng phần nào sự hiểu biết của ông về tuổi tác, con người và tính cách... của (tác giả thơ) Đặng Xuân Xuyến, ông đã dùng phương pháp khách quan - thông qua “tiểu sử” tác giả - để “cảm thụ” bài thơ Ẩm Trời. Đây là một phương pháp được các nhà phê bình văn học sử dụng khi phương pháp chủ quan yếu thế, có thể sẽ không phát huy được hiệu quả như khi sử dụng phương pháp khách quan trong việc bình thơ.

Hay như trong bài Vài Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn Khôi, tác giả Châu Thạch đã dùng phương pháp khách quan - những hiểu biết của bản thân từ thực tiễn về tiếng “nai tác” - để phản biện chỉ trích của Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên về chữ “nai tác” trong bài thơ Đêm Mộc Châu của nhà thơ Nguyễn Khôi:

Tiến sĩ viết như sau:

Nguyễn Khôi đã viết:

Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “tác”

Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng

Mới hay cuộc sống còn đói khát 

Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn

Theo chúng tôi đây cũng là một bài thơ hay của Nguyễn Khôi. Hai câu đầu là tả thực. Hai câu cuối có sức khái quát lớn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở nơi mà đã có “dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng”, tàn phá rừng, hủy hoại môi trường như thế thì không còn nghe thấy tiếng “nai tác” được nữa. Có chăng chỉ còn nghe tiếng thạch sùng mà thôi!” Sau đó tiến sĩ còn khẳng định: “Ở đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng “nai tác”. Vậy nên ta cũng không nên “chẻ sợi tóc làm tư” mà làm gì miễn là đó là thơ hay!”

Đây là một nhận xét thật sự sai lầm. Người viết bài này đã từng nhiều lần nghe suốt đêm tiếng nai tác trong một vùng tàn phá môi trường hàng ngàn dặm. Sau 1975 tôi được điều đi khai hoang sản xuất trên vùng rừng núi. Chúng tôi thường nghe tiếng nai “tác”  bi thương kéo dài trong đêm. Hỏi ra mới biết đó là tiếng của những con nai lạc bầy do môi trường bị hủy hoại. Bởi sự thay đổi của núi rừng làm cho những con nai con thường lạc mẹ, thế là con gọi mẹ hay mẹ tìm con cứ “tác” suốt đêm trường. Tiếng gọi ấy của nai khắc khỏi trong đêm vọng vào hồn tôi cũng đang khắc khoải vì những biến động của cuộc đời tôi thuở ấy.

&.&

Có thể nói, Châu Thạch là một cây viết sung sức, đầy nội lực, viết nhanh, viết khỏe và viết nhiều. Tôi không biết chính xác ông đã hạ bút viết bao nhiêu bài phê bình thơ (và cả văn) nhưng để lan man tìm hiểu về phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch như bài viết này, tôi đã phải ngồi tham khảo chừng 130 bài bình thơ của ông mà theo số liệu thống kê của văn sĩ Thái Quốc Mưu thì tính đến tháng 07 năm 2017, chỉ riêng bình thơ, tác giả Châu Thạch đã “xuất xưởng” trên 200 bài. Quả thật, sức viết của ông rất đáng kính nể.

Những điểm mạnh trong phong cách bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch khá nhiều, còn hơn những gì người viết đã lan man dẫn giải nhưng trong phong cách bình thơ của ông vẫn còn vài điểm hạn chế mà theo người viết, nhà phê bình văn học Châu Thạch rất cần khắc phục.

Đó là:

1. Việc chọn bài còn để lọt những bài thơ chưa thật sự hay, chưa đúng như tiêu đề bài viết. Điều này có thể do tình thân hữu, sự cả nể khiến ông “tặc lưỡi”. “Nội lực” bài thơ không có nên dù người bình cố “tán”, cố “đẩy” thì bài thơ vẫn chỉ như bông hoa kém tươi, lạc lõng giữa vườn hoa đua sắc khoe màu. Vô tình, những bông hoa “cả nể” đó đã làm vườn hoa đẹp của nhà phê bình văn học Châu Thạch giảm nhiều hương sắc.

2. Phương pháp giả định được ông vận dụng với mật độ khá dầy trong các bài bình thơ, đã ít nhiều tạo ra hiệu ứng đơn điệu, đều đều, nhàm chán trong việc tiếp thu, cảm nhận thơ văn của bạn đọc, khiến bạn đọc nảy sinh tâm trạng nghi ngờ nhà phê bình đang cố “tán”, cố “lái” bài thơ theo dòng cảm xúc đã được định hướng.

3. Việc “đồng màu chỉ khen không chê” trong hàng loạt bài bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch. Có thể vì là người trọng tình cảm nên ông tránh làm tổn thương người khác; hoặc có thể vì trân quý những tìm kiếm, những thành công của tác giả thơ nên ông “không nỡ” nêu ra hạn chế, sợ tác giả thơ sẽ nhụt chí... Cho dù với lý do gì thì việc “chỉ khen không chê” cũng làm thiệt thòi cho cả 3 đối tượng: nhà thơ (không biết được yếu kém để sửa chữa, nâng cao tay nghề), bạn đọc (không nâng cao được khả năng học và cảm thụ thơ văn) và nhà phê bình (tác phẩm tạo ra đồng màu, đơn điệu).

*

Hà Nội, chiều 19 tháng 09 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM NHẬN KHI ĐỌC TẬP THƠ

“SÓNG NGẦM” CỦA NGÔ NGUYỄN

*

Nhận được tập thơ Sóng Ngầm cũng đã mươi ngày nhưng bận quá nên chiều nay tôi mới “lôi” Sóng Ngầm ra đọc. Giở đi giở lại, cứ vẩn vơ ý nghĩ: thơ tình của nhà thơ tuổi đã xấp xỉ 80 không biết cái “khoản yêu” kia có được “hùng hục như trâu húc bờ” hay chỉ “lả lướt” vài ba nét nhấn nhá cho có chút vị gọi là hương yêu? Nghĩ thế nên tôi chưa vội đọc mà lẩn thẩn ngồi đếm xem tập thơ có bao nhiêu bài. Vâng. Tập thơ nho nhỏ, xinh xinh với 80 bài, đa phần là những bài thơ ngắn, số đông là thơ tình. Đúng như tiêu đề của tập thơ: SÓNG NGẦM - Thơ tình ** Ngô Nguyễn đã trình làng.

Cũng lâu rồi, tôi lười đọc, lười viết nên hôm nay sẽ chịu khó ghi lại vài dòng cảm nhận khi đọc Sóng Ngầm, vừa để luyện trí nhớ, chống lão hóa, vừa có bài đưa lên trang blog cá nhân. Vâng! Tiện cả đôi đường! Rất thực dụng đấy ạ!

Đọc Sóng Ngầm, với những câu: Ngỡ như/ mắc bả bùa yêu/ Bốn con mắt/ cứ vụng về tìm nhau (Mắt chạm mắt), chắc sẽ có ai đó nhăn mặt: Thơ gì mà xưa cũ thế? Ờ thì... Đứng trước người mình “thích”, mình “si mê”, ai chẳng có những phút giây “vụng về” khi đưa mắt “tìm nhau”. Tình huống đấy quen lắm nhưng không hề cũ, mà luôn luôn mới. Tình yêu với những rung cảm của trái tim thì làm gì có chuyện cũ? Yêu là yêu! Thế thôi! Phải yêu, phải “thèm yêu” thì mới có những hình ảnh đẹp, lãng mạn, đầy chất thơ: Lâu nay/ khô cạn ước mong/ Dập dờn cánh bướm/ uốn cong dáng chiều...(Thèm yêu) chứ? Khi yêu, ai lại lôi khái niệm cũ mới ra để so đo?!

Ở tuổi gần 80 mà tình yêu (đôi lứa) trong ông vẫn đằm những khát khao trẻ trung, bạo dạn: Áo em/ cháy đỏ lũy tre/ Ngỡ là bó đuốc/ đốt hè nóng ran... (Áo đỏ), vẫn như những “khối tình” đượm sẵn lửa: Môi em/ diềm phải bao diêm/ Môi anh vừa chạm/ bật lên cháy bùng... (Nụ hôn đầu), vẫn thòm thèm những trận yêu được “cuồng loạn”: Nụ hôn/ cuồng loạn bão mưa/ Hạn lâu/ cơn lũ chỉ vừa mát cây! (Hạn hán). Đấy! Gần 80 tuổi, tưởng thi sĩ đi lại còn khó khăn, thở còn đã nhọc, đã khó, ấy vậy mà thi sĩ Ngô Nguyễn vẫn hừng hực “máu lửa” như thế, kém sung sức so với thanh niên cũng đâu có nhiều.

Tuy là nói vui như thế, nhưng thật lòng, thơ Ngô Nguyễn ít có những giằng xé dữ dội của tâm trạng, của những ham muốn yêu đương xác thịt mà thường là những chuyển biến rất nhẹ nhàng, những xáo trộn tình cảm vẫn còn nằm trong sự “kiểm soát” và “giữ gìn” của lý trí, kiểu: Ừ thì,/ gió thoảng mây bay/ Ừ thì,/ chỉ cái chau mày/ nhếch môi....(Ừ thì)... của những nỗi buồn chơi vơi, của những xâm chiếm nhẹ nhàng hồn cốt: Được lời/ em đến thăm nhà/ Ngó cau/ cau mới đang hoa/ bao giờ (Mùa cau)... Tình yêu đấy “sạch” quá, “lành” quá. Ôi! Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”, phải có những cắn, cấu, cong người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng, mới khoái, mới đã, mới đích thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í a í a thì quá chán... Vâng! Tôi quan niệm tình yêu phải vậy. Có lẽ do tuổi tác, do “tạng người” mà tình yêu trong thơ thi sĩ Ngô Nguyễn mới mang mang gam trầm?

Tuy không nhiều, dù “hiếm hoi” gặp sự “nổi loạn” của Ngô Nguyễn trong tình yêu như ở “Em - Áng mây chiều”: Gió tứ phía/ Thốc bập bùng/ Cánh diều nổi loạn/ bứt tung dây giằng!, hay như trong “Bão gần”: Bão nào đến/ tự  nơi xa/ Từ cô hàng xóm/ thốc qua nhà mình... nhưng sự “nổi loạn” chỉ thoảng qua “bấy nhiêu” thôi cũng đã “thổi” vào “hồn yêu” của ông thêm sắc diện, khiến thơ Ngô Nguyễn đậm thêm chút hương vị của tình yêu.

Tập thơ Sóng Ngầm với những bài thơ “ấn tượng”: Tiếng Kinh, Mùa Cau, Lưng Lửng... với những câu thơ có thể gọi là tinh tế, như: Mắt nàng/ nào phải lưỡi dao/ Liếc mòn vẹt đá/ chém nhào ngã cây...(Mắt), Gặp em/ nửa lạ/ nửa quen/ Nửa vồ vập/ nửa mon men rụt rè (Nửa), Nỗi sầu/ thấm ướt trang kinh/ Gió lùa hoang lạnh/ rùng mình/ kinh rơi! (Tiếng Kinh), Ngắn dài/ chân vẫn chân thôi/ Miễn là/ đỡ được thân người thẳng ngay! (Chân dài),... tuy không mới, chưa thật sự đặc sắc nhưng như thế cũng đã có sức nặng đủ để níu giữ Sóng Ngầm đọng lại trong tâm trí người đọc.

Gập tập thơ lại, tôi cứ tiếc: Giá nhà thơ Ngô Nguyễn “máu lửa” thêm chút nữa, bạo liệt “xác thịt” thêm chút nữa... Nhưng rồi tôi lại thần người với suy nghĩ: Gần 80 tuổi rồi mà vẫn yêu được như thế là nhà thơ vẫn còn sung sức lắm, oách lắm, còn hơn chán vạn kẻ... Vài chục năm nữa, không biết tôi (kẻ đang than thở) có “máu lửa” bằng nửa của nhà thơ không? Hay lúc đấy có cố lê lết nụ cười cũng đã là quá khó...

*.

Hà Nội, chiều 27 tháng 09 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐÔI ĐIỀU KHI ĐỌC: QUẢNG NGÃI -

CÂU THƠ NẶNG TÌNH CỐ THỔ

*

Tập sách QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ của tác giả Lê Ngọc Trác được viết theo lối giới thiệu thân thế và sự nghiệp văn học của 31 “hồn thơ” xứ Quảng dưới dạng phê bình và cảm nhận văn học. Đây là tập sách thứ 7 của tác gia Lê Ngọc Trác (tác gia: tác giả của nhiều tác phẩm, nhiều đề tài), là “khối trầm tích tình yêu” của những người con Quảng Ngãi luôn đau đáu về nơi “chôn nhau cắt rốn”, nơi luôn được thầm nhắc đến với lòng tự hào và thành kính: núi Ấn sông Trà.

Tuy là viết về thân thế và sự nghiệp của các chân dung văn học với mục đích phục vụ cho việc khảo cứu chân dung văn học nhưng tác giả Lê Ngọc Trác không viết theo lối phân mục tiểu sử (thân thế) và sự nghiệp như các tác giả khác từng làm mà ông làm mềm hóa đi, giảm bớt sự khô cứng của lối viết giáo khoa - khảo cứu bằng cách loại bỏ sự phân mục A, B, C... đồng thời chuyển các yếu tố nghiên cứu thành các yếu tố cảm nhận, biến các “thông điệp” về thân thế và sự nghiệp của các chân dung văn học khô khan thành những bài cảm nhận văn học dung dị, liền mạch, tạo tâm lý nhẹ nhàng, thoải mái cho bạn đọc khi tiếp cận các chân dung văn học. Hiểu đơn giản và ngắn gọn là ông không dùng lối viết biên khảo truyền thống mà khéo léo lồng tiểu sử các chân dung văn học vào các bài viết phê bình và cảm nhận văn học, bằng tư duy và ngôn ngữ của người nghiên cứu khoa học. Đây là thành công của tác giả Lê Ngọc Trác khi mà biên khảo là một thể loại văn chương dễ viết nhưng lại rất khó thành công!

Bên cạnh một số bài viết khá sâu về thân thế và sự nghiệp của nhân vật lịch sử, như: Danh thần Trương Đăng Quế - Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương, Nguyễn Vỹ - Nhân chứng của một thời,... thì đa phần là những bài viết, tác giả Lê Ngọc Trác hướng bạn đọc chú trọng vào những tìm tòi khám phá, những thành công của các chân dung văn học đã có đóng góp ít nhiều cho diện mạo văn học nước nhà, ông chỉ “đá đưa” chút ít về tiểu sử nhân vật để bạn đọc biết thêm hoặc lấy đó làm tài liệu khảo cứu với lượng thông tin vừa đủ về một chân dung văn học. Với cách viết như vậy, bạn đọc được cảm nhận đầy hơn, sâu hơn “sự nghiệp” văn học của các chân dung văn học mà tác giả Lê Ngọc Trác vẫn làm tròn được tiêu chí của tập sách: cung cấp những thông tin vừa đủ về thân thế và sự nghiệp của nhân vật như một công trình biên khảo. Thành công này của tác giả Lê Ngọc Trác là thành công mà ngay cả những người viết sách chuyên nghiệp cũng không dễ dàng có được, trong khi ông chỉ là “một tay chơi ngang”, viết sách bởi sự đam mê rất Lê Ngọc Trác: viết để được học.

Điều thú vị khi đọc QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ là tác giả Lê Ngọc Trác đã rất khéo khái quát chân dung nhân vật qua việc đặt tên tiêu đề của bài viết, ví dụ: Nguyễn Vỹ - Nhân chứng của một thời, Thanh Thảo với những câu thơ mềm mại mà mãnh liệt, Nguyễn Thánh Ngã “gõ” vào cõi nhân gian, Trần Phố khúc tâm tình đậm tính nhân văn, Nguyễn Tấn On - Thấm đẫm hồn quê, Vũ Hồ với "Nỗi buồn trăm năm", Nguyễn Minh Phúc - "Nhắn quê xa lắc tiếng kêu thầm".... Chỉ mới đọc tiêu đề bài viết, bạn đọc cũng đã có thể hiểu được cốt cách của chân dung văn học hoặc phần nào thấy được diện mạo của nhân vật mà tác giả Lê Ngọc Trác sẽ khắc họa.

Với cách viết nhẹ nhàng, cô đọng và xúc tích nhưng theo góc nhìn và cách đánh giá công tâm của người nghiên cứu khoa học, tác giả Lê Ngọc Trác đã phác họa các chân dung văn học (xứ Quảng) trong QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ bằng những nét vẽ chân thực, những cảm nhận tinh tế và những cảm kích khách quan, chân thành.

Mời đọc những trích dẫn:

- “Trong thơ Khắc Minh, âm tiết, giai điệu như những lời ru ngọt ngào, làm dịu đau thương lòng người trong bối cảnh chiến tranh. Có lẽ, đây là nét riêng trong thơ của Khắc Minh so với những người cùng thời. Phần lớn, thơ của Khắc Minh không mang nặng những dằn vặt khổ đau, cô đơn hoang lạnh, rên rỉ quằn quại. Thơ Khắc Minh nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu trong cuộc sống.”

 “Khắc Minh không triết lý vụn trong thơ, không đánh đố người đọc bằng câu chữ bí hiểm. Thơ của ông âm hưởng ca dao mượt mà, như những câu hò ba lý của quê hương miền Ân Trà” (Khắc Minh - Ngọt ngào lời ru dưới chân Thiên Bút).

- “Đứng trước những câu thơ của Nguyễn Minh Phúc được viết ra từ nỗi nhớ quê hương tha thiết của anh, chúng ta không cần phải "bình giảng lý luận". Ai mà đi tìm lý lẽ của con tim. Chúng ta cứ đọc, thấm và đồng cảm với tác giả. Những người sống xa quê như thấy mình cùng cảnh ngộ, nỗi niềm...”. (NGUYỄN MINH PHÚC - "Nhắn quê xa lắc tiếng kêu thầm")

- “Đọc thi phẩm "Mưa hoang" của Hà Quảng, người đọc cảm nhận những cơn mưa ướt từng câu thơ, thấm đẫm cả những trang thơ... Nào những cơn "mưa thơm" trên cánh đồng lúa ,đồng hoa chốn quê nhà yêu thương, mưa thơm ngát hương trên dòng sông Trà, sông Vệ, "mưa tháng Bảy, mưa tháng ba..." và "một trời mưa nhớ" đến quặn lòng ở những phương trời cách biệt. Chúng ta còn bắt gặp những cơn "mưa hoang" trong cuộc đời mình mà một thời "lời môi ngọt ngào", một thời đã xa "chạm vào nỗi nhớ". ("Mưa hoang" đầy nỗi nhớ trong thơ HÀ QUẢNG)

- “Sau khi đọc nhiều bài thơ của Vũ Hồ, tôi nhận ra một điều: Ông là một người tài hoa trong thơ, nhưng trong toàn bộ thơ của ông thể hiện một nỗi cô đơn - cô đơn đến tận cùng.” (VŨ HỒ với "Nỗi buồn trăm năm")

Tuy là viết QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ bằng sự đam mê, không chịu áp lực bởi “chuyện cơm áo gạo tiền” làm ảnh hưởng tới độ sắc bén, mềm dẻo, linh hoạt của ngòi bút nhưng Lê Ngọc Trác không hoàn toàn phó mặc cho cảm xúc dẫn dắt ngòi bút mà ông đã “điều phối” những cảm xúc, “cầm cương” những thăng hoa cảm xúc để cái tôi của tác giả Lê Ngọc Trác đứng ở vai trò của người tổng kết, ở vị trí của một hướng dẫn viên luôn nhiệt tình đồng hành cùng bạn đọc. Đấy là sự khéo léo, cũng là thành công của ngòi bút Lê Ngọc Trác trong việc truyền tải “ý đồ” của tác giả Lê Ngọc Trác đến với bạn đọc qua từng bài viết, xuyên suốt “QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ”.

Với tình yêu dành cho quê hương luôn lớn, tác giả Lê Ngọc Trác đã cố dồn ép để đẩy niềm tự hào về quê hương Quảng Ngãi cao hơn, xa hơn, qua số gương mặt được tập hợp trong tập sách lên con số 31, vô hình chung, những gương mặt được chúng tôi ví là “những trái chín ép”, “những trái tình cảm”, đã làm QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ thành sự chọn lọc của tình cảm, dễ dãi, khiến cấu trúc tác phẩm bị xộc xệch, gương mặt các chân dung văn học trong tập sách trở nên mất cân đối. Theo thiển ý của người viết, tập sách chỉ nên dừng ở con số 23 gương mặt thì hợp lý hơn.

Đọc nhiều và viết nhiều là ưu điểm của ông. Viết bằng tấm lòng là điểm sáng của ông nhưng trong các bài viết của ông, đâu đó vẫn xuất hiện một vài hạn chế: chỉ nêu hiện tượng sự việc mà không dẫn giải bản chất của hiện tượng sự việc dù chỉ ở sự gợi mở, lưu ý bạn đọc, ví dụ như: “Thơ Nguyễn Thánh Ngã đọc xong ghim lại trong lòng người yêu thơ. Anh đã tạo được phong cách của mình trong thơ. Thơ Hai-ku của Nhật Bản có qui luật về số từ, nhưng khi làm thơ Haiku, Nguyễn Thánh Ngã đã có những cách tân đầy sáng tạo. Những bài thơ Haiku của Nguyễn Thánh Ngã có một nét rất riêng. Dường như Nguyễn Thánh Ngã muốn tạo ra một trường phái thơ riêng của mình. Chính vì vậy, có lúc các bạn yêu thơ gọi thơ Haiku của Nguyễn Thánh Ngã là thơ "Ô haii" (Ô hay!). Đọc cả bài viết, bạn đọc không tìm được câu trả lời: “cách tân đầy sáng tạo”, “nét rất riêng”, “trường phái thơ riêng” của Nguyễn Thánh Ngã là thế nào. Tuy không nhiều, không lớn nhưng những “hạt sạn” như thế không nên xuất hiện trong các bài viết của cây bút đã dày dạn bản lĩnh như tác gia Lê Ngọc Trác vì sự xuất hiện một vài hạn chế như thế đã vô tình làm giảm tính thuyết phục của cả bài viết.

Và đấy cũng là hạn chế mà tác gia Lê Ngọc Trác cần khắc phục để những tác phẩm của ông được tròn trĩnh hơn.

*.

Hà Nội, chiều 06 tháng 10 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “TÌNH NHÂN ƠI”

CỦA TRẦN HẠ VI

*

Đưa bài HỔN HỂN VỚI “TÌNH NHÂN ƠI” CỦA TRẦN HẠ VI lên trang blog Đặng Xuân Xuyến từ sáng 07.11.2017 nhưng sáng nay tôi mới có thời gian đọc bài thơ này. Bị ám ảnh bởi câu “Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi” của Trần Hạ Vi, tôi cứ trằn trọc, lỡ mất giấc ngủ trưa. Tôi khoái hình ảnh tươi nõn, phồn thực của “bờ môi” đầy dục tính.... nên dù đang rất đau lưng (bệnh xương khớp) cũng cố ngồi “lạch cạch” đôi dòng cảm nhận về bài thơ của nữ thi sĩ họ Trần.

Bình thơ ư? Chắc chắn là không rồi! Bài thơ đã được nhà phê bình văn học Châu Thạch ưu ái phóng bút, đã viết gần như cũng đủ hết các ý rồi nên bài viết này chỉ ghi lại vài “sự thích” nho nhỏ của tôi khi đọc “Tình Nhân Ơi” của Trần Hạ Vi, một bài thơ đang được bạn bè trên facebook quý mến.

Vâng! Tôi thích cách “nhớ” của Trần Hạ Vi. Nó rốt ráo, cuống cuồng. Nó gấp gáp, dồn dập. Nó căng lên như dây đàn. Nó rền rĩ như tiếng va đập vọng về của âm thanh chiều vọng: “Em nhớ anh/ cồn cào cội nguồn thúc thôi triền khao khát”. Để làm gì? Chỉ là “Em mong anh/ mơ lắm một bàn tay!”. Thế thôi! Yêu thì nhớ, thì mong, thì cần có nhau, cần những phút giây thuộc về nhau, để quyện vào nhau, để tình yêu được thăng hoa... Vâng! Thì là yêu mà! “Nhớ” như thế thì tình yêu nào chẳng có nhưng “nhớ” ở trong “Tình Nhân Ơi” lại thấy cứ “sao sao”? Nghe nhẹ hều mà sống mũi cay cay?! Khác lắm! Lạ lắm! Buồn lắm!

Thích là thế nhưng tôi khoái khổ thơ thứ 4, khổ mà theo tôi chính là xương cốt, làm trụ cho bài thơ:

 “Tình nhân ơi

sao anh cứ làm thinh?

Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi

Mưa nguồn lũ xối

Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan”

Những câu thơ rất “phồn thực”, bỏng nhẫy truy hoan và nỗi sướng rơn hoan hỉ của cô gái sau cuộc ái ân mãn nguyện được Trần Hạ Vi quẳng toẹt lên gường, chẳng cần úp úp mở mở, che che giấu giấu.

Gã trai đã hết hưng phấn, đang thèm được nghỉ ngơi khi đã làm xong nhiệm vụ của giống đực nhưng cô gái thì vẫn còn đang âm ỉ rạo rực, vẫn còn đang lửng lơ ở đỉnh của khoái cảm. Tuy “Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan” vì đã mãn nguyện với trận “Mưa nguồn xối lũ” nhưng cô vẫn chờ được ngấu nghiến tiếp, vẫn sẵn sàng với những “nhàu gối chăn hoan”. Máu lửa trong hành động, bạo liệt và tự tin trong cả suy nghĩ như thế bởi cô tin vào thứ vũ khí lợi hại đang sở hữu: “Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi”. Vâng! Tôi khoái hình ảnh “bờ môi” rất nữ tính, rất sex này. Một hình ảnh đẹp, tươi nõn mà phồn thực, căng phồng những gợi cảm, và đầy kích thích dục tính như thế thử hỏi có gã đàn ông nào “làm thinh”? Tôi cũng khoái tính cách thẳng thắn, bạo liệt của cô gái: Yêu bảo yêu! Thích thì sẵn sàng “ba bảy cũng liều” chứ chẳng thèm ỡm ờ, thả thính.

Không nói nhiều về gã trai, chỉ một câu thán “sao anh cứ làm thinh?”, Trần Hạ Vi đã “tố” mối duyên này trái ngang, không thuận. Phải có uẩn khúc nào đó, trắc trở nào đó thì gã trai mới lặng thinh như thế, mới “thụ động” như thế. Phút lặng thinh đó không hẳn là gã thèm được nghỉ ngơi khi đã làm xong nhiệm vụ của giống đực mà còn là phút tự vấn của gã về những liên quan tới cuộc tình mang hơi hướng “vụng trộm”, trái ngang. Cảm thông cho gã thì mới hiểu được lý do vì sao cô gái luôn khát yêu, bạo yêu, mới cảm thương mối tình chông chênh, trắc trở. Đọc “Tình Nhân Ơi”, thấy cô gái “ngông nghênh” trong tình yêu, mà cũng se lòng vì mơ hồ thấy căn nguyên của cái “ngông nghênh” ấy.

Vâng! Thêm một khoái nữa, đó là khoái cách tỏ tình (đúng hơn là cách gạ yêu) của Trần Hạ Vi: “Yêu em đi” rất thẳng thắn, huỵch toẹt, chẳng màu mè, làm giá như những ả nàng. Sự chân thành đến dạn dĩ, mạnh bạo đến trần trụi, và tinh thần “tử vì tình”, chấp nhận thua thiệt trong tình yêu, dẫu biết tình yêu ấy là trái ngang, trắc trở, là bia miệng của người đời thì vẫn cứ bất chấp, vẫn cứ: “Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa/ Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa” như Trần Hạ Vi thì quả thật ngay trong giới mày râu cũng khối kẻ lấm lét đứng nhìn.

Không biết ngoài đời Trần Hạ Vi có “ngông nghênh” yêu như vậy không và với những gã trai có tính rụt rè, nhát gái (kiểu như người viết bài này) mà gặp được người trong mộng như vậy thì sao nhỉ? Chắc sẽ tròn mắt vì ngạc nhiên, và cả vì hạnh phúc! Vâng! Là tôi nghĩ thế!

..

TÌNH NHÂN ƠI

 

Tình nhân ơi, gọi em đi

Tên em trên môi anh dòng ngọt ngào chảy mật

Ta rúc vào nhau

cơn cuồng si hổn hển ngắn dài

quên áo cơm đời chật vật

 

Em nhớ anh

cồn cào cội nguồn thúc thôi triền khao khát

Em mong anh

mơ lắm một bàn tay!

 

Yêu em đi

ngoài kia ngày vẫn là ngày

Đêm vẫn là đêm, chỉ chúng mình là bỏng rát

Cuộn trào trong từng cơn khát

Khát anh khát em

quằn quại đam mê khát tình...

 

Tình nhân ơi    

sao anh cứ làm thinh?

Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi

Mưa nguồn lũ xối

Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan

 

Mưa xuân lất phất tưới nụ hoa xoan

Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa

Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa

Nguyên thủy hồng hoang tràn về...

sự sống mới mới lại sinh sôi

 

Tình nhân ơi, 

lại nhớ anh rồi....

*

04.11.2017

TRẦN HẠ VI

*.

Hà Nội, chiều 15 tháng 11 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC ĐỖ HOÀNG “CẢM”

NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG?

*

Nguyễn Bình Phương là nhà thơ tên tuổi nhưng tôi chưa đọc thơ (văn) của ông, đơn giản vì không có nhu cầu. Trang blog Đặng Xuân Xuyến cũng đã đăng mấy bài viết về ông, có trích dẫn thơ ông một vài đoạn, một vài bài nhưng khi đưa bài lên trang, tôi chỉ đọc lõm bõm cho việc dàn trang nên cũng mù tịt về thơ Nguyễn Bình Phương. Trong số 5 bài viết về thơ Nguyễn Bình Phương đã đăng trên blog Đặng Xuân Xuyến thì có đến 4 bài của nhà thơ Đỗ Hoàng, bạn cùng khóa Viết Văn IV với ông.

Chả hiểu Đỗ Hoàng sao lại ghét Nguyễn Bình Phương đến thế? Ngày học Đại học Văn Hóa, tôi biết Nguyễn Bình Phương nhưng không giao tiếp, quan hệ. Thấy ông là người lành lành, kiệm lời, có vẻ sống nội tâm, mà theo thiển nghĩ của tôi thì người sống nội tâm dứt khoát không thể ứng xử xuề xòa, bốc đồng, dễ “gây thù chuốc oán” với người khác (kinh nghiệm của tướng thuật (tướng tâm) cho rằng: người sống nội tâm một khi đã thù ai thì thù thậm sâu, đã ra đòn với ai thì đòn ấy thật hiểm). Còn Đỗ Hoàng, dù tiếp xúc ít nhưng với cá tính bộc trực, ruột để ngoài da, tôi nghĩ sẽ khó có chuyện Đỗ Hoàng để bụng thù ai được lâu. Vậy mà đọc 4 bài Đỗ Hoàng “cảm” thơ Nguyễn Bình Phương, tôi thấy lạ lắm. Việc khen - chê khi cảm nhận thơ văn là chuyện bình thường nhưng cả 4 bài đều viết theo lối áp đặt, bới lông tìm vết để chửi và chửi thì mối quan hệ của 2 ông chắc có nhiều uẩn khúc? Nhiều lần muốn hỏi Đỗ Hoàng nhưng ngại Đỗ Hoàng cho là người nhiều chuyện nên thôi, cứ để lửng lơ thắc mắc: dù gì thì cũng là đồng môn đồng khóa, nỡ nào phang nhau đến cạn chữ tình?!

Nói thật, đọc Đỗ Hoàng “chửi” Nguyễn Bình Phương tôi thấy Đỗ Hoàng ngoa ngôn lắm, nhiều khi ông “chửi” lấy được:

Nguyễn Bình Phương phải thực sự cầu thị đi học lại một cách nghiêm túc chương trình tiếng Việt từ cấp một đến cấp 3 (phổ thông trung học), chương trình lớp 2 cấp một trở lên có học âm Hán Việt, để khi nói khi viết, khi đặt câu cho chính xác, tránh sơ suất như vừa nêu trên! Sau đó rồi hãy làm thơ. Vì làm thơ không phải làm xiếc chữ viết tù mù hổ lốn uốn éo, kém học như vậy.” (Dịch thơ Viêt ra thơ Việt - Dịch Vô lối Nguyễn Bình Phương)

Hay những câu miệt thị, kiểu cả vú lấp miệng em:

Tôi đồ rằng tác giả Buổi câu hờ hững có thể bị tâm thần hoặc là bị chấn động thần kinh, tâm hồn bất định. Nhiều bài viết rất thiểu năng trí tuệ, giả đò (giả vờ): Buổi câu hờ hững, Phân chim, Chân dung khi trống trải, Khoảng giữa, Nói với em từ nơi trống trải, Hỏi…”. (TỰ BẠCH THỜI BÌNH - vô lối, nông cạn, hời hợt, kém học, phi văn chương)

Thậm chí, cả những câu chợ búa ông cũng chẳng từ:

Đọc bài vô lối ngu tối “Em và hoa” của Nguyễn Bình Phương có cảm giác như khi đánh xi giày đi hội ra đường dính vào đống cứt chó. Một cảm giác tởm lợm khó chịu, hôi hám, bẩn thỉu rủi khi mình bị vướng vào!”. (Em Và Hoa - Vô lối ngu tối của Nguyễn Bình Phương).

Đọc 4 bài, thấy ít lắm những câu Đỗ Hoàng dịu giọng một chút, ví như trích dẫn dưới đây:

Nguyễn Bình Phương muốn mình tạo ra cách nghĩ, cách nói cho khác người, chứng tỏ ta là loại siệu việt, loại nghìn năm mới có một nhân vật như ta (!). Nói thật ra đó là cách nghĩ cách nói của một kẻ ngu độn, càng nghĩ càng nói kiểu này bạn đọc hiểu biết họ cười vào mũi, họ sẽ phỉ nhổ không thương tiếc.

Chưa hết, tác giả cho “cuộn lên”: “Cuộn lên một cái cây chưa tỉnh táo/ Cuộn lên những quả chuông vang reo trận mưa rào/ Ngân nga giọng của trăng sao”. Tiếng nói của em có màu sắc mới cuộn lên như bão vậy. Tiếng nói mà cuộn được những quả chuông reo vang trận mưa rào thì tiếng nói ấy phải hơn cả sói tru, hổ gầm; bét thì cũng phải như Trương Phi gầm thét trên cầu Trường Bản làm kẻ địch sợ mất vía vỡ mật mà chết! Người đẹp  -  em ấy sẽ là người “lỗ mũi mười tám gánh lông” “bánh đúc em xới cả lò, rượu tăm em uống mười vò không say(!). Thân thể em thì khủng long thời tiền sử cũng không so nổi(!)

Chưa hết, tác giả lại nhân cách hóa loài thỏa mộc “cuộn lên cái cây chưa tỉnh táo”. Cái cây chưa tỉnh táo này ở đâu ra? Vì sao nó chưa tỉnh táo? Nó uống nhiều rượu hay bị người đẹp bỏ rơi? Toàn là viết và nói ba lăng nhăng, dớ dẩn, tối tăm hủ nút!”. (Em Và Hoa - Vô lối ngu tối của Nguyễn Bình Phương).

Mà cũng lạ. Bị “chửi” như vậy mà (hình như) Nguyễn Bình Phương cũng không lên tiếng. Không biết Nguyễn Bình Phương ngại chuyện cãi cọ là mấy chuyện chỉ của cánh “đàn bà” nên chịu trận hay Nguyễn Bình Phương nghĩ ông là bậc chính nhân quân tử nên ông “đếch” thèm chấp “cái thằng” Đỗ (Chí) Hoàng? Hoặc trước kia ông có lỗi với Đỗ Hoàng nên giờ “cái thằng” Đỗ (Chí) Hoàng “huyếnh lên” “chửi” quá cũng đành chịu...

Tôi chả tin vào mấy lý do Đỗ Hoàng ghét Nguyễn Bình Phương như ông đã viết trong Em Và Hoa - Vô lối ngu tối của Nguyễn Bình Phương:

Không ai ghét gì người thiểu năng trí tuệ, người không thông minh, không ai thù gì người thiếu năng lực, người văn hóa, học vấn thấp; người ta cảm thương nữa là đằng khác. Nhưng phải căm ghét và thù hận những kẻ ngu dốt, vô văn hóa, vô học ở trong cái cơ chế xin cho bằng mánh khóe luồn lách, lưu manh, man trá, xảo trá, che đậy sự ngu dốt của mình bằng vỏ bọc chức quyền, tiền bạc, lợi dụng truyền thông tung hứng lăng xê mình lên trời xanh, những kẻ ấy phải lên án và vạch mặt chúng ra. Nguyễn Bình Phương, Hoàng Quang Thuận… là những đứa như thế!

Nguyễn Bình Phương cứ viết điên loạn tù mù, vô học, vô văn hóa, in hết bài này đến bài khác, báo này đến báo khác, giải thưởng này giải thướng khác, luận văn thạc sỹ này đến thạc sỹ khác viết về thơ Nguyễn Bình Phương rồi thăng trật chức này chức khác. Thử hỏi có nguy cho nhân quần không?”.

Vì những “nguy” đó đưa ra rất gượng ép, chứa nhiều ấm ức cá nhân nên chả thuyết phục. Chẳng có lẽ quá rảnh rỗi, Đỗ Hoàng “ngứa mồm” “chửi” chơi Nguyễn Bình Phương cho vui?!

*.

Hà Nội, 22 tháng 11 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC: GỌI ĐÊM

TRỞ GIÓ CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG

*

GỌI ĐÊM TRỞ GIÓ 

 

Gió sao không lùa mé Tây

- cái phía nhà em không cửa.

mà cứ lọn dai, lọn dài buốt giá

len qua kính mà run! 

 

Ở đâu, ơi ngàn thương? 

Đi đâu, ơi vạn nhớ?

 

Nẻo về tàn lá cỏ

Lối sang mờ màn mưa...

 

Gió bấc căm căm rét cóng cơn mơ

thốc ngược gối gường trống vắng.

 

Đông mình em / cây đường lập cập.

Đông mình em / sương muối buốt khuya

 

Trở gió. Rét về

Sao Người không về lại? 

 

Gầm gào gió cơn man dại

hù doạ đêm mồ côi.

*

Trở gió 24/11/2016

BÙI CỬU TRƯỜNG

(Bút danh khác: Hạt Cát Diệu Sinh)

LỜI BÌNH:

Tôi thích “Gọi đêm trở gió của nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường vì bài thơ được viết như trải lòng, rất thật mà câu chữ lại sáng, đẹp, thanh thoát. Đọc đi đọc lại, tôi càng thích bài thơ hơn. Và dù đã rất buồn ngủ, tôi cũng cố ngồi viết vài cảm nhận về bài thơ hay, nhưng buồn mà đẹp này.

Ấn tượng níu giữ tôi đầu tiên là câu:

Nẻo về tàn lá cỏ

Lối sang mờ màn mưa...

Câu thơ thật hay, đẹp. Và cả lạ nữa.

Tôi chưa được gặp cách diễn tả nỗi đau xa cách nào bằng hình ảnh: “Nẻo về tàn lá cỏ / Lối sang mờ màn mưa...”, hay và lạ vì bảng lảng nét liêu trai như thế. Có thể là vì tôi ít đọc, nhất là thơ thì lại càng lười đọc nhưng ở 2 câu thơ này, cách diễn đạt như thế, không phải là tình cảm nhớ nhung thông thường vì xa cách, mà là vời vợi những nhớ thương của người sống với người đã khuất, là nỗi đau khôn nguôi bởi sự cách trở bất khả kháng của Âm - Dương cách biệt. Đấy là câu thơ hay và đẹp của tình nghĩa Tào Khang, hoàn toàn không dành cho tình yêu trai gái.

Nẻo về tàn lá cỏ / Lối sang mờ màn mưa...” cứ bồng bềnh nhân ảnh, cứ bảng lảng nét liêu trai, như là những ngăn trở bất khả kháng, càng khiến nỗi trống vắng trong “Gọi đêm trở gió” thêm hoang hoải, xót xa.

Tôi đã suýt bật khóc khi đọc:

Trở gió. Rét về

Sao Người không về lại? 

Câu “Trở gió. Rét về” được ngắt làm 2 nhịp bằng dấu chấm ngăn cách, đã đẩy sự cô đơn, trống vắng của “Gọi đêm trở gió thêm vời vợi, xót xa. Đấy không chỉ là lời cảm thán của tâm trạng xót xa khi Đông về mà là cả sự nhớ nhung được dồn nén bấy lâu. Đọc: “Sao người không về lại?”, tim tôi như thắt lại, cứ mường tượng tới hình ảnh một thiếu phụ ngoái đầu, đăm đắm ánh nhìn hướng về phía cánh cửa như đang ngóng chờ một “Người” nào đó rất quan trọng “về lại”, diết da lắm, mà cũng tuyệt vọng lắm. Câu thơ bật ra như tiếng thổn thức của nỗi lòng, như trải ra để mong được vơi đi nỗi nhớ nhung đang bào xát con tim. Dường như vì sự nhớ thương đến khắc khoải, cũng da diết đã từ rất lâu, khiến thiếu phụ đụt hơi, đuối sức. Câu: “Sao Người không về lại?”, nghe như một tiếng nấc nghẹn của sự nhớ thương đến tuyệt vọng, âm điệu nhỏ dần, nhỏ dần, xót xa, nghẹn đắng:

Trở gió. Rét về

Sao Người không về lại? 

Hình ảnh đẹp. Rất thơ! Rất họa! Tôi cứ ngẩn ngơ với ý nghĩ: Giá như bài thơ dừng lại ở đây thì hay hơn, vì như thế bài thơ sẽ gợi cảm xúc hơn, ấn tượng hơn, và chất thơ sẽ đẹp hơn.

Vâng! Đấy chỉ là vài cảm nhận của tôi khi đọc “Gọi đêm trở gió”. Và những cảm nhận đó có thể sẽ không trùng với ý tác giả, nhưng như thế thì tôi cũng rất cám ơn nhà thơ Bùi Cửu Trường đã cho tôi thưởng thức một bài thơ hay, để tôi thêm cảm nhận về một cung bậc tình cảm qua bài thơ lấp lánh những nhớ thương đến xót lòng.

*

Hà Nội, 3 giờ sáng 02.03.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM

TRONG RỪNG XANH MƯA

*

Định viết bài cảm nhận về tập thơ RỪNG XANH MƯA của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng tôi không đủ sự kiên nhẫn để đọc một mạch hết tập thơ, vì thú thật, để hiểu được thơ của ông, với tôi quả thật là không dễ, nên đành chọn phương pháp vài ngày đọc một bài, nghiền ngẫm từ từ, thật chậm để "ngộ" được "nỗi niềm thầm kín" ẩn trong những bài thơ mang mang hơi thở Thiền của ông. Hôm nay, đọc mấy bài thơ về biển, gặp những tứ thơ hay, lạ, tôi vội gõ đôi dòng theo mạch cảm xúc: BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM TRONG RỪNG XANH MƯA.

Với nữ sĩ Xuân Quỳnh: “Biển như cô gái nhỏ/ Thầm thì gửi tâm tư”, dịu dàng những xao động của cõi người, nhưng với Nguyễn Thanh Lâm thì biển không chỉ dịu dàng như thiếu nữ tuổi dậy thì mà còn đẹp hơn thế, khi ông phát hiện: biển trong mưa thật đẹp, đẹp trắng trong, tinh khiết “Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc”, chỉ nên chiêm ngưỡng bằng tâm thể thánh thiện của cõi Thiền. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà thơ và cõi phàm trần “trở bệnh tương tư”, “ngẩn ngơ” tiếc nuối:

Biển lại mưa

Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc

Mây ngẩn ngơ bay

Gió trở bệnh tương tư

Đường chân trời ảo mờ trong mắt

(Biển lại mưa)

Khi mưa tạnh, biển trở lại hiền hòa, êm dịu, thì dưới lăng kính lãng mạn của nhà thơ, biển đẹp như “cô gái mới vào chùa chưa xuống tóc”, còn nguyên nét ngây thơ, trong sáng của tuổi mới lớn. Nét đẹp ấy mơn mởn những phồn thực mà hồn nhiên, sáng trong, lặng thầm của hương trinh nữ, làm xuyến xao nhà thơ với miền cảm mến thanh tao, không vẩn nét phàm trần, khiến những trăn trở, nghĩ suy của nhà thơ về trách nhiệm với cuộc đời trở nên an nhiên, tự tại:

Lòng tôi rỗng không ngắm biển

Tóc trắng trên đầu lặng sóng

Mắt khép hờ lỏng then quá khứ - tương lai

Hồn nhiên nhịp thở

Hương hạnh phúc dâng đầy

(Biển sau mưa)

Đứng trước biển, nhà thơ lặng lẽ quan sát, lặng lẽ thả hồn đắm chìm vào những cảm xúc để hồn thơ thăng hoa, bay lên. Những hình ảnh sống động, đan quyện vào nhau, uyển chuyển giữa hư và thực, tạo nên một bức tranh “siêu thực”, đẹp như trong cổ tích, thể hiện tài sử dụng hình ảnh thật khéo, thuần thục đến nhuần nhuyễn của nhà thơ:

Mưa réo sôi trên đầu sóng

Biển sưởi hồn tôi bằng mặt trời năm xưa

Tôi khẽ nâng mặt trời trong sóng

Ôm vào lòng cho đỡ ướt tâm tư

(Gặp mưa)

Vâng! Tôi thích những câu thơ như thế. Tôi thích những hình ảnh tráng lệ từ nét vẽ tài hoa của Nguyễn Thanh Lâm. Những câu thơ như: “Mưa réo sôi trên đầu sóng”, “Tôi khẽ nâng mặt trời trong sóng”... đã nâng nhà thơ lên thêm một tầm cao.

Con người và thiên nhiên đã thẩm thấu nhau, hòa quyện vào nhau, cùng phiêu trong cảm xúc của nhà thơ, tạo nên một bức tranh lung linh huyền ảo, đẹp đến ngỡ ngàng:

Trong vòng tay tôi mặt trời thiêm thiếp

Tôi tự ru mình trong tiếng mưa

(Gặp mưa)

Tôi yêu những câu thơ này! Tôi tự hỏi: “mặt trời” nào của nhà thơ “thiêm thiếp” vậy? Là ảo ảnh của tình yêu năm xưa chợt ùa về? Hay ảo ảnh mặt trời trong sóng biển khiến nhà thơ liên tưởng? Uầy... Là gì thì những hình ảnh ấy cũng rất đẹp, cũng khiến người đọc mơ màng, ngơ ngẩn.

Nhưng có khi, biển của Nguyễn Thanh Lâm không khoác hình hài của một thiếu nữ tuổi trăng tròn, đẹp dịu dàng, trong sáng, cũng không là hình ảnh “mặt trời năm xưa” khiến nhà thơ nâng niu “Ôm vào lòng cho đỡ ướt tâm tư” mà biển mang dáng dấp như người đã trưởng thành, người từng trải... bằng những câu thơ đượm vị đời với những suy tư, chiêm nghiệm, đậm chất triết lý, với những nỗi đau cũng thật đời, rất người:

Biển chưa im lặng bao giờ

Suốt đời quằn quại sóng

Cả đời mặn nước mắt khổ đau

Mưa trời không thể bão hòa vị mặn

(Nước mắt biển)

Đắm mình trong không gian sống động của biển cả, thả tâm tư hòa quyện với trời mây… nhưng nhà thơ không quên đối diện với “lòng mình” mà “ngộ” ra điều: biển không hề yên bình, giống như lòng thi sĩ cũng đang ngổn ngang trăm nghìn tơ rối, để mà thêm thấm: “Nước mắt chảy vào trong mặn cõi người”, để mà tự thức tỉnh về lẽ đời nơi cõi người vốn nhiều oan trái, khổ đau:

Tôi nhìn vào lòng mình thấy biển

Nước mắt chảy vào trong mặn cõi người

(Nước mắt biển)

Và có những lúc, biển của Nguyễn Thanh Lâm trở nên khác lạ, không ồn ào, dữ dội, không "quằn quại sóng" bởi "cả đời mặn nước mắt khổ đau", cũng không dịu dàng như thiếu nữ tuổi cập kê trăng tròn, mà biển yên bình, lãng đãng chất lãng mạn chốn thôn quê:

Sóng ì oàm vỗ mạn tàu

Nghe như tiếng gàu sòng tát nước trăng khuya

(Đêm tạm trú)

Có lẽ chỉ nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm mới nghe được tiếng sóng biển vỗ mạn tàu "ì oàm" "như tiếng gàu sòng tát nước trăng khuya". Và chỉ có ông mới vẽ biển bằng những nét vẽ lãng mạn, yên bình, đầy chất thơ mà khác, lạ như thế.

Chừng 8 bài thơ viết về biển, như thế không phải là ít trong tổng số 70 bài thơ của RỪNG XANH MƯA. Thơ ông viết về biển, bài nào cũng tươi rói cảm xúc, cũng được cảm nhận bằng một tình yêu trong sáng, thánh thiện của cõi Thiền. Có lẽ vì không phải là người vùng biển nhưng lại rất yêu biển nên ông viết về biển bằng những cảm xúc thật, đẹp và lạ, bằng tâm trạng của người lâu lắm rồi mới gặp lại biển, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp đa sắc thái, đa hình ảnh... của biển mà hồn thơ ông bay bổng với nhiều sắc thái tâm tưởng.  

*

Hà Nội, chiều 08 tháng 05 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

NGẪM CHIỀU - BÀI THƠ  ĐỘC ĐÁO

CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG

*

NGẪM CHIỀU

 

1- tơ nhện thả mành

nà nuột

mưa rớt giọt

lộp độp hè cánh đỏ phượng rơi.

 

lòng rối bời 

dạ rối bời

lắng lo nỗi bòng bong rối

liêu xiêu bước vội 

bàn chân ai lối về.

 

canh hẹ cuộc đời hắt bến mê

bông lau tóc xoã vạt chiều héo úa

bàn tay thõng rớt niềm tin vụn vỡ

hạt đất buồn xa xót ngọn cỏ côi.

...

 

2 - Bỏ lại muộn sầu đi nhặt niềm vui

hít hà hương lá

vói rẻ quạt ráng hồng quạt gió

xoe búp trời thiên thanh

 

Bỏ lại bộn bề về tĩnh tại mình

tiếng mõ cá quyện chiều lam khói

chuông đồng vọng thinh không vòi vọi

Thơ.

 

3 - đời - mơ

trong vắt.

*.

Hà Nội, 02.03.2018

BÙI CỬU TRƯỜNG

LỜI BÌNH:

Ngẫm Chiều là bài thơ của nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường, được sáng tác vào ngày 02 tháng 03 năm 2018 nhưng mãi tận chiều qua, 16 tháng 06 năm 2018 tôi mới có cơ duyên được đọc Ngẫm Chiều trên trang facebook của bà.

Ngay từ những câu đầu của khổ đầu bài thơ, Ngẫm Chiều đã gây ấn tượng đặc biệt với người đọc qua những chấm phá khá độc đáo:

“tơ nhện thả mành

nà nuột

mưa rớt giọt

lộp độp hè cánh đỏ phượng rơi.”

Thơ tự do, phóng bút, không chú trọng vần điệu, không gò bó hình thức. Hình ảnh đẹp, lạ, gợi những nét huyền bí, liêu trai.

Tiếp theo, là: “Lòng rối bời/ Dạ rối bời”, chủ ý ngắt ra từ “lòng dạ rối bời” thành 2 câu riêng biệt, đồng nghĩa, để nhấn nhá, đẩy lên cao tâm trạng bồn chồn, sốt ruột, với ngổn ngang những lo lắng chồng chéo, đan xen, khó tháo gỡ, khiến bàn chân “liêu xiêu bước vội”. Nhịp thơ thật riết róng, dồn nén, ngắc ngứ, rưng rức xót lòng trong “chiều bời rối”, và những phảng phất nét cô liêu với đau đáu nỗi niềm “bàn chân ai lối về”, khiến người đọc cũng nghẹn lòng, thảng thốt:

“lòng rối bời 

dạ rối bời

lắng lo nỗi bòng bong rối

liêu xiêu bước vội 

bàn chân ai lối về.”

Tâm trạng hụt hẫng, xa xót được đẩy xa, sâu hơn, bởi những hình ảnh: “tóc xõa vạt chiều”, “bàn tay thõng”, “ngọn cỏ côi”... mang mang gam trầm buồn, của tâm trạng xáo trộn bất ổn, muốn thõng tay buông bỏ tất cả, quên đi tất cả, đã tạo nên một bức tranh sống động mà trầm mặc, u uẩn mà da diết.

Không chú trọng vào gieo vần, cứ thả cho mạch thơ tự nhiên trôi theo dòng cảm xúc nhưng nhà thơ Bùi Cửu Trường lại thật cẩn trọng khi chọn lựa, sắp xếp câu chữ, với những động từ: “hắt”, “xõa”, “rớt”, “vỡ”... được đặt đúng tâm trạng, đúng ngữ cảnh, khiến nỗi đời, nỗi người của cõi người đã đau càng đau se sắt, và đẩy câu thơ bay lên, thấm nhẹ nhàng vào trái tim người đọc:

“bàn tay thõng rớt niềm tin vụn vỡ

hạt đất buồn xa xót ngọn cỏ côi.”

Hai câu thơ thật hay, mà buồn, xót xa lắm.

Rồi, nhà thơ “Bỏ lại muộn sầu đi nhặt niềm vui/ hít hà hương lá”, để tĩnh tâm trước cõi người nơi trần tục còn lắm khổ lụy, phiền não, để buông bỏ nhẹ nhàng nhưng dứt khoát những tham - sân - si - ái - ố của chúng sinh mà gửi hồn vào “tiếng mõ cá quyện chiều lam khói/ chuông đồng vọng thinh không vòi vọi”, mà mong được an lạc nơi cõi Thiền.

Sắc - Sắc - Không - Không, đời người là bể khổ trầm luân, đạt tới “đời - mơ/ trong vắt” là đạt tới cảnh giới. Ước mơ đó đâu phải chỉ là của riêng nhà thơ Bùi Cửu Trường?!

Ngẫm Chiều là bài thơ với thi tứ hay và lạ, cách sử dụng từ ngữ khá độc đáo, nhất là cách nói ngược: nà nuột / cánh đỏ phượng / lắng lo / vụn vỡ / xa xót / muộn sầu / bộn bề / chiều lam khói... được dùng như là thủ pháp chính đã tạo ấn tượng thật đặc biệt với người đọc. Hay hay không hay là tùy thuộc vào cảm nhận của riêng mỗi người nhưng với người viết, thì NGẪM CHIỀU là một bài thơ hay, rất đáng đọc.  

*

Hà Nội, 17 tháng 06 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN    

 

ĐỌC: “MỢ HỮU”

CỦA TRẦN NHUẬN MINH

*

MỢ HỮU

 

Cậu xây xong nhà ba tầng

Người cứ dần dần héo quắt

Thế rồi một sớm tinh mơ

Cậu cứ lặng im mà mất

 

Cô bác từ quê ra viếng

Thấy mợ dịu dàng mảnh mai

Mà nhà thì to đẹp thế

Biết rồi sẽ về tay ai?

 

Em chồng mắt lườm miệng nguýt

Vô tâm mợ có thấy đâu

Thương cậu, mợ không biết khóc 

Thỉnh thoảng lại hờ một câu

 

Mợ khổ từ hồi tấm bé

Mong chi lầu trắng gác xanh

Cậu chết mợ thành người lạ

Bơ vơ trong chính nhà mình

 

Chẳng thiếu kẻ đe người ướm 

Nhà xinh mợ lại càng xinh

Như con thuyền nan không bến 

Lênh đênh trong chính phòng mình

 

Khách khứa dập dìu lá gió

Đêm đêm chớp bể mưa nguồn

Mắt mợ dần dần hoang vắng

Họ hàng mợ cứ quên luôn

 

Mợ đáng thương hay đáng trách

Trời ơi! Tách bạch làm chi

Dòng sông muôn đời vẫn thế 

Đục trong thì vẫn trôi đi

*.

Hải Phòng, năm 1990

TRÀN NHUẬN MINH

LỜI BÌNH:

Gần 20 năm viết sách và kinh doanh sách kiếm tiền, tôi không mặn mà tới mấy chuyện thơ văn nên khi dàn trang đưa bài “Trần Nhuận Minh - Thi Nhân “Sĩ Phu Bắc Hà”” lên trang blog Đặng Xuân Xuyến, tôi mới biết Trần Nhuận Minh là nhà thơ tài hoa. Chả trách, nhà thơ Chu Vương Miện ở tận Hoa Kỳ “say” ông đến “mê mẩn”.

Và cũng từ vô tình đó mà tôi biết, rồi thích bài thơ MỢ HỮU của ông.

Vâng. Tôi thích bài thơ Mợ Hữu đậm chất tự sự của Trần Nhuận Minh.

Mở đầu bài thơ, là lối kể chuyện chầm chậm, nhẩn nha, như để nén những cảm xúc sẽ ùa về, sợ sẽ làm vỡ chuyện về người cậu, người em của mẹ. Bốn câu thơ ở khổ thơ kể về người cậu thật giản dị, mộc mạc, hệt lối nói dân dã, chân chất của người chân quê. Chỉ thế thôi mà người đọc thấy được “Cậu” của nhà thơ là người “một nắng hai sương”, chỉn chu, căn cơ, chất phác. Từ “cứ” được sử dụng như một điệp từ, lặp lại 2 lần trong 4 câu thơ của khổ thơ như nhấn thêm, xoáy sâu thêm vào sự bất lực, xót xa trước sức khỏe có chiều hướng xấu đi trông thấy của người cậu. Hai từ “Thế rồi” ở câu thứ 3 thốt ra thật nhẹ, nghe như buông xuôi, như tuyệt vọng mà sức nặng ngàn cân:

Cậu xây xong nhà ba tầng

Người cứ dần dần héo quắt

Thế rồi một sớm tinh mơ

Cậu cứ lặng im mà mất

Sau khổ thơ tự sự thật nhiều cảm xúc về người cậu, nhà thơ bắt đầu kể về người mợ, bằng cách đặt hình ảnh “Thấy mợ dịu dàng mảnh mai” bên cạnh “Mà nhà thì to đẹp thế” để đẩy lên nỗi xót xa của “cô bác”, của những thân bằng quyến thuộc, dành cho người vừa mất: tài sản làm ra mà không được hưởng. Câu nghi vấn, cũng là câu cảm thán, của lối suy diễn bạc bẽo và đố kỵ của thói đời: “Mà nhà thì to đẹp thế/ Biết rồi sẽ về tay ai?”. Nghe sao mà chua xót!

Nỗi đau đời được Trần Nhuận Minh đẩy cao thêm: “Em chồng mắt lườm miệng nguýt”, làm đau hơn cái thế thái nhân tình bị sức mạnh vật chất chi phối. Thì ra, người ta đến đám tang người thân phần ít là vì đau xót, mà phần nhiều là vì ấm ức, đố kỵ, là ngóng kiếm chác từ khối tài sản kếch xù của người vừa mất, xác vẫn còn đang nằm trong quan tài giữa nhà. Thật là tàn nhẫn, bỉ ổi!

Hình ảnh “Em chồng mắt lườm miệng nguýt” làm ta nhớ tới mối quan hệ “chị dâu em chồng” vốn đã được mặc định chả tốt đẹp gì trong tiềm thức dân gian. Chỉ câu “Em chồng mắt lườm miệng nguýt”, Trần Nhuận Minh đã khắc họa mối quan hệ giữa “Mợ” và “Em chồng” rõ đang ở thế gầm ghè, căng thẳng, sắp chực trào vì sức hút của kim tiền, khiến ta chạnh lòng thêm về hình ảnh người mẹ rất thực dụng trong ca dao: “Em đã bảo mẹ rằng đừng/ Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.”.

Gia đình chồng (cô bác) thì như thế. Em chồng thì như vậy. Tất cả đều ghé mắt vào khối tài sản “Cậu” để lại mà hậm hực, mà đố kỵ. Còn “Mợ” thì sao? Nếu ở khổ thơ trước, Trần Nhuận Minh kể “Mợ” của ông đẹp về hình thức “Thấy mợ dịu dàng mảnh mai”, thì ở những khổ thơ này, ông kể về bản chất thật thà, chân chất của người mợ: “Vô tâm mợ có thấy đâu/ Thương cậu, mợ không biết khóc/ Thỉnh thoảng lại hờ một câu.”.

Và ông trần tình thêm về người mợ:

Mợ khổ từ hồi tấm bé

Mong chi lầu trắng gác xanh

Cậu chết mợ thành người lạ

Bơ vơ trong chính nhà mình

Đến đây, người đọc thấy nhói lòng, đau xót quá.

Câu ca dao “Cậu chết mợ ra người dưng” đã phũ phàng, đen bạc chốn dân gian nhưng qua sự kế thừa của Trần Nhuận Minh, ông đẩy sự tàn nhẫn, đen bạc đó cao lên thêm một bậc: “Cậu chết mợ thành người lạ”, bởi “người dưng” chỉ người ngoài, người không có quan hệ họ hàng, thân thích, còn “người lạ” chỉ người không hề quen biết, khiến hình ảnh người mợ “bơ vơ trong chính nhà mình” càng tăng thêm ám ảnh, đau xót.

Dường như quá bất bình với những đố kỵ, hẹp hòi từ những kẻ mượn danh người thân hòng sang đoạt tài sản của người mợ, từ những toan tính trục lợi của những kẻ cơ hội, nhà thơ đã chua xót lật tẩy thói đời khốn nạn của những kẻ lòng dạ nhơ bẩn, đau đáu vì tiền: “Chẳng thiếu kẻ đe người ướm/ Nhà xinh mợ lại càng xinh”; và cảm thán sự bất lực, lẫn cả sự bất hạnh của người mợ chân chất, hiền lành trước lũ người gian manh, đểu cáng khi mà người phụ nữ “chân quê” đó chỉ mong có được sự bình yên nhỏ nhoi với một hạnh phúc bình dị, giản đơn cũng không có được: “Như con thuyền nan không bến/ Lênh đênh trong chính phòng mình.

Nhà thơ tiếp tục đau xót với nỗi cảm thương cho người mợ bằng những dòng thơ viết về tận cùng nỗi cô đơn: “Khách khứa dập dìu lá gió/ Đêm đêm chớp bể mưa nguồn”; về nỗi đau âm ỉ của niềm tin, của tình nghĩa đã cạn kiệt, héo rũa: “Mắt mợ dần dần hoang vắng/ Họ hàng mợ cứ quên luôn”. Từ “cứ” lần nữa được nhà thơ sử dụng, như thêm một mặc định tất nhiên để cảm thông cho người mợ.

Rồi nhà thơ tự hỏi, tự vấn lòng mình: “Mợ đáng thương hay đáng trách”? Và kêu lên tiếng than, nửa như tự trách mình, nửa như trách cứ người đời: “Trời ơi! Tách bạch làm chi.”, để tiếp tục lại tự trấn an mình bằng triết lý có phần an phận, chấp nhận xuôi theo thói đời vô cảm như đã thành thông lệ, thành chân lý của dòng đời: “Dòng sông muôn đời vẫn thế/ Đục trong thì vẫn trôi đi.”

Bài thơ khép lại với một tiếng thở dài.

*

Hà Nội, chiều 07 tháng 09 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ”

CỦA NGUYỄN KHÔI

*

 XÓM CỎ

"Khóm tre già đợi gió đứng bên ao"

- Anh Thơ

(Tặng: Đặng Xuân Xuyến)

-------

 

Mơ... được bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ

Ngồi bờ đê hít thở với sông dài

Ngắm dáng con đò trước cầu cao ngạo nghễ

Bãi ngô non thấp thoáng bóng ai...

 

Ta là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị

Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm

Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá

Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên...

 

Ta muốn quên cái thời đang biến động

Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng!

Cánh đồng xanh đã thành Đô Thị Mới

Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!

 

Còn chút hẻo lẻ loi chòi Xóm Cỏ

Ta ra đây ngụ với Bác cu Bần

Nuôi vịt, trồng rau...xuống sông kéo vó

No cái mùi Hoa Cỏ nức hương xuân...

*

Bắc Ninh, 12 tháng 03.2016

NGUYỄN KHÔI

LỜI BÌNH:

Lẽ thường, người ta mơ "từ quê" được "ra tỉnh", để được sống không khí náo nhiệt, sầm uất nơi phố xá, thị thành, thì nhà thơ Nguyễn Khôi lại mơ bỏ phố về làng, ngược với lẽ thường của nhân thế:

Mơ… được bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ

Ngồi bờ đê hít thở với sông dài

Ngắm dáng con đò trước cầu cao ngạo nghễ

Bãi ngô non thấp thoáng bóng ai...

Nhà thơ tự nhận mình "là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị" nên mới mơ khác lẽ thường ở đời: "bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ", để được là:

Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm

Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá

Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên...

Những câu thơ đẹp, hàm súc và tươi tắn chất thôn quê.

Những hình ảnh lãng mạn mà khỏe khoắn, phóng khoáng mà dung dị đời thường của “Chàng Nhà Quê” đượm hồn quê trong giấc mơ quê. 

Tôi ngẩn ngơ với câu: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...”.

Nét tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi ở những câu thơ này là sử dụng câu chữ rất "đắc địa", đặt đúng vị trí, đúng hoàn cảnh, đúng ngữ cảnh, không thể xáo trộn, thay đổi. Ví như câu: "Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..." nếu bỏ hoặc thay chữ "trần" bằng một chữ khác thì hình ảnh "cánh tay trần" rất đẹp, gợi nét vạm vỡ, phong trần và đậm đặc chất đàn ông sẽ không còn nữa, câu thơ sẽ thiếu “lửa”, nhạt đi và kém hay. Hoặc nếu thay từ "cất" bằng một từ khác thì câu thơ: Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...” vốn hút hồn người đọc bởi hình ảnh thơ mộng, đẹp phóng khoáng kiểu Chử Đồng Tử an nhiên tự tại giữa bãi Tự Nhiên: “cất” cả ánh trăng lên...” sẽ không còn nữa, câu thơ cũng vì thế mà mất hay, hết duyên.

Ta đọc tiếp khổ thơ thứ 3 xem nhà thơ nói gì:

Ta muốn quên cái thời đang biến động

Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng!

Cánh đồng xanh đã thành Đô Thị Mới

Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!

Ồ. Thì ra nhà thơ mơ bỏ Phố Thị về Xóm Cỏ là xót xa vì sự đô thị hóa "lũy tre làng" nhanh quá, khủng khiếp quá, còn hơn cả tằm "ăn rỗi": “Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng”. “Mái rạ, bờ tre”, nét đặc trưng bao đời của làng quê Việt chỉ trong "chốc lát" đã biến mất. Câu “tắt lửa tối đèn có nhau” sâu nặng tình làng nghĩa xóm "ngoảnh đi ngoảnh lại" chắc cũng chẳng còn ý nghĩa. Nhà thơ xót xa, "muốn quên cái thời đang biến động" nhưng làm không được, khiến nhà thơ rưng lệ, ngậm ngùi: "Ở giữa quê như chẳng có Quê Hương?!"

Chẳng có đau xót nào lớn hơn khi "Ở giữa quê" mà "như chẳng có Quê Hương?!". Một dấu hỏi, một dấu chấm than đặt ở cuối câu như mũi khoan xoáy vào thẳm sâu nỗi xót xa khi nhà thơ phải chứng kiến sự đổi thay đang tàn phá chất quê, hồn quê của “cái thời đang biến động”.

Nhà thơ dồn liên tục, liên tục tâm trạng xót xa của kẻ cô đơn, lạc lõng bằng một loạt tính từ: "chút", "hẻo", "lẻ loi"... đặt liền nhau, đứng trong cùng một câu thơ, để sự cô đơn, nỗi bi thương, tuyệt vọng của kẻ vô gia cư ngay trên chính quê hương mình thẩm sâu vào trái tim người đọc. Ôi, đã "còn chút hẻo", nhà thơ lại bồi thêm hình ảnh "lẻ loi" của "chòi Xóm Cỏ" trong cùng một câu: Còn chút hẻo lẻ loi chòi Xóm Cỏ”, rồi nhấn nhá thêm bằng giọng ngạo nghễ, bông đùa: “Ta ra đây ngụ với Bác cu Bần.”. Khiến người đọc se lòng với những quặn thắt: Có ai thất thế ra nhập nhóm người vô gia cư lại thản nhiên như vậy? Có ai sa cơ "nhập hội" mấy "bác thằng bần” lại bỡn cợt như thế? Không. Đấy là nhà thơ đang cố mượn giọng bông đùa để bỡn cợt, giấu đi nỗi đau đang bóp nghẹt trái tim. 

Ở 2 câu cuối, ở khổ thơ khép lại bài thơ, nhà thơ lại vẽ tiếp một giấc mơ quê, một giấc mơ không thể đơn giản hơn nữa, không thể nhỏ bé hơn nữa bởi những hình ảnh trong ước mơ rất đời thường, đời thường đến lam lũ mà đau đáu những khát khao trong trẻo của hồn quê, chất quê:

Nuôi vịt, trồng rau...xuống sông kéo vó

No cái mùi Hoa Cỏ nức hương xuân...

Ôi, giấc mơ giữ lại chút hồn quê, chất quê của nhà thơ Nguyễn Khôi, hay đúng hơn là nhà thơ cất tiếng nói thay ước mơ giữ lại được chút hồn quê, chất quê trên mảnh đất thôn quê, của những người dân lam lũ mà nặng lòng da diết với quê hương, ở “cái thời đang biến động" này sao mà lệ mặn ngược vào tim?!

Bởi, là mơ đấy, là khao khát chỉ “tầm thường” thế đấy mà cũng e khó thành!

Ôi! Những giấc mơ quê trong thời đại kim tiền!

*

Hà Nội, chiều 23 tháng 09 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ

TRẦN MAI NGÂN

*

Thơ của Trần Mai Ngân là thơ của nỗi lòng. Hình như, chị mượn thơ chỉ để ghi lại Nhật Ký Nỗi Lòng nên thơ của chị gần gũi, dễ đi vào lòng người bởi đọc thơ chị. người đọc dễ “cảm”, dễ nhớ. Chị viết nhanh để ghi lại những cảm xúc thật của mình nên những câu thơ của chị rõ là của chị, không chịu ảnh hưởng cúa ai, cứ nhẹ nhàng đằm thắm, nhẹ nhàng chịu đựng, nhẹ nhàng hy sinh (có lẽ) như chính con người của chị.

Đọc những câu thơ:

- “Tôi đi nhặt lấy phù du

Trần gian một cõi mịt mù chơi vơi

Tôi tìm trong chiếc lá rơi

Phận người với cả một đời hư hao”

(Phù Du)

- Ngồi buồn xòa ngón tay hao

Đã đan trong gió đã nhòa trong mưa

Gần xa cũng đã từng chưa

Ngón tay đeo nhẫn như vừa chơi vơi.

(Ngồi Buồn Bấm Đốt Ngón Tay)

- Gió chiều, chân vội bước qua

Chỗ cười, chỗ đứng đã là ngày xưa

Mười Hai trời chẳng thôi mưa

Tiễn Thu hay tiễn tôi vừa hôm nay!”

(Tiễn Thu 2)

người đọc thấy trân quý cuộc đời hơn dù những câu thơ ấy viết về sự cô đơn, về nỗi xót xa vì những dang dở chuyện tình, bởi thơ ấy không hề bi lụy, tiêu cực mà chỉ nhẹ nhàng dâng kín nỗi buồn, rồi nhẹ nhàng buông bỏ để người thơ trở về với những gì là của mình, thuộc về mình.

Tôi thích thơ chị, có lẽ cũng từ những câu thơ hay và tinh tế như thế.

Hôm nay, đưa thơ chị lên trang blog Đặng Xuân Xuyến, không hiểu lý do gì mà 3 lần tôi lập cập làm hỏng, cứ phải dàn trang lại. Vì đặc thù riêng (một phần do thiết kế) nên thời gian dành cho việc đưa bài lên trang blog Đặng Xuân Xuyến thường tốn khá nhiều nên tôi bực, định xóa hẳn bài nhưng tiếc công sức đã bỏ ra nên nán làm lại, vì thế mà tôi đọc kỹ bài thơ GIẬN của chị. Tôi bật cười với suy nghĩ: Thảo nào tên bài thơ là Giận!

Và cặm cụi ngồi gõ đôi dòng về Giận cả về thơ của chị:

GIẬN...

 

Cứ một lần giận dỗi

Là thêm một cách xa

Mà em luôn nói dối

Không sao...em ổn mà!

 

Cứ một lần im lặng

Không nhìn nói với nhau

Làm tim em băng giá

Một mình âm thầm đau 

 

Thêm một lần... lần nữa

Có chắc còn lần sau

Ngày mỗi ngày hờ hững 

Nên tình đành xa mau...

 

Canberra trắng màu

Mây trôi xa xôi quá 

Em nhủ lòng quên đi

Chuyện đôi ta ...còn gì? 

*

Canberra, 25 tháng 08.2018

TRẦN MAI NGÂN

Vâng. Thơ Trần Mai Ngân là thế. Cứ thẳng tuột với những suy nghĩ của mình, chẳng cần chọn lựa câu chữ bóng bảy, chẳng cần rào dậu chắn be. Sự thẳng tuột ấy chỉ là chị tự nói với lòng mình, tự lẩm bẩm với nỗi buồn đang xâm kín lòng mình, sự nhẹ nhàng ấy rất phụ nữ Miền Tây:

Cứ một lần giận dỗi

Là thêm một cách xa

Biết là giận dỗi là căn nguyên của sự “cách xa” nhưng chị không giãi bày, không phân tỏ mà chỉ âm thầm chịu đựng, âm thầm để níu giữ:

Mà em luôn nói dối

Không sao... em ổn mà.

Câu: “Không sao... em ổn mà!” nghe như tiếng nấc đang được chị cố ghìm lại.

Chị tiếp tục thật thà với nỗi ấm ức đầy vơi của mình, bằng những câu không thể đời thường hơn, không thể thật hơn, cứ như chị bê nguyên xi nỗi ấm ức, hờn tủi của chị bằng những câu nói thường nhật trong cuộc sống vào thơ mà chẳng cần cầu kỳ gọt rũa, chẳng cần chọn lựa kỹ câu từ. Vì thế mà chuyện của chị, thơ của chị thật lắm, đời và dễ chạm vào lòng người:

Cứ một lần im lặng

Không nhìn nói với nhau

Làm tim em băng giá

Một mình âm thầm đau

Biết là sức chịu đựng của con người có giới hạn nên khi đối diện với lòng mình, chị lắng hỏi lòng mình, và cũng là tự nhủ với lòng mình: "Thêm một lần... lần nữa/ Có chắc còn lần sau". Biết sự nhường nhịn ấy, cam chịu ấy rồi cũng sẽ không đem lại kết quả tốt đẹp, nhưng chị lại buông xuôi, bất lực, tiếp tục cam chịu “thêm một lần”, rồi lần nữa, “lần nữa”... để chấp nhận sự đổ vỡ, chia ly: “Ngày mỗi ngày hờ hững/ Nên tình đành xa mau...”, thì thật là một bi kịch.

Nhẫn nhịn và bất lực trước cuộc tình sắp tan vỡ là tư tưởng yếm thế của một phụ nữ cam chịu xuyên suốt bài thơ.

Đọc bài thơ, không thấy hình bóng ai ngoài hình bóng chị, được mặc định bởi nhân vật "em" đang thủ thỉ kể chuyện tình buồn của mình. Cũng không biết căn nguyên những lần giận dỗi từ đâu, sự giận dỗi ở mức nào mà chỉ thấy hình ảnh nhẫn nhịn, cam chịu của chị, với những tâm sự của riêng chị, cũng rất chung chung, mơ hồ, khiến người đọc dù mến thương, cảm thông với nhân vật "em", vẫn buông tiếng thở dài, nhẹ nhàng trách cứ: "tại anh tại ả, tại cả đôi đường.".

Dù thế, thì "Giận" vẫn là bài thơ nhiều cảm xúc, cuốn hút người đọc bởi sự chân thành trong từng câu chữ của người viết.

Vâng! Thơ của Trần Mai Ngân là thế, là thơ của nỗi lòng, là tấm gương phản chiếu chân thực cuộc sống mà nữ sĩ Trần Mai Ngân đã trải qua, đã cảm nhận và đối diện.

Tôi thích những câu thơ buồn nhẹ nhàng nhưng lại rất sâu, rất thấm, kiểu:

Xa nhau, ừ nhỉ xa nhau vậy

Vá víu trăm năm một nụ cười

Mắt đã rời xa không trở lại

Lúc ở cạnh nhau đã vắng rồi.

(Khắc Vào Gió)

Nhưng tôi mong lắm được đón đọc những bài thơ tươi rói nụ cười, những niềm tin rạng ngời về sự vẹn tròn, đủ đầy của tình yêu chung thủy như mái ấm gia đình mà chị đang có, về những hạnh phúc lứa đôi mà tôi thấy đã có nhưng chưa nhiều trong thơ của chị. 

*

Hà Nội, 27 tháng 09.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “QUÊ TRONG PHỐ”

CỦA NGUYỄN XUÂN MÔN

*

Lang thang dạo facebook, tôi “gặp” “Quê Trong Phố” của nhà thơ Nguyễn Xuân Môn. Bài thơ chỉ sau vài ngày “xuất xưởng” đã nhận được lời tán thưởng và chia sẻ của nhiều bạn đọc trên facebook: 892 lượt thích, 166 bình luận (hầu hết là lời ngợi khen) và 8 lượt chia sẻ. Những con số thật ấn tượng.

Phần vì tò mò, phần vì cũng đã từng đọc và thích thơ của ông nên tôi chầm chậm đọc để hiểu “Quê Trong Phố” của Nguyễn Xuân Môn.

QUÊ TRONG PHỐ

 

Văng sang từ phía nhà bên 

Tiếng gà gáy vỡ toác đêm thu tàn

Sớm mai tia sáng nằm ngang

Khói bay nghiêng sợi khẽ khàng luồn sương

 

Ánh đèn đêm phố còn vương

Còi xe đã xé rách đường tả tơi

Lắng tai nhặt tiếng chim rơi

Tiếng kêu của là úa rời cành đau

 

Nhớ quê sân thượng trồng cau

Trầu… không: Vẫn thả dây trầu “neo” quê

Thích "hương"… bùn - mặc người chê

Cá kho niêu, vại cà thề hợp ngon

 

Quê từ cha “nhiễm” sang con

Trát ngoài “phấn” phố vẫn còn quê trong

Người quê ở phố, quê… bong?

Tôi "quê" trong phố bởi lòng có quê!

*.

Tháng 10 năm 2018

NGUYỄN XUÂN MÔN

Ngay từ những câu thơ đầu, nhà thơ đã sử dụng từ ngữ, hình ảnh “độc đáo” và táo bạo, không nền nã như "tạng" của thể thơ lục bát:

Văng sang từ phía nhà bên 

Tiếng gà gáy vỡ toác đêm thu tàn

"văng" tiếng gà gáy làm "vỡ toác đêm thu tàn".

Là "văng" chứ không phải là "vẳng", là thô ráp, trần trụi của “vỡ toác đêm” chứ không phải là trong trẻo của một sớm mai yên bình, tinh khiết. Một sự “thưởng ngoạn” tiếng “gà gáy sáng” rất khác lạ.

Và hình ảnh "sớm mai" cũng trái ngược với lẽ thường, vì người ta hay nói "tia nắng xiên xiên", còn nhà thơ Nguyễn Xuân Môn thì viết: “Sớm mai tia sáng nằm ngang”. Một “sớm mai” thật khác lạ! Bởi, thường thì “tiếng gà gáy” sáng chỉ có ở thôn quê nên “tia sáng nằm ngang” - tia sáng được khúc xạ bởi một góc nghiêng chừng 30 độ so với phương nằm ngang - nghe chừng không hợp lý. Thế nhưng tiêu đề bài thơ là "Quê Trong Phố" thì đích thị "tiếng gà gáy" ở trong thành phố. Có lẽ là ở vùng giáp ngoại ô? Sở dĩ tôi nêu những thắc mắc như vậy là vì mấy chục năm sống ở thành phố Hà Nội, tôi không hề nghe được "tiếng gà gáy sáng". Mà đã là "tiếng gà gáy" sáng ở thành phố thì "tia sáng nằm ngang" có thể chấp nhận vì tính hợp lý: ánh sáng được khúc xạ bởi những ngôi nhà cao tầng.

Hình ảnh "Khói bay nghiêng sợi khẽ khàng luồn sương" của một "sớm mai" yên bình và mộng mơ đã bị phá vỡ bởi những vội vã, cấp tập của cuộc sống nơi đô hội, thị thành:

Ánh đèn đêm phố còn vương

Còi xe đã xé rách đường tả tơi

Lắng tai nhặt tiếng chim rơi

Tiếng kêu của lá úa rời cành đau

Phải thừa nhận ở khổ thơ này (và cả ở khổ thơ đầu), nhà thơ Nguyễn Xuân Môn đã bỏ ra khá nhiều công sức cho việc tìm tòi, sáng tạo ngôn từ để có được những câu thơ gợi cảm, hình ảnh độc đáo, thể hiện sự nghiêm túc trong lao động và sáng tạo, nhưng có là quá lời chăng khi người đọc lại cảm thấy dù nhà thơ đã cố gắng thể hiện nỗi lòng bằng những câu thơ kỳ công trau chuốt thì những câu thơ đó cũng chỉ như những vật trang sức bóng bảy, phù phiếm vì chúng lạc lõng, chẳng hề ăn nhập với cấu tứ của bài thơ:

Lắng tai nhặt tiếng chim rơi

Tiếng kêu của lá úa rời cành đau

Nếu đấy là nói về sự đô thị hóa đã tàn phá làng quê, “hồn” quê, “chất” quê thì tâm trạng ấy, đau xót ấy hợp lẽ, hợp cảnh nhưng đây là những hoạt động thường nhật ở nơi phố xá, thị thành thì sự náo nhiệt, hối hả, thậm chí là xô bồ, đôi khi đến nghiệt ngã hơn thế cũng là phải, cũng là điều dễ hiểu. Đâu cần nhà thơ phải nức nở, đớn đau như thế?! Vô tình, ở những câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Xuân Môn đã đẩy tâm trạng xót xa của “nhân vật trữ tình” quá lên, chẳng hề ăn nhập gì với cấu tứ bài thơ, khiến người đọc thơ cho là sáo rỗng, phù phiếm, thậm chí còn thốt lên: Thật chẳng đâu vào đâu.

Hai khổ thơ cuối được viết với kết cấu lỏng lẻo, ý tứ nhạt nhẽo, nhất khi ông cố dụng tâm “chơi chữ” ở khổ thơ kết, nhằm làm nổi bật tình yêu quê hương sâu đậm trong tim:

Quê từ cha “nhiễm” sang con

Trát ngoài “phấn” phố vẫn còn quê trong

Người quê ở phố, quê… bong?

Tôi "quê" trong phố bởi lòng có quê!

nhưng cách sử dụng từ ngữ cẩu thả, thiếu cân nhắc, việc chọn lựa hình ảnh cũng hời hợt, tùy tiện,... đã khiến dụng tâm của ông thất bại. Đơn cử, tình quê hương là thiêng liêng, là sâu lắng trong trái tim mọi người, nhưng đọc câu: “Quê từ cha “nhiễm” sang con”, người đọc cảm thấy ớn lạnh khi nghĩ đến nghĩa của những cặp từ: lây nhiễm, truyền nhiễm, ô nhiễm... Khiến người đọc nghi ngại đặt dấu hỏi: Yêu quê sao lại rẻ rúng tình quê như thế? Nếu ông cẩn thận một chút, chả cần cầu kỳ đến mức trau chuốt như khi ông chọn lựa ngôn từ, hình ảnh cho mấy khổ thơ đầu, chỉ đơn giản là ví dụ ông dùng từ “thấm” hoặc từ ngấm” thay cho từ “nhiễm”: “Quê từ cha “thấm” (ngấm) sang con”, là được.

Thơ của ông tôi đã đọc và cũng thích một số bài nhưng những câu thơ nhạt nhẽo, thô kệch như: “Quê từ cha “nhiễm” sang con/ Trát ngoài “phấn” phố vẫn còn quê trong”, hay: “Thích “hương”... bùn mặc người chê/ Cá kho niêu, vại cà thề hợp ngon”... đã ít nhiều giảm sự yêu thích thơ ông trong tôi và khiến “Quê Trong Phố của ông, của nhà thơ Nguyễn Xuân Môn thành...  kém duyên.

*

Hà Nội, chiều 21 tháng 10 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC

LÃO GÀN CHỬI QUAN THAM

*

Xin Chửi Một Phát Hạ Hỏa” là bài thơ 5 chữ của nhà thơ Nguyễn Xuân Lộc, sáng tác năm 2015, nhân sự kiện ông Cầm Ngọc Minh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn La có “tâm tư”: “Chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôi”.

Bài thơ như một cái tát, giáng thẳng vào mặt lũ quan tham, lũ người mà nhân dân miệt thị và căm phẫn gọi là “cẩu quan”.

XIN CHỬI MỘT PHÁT HẠ HỎA

 

Lại tượng đài ngàn tỉ

Trời ơi! Thuế của dân

Cụ Hồ mà sống lại

Chắc phải bị tâm thần.

 

Thằng chó nào phê duyệt

Những dự án tào lao

Một đời ông giản dị

Biết phô trương lúc nào?

 

Chúng bay học tập Bác

Thì học được thứ gì

Cần kiệm và liêm chính

Sao chúng bay vất đi?

 

Kiếm ăn trên thân xác

Một người đã chết rồi

Lại nhân danh cộng sản

Khốn nạn thế thì thôi!

 

Lâu rồi không muốn chữi

Nghĩ đàn gãy tai trâu

Nhưng làm sao cất được

Cục tức ở trong đầu .

 

Rặt một phường xỏ lá

Lên giọng dạy người ngay

Ông cụ nằm trong đó

Đau lắm bởi chúng mày.

 

Vì tiền làm những chuyện

Hại nước rồi hại dân,

Thương cụ mà như thế

Hơn hại cụ ngàn lần.

*.

NGUYỄN XUÂN LỘC

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đi thẳng vào vấn đề: “Lại tượng đài ngàn tỉ” với tiếng kêu căm phẫn: “Trời ơi! Thuế của dân”. Và chẳng cần lịch sự, ông chỉ mặt và gọi thẳng bọn quan tham là "thằng chó". Đấy không chỉ là sự miệt thị mà còn là sự căm phẫn đến tột cùng của ông, của triệu triệu người dân đất Việt dành cho lũ quan tham:

"Thằng chó nào phê duyệt

Những dự án tào lao

Một đời ông giản dị

Biết phô trương lúc nào?"

Hệ thống truyền thông rần rần những ngợi ca đức tính giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công của cụ Hồ. Báo đài của Đảng - Nhà nước cũng rầm rộ kêu gọi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân quyết tâm "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại'. Tiêu tốn biết bao tiền thuế của dân vào cuộc vận động "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại'', ấy thế mà lũ quan tham chẳng học được gì để “vì dân vì nước”, mà chúng chỉ chăm chăm nghĩ ra những chiêu trò đục khoét, cướp bóc của dân, thỏa chí 'vinh thân phì gia'. Chúng nghĩ ra trăm nghìn “dự án tào lao” để chia chác “lợi ích”, tàn phá đất nước, bất chấp lòng dân uất hận. 

Xót xa khi liên tưởng tới cuộc đời thanh bạch, giản dị của cụ Hồ: “Một đời ông giản dị/ Biết phô trương lúc nào?”, nhà thơ thẳng thắn chất vấn lũ quan tham: "Chúng bay học tập Bác/ Thì học được thứ gì", khi mà: “Cần kiệm và liêm chính/ Sao chúng bay vất đi?".

Ông chua xót chỉ ra lũ quan tham là hiện thân của một bầy kền kền:

"Kiếm ăn trên thân xác

Một người đã chết rồi

Lại nhân danh cộng sản

Khốn nạn thế thì thôi!"

Có lẽ ông không thể ngờ những con kền kền ấy lại "kiếm ăn trên thân xác" của chính người mà chúng đã tôn thờ, đẩy lên thành bậc thánh nên lời thơ của ông chứa đầy sự uất hận và mai mỉa.

Lũ kền kền ấy đã nghĩ ra đủ chiêu trò để đục khoét ngân khố quốc gia, bòn rút cạn kiệt tiền thuế của dân: xây tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng, xây Quảng trường Hồ Chí Minh... Chúng trắng trợn và tởm lợm đến mức tị hiềm nhau giữa “quốc dân đồng bào”: "chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng tôi" vì nếu xây dựng tượng đài cụ Hồ thì những khoản "chia chác" đút túi sẽ không nhỏ, sẽ chả kém gì dự án "bột nở" - dự án nạo vét sông Sào Khê (Ninh Bình) đội vốn gấp 26 lần: từ 72 tỉ lên 2.600 tỉ.

Đấy mới là mục đich của chúng!

Chúng cần gì quan tâm đến cuộc sống của người dân đang lầm than, cơ cực:

"Tôi nghe...

Đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi 

Ba năm tới trường bằng mượn áo rách của anh

Bà Lò Thị Phanh

Bệnh viện trả về

Không tiền thuê xe

Xác cuốn chiếu 

Gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số."

(Tôi Nghe - Đặng Xuân Xuyến)

Dặn lòng nhẫn nhịn vì nghĩ "đàn gảy tai trâu", nhà thơ Nguyễn Xuân Lộc cũng tựa như triệu triệu người dân đất Việt nhẫn nhịn mọi chuyện để an phận với cuộc sống ấm ức, bị chặn đầu cướp đuôi. Sai lầm của ông, của tôi, của nhiều người dân lương thiện là đã "tặc lưỡi" cho qua "mọi chuyện" mà không biết rằng lũ quan tham ma mãnh lắm, xảo trá lắm, độc ác lắm. Chúng rành rẽ mọi chuyện, chúng giỏi “công tác dân vận”, chúng sành về tâm lý và "chiến tranh tâm lý" nên chúng làm được những chuyện "kinh thiên động địa", những chuyện táng tận lương tâm - những chuyện mà người lương thiện không bao giờ dám làm.

Ông vạch mặt, chỉ đích danh lũ chúng là phường xỏ lá, kệch cỡm, là lũ vì tiền mà bán linh hồn cho quỷ, hại nước hại dân:

"Rặt một phường xỏ lá

Lên giọng dạy người ngay"

Và trầm giọng:

“Ông cụ nằm trong đó

Đau lắm bởi chúng mày.”

Rồi kết luận:

“Thương cụ mà như thế

Hơn hại cụ ngàn lần.”

Tôi nghĩ, ở 2 câu kết này nhà thơ Nguyễn Xuân Lộc đã sai vì lũ quan tham ấy, lũ kền kền ấy nào có thương xót cụ Hồ. Chúng chỉ lợi dụng tên tuổi Cụ, uy danh Cụ để hợp thức hóa việc trấn cướp tài sản của đất nước, bòn hút xương máu của nhân dân. Có lẽ, bài thơ không nên có khổ thơ thứ 7 thì sức chiến đấu sẽ cao hơn.

Dẫu vậy, thì đây là một bài thơ rất đáng đọc.

*

Hà Nội, chiều 26 tháng 10 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THẦY PHONG THỦY BÙI ĐỒNG

VÀ NHỮNG COMMENT BÌNH THƠ

*

Trên trang facebook cá nhân, ngày 28 tháng 10 năm 2018, tôi viết vài dòng kệ:

Ngẫu hứng bình thơ thiên hạ

Tấm lòng thấu cảm bật ra

Dở hay mặc người bình bán

Cứ là hồn nhiên như tiên

Là mấy dòng khái quát về thầy phong thủy Bùi Đồng, người bình khá nhiều thơ của bạn bè trên facebook dưới dạng những dòng comment.

Ông bình thơ rất ngẫu hứng và lời bình của ông phiêu diêu, lãng tử. Chất ngẫu hứng trong lời bình của ông đậm nét hương đồng gió nội, và cảm xúc thì tuôn trào theo mạch, tự nhiên, không bị lý trí cầm cương, chỉ đạo nên chất lãng tử trong câu chữ của ông mang nét dân dã, nhiều khi phảng phất chút yếu tố tâm linh huyền bí, nhưng lại rất tự nhiên, không hề gượng ép. Ông bình thơ bằng những rung cảm bất chợt xuất hiện từ những câu chữ của thơ, dẫn giải những rung cảm đó bằng ngôn ngữ đời thường, không cố tạo dáng khoe mẽ bằng những câu từ ra vẻ bác học, hiện đại nên người đọc tiếp nhận lời bình với tâm trạng nhẹ nhõm, thoải mái. 

Khi đọc bài “Hơi thở của núi rừng trong bài thơ CHUNG”, nhà thơ Yên Sơn đã gửi thư qua email (yenson68@gmail.com) tới tôi: “Một bài bình thơ rất độc đáo. Độc đáo ở chỗ thấy được cả những hoang sơ, hồn nhiên trong hơi thơ của nhà thơ; không như những "nhà bình thơ thiên tài" ưa đem cái tôi của mình áp đặt vào thơ người khác đến nỗi đọc xong chả hiểu là nhà phê bình văn học tài ba ấy nói cái gì! Xin cám ơn anh Bùi Đồng.”

Ông bình thơ cũng lạ lắm. Chả cần quan tâm tới tác giả bài thơ là ai? Cũng chả cần biết bài thơ đó đã có ai bình chưa? Và bài bình đó hay dở thế nào? Thích bài thơ thì ông bình, viết như vội chép để kịp ghi lại những cảm xúc bất chợt xuất hiện khi đọc thơ. Thế thôi!

Hãy nghe ông thổ lộ:

Ta bỗng dưng không còn là mình nữa, ta bị thơ ngấm đẫm, ta bị thơ chuốc say... để buồn không ra buồn, say chả ra say của trạng thái ngộ tình.

Gió thốc ngược gối giường trống vắng

…...

Đông mình em / cây đường lập cập

Đông mình em / sương muối buốt khuya 

Đến đây người đọc lại bị dụ vào tử huyệt lần nữa. Mặc dù biết thiếu phụ một mình rồi nhưng lặp từ: “đông mình em” làm dâng lên sự cô đơn đến chua xót tàn khốc. Cái cây run lập cập kia, làn sương muối đùng đục buốt giá ấy có khác nào tâm trạng người? 

Bất giác ta nhớ bài ĐÊM ĐÔNG và lần nữa buông tiếng thở dài đồng cảm.”

(Gọi Đêm Trở Gió - Bài thơ hiếm lạ của Bùi Cửu Trường)

Có lẽ, vì không phải là nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, cũng không thích bị gán danh là người viết phê bình văn học nên ông không quan tâm tới việc mài rũa câu từ, trau chuốt văn phong cho nhuần nhuyễn, cho có dáng dấp của lối "văn chương bác học", cũng không mấy câu nệ chuyện khen chê của bạn đọc nên ông bình thơ theo cảm hứng ngẫu nhiên, say như “lên đồng”.

Những bài (đúng ra là những comment) bình thơ của ông rất ít khi bàn về nghệ thuật thi pháp mà thường là những khám phá, những rung cảm của ông trước vẻ đẹp nằm sâu trong ngữ nghĩa, ý tứ của bài thơ. Chẳng thế mà khi nhà thơ Phạm Đức Nhì nhận xét tác giả Bùi Đồng “bình thơ mà không bàn thi pháp”, ông đã nhã nhặn vài dòng comment: “Đọc thơ nó thú ở cái ý tứ, ngữ nghĩa trước đã và thích thì cứ tuôn cái cảm giác ấy để chia sẻ với tác giả và bạn thơ thôi (tạm gọi là bình thơ). Phạm Đức Nhì thì thưởng thơ bằng cách nhấm nháp, nhâm nhi, soi kỹ một cách có tình và nghiêm khắc. Có nhiều phát hiện mới đáng để học qua bài viết của anh. Thôi thì, cứ vậy đi, mỗi người đều thể hiện cái thấy, cái tình của mình, theo cách của mình cũng đáng trân trọng lắm chứ.”

Ông cũng rất thẳng thắn, không câu nệ khi viết comment dưới những bài thơ, những bài bình thơ của bè bạn trên facsebook. Ví như, khi đọc nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường bình bài thơ “Hương Quê”, mặc các nhà thơ, nhà văn: Đồng Thị Chúc, Bùi Thị Sơn, Châu Thạch,... ưu ái comment khen tặng, ông ‘phê’ thẳng tưng: - “Hương cốm duyềnh lên? Từ duyềnh này chỉ sự dâng lên đột ngột của nước biển, mà hương cốm chỉ phảng phất, ý tứ, mơn man tỏa lan thôi, sao thô bạo tràn sang nhà hàng xóm.... Tác giả đã tầm thường hoá hương cốm mất rồi. Nếu không có lỗi này thì bài thơ hoàn hảo, đáng nhớ.”, khiến nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường ái ngại, tế nhị gửi tôi tin nhắn: - “Cháu xin lỗi bác Bùi Đồng hộ cô vì DUYỀNH là chữ đầu tiên ĐẬP VÀO MẮT, làm cho bài thơ này khác lạ và tạo nên cái tưng tửng khó chịu cho người đọc đấy... hihiiii...". Tôi đã trả lời bà: - “Cô ơi, chú Bùi Đồng là người trực tính nhưng rất tốt. Nhận xét đó tuy có phần chủ quan nhưng xuất phát từ chữ TÂM cô ạ.”

Vâng. Ông là thế. Thẳng thắn viết comment cảm hứng “tức thì” dưới những status là thơ hoặc bình thơ của bè bạn. Ông viết những comment đó chỉ để giải tỏa tâm trạng “bức bách” trước sức hút từ câu, chữ của bài thơ, không phải để “phê bình” hoặc “lý luận” về thi pháp, tư tưởng... của bài thơ, của tác giả thơ nên ông không mấy quan tâm tới phản ứng của người đọc.

Ông nương cảm xúc theo ngữ, nghĩa của câu chữ để "luận", để "tán" cảm xúc đang hưng phấn, nhưng có lẽ vì thích thì ghi lại mạch cảm xúc đang tuôn trào nên những comment của ông thường ngắn gọn, súc tích và luôn tạo cảm giác “thòm thèm” nơi người đọc. Ví như khi ông viết comment dưới bài thơ NHỚ của Hoàng Ngọc:

Đêm chưa qua, mà ngày chưa tới.

Trong cái chạng vạng như buổi hỗn mang của càn khôn thiên địa. Thì nỗi nhớ mang tầm vũ trụ của một tinh vân với tinh cầu cũng bao la lắm, như giọt nước mắt của ngọn bạch lạp cứ lắt lay và nhỏ giọt rồi lắp đầy tâm khảm. Đọc lướt thì như vậy nhưng ngẫm kỹ lại thấy tầm vóc của nỗi nhớ nỗi nhớ nối hai bờ quá khứ, hiện tại. “ngọn nến hồ tàn còn nhỏ lệ. Thân tằm đến chết vẫn vương tơ”

Tự nhiên nhớ đến vần thơ cổ cũng khẩu khí na ná như thế . 

Trăng chẳng ngủ bao giờ, ở nơi đó có khi nào con thao thức...như ta???

Ta lo lắm, nếu một ngày nào đó con chót chạm vào giấc mơ thì với bản lĩnh, thần lực như con liệu có thể theo kịp cái mênh mông, bao la như một hố đen cuốn hút để rồi biến mất trong cõi uyên nguyên ngàn trùng ấy không? 

Lo lắm, nỗi lo của từ mẫu, của sư phụ mãi dõi theo người con của nhân duyên, thiên định. 

Đọc bài thơ thấy rõ sự chông chênh hiếm có của Hoàng Ngọc trong lúc đất trời chuyển mình khi âm chưa qua, dương chưa tới. 

Thật khó ngờ!”

Không ít những comment ngắn gọn, súc tích, phảng phất chút phiêu diêu giữa cõi thực với cõi hư vô như thế. Và chính từ những comment “kiệm lời” ấy, ông như đã thổi vào câu thơ, bài thơ thêm luồng sinh khí để câu thơ, bài thơ thêm tươi tắn, hay hơn, đẹp hơn. Phải chăng ông đã đạt tới cảnh giới ngay trong cả những comment?!

Không dùng những câu chữ mỹ miều để phong tặng cho các tác giả thơ, cũng không cao giọng chỉ trích người viết thế này, thế kia, ông công tâm ghi nhận những thành công của họ, những sáng tạo của họ, tuy có kiệm lời nhưng lời văn nhã nhặn, chân thành, đủ ý, đủ tình trong những đánh giá ấy đủ làm ấm lòng người đọc và ấm lòng cả người sáng tác.

Xin trích dẫn vài trường hợp để bạn đọc tham khảo:

- “Thật đắt, thật người, với cái gió heo may se lạnh, chính gió cũng không tin mình nữa, chính gió cũng khẽ khàng, rón rén vì sợ cái lạnh của nhiệt độ thấp và cả cái lạnh tê tái của cõi lòng buốt giá. Gió là ta, hay ta là gió? 

Để heo may rụt rè hoá thành gió rét. 

Hay thật. Câu thơ làm mọi người bất ngờ phát hiện ra tác giả đã chín.

Thơ Đinh Sỹ Minh khác trước rất nhiều, thay vì dàn trải, kể lể thì nay cô đọng, chắt chiu từ ngữ, tập trung vào cảm xúc mà không bị gò lại bởi vần điệu, ước lệ nữa.

Đã thấy phong cách riêng của Đinh Sỹ Minh rõ nét hơn.”

(trích: comment bài thơ LỬNG THU của Đinh Sỹ Minh)

- “Tất cả biến ảo vô hình. Khi nhìn ra chân lý như ngọn đèn bùng lên lần cuối và tự an ủi cho một khoảng thời gian ngây ngô dại khờ, ngọt ngào và đắng chát đan xen, thì:

Tháng ba sấm dậy

Tháng năm lúa sây bông 

Tàn thu, lụi đông

Năm sót lại đen xì đêm củ mật.

Chẳng có sự thay đổi, lột xác để trưởng thành hơn mà không có đau đớn. Vẫn hơi thơ, mạch dứt khoát, cô đọng như một câu thành ngữ và cách dùng từ dân dã đã làm người đọc thú vị và bị cuốn hút. 

Tác giả đã chín rồi và cách quan sát, hoài niệm, cách dùng hình ảnh thật chắc chắn làm cho bài thơ sống động và chạm vào khoảng riêng tư của tình người làm họ trân trọng.”

(trích: Vài cảm nhận về bài thơ “Yêu Và Không Yêu”)

- “Đọc thơ Trần Thị Bảo Thư phải nhắm từ từ, phải thật tĩnh mới ngấm được cái men lìm lịm chất đời.

Rượu tàn, tàn cả trăng khuya

Tìm nhau gai xước đầm đìa dấu môi

Đốt lên rưng rức khói đời

Tiễn nhau cũng chỉ một thôi đoạn trường 

Bài thơ đã được đẩy lên cao trào, thần thơ xuất hiện, trăng tàn, rượu tàn, khói đời rưng rức, kệ gai xước, dấu môi cứ đầm đìa... một loạt tính từ bạo dạn, nhuần nhuyễn kết hợp tài tình làm nên hồn thơ mạnh mẽ. Đến đây bỗng thèm có một tri nhân để mà say như vậy.” 

(trích: Đọc “Vô Hình Bỉ Ngạn” của Trần Thị Bảo Thư)

- “Bài thơ hay ở chỗ dùng từ, đọc lên người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với tâm cảnh, hồn người nên cứ thấy hay.

Điều đặc biệt là bài thơ không thể chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô đọng. Đặc biệt hơn là cả bài không có đại từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy mình trong đó và đó chính là thủ pháp "hỏa mù" chả ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của tác giả...

Ồ! Mà lạ chưa: tâm động qua một cái nhón chân thi vị.”

(trích: Một cái nhón chân... thật lạ)

-           “Quay về nhón hạt thóc cười 

Vểnh nghe trâu ợ ra lời rạ rơm

(...) Tác giả thấy hạt thóc cười (tách mầm) qua cái nhón tay vô thức mong manh mà được cả một nụ cười của ngũ hành, vũ trụ: thành trụ hoại diệt! (thông qua cái nhón tay và hạt thóc tưởng như vô hồn)

Văn Thuỳ là vậy, vừa giống thiền sư, vừa giống bác nông dân mộc mạc, chân chất... lang thang, cần mẫn trên thửa ruộng đời bề bộn. 

Con trâu là đầu cơ nghiệp nhưng tác giả nghe cả tiếng chóp chép nhai lại để: ợ ra lời rạ rơm! 

Câu thơ xuất thần, hiếm gặp! Cái ợ hơi với nhiều người đọc vội sẽ thấy thô thiển nhưng đọc kỹ sẽ thấy hồn quê, hương đồng nội được hình thành từ rơm rạ, một vòng luân hồi: hạt thóc, nhành mạ, cây lúa, rơm rạ, qua dạ dầy trâu lại trở lại ruộng đồng, cây lúa!” 

(trích: Cảm sự lạ... trong “Hồn Rơm” của Văn Thùy)

Ông bình thơ dưới dạng viết comment trên facebook khá nhiều nhưng ông không viết thành bài status để chia sẻ với bạn bè hoặc gửi đăng trên các trang web vì ông quan niệm: - “Đọc thơ nó thú ở cái ý tứ, ngữ nghĩa trước đã và thích thì cứ tuôn cái cảm giác ấy để chia sẻ với tác giả và bạn thơ thôi.”. Đó là nét cá tính đặc biệt ở ông. Tôi không biết như thế là nên hay không nên?!

Kết bạn trên facebook với ông từ tháng 09 năm 2016. Chưa gặp ông ngoài đời nhưng qua những status về văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử của ông, nhất là những lần “trao đổi” với ông qua facebook, điện thoại... tôi cảm nhận ông là người thiện tâm.

Đọc những status và những comment bình thơ của ông,... tôi cảm nhận trong đó ấm áp những chất đời, tình đời.

Văn là người. Không biết với những người khác có phải như thế hay không, nhưng với ông thì tôi tin đúng là vậy!

*.

Hà Nội, chiều 15 tháng 11 năm 2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC: "THUYỀN

THEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN

*

Chiều 19 tháng 01 năm 2019, nhẩn nha dạo facebook, tôi "gặp" bài thơ "Thuyền Neo Bến Lạ" của nhà thơ Phúc Toản:

THUYỀN NEO BẾN LẠ

 - Gửi NTPT -

.

Lạnh lùng cơn gió chiều đông 

Xô con thuyền nhỏ theo dòng về xa ...

Dây đời buộc tím nhành hoa 

Ngày vui ...mà lệ ướt nhòa câu thơ ...

.

Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ

Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng...

Gừng cay, muối mặn xát lòng

Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...

.

Một luồng gió thổi sau lưng

Tân bao kỷ niệm, đoạn từng nhớ thương...

Mùa xuân phía trước dâng hương

Đằng sau lạnh buốt một phương trời buồn...

*.

Tân Yên, tháng 01.2001

PHÚC TOẢN

Thoạt đọc, bài thơ không có gì đặc biệt, cũng như những bài thơ tình than vãn về tình yêu lứa đôi bị chia rẽ, bội bạc... đầy rẫy trên mạng, đọc xong là quên liền. Tôi định nhấn like rồi chuyển đọc tin khác thì âm hưởng câu thơ: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng..." níu tôi đọc lại.

Vâng. Tôi thích khổ thơ thứ hai, khổ thơ gây nhiều ấn tượng với tôi.

Cách chuyển nhịp từ 2/4 (tiết tấu chậm) ở câu lục: "Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ", sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng...", đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật "tôi" cùng (lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng trai khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ. Từ tâm trạng còn nhiều ngờ vực, bán tín bán nghi: "Lấy chồng", chuyển sang tâm trạng sững sờ, buộc phải chua chát mà tin: "Em lấy chồng", và đẩy nỗi niềm đắng cay dâng tiếp lên cao bằng câu thảng thốt: "Ơ", biểu hiện của tâm trạng bất lực, rồi buông thõng bằng câu xác tín: "Lấy chồng..." của tâm trạng thất vọng, chán chường.

Tôi nghĩ, đấy là câu thơ độc đáo, đã giúp bài thơ sáng lên.

Không than vãn, kế nể, không nặng lời trách móc khi người yêu theo "thuyền neo bến lạ", nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất cả sự trách giận, nỗi xót xa của chàng trai vào 2 câu thơ:

"Gừng cay, muối mặn xát lòng 

Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng ..."

Chính sự kiệm lời ấy càng làm nỗi đau nhân đôi.

Tôi nghĩ, ở câu thơ: "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...", dù nhà thơ Phúc Toản chỉ nói về nỗi đau đang cứa vào trái tim của riêng "anh" thì người đọc vẫn cứ liên tưởng, vẫn cứ hình dung đấy là nỗi đau đã lan tỏa, đã xâm chiếm cả không gian ngày "em" làm lễ Vu Quy. Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim cô gái - người đang cử hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.

Vâng. Câu thơ: "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..." đã đích thực chỉ ra là vậy.

Tôi thích 2 chữ "cứ nhói" ở câu thơ này. Nó diễn đạt được nhiều điều. Nó làm cho câu thơ day dứt thêm và lắng đọng hơn.

*.

Làng Đá, sáng 20 tháng 01.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THƯA CHUYỆN CÙNG BẠN ĐỌC ...

VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC

*

Thật sự là tôi không thích đọc những bài viết chuộng lối "tầm chương trích cú" nên ngày 14 tháng 02 năm 2019, khi nhà thơ La Thụy gửi qua email, ngó thấy tên tác giả bài viết là Nguyên Lạc, tôi liền nhấn chuột thoát ra để vào đọc thư khác. Sở dĩ như vậy là vì gần đây, vào cuối năm 2018, vô tình đọc 2 bài viết của tác giả Nguyên Lạc, cũng do nhà thơ La Thụy gửi qua email, tôi đã phát hãi khi phải đọc những đoạn "tầm chương trích cú" mà nhiều người đã biết hoặc không cần phải biết, được ông Nguyên Lạc sử dụng na ná kiểu "Sơn Đông mãi võ", “lên gân dạy đời” dành cho những nạn nhân không chỉ là nhà phê bình văn học Châu Thạch, nhà thơ Phạm Ngọc Thái hay Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, Phó giáo sư Phó tiến sĩ Bùi Hiền,... mà với tất cả những ai đọc 2 bài viết đó. 

Tôi không có ý định "trả lời" bài: VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ “THUYỀN NEO BẾN LẠ” vì không muốn bị cuốn vào những tranh cãi làm phí phạm thời gian bởi mấy việc chẳng đâu vào đâu với ông Nguyên Lạc. Nhưng sớm hôm nay, 16 tháng 02.2019, một người bạn khuyên tôi nên có đôi lời với bạn đọc đã đọc "VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC "THUYỀN NEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN" của blog Trang Đặng Xuân Xuyến và các trang web thân hữu nên tôi ngồi gõ đôi dòng.

Tôi lọc ra mấy điểm ông Nguyên Lạc nêu trong bài dài vài nghìn chữ: VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ “THUYỀN NEO BẾN LẠ”, rườm rà vì "tầm chương trích cú" đến hơn nửa dung lượng bài viết, để thưa cùng bạn đọc. 

 

I.

Ông Nguyên Lạc viết:

Theo tôi, ở đây phải dùng chữ ƠI hay ÔI để tán thán sự buồn mới đúng: Ơi (ôi) em!/ ơi (ôi) anh! chúng ta đành phải xa nhau rồi.v.v... Buồn, bất lực là hai chữ này.

Chắc có lẻ nhà bình luận hiểu chữ Ơ rộng nghĩa hơn tôi!

Tuy câu thơ bị khuyết điểm nhỏ này, nó cũng tạm coi là đạt.”

 

Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:

Tôi nghĩ, hẳn khá nhiều người đều hiểu:

- Ơ là tiếng thốt ra biểu lộ sự ngạc nhiên trong những tình huống bất ngờ mà chủ thể chưa có thời gian cảm nhận để có phản ứng thích hợp.

Ví dụ: Ơ... sao ngu thế

- ÔI là tiếng thốt ra biểu lộ xúc động mạnh mẽ trước nỗi đau đã thấm sâu hoặc trước điều không ngờ.

Ví dụ: Ôi! Hắn đểu thế!

Trong trường hợp của bài thơ "Thuyền Neo Bến Lạ" thì từ Ơ được nhà thơ Phúc Toản sử dụng hợp với hoàn cảnh của nhân vật trong thơ nên hay hơn rất nhiều so với dùng chữ ÔI như ông Nguyên Lạc bày vẽ.

Còn chữ ƠI thì sao?

- Ơi là cảm từ, là khẩu ngữ dùng để gọi (hoặc đáp) một cách thân mật, thân thiết, ví như: Tuấn ơi, Minh ơi, Hùng ơi... Cũng có khi dùng với ý than vãn, ví như: Trời ơi!, Cha Mẹ ơi!...

Nếu thay chữ Ơi như bày vẽ của ông Nguyên Lạc:

Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơi! Lấy chồng...”

thì câu thơ thành vô duyên, ngớ ngẩn khi nhân vật trong thơ đang xót xa vì tình yêu tan vỡ.

 

II.

Ông Nguyên Lạc viết:

a. "Gừng cay, muối mặn xát lòng"

Câu thơ này có chính xác ở trường hợp này không?

Xin mời nhà bình thơ đọc trích đoạn này:

 [...Như đã nói trên, quan hôn tang tế không thể nào không có rượu. Nhất là ngày "loan phụng hòa minh" và đêm "động phòng hoa chúc"

Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm,

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đà say...

Với tục lệ Việt Nam cổ truyền thì lễ động phòng cần có: Chỉ đỏ hoặc chỉ ngũ sắc gọi là dây tơ hồng, đĩa muối với dăm lát gừng tươi, chai rượu Hồng Đào đính kèm một chiếc chung. Chú rể buộc tơ hồng vào cổ tay nàng dâu và ngược lại. Rót đầy chung rượu, chàng uống nửa, nàng uống nửa. Xong, cùng lấy gừng chấm muối mà nhai, đôi lứa vừa hít hà, vừa dìu dặt ngâm nga:

Tay bưng đĩa muối chấm gừng,

Tình nồng nghĩa mặn xin đừng bỏ nhau

(Rượu Hồng Đào: Quảng Nam song hỷ tửu - Phanxipăng)[2]

Ở đây chàng trai và cô gái "động phòng, hợp cẩn" lúc nào mà nhai muối/ gừng xát lòng? Nhà bình thơ có chú ý đến điều này không?

 

Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:

Tôi thật sự ngạc nhiên trước "sự hiểu" hoặc rất là ngây thơ, hoặc rất là máy móc, hoặc là cố tình "bẻ cong" của ông Nguyên Lạc. Đoạn ông trích dẫn trên, có chăng chỉ là đoạn văn mô tả tập tục cưới hỏi của người bản địa, đó là tập tục cưới hỏi của người dân xứ Quảng, không phải là phong tục cưới hỏi truyền thống của người Việt Nam.

Quê tôi, quê nhà thơ Phúc Toản hay quê của nhiều người khác trong lễ Hợp Cẩn đâu có dùng rượu Hồng Đào bởi rượu Hồng Đào là một "đặc sản" của tỉnh Quảng Nam, không phải là rượu cưới truyền thống của người Việt? Cũng đâu có nghi thức “cùng lấy gừng chấm muối mà nhai, đôi lứa vừa hít hà, vừa dìu dặt ngâm nga: Tay bưng đĩa muối chấm gừng, / Tình nồng nghĩa mặn xin đừng bỏ nhau” sau khi đã “rót đầy chung rượu, chàng uống nửa, nàng uống nửa”? 

Dân gian dùng vị mặn của muối, vị cay của gừng đưa vào ca dao, tục ngữ làm tượng trưng cho tình nghĩa sâu đậm, thắm thiết, khó quên của tình yêu đôi lứa, của tình nghĩa vợ chồng đã gắn bó cùng nhau trải qua những đắng cay, được mất... của cuộc đời - một tượng hình rất dân dã, chân thực mà sâu sắc. Việc nhà thơ Phúc Toản dùng vị mặn của muối, vị cay của gừng vào thơ, để xót xa mối tình khắng khít, sâu đậm bị tan vỡ đâu có sai?!

Thật là buồn cười khi ông Nguyên Lạc ngô nghê cho rằng câu "gừng cay, muối mặn" chỉ được dùng khi trai gái đã thành vợ thành chồng.

 

III.

Ông Nguyên Lạc viết:

b. "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..."

Theo chủ quan tôi câu này có vấn đề ở hai điểm:

- Hai chữ ở cùng một câu (Nỗi) là điều các nhà thơ nổi tiếng khuyên nên tránh.

- "Nỗi mừng"? Người yêu vu qui đi lấy chồng mà mừng? Cũng lạ?

Nhà bình luận, bạn đã nói đây là cuộc hôn nhân "không tình yêu", vậy thì cả 2 đều phải buồn chứ làm sao mà có chữ "mừng" ở đây? Nếu nói "mừng" thì không thật lòng, không đúng cảm xúc của hai người yêu nhau.

- Nếu "mừng" này ở chàng trai thì câu này có nghĩa là chàng vừa buồn vì tiếc và vừa "mừng" vi "tống khứ" cô gái được phải không? Tình yêu chân thật?

- Nếu "mừng" này ở cô gái thì sự "không chân thật" trong tình yêu càng rõ ràng. Cô gái thoát nợ!

Nhà binh thơ có thể nói (hay đoán) "nỗi mừng" là ngoài mặt của cô gái, còn trong lòng thì buồn. Làm sao biết được trong lòng của người khác?

Trong câu thơ, nếu một vài chữ có thể gây ra sự suy nghĩ tiêu cực của độc giả thì nên tránh đừng dùng, phải dùng chữ có nghĩa chính xác. Đừng chủ quan theo ý mình, nên dự phòng những vấn đề rắc rối có thể sảy ra.

Theo tôi (xin nói chỉ là chủ quan) phải thay chữ nào khác phù hợp với ý tứ bài thơ để giải quyết các vấn đề nêu trên:

Thí dụ như dùng chữ bâng khuâng ta giải quyết được điệp từ và chuyện rắc rối lẫn lộn giữa buồn/mừng nêu trên. Lúc này câu thơ sẽ như thế này:

Bâng khuâng cứ nhói vào trong nỗi buồn...

Đây chỉ là thí dụ gợi ý, quyền là ở tác giả bài thơ, ông là người "sáng tạo"

Để tránh việc người khác (trong đó có thể có nhà bình thơ) cho rằng sự thay thế chữ khiến "lợn lành thành lợn què", tôi sẽ phân tích chữ "nỗi" và chữ "niềm" cho rõ ý.

 

Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:

Ở mục trên (mục b), ông Nguyên Lạc soạn lại và phát triển thêm từ những comment trao đổi với tôi dưới bài viết "VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC "THUYỀN NEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN" đăng trên trang Văn Nghệ Quảng Trị ngày 20 tháng 01 năm 2019. 

Tôi không trả lời lại mà copy 2 comment của tôi trên trang Văn Nghệ Quảng Trị như sau:

Comment 1: 

- Thưa chú Nguyên Lạc!

Đúng là “Hai chữ ở cùng một câu ̣(NỖI) là điều nên tránh” nhưng ở câu thơ này, chú Phúc Toản đã (chủ ý) đặt đối trọng “nỗi buồn” - “nỗi mừng” giữa “anh” và “em” (chứ không phải chỉ riêng tâm trạng chàng trai) để nhấn sâu hệ lụy nỗi đau của cuộc hôn nhân không tình yêu, như thế theo cháu lại thành hay đấy ạ.

Comment 4:

- Vâng! Thưa chú Nguyên Lạc!

Cháu cũng trả lời chú lần này lần cuối vì chú và cháu có cách hiểu khác nhau nên cứ trao đổi sẽ mất nhiều thời gian, mà cũng sẽ làm phiền người khác.

1. Thì hẳn câu thơ "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..." diễn tả tâm trạng chàng trai nên nhà thơ mới dùng từ NỖI mừng mà không là NIỀM vui hoặc chữ nào khác. Vì lẽ ra chàng trai cũng như mọi người đến dự hôn lễ của cô gái để chúc mừng hạnh phúc của cô gái nhưng trong hoàn cảnh trớ trêu cô gái lại là người yêu (của mình) nay “theo thuyền neo bến lạ” thì chàng trai sao vui được? Còn cô gái, nhân vật chính của ngày đại hỉ, người chàng trai nói là “nỗi mừng”, (thân bằng quyến thuộc của cô gái sẽ nói là ngày vui, niềm vui) thì trong nghịch cảnh ấy đâu có thể vui khi gặp chàng trai? Và cả những người biết chuyện tình của hai người đó nữa, thấy cảnh đấy ai chẳng có phút trầm buồn? 

Thế nên cháu mới viết:

“Tôi nghĩ, ở câu thơ: "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...", dù nhà thơ Phúc Toản chỉ nói về nỗi đau đang cứa vào trái tim của riêng "anh" thì người đọc vẫn cứ liên tưởng, vẫn cứ hình dung đấy là nỗi đau đã lan tỏa, đã xâm chiếm cả không gian ngày "em" làm lễ Vu Quy. Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim cô gái - người đang cử hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.

Vâng. Câu thơ: "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..."đã đích thực chỉ ra là vậy.”

2. Câu thơ "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..." theo ý cháu không nên thay thế chữ MỪNG bằng “chữ “bâng khuâng” hay chữ nào đó” vì nếu không khéo sẽ rất dễ “lợn lành thành lợn què” đấy ạ.".

Còn giả dụ nếu theo bày vẽ của ông Nguyên Lạc thì sao?

Hẳn ai cũng hiểu BÂNG KHUÂNG là cảm xúc luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, không rõ ràng khiến tâm trạng gần như ngẩn ngơ. Như thế, nếu thay chữ BÂNG KHUÂNG theo bày vẽ của ông Nguyên Lạc:

“Bâng khuâng cứ nhói vào trong nỗi mừng...”

sẽ không diễn tả được tâm trạng giằng co nửa cười nửa khóc của chàng trai trong ngày đại hỷ của cô gái, chẳng khác gì việc cố tình tạo hình cho nhân vật: giữa mùa hè mặc quần đùi, khoác áo bông, chạy lông nhông ngoài đường phố.

 

IV.

Ông Nguyên Lạc viết:

LỜI KẾT

Lâu lắm rồi, tôi thường gặp câu nầy: "Dưới ánh sáng..." "Nhờ ơn..." gì gì đó...tác giả mới viết được bài này... Và những lời "hít hà" khen các bài văn thơ của của những người ve cổ áo veston trước ngực có logo "quốc huy sao vàng" (cấp lãnh đạo). Ai mà dám nói thật, ai mà dám chê trong thời này? Vì sợ, vì muốn lấy lòng để được hưởng chút "ơn mưa móc". (Về vụ "sợ" hình như nhà văn Tô Hoài đã có lần thừa nhận, nếu tôi nhớ không lầm)

Nhưng bây giờ là thời khác, không thể làm giống thế được, phải "lương thiện" với lòng, phải "chính danh" là trí thức là nhà bình luận . Nhà bình luận nên nhớ lại “Lời mẹ dặn” của Phùng Quán đã nhắc ở trên.

Một nhà thơ đã viết:

Ta tìm ta bắt, trong thơ...

Những con sâu chữ, lơ mơ "ra rìa"

                            (Hà Nguyên Du)

Đúng, phải tìm bắt sâu chữ: Trong vườn hoa nghệ thuật, văn thơ, người bình luận giống như người làm vườn, phải chăm sóc vung trồng và tìm bắt những con sâu để cho cây hoa tươi tốt, nở ra những những nụ hoa đầy hương sắc cho đời.

Trên trang nhà Đặng Xuân Xuyến, nhìn kỷ thấy trên ngực (cổ áo Veston cà - vạt) của nhà thơ Phúc Toản có logo "quốc huy sao vàng"[1].

Hãy trân trọng gìn giữ tiếng nước ta. Tiếng Việt mà bị tiêu diệt thì dân tộc Việt sẽ tự nhiên biến mất y như Học giả Phạm Quỳnh đã từng nhận xét. Hãy bảo về sự trong sáng của tiếng Việt. Nên cẩn trọng về tính chính xác của nó nếu không sẽ dẫn đến "văn nạn" "bút máu" mà tôi đã đề cập trong bài viết "VĂN NẠN VÀ TÍNH CHÍNH XÁC CỦA NGÔN NGỮ(3)

Mời đọc trích đoạn:

[... Chữ viết chắt lọc từ tiếng nói. Văn và nhất là thơ là tình túy của CHỮ. Nên cẩn trọng với CHỮ NGHĨA. CHỮ quan trọng lắm, có thể làm chết hoặc làm tiêu tan sự nghiệp và tài sản con người. Không nhớ vụ án Minh sử triều Thanh đã làm tiêu mạng biết bao Nho sĩ Minh mà Kim Dung đã viết trong phần nhập của bộ truyện Lộc Đỉnh Ký sao? Vụ án của Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (giết ba họ) do sự ganh ghét, đố kỵ của đám tiểu nhân đắc chí, trong đó có một phần từ văn nạn. Và cuối cùng với hàng chữ "Kim loại màu vàng" mà "ai đó" ghi khi kiểm kê vàng của người dân miền Nam trong đợt "cải tạo tư sản" 1976.

VĂN NẠN (cũng được gọi là ÁN VĂN), nói nôm na là những vụ án liên quan đến chữ nghĩa, văn chương, văn nghệ... Có khi nạn nhân chết chỉ do một chữ chứ không cần cả bài, cả tập. Chết mà không biết mình vì sao bị chết...]

Đừng như hai ngài Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại và Phó giáo sư Phó tiến sĩ Bùi Hiền, những người mắc bệnh VĨ CUỒNG (mégalomanie, megalomania) muốn làm mai một nó.

 

Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:

Tôi sống ở Hà Nội, đã bỏ cơ quan nhà nước (Viện Sử học) để làm dân lao động tự do, đã viết những: Quê Nghèo, Bạn Quan, Quan Trường, Tôi Nghe, Tôi Thấy... và không thích tham gia bất kỳ hội - nhóm - đảng phái nào. Còn nhà thơ Phúc Toản, là cán bộ hưu trí, sống tại Bắc Ninh, mới kết bạn facebook với tôi chừng năm nay, vô tình đọc và đồng cảm với "Thuyền Neo Bến Lạ" mà tôi viết đôi dòng cảm nhận. Bài viết ấy cũng chỉ là chia sẻ vài cảm nhận của người đọc với tác giả thơ, có ghê gớm gì đâu mà ông Nguyên Lạc phải "thốt lên": "Bài bình thơ "Thuyền Neo Bến Lạ" của nhà thơ kiêm nhà bình luận Đặng Xuân Xuyến được đăng trên trang nhà anh và rất nhiều trang Web trong cũng như ngoài nước. Nó là Top Hít và được các fans anh "hít hà" khen thưởng." rồi dành hẳn mục LỜI KẾT, dễ đến hơn nghìn chữ trong bài viết vài nghìn chữ để bóng gió, quy chụp tôi là kẻ nịnh nọt, mắc bệnh cuồng vĩ như ông đã từng chụp mũ ông Châu Thạch, ông Phạm Ngọc Thái trong 2 bài viết mà nhà thơ La Thụy đã vô tình chuyển qua email tới tôi. 

Thật nực cười!

Nếu là người bình thường sẽ không có lối suy diễn biến thái, bệnh hoạn khi cố tình quy chụp hoặc bóng gió quy chụp người khác là nịnh nọt, là mắc bệnh cuồng vĩ kiểu "suy bụng ta ra bụng người" như ông Nguyên Lạc.

Muốn phất cao ngọn cờ “yêu thương thơ văn cùng với niềm trân trọng sự chính xác và trong sáng của tiếng Việt thân yêu” để đánh trống, giong cờ hiệu triệu mọi người cùng theo làm một cuộc “Cách Mạng” như ông Nguyên Lạc rùm beng thì tối thiểu ông Nguyên Lạc phải làm được 2 điều:

- Hiểu mình nói gì, viết gì.

- Bỏ thói “suy bụng ta ra bụng người”

Nhưng tôi tin đó là 2 điều quá xa xỉ với ông Nguyên Lạc!

*.

Hà Nội, sáng 16 tháng 02.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC: RÉT BÂN NHỚ MẸ

- NGÀY 8 THÁNG 3

*

RÉT BÂN NHỚ MẸ

.

Rét Bân vương má con hạt mưa

Kiểu mưa Bân này dễ ho, mẹ ạ

Chân mẹ ấm không / rét Đài sương giá? 

Tay mẹ cóng không / rét Lộc buốt tê?

.

Mẹ ơi! 

Từ hồi Mẹ đi 

quanh con hơ hoác trống.

.

Mưa Bân chắt lọc

từ li ti hương xuân rất trong

Tình mẹ ấm nồng 

gom nhặt từ tháng ngày vất vả

tháng ngày ngược xuôi tất tả 

lần hồi mẹ áo nâu sờn...

.

Mưa Bân rất tròn

mỏng dầy xếp giọt

Trời thương Nàng Bân, Trời ban rét ngọt

Con xin Trời cho con nắng tươi

cho con thấy nụ cười

nhóng nhánh hạt na đen của mẹ.

.

Rét Bân rất nhẹ

Đủ lùa thông thống tháng ba.

Đủ cuốn tuổi đông con 

về Mẹ chốn bao la

Tìm hơi ấm Mẹ.

*.

Hà Nội, 08 tháng 03.2019

BÙI CỬU TRƯỜNG

LỜI BÌNH:

Sáng ngày 8 tháng 3, tôi được đọc một bài thơ tự sự, viết về MẸ của nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường. 

Bài thơ có tựa đề: RÉT BÂN NHỚ MẸ.

Tôi ấn tượng với bài thơ ở ngay những câu đầu:

"Rét Bân vương tay con hạt mưa

Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ ạ

Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá? 

Mẹ đủ ấm không / khi đất buốt tê?"

Những câu thơ tự sự giản dị, mộc mạc, trĩu nặng nỗi niềm, từ hạt mưa vương vào tay, gợi nên nỗi lo dịu dàng thường trực: "Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ ạ", rồi đột nhiên thay đổi tâm trạng, từ dàn trải tâm sự sang dồn nén những lo lắng: 

"Mẹ đủ ấm không/ khi trời lạnh giá?

Mẹ đủ ấm không/ khi đất buốt tê?"

Khiến người đọc sững lại, rồi trầm lặng khá lâu trước sức ám ảnh của những hình ảnh xuất hiện trong những thước phim rất ngắn. Đến đây, người đọc mới vừa thốt lên lời đồng cảm cùng tâm trạng xót thương của người con hiếu đễ với người Mẹ đã khuất, thì lại vỡ òa cảm xúc bằng những câu tự sự lắng đầy nước mắt. Sự nhớ thương trong đau xót, cút côi được dồn nén đến tận cùng bởi những câu thơ ngấn lệ, trầm buồn:

“Mẹ ơi

Từ hồi Mẹ đi 

quanh con hơ hoác trống.”

3 chữ “hơ hoác trống” đã diễn tả tất cả sự nhớ thương - mất mát - cút côi của người con khi mất Mẹ.

Tôi thích 4 câu thơ:

"Rét Bân vương tay con hạt mưa

Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ ạ

Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá? 

Mẹ đủ ấm không / khi đất buốt tê?"

được viết ban đầu hơn so với 4 câu đã được nhà thơ chỉnh sửa.

Bởi theo cảm nhận của riêng tôi thì 4 câu chưa chỉnh sửa rất gợi cảm xúc với người đọc. Câu “Rét Bân vương tay con hạt mưa” gợi tâm trạng chông chênh, chới với của người con giữa trời mưa rét khi cô đơn, vắng (mất) Mẹ. Sự lặp lại cụm từ 4 chữ: "Mẹ đủ ấm không" ở 2 câu cuối khổ thơ: “Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá?” - “Mẹ đủ ấm không / khi đất buốt tê?" nghe chân chất, mộc mạc, như tự nhiên bật ra trong tâm thức nhà thơ trước cái lạnh giá của tiết trời và chính sự lặp lại cụm từ 4 chữ ấy đã làm câu thơ thêm day dứt, xót xa. Câu thơ lấy nước mắt người đọc bởi sự tự nhiên, chân chất ấy. Nhưng với 2 câu thơ đã chỉnh sửa: “Chân mẹ ấm không / rét Đài sương giá?” - “Tay mẹ cóng không / rét Lộc buốt tê?” thì sự cẩn thận về kiến thức, sự cầu toàn về ý thức tay nghề đã lấy đi nét mộc mạc, dung dị, khiến câu thơ trở nên thiếu nhựa. Sự rành mạch "rét Đài" - "rét Lộc" - “rét Bân” vì sự cầu toàn... ở 2 câu thơ trên là không cần thiết, bởi theo thiển nghĩ của người viết, sự rành rẽ câu chữ như thế khiến bạn đọc khó "phiêu" cùng bài thơ để khám phá và cảm thụ bài thơ, cũng vì thế mà làm bài thơ bớt hay.

Là kẻ lười đọc thơ nhưng tôi lại thích đọc thơ Bùi Cửu Trường, có lẽ vì cách dùng từ ngữ của bà khá độc đáo, sáng tạo nhưng vẫn giữ được chất dân dã, chân quê. Những câu: “Từ ngày mẹ đi/ quanh con hơ hoắc trống”, "lần hồi mẹ áo nâu sờn .."/ "Nhóng nhánh hạt na đen của Mẹ." hay: "Rét Bân rất nhẹ/ đủ lùa thông thống tháng ba/ đủ cuốn tuổi Đông con" trong RÉT BÂN NHỚ MẸ, tuy chưa phải là những câu thơ thật hay, những câu thơ tài hoa nhưng những câu thơ đậm dấu ấn rất riêng của Bùi Cửu Trường như thế thì không phải dễ làm, không phải cứ muốn là viết được.

*.

Hà Nội, chiều 08 tháng 03.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI LỜI VỀ BÀI CẢM NHẬN

BÀI THƠ “RÉT BÂN NHỚ MẸ”

*

Khi đọc tôi cảm nhận bài thơ RÉT BÂN NHỚ MẸ của nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường, nhà thơ Nguyễn Đăng Hành điện cho tôi. Mới nghe: - "Em nghe anh ơi." thì anh đã xối xả:

- Anh chắp tay lạy mày! Mày là vĩ nhân. Mày là thiên tài. Xuân Diệu có sống lại cũng phải đứng từ xa vái mày vì mày giỏi quá, siêu quá. Hoài Thanh còn sống gặp mày cũng phải tế mày như tế sao vì mày trác tuyệt quá. Mày tuyệt vời. Mày là đỉnh cao của trí tuệ...

Tôi cười, ngắt lời anh:

- Vừa ăn ớt cay quá à? Chửi gì mà ngoa thế?

- Ớt cái gì. Ngoa cái gì. Bài thơ đấy mà cũng ngồi thổi lên tận mây xanh được. Ối giời! Câu thơ người ta sửa lại có hồn vía, cựa quậy như thế, âm dương cân đối hài hòa như thế mà lại chê ỉ chê ôi, chê cứ như đúng rồi. Mày hay chữ nhỉ? Mày... đúng là thiên tài! Anh lạy thiên tài! Anh vái thiên tài!

Chẳng để tôi phân trần, anh cụp máy. Rồi chừng mươi phút sau, anh điện lại, tôi chưa kịp nói: -“Em nghe anh ơi,..” thì anh đã xối xả:

- Dạo này lại hăng máu đi bình thơ nữa chứ. Thích thể hiện là người tài giỏi đến thế cơ à? Ở đời phải biết mình là ai? Mình đứng ở chỗ nào? Đừng nên chết vì ngộ nhận.

Nói xong, anh lại cụp máy, chẳng thèm để tôi “dăm câu ba điều”.

Tôi nghĩ, viết cảm nhận thơ (gọi là BÌNH THƠ cho oai), không nhất thiết phải là bài thơ đó thật hay, thật đặc sắc mà có thể vì tứ thơ mới lạ, vì tài dùng câu chữ hoặc vì những câu thơ hay, độc đáo của bài thơ... Việc cảm nhận về 1 bài thơ cụ thể cũng không ai giống ai, người này khen hay, người kia cho là bình thường, thậm chí ngay một người cũng có thể lúc này cho là bình thường, lúc khác lại khen hay... vì thơ hay hay không hay phụ thuộc vào tài thơ, tay nghề và “phút xuất thần” bất chợt của nhà thơ nhưng việc cảm thụ thơ lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tâm cảm, sự rung động của người cảm thụ. Tất nhiên, một bài thơ dở thì không thể có những câu thơ hay, tứ thơ mới lạ, hoặc tài sử dụng câu chữ của nhà thơ... làm rung động tâm cảm để người cảm thụ ngồi viết những dòng cảm nhận.

Ở bài thơ RÉT BÂN NHỚ MẸ có những câu thơ độc đáo, có tứ thơ mới lạ (ví như thay mới ở khổ I, tứ mới lạ, thể hiện tay nghề cao nhưng tôi vẫn thích khổ I như nhà thơ Bùi Cửu Trường viết ban đầu, dù tứ đó cũ nhưng chân thật, dung dị và truyền cảm), đặc biệt là tài sử dụng câu chữ của nhà thơ, như tôi đã viết khi cảm nhận về “Rét Bân Nhớ Mẹ”: Những câu: “Từ ngày mẹ đi/ quanh con hơ hoắc trống”, "lần hồi mẹ áo nâu sờn .."/ "Nhóng nhánh hạt na đen của Mẹ." hay: "Rét Bân rất nhẹ/ đủ lùa thông thống tháng ba/ đủ cuốn tuổi Đông con", tuy chưa phải là những câu thơ tài hoa nhưng những câu thơ đậm dấu ấn rất riêng của Bùi Cửu Trường như thế không phải cứ muốn là viết được. Văn sĩ Trần Quốc Phiệt (Ha Thai), vốn khắt khe và kiệm lời khi bình luận văn chương cũng đã công tâm comment về bài thơ “Rét Bân Nhớ Mẹ”: - “Có thể nói Rét Bân Nhớ Mẹ chưa phải là một bài thơ hay, nhưng có nét riêng nhờ lối dụng từ chơn chất làm cho lời tự sự truyền cảm, như vậy là tác giả đã thành công.”. Ngạn ngữ có câu: Có bột mới gột nên hồ là vì lẽ đó.

Lẽ ra bài cảm nhận về RÉT BÂN NHỚ MẸ tôi nên viết sâu thêm, dài hơi hơn, nhất là tài sử dụng câu chữ: độc đáo, mới mà dễ hiểu, lại giàu sức truyền cảm của nhà thơ Bùi Cửu Trường nhưng vì vội tôi đã kết thúc bài sớm quá, dẫn đến bài viết không được như ý!

Khi nhận được chia sẻ của nhà thơ Bùi Cửu Trường qua tin nhắn facebook:

- “Hai câu: “Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá? - Mẹ đủ ấm không / khi đất buốt tê?” làm cho cô hình dung rất rõ về lúc THAY ÁO cho mẹ cô và NƠI mẹ cô yên nghỉ. Giữa cánh đồng ... gió bấc đông, mưa giông hè... và cô không chịu nổi, khi hình dung ra Huyệt mộ của Mẹ (Bọn cô đã xây một khu lăng nho nhỏ cho dòng họ) nên quyết định sửa cho lòng đỡ THẢNG THỐT.

Thế đấy. Sửa có thể không GỢI, nhưng nó xoa dịu được nỗi đau. Nếu vượt qua được nỗi đau, Cô sẽ để như cháu góp ý.

Cô THẤY CHÁU NÓI HOÀN TOÀN ĐÚNG, chỉ LÒNG CÔ KHÔNG YÊN thôi.

Cô cứ đắn đo, rồi nghĩ chi bằng nói thật ra với cháu là hơn.”

Tôi bớt chút áy náy nhưng những lời phê bình thẳng ruột ngựa có phần chát chúa của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành vẫn ám ảnh tôi mất mấy ngày.

*.

Hà Nội, 12 tháng 04.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VỀ TRUYỆN NGẮN

CỦA LÊ MAI

*

Biết nhà văn Lê Mai qua nhà thơ Nguyễn Khôi và blog Trang Đặng Xuân Xuyến cũng đã giới thiệu một số bài thơ và 7 truyện ngắn của ông nên khi nhà thơ Nguyễn Khôi có nhã ý muốn trang nhà đăng lại bài Nguyễn Khôi cảm nhận về thơ Lê Mai - người bạn, người em tri kỷ của ông - tôi đã đắn đo khá nhiều, bởi blog Trang Đặng Xuân Xuyến không đăng lại những bài đã đưa lên trang nhà, đang hiện diện trên trang nhà nhưng trước tấm chân tình dành cho người bạn, người em của nhà thơ lão niên làm tôi cảm động. Dù lưng rất đau, tôi cũng cố ngồi đọc để viết đôi lời giới thiệu về một số truyện ngắn của nhà văn Lê Mai đã đăng trên blog Trang Đặng Xuân Xuyến.

*

Quyền Được Rên là một truyện ngắn hay, tạo được nhiều chú ý trong dư luận. Lúc sinh thời, Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên đã không tiếc lời ca ngợi: - “Có thể nói mà không sợ ngoa ngôn rằng “Quyền được rên” của nhà văn Lê Mai có thể xếp trên “Sống mòn” của Nam Cao;  vì “Sống mòn” viết về cuộc đời của ông giáo Thứ rất khổ cực trước cách mạng tháng Tám. Ở đây nhân vật chính là Hoàng không những vô cùng cực khổ mà còn phải chịu trăm đắng ngàn cay! “Quyền được rên” còn xếp trên “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, có dung lượng mấy trăm trang, cuối cùng chỉ đi tìm câu trả lời vì sao mình bị tù. “Quyền được rên” là truyện ngắn nén rất chặt trong mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn của một tiểu thuyết. Nó được viết ra không phải để gây thù chuốc oán hoặc khắc sâu thêm mối hận thù. Mà nó rất bao dung để nhớ lại một thời ấu trĩ!” (Quyền Được Rên - Một Kiệt tác của nhà văn Lê Mai ; Nguyễn Ngọc Kiên). Biết rằng mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhất là trong trường hợp đem so sánh Quyền Được Rên với Sống Mòn của Nam Cao, Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn thì thật khiên cưỡng. Tôi nghĩ, vì yêu Lê Mai quá mà Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên đã “xếp” Quyền Được Rên “có thể” trên Sống Mòn nhưng anh “còn xếp trên “Chuyện Kể Năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn” thì thật khó hiểu. Anh lý giải: “Quyền được rên” là truyện ngắn nén rất chặt trong mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn của một tiểu thuyết.”, theo tôi là không thuyết phục vì truyện ngắn là truyện ngắn, tiểu thuyết là tiểu thuyết, không nên vì quý mến nhau mà ưu ái khen như thế, hơn nữa, “Chuyện Kể Năm 2000” thực ra là hồi ký của Bùi Ngọc Tấn được viết dưới dạng tiểu thuyết nên các yếu tố văn chương như: thủ pháp, cốt truyện... không được tác giả chú trọng như các yếu tố: tư liệu, giãi bày..., đem 2 thể loại văn học này đặt cạnh nhau để so sánh về giá trị văn chương hay về chủ đích sáng tác... đều không thỏa đáng. Nhưng công bằng nhận xét thì Quyền Được Rên là một truyện ngắn viết bạo tay và hay, có sức khái quát sâu và rộng về QUYỀN CON NGƯỜI bị xúc phạm trắng trợn ở cái chế độ luôn ra rả đề cao QUYỀN CON NGƯỜI, làm lu mờ nhiều truyện ngắn được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải.

Mặt Trời Xanh là câu chuyện của tình người còn sót lại, lắng lại ở một ông quan to lúc cuối đời muốn chuộc lại những lỗi lầm của kiếp làm quan bằng vài việc rất đời, rất người. Cốt truyện chỉ đơn giản là vậy, không đao to búa lớn, không lên gân triết lý về nhân sinh quan ở đời. Và người kể chuyện, cũng không cố dụng công sắp xếp những tình tiết của câu chuyện, không chú trọng tô vẽ diễn biến tâm trạng của nhân vật, cứ chậm rãi dẫn bạn đọc vào truyện bằng lối kể chuyện thủng thẳng, chân chất để tái hiện câu chuyện một cách tự nhiên, chân thực. Vì thế, người đọc thấy thương và tiếc cho “cậu học trò” đã ngộ được đạo làm người nhưng lại chậm và “sai thời điểm”, thấy tin và trân quý những lời bộc bạch thật tận đáy lòng của vị “khách quan” “người gày gày, da mai mái nhưng thần thái vẫn rực lên những nét quyền uy, lịch lãm với thầy giáo cũ.

Nhập truyện tự nhiên, diễn biến truyện cũng tự nhiên, hợp lý. Chủ đích của nhà văn Lê Mai qua Mặt Trời Xanh đã thành công: TÌNH NGƯỜI LÀ VĨNH CỬU. Chỉ tiếc, ở đoạn kết truyện: “Đặt lá thư xuống bàn ông Nhân thờ thẫn ngứơc cặp mắt hoen rỉ nhìn vào khoảng không mờ ẩm trước mặt. Không gian bổng chuyển màu ngọc bích xanh suốt mang mang... và phía xa, xa thẳm của không gian ngọc bích một đốm sáng nhập nhoà nhấp nháy như vẩy như gọi ông... mông lung, mờ ảo. Ông vật người ra nghế cố ghìm tiếng thở dài. Tiếng thở buồn, tê tái như hơi thở của rừng già heo hút.”, nhất là ở những dòng cuối cùng để khép lại truyện, khi nhà văn đặc tả hình ảnh thầy giáo Nhân: “Ông vật người ra nghế cố ghìm tiếng thở dài. Tiếng thở buồn, tê tái như hơi thở của rừng già heo hút.” đã hướng câu chuyện chuyển mạch, đẩy truyện sâu vào BI, khiến niềm tin vào TÌNH NGƯỜI tưởng vẫn còn sức sống âm ỉ trong đời sống xã hội thông qua sự thức ngộ của “cậu học trò làm quan” lúc cuối đời sẽ lan tỏa bỗng thành mong manh. Truyện kết thúc với gam màu tối, u ám. Vô tình, dù không có chủ ý nhưng hình ảnh thầy giáo Nhân ở kết truyện như thế đã ít nhiều giảm chủ đích tích cực của nhà văn.

Tìm Cha Trong Gương là truyện ngắn đề cập đến những di chứng sau cuộc chiến tranh giữa 2 miền Nam - Bắc. Đây là mảng đề tài những nhà văn cùng thế hệ với Lê Mai hay khai thác vì có nhiều “mảng miếng” để các nhà văn thi thố “dụng võ”. Viết về đề tài này, Lê Mai lên án chiến tranh ở góc nhìn khác với số đông, được phản ánh qua câu chuyện về những thân phận (ruột thịt) bị ly tán bởi hệ lụy của chiến tranh và sự ươn hèn, tệ bạc của thói đời, lòng người. Truyện phát triển bằng cách sắp xếp những cuộc đối thoại giữa các nhân vật trong hành trình tìm lại người thân, và trong hành trình đó, nhà văn chỉ “khách quan” gạch đầu dòng thật trung thực những cuộc đối thoại, rồi thi thoảng “chêm” vào đôi ba lời dẫn chuyện. Thật tiếc là tôi chưa được đọc 3 tiểu thuyết: Tẩu Hỏa Nhập Ma, Bạn Cùng LớpThời Gian Xuẩn Ngốc của Lê Mai nên khi đọc truyện ngắn này đã có những băn khoăn không biết có phải đấy là chủ ý của nhà văn không chú trọng vào miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật? hay miêu tả nội tâm nhân vật không phải là điểm mạnh của nhà văn Lê Mai nên diễn biến Tìm Cha Trong Gương được nhà văn sắp xếp là những cuộc đối thoại giữa các nhân vật bằng những gạch đầu dòng liên tiếp?! Nhưng với bố cục truyện chặt chẽ, tiết tấu truyện nhanh và mạch lạc như thế, khiến truyện ngắn Tìm Cha Trong Gương cuốn hút được người đọc thì tôi nghĩ đấy có thể là chủ ý của nhà văn Lê Mai chứ không phải do sự vụng về của tác giả.

Hoa Trạng Nguyên là truyện ngắn được viết theo thủ pháp phúng dụ, mượn chuyện bà Lan Phương thủ thỉ trước 2 ngôi mộ: với Thiện, là bạn, cũng là người bà yêu nhưng dứt khoát không chọn làm chồng; với Thiên, là bạn, cũng là chồng, tuy không yêu nhưng bà nhất tâm chọn làm chồng, về những chuyện bà đã cùng họ (Thiên và Thiện) trải qua, khi tuổi đã xế chiều, lúc lắng lòng đã buông bỏ tất cả những ham hố sân si mới tĩnh tâm ngộ ra được, để ám chỉ cái bản ngã của con người thật mong manh trước những cám dỗ của vật chất, trước những toan tính ma mãnh mà khốc liệt đến trần trụi của kiếp người. Lê Mai đã thành công với truyện ngắn Hoa Trạng Nguyên khi phản ánh cuộc đấu tranh giữa lý trí và dục vọng, giữa tốt với xấu, giữa cao cả với thấp hèn....

Những hình ảnh ở đoạn kết truyện được nhà văn khắc họa thật đẹp, giàu tính nhân văn, đượm triết thuyết của đạo làm người trong cõi vi vô: Con người ta tất thảy đều sẽ trở về với cát bụi. Mọi tranh quyền đoạt lợi dù có được thì rồi cũng thành hư vô. Chỉ có sự vô tư, trong sáng của đạo làm người mới trường tồn, bất biến trước mọi thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian:

Bà Lan Phương từ từ đứng dậy, bẻ một nhành cây trạng nguyên bên mộ chồng cắm sang mộ bạn. Rồi cắm trước mộ bạn một tấm bia nền đen trên khắc hai câu thơ không đầu, không cưối, không tác giả lấp lánh ánh vàng:

...Vi anh khát một bát nước trong     

Nên phải uống cạn dòng sông đục...

Xong xuôi bà Lan Phương lững thững ra về. Hình như lòng bà thanh thản hơn và thiên nhiên làng quê hình như cũng thế.”. 

Cún Khóc, là truyện ngắn hài hước, ngộ nghĩnh về chuyện “có một nhà nọ” nuôi mèo để bắt chuột nhưng mèo lại ma mãnh thông đồng với lũ chuột đã thành tinh để lòe chủ nhà, bỡn cợt chủ nhà khiến chủ nhà phải nuôi chó thay mèo bắt chuột. Và rồi, chó trung thành là thế, mẫn cán là thế cũng bị lũ chuột đã thành tinh qua mặt, diễu cợt, chấp nhận bất lực mà gầm gừ “đau đớn” ngước nhìn “trên xà nhà, nóc nhà có tới bốn năm con chuột đang khả ố trêu ngươi”. Chuyện hài nhưng hay mà đau ở chỗ: Mèo được tạo hóa ban cho đầy đủ sức mạnh của thiên chức dùng để bắt chuột, diệt chuột thì lại quay sang “bắt tay” “câu kết” với lũ chuột đã thành tinh cùng diễn trò, bỡn cợt chủ nhà. Chó trung thành, mẫn cán, căm ghét lũ chuột, quyết tiêu diệt lũ chuột tới cùng nhưng vì sức mạnh của thiên chức bắt chuột, diệt chuột không có nên đành nhìn lũ chuột ngang ngược hoành hành mà ngậm ngùi nằm “khóc” vì bất lực.

Đọc Cún Khóc khiến người ta liên tưởng tới vấn nạn tham nhũng và thực trạng diệt trừ tham nhũng đang diễn ra trong xã hội Việt Nam nó hài hước mà xót xa, đau đớn làm sao. Ở truyện ngắn này, với lối viết nhẹ nhàng, hài hước, nhiều ẩn dụ... nhà văn Lê Mai đã mang đến cho bạn đọc nụ cười chua chát đi cùng những giọt nước mắt xót xa về chuyện của đời nhưng không phải là chuyện chỉ của riêng nhà “người ta”.

*   

Nhìn chung, 7 truyện ngắn của Lê Mai trên blog Trang Đặng Xuân Xuyến đều được viết với văn phong giản dị, câu chữ trong sáng. Tình tiết của truyện được sắp xếp nhẹ nhàng, hợp lý, các xung đột cũng rất ít khi được đẩy đến gay gắt, một mất một còn để truyện có điểm bùng nổ như Quyền Được Rên. Tuy vậy, 7 truyện ngắn của nhà văn Lê Mai đều rất đáng để bạn đọc bỏ công sức tìm kiếm.

Định cố viết giới thiệu đủ 7 truyện ngắn của Lê Mai đã đưa lên blog Trang Đặng Xuân Xuyến nhưng vì lưng tôi đau quá, cũng không thể để bài viết này dở dang lâu thêm nên 2 truyện ngắn: Hình Như Trong Sữa Có MáuCho Nó Có Đạo Đức xin được giới thiệu với Quý bạn đọc vào dịp khác.

*.

Hà Nội, ngày 06 tháng 06.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM ĐỌC GÃ KHỜ TRONG

“MỘNG MỊ” CỦA NHỤY GIALAI

*

Khi đưa bài thơ Mộng Mị của nhà thơ Nhụy GiaLai lên blog Trang Đặng Xuân Xuyến, mấy câu thơ đầu đã gây tò mò với tôi:

"Đôi khi tôi mơ thấy em

Cùng đi với một gã khờ

Em tươi xinh hồng má thắm

Gã khờ khệ nệ bầu thơ."

Tôi thích thú với cách mượn thơ kể “chuyện của gã khờ” nên đọc tiếp:

"Dừng bên đồi mơ lối mộng

Gã chọn lấy một bông hồng

Gói gém trang thơ màu tím

Trao nàng nhẹ gót sang sông."

Vẫn là những ngây ngô của chàng trai với người đẹp được khoác thêm 2 chữ lãng mạn, không mới. Định không đọc nữa nhưng khổ thơ thứ 3, tuy bị khớp câu đầu nhưng 3 câu tiếp theo đã níu tôi lại:

"Bến đò chiều, nàng sang sông

Sóng xô, xô cả đôi bờ

Bóng người mờ xa nhân thế

Gã còn đứng lặng ngẩn ngơ!"

Khổ thơ thật buồn với những câu chữ nhiều ẩn dụ, giàu hình tượng và gợi nhiều cảm xúc; như những nét vẽ sắc nét, vừa đủ độ để tạo nên một bức tranh chia ly giữa đôi bờ sông nước, với lãng đãng cảm xúc trầm buồn nhưng không u uẩn bi lụy. Chỉ tiếc, cách ngắt nhịp 3/3 ở câu: "Bến đò chiều, nàng sang sông" đã biến câu thơ còn yếu chất thơ thành câu nói khô khốc, lạc vần lạc điệu với 3 câu thơ nhiều ẩn dụ, đang đan xen hình ảnh, hòa quyện cảm xúc vào nhau để tạo nên một bức tranh đẹp: Sóng xô, xô cả đôi bờ / Bóng người mờ xa nhân thế / gã còn đứng lặng ngẩn ngơ!

Một bức tranh buồn ảm đạm, với những ám ảnh mơ hồ bởi một tình yêu cũng mơ hồ.

"Gã cùng thơ mãi lơ ngơ

Xuân xanh chợt hết bao ngày!

Chút duyên thầm ban sơ ấy

Xót xa đã chớm hao gầy..."

Gã đã khờ, lại làm thơ, nhìn đời như nhìn qua lớp khói sương bảng lảng nên hình ảnh, sự việc được phản chiếu lại cũng hư hư ảo ảo, đến quá nửa đời người rồi mà vẫn "mãi lơ ngơ", chưa hiểu hết căn nguyên duyên cớ nào "Gã và nàng yêu nhau lắm/ Yêu người, yêu cả hồn thơ" mà nàng nỡ "nhẹ gót sang sông", bỏ lại gã "lặng ngẩn ngơ" đến tận khi đã bước qua phía nửa bên kia của cuộc đời. Từ "chợt" trong câu "Xuân xanh chợt hết bao ngày" đã diễn tả đầy đủ, tinh tế nỗi xót xa về cái giá đã phải trả bởi sự ngu ngơ với đời, với tình yêu đến tội nghiệp của "", khéo léo đẩy câu thơ chạm vào trái tim người đọc, khiến người đọc cũng chơi vơi, thảng thốt...

"Nàng ra đi tìm hạnh phúc

Gã mòn lối bến bờ xa.

Nàng có quên, hay còn nhớ

Tình xưa rồi cũng phôi pha!"

Chữ "mòn" dùng ở khổ thơ này thật hay, đã lột tả được những tiếc nuối, cô đơn, những đằng đẵng kiếm tìm của “gã khờ” khi “nàng” buông bỏ gã để “đi tìm hạnh phúc”. Nàng yêu gã rất nhiều, hao phí tuổi thanh xuân với gã cũng đã thật nhiều nhưng gã cứ luôn mơ hồ trước tình yêu của nàng để vô tâm mơ hồ chạy theo "thú vui chữ nghĩa". Rong ruổi khắp đó đây với bầu thơ túi rượu cho thỏa chí tang bồng thơ phú, gã tìm kiếm hình bóng “nàng” đến "mòn lối bến bờ xa",... nhưng gã tìm “nàng” cho tình yêu đời thực của gã hay tìm “nàng” cho những tứ thơ? Gã không biết. Gã cứ mơ hồ ranh giới giữa hư với thực, giữa đời với thơ để những “lối bến bờ” tìm kiếm “nàng” ngày một thêm “xa”, thêm “mòn” dưới gót chân của gã.

Mạch thơ đều đều, dàn trải với tiết tấu 2/2/2 bỗng khựng lại ở câu thứ ba, rồi chuyển sang nhịp 3/3 bằng câu tự vấn của người kể chuyện: "Nàng có quên, hay còn nhớ" như lời độc thoại của gã khờ khiến tâm trạng người đọc chùng xuống, để cùng hắt ra tiếng thở dài buồn man mác: "Tình xưa rồi cũng phôi pha.".

Khi đã hiểu ra vấn đề thì "gã khờ " nhà thơ xuôi tay buông bỏ, chẳng nhiều tiếc nuối với bầu thơ chữ nghĩa:

"Bầu thơ - thôi, trút xuống sông

Chữ nghĩa lêu bêu xuôi dòng

Ai kia vô tình nhặt được

Khen chê, rồi cũng hư không…"

Nghe mà chua chát, hệt thói đùa của nhân thế.

Hai chữ "lêu bêu" như vết cắt, cứa thật sâu vào nỗi đau cười ra nước mắt của những người thơ, nghiệp thơ: chữ nghĩa chẳng giúp ích gì được cho đời, chỉ là những cuộc chơi vô bổ, của những phận người "lêu bêu" thất bại và luôn là của những tâm hồn trẻ con trú đóng trong thân xác người lớn, rồi tự khoác vào mình chiếc áo văn chương chữ nghĩa cho có vẻ ta đây cũng "gì lắm" với đời.

Tôi thích hai chữ "lêu bêu" này vì nó diễn tả được nhiều điều.

---------------

MỘNG MỊ 

 

Đôi khi tôi mơ thấy em

Cùng đi với một gã khờ

Em tươi xinh hồng má thắm

Gã khờ khệ nệ bầu thơ.

 

Dừng bên đồi mơ lối mộng

Gã chọn lấy một bông hồng

Gói gém trang thơ màu tím

Trao nàng nhẹ gót sang sông.

 

Bến đò chiều, nàng sang sông

Sóng xô, xô cả đôi bờ

Bóng người mờ xa nhân thế

Gã còn đứng lặng ngẩn ngơ!

 

Gã và nàng yêu nhau lắm

Yêu người, yêu cả hồn thơ

Nhưng tình không như mộng ảo

Và đời không như là mơ!

 

Gã cùng thơ mãi lơ ngơ

Xuân xanh chợt hết bao ngày!

Chút duyên thầm ban sơ ấy

Xót xa đã chớm hao gầy...

 

Nàng ra đi tìm hạnh phúc

Gã mòn lối bến bờ xa.

Nàng có quên, hay còn nhớ

Tình xưa rồi cũng phôi pha!

 

Bầu thơ - thôi, trút xuống sông

Chữ nghĩa lêu bêu xuôi dòng

Ai kia vô tình nhặt được

Khen chê, rồi cũng hư không…

*

NHỤY GIALAI

*

Hà Nội, chiều 03 tháng 08.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ

“NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ”

*

Chiều 30 tháng 09 năm 2019, nhận được tập thơ “Nhà Không Có Đàn Bà” của nhà thơ, họa sĩ Phan Võ Hoàng Nam gửi tặng, tôi háo hức ngồi đọc. Sách dày 96 trang, khổ 13x21cm, gồm 46 bài thơ, chủ yếu được viết ở thể thơ tự do, là những hồi ức, những cảm xúc về quê hương, cha mẹ, bạn bè, người xưa cũ...

Quê hương, trong ký ức tuổi thơ của nhà thơ, nhạc sĩ Phan Võ Hoàng Nam thật hiền hòa, thơ mộng, với những hình ảnh bình dị, trong trẻo, đẹp đến nao lòng:

"Ừ, đã xa.

Thuở ôm cây chuối lội sông.

Ba bốn đứa tranh nhau trái cà na thơm lựng.

Xuồng nhỏ tròng trành, cha quăng mẻ lưới.

Chiều xóm quê!

Canh chua rau nhút thơm lừng.

 

Mùa nước về quê,

Thuyền xuôi ngược trên đồng.

Mẹ đón cá ra sông ủ thêm lu nước mắm.

Em đến trường xắn quần lội qua cầu khỉ.

Con nước rong,

Trăng giỡn giữa đồng."

(Xa rồi mùa cũ)

Chỉ với 12 câu thơ trong 2 khổ thơ, nhà thơ Phan Võ Hoàng Nam đã tái hiện sinh động nhiều hình ảnh quê hương, nhiều kỷ niệm xưa với bạn bè, với cha mẹ, với người yêu... 

Cách viết không bó buộc câu chữ, không ràng buộc bởi bất kỳ niêm luật nào, cứ thoải mái phóng bút theo cảm xúc, cũng chẳng chủ ý gieo vần trong Xa Rồi Mùa Cũ đã tạo nhiều ấn tượng với người đọc. Có lẽ vì tình yêu quê hương trong Phan Võ Hoàng Nam sâu lắng và diết da lắm nên đã tự bật ra những thi tứ, thi ảnh và ngôn từ đậm chất sông nước miền Tây để Xa Rồi Mùa Cũ dễ dàng thẩm thấu vào cảm xúc của người đọc. Cách viết tự nhiên, phóng khoáng như thế, Phan Võ Hoàng Nam thành công không chỉ ở một vài bài.

Ngay cả khi viết về quê hương với nỗi lo cơm áo gạo tiền thì những mảnh đời được anh khắc họa cũng phóng khoáng, tự nhiên, cũng ấm áp tình, tươi rói niềm tin như bản tính vốn chân thành, mộc mạc của những người con sông nước miền Tây. Nếu không nặng lòng với quê hương, không thao thiết gửi trọn niềm tin vào ngày mai tươi sáng thì Phan Võ Hoàng Nam không thể viết được những câu thơ ấm áp, căng tràn sức sống thế này:

"Gã trai lực điền gật gà giấc ngủ.

Hồn phiêu diêu. Chốn cũ, vườn xưa.

Bàn tay ấm ngày bỏ quê lên phố.

Con đò trôi.

Cô thôn nữ dịu dàng."

(Chuyến xe chiều cuối năm)

Những hình ảnh đẹp như thế xuất hiện khá nhiều trong thơ Phan Võ Hoàng Nam. Tuy ở một vài bài thơ, gặp ở vài câu thơ viết về gánh nặng mưu sinh của những phận đời bươn trải như một quy trình “nối dài những nốt trầm ngọt đắng”: “Phố rồi lại phố” / “Mùa lại những mùa dong ruổi. Những mảnh đời đáng thương như thế, xuất hiện không nhiều trong “Nhà Không Có Đàn Bà”:

Phố rồi lại phố.

Mùa lại những mùa dong ruổi.

Tiếng rao đêm nối dài những nốt trầm ngọt đắng.

Rao bán bình yên

Mua thân phận làm người. 

(Tiếng rao đêm)

Đọc những bài thơ: Tháng Sáu, Xa Rồi Mùa Cũ, Sao Không Về Mỹ Đức, Khói Chiều Đồng Nước, Nắng Đồng Bằng... tôi chạnh lòng nghĩ về quê tôi. Cũng là làng quê Việt Nam, cũng là những người dân một nắng hai sương, chân chất hiền lành, sao An Giang quê anh giữ được nét mộc mạc, hồn nhiên, với những trong trẻo niềm tin vào cuộc sống yên bình, hạnh phúc, còn quê tôi thì sự đổi thay đang từng ngày tàn phá chất quê, hồn quê, để những người con xa xứ chúng tôi phải nghẹn ngào nuốt lệ.

Hay những câu thơ viết về Mẹ, dù là những ngậm ngùi "Mẹ một đời qua bao mùa lũ" "bủa lưới đồng sâu" "leo lét đèn dầu" để tần tảo lo toan cho cuộc sống gia đình thì tiếng lòng của nhà thơ Phan Võ Hoàng Nam vẫn ngân lên âm hưởng của những câu lý sâu lắng, những điệu hò ngọt ngào sóng nước miền Tây, không hề vương chút bi lụy, yếu đuối. Hồn Mẹ hồn Quê cứ đan quyện vào nhau, cứ trong trẻo ngân lên trong tâm tưởng của người con hiếu thảo:

"Mẹ một đời qua bao mùa lũ.

Thời con gái theo chồng bủa lưới đồng sâu.

Leo lét đèn dầu.

Xuồng câu dập dềnh sóng nước

Đói no, buồn vui

Con nước lớn ròng."

(Khói chiều đồng nước)

Tôi khựng lại khi gặp những câu thơ hay, bàng bạc buồn nhưng mà đẹp anh lặng viết về Mẹ:

"Cây ô môi sau vườn còn hoa đỏ.

Lũ sâu ngủ đông mơ cánh bướm rộn ràng.

Chiều.

Mẹ ra sông ngẩn ngơ đò dọc

Biền biệt người từ độ thu xưa"

(Năng đồng bằng)

Viết về Mẹ thì hầu như nhà thơ nào cũng có vài bài và đó thường là những bài nổi trội hơn cả của các nhà thơ. Có lẽ vì tình Mẹ bao la, sự hy sinh vô bờ của Mẹ với gia đình, với quê hương, đất nước nên thơ viết về Mẹ thường đằm sâu, thao thiết:

"Tháng chạp.

Mẹ chọn từng hạt nếp

Góp tình quê đợi phút sum vầy

Phía dòng sông cơn bấc còn se lạnh

Mẹ đã nghe ấm lửa đêm xuân."

(Xôn xao tháng Chạp)

Hay:

"Bến cũ còn đây,

Mẹ giờ xa khuất nẻo.

Cánh buồm trôi về chốn hư vô.

Ổ bánh nóng giòn, cánh hoa sao trong gió.

Trẻ thơ ơi lạc đâu mất lời ru."

(Tháng Bảy và Mẹ)

Đọc những câu thơ như thế hỏi ai không chùng lòng, không cắn môi để ngăn dòng lệ vì quắt quay nhớ Mẹ. Tôi cũng thế, khi đọc những lời thơ anh viết dâng Mẹ, tôi nhớ Mẹ tôi nhiều lắm. Tôi nhớ dáng xiêu xiêu với đôi quang gánh trên vai Mẹ tất tả về nhà. Tôi nhớ bữa cơm độn nhiều khoai sắn, Mẹ luôn giục chị em tôi ăn nhiều cho no bụng, rồi cuối bữa Mẹ chậm rãi vét miếng cháy, miếng khoai còn thừa, và nói: - "Mẹ ăn cho đỡ phí.". Vì thế, khi đọc những dòng thơ anh viết về Mẹ, tôi mấy lần phải buông sách đứng dậy, đi đi lại lại để ngăn dòng lệ chực trào.

Viết về sự cách biệt âm dương với Mẹ thì "Lá trầu vàng" / "trái cau xanh héo úa", được nhiều nhà thơ sử dụng, không mới, nhưng những hình ảnh bình dị, đời thường như thế, khi được Phan Võ Hoàng Nam đặt cạnh những hình ảnh: "Con ngẩn ngơ" / "Bờ lau trắng chiều xuân" của rất riêng anh thì lại có sức truyền cảm mới mẻ, làm lay động lòng người về sự nhớ thương Mẹ mỗi khi Tết đến Xuân về:

Lá trầu vàng.

Trái cau xanh héo úa.

Lễ tổ tiên cánh phượng bay xa.

Dòng sông trôi, con đò tách bến.

Con ngẩn ngơ .

Bờ lau trắng chiều xuân.

(Góc quê Xuân và Mẹ)

Bên cạnh những bài thơ viết về quê hương, về Mẹ, là những bài tình thơ đôi lứa chiếm dung lượng khá nhiều trong Nhà Không Có Đàn Bà”. Và tôi đã từng quan niệm: - “Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”, phải có những cắn, cấu, cong người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng, mới khoái, mới đã, mới đích thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í a í a thì quá chán...”. Với tôi, yêu là phải “máu lửa”, phải có những “đè”, “cắn”, “cấu”, “quấn”... nên không thích đọc những bài thơ dán nhãn thơ tình mà toàn những ỉ ôi mây trôi cá lượn, ne né từ xa để tránh diễn tả những hưng phấn (ham muốn) thể xác mà cuộc tình đó, đoạn tình đó nên có, phải có,... Thế nhưng khi đọc Phan Võ Hoàng Nam viết về tình yêu đôi lứa, mà lạ là những bài thơ đó chỉ viết những nhớ nhung anh dành cho (không ít) người yêu cũ, dù thiếu vắng những “cắn”, “cấu”, “cưỡng”, “ghì”... tôi lại chăm chú ngồi đọc. Có lẽ bởi tình yêu đó sâu lắng, thuần khiết, được chiết xuất từ trái tim cũng chỉ thuần khiết yêu?!

Tôi muốn viết thêm vài cảm nhận về thơ tình sâu lắng, thuần khiết của Phan Võ Hoàng Nam nhưng vì lưng đau quá, nên mảng thơ tình của anh xin hẹn sẽ đề cập vào một dịp khác.

*.

Hà Nội, 1giờ30 ngày 01.10.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “THÁNG TƯ MÀU NHỚ”

CỦA PHẠM ĐỨC MẠNH

*

Sáng nay, 30 tháng 04.2020, đọc bài thơ TÔI của Phạm Đức Mạnh, nhà phê bình Nguyễn Xuân Dương đã chia sẻ trên dòng thời gian của ông, tôi còm: “Cái giá của "chiến thắng" sao mà đắt thế? đau thế?”. Tối nay, đọc nhà thơ Phạm Đức Mạnh trả lời: “Còn hơn thế Đặng Xuân Xuyến ạ. Có người may mắn vượt qua, đổi đời. Có người không may mãi chìm ngập trong nỗi đau, cơ cực không thoát ra được.”. Tôi tự hỏi: - Chả có lẽ cái giá của chiến thắng là nhục? Là tội ác? Thế thì phũ quá, mà nói thế cũng chả hẳn đúng, chả nên. Tôi không trả lời ông vì tin ông đang đau lắm, đang hận cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” nhiều lắm. Nói đúng hơn, ông đang hận xã hội này với đầy rẫy những bất công, ngang trái, những mảnh đời sống không bằng chết đang hiển hiển trước mắt, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong cái xã hội đang dần mất đi những luân thường đạo lý, đang bị “tiền” - “quyền” và “côn đồ” khuynh đảo.

Chiều, đọc bài “Tháng Tư màu nhớ” của ông, tôi đã còm: “Những câu thơ như cứa vào tim người đọc!”. Và rất nhanh ông trả lời: “Để ta luôn nhắc mình đừng quên quá khứ, đừng bao giờ mất cảnh giác, thỏa hiệp,... Đặng Xuân Xuyến”. Rất tác phong người lính: nhanh và thẳng. Tôi cũng qua đời lính, cũng đã từng cầm súng giữ biên cương, đối diện với giặc Tàu (dù chỉ vài tháng) nên thích sự thẳng thắn, dứt khoát, mau lẹ trong hành xử (trả lời bạn facebook bình luận) của ông.

Đến giờ, tôi vẫn bị ám ảnh những hình ảnh người lính sau cuộc chiến bị chế độ phụ bạc, bỏ rơi như ông đã khắc họa trong “Tháng Tư màu nhớ”: Phũ, mà đau, nhưng oái oăm lại đúng, chả ai phản bác được vì đó là những lát cắt của cuộc sống đang diễn ra và chưa biết đến lúc nào sẽ kết thúc:

Tháng Tư

những người lính kiệt sức vì đạn bom

thoi thóp sống

lết tìm nhau

nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất

hàn rỉ sét chiến tranh

bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội

câu: “bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội” đau và đắt quá. Tôi ngẩn người với suy nghĩ có phần ngờ nghệch: Sao người ta cứ rầm rộ tổ chức những lễ kỷ niệm “ngày chiến thắng”, “ngày giải phóng” làm gì nhỉ? Giá người ta hiểu được nỗi đau bị bỏ rơi, bị phụ bạc của những người lính sau cuộc chiến: “bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội”, để giảm bớt những ngợi ca chiến thắng, những chúc tụng làm tứa máu hàng triệu con tim người Việt không chỉ một thời ở phía bên kia chiến tuyến thì hay biết bao.

Vâng. Những người lính “thoi thóp sống / lết tìm nhau” không chỉ để “nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất / hàn rỉ sét chiến tranh” mà còn “bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội” để an ủi phần hồn của những người đã nằm xuống. Tuy không hẳn tất cả đều vậy nhưng những hình ảnh như thế lại khá phổ biển thì đau và đáng hận lắm chứ?!

Khi đọc những câu thơ: “mẹ thắt ruột chờ con / nỗi đau tê dại / hình viên đạn chẻ đôi găm xé vào tim mẹ / đứa bên này / đứa bên kia / hết đối đầu chĩa súng vào nhau / sao lặng lẽ không về”, tôi lặng người nhớ tới những câu thơ tài hoa của nhà thơ Chử Văn Long: “Mùa xuân về trên mộ hai người lính / Một phía bên kia, một phía bên này / Những ngọn cỏ gà bò lan chầm chậm / Như những bàn tay tìm gặp bàn tay.” (Xuân về trên mộ hai người lính - Chử Văn Long). Tôi giật mình với suy nghĩ: Chiến tranh, mãi mãi chỉ những người dân, người lính mới thấm thía tội ác của chiến tranh bởi chỉ họ mới là những người phải trả giá, phải chịu mất mát, hy sinh vì thế dù “thắng” hay “thua” thì họ vẫn là những người bị mất mát, đau khổ nên thơ của những người dân, người lính mới đau với nỗi đau của tình người, của nhân tình thế thái.

Vâng. Cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” đã kết thúc 45 năm nhưng hệ lụy của cuộc chiến “nhồi da xáo thịt” có lẽ còn nhức nhối rất lâu.

--------------------------------

THÁNG TƯ MÀU NHỚ

 

Tháng Tư

đất trời rợp sắc đỏ

cờ

hoa

tiếng khóc vỡ òa màu nhớ

người qua cõi chết trở về

nổ bung nụ cười chiến thắng

non sông một dải nối liền

 

Tháng Tư

những người lính kiệt sức vì đạn bom

thoi thóp sống

lết tìm nhau

nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất

hàn rỉ sét chiến tranh

bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội

 

Tháng Tư

ký ức dâng tràn

mẹ thắt ruột chờ con

nỗi đau tê dại

hình viên đạn chẻ đôi găm xé vào tim mẹ

đứa bên này

đứa bên kia

hết đối đầu chĩa súng vào nhau

sao lặng lẽ không về

 

Trắng hồn khăn tang

kiếp phong trần bày lên niết bàn lạnh lẽo

mẹ thắp nén hương đắng đời sinh nở

dằn cơn vật vã cô đơn

húp cháo

chờ được phong danh hiệu

 

Tháng Tư

những ngôi biệt thự nguy nga

phơi quyền lực

giàu sang trước phố

ẩn náu gam xấu hổ

người qua vội bước chân xa

 

Tháng Tư

mùa tha thứ cho nhau

nhìn từ nhiều phía

hạnh phúc

khổ đau

ai muốn quên

ai hoài nhớ

 

Người lính

bị nhuốm chất độc da cam

ngâm đời trong bể khổ

làm sao gieo hạt tương lai

 

Ngày

sống ngồi niệm được thua

nuôi ký ức

 

Đêm

tập chết mơ chốn vô thường

chuông hồn

ru giấc thời gian cũng ám ảnh

giật mình…

*.

27.04.2020

Phạm Đức Mạnh

*.

Hà Nội, 20g35 ngày 30.04.2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

BÌNH THƠ

*

Thi thoảng vào trang facebook của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương, tôi gặp khá nhiều statuts và những dòng comment ngắn, ghi lại cảm xúc của ông về thơ của bạn thơ và những dòng “chia sẻ” đó thường nghiêng về “gợi mở” hơn là “bình”. Có lẽ ông chủ ý chỉ đứng ở vị trí là người “phát hiện” ra thơ hay còn cảm nhận thơ hay thế nào là việc của bạn đọc nên ngay cả những lời “gợi mở” ông cũng khá kiệm lời, ví như khi viết về “Lời Yêu” của Đồng Thị Chúc:

“Chập chờn như thể lời yêu

Lúc tha thiết lúc như điều không đâu

Em về mang áo ra khâu

Cây kim sợi chỉ để xâu chập chờn.

Chỉ bốn câu thơ mà ngổn ngang rối bời tâm trạng. Phải chăng cõi người đã thêm một định nghĩa hay khác đi thêm một phạm trù nữa của tình yêu. Tôi tin tất cả những người mới bắt đầu nếm trải cái vị ngọt, đắng của tình yêu đều có tâm trạng chập chờn như Đồng Thị Chúc. Trong cái lâng lâng dịu ngọt ban đầu ấy đã xuất hiện một nỗi lo âu. Bởi khi người ta quá hạnh phúc người ta lại lo âu đó là điều không có thực điều dễ mất đi nên cứ chập chờn khi có khi không. 

Rồi để tự trấn tĩnh mình nên “Em về mang áo ra khâu”. Tức là muốn được va chạm được nắm cầm những điều hiện hữu đó là tấm áo, sợi chỉ cây kim để như muốn chứng minh hay nói đúng hơn là để nhận biết mình đang tồn tại. Thế nhưng rồi em không thể khâu áo mà lại khâu cái chập chờn của lời yêu. Khâu nó vào đâu và sao lại phải khâu? Phải chăng em muốn giữ chặt nó mãi trong em không bao giờ nó còn chập chờn được nữa để rồi nó mãi là của em vì em đã xâu chặt nó vào tim em... vào đời em...

Thơ có cần gì nhiều đâu. Tôi nghĩ chỉ cần thế thôi cũng đủ để lưu danh trong cõi người ...”

Chả cần bình! Chỉ khoảng hơn mười dòng chia sẻ như thế cũng đã đủ để gợi mở tâm trạng rối bời với ngổn ngang những thấp thỏm nỗi niềm của kẻ đang yêu, khát yêu... cũng đủ để bạn đọc tự cảm nhận được sự dịu dàng, nữ tính và những đăm đắm yêu thương, những nhớ nhung bời bời trong thơ hay của Đồng Thị Chúc. Vâng, cái khéo của cây viết dạn dày Nguyễn Xuân Dương là thế. Người đọc cảm thấy thoải mái khi đi theo sự gợi mở của người viết vì người viết rất khéo cất đi cái tôi của mình. Hình như, đấy là cách viết được coi là chủ lực của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương?!

Hay những dòng status rất ngắn về “Vô Đề”, một bài thơ cũng rất ngắn (19 chữ) của Trịnh Loan:

“Em chẳng cách nào buộc chặt đôi cánh gió.

Chỉ có thể dịu dàng... 

Quàng khăn ấm cho anh!

Chỉ cần thế thôi đã là tất cả tình yêu em dành cho anh suốt cả cuộc đời. Đã mấy ai khi gió rét mưa dầm không thể buộc gió che mưa lại biết dịu dàng quàng khăn ấm cho anh trước mỗi sáng đi làm. Hình tượng người vợ tuyệt vời chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn ngủi. Trên đời này biết bao người khát thèm mơ ước hành động thật giản đơn như thế từ tấm lòng từ tay người vợ. Bởi không phải ai cũng nghĩ và làm được điều đơn giản đó ...

Thơ Trịnh Loan bao giờ cũng đầy ắp yêu thương

Ngắn, rất ngắn, ngắn đến kiệm lời nhưng chỉ vài dòng cảm nhận ngắn ngủi thế thôi đã đủ để đẩy bài thơ đến trái tim bạn đọc và nhanh lan tỏa. Thơ đã nén chặt, bình lại kiệm lời, bạn đọc thêm nhiều “đất” để thỏa sức phiêu bồng cảm xúc cùng thơ. Cách bình thơ này, nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã gặp nhà nghiên cứu Văn hóa Bùi Đồng ở điểm: xúc tích, ngắn gọn, không “áp đặt”, không “suy diễn”, chủ ý chừa lại “đất” để bạn đọc cảm nhận theo những cách riêng của bạn đọc. Cái tôi của tác giả bình thơ được chủ ý đặt khiêm nhường phía sau tác giả thơ để đẩy bài thơ thăng hoa cảm xúc cùng bạn đọc!

Đôi khi, gặp những bài thơ mà do rào cản của ngôn từ, khiến người đọc khó cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp trong thơ thì ông vận dụng sự hiểu và biết của mình để "dẫn dụ” bạn đọc khám phá cái hay, cái đẹp ẩn sâu trong câu chữ của bài thơ. Ví như khi bình bài thơ “Đêm Trắng” của Trần Đăng Khoa: “Đêm trắng lạnh, có một người không ngủ / Nhớ quê hương mà chẳng thể trở về / Ngoài cửa sổ cây bạch dương biết thế / Trổ lên trời lặng lẽ đóa trăng quê...”, ông đã dùng câu chuyện về sự tích 2 từ Thôi Xao để bật lên “tài năng và sự kì khu nghiêm cẩn về sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ Trần Đăng Khoa”. Cách bình thơ này đòi hỏi người bình phải có vốn sống, vốn kiến thức sâu rộng và làm chủ được cảm xúc để bài bình không sa vào “tán dương kiến thức”, để dẫn dắt được cảm xúc của người đọc thăng hoa cùng thơ.

Yêu cầu của việc bình thơ là phải đáp ứng được yếu tố phát hiện. Bài bình thơ chỉ ấn tượng với bạn đọc khi người bình phát hiện ra những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo hoặc nghệ thuật sử dụng câu chữ “đắc địa”, tài hoa... của nhà thơ. Khá nhiều bài bình thơ của tác giả Nguyễn Xuân Dương đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tuy nhiên, đọc các bài ông bình thơ, rất ít gặp ông bình sâu về nghệ thuật tu từ hay cách dựng tứ ở bài thơ mà thường là chia sẻ những cảm xúc, những phát hiện của ông về những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo, những cách dùng chữ “đắc địa”... với bạn đọc, ví như đoạn trích dẫn dưới đây trong bài “Trao đổi với nhà thơ Nguyễn Vượng về ngôn ngữ trong thi ca”:

"Rõ ràng cụm từ: BÊN ĐÂY BỜ VĨNH TẬN là một cụm từ sáng tạo của nhà thơ Dung Thị Vân. Hiểu thế nào về cụm từ đó chỉ có nhà thơ mới lí giải một cách cặn kẽ. Nhưng đôi khi sự lí giải ấy chắc gì đã được người đọc chấp nhận. Với tôi, tôi nghĩ đây thuộc về một giới hạn vô cùng của không gian và không chỉ là không gian mà còn là giới hạn của của cảm xúc. Qua đó hình như nhà thơ đã muốn bày tỏ về sự tận cùng vĩnh cửu của những tàn phai. Ta cứ phải mặc nhiên công nhận nó và ta cảm nhận sự mông mênh của thi ca. Ta thấy những câu thơ như thế chiếm đoạt được cảm xúc của con tim mà không hiểu được vì sao lại như thế. Nó rất hay, nhưng hay ở chỗ nào thì ta cũng không thể lý giải."

để bạn đọc thăng hoa cảm xúc cùng thơ theo cách cảm nhận riêng của bạn đọc. Có lẽ vì thế mà những bài bình thơ của ông dễ đồng cảm với người yêu thơ.

Khi đọc Nguyễn Xuân Dương giới thiệu “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo” của Nguyễn Đăng Thanh, tôi xuýt xoa, nghẹn ứ ngay ở những câu thơ đầu:

Em đứng trên bờ, tiễn chị về phía bên sông / Quay mặt bỏ đi, rẽ lối nào cũng gió / chị ơi, tháng ba… / đường làng mình nở đầy hoa Gạo đỏ / có lẽ, thấy em buồn / hoa khóc… rụng ở triền sông.”

Hay quá! Nhiều cảm xúc quá! Nhưng những câu thơ tiếp theo bị cái bóng sừng sững của “Lá Diêu Bông” chặn mất cảm xúc khiến tôi nản định thôi đọc, rồi tò mò đọc lời bình, tôi bị cuốn theo cảm xúc của Nguyễn Xuân Dương, ông đã xóa nhòa bức tường vô hình của “Lá Diêu Bông để tôi cứ cùng Nguyễn Đăng Thanh mà day dứt nhớ thương, mà trách cứ tủi buồn, mà rưng rưng lệ với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo”. Tôi comment cám ơn người bình: “Thơ hay nhưng người đọc không khoái lắm vì bị "Lá Diêu Bông" chặn mất nguồn cảm hứng. Khổ thế đấy. "Lá Diêu Bông" sừng sững như thế cơ mà! May thay, đọc lời bình của tác giả Nguyễn Xuân Dương, mạch cảm hứng với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo” lại dâng trào. Cám ơn nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã giới thiệu một bài thơ hay!”

Tôi nhớ có lần ông tâm sự, một ngày lên facebook mà không được đọc một bài thơ hay, không được viết cảm nhận về một bài thơ độc đáo, ấn tượng thì ông bứt rứt khó chịu nên khi gặp được bài thơ hay là ông cặm cụi viết cho thỏa đam mê, cho đã “cơn nghiền”.

Mặc dù luôn nâng niu cảm xúc khi bình thơ và chỉ viết lời bình khi cảm xúc dâng trào trước bài thơ hay, trước tứ thơ độc đáo, đẹp, lạ nhưng có lần nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương cũng để chữ tình vướng víu ngòi bút, ví như bài “Vô Đề” của Đỗ Cao Nhân:

“Trưa Sa Pa hửng nắng

Tối mưa lạnh Lai Châu

Hỏi người vùng sơn cước

Sáng mai đi về đâu.”

Khi đọc những lời cảm thơ vì tình bạn của ông: “Bài thơ thật giản dị hai câu đầu nói về chuyện mưa nắng của vũ trụ và chen vào đó là hai địa danh. Sự đột biến và cao trào thơ lại chính là hai câu dưới. Nhân vật trữ tình thứ hai chỉ là Người sơn cước và cái hay của thơ ở đây là chính chữ NGƯỜI không có giới tính.”, dù ông khéo léo rào dậu che chắn sự “nâng đỡ” “Vô Đề” ở mấy dòng kết bài: “Tôi rất trân trọng bài thơ này vì nó chẳng nói gì mà thực ra lại đã nói rất nhiều nếu ta biết chìm sâu vào phía sau con chữ và có lẽ cần thêm một chút lương duyên cùng nghề nghiệp ...”, tôi tin vẫn không ít bạn đọc sẽ hiểu sai ông viết vì “nhuận bút” do bạn đọc không biết chữ tình ông trân quý dành cho bạn bè, nhất là bạn cùng nghề Địa chất - nghề đã để lại không ít ký ức trong ông như một “nghiệp quả” của số phận.

Tôi đã comment dưới bài viết của ông thế này: - “Thực sự là người bình vì chữ TÌNH BẠN mà đẩy bài này lên quá xa, quá nhiều. Cháu rất xin lỗi 2 chú khi nói thật lòng! Cũng vì rất quý yêu những trang viết của chú Nguyễn Xuân Dương nên cháu mới thật lòng đấy ạ.”. Ông đã tế nhị gửi tin nhắn tới tôi: -“Cái khó của người cầm bút là chữ TÌNH anh ạ, nhất là khi chữ TÌNH đã trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời. Chú nghĩ, nếu vì chữ tình mà người viết thiệt thòi cái TÔI một chút để đem lại niềm vui nho nhỏ rất đáng cho bạn bè thì cũng nên, anh Đặng Xuân Xuyến nhỉ?!”.

Nhưng không phải trường hợp nào ông cũng xuề xòa vì 2 chữ tình bạn. Chẳng hạn, có lần ông đã thật chu đáo viết lời bình một bài thơ của nhà thơ ông rất yêu quý nhưng khi trao đổi về câu thơ (tên bài thơ) nhà thơ trích dẫn sai, ông quyết định xóa bỏ bài viết vì “sai sót thuộc về trích dẫn mà với câu thơ (thực ra là tên bài thơ) trích dẫn thì đã là người yêu thơ ai cũng thuộc, “người ta” sẽ đánh giá người bình luận kém hiểu biết hoặc người bình luận không nghiêm túc”. Hay lần khác, một nhà thơ mến mộ tài bình thơ của ông, gửi tặng ông tập thơ qua bưu điện với lời đề nghị “xin bác cho cháu vài lời cảm nhận”, ông thật lòng hồi đáp: -“Tôi thích cách sử dụng câu chữ sáng tạo của anh nhưng tôi không bình luận được dù đã đọc kỹ tập thơ anh gửi tặng. Câu chữ của anh đẹp lắm nhưng những chữ đó như cái xác đẹp mã mà thiếu hồn nên đọc xong cứ trôi tuột, chả đọng lại gì thì bình luận làm sao!”

Vì yêu thơ, vì nâng niu những cảm xúc do thơ đem lại nên ông hào phóng khen tặng những câu thơ hay, những thi tứ đẹp, ví như ông khen câu “Ríu chiều hiu hắt mưa” trong bài “Đọc “Rét Cằn” của Đặng Xuân Xuyến”:

Ôi! Yêu quá câu thơ: “RÍU CHIỀU HIU HẮT MƯA”. Giá có bình luận một câu thơ này thì như cổ nhân đã dạy: "Thuyết thi nhất thủ thị hàn tuyền", có nghĩa: Bàn về một bài thơ hay một suối sách vẫn không đủ. Với câu thơ này thì cứ cho là một khe sách vẫn chưa đủ.

Có những lúc xuất thần chỉ cần một câu thơ như thế bài thơ sẽ bừng sáng lên. Và như có lần Hoài Thanh đã nói về một bài thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã lưu danh”. Tôi nghĩ với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu danh trong đời. Bỏi vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa.”.

Hay như lời khen ông ưu ái dành cho “Em có về lối cũ của Đinh Tiến Hải (5):  “Sóng Tây Hồ / Xôn xao trên mắt nắng / Hồn lang thang / Mây dạt phía chân trời / Em có về? / Ngang qua mùa xưa cũ / Ngắm me vàng / Rụng mải miết lối đi”. Phải tinh tế và tài hoa lắm mới lưu giữ được những thi ảnh hư ảo này vào thi ca để gửi gắm cho người đọc cùng mê say và càng thêm tiếc nuối vì mấy ai trong chúng ta giờ có thể trở về ngồi bên bờ hồ Tây nơi Phủ Tây Hồ mà nhìn ngắm những mắt nắng xôn xao trên sóng nước hồ Tây hay sóng nước xôn xao trên mắt nắng.?”

Những bài thơ trên tất nhiên không dở nhưng đạt được như những lời ông đã phóng bút khen ngợi thì vẫn còn nhiều khoảng cách. Có lẽ vì quý các tác giả thơ, vì yêu những cảm xúc bài thơ đem lại mà ông hào phóng lời khen. Giá như ông tiết chế bớt một chút lời khen thì thật hay cho người đọc, hay cho người bình và hay cho cả tác giả thơ! Phải chăng ông quan niệm: Khen để khích lệ những tìm tòi, sáng tạo, những thành công của tác giả thơ thì khen quá một chút cũng chẳng sao?!

Vâng! Ông bình thơ nhiều lắm. Tôi không biết chính xác bao nhiêu bài nhưng với 2 tập Phê bình Văn học ông đã xuất bản và rất nhiều bài giới thiệu thơ, bình thơ trên trang facebook cá nhân thì có lẽ ông đã đồng hành cảm xúc, đã tiếp thêm “sinh khí” cho khoảng trên bốn trăm bài thơ để những bài thơ đấy trở nên hay hơn, đẹp hơn và nhanh lan tỏa.

*.

Hà Nội,19 tháng 05 năm 2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN

- THƠ TRẦN VẤN LỆ

*

Như một bài tập làm văn” là bài thơ sáng tác gần đây của nhà thơ Trần Vấn Lệ.

Thơ 5 chữ, cuốn hút người đọc ngay từ những câu thơ đầu:

"Gió không chừa ngọn cỏ

Mưa không chừa lá nào"

Tả thực mà tinh tế, nhiều gợi cảm. Chữ không thừa không thiếu, vừa đủ để người đọc “cảm thấy”, "nhìn thấy" trận mưa quét rát rạt đang diễn ra trước mắt.

Câu: "Mưa gió rung rinh rào" làm nặng thêm sức lạnh của gió mưa, khiến người đọc gai người rùng mình với cảm giác cô đơn trước khung cảnh hoang vắng, lạnh lẽo của chiều mưa gió.

Câu: "Hoa đào còn, rụng hết..." ngắt thành nhịp 3/2 với dấu chấm lửng ở cuối câu khiến dư âm buồn của trận mưa quét đã tàn phá cảnh vật thêm u ám, xót xa.

Không gian và thời gian càng lạnh lẽo và hoang vắng khi nhà thơ đặt "Người đưa thư, một mình" giữa "Rộng mênh mông phố xá", nhất là cách ngắt câu ở "Người đưa thư, một mình" thành 2 vế để tăng thêm sự cô tịch và đẩy sự hoang vắng lạnh lẽo của phố xá chiều mưa nhuốm thêm u buồn sang nỗi lòng của người thơ.

Từ "làm" cố ý lặp lại ở câu: "Làm việc và làm thinh" chủ ý để nhấn mạnh hình ảnh lẻ loi nhưng cần mẫn, trách nhiệm với công việc trong suy nghĩ, hành động của người đưa thư.

"Cái bóng hình” người đưa thư “quen thuộc!" được Trần Vấn Lệ vẽ tiếp bằng những câu chữ bình dị, đời thường mà thật ấn tượng:

"Ông vẫn đi từng bước

Dừng lại trước từng nhà

Cái hộp thư mở ra

Cái hộp thư khép lại..."

Tôi bị những câu thơ này ám ảnh.

Hình ảnh người đưa thư cần mẫn, lặp lại đều đều những hành động đơn điệu, tẻ nhạt nhưng cần mẫn, chỉn chu như một lịch trình sắp đặt sẵn được nhà thơ quan sát kỳ thú và kĩ lưỡng đến từng chi tiết. Hai câu: "Cái hộp thư mở ra / Cái hộp thư khép lại..." thật ám ảnh những nỗi niềm về cõi người, phận người.

Rồi nhà thơ chạnh buồn, hẫng hụt:

"Mai, Chúa Nhật thì phải?

Sẽ không được thấy ông!

Phố xá đã mênh mông

Sẽ mênh mông thêm chút..."

Cặp từ "mênh mông" được sử dụng như điệp từ, lặp lại ở câu 3 và câu 4 của khổ thơ đẩy nỗi buồn thêm se sắt.

Nhịp thơ dàn trải, trầm buồn bỗng vướng chút loạn nhịp, tiết tấu thay đổi, với những hình ảnh khá đắt: "Mưa như cầm bình trút / Gió vẫn như lá cờ” khi dùng để ám dụ trận "cuồng phong" đang "nổi loạn" trong lòng thi sĩ:

"Mưa như cầm bình trút

Gió vẫn như lá cờ

Mưa gió và gió mưa

Cách ly đời ly cách..."

Đến đây người đọc mới vỡ lẽ nhà thơ bị "cầm tù" trong bốn bức tường bởi dịch virus Vũ Hán nên ông khao khát được “tự do”. Sự đảo từ "mưa gió" thành "gió mưa", "cách ly" thành "ly cách" ở ngay trong câu 3 và câu 4 của khổ thơ được sử dụng như một thủ pháp để diễn tả tâm trạng bức bối, tù túng, khao khát được tự do không chỉ của riêng nhà thơ Trần Vấn Lệ trong những ngày “cách ly xã hội” phòng chống virus Vũ Hán.

Nếu ở những khổ thơ trước là tâm trạng u buồn do ngoại cảnh (dịch virus Vũ Hán) tác động tới (cách ly xã hội) thì ở những khổ thơ cuối bài là tâm trạng u uẩn, đằm sâu trong trái tim người xa xứ. Hình ảnh người đưa thư lặp đi lặp lại suốt bài thơ như những thước phim quay chậm sự đơn độc nhưng cần mẫn, chỉn chu với công việc của người trung chuyển, để giữ sự bình yên, ấm êm cho xã hội.

Hình ảnh ấy khiến người con xa xứ nghẹn lòng khi nghĩ tới những lo toan, vật lộn tìm kiếm kế mưu sinh của những người thân nơi đất Mẹ Việt Nam giữa đại dịch virus Vũ Hán. Nhà thơ thốt lên:

Tôi nhớ quá Việt Nam

Mẹ Cha cõng mưa nắng...

Rồi kết thúc bài thơ ở kết mở, ai nghĩ sao thì tùy:

Cho tôi được im lặng

khi nghĩ về Quê Hương!

Tôi không thích cái kết của bài thơ như thế! Bởi yêu Quê Hương ai lại chọn giải pháp im lặng? Bất kỳ lý do nào, hoàn cảnh nào thì tôi nghĩ giải pháp: "Cho tôi được im lặng / khi nghĩ về Quê Hương" vẫn thuộc tâm thế của người có tình yêu Quê Hương chưa đủ lớn để vượt qua những trở ngại của phép tính giữ mình.

Nhưng đấy là quan điểm của tôi, theo góc nhìn của một bạn đọc. Còn kết thúc bài thơ thế nào? Ý tứ ra sao là quyền của nhà thơ Trần Vấn Lệ.

Với tôi, "Như một bài tập làm văn" là bài thơ nhiều cảm xúc, nhiều ám ảnh!

--------------

NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN

 

Gió không chừa ngọn cỏ
Mưa không chừa lá nào
Mưa gió rung rinh rào
Hoa đào còn, rụng hết...

 

Không thể nói là ghét
Không thể nói là thương
Không Địa Ngục, Thiên Đường
Im lặng. Buồn khôn tả!

 

Rộng mênh mông phố xá
Người đưa thư, một mình
Làm việc và làm thinh
Cái bóng hình quen thuộc!

 

Ông vẫn đi từng bước
Dừng lại trước từng nhà
Cái hộp thư mở ra
Cái hộp thư khép lại...

 

Mai, Chúa Nhật thì phải?
Sẽ không được thấy ông!
Phố xá đã mênh mông
Sẽ mênh mông thêm chút...

 

Mưa như cầm bình trút
Gió vẫn như lá cờ
Mưa gió và gió mưa
Cách ly đời ly cách...

 

Người đưa thư che mặt
Cái khẩu trang đẫm mưa
Ông không thấy bơ vơ
Bạn ông là công việc!

 

Tôi từng thấy xứ tuyết
Người đưa thư đi làm!
Tôi nhớ quá Việt Nam
Mẹ Cha cõng mưa nắng...

 

Cho tôi được im lặng
khi nghĩ về Quê Hương!

*.

TRẦN VẤN LỆ

*.

Hà Nội, 19g45 ngày 10-07-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “ĐÔI BỜ SÔNG BẾN HẢI”

VÀI LỜI VỚI NHÀ THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI

*

Khi đọc bài thơ “Đôi Bờ Sông Bến Hải” của nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải với những câu thơ:

"Hai bờ sông Bến Hải

Những đứa con của mẹ sao lại bắn vào nhau?!

Mẹ ở phía bên nào cũng giữa hai làn đạn

Dù ở bờ bên nào cũng đều ghê tiếng súng

Chia cắt một cây cầu không hiểu tại làm sao!?"

người đọc dâng trào nỗi xót xa với những câu thơ đau đáu nỗi niềm, tưởng người viết ra những câu thơ đó là người được thụ hưởng sự giáo dục tử tế sẽ có trái tim ấm áp và trách nhiệm đúng mực nhưng thật buồn khi người đọc đọc phải những câu thơ nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải xúc phạm những người Mẹ miền Nam:

"Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ huân chương

Bờ Nam, mẹ một đời cúi mặt"

Chiến tranh "huynh đệ tương tàn" đã qua lâu rồi. Nỗi đau của cuộc nội chiến cũng đang dịu dần và những người Mẹ ở cả 2 miền Nam - Bắc cũng đã chung sống yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong cùng một thế chế xã hội. Các Mẹ vẫn luôn hiện hữu bên cạnh con cháu, động viên con cháu tuân thủ hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, cùng nhau làm giàu cho gia đình, làm giàu cho Đất Nước.

Nhà nước cũng luôn đề cao tinh thần hòa hợp dân tộc, gác lại những bất đồng về ý thức hệ chính trị của quá khứ để cùng chung tay xây dựng và bảo vệ Đất nước, cớ sao nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải với bề dày hơn 50 năm cầm bút lại tàn nhẫn khi miệt thị các Mẹ miền Nam, chống lại chính sách hòa hợp dân tộc của Nhà nước bằng 2 hình ảnh đối lập?!.

"Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ huân chương

Bờ Nam, mẹ một đời cúi mặt"

Con cháu các Mẹ tham gia vào cuộc chiến "huynh đệ tương tàn" đâu phải là lỗi của các Mẹ mà các Mẹ phải "một đời cúi mặt" với tâm thế của những kẻ tội đồ.?!

Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải có biết như thế là hỗn khi viết những lời bất kính với các Mẹ?!

Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải có biết như thế là gián tiếp chia rẽ sự đoàn kết, tiếp tay cho kẻ xấu phá rối tinh thần hòa hợp dân tộc?!

--------------

ĐÔI BỜ SÔNG BẾN HẢI

 

Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ huân chương

Bờ Nam, mẹ một đời cúi mặt

Cũng chỗ ướt mẹ nằm

Đều cùng từ một bọc

Giuã cây cầu hai bà mẹ đều đau ...

 

Hai bờ sông Bến Hải

Những đứa con của mẹ sao lại bắn vào nhau?!

Mẹ ở phía bên nào cũng giữa hai làn đạn

Dù ở bờ bên nào cũng đều ghê tiếng súng

Chia cắt một cây cầu không hiểu tại làm sao!?

 

Hai phía từ đâu ra cùng một bọc đồng bào

Không có cuộc chiến tranh nào không làm đau lòng mẹ

Ai đã đẩy các con về hai phía

Mẹ ở bờ bên nào cũng đau nỗi đau chung

 

Nối lại một cây cầu lòng mẹ bao dung

Cùng thả xuống dòng sông một niềm đau như xé

Xin đừng ai làm đau thêm lòng mẹ

Dưới đáy sông Bến Hải có nhìn lên?!

 

Đôi bờ sông Bến Hải có nhìn

Giuã cây cầu nhìn nhau hai bà mẹ

Cùng nhìn xuống dòng sông

Dắt tay nhau cùng đi về một phía

Nối nhịp một cây cầu vòng hoa trắng đang trôi ...

*.

NGUYỄN HƯNG HẢI

Làng Hùng Đô, xã Lam Sơn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.

*.

Hà Nội, 27 tháng 09-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ TÌNH

CỦA CẬU HỌC TRÒ LỚP 12

*

Đọc 2 bài thơ tình "Tôi đi tìm tiếng ơi" và "Giết" của Nguyễn Tấn Thành tôi thấy lạ lắm: Thật diết da, thật khắc khoải, thật hy vọng và cũng thật nhiều bi lụy, tuyệt vọng. Tất cả những cung bậc tình cảm đó đều có trong 2 bài thơ "Tôi đi tìm tiếng ơi" và "Giết".

Những câu thơ đẫm lệ với xám xịt màu hy vọng tình yêu của Nguyễn Tấn Thành thật có sức ám ảnh người đọc:

Tôi đang gọi. Sao chẳng thấy ai "ơi"?

Ai đáp "ơi", nơi nào tôi xin tới

Cho thỏa mong, hai mảnh hồn chờ đợi

Tiếng đáp "ơi", tôi chờ đến bao giờ?

(TÔI ĐI TÌM TIẾNG ƠI - Nguyễn Tấn Thành)

Đọc những câu thơ như thế của anh tôi chợt nhớ tới những câu thơ mời gọi, van lơn, xót xa đến đứt ruột của cô kỹ nữ trong thơ Xuân Diệu:

"Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;

Vội vàng chi, trăng lạnh quá, khách ơi!

Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời;

Khách không ở, lòng em cô độc quá!

Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,

Tay em đây mời khách ngả đầu say;

Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,

Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.

Chớ đạp hồn em! Trăng về viễn xứ."

(LỜI KỸ NỮ - Xuân Diệu)

Tôi chép thơ Xuân Diệu ra đây không có ý để so sánh thơ của anh với thơ của "Hoàng tử thi ca" Xuân Diệu vì như thế là khập khiễng, là ngô nghê nhưng những câu thơ đã trích dẫn ở trên của Nguyễn Tấn Thành được viết khi anh đang là cậu học trò lớp 12 (2016) tuy không phải là những câu thơ hay nhưng tôi tin nhiều người thơ cũng không viết được những câu thơ gợi nhiều cảm xúc như thế. Thật tiếc, khi trở thành sinh viên khoa Văn học và Ngôn ngữ (đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh) thì thơ anh không viết bằng cảm xúc thật của tiếng lòng nên nhợt nhạt, thiếu nhựa và không có hồn. Trang Đặng Xuân Xuyến chỉ mới giới thiệu mấy bài thơ của cậu học trò cấp 3 Nguyễn Tấn Thành vì những bài thơ ấy giàu cảm xúc, nhiều ám ảnh người đọc.

Thơ tình ("Tôi đi tìm tiếng ơi" và "Giết") của Nguyễn Tấn Thành, của cậu học trò cấp 3 tỉnh Bến Tre, có gam màu lạ lắm. Nó diết da mà nhuốm màu u uẩn. Nó cháy bỏng khát khao mà phủ kín nỗi đớn đau, bi lụy!

Đọc những câu thơ:

Rồi ngày tàn, bóng tối phủ muôn nơi,

Trong đêm mơ, tôi vẫn sầu vời vợi,

Mộng gặp ai đáp lại giữa cuộc đời,

Tôi chợt tỉnh! Tiếng "ơi" kia vẫn đợi.

(TÔI ĐI TÌM TIẾNG ƠI - Nguyễn Tấn Thành)

tôi cứ hỏi: Sao tình yêu của Nguyễn Tấn Thành lại bi lụy, tuyệt vọng đến thế? Thứ tình yêu xám xịt niềm tin mà cậu học trò lớp 12 đang đau đáu khắc khoải là thứ tình yêu gì vậy? Trên đời này thực tồn tại thứ tình yêu đó thật sao?

Đọc thơ anh, tôi thích cách viết của cậu học trò lớp 12 Nguyễn Tấn Thành khi anh viết về những cuộc “truy hoan” giữa 2 thực thể mê đắm yêu nhau: Êm ái nhưng đủ sự cuồng nhiệt, dữ dội, nhẹ nhàng nhưng đủ nỗi khát khao, khêu gợi:

Ta giết nhau bằng lưng chừng thương nhớ

Khi đã trao từng nhịp thở nồng nàn

Đôi tay hờ trên xương thịt mê man

Lối sơn khê người dò hang tìm tối.

(GIẾT - Nguyễn Tấn Thành)

Câu chữ Nguyễn Tấn Thành dùng vừa đủ dẫn người đọc thả sức tưởng tượng để bước vào cuộc truy hoan tình ái với những mê đắm, khát khao, những dữ dội, cuồng nhiệt nhưng lại thật êm ái, nhẹ nhàng, không vướng tí ti nào khêu gợi sự dâm tục. Một cậu học trò lớp 12 mà viết về “những cuộc truy hoan" dày dạn cả kinh nghiệm "dục tính", cả kinh nghiệm "tả dục tình" nóng bỏng mà không sa vào "dâm thơ" như thế thì quả thật rất đáng khen ngợi.

Khi đọc những câu thơ:

Ta giết nhau bằng lưng chừng lo sợ

Một chuyện tình chẳng viết được nên thơ

Người bỏ dở gục đầu trên giấy trắng

Kẻ viết hoài dù mặn đắng bờ môi.

(GIẾT - Nguyễn Tấn Thành)

Tôi như gặp lại một chút tâm trạng của mình khi viết "Mơ Trăng":

"Em rướn mình hà hít nụ hôn anh

Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội

Môi khóa môi mà sao xa vời vợi

Đêm cuống cuồng khoả lấp nỗi chơi vơi."

nhưng chuyện tình của "Mơ Trăng" là cuộc tình một bên cuống quýt được thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, vội vã tận hưởng những phút giây ân ái, một bên lặng người, xót xa, tội nghiệp cho tình yêu "em" đang dâng hiến và cũng tê tái cho cuộc tình ngang trái của cả hai. Còn chuyện tình của "Giết" thì hoàn toàn khác, cả 2 đều yêu nhau, đều khao khát dâng hiến, đều khao khát được mãi bên nhau nhưng oái oăm, cả 2 đều xót xa buông bỏ, tự rời xa nhau vì "Một chuyện tình chẳng viết được nên thơ".

Hai câu cuối của khổ thơ những ầng ậc nước mắt của hai kẻ yêu nhau, khao khát trọn đời bên nhau nhưng người đọc không hiểu vì "trắc trở tình duyên" nào mà kẻ chấp nhận buông bỏ, kẻ vẫn cố kiên trì bấu víu để nuôi dưỡng chút hy vọng mong manh từ chính trong sự “trớ trêu”, "oan nghiệt" của cuộc tình:

Người bỏ dở gục đầu trên giấy trắng

Kẻ viết hoài dù mặn đắng bờ môi.

(GIẾT - Nguyễn Tấn Thành)

Không biết lý do nào khiến 2 kẻ yêu nhau, khao khát bên nhau đến răng long đầu bạc lại cay đắng “tự nguyện” buông bỏ? Nguyễn Tấn Thành không nói. Người đọc chỉ mơ hồ suy đoán có thể cuộc tình đó bị gia đình cấm cản vì không "môn đăng hộ đối", vì 1 trong 2 người đã có vợ có chồng hoặc có thể vì chênh lệch tuổi tác quá lớn,... Tất cả nhưng suy đoán đó càng khó hiểu, thậm chí là hoang mang khi Nguyễn Tấn Thành mở đầu 3 khổ thơ liền nhau đều bằng mệnh đề "Ta giết nhau bằng lưng chừng..." lần lượt với: thương nhớ, bối rối, lo sợ. Đó là sự sắp xếp chủ ý theo cấp độ gia tăng tình cảm của tác giả.

Ôi! Tình yêu mà phải “Ta giết nhau bằng lưng chừng...” để bi lụy vì tình thì chua xót nào bằng?! Tình yêu là phải được thăng hoa, phải được "đốt để cháy hết mình” với tình yêu chứ cứ “lưng chừng”, “nửa vời” “đứt đoạn” như thế thì thật xót xa, tội nghiệp!

Đọc những bi lụy tình của Nguyễn Tấn Thành tôi lại nhớ những dữ dội tình, những cuồng nhiệt tình kiểu "trắng phớ" "tất tay" của Trần Hạ Vi. Tôi thích "cách tỏ tình (đúng hơn là cách gạ yêu) của Trần Hạ Vi: “Yêu em đi” rất thẳng thắn, huỵch toẹt, chẳng màu mè, làm giá như những ả nàng. Sự chân thành đến dạn dĩ, mạnh bạo đến trần trụi, và tinh thần “tử vì tình”, chấp nhận thua thiệt trong tình yêu, dẫu biết tình yêu ấy là trái ngang, trắc trở, là bia miệng của người đời thì vẫn cứ bất chấp, vẫn cứ: “Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa/ Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa” như Trần Hạ Vi thì quả thật ngay trong giới mày râu cũng khối kẻ lấm lét đứng nhìn." (ĐỌC "TÌNH NHÂN ƠI" CỦA TRẦN HẠ VI - Đặng Xuân Xuyến).

Tôi thầm hỏi: Tình yêu lạ thế? Kê là đấng nam nhi sao lại rụt rè, không dám cháy hết mình với tình yêu để rầu rĩ chịu cảnh tình bi lụy, ngậm ngùi kêu rên những tiếng tang thương phẫn uất, còn người mang phận liễu yếu đào tơ lại mạnh mẽ, thẳng tuột với khát vọng cháy mình cho yêu, vì yêu?!

Rồi lại thắc mắc: Nhưng mà "Giết" và "Tôi đi tìm tiếng ơi" là thơ của cậu học trò lớp 12, ở lứa tuổi trong trắng hồn nhiên, nhiều đam mê, tươi trẻ, nhiều khát vọng khám phá, chinh phục... sao u ám và bi lụy đến vậy?!

Phải chăng đó là những ẩn ức sinh lý, những tổn thương tâm lý đã gây sang chấn tâm lý khiến thơ tình được cất lên từ tiếng lòng của Nguyễn Tấn Thành mới lạ lẫm với những gam màu u uẩn rất riêng như thế?!

*.

Hà Nội, 28 tháng 10 năm 2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ

“NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN”

*

Tôi gặp lại tiếng thơ nỗi lòng của Trần Mai Ngân khi đọc "Nói Với Mẹ - Mùa Xuân". Vẫn là cách viết đơn giản, không có gì đặc biệt, chỉ là những câu tự sự bình thường, những câu thơ chị thủ thỉ chuyện trò với di ảnh của Mẹ:

“Chiều nay về con cùng ngồi với Mẹ

Con nói nhiều mà Mẹ chỉ lặng im”

Vâng, chỉ thủ thỉ vậy thôi mà nghe những xót xa, những chất chứa hờn tủi. Lạ thế. Đọc những câu thơ mộc mạc, chân chất, không hề sử dụng chữ nào diễn tả sự hờn tủi, xót xa mà lòng lại trĩu nặng nỗi buồn, lại thấy xót xa cảnh cút côi vì vắng Mẹ? Đó là sự khéo léo dùng thi ảnh để lấy xúc động nơi người đọc của Trần Mai Ngân hay đấy là tiếng đích thực chân thành của con tim mà câu thơ chị viết mới dễ dàng chạm được vào trái tim người đọc?! Có lẽ thơ của chị được viết bằng những cảm xúc thật nên những câu thơ mộc mạc tự nhiên, không uốn éo làm dáng mới gây được xúc động nơi bạn đọc.

Thì đây, vẫn là những câu chị thủ thỉ với di ảnh Mẹ mà sao cứ nhoi nhói tâm can người đọc:

“Sao dưng không con lại khóc một mình

Năm sắp hết ... chín Xuân liền vắng Mẹ!”

Trần Mai Ngân lấy nước mắt bạn đọc ở những câu thơ "nỗi lòng" như thế. Tôi yêu thơ chị có lẽ cũng bởi cái duyên thầm từ những câu thơ như vậy.

--------------------------------

NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN

.

Chiều nay về con cùng ngồi với Mẹ

Con nói nhiều mà Mẹ chỉ lặng im

Khói hương bay qua năm tháng nỗi niềm

Con không khóc cho Mẹ vui trọn vẹn

.

Trong di ảnh mắt Mẹ nhìn xa lắm

Như mông mênh... con ở lại thế nào

Dẫu đắng cay xin vẫn lấy ngọt ngào

Trên mây trắng Mẹ yên tâm siêu thoát

.

Chiều nắng tắt chẳng muốn rời xa Mẹ

Đôi mắt con, đôi mắt Mẹ vẫn nhìn

Sao dưng không con lại khóc một mình

Năm sắp hết ... chín Xuân liền vắng Mẹ!

.

Con về nhà đây- đường buồn quạnh quẽ

Dáng đơn côi con bước nốt cuộc đời

Năm sắp hết nhà mình sẽ đón Tết

Hoa đầy nhà hương tỏa mãi ngày xưa!

*.

TRẦN MAI NGÂN

*.

Hà Nội, ngày 03 tháng 12-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ

“ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ”

*

Đọc “Đom Đóm Tuổi Thơ” của Kiên Duyên, tôi thích 2 câu thơ:

"Mẹ chong đèn đan sợi cói bao giờ

Vài đồng lẻ mua mắt mờ trước tuổi..."

Sự vất vả bởi cuộc sống khốn khó nơi thôn quê được Kiên Duyên tạc bằng tượng hình MẸ với những hình ảnh gần gũi, đậm chất quê, xưa như cảnh làng quê Việt Nam đã tồn tại bao đời.

Giọng thơ cũ, hình ảnh cũ nhưng Kiên Duyên đã làm mới cách thể hiện nên câu thơ mộc mạc mà lấp lánh, đằm sâu lòng biết ơn và sự kính trọng với đấng sinh thành.

Viết về mẹ đã có rất nhiều bài thơ hay, nhiều câu thơ làm day dứt lòng người, ví như những câu thơ tinh tế, nhiều sáng tạo của Nguyễn Xuân Môn: “Quá mười tư chẳng có rằm / Nhả bao tơ trả kiếp tằm… mẹ ơi! / “Cá chuối đắm đuối…” quên đời / Cho đầy con, mẹ chắt vơi cạn mình” (Mẹ Tôi), hoặc những câu thơ tài hoa của Văn Thuỳ "dị nhân": "Vinh hoa con ướm trên người / Phất phơ tóc mẹ dệt lời yêu thương / Đã đi nhẵn một con đường / Còn nghe tóc mẹ bốn phương rối bời / Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái gianh" (Tóc Rối Của Mẹ Năm Xưa). Hay những câu thơ tuyệt hay viết về Mẹ của Trần Đăng Khoa: "Cánh màn khép lỏng cả ngày / Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa / Nắng mưa từ những ngày xưa / Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan" (Mẹ Ốm), hoặc những câu thơ như được chắt ra từ tấm lòng hiếu thảo với Cha của Nguyễn Quang Thiều: "Con từng ba dại bảy điên / Chén trà con rót tràn miền đắng cay / Phận con nhàu trọn lòng tay / Một câu thơ bạc một ngày vô ơn / Chén trà, con có gì hơn / Mời cha rồi nuốt tủi hờn sau cha" (Dâng Trà).

Câu thơ "Vài đồng lẻ mua mắt mờ trước tuổi..." chưa là câu thơ tuyệt hay nhưng sự sáng tạo trong cách dùng câu chữ để thể hiện hình ảnh, tâm cảm đã làm câu thơ lấp lánh, sáng đẹp lên nhiều! Đây là thành quả của tinh thần lao động nghiêm túc và sự sáng tạo rất đáng trân trọng của Kiên Duyên!

Cách viết của "Đom Đóm Tuổi Thơ" tuy không mới, vẫn trung thành với lối viết của thơ truyền thống nhưng sự làm mới cách thể hiện câu chữ để diễn tả tâm cảm, hình ảnh ở một số câu thơ đã khiến những câu thơ đó tạo được điểm nhấn, vượt lên như những điểm sáng để bài thơ lung linh, nhanh lan tỏa.

Đọc xong bài thơ mà dư âm của những câu thơ:

- "Con cá đớp mảnh trăng rơi trầm mặc

Một mình em gom cay đắng cuộc đời"

- "Mẹ chong đèn đan sợi cói bao giờ

Vài đồng lẻ mua mắt mờ trước tuổi.."

cứ vấn vít mãi trong đầu.

--------------------------------

ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ

 

Đêm lao xao nghe bờ tre thổn thức

Mảnh trăng rơi miền ký ức theo về

Chị theo chồng từ dạo ấy hai quê..

Để thu chớm nghe não nề xóm vắng..

 

Con cá đớp mảnh trăng rơi trầm mặc

Một mình em gom cay đắng cuộc đời..

Tuổi thơ buồn ngày giáp hạt chị ơi..

Đêm vó tép một trời thơ ở lại..

 

Bờ ao quê đâu tiếng cười con gái..

Những quê mùa thuở ấy mãi ngây ngô..

Mẹ chong đèn đan sợi cói bao giờ

Vài đồng lẻ mua mắt mờ trước tuổi..

 

Nghe thu chớm đêm ru tàu lá chuối

Tuổi thơ ơi sao gọi chẳng trả lời..

Chị em mình giờ mỗi đứa một nơi..

Để áo mẹ lâu lắm rồi không vá..

 

Em níu lại ngày xa xưa nhớ quá..

Gọng vó gù bao vất vả lo toan..

Mảnh trăng thu sao vụn vỡ ao làng

Rơi xuống đáy vỡ tan thành đom đóm..

*.

KIÊN DUYÊN

*.

Hà Nội, ngày 04 tháng 12-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ

VIẾT VỀ CHIỀU 30 TẾT

*

Tôi đọc bài thơ "Chiều Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại cũng khá lâu rồi, cách đây chắc cũng vài năm.

CHIỀU CUỐI NĂM

 

Chiều ba mươi tết về quê

Mẹ còn tất tả nón mê ra đồng

Ruộng còn một thửa chưa xong

Mạ non mẹ cấy lưng còng chiều đông

 

Bao nhiêu công việc nhà nông

Chìm trong giá buốt, còn trông tới mùa

Một đời vất vả nắng mưa

Một đời cơm áo sớm trưa... một đời

 

Con đi xa đã lâu rồi

Dù thương không nói nổi lời tri ân

Đàn cò mỏi cánh phân vân

Xà xuống bờ ruộng cho gần mẹ ta

 

Cấy xong trời đã xế tà

Bước chân xiêu vẹo về nhà cúng cơm

Hương, hoa, cơm mới ngát thơm

Dâng lên tiên tổ ghi ơn đức dày

 

Hôm nay con trở về đây

Mẹ không còn nữa hao gầy nén nhang

Khói bay bảng lảng mơ màng

Rước mẹ về đón xuân sang, lệ nhoà ...

*

ĐỒNG DUY TOẠI

Ngày đó định viết đôi lời giới thiệu về bài thơ nhưng rồi lấn cấn việc nọ việc kia nên tôi chưa làm được.

Chiều nay, 04/12/2020, gặp bài thơ "Chiều Ba Mươi Tết" của nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải trên trang facebook nhà thơ đại tá Quân đội Nguyên Hà, tôi tò mò đọc vì thấy mấy câu ở khổ thơ đầu khá giống với khổ thơ đầu bài thơ "Chiều Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại:

CHIỀU BA MƯƠI TẾT

 

Chiều ba mươi tết ở quê

Mẹ còn chân vấp, nón mê ra đồng

Vội vàng cấy nốt cho xong

Mấy đon mạ mót ở trong sương mù

 

Cánh đồng chia khoảnh, chia khu

Vẫn liền chân mạ, vẫn như bao đời

Gió ơi đừng thổi rỗng trời

Đồng không ai biết mẹ tôi nhọc nhằn

 

Ngày cùng tháng tận bao năm

Còn lo manh áo, cái ăn xuân về

Bao người như mẹ ở quê

Chiều ba mươi vẫn nón mê ra đồng

 

Một đời cấy mãi chưa xong

Mẹ đi lui đến lưng còng còn lui

Nhẹ nhàng đon mạ ấy thôi

Mà bao gồng gánh, khóc cười đăm đăm

 

Tháng mười vui với tháng năm

Nào ai gặt hái xa xăm có nhìn

Đồng quê bóng mẹ hút chìm

Chiều ba mươi vẫn đi tìm mùa xuân

 

Cho sang năm hết nợ nần

Mẹ tin rảnh mạ đang cầm trên tay

Là bình minh của một ngày

Là giao thừa của xưa nay giao thừa

*

NGUYỄN HƯNG HẢI

Ở khổ đầu của 2 bài thơ này, không những giống ý 100% mà có những câu còn giống nhau gần tuyệt đối. Thời điểm ra đời của 2 bài thơ lại khác nhau nhưng không vì thế mà nói chuyện "đạo" thơ ở đây được vì ý (trong trường hợp này) giống nhau 100% cũng là điều bình thường, và sự giống nhau đến 99% của câu "Chiều ba mươi tết về quê" với "Chiều ba mươi tết ở quê" hoặc “Mẹ còn tất tả nón mê ra đồng” với “Mẹ còn chân vấp, nón mê ra đồng”... cũng không thể lấy làm căn cứ để quy kết ai "đạo" thơ ai, vì nếu gạt những câu đó ra ngoài bài thơ thì chúng chỉ là những câu giao tiếp thông thường, tựa như: "bố tôi", "mẹ tôi", "sáng nay", "chiều mai"....

Tôi lan man đôi chút bởi thi thoảng trên mạng xã hội (facebook chẳng hạn) có chuyện tố nhau "thằng này ", "đứa kia"... "đạo thơ" của xyz...

Trở lại 2 bài thơ "Chiều Cuối Năm" của Đồng Duy Toại và "Chiều Ba Mươi Tết" của Nguyễn Hưng Hải.

Với "Chiều Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại thì cảm xúc chân thực và câu chữ giản dị là điểm sáng của bài thơ. Những câu thơ giàu thi ảnh, thi tứ như: "Đàn cò mỏi cánh phân vân / Xà xuống bờ ruộng cho gần mẹ ta" / "Bao nhiêu công việc nhà nông / Chìm trong giá buốt, còn trông tới mùa" hay những câu thơ gợi nhiều cảm xúc được viết bằng tình cảm chân thực của người con hiếu đễ: "Chiều ba mươi tết về quê / Mẹ còn tất tả nón mê ra đồng / Ruộng còn một thửa chưa xong / Mạ non mẹ cấy lưng còng chiều đông"... đã có sức nặng ghim "Chiều Cuối Năm" trong trí nhớ bạn đọc.

Với "Chiều Ba Mươi Tết" của Nguyễn Hưng Hải thì anh cũng dùng thể thơ lục bát để viết về Mẹ và mẹ của anh cũng là người mẹ nông dân của nắng mưa tần tảo.

Những câu thơ thật hay, thể hiện kỹ thuật tay nghề cao và tài sử dụng câu chữ của Nguyễn Hưng Hải trong bài thơ "Chiều Ba Mươi Tết" khá nhiều: - "Gió ơi đừng thổi rỗng trời / Đồng không ai biết mẹ tôi nhọc nhằn" / "Một đời cấy mãi chưa xong / Mẹ đi lui đến lưng còng còn lui / Nhẹ nhàng đon mạ ấy thôi / Mà bao gồng gánh khóc cười đăm đăm" / "Đồng quê bóng mẹ hút chìm /Chiều ba mươi vẫn đi tìm mùa xuân"…

Đọc những câu thơ tinh tế, giàu thi ảnh, thi tứ như thế tôi lại thấy tiếc khi đã vô tình đọc phải những câu "thơ" không biết nên gọi là phá thơ hay giết tiếng Việt, kiểu như anh đảo chữ: "Giữa chang chói Người là dòng nước mát" hoặc những câu anh viết lấy được: “Bác cũng giống Lê nin, Cac Mac / Làm đổi thay thế giới, mỗi con người / Trong đêm đen có được ánh mặt trời / Không có Bác không đường đi, chân lý”....), trong bài thơ: "Khai Sinh Ra Đảng".

*.

Hà Nội, chiều 04 tháng 12-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THƠ VIẾT VỀ MẸ

CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

*

Trong những bài thơ viết về Mẹ mà tôi đã được đọc thì thơ viết về Mẹ của nhà thơ Đồng Thị Chúc để lại nhiều ấn tượng. Hình như chất nền nã của thể thơ Lục Bát đã thấm vào máu thịt của bà nên những câu Lục Bát bà viết ra rất tự nhiên, dịu dàng và đằm thắm. Nhất là khi viết về Mẹ thì những vần thơ của bà thật ấm nồng và tha thiết.

Có lẽ chưa có nhà thơ nào viết về Mẹ thời thiếu nữ lại viết được những câu thơ tươi giòn sức sống của thiếu nữ thôn quê như hình ảnh thiếu nữ (Mẹ) trong thơ bà:

"Quết trầu tô đỏ làn môi

Cau non say để hồng đôi má hồng"

(Mẹ Tôi)

Phải hiểu và tự hào về Mẹ lắm thì bà mới viết được những câu thơ đặc "hương đồng gió nội" với tượng hình Mẹ đẹp dịu dàng, thùy mị nhưng thắm đượm và tươi giòn như thế.

Chỉ với vài ba câu thơ kể về quê Mẹ nghèo, kể về người Mẹ nghèo mà nhà thơ Đồng Thị Chúc đã cho người đọc hình dung được cái nghèo cụ thể, cái nghèo không chỉ bó hẹp phạm vi ở một làng quê và cái tình của người nghèo nơi thôn quê không chỉ nằm ở tinh thần "nhường cơm sẻ áo" mà còn rất giàu lòng tự trọng.

Những câu thơ của bà mộc mạc mà tài hoa:

"Chợ phiên mủng thóc không đầy

Đường thôn mà lắm ăn mày đến xin

Kéo vành nón rách che nghiêng

Mẹ tôi giấu những ưu phiền sẻ chia."

(Mẹ tôi)

Nhà thơ Đồng Thị Chúc viết về Mẹ không nhiều, hình như chỉ có 2 bài thơ là "Mẹ Tôi" và "Cảm Xúc Thơ Về Mẹ", trong đó bài "Cảm Xúc Thơ Về Mẹ" không trực tiếp viết về Mẹ của bà nhưng cảm xúc trong bài thơ với Mẹ thì rất thật. Có lẽ Mẹ đã là tượng đài thiêng liêng trong trái tim của những người con nên Mẹ của bà có nhiều nét giống với Mẹ của mọi người nhưng vẫn có những nét rất riêng Mẹ của nữ thi sĩ Đồng Thị Chúc:

“Con cò lặn lội bờ sông”

Lời ru con hóa ru lòng mẹ tôi"

(Mẹ Tôi)

Những câu thơ viết về Mẹ mượt mà phảng phất chất liệu ca dao và gợi được nhiều cảm xúc như thế đã làm nên sự khác biệt giữa thơ của Đồng Thị Chúc với thơ mọi người.

Không dùng những câu chữ to tát, không cố kẻ vẽ, tô màu, Đồng Thị Chúc cứ nhẹ nhàng viết về Mẹ, nhẹ nhàng nghĩ về Mẹ như những thủ thỉ tự trải ra với lòng để tự động viên bản thân cố lên, cố lên. Những câu thơ tự nhiên, cũng không cần cầu kỳ trau chuốt tạo hình ảnh mà tượng hình Mẹ trong thơ bà vẫn lồng lộng, sáng chói:

"Ta đi bao bước phong trần

Vẫn không sánh được một lần mẹ qua "

(Cảm Xúc Thơ Về Mẹ)

Vâng, những câu thơ được tinh chiết từ sự kính trọng, lòng biết ơn bao giờ cũng hàm xúc, tạo sự xúc động và lan tỏa hơn những câu thơ dùng đến kỹ thuật, tay nghề để tạc vẽ tượng hình Mẹ:

"Khi ta đổ những giấc mơ

Ghé vai mẹ dựng cơ đồ đẹp hơn"

(Cảm Xúc Thơ Về Mẹ)

Những câu thơ mộc mạc, chân chất được viết ra từ thẳm sâu trong tâm tưởng thật đằm sâu, xúc động và có sức lan tỏa như thế trong thơ Đồng Thị Chúc khá nhiều!

*.

Hà Nội, 11 tháng 12-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC

"THĂM BẠN" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

*

Nhà thơ Đồng Thị Chúc gửi tặng tôi 2 tập thơ: "Lục Bát Dâng Tặng Mẹ Ta" và "Con Gái Thì Thứ Hai" vào những tháng cuối năm 2019. Thi thoảng tôi mang thơ bà ra đọc, thích khá nhiều bài, cũng định viết ít bài cảm nhận về thơ của bà nhưng cứ mãi lần lữa chưa viết.

Thơ bà không nói đến những chuyện to tát, những răn dạy giáo huấn về đạo làm người, cũng không sa vào dòng thơ thế sự chính trị để gây "ấn tượng" mà đa phần chỉ là những chuyện "vụn vặt" đời thường của cuộc sống: những lần về quê, những chuyến thăm bạn, những chia sẻ cảm thông với phận nghèo, với phận đời gái cơ nhỡ...

Bài thơ "Thăm Bạn" là một trong số những bài thơ như thế.

THĂM BẠN

Ghé nhà cửa đóng then cài

Đầy sân lá rụng thềm ngoài rêu phong

Dao quanh trong khoảng thinh không

Mắt đưa tìm bóng, nào trông bóng người