CẢM NHẬN THƠ VĂN 1
*
gồm những bài viết sau:
1. VÀI LỜI VỀ TẬP
SÁCH: ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ
2. VÀI SUY NGHĨ VỀ 4
VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA
3. VÀI LỜI VỀ TẬP
SÁCH: SÓNG GIÓ NỘI CUNG
4. VÀI SUY NGHĨ KHI
ĐỌC TRUYỆN NGẮN ĐÙA CỦA TẠO HÓA
5. VÀI CẢM NHẬN VỀ
THƠ VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
6. ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG
DƯƠNG CẦM”CỦA NGUYỄN THANH LÂM
7. VỀ PHONG CÁCH
BÌNH THƠ CỦA CHÂU THẠCH
8. CẢM NHẬN KHI ĐỌC
TẬP THƠ “SÓNG NGẦM” CỦA NGÔ NGUYỄN
9. ĐÔI ĐIỀU KHI ĐỌC:
QUẢNG NGÃI - CÂU THƠ NẶNG TÌNH CỐ THỔ
10. ĐỌC “TÌNH NHÂN
ƠI” CỦA TRẦN HẠ VI
11. ĐỌC ĐỖ HOÀNG “CẢM”
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG?
12. VÀI CẢM NHẬN KHI
ĐỌC: GỌI ĐÊM TRỞ GIÓ CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG
13. BIỂN CỦA NGUYỄN
THANH LÂM TRONG RỪNG XANH MƯA
14. NGẪM
CHIỀU - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG
15. ĐỌC: “MỢ HỮU”CỦA
TRẦN NHUẬN MINH
16. MƠ QUÊ TRONG “XÓM
CỎ” CỦA NGUYỄN KHÔI
17. VÀI CẢM NHẬN VỀ
THƠ TRẦN MAI NGÂN
18. ĐỌC “QUÊ TRONG
PHỐ” CỦA NGUYỄN XUÂN MÔN
19. VÀI SUY NGHĨ KHI
ĐỌCLÃO GÀN CHỬI QUAN THAM
20. THẦY PHONG THỦY
BÙI ĐỒNG VÀ NHỮNG COMMENT BÌNH THƠ
21. VÀI SUY NGHĨ KHI
ĐỌC: "THUYỀN THEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN
22. THƯA CHUYỆN CÙNG
BẠN ĐỌC ... VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC
23. ĐỌC: RÉT BÂN NHỚ
MẸ - NGÀY 8 THÁNG 3
24. VÀI LỜI VỀ CẢM
NHẬN BÀI THƠ “RÉT BÂN NHỚ MẸ”
25. VỀ TRUYỆN NGẮN CỦA
LÊ MAI
26. CẢM ĐỌC GÃ KHỜ
TRONG “MỘNG MỊ” CỦA NHỤY GIALAI
27. VÀI CẢM NHẬN VỀ
TẬP THƠ “NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ”
28. ĐỌC “THÁNG TƯ
MÀU NHỚ” CỦA PHẠM ĐỨC MẠNH
29. ĐỌC NGUYỄN XUÂN
DƯƠNG BÌNH THƠ
30. NHƯ MỘT BÀI TẬP
LÀM VĂN - THƠ TRẦN VẤN LỆ
31. ĐỌC “ĐÔI BỜ SÔNG
BẾN HẢI” - VÀI LỜI VỚI NHÀ THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI
32. VÀI CẢM NHẬN VỀ
2 BÀI THƠ TÌNH CỦA CẬU HỌC TRÒ LỚP 12
33. CẢM NHẬN NGẮN VỀ
BÀI THƠ “NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN”
34. CẢM NHẬN NGẮN VỀ
BÀI THƠ “ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ”
35. VÀI CẢM NHẬN VỀ
2 BÀI THƠ VIẾT VỀ CHIỀU 30 TẾT
36. THƠ VIẾT VỀ MẸ CỦA ĐỒNG
THỊ CHÚC
37. VÀI CẢM NHẬN KHI
ĐỌC "THĂM BẠN" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC
38. ĐỌC "CÕNG
MẸ" CỦA NGUYỄN VĂN SONG
39. VÀI SUY NGHĨ VỀ
MẤY CÂU KẾT BÀI THƠ "KHÓC GIỮA BAN CHIỀU"
40. NGUYỄN HOÀNG ĐỨC
QUA MẤY BÀI VIẾT TÔI ĐÃ ĐỌC
VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH:
ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ
*
(LỜI GIỚI THIỆU cuốn ĐỜI
TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ,
Nhà xuất bản Văn Hóa
Thông Tin, xuất bản năm 1997)
ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG
ĐẾ là tập V của bộ sách "CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG
QUỐC" do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin - Nhà sách Bảo Thắng liên kết
xuất bản, giới thiệu các gương mặt hôn quân vô đạo trong gần một trăm quân chủ
phản diện mà bộ sách đề cập. Nếu các tập trước bạn đọc đã làm quen với những vị
hoàng đế hoặc ít hoặc nhiều có những cống hiến nhất định trong lịch sử Trung
Quốc nhưng vì một vài lý do nào đó: Hoặc kiêu căng ưa xiểm nịnh, hoặc không thể
vượt quá phạm vi mà điều kiện lịch sử cho phép nên buộc phải rời khỏi vũ đài
chính trị, thì ở tập sách này bạn đọc sẽ gặp những vị hôn quân ngu muội, bạc
nhược, với những việc làm xằng bậy, quái đản dẫn đến sự diệt vong của một vương
triều mà trước đó tổ tiên của họ đã cống hiến nhiều cho lịch sử Trung Quốc.
Trước hết phải nhắc
đến Lưu Sưởng, vị hoàng đế cuối cùng của vương triều Nam Hán, đã tự
phế truất cơ nghiệp của ông cha bằng những việc làm xằng bậy, những điều luật
quái gở, những hành vi hoang dâm vô đạo trong quãng đời xưng "trẫm"
của mình.
Lịch sử phong kiến Trung
Quốc nói riêng, lịch sử phong kiến thế giới nói chung hẳn không có vị đế vương
thứ hai ra điều kiện tuyển dụng làm quan trong triều thì trước hết phải tự
thiến, nếu không tự thiến được thì triều đình sẽ thiến hộ như hôn quân Lưu
Sưởng. Và cũng không có vị đế vương nào lại tuyển dụng những ai thật đẹp trai,
thật giỏi chuyện ái ân vào cung "hầu hạ chuyện gối
chăn" với những phi tần được vua sủng ái. Vậy mà hôn quân Lưu Sưởng
lại làm cái chuyện quái đản ấy. Tệ hơn nữa, đốn mạt hơn nữa, tên hôn quân vô
đạo này lại thích thú những trò quái vật: Chung chăn gối với thần dân trăm
họ bất kể thân phận sang hèn ra sao, miễn là y đạt được khoái cảm; hành lạc tập
thể để y ngó nhìn bình phẩm, tùy theo sự điêu luyện mà phạt roi hay ban
thưởng...
Ngán ngẩm thay cho vương
triều Hán với "thâm cung bí sử" đã ẩn giấu biết bao chuyện xằng
bậy của Hán Thành Đế Lưu Ngao không chỉ đắm chìm trong
nhục dục với các phi tần mỹ nữ như: Hứa thị, Phi Yến, Hợp Đức... mà còn “bắt”
những thanh niên đẹp trai như Trương Phóng, Thuần Vu Trường... vào
hậu cung làm "thiếp yêu", khiến cả triều đình dở mếu dở
cười khi chứng kiến những mối tình chàng - chàng chướng tai gai mắt, giờ lại
thêm những "thú vui quái đản" của hôn quân Lưu Sưởng khiến người
đọc lắc đầu khi ngẫm về lịch sử vương triều Hán.
Hầu như suốt chiều dài
lịch sử vương triều Hán, suốt từ thủa Lưu Bang chém rắn phất cờ đến ngày Lưu
Thiện nhục nhã quỳ gối dâng giang sơn xã tắc cho dòng họ Tư Mã, không hiếm
những hôn quân vô đạo kiểu như Lưu Sưởng với đời sống tình dục quái đản, loạn
luân, coi thường đạo lý nhưng có lẽ, chỉ có Lưu Sưởng mới "nổi đình
đám" với đạo luật quái gở và những thú vui mất hết tính người như
thế. Cuộc đời của y là cuộc đời độc nhất vô nhị của kẻ hoang dâm vô đạo mà cổ
kim chưa hề từng có.
Cao Vĩ, Hậu chủ Bắc Tề lại nghiện những
việc làm xằng bậy dẫn đến nước Bắc Tề vốn đang cường thịnh chỉ trong khoảng
thời gian Cao Vĩ chấp chính phải lâm vào cảnh đói nghèo tang tóc, dân chúng oán
thán, triều đình rệu rạo, để rồi triều chính phải "bàn giao cho người
khác, chịu chết thê thảm trong tay Vũ Văn Ấp". Vị hôn quân trẻ con này đã
không từ một việc làm bần tiện, vô học nào để đạt được những khoái cảm rồ dại,
những nhục dục thấp hèn. Đường đường là một đấng quân vương, vậy mà Cao Vĩ lại
bày trò chơi ngu muội: Vua đóng giả đầy tớ, ăn xin, bề tôi đóng giả chúa
thượng, người bố thí. Trong suy nghĩ của Cao Vĩ, Tư Mã Trung thời Tây
Tấn là kẻ ngu xuẩn vì đã hỏi cận thần câu hỏi quá ngớ ngẩn: "Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?".
Hắn biện rằng: "Có lẽ Tư Mã Trung
chưa bao giờ trông thấy con ếch? Thằng cha thật đáng thương! Như Cô gia đây vừa
có khả năng làm vua, lại vừa có khả năng làm thằng ăn mày, thử hỏi xưa nay mấy
ai làm nổi?" Hắn thật khoan khoái với suy nghĩ của mình nên càng hăng
hái trổ tài ăn xin làm cho quần thần phải dở khóc dở cười.
Đứng trước ba quân để uý
lạo tướng sĩ. Cao Vĩ không làm được như ông tổ của y là Cao Hoan cao giọng ngâm
bài ca trước quân lính, để khích lệ ba quân xông pha nơi chiến trận, mà y lại
cười phá lên khi ba quân im phăng phắc đang cúi đầu chờ hiểu dụ. Tiếng cười ngu
xuẩn của Cao Vĩ đã thức tỉnh những tướng sĩ đang mông muội trung thành với Bắc
Tề: Không thể bỏ vợ, bỏ con xông pha nơi chiến trận để giữ ngai vàng cho tên
hôn quân vô lại! Lòng quân tan rã, chỉ sau hai tháng (tháng 12 năm 577), hôn
quân Cao Vĩ trở thành tù binh của Bắc Chu, đưa vương triều Tề đi vào dĩ vãng.
Có người cho rằng, nếu
Cao Vĩ nghe lời Hũ Luật Hiếu Khanh nhìn nhận đúng mực đề nghị của
trung thần: Thuộc lòng bài từ do Hũ Luật Hiếu Khanh soạn rồi ngâm, lại thêm vài
giọt nước mắt trước ba quân tướng sĩ thì làm gì mà không giữ được tông miếu tổ
tiên. Chúng tôi thì cho rằng, điều đó không bao giờ có được, bởi một kẻ lấy
thoả mãn nhục dục làm lẽ sống như Cao Vĩ thì làm sao chú tâm tới việc quốc gia
đại sự. Đứng trước nguy cơ nước mất, bất chấp lời khẩn cầu thống thiết của Hũ
Luật Hiếu Khanh: Hãy học thuộc bài Từ rồi uý lạo tướng sĩ giữ vững cõi bờ, y
vẫn đùa bỡn với Phùng Thục phi thì làm sao mà nước không mất. Hơn nữa, bộ óc
đần độn đến xơ cứng của y, một bài Từ thật ngắn mà không nhớ nổi (Dưới
chân thành, địch đánh dữ. Nguy nan lắm, trông vào các ngươi. Tầng mây thấp,
tầng sương dầy, phá được giặc rồi, ta cùng vui) thì y làm sao giải quyết
được việc quốc gia đại sự. Một hôn quân như vậy thì nhà Tề sớm bị diệt vong là
điều dễ hiểu.
Còn Bắc Tề Văn Tuyên Đế Cao
Dương lại là kẻ tâm thần, hành động ngang ngược, cuộc đời của vị
hôn quân này chỉ mải mê với hai thú vui đó là uống rượu và giết người. Thời
gian tiếm quyền ngồi trên ngôi báu, mỗi khi uống rượu vào là Cao Dương thẳng
tay chém giết. Để bảo toàn tính mạng cho những cung nữ, hoạn quan hầu hạ Cao
Dương và cũng nhằm để thoả mãn nhu cầu chém giết của vị đế vương tàn bạo, Bộ Tư
pháp buộc phải đưa những "tử tù", thậm chí cả những kẻ phạm pháp
nhưng chưa xét xử vào cung theo hầu Cao Dương đế để mỗi khi tên hôn quân
nổi "máu điên" sẽ có thú để “giải sầu”. Thời gian đó
"Bộ Tư pháp" Bắc Tề đưa ra một quy định: Những phạm nhân đi theo nhà
vua (một ngày) mà không bị giết thì coi như vô tội và được tha. Thật là một
điều luật nực cười, báo hiệu một thể chế chính trị thối nát, đang rệu rạo chờ
ngày sụp đổ.
Cao Dương không chỉ giết
những cung ngự tù (phạm nhân cung cấp cho nhà vua) những hoạn quan, cung nữ để
mua vui mà với tất cả mọi người đều bị y khinh rẻ "dù đó là mẹ đẻ, mẹ
vợ, gươm trong tay, đầu thiên hạ, oán hận có kể gì".
Tháng 10 năm 533,
một hôm Cao Dương đột ngột đến nhà mẹ vợ (thân sinh ra Hoàng hậu Lý Tố Nga
- người được Cao Dương sủng ái), không hiểu Lý phu nhân đã động đến dây thần
kinh nào của Cao Dương mà y giật lấy cung tên từ tay vệ sĩ bắn một phát trúng
mặt Lý phu nhân, rồi quát: - "Trẫm
mà say thì bất chấp cả mẹ đẻ, mụ là cái thá gì?". Trước đó ít ngày, mẹ
đẻ của Cao Dương là Lâu Thái hậu vì thấy y suốt ngày uống rượu, say sưa chém
giết, bỏ bê triều chính nên cho gọi đến để nghĩ cách răn đe, vừa giơ gậy doạ
đánh thì tên hôn quân nghịch tử lớn tiếng mắng chửi: - "Đồ chết dẫm! Định đánh trẫm hả? Ít hôm nữa
sẽ gả ngươi cho bọn rợ Hồ, xem ngươi có còn hung hăng nữa thôi". Thật
là một tên hôn quân vô đạo, ngay cả người đẻ ra y mà y còn ngang ngược xúc phạm
thì thử hỏi xã hội có còn kỷ cương, phép tắc?.
Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời
Nam Triều cũng là một vị vua hôn quân tàn bạo. Thời gian chấp chính của ông ta
thật ngắn ngủi nhưng với quãng thời gian ấy, Lưu Dục đã "kịp" làm
những việc kinh thiên động địa mà hậu thế sau này phải lè lưỡi lắc đầu. Trước
khi chết, Lưu Bị dặn con trai của mình là Lưu Thiện: - "Việc thiện dù nhỏ, đừng nghĩ nhỏ mà không
làm, việc ác dù nhỏ, đừng thấy nhỏ mà làm". Hai trăm năm sau, Lưu Dục
vị đế vương của triều Lưu Tống lại ngang nhiên bài trừ việc thiện, chạy theo
việc ác dẫn đến cái chết thê thảm, kết thúc cuộc đời chuyên làm điều xằng bậy
của y vào ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 477.
Có thể nói, tính ngông
ngênh, ngang ngược của Lưu Dục so với Cao Dương có phần nào dễ chịu hơn, nhưng
công bằng mà nói thì "kẻ tám lạng người nửa cân" thật khó mà
phân định.
Lưu Dục rất thích thú
trong việc chém giết người, với hắn niềm khoái cảm chỉ đạt tới cực điểm khi
chứng kiến sự chết chóc, bị hành hạ thân xác của người khác. Hắn ngang nhiên
như Đôngkixốt dưới ngòi bút Xen Văngtéc điên cuồng chém giết người dân vô tội
trên đường hắn gặp. Hắn ngang ngược biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến
Long Sàng thành nơi buộc ngựa. Chốn tôn nghiêm của triều đình, đã bị Lưu Dục
biến thành nơi chăn nuôi súc vật: Cùng ở với người, cùng thiết triều với Thiên
Tử. Thật khó bắt gặp một vị đế vương khác lại có thú chơi ngông cuồng và thất
học như hôn quân Lưu Dục.
Hắn không chỉ thích chém
giết người, thích nuôi lừa, nuôi ngựa ở nội điện mà hắn còn thích ăn trộm con
gái, ăn trộm súc vật của dân lành. Vụ trộm nổi "đình đám" trong cuộc
đời làm vua càn quấy của y đã được sử sách ghi lại tiếng nhơ cho muôn thuở, đó
là vụ trộm chó ở chùa Tân An vào ngày 7 tháng 7 năm 477, ngày mà âm lịch gọi là
Khất Xảo. Hôm đó, sau cuộc mây mưa tình ái với ái nữ của Hữu vệ Dực Liễn Doanh,
hắn lặng lẽ cùng bọn du côn vào chùa Tân An bắt trộm chó về làm thịt, rồi sai
người đến chùa bắt vị sư trụ trì chùa Tân An đến cùng ngồi uống rượu thịt chó.
Vị cao tăng kia vì sợ oai Lưu Dục đã không giữ được giới luật tối thiểu và ngay
trong đêm ấy, vị "hỗn thế ma vương" Lưu Dục đột nhiên bạo
bệnh mà chết.
Cái chết của Lưu Dục đến
giờ vẫn còn nhiều giả thiết được đặt ra, nhưng cho dù thế nào thì vị "hỗn
thế ma vương" chấm dứt sự hiện diện ở cõi đời cũng là điều đáng mừng cho
thần dân Lưu Tống, mở ra một trang sử mới với vị đế vương mới, để rồi lại xuất
hiện kẻ hôn quân mới. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì đó vẫn là điều tất yếu phải
xảy ra trong trong dòng chảy của lịch sử phong kiến Trung Quốc.
Đọc ĐỜI TƯ CÁC VỊ
HOÀNG ĐẾ hẳn bạn đọc sẽ phì cười khi "gặp mặt" mẹ con
hôn quân Lưu Hồng - ông vua thứ 12 đời Đông Hán, được người đời
phong danh hiệu “Tổ sư của ngành keo kiệt” - thi nhau mua quan bán
tước. Chuyện tưởng chỉ có trong văn học dân gian nhưng thật trớ trêu đó
lại là sự thật được ghi chép rõ ràng, đầy đủ trong chính sử Trung Hoa làm hậu
thế (Trung Hoa) sau này phải gục đầu tủi nhục.
Làm Hoàng đế thì hết
thảy tài sản trong xã tắc là của vua thì Lưu Hồng cần gì tiền mà phải cho bán
quan bán tước? Vậy mà Linh đế Lưu Hồng lại làm cái việc mà từ thủa Bàn cổ khai
thiên lập địa đến bấy giờ chưa ai dám nghĩ đến chứ đừng nói dám làm. Với lối
sống bản năng của những kẻ “đầu đường xó chợ”, Linh đế Lưu Hồng không từ bất kỳ
thủ đoạn nào để vơ vét tiền của của muôn dân cho vào hầu bao, nhằm thoả mãn dục
vọng bẩn thỉu, ti tiện của y. So đo tính toán từng ly từng tý trong chuyện giành
lợi lộc chưa hẳn đã là "biệt tài" duy nhất của hôn quân thất học
này mà Lưu Hồng còn nổi danh biến Ngự hoa viên rộng mấy dặm trở thành
kẻ chợ tấp nập chuyện mua bán, đổi chác từ thượng vàng hạ cám tới nhân phẩm của
con người. Nếu Lưu Dục, ông vua Lưu Tống thời Nam Triều nổi danh với chiến tích
biến điện Kim Loan thành nơi nuôi lừa, biến Long Sàng thành nơi chăn ngựa thì
với Lưu Hồng, Ngự hoa viên trở thành kẻ chợ với thập cẩm trò nhố nhăng chối
tai, nhức mắt, và đều tạo thành tiếng nhơ muôn thủa trong lịch sử Trung Hoa về
dòng họ Lưu lố lăng và đốn mạt.
ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG
ĐẾ đề cập đến mười lăm quân chủ phản diện, đặc trưng cho đời sống sa đoạ
và tàn bạo của những kẻ thường tự vỗ ngực, xưng danh "thiên
tử", thay trời hành đạo, chăn dắt con dân". Thấp thoáng trong
chốn thâm cung hào nhoáng mà sặc mùi son phấn là những con quỷ đội lốt người,
đắm chìm trong nhục dục, ra sức tác oai tác quái, mất hết luân thường đạo lý,
như: U Vương Cơ Cung Niết vì đắm say sắc đẹp của Bao Tự mà thả hổ hại con, hay
như Hán Hậu chủ Lưu Thiện ở ngôi mấy chục năm chẳng làm nổi trò trống gì ngoài
việc quỳ gối xưng thần, dâng nộp cơ đồ tông miếu tổ tiên để kéo dài kiếp sống.
Hoặc như Tấn Huệ đế Tư mã Trung là một ông vua bù nhìn, đần độn ngu xuẩn đến lạ
lùng. Mười mấy năm trời ngồi trên ngôi báu chỉ để làm con rối cho thiên hạ giật
dây. Chính lệnh ban ra đều do người khác ban bố, khắp nơi đói rét, lại hỏi một
câu kỳ quặc: - "Sao không ăn cháo thịt?". Những ông vua như vậy thử
hỏi làm sao mà sinh linh không điêu đứng, loạn lạc không xảy ra, lòng người
không ly tán!
ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG
ĐẾ là tập V của bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC giới thiệu
mười lăm quân chủ phản diện kiểu như vậy. Có thể trong số mười lăm vị quân chủ
đó, có vị đế vương ban đầu chưa phải là hôn quân, đứng ở một góc độ nào đó họ
có những đóng góp nhất định cho lịch sử Trung Quốc, như Vương
Mãng giành lấy chính quyền không phải để thoả mãn dục vọng cá nhân mà để
tái tạo "nền văn minh thượng cổ". Sau khi nắm quyền thống trị,
ông ta thực thi một loạt chính sách mới đi trước thời đại, mang hình thái của
chủ nghĩa xã hội (không tưởng)... Nhưng rất tiếc, những vị đế vương có tài tề
gia trị quốc như vậy không nhiều và những biểu hiện đó, nếu có cũng không nhiều
trong cuộc đời xưng đế của họ, để cuối cùng, họ trở thành những kẻ hôn quân,
hậu thế ngàn đời sau còn nguyền rủa.
Chúng tôi hy vọng với
tập sách này, đặc biệt là qua thân phận và những việc làm xằng bậy của những
tên hôn quân trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, bạn đọc sẽ tìm ra được nguyên
tắc sống cho mình, sao cho cuộc đời hữu ích. Và chúng tôi cũng tin rằng bạn đọc
sẽ tâm niệm cùng chúng tôi: Việc thiện dù nhỏ đến mấy cũng cố mà làm, việc ác
dù nhỏ thế nào cũng quyết không làm, để cuộc đời này không có những kẻ hôn
quân, hôn thần bất nhân bất nghĩa.
Xin trân trọng giới
thiệu với bạn đọc tập ĐỜI TƯ CÁC VỊ HOÀNG ĐẾ do Trần Đình Hiến dịch
thuật.
*.
Hà nội, ngày 12 tháng 02
năm 1997
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI SUY NGHĨ VỀ 4 VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI
TRONG LỊCH SỬ TRUNG HOA
*
(LỜI
ĐẦU SÁCH cuốn KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ
NHỮNG
TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI ; Văn Hóa Thông Tin ; 1997)
CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG
QUỐC là bộ sách dài nhiều tập, do Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Nhà sách Bảo
Thắng liên kiết xuất bản, giới thiệu gần một trăm quân chủ phản diện, đại diện
cho những mặt trái, những hậu quả tất yếu của chế độ thế tập quyền uy trong
suốt quãng thời gian dài dằng dặc mà chế độ phong kiến "trị vì".
Thật là sai sót nếu bộ
sách CHUYỆN CÁC VỊ VUA TRUNG QUỐC chỉ giới thiệu những hôn quân vô đạo, những
kẻ đã cản trở bước tiến của lịch sử, phản lại lợi ích của dân tộc Trung Hoa vì
những thú chơi ngông cuồng, rồ dại, những dục vọng về quyền lực, ái tình đến
bệnh hoạn của các đế vương mà không giới thiệu những đấng quân vương có tài tề
gia trị quốc, xứng đáng được nhận sự tôn vinh của lịch sử là thánh vương, là
minh quân như Vũ, Thương, Tống Tổ... Và sẽ càng sai sót nếu CHUYỆN CÁC VỊ VUA
TRUNG QUỐC không giới thiệu những gương mặt tận trung với nước, hết lòng vì
giang sơn và xã tắc (Trung Hoa) của các bà hoàng hậu, các thừa tướng, đại thần
đã hết lòng giúp rập quân vương điều hành triều chính.
KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG
VÀ NHỮNG VỊ TƯỚNG ĐẠI TÀI là tập tiếp theo của bộ sách CHUYỆN CÁC VỊ
VUA TRUNG QUỐC giới thiệu bốn vị tướng lừng danh trong lịch sử Trung Hoa về mưu
lược dụng binh, về lòng bao dung, đức độ, về sự cúc cung tận tuỵ với giang sơn
xã tắc (triều đình) để lại tiếng thơm cho muôn thuở. Họ như những vì sao lấp
lánh chiếu toả. Năm tháng trôi đi, vật đổi sao dời nhưng tên tuổi và sự nghiệp
bất hủ của họ sẽ mãi không thể xoá nhòa trong dòng chảy của lịch sử đất
nước Trung Hoa.
Lật từng trang sử, các
sử gia Trung Hoa đã làm sống lại một Gia Cát Lượng dụng binh như
thần, quyết chí hiến thân, không hề núng nao ý chí. Ông là nhà chính trị, nhà
quân sự nổi tiếng thời Tam Quốc, là hoá thân của trí tuệ dân tộc Trung Hoa.
Những chiến lược quân sự mà Gia Cát Khổng Minh vạch ra đã trở thành những trước
tác bất hủ. Đọc Khổng Minh Gia Cát Lượng của Hàn Phấn Phát, tuy không
có những chương đoạn hào hùng, sôi động, những tình tiết ly kỳ huyền hoặc
như Tam quốc Diễn nghĩa của La Quán Trung, nhưng người đọc vẫn
cảm nhận được tài năng xuất chúng, chí khí phi phàm của Khổng Minh và trân
trọng một Gia Cát Lượng mà Hàn Phấn Phát đã phác hoạ. Ở đây, ta gặp một Gia Cát
Lượng không bị ngòi bút cường điệu hoá nên Gia Cát Lượng của Hàn Phấn Phát rất
đời thường mà lại vĩ đại, ta thấy gần gũi, giản dị và chân thực hơn những gì mà
La Quán Trung đã viết: Bình thường, giản dị nhưng cũng phi thường, thông minh
và đầy bí ẩn. Nói như thế, không có nghĩa là chúng tôi đánh giá giá trị tư tưởng
và nghệ thuật của hai tác phẩm, so sánh những thành công của hai tác giả vì Tam
quốc Diễn nghĩa là một tác phẩm văn học thuộc dạng tiểu thuyết cổ điển,
kết hợp giữa dã sử và tín sử, được liệt vào kho tàng văn hoá Trung Quốc, đồng
thời cũng là tài sản của văn hoá thế giới. Còn Khổng Minh Gia Cát Lượng của Hàn
Phấn Phát là một công trình khoa học, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của
một danh nhân, với cách nhìn nhận, đánh giá của một nhà khoa học hiện đại.
Chúng tôi cho rằng những phác họa của Hàn Phấn Phát không làm mất đi hình ảnh
dụng binh kỳ diệu đến bí ẩn của Gia Cát Lượng mà ngược lại càng làm cho hình
ảnh nhà mưu lược kỳ diệu này thêm sức sống. Và đấy chính là một đóng góp của
Hàn Phấn Phát cho đương đại những tài liệu quý giá về cuộc đời và sự nghiệp của
một bậc tiền bối.
Tiêu Hà, một khai quốc công
thần của nhà Hán, đã phò tá Lưu Bang từ lúc cơ hàn, phải sống nương nhờ vào sự
cưu mang của những hiền nhân quân tử đến tận khi lập nên nghiệp bá với lòng cúc
cung tận tụy của một công thần ái quốc, một trung thần hiếm có. Cho tận đến lúc
tàn hơi kiệt lực, Tiêu Hà vẫn luôn canh cánh bên lòng trách nhiệm phò tá
"Thiên tử" giữ yên cuộc sống ấm no cho muôn họ, để lại cho hậu thế
một nguồn sáng chiếu rọi về tình người, tình đời và lẽ sống cao đẹp không thể
phai mờ. Ai đó đã nói: Có Tiêu Hà mới có nhà Hán, quả thật nếu nhìn nhận ở một
góc độ nào đó thì câu nói đó không phải là cường điệu. Thủa Lưu Bang còn cầu bơ
cầu bất, còn dưới trướng của Tiêu Hà đã được Tiêu Hà ban cho nhiều ân sủng: Coi
như tình huynh đệ, lo chuyện trăm năm, bàn mưu tính kế giúp Lưu Bang tạo lên
nghiệp lớn. Từ cuộc khởi nghĩa ở huyện Bái, đến tận sau này khi Lưu Bang đã
bình định xong thiên hạ, Tiêu Hà luôn luôn ở bên để hiến kế dâng mưu, hết lòng
lo cho nghiệp bá của tiên chủ nhà Hán. Công lao to lớn của Tiêu Hà với nhà Hán
thật nhiều, nhưng chỉ kể một vài công trạng của ông với Lưu Bang trước khi lập
nên nhà Hán cũng đủ thấy điều mà ai đó đã nhận xét không phải là không có căn
cứ:
- Cưu mang và khích lệ
nghiệp lớn trong ý chí của Lưu Bang.
- Lo chuyện trăm năm cho
Lưu Bang và Lã Thị.
- Tiến cử và lưu giữ Hàn
Tín giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán.
Chúng tôi nói rằng: Tiêu
Hà và Hàn Tín là hai trụ cột chính giúp Lưu Bang thu phục được thiên hạ, nhưng
chúng tôi không cho rằng: Có Tiêu Hà mới có nhà Hán vì nếu nhìn nhận và đánh
giá như vậy thật là phiến diện. Công trạng và đức độ của Tiêu Hà với vương
triều nhà Hán quả thật không nhỏ nhưng bên cạnh Lưu Bang đâu thiếu những anh
hào? Sở dĩ Lưu Bang thu phục được thiên hạ là bởi ông ta đã biết sử dụng tài
năng thiên bẩm của những hiền nhân quân tử quy tụ dưới trướng sao cho đúng với
khả năng của họ. Tiêu Hà rất giỏi về cơ mưu, Hàn Tín rất giỏi về chiến trận
nhưng cả hai không có cái mà Lưu Bang có, đó là những âm mưu, thủ đoạn chính
trị mà bất kỳ một chính trị gia nào cũng phải có. Cái chết oan nghiệt của Hàn
Tín và những ngày tháng sống cảnh "cá chậu chim lồng" của Tiêu Hà là
bằng chứng cho tài năng hoạt động chính trị của Hán Cao Tổ, cũng có nghĩa là
Tiêu Hà và Hàn Tín chỉ có thể là người "giúp việc" cho “Thiên tử” mà
thôi.
Với gần 80 trang sách,
Mục Bình Triều đã cung cấp cho độc giả những dữ liệu lịch sử quý báu về cuộc
đời và sự nghiệp lừng lẫy chiến công của vị thừa tướng khai quốc, một công thần
tận trung, tận nghĩa đã phò tá Lưu Bang bình định được thiên hạ, đó là Tiêu Hà!
Một con người cả đời liêm khiết, trong sạch, hết mình vì dân vì nước dù những
năm tháng cuối đời, để bảo toàn mạng sống cho bản thân và gia tộc ông đã buộc
phải tự làm lu mờ hình ảnh của mình mà lẽ ra một con người như ông không nên
làm vậy, nhưng cho dẫu có bàn luận thế nào thì hậu thế vẫn cảm thông với ông
trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ và những chiến tích của ông, tấm lòng của
ông mãi để lại tiếng thơm trong lịch sử Trung Hoa.
Cũng trong tập sách này,
chúng ta được gặp danh tướng Trần Bình, người cũng có công rất
lớn trong việc giúp Lưu Bang thu phục thiên hạ.
Có thể nói, trong số
những danh tướng lừng lẫy chiến công, hiển hách công trạng thì Trần Bình là một
danh tướng được yên ổn nhất sau khi Lưu Bang đã lập xong nghiệp bá. Không như
Tiêu Hà phải sống cảnh "cá chậu chim lồng" suốt ngày nơm nớp lo sợ bị
tiên chủ nhà Hán "phế diệt", cũng không giống như Hàn Tín "chuốc
hoạ vào thân", bị chu di cả họ mà Trần Bình cả đời được nhà Hán trọng dụng,
được tôn lên tận mây xanh, thậm chí đến cả đời con đời cháu sau này vẫn được
thừa tập hầu tước.
Trong "Sử ký
Tư Mã Thiên" phần Cao Tổ bản kỷ có ghi lời Hán Cao Tổ khi ông ta
cùng các hạ thần thảo luận: "Sở dĩ
thắng Hạng Vũ mà lấy được thiên hạ là do: Ăn nói giỏi có mưu sĩ Trương Lương,
tể tướng có Tiêu Hà, đại tướng có Hàn Tín. Ba người này đều là kiệt xuất, trẫm
biết dùng họ cho nên được thiên hạ". Căn cứ vào đó, có người cho rằng
Trần Bình không bị Lưu Bang "phế bỏ" bởi ông không thuộc "tam
kiệt", không phải là đối thủ của Lưu Bang trong việc củng cố ngôi đế của
mình, cũng có nghĩa họ cho rằng Trần Bình chỉ là một vị tướng chứ không thể là
một danh tướng xứng đáng nhận sự tôn vinh của hậu thế. Chúng tôi cho rằng:
Trong quá trình phò tá Lưu bang thu phục thiên hạ, các danh tướng đều có những
đóng góp nhất định của họ vào lịch sử, không thể đem những công lao, chiến
tích, "mọi người đều nhìn thấy" để so sánh, bình phẩm về tài năng,
đức độ giữa các danh tướng. Đại tướng Hàn Tín sở dĩ được đương đại đánh giá là
một đại tướng cực giỏi bởi chiến trận đánh đông dẹp bắc lừng lẫy chiến công của
ông dễ được mọi người nhìn thấy còn Trần Bình, ông là một nhà chính trị chứ
không phải là một nhà quân sự vì lẽ đó mà những "chiến tích" của ông,
đương thời khó nhìn thấy hết.
Trong chiến tranh
Hán-Sở, Trần Bình hiến rất nhiều kế mà mỗi kế đều có sự liên quan đến sự sinh
tử, tồn vong của Vương triều nhà Hán, và đặc biệt nhất là sau khi Hán Cao Tổ tạ
thế, Trần Bình đã cùng các vị trung thần dẹp loạn các Chư Lã (dòng họ của Lã
Thái hậu), giữ nguyên ngôi "Thiên tử" cho các ông vua nhà Hán: Huệ
đế, Thiên đế, Văn đế... bằng những mưu quốc xuất chúng.
Trong suốt cuộc đời làm
tướng của mình, Trần Bình có những đóng góp rất lớn cho vương triều nhà Hán,
tuy nhiên những mưu kế mà ông hiến cho Hán Cao đế, cũng như các "Thiên
tử" sau này của nhà Hán quả thật còn nhiều điều mà hậu thế còn bàn cãi về
tài năng và đức độ của ông, nhất là kế bắt Hàn Tín ở đầm Vân Mộng đã làm cho
một vị đại tướng hết lòng trung thành với cơ nghiệp nhà Hán phải chịu cảnh chết
không nhắm được mắt. Nhưng cho dù thế nào đi nữa, thì chúng tôi cũng tin rằng
những người bàn luận, tranh cãi về ông cũng sẽ tán đồng quan điểm của chúng
tôi: Ông là một nhà chính trị tài giỏi, hết lòng với giang sơn nhà Hán, những
lỗi lầm mà ông mắc phải trong cuộc đời làm tướng là điều có thể cảm thông được
bởi ở cái chế độ thế tập quyền uy ấy mạng người thật sự là khó bảo toàn, cho dù
đó có là Thiên tử, mà đã là con người thì ai chẳng muốn bảo toàn mạng sống ?!.
Lịch sử phong kiến Trung
Quốc đã ghi lại những tích về sự lộng quyền, can thiệp vào triều chính, làm cho
xã tắc bị nghiêng ngả, sụp đổ của những tên thái giám nửa nam nửa nữ lòng dạ
độc ác như Triệu Cao, Hoa Hâm... Với ba tấc lưỡi, cùng với lòng đố kỵ hẹp hòi,
chúng đã mê hoặc các đấng quân vương để "thanh trừng" những trung
thần ái quốc, những danh tướng lẫy lừng chiến tích để thoả mãn nhục dục của
những kẻ nô tì thèm khát quyền lực.
Khấu Hoài - một danh tướng
thời Bắc Tống, suốt đời ấp ủ chí lớn để mong được cống hiến sức lực cho đất
nước nhưng con người tài cao chí lớn, liêm chính cương trực ấy đã bị xã hội Bắc
Tống đen tối hủ bại với những kẻ thống trị u mê nhu nhược, tin yêu gian thần,
thái giám, ngược đãi, đày ải làm cho hoài bão của ông không thực hiện được.
Sáu mươi năm sống với
trần thế, ông đã từng được Tống Thái Tông tin yêu trọng dụng, ban cho nhiều ân
sủng nhưng cũng chính tài năng và đức độ của ông đã làm cho Tống Thái Tông
nhiều phen tức giận dẫn đến việc nhiều lần bị giáng chức. Tính cương trực thẳng
thắn của Khấu Hoài còn tự làm hại ông nhiều hơn nữa khi Tống Chân Tông cả nghe
lời gièm pha của những kẻ ham sống sợ chết, bụng dạ tiểu nhân, ghen ghét hiền
tài, nên đã giáng chức ông từ một Tể tướng oai liệt xuống làm Chi Châu ở Tương
Châu. Cuộc đời hoạt động chính trị của ông thật chông gai, gấp khúc, biết bao
sóng gió của chính trường cố trào lên để hòng nhấn chìm thân thế và sự nghiệp
của ông nhưng tất cả chỉ làm cho hình ảnh của ông rực sáng hơn, nhân cách cao
đẹp của ông càng rõ nét và trở thành bất tử.
KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG
VÀ NHỮNG TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI là tập mở đầu cho phần hai của bộ CHUYỆN CÁC VỊ VUA
TRUNG QUỐC, do nữ dịch giả Tô Thị Khang dịch thuật, giới thiệu bốn vị tướng
lừng danh trong lịch sử phong kiến Trung Hoa về tài cao, đức trọng, về những
cống hiến lớn lao cho các vương triều phong kiến nói riêng và lịch sử trung Hoa
nói chung.
Chúng tôi tin rằng cuốn
sách nhỏ này sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin giá trị, những chứng cứ
khoa học về cuộc đời và sự nghiệp của các danh tướng trung Hoa suốt đời tận tuỵ
vì dân, vì nước (Trung Hoa) mà các cuốn sách khác chưa đề cập đến hoặc đề cập
đến còn ở mức độ nào đó.
Trân trọng giới thiệu
KHỔNG MINH GIA CÁT LƯỢNG VÀ NHỮNG TỂ TƯỚNG ĐẠI TÀI do nữ dịch giả Tô Thị Khang
dịch thuật.
*
Hà Nội, ngày 3 tháng 4
năm 1997
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI LỜI VỀ TẬP SÁCH:
SÓNG GIÓ NỘI CUNG
*
(Thay cho lời nói đầu cuốn SÓNG GIÓ NỘI CUNG)
Lịch sử phong kiến Trung
Quốc là lịch sử thay đổi liên tục các vương triều, các "thiên tử".
Mỗi triều đại, mỗi quân vương, nhìn chung chỉ tồn tại với quãng thời gian ngắn
ngủi. Sở dĩ các vương triều chết yểu do nhiều nguyên nhân nhưng cơ bản là do
người kế vị sau đó, sau vị vua khai quốc một vài đời đã không xứng đáng là
"con trời" để "thay trời hành đạo", "chăn dắt muôn
dân". Họ là những kẻ hoặc ngu đần, bạc nhược hoặc bất tài, hoang dâm, hoặc
kiêu căng, ưa xiểm nịnh, bụng dạ tiểu nhân... nên trong thời gian tại vị đã làm
đảo điên xã hội, gây ra bao thảm cảnh mà "thần và người đều căm giận"
nên đã bị "trăm họ" phế truất vai trò của họ ra khỏi chính trường.
Chế độ phong kiến là chế
độ thế tập quyền uy nên quyền lực của nhà vua là tối thượng. Nền chính trị tập
quyền khiến các đế vương không cần sức kiềm chế. Một đấng minh quân hết lòng
chăm lo đến muôn dân, xã tắc sẽ ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ và hành động của các
cận thần dưới quyền, làm cho muôn dân no ấm, đất nước được cường thịnh, nhưng
một vị hôn quân thì xuất phát từ ân oán cá nhân, tin dùng bọn xiểm nịnh làm cho
muôn dân điêu đứng, đất nước bị loạn lạc, triều chính bị tan nát để rồi dẫn đến
sự diệt vong vương triều.
Dương Long Diễn, đường đường là một
quân vương, mà bị cha con Từ Tri Huấn phỉ báng, làm nhục. Thời gian ở ngôi đế
vương của ông ta dễ đến mười năm nhưng chưa một lần Dương Long Diễn thực sự
được làm thiên tử. Bản chất hèn mạt, ham sống sợ chết đã biến ông ta thành kẻ
hầu hạ cho cha con họ Từ, làm đảo lộn luân thường đạo lý: Bề tôi bỡn cợt thiên
tử, đại thần đánh đập nhà vua.
Chu Cẩn vì dốc lòng phò tá nhà
Ngô mà ra tay tiễu trừ Từ Tri Huấn, nhưng thật nực cười, trớ trêu, vị đế vương
bù nhìn Dương Long Diễn (Ngô Cảnh Đế) đã quay lưng phản bội lại sự cúc cung,
tận tuỵ quên mình của các trung thần nghĩa sĩ, dẫn đến cái chết thê thảm của
đại tướng Chu Cẩn và mấy chục trung thần.
Lưu Sưởng, vị hoàng đế cuối cùng
của vương triều Nam Hán là một vị đế vương ngu muội và lẩm cẩm. Cuộc đời của y
là cuộc đời của những việc làm xằng bậy, những điều luật quái gở, tàn ác, những
hành vi hoang dâm vô đạo. Từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa đến Tam Hoàng Ngũ
đế, rồi đến tận bấy giờ chưa có một đế vương nào lại ra điều kiện tuyển dụng
làm quan trong triều thì trước hết phải tự thiến, nếu không tự thiến được thì
triều đình sẽ thiến hộ, vậy mà Lưu Sưởng lại ban ra cái chiếu chỉ chết người
ấy.
Quái đản và vô đạo hơn
nữa, Lưu Sưởng còn bắt bề tôi giao hết xe ngựa, áo cầu cho nhà vua sử dụng, còn
chuyện chăn gối của “thiên tử” thì “trẫm” vui lòng dùng chung với thần dân trăm
họ. Bản thân Lưu Sưởng không những dâm dật, thiện nghệ trong chuyện làm tình mà
còn rất thích xem người khác hành lạc. Nhà vua thường xuyên tuyển những đám
thiếu niên hư hỏng cho cặp đôi với cung nữ, từng đôi, từng đôi trần truồng mà
làm tình ở hậu viên để nhà vua thưởng thức, tùy theo sự điêu luyện mà phạt roi
hay ban thưởng. Tệ hơn nữa, Lưu Sưởng còn cho tuyển những diện thư (đĩ đực)
thật đẹp trai vào cung để chăn gối với Mị - Trư (người được vua sủng ái nhất).
Thật là trường hợp độc nhất vô nhị mà cổ kim chưa hề có.
Võ Tắc Thiên, vị nữ hoàng đế đầu
tiên và duy nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc đã không từ một thủ đoạn
tàn khốc nào để đả kích và tiêu diệt những kẻ đối lập về chính trị để dần dần
chiếm đoạt ngôi báu. Thời gian ở ngôi đế vị, Võ Tắc Thiên có nhiều cống hiến
cho lịch sử Trung Quốc, nhưng những việc làm tàn bạo để củng cố địa vị của bà
thì mãi mãi lịch sử Trung Quốc còn nhiều đàm luận.
Từ địa vị một tài nhân,
Võ Tắc Thiên bước dần lên ngôi hoàng hậu để rồi từ đó trèo lên chiếc ngai vàng,
tự xưng là hoàng đế. Bà không những thẳng tay đàn áp những người đối nghịch,
(cho dù đó là người trong gia tộc) mà ngay cả con cái đứt ruột đẻ ra, bà cũng
thẳng tay trấn áp. Việc trả lại triều chính cho nhà Đường, loại bỏ đế hiệu, trở
lại ngôi hoàng hậu lúc cuối đời là biểu hiện sự bế tắc, khủng hoảng về tư tưởng
của Võ Tắc Thiên. Điều đó cho thấy dù Võ Tắc Thiên có là một bậc kỳ tài, có thể
lập lên những kỳ tích trong lịch sử nhưng bà cũng không thể thoát khỏi sự trói
buộc về tư tưởng trọng nam khinh nữ, không thể vượt quá phạm vi mà điều kiện
lịch sử cho phép, buộc phải rời khỏi vũ đài chính trị với tư thế của kẻ chiến
bại.
Những ai đã đọc và hiểu
về lịch sử vương triều Tây Tấn, hẳn sẽ không quên câu chuyện về Huệ Đế Tư Mã Ai
(tức Tư
Mã Trung) khi còn làm Thái tử đã hỏi cận thần những câu hỏi ngớ ngẩn: -
“Tiếng ếch kêu là của công hay của tư?”. Dân tình đói khổ, hôn quân Huệ đế lại
phán một câu thật nực cười: - “Sao không nấu cháo thịt mà ăn?”. Huệ đế Tư Mã Ai
là ai? Xin thưa đó là hoàng thượng của nhà Tây Tấn! Là chồng của người đàn bà
thác loạn trong tính giao: Giả Nam Phong!
Sống cạnh một hôn quân
ngu ngốc, ngớ ngẩn như Tấn Huệ Đế, người đàn bà “mặt hai màu” ấy đã viết vào
lịch sử Trung Quốc những dòng nhơ bẩn, với những tội ác không thể tha thứ. Vì
hoang dâm vô độ, ả đã giết biết bao thiếu niên xinh đẹp, sau khi đã hầu hạ chăn
gối qua đêm cho ả. Không những tàn bạo trong tính giao, Giả Nam Phong còn làm
biết bao điều bạo ngược: Ra lệnh bắt giam thái hậu Dương Chính vào cung Vĩnh
Ninh rồi bỏ chết đói; Thẳng tay giết chết những trung thần tài giỏi không thuộc
phe cánh của mình; Đầu độc thái tử, biến dần Thái tử từ người có tư chất, ham
học hỏi, nhân nghĩa thành kẻ bạo ngược, hoang dâm và bần tiện để rồi chọn đúng
cơ hội ra tay tàn sát. Chén thuốc độc mà Tấn Huệ Đế ban cho (thực ra là của
Triệu vương Tư Mã Luân) đã kết thúc cuộc đời người đàn bà bạo ngược, hoang dâm
và tàn ác có một không hai trong lịch sử Trung Hoa. Cái chết của Giả Nam Phong
cũng đồng thời kéo theo chấm dứt sự tồn tại của nhà Tây Tấn, đưa đất nước Trung
Hoa vào một thời kỳ hỗn loạn: Nam Bắc phân liệt kéo dài suốt 400 năm.
Chu Do Kiểm, vị vua cuối cùng của
vương triều Minh kế nghiệp tổ tiên khi đất nước ngày một sa sút, các mâu thuẫn
xã hội phát triển gay gắt, các thế lực chính trị đang trong tình trạng quyết
đấu một mất một còn. Những năm đầu nắm quyền bính, Minh Nghị Tông đã mang hết
khả năng của tài trai, sức trẻ phụng sự cho xã tắc, đưa vương triều Minh tránh
được nguy cơ của sự diệt vong, tiến lên một bước. Nhưng thật đáng tiếc, ông vua
trẻ tuổi này đã sớm hỉ hả trước những thành tựu của mình để lao vào trò chơi
quyền lực, tin yêu hoạn quan, bỏ bê triều chính. Mười bảy năm làm vua, Chu Do
Kiểm đã đuổi hơn 50 người ra khỏi nội các, thay đổi các thượng thư như đèn cù,
không khống chế được tài chính quốc gia, giết và bãi chức rất nhiều trung thần
tài giỏi, đặc biệt là giết oan Viên Sùng Hoán một danh tướng dũng cảm, lắm mưu
nhiều kế, hiếm có bấy giờ để sau mười bảy năm cầm quyền, Chu Do Kiểm vị vua thứ
tư của vương triều Minh đã để mất nước, tự kết thúc cuộc đời bằng sợi dây treo
cổ.
Ngũ Tử Tư, một trung thần của
vương triều Ngô, có nhiều công lao trong việc xây dựng và bảo vệ triều đại nhà
Ngô. Ông là nỗi khiếp sợ của cả vua tôi Việt Vương, là niềm tin và ý chí của
người dân nước Ngô, thế nhưng chỉ vì nóng nảy, trực tính mà đang là “tướng phụ”
đầy quyền uy phải chấp nhận hình phạt tự xử của Ngô Phù Sai. Chiến trận đã sinh
ra “tướng phụ”, gươm đao và hào khí của chiến trường đã tạo ra một Ngũ Tử Tư
đại tài, dũng mãnh nhưng rồi cũng chính gươm đao ấy đã kết thúc cuộc đời ông
trong nỗi đau của trần thế, trong tiếng nức nở nghẹn ngào của người dân nước
Ngô và trong tiếng rên rỉ của một triều đại phong kiến đã đến ngày mạt vận. Những
giọt nước mắt hối hận của Phù Sai không thể làm sống lại một Ngũ Tử Tư trung
thần, ái quốc, không thể làm dịu đi nỗi uất hận của người dân nước Ngô và càng
không thể vực dậy được vương triều Ngô đã đến ngày tận thế.
Khuất Nguyên, một chính trị gia uyên
bác thời chiến quốc rất giỏi về ngoại giao, có tài về chính trị, ông đã nhận
thấy: Nước Sở có giàu mạnh lên mới có thể thoát khỏi sự uy hiếp của nước Tần.
Vì vậy ông đã đề xuất những chính sách: "Liên Tề chống Tần",
"Cải cách những tệ hại về chính trị để chấn hưng đất nước" được Sở
Hoài Vương tín nhiệm. Nhưng chẳng bao lâu, Khuất Nguyên gặp phải sự chống đối
kịch liệt của tầng lớp quý tộc hủ bại, sợ cải cách vì sợ ảnh hưởng đến quyền
lợi của bản thân nên đã đặt điều vu khống, bài xích ông trước mặt Sở Hoài Vương
khiến Sở Hoài Vương đày ông biệt xứ.
Dời khỏi vũ đài chính
trị, ông trở thành "kẻ bị biếm thích". Cuộc sống của người bị lưu đày
biệt xứ khốn quẫn vô cùng nhưng nỗi đau duy nhất, cao hơn nỗi khổ nhục của kẻ
bị đày biệt xứ là nỗi đau phải chứng kiến sự diệt vong đang đến dần của nước Sở
- nơi ông đã yêu thương, hi sinh đến trọn đời. Đô thành nước Sở bị quân Tần
chiếm đóng đã kết thúc vương triều Sở, cũng đồng thời kết thúc cuộc đời và lý
tưởng cao đẹp của Khuất Nguyên dưới dòng sông Mịch La cuộn trào sóng hận. Sở
Hoài Vương! Vị đế vương thích nghe những lời phỉnh nịnh ngọt ngào kia dẫu có
chết đến nghìn lần cũng không thể chuộc lại những lỗi lầm mà y đã mắc phải.
Ở chế độ mà đế vương có
quyền hạn tối thượng ấy, không những sinh mạng của mọi người khó bảo toàn mà
thậm chí đến sinh mạng của đấng chí tôn cũng khó được bảo đảm vì những âm mưu
cung đình cứ ngấm ngầm tạo dưỡng trong nội bộ vương triều từng giờ từng phút.
Chế độ thế tập quyền uy đã sản sinh ra những âm mưu, thủ đoạn, những việc làm
bất nhân, bất nghĩa, chà đạp lên luân thường đạo lý. Chỉ vì chiếc ngai vàng, vì
chỗ ngồi quyền lực mà gia đình tan nát, nồi da xáo thịt: Cha giết con, em giết
anh, con giết bố... dẫn đến cảnh đất nước loạn lạc. Đi hết tập sách này, bạn
đọc sẽ thốt lên đau đớn, phẫn nỗ: Đâu rồi tính người ở những ông vua? đâu rồi
phụ tử tình thâm - đặc trưng cơ bản của xã hội loài người - ở các hoàng tộc?
Bộ sách "CHUYỆN VUA
CHÚA TRUNG HOA" ghi chép gần một trăm quân chủ phản diện kiểu như vậy. Họ
là những kẻ đại diện cho thế lực thống trị thối nát ở Trung Quốc từ xã hội nô
lệ đến chế độ phong kiến. Trong số những vị hôn quân đó, có những vị đế vương
trong những năm đầu nắm quyền bính là những ông vua sáng suốt, có nhiều công
tích, hoặc đứng ở mặt nào đó là những thiên tài nhưng hoặc do kiêu căng, dâm
dật, hoặc do ân oán cá nhân, hoặc do bị lung lạc bởi hoạn quan, ngoại thích mà
trở nên bạo ngược, dẫn đến cảnh nước mất nhà tan; nhưng có những vị đế vương
ngay từ ngày mới được kế vị đã lao vào ăn chơi đàng điếm, không có ý chí, thậm
chí còn có ngớ ngẩn, đần độn trong hành xử... nên trong thời gian tại vị họ chỉ
biết lao vào những lạc thú riêng tư, bỏ bê triều chính, xáo trộn xã hội, dẫn
đến sự sụp đổ cả một vương triều.
Công ty Văn Hóa Bảo
Thắng trân trọng giới thiệu với Quý bạn đọc: "SÓNG GIÓ NỘI CUNG", tập
đầu của bộ sách 15 tập về “thâm cung bí sử” của các ông hoàng bà chúa (Trung
Hoa) như thế, do Lý Khắc Cung dịch thuật.
*.
Hà nội, ngày 17 tháng 04
năm 2002
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC
TRUYỆN NGẮN ĐÙA CỦA TẠO HÓA
*
Truyện ngắn ĐÙA CỦA TẠO
HÓA của nhà văn Phạm Hoa đã miêu tả khá thành công tính cách nhân vật Tuấn, đại
diện cho một trong những điểm yếu của người đàn ông hiện đại.
Tuấn là con trai duy
nhất của một gia đình căn cơ, khá giả với đầy đủ lợi thế: Đẹp trai, học giỏi,
hiếu thuận và lịch lãm. Bố hy sinh khi anh còn quá nhỏ, mẹ ở vậy thờ chồng
nuôi con. Lớn lên trong tình yêu, sự hy sinh và kỳ vọng vô bờ của người mẹ, anh
đã có tất cả: Đẹp trai, thành đạt, được mọi người quý trọng, cưới được cô vợ
xinh đẹp thảo hiền. Nhưng thật oái oăm, hay như cách nói của nhà văn Phạm Hoa,
gọi đó là trò đùa của tạo hóa, bỗng chốc anh trở thành trắng tay, như chưa tồn
tại ở cõi đời.
Đọc ĐÙA CỦA TẠO HÓA,
hình ảnh bà Thuận được tác giả khắc họa rất rõ nét và sinh động: Bản lĩnh mà
yếu đuối, nhân hậu mà ghê gớm, bao dung mà ích kỷ... trước và sau khi Tuấn cưới
vợ. Con người bà chứa đầy mâu thuẫn giữa cho và nhận, giữa tình thương và trách
nhiệm vì tình yêu bà dành cho con theo kiểu “độc chiếm yêu thương”. Người đọc
yêu bà đấy, cảm phục bà đấy nhưng cũng trách giận bà đấy, khó có thể cảm thông
cho sự cứng rắn, ích kỷ đến mù quáng của bà sau khi Tuấn cưới vợ.
Xưa tới nay, muôn đời
vẫn vậy, người mẹ luôn hết lòng vì con, sẵn sàng chấp nhận mọi đắng cay, khổ
cực, thậm chí đánh đổi cả mạng sống của mình để đứa con được hạnh phúc. Đó là
lẽ thường tình, người mẹ nào cũng làm vậy, nhưng việc yêu con đến cạn kiệt bản
năng làm mẹ như bà Thuận, người đời khó có thể chấp nhận. Người đọc, thậm chí
có thể kính phục bà trong việc nuôi dạy Tuấn nên người, lo lắng chở che cho
Tuấn đến quên bản thân mình nhưng không ai chấp nhận tình yêu kiểu “độc chiếm
yêu thương” bà dành cho Tuấn. Đấy chính là điểm “thắt nút” buộc Tuấn phải tháo
gỡ, là đầu mối bi kịch cuộc đời Tuấn, và cũng chính là bi kịch cuộc đời của một
gia đình tưởng sẽ mãi ấm êm, hạnh phúc.
Trái ngược với hình ảnh
bà Thuận, hình ảnh Tuấn hiện lên qua phác họa của Phạm Hoa thật yếu đuối và nhu
nhược. Con người anh rất hoàn hảo về hình thức và tri thức, nhưng cứ nhàn nhạt
về tính cách. Cả cuộc đời anh là một xâu chuỗi sự “răm rắp vâng lời”. Tuốt tuột
anh làm theo ý mẹ, nghe theo sự sắp đặt của mẹ. Anh giỏi trong tri thức nhưng
lại quá mù mờ về bổn phận của thằng đàn ông. Anh nhanh nhẹn, hoạt bát trong các
mối quan hệ xã hội nhưng lại quá ngớ ngẩn trong ứng xử gia đình. Giữa hai người
phụ nữ (mẹ và vợ), anh cư xử như một thằng “trẻ con”: Không chính kiến, không
suy nghĩ, không hành động.
Mâu thuẫn giữa mẹ và vợ
đã đẩy đến điểm đỉnh. Cuộc chiến giành giật “quyền sở hữu” Tuấn - (theo chữ của
Nguyễn Kiên là “vùng khuất trong tiềm thức (...) có ẩn ức sinh lý”) - từ hai
người đàn bà đã ở mức quyết liệt, một mất một còn mà hành động của Tuấn vẫn chỉ
là: Luống cuống quỳ xuống chân mẹ, khóc rưng rức, van xin. Hành động “đáng kể”
nhất của anh, được Phạm Hoa viết: “May thay, hóa ra Tuấn lại tỉnh táo hơn cả”,
là kéo vợ chạy khỏi nhà, chạy ào ra đồng.
Giữa hai người phụ nữ
yêu thương của mình, Tuấn không biết phải làm gì (mà đúng ra anh chẳng chịu làm
gì cả). Anh bị họ giằng xé, đun đẩy. Anh là cái cớ để họ bám víu, để họ quyết
chiến sống còn nhưng anh vẫn bàng quan, vô cảm. Với họ, anh chỉ là con xúc sắc
xinh xinh, đẹp mắt cần phải độc chiếm. Với anh, họ là người thân yêu như ngàn
vạn người khác ngoài xã hội. Phạm Hoa đã lột tả tất cả sự nhu nhược, ươn hèn và
ích kỷ trong tâm lý và tính cách của Tuấn, chỉ qua một đoạn ngắn: “Tuấn cảm
giác rõ sự hết lời của mình. Giới hạn cuối cùng của cuộc xin xỏ đã hết. Chợt
anh mỉm cười mềm yếu và dễ dãi. Anh không thể chặt xác Loan ra làm ba được. Anh
bỗng thấy lạnh run người. Anh im lặng đứng dậy, nước mắt cũng thôi chảy. Vừa đi
ra ngõ, anh vừa thấy loáng thoáng ý nghĩ. Thôi mẹ muốn thế nào cũng được. Anh
sẽ ra đi vậy. Để cho các người ở lại giành giật, cắn xé lẫn nhau. Một khi đến
yêu mà vẫn không biết yêu thì tồn tại sao nổi. Chính lúc đó, trong con người
anh như diễn ra cuộc biến đổi dữ dội. Anh cảm thấy cô đơn, lạnh vắng, như đang
lững thững bước trên miền đất nào đó rất xa lạ.” Vâng! Tuấn đã “biến đổi dữ
dội” (!) để nhận ra sự cô đơn, vô vị, bất lực của mình nhưng anh vẫn không làm
gì, ngoài hành động bỏ trốn. Người đọc cảm mến anh ở những trang đầu bao nhiêu
thì nay bực tức anh bấy nhiêu, thậm chí lên án anh vì hành động trốn chạy, vô
trách nhiệm của mình.
Ích kỷ và nhu nhược phải
chăng là tính cách tạo nên con người Tuấn? Thằng đàn ông có dáng dấp mạnh mẽ,
thành đạt của anh chỉ là vỏ bọc của một tâm hồn yếu đuối, bạc nhược, của suy
nghĩ rất con trẻ chẳng biết làm gì và thật xa lạ với xã hội, đại diện cho những
“cậu ấm” suốt ngày quẩn quanh bên mẹ, yêu mẹ bằng sự tôn thờ tuyệt đối. Kết thúc
truyện, hay kết thúc bi kịch cuộc đời Tuấn là sự tan vỡ gia đình, là bước đi vô
định của anh giữa màn đêm cô tịch, để mãi mãi không còn ai thấy sự tồn tại của
anh trên cõi đời này.
Có lẽ Phạm Hoa đã gặp
không ít người đàn ông kiểu như Tuấn trong cuộc sống nên đã xây dựng nhân vật
Tuấn trong ĐÙA CỦA TẠO HÓA rất đặc trưng cho những chàng công tử chỉ được cái
mẽ người “hào hoa và diêm dúa” nhưng vô tích sự ở đời. Qua tác phẩm của mình,
Phạm Hoa cảnh báo: Nếu tình yêu của người mẹ dành cho cậu con trai theo kiểu
“độc chiếm yêu thương” sẽ biến con mình trở thành người đàn ông nhu nhược, yếu
đuối và ích kỷ, hay còn gọi là người đàn ông “nửa vời”, bị “cắt xén”. Sự ra đi
của Tuấn là cần thiết cho cho sự chấm dứt hình ảnh người đàn ông “trẻ con” yếu
đuối về tâm hồn, nhu nhược về tính cách đang có chiều hướng gia tăng trong xã
hội hiện đại.
*.
Làng Đá, mùa hè, năm
2002
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ
VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
*
Nghèo mà tài không được
bằng ai nên tôi chọn sách (viết và kinh doanh sách) làm nghề kiếm kế sinh nhai.
Ngót nghét hai mươi năm với nghề, khi thấy nghề sách có dấu hiệu “suy thoái”,
tôi quyết định bỏ nghề, “về hưu” và tìm thú tiêu khiển với facebook... Lên
mạng, tôi chăm chú đọc những bài về văn hóa tín ngưỡng, về đối nhân xử thế...
chứ không mặn mà với thơ, truyện vì... ngại đọc, sợ phải “động não” nhiều nên khi thi sĩ
Nguyễn Đăng Hành rủ Văn Thùy “dị nhân” đến thăm nhà - ở làng Đá, Ân Thi, Hưng
Yên - tôi mới biết ông là thi sĩ cùng quê, là kẻ bấy lâu được giới văn chương
“phong tặng” là “dị nhân”, là “lục bát giang hồ”... Cầm mấy tập thơ ông đề
tặng, tôi cám ơn cho phải phép rồi cất vào tủ sách. Đêm. Ám ảnh bởi cuộc nói
chuyện của ông, tôi vùng dậy “lôi thơ” của ông ra đọc.
Tôi thật sự bị thơ ông
cuốn hút!
Ông tung hứng, nhảy múa
với từng câu chữ. Ông bắt người đọc phải trầm trồ, ngả mũ vì cách chơi chữ táo
bạo mà đắc địa: Phải tay này gặp Thị Màu
/ Chẳng sưng đầu mõ, cũng nhàu vú chuông... hay: Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là
chín vía chột mười cũng xong.
Câu chữ, qua sự nhào nặn
của ông - của “dị nhân” Văn Thùy - trở nên sinh động, nhuần nhuyễn và tài hoa: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay
ngồi phệt mặt đầy rong rêu... hay: Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn
quanh lọn tóc rã rời mái gianh.
Viết về tình yêu với vợ
(cũ), người phụ nữ từng nhiều năm đầu gối má kề, ông dành cho bà những lời dịu
dàng, đằm thắm: Bao nhiêu chữ nghĩa hương hoa / Cũng
bay về phía thật thà ngày xưa; bằng trải lòng rất thật: Quay về tầm mắt em thôi / Tắm trong
giọt lệ thương người phù sinh. Ông dằn vặt, tự trách,
ông nhận hết phần sai về mình: Nửa đời bám gió leo mây / Hôm nay
ngồi phệt mặt đầy rong rêu / Mải mê thơ phú cánh diều / Bỏ trâu gặm cụt nắng
chiều mồ côi. Tình yêu ông dành cho người vợ nhiều
lắm nên bất chấp tính sĩ diện cố hữu của thằng đàn ông, ông thấp giọng “xin” bà
cho ông cơ hội: Xin em hết sức lượng
tình / Cho tôi tìm lại chính mình hôm qua. Và rồi, cả mãi sau đấy,
khi bà rời xa ông, đã trở thành người phụ nữ “của người ta”, thì tình yêu ông
dành cho bà vẫn âm ỉ. Sau những“Trong nhà luýnh quýnh một người chạy
mưa”, ông ngồi thần người nghĩ
về người vợ cũ. Hình ảnh người đàn ông cô đơn, tuổi xế chiều, cố nén tiếng thở
dài để chặn tiếng khóc chực bật ra trong Nhà Dột như cứa vào tâm trí
người đọc: Giá như đôi đũa chẳng cong / Thì đâu lẻ bóng long đong
chống trời / Giá như… ừ… giá như thôi / Mình không dại dột chia đôi nếp nhà.
Có lẽ là người thất bại
trong hôn nhân nên mặc dù khao khát một tình yêu mãnh liệt, luôn sẵn lòng đắm
đuối với ái tình nhưng những khao khát, đắm đuối ấy luôn gặp phải sự cản trở từ
chính con người ông. Những câu tếu táo, bông đùa: “Vừa ban thông điệp yêu đương / Bỗng
dưng cả bộ dát giường động kinh”, hay “Có gì mạnh đến lạ thường / Yêu suông đã bốn chân giường
còn hai”… tưởng gia vị cho tình
yêu thêm thi vị, máu lửa thì thực ra đó là lời chống chế ngầm của kẻ sợ sẽ bại
trận trong tình yêu. Như con chim sợ đậu phải cành cong, ông đắm đuối, bỏng
cháy với tình yêu nhưng lại dè dặt, e ngại mở lòng với cuộc tình “sắp” đến. Rất
nhiều tính từ (có lúc lại là động từ) như “yêu chay”, “yêu khan”, “yêu
suông”... được ông sử dụng để diễn tả tâm
trạng e ngại, kìm nén những xúc cảm yêu đương: “Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi”,
“Yêu chay loang lổ mảng tường phong rêu”, “Đã âm thầm nỗi yêu khan”, “Đã thành
hội chứng yêu khan”...
Ông viết nhiều về tình yêu
trai gái, nhưng thường là thứ tình yêu trớ trêu, thuộc lứa nạ dòng gặp phải
trai lơ, bằng thứ ngôn ngữ bình dị của người thôn quê pha chút ngông ngông,
“bất cần” của gã trai “bụi” phóng đãng: Cổng chùa xin tiểu lỏng then / Kẻ trần tục dễ lẻn lên thăm chùa... hay: Em nguyền khổ hạnh ăn
chay / Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.
Nhưng khi viết về mẹ thì
thơ ông lại trầm lắng mà da diết, từng lời, từng lời như bào xát tâm can, khiến
người đọc day dứt, rưng rưng: Vinh hoa con ướm trên người / Phất
phơ tóc mẹ dệt thời yêu thương / Đã đi nhẵn một con đường / Còn nghe tóc mẹ bốn
phương rối bời / Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái
gianh - (Tóc Rối Của Mẹ Năm Xưa). Hay những câu thơ thật
hay, thật sinh động, được viết bởi tấm lòng của người con hiếu thảo trong Hoài Cảm Tích Cũ khắc sâu trong tâm trí
người đọc: Chân trần mài vẹt đường quê / Lưng
về như đặt đoạn đê giữa nhà / Lá trầu dứt cuống đi xa / Nồng cay hương quế thơm
qua xứ người.
Viết về mảng nào, dù là
tình yêu trai gái hay nhân tình thế thái, thơ ông cũng có sự mượt mà, đằm thắm
của ca dao, pha chút tếu táo, bỡn cợt của dân dã, cộng thêm chút khệnh khạng
của Văn Thùy, đã tạo nên thương hiệu thơ rất riêng, rất “dị nhân” Văn Thùy, dễ
say đắm lòng người.
Trong gia tài thơ ca của
ông, có nhiều câu thơ đặc sắc, thể hiện nét tài hoa đặc biệt của ông, nhưng
thật tiếc, sự lặp lại về tứ, về
ý đến gần như sao y bản chính của không ít câu thơ: “Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín vía chột mười cũng xong.” -
“Ngón tay ngọng mấy đốt rồi / Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong.”, hay: “Con xuôi ngược nửa kiếp người / Vẫn
quanh lọn tóc rã rời mái gianh.” - “Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh
lọn tóc rối thời mái gianh”..., thậm chí sự tương đối
giống nhau của cả những bài thơ (Xin Em - Xin Em Đừng Mặc
Áo Dày) đã làm thơ ông xuất hiện sự nhàm
chán, nhạt đi và bớt duyên, khiến những người yêu thơ, yêu sự sáng tạo, chỉn
chu sẽ khó chịu, cho rằng ông lười sáng tạo nên mới xào sáo, làm giảm sức hấp
dẫn với chính thơ của mình.
*.
Hà Nội, 26 tháng 12 năm
2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG DƯƠNG CẦM”
CỦA NGUYỄN THANH LÂM
*
HƯƠNG DƯƠNG
CẦM
Mưa vừa đủ cho hàng cây
nhỏ giọt
Như giọt cafe trắng
trong
Gió vừa đủ cho mưa rơi
nghiêng
Hòa tiếng dương cầm ru
trong đêm
Hà Nội đêm
Tiếng dương cầm lan xa
hương
Thơm thơm mùi nhớ
Vương vương dặm tình
Nghìn mắt lá, nghìn ánh
đèn đọng mưa chơm chớp
Tiếng dương cầm loang
loáng ướt
Ngập ngừng rơi
Bên kia sông Hồng mưa có
rơi
Tiếng dương cầm có cùng
hạt mưa thấm vào lòng đất
Phia bên này năm cưa ô
thao thức
Hay đang mơ giấc nhạc
dương cầm
Hà Nội đêm tỏa hương
dương cầm
Hương vừa đủ cho đời tự
cho là đủ
Hương lan xa đến đâu tự
mình thấu tỏ
Trong thế giới bao la
riêng một hương mình.
*.
NGUYỄN THANH LÂM
LỜI BÌNH:
Mở đầu bài thơ là giọng
thơ thiền, ngộ đạo thường thấy của nhà thơ: Lặng lẽ quan sát, lặng lẽ chiêm
nghiệm để lặng lẽ rút ra những kinh nghiệm sống trong cõi tạm của đời người:
Mưa vừa đủ cho hàng cây nhỏ giọt
Như giọt cafe trắng trong
Gió vừa đủ cho mưa rơi nghiêng
Hòa tiếng dương cầm ru trong đêm
Ở đây, ở khổ thơ này,
tất cả sự vật, hiện tượng như cây cối, mưa, gió... đều vừa vặn, vừa đủ để tạo
nên một không gian đẹp, một khung cảnh thơ mộng, ấn tượng, rất Hà Nội, mà cũng
đậm chất triết lý Á Đông. Tuy là thế, người đọc vẫn sẽ thắc mắc sự phi lý khi
đọc đến câu: “Như giọt cafe trắng trong”
bởi thường thì người ta nói giọt cafe đen, giọt cafe nâu... chứ chưa nghe ai
nói“giọt cafe trắng trong” như nhà
thơ Nguyễn Thanh Lâm đã viết. Phi lý như thế nhưng lại rất có lý, bởi giọt cafe mà ông lặng lẽ quan sát là giọt
cafe của trời, của thiên nhiên, chứ không phải giọt cafe đen hay nâu của trần
tục. Chính giọt mưa đang tí tách nhỏ giọt trên cây kia khiến ông liên tưởng tới
giọt cafe, và với sự liên tưởng “ảo của thơ” ấy đã khiến giọt mưa trong thơ
Nguyễn Thanh Lâm có hồn, ấm áp, thơ hơn và đẹp hơn. Phải quan sát thật kỹ, thật
tỉnh thì ông mới đưa được ra “nhận xét” độc đáo, chính xác, tinh tế như thế, và
mới có được những câu: “Mưa vừa đủ cho
hàng cây nhỏ giọt”/ “Gió vừa đủ cho
mưa rơi nghiêng”, đấy không chỉ là những câu thơ mà
còn là những chiêm nghiệm, những triết lý của cuộc sống, những ngộ thức về đạo của đời người. Vâng! Tôi rất tán đồng
với những điều ông viết nhưng thưa nhà thơ, biết cân đong đo đếm thế nào cho
vừa vặn, cho đủ đây? Thật khó, nào có dễ, thưa nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm!
Khổ 2, là khổ thơ tôi
thích nhất bởi tình yêu của tác giả dành cho Hà Nội được nhà thơ nâng niu, chắt
lọc trong từng câu chữ, hình ảnh:
Hà Nội đêm
Tiếng dương cầm lan xa hương
Thơm thơm mùi nhớ
Vương vương dặm tình
Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp
Tiếng dương cầm loang loáng ướt
Ngập ngừng rơi
Cái hay ở đây là sự cảm của nhà thơ về mưa đêm Hà Nội. Nhà
thơ không chỉ nghe mà còn “ngửi” được, “nhìn” được hương mưa đêm dìu dịu của Hà
Nội qua bảng lảng, dìu dặt của tiếng dương cầm. Nhà thơ dùng: “Tiếng dương cầm lan xa hương”, rất sáng tạo để dụ người đọc nhẹ nhàng bước vào cõi
nhớ thương rất riêng của ông, với những “Thơm
thơm mùi nhớ/ Vương vương dặm tình”, chỉ có thể tìm thấy trong thơ Nguyễn
Thanh Lâm.
Hà Nội đã thẩm thấu vào
con người ông, thành máu thịt của ông đến độ khi tiếng dương cầm dìu dặt ngân
lên đã khiến ông rạo rực về Hà Nội, khiến những nét vẽ của ông về Hà Nội trong
mưa đêm cựa quậy, trở nên huyền ảo, lung linh, đẹp đến liêu trai:
Nghìn mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp
Tiếng dương cầm loang loáng ướt
Ngập ngừng rơi
Tiếng dương cầm trong
thơ của Nguyễn Thanh Lâm không còn là tiếng âm thanh của nhạc cụ, mà thành
hương của lòng, thành hồn của nhà thơ đã ôm lấy, quyện lấy Hà Nội, để vẽ nên
một Hà Nội gợi cảm, mềm mại. Câu thơ: “Nghìn
mắt lá, nghìn ánh đèn đọng mưa chơm chớp” đã hay, đã đẹp nhưng có
thể sẽ có ai đó nghĩ được, viết được giống thế nhưng để cảm được “Tiếng dương cầm loang loáng ướt/ Ngập ngừng
rơi” sống động đến mê hoặc như Nguyễn Thanh Lâm thì thật khó, thật hiếm. Riêng khổ thơ thứ 2 này đã là một bài thơ hay, hoàn
chỉnh về Hương Dương Cầm trong mưa đêm Hà nội. Bài thơ hay và đứng được
trong tâm trí người đọc chính ở khổ thơ này!
Hai khổ cuối của bài thơ
là nỗi lòng trăn trở, thắc thỏm của nhà thơ với tình yêu của ông dành cho Hà
Nội, cho “người Hà Nội” của ông:
Bên kia sông Hồng mưa có rơi
Tiếng dương cầm có cùng hạt mưa thấm vào lòng đất
Phia bên này năm cửa ô thao thức
Hay đang mơ giấc nhạc dương cầm
Hà Nội đêm tỏa hương dương cầm
Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ
Hương lan xa đến đâu tự mình thấu tỏ
Trong thế giới bao la riêng một hương mình.
Nhịp thơ chậm lại, giọng
thơ trầm, lắng, dung dị và mộc mạc của ngôn ngữ đời thường, như thủ thỉ tâm sự,
nói chuyện để trải lòng. Nếu ở khổ thứ 2 là những hình ảnh liêu trai, đẹp đến
ma mị, được diễn đạt bằng cách nhìn nhận của tư duy phóng khoáng, hiện đại thì
ở 2 khổ thơ này, cách nhìn nhận và diễn đạt hình ảnh, lại bằng suy nghĩ, triết
lý rất phương Đông. Chất thiền đặc trưng của thơ ông ở khổ thơ 3 và 4 lại khiến
người đọc tò mò, thích thú vì thấy cảm được thơ ông, hiểu được thơ ông nhưng
lại khó diễn đạt cho ra ý thành lời, đọc thơ mà như có cảm giác đang chơi trò
thách đố diễn đạt câu chữ với nhà thơ. Phải chăng vì điều đó mà
thơ Nguyễn Thanh Lâm kén bạn đọc!
Kết thúc bài thơ là quan
điểm của nhà thơ về cuộc sống: “Hương vừa đủ cho đời tự cho là
đủ/ Hương lan
xa đến đâu tự mình thấu tỏ”, đượm triết lý phương Đông, triết lý
của Lão Tử.
Tôi mãi phân vân về câu
kết của bài thơ vì 20 năm chơi với ông, tôi hiểu ông là người tự trọng, khiêm
nhường, sống trọng tình trọng nghĩa nhưng câu “Trong thế giới bao la riêng một hương mình” thì rất dễ bị hiểu lầm
là cao ngạo, coi mình là riêng một vũ trụ nên tôi đã lướt qua, cố tình không đả
động đến. Thế nhưng, trước khi đưa bài lên trang, tôi lại phân vân, rồi tự
trách: Nguyễn Thanh Lâm đâu có cao ngạo? Ông ung dung điềm đạm nhìn đời đấy
chứ! Hương
Dương Cầm đã là hương “riêng của Hà Nội” chứ đâu còn là của riêng của
Nguyễn Thanh Lâm mà bảo ông là người kiêu căng! Lần nữa, tôi lại tán đồng với
quan điểm thấm đẫm triết lý phương Đông của ông về cuộc sống: “Hương vừa đủ cho đời tự cho là đủ/ Hương lan
xa đến đâu tự mình thấu tỏ”.
Tôi không có ý định bình
thơ vì không có khiếu bình thơ nhưng vì đọc Hương Dương Cầm thấy hay
quá, buộc lòng cầm bút để ghi lại vài dòng.
*
Hà Nội, chiều 08.07.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VỀ PHONG CÁCH
BÌNH THƠ CỦA CHÂU THẠCH
*
Khi tìm tài liệu đọc để
viết bài CHỮ TÔI, CHỮ TA VÀ CÁI TÂM LÀNH, tôi chợt có ý định thử tìm hiểu về
phong cách bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch nên cần mẫn ngồi đọc
130 bài bình thơ của ông. Đọc xong, tôi phấn chấn, nảy thêm ý định “tận dụng sự
đọc 130 bài bình thơ” để viết một bài làm “kỷ niệm”... Tôi điện gặp nhà phê
bình Châu Thạch, nói ý định của mình, ông cười sảng khoái: - “Vâng! Đặng Xuân Xuyến cứ viết theo đúng như
những gì Đặng Xuân Xuyến cảm nhận về Châu Thạch, như thế mới quý. Cám ơn Đặng
Xuân Xuyến trước nhé.”.
Tôi liền cặm cụi ghi lại
những cảm nhận của mình về phong cách bình thơ của ông. Vì đây là bài cảm nhận
của một đọc giả về một tác giả nên cấu trúc bài viết và những dẫn giải đưa ra
sẽ không mang tính nghiên cứu khoa học, nên bài viết sẽ có những hạn chế, những
thiếu sót khiến bạn đọc không được vừa ý.
&.1
Đọc những bài bình thơ
của tác giả Châu Thạch, tôi hay gặp (nhiều) cách ông giả định khi bình thơ, tôi
tạm gọi đó là phương pháp giả định để liên tưởng và giả định để gợi mở trong
cảm thụ thơ văn. Có thể nói, đấy chính là phong cách đặc trưng, là cách nổi
trội trong phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch. (Đây chỉ là quan điểm cá
nhân của tôi khi đọc Châu Thạch bình thơ, không là bài phê bình của người viết
phê bình, vì thế “thuật ngữ” giả định để liên tưởng, giả định để gợi mở và một
số “thuật ngữ” khác sẽ dùng trong bài viết nếu chưa sát nghĩa hoặc không đúng,
mong quý vị thể tất.)
Chẳng hạn, khi bình bài
thơ
Bến My Lăng của Yến Lan, ông đã dùng phương pháp giả định để liên tưởng
khi tiếp cận với ý thơ (tứ thơ):
“Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng,
Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng.
Khổ thơ này cho ta liên
nghĩ đến điều gì? Liên nghĩ đến vận mệnh. Vận mệnh của một cuộc gặp, vận mệnh
của một đời người, vận mênh của quốc gia không tùy thuộc vào ta, có khi tùy
thuộc vào phút giây nào đó. Bài thơ không cho ta biết hai người có liên quan
nhau không nhưng bài thơ cũng cho ta đoán định đây là hai con người nghĩa khí.
Một người có học, canh cánh bên lòng nổi u uẩn. Một người đang mang trọng trách
trong mình. Nếu họ gặp nhau và đưa nhau qua đò biết đâu sẽ làm việc lớn, và
chuyến đò kia sẽ là chuyến đò định mệnh. Vì họ không gặp nhau, vì định mệnh
không cho họ hội ngộ nên ông lái đò phải:
Bến My Lăng còn lạnh, bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng.
Như vậy, người khách kia
đi đâu không biết nhưng ông lái đò đã phí cả thơi gian, phí đi kinh sử, mất đi
chí lớn, u uất nép mình chèo đò bao năm trên bến My lăng để đợi một người khách
sang sông, người khách sẽ làm cuộc đời ông thay đổi. Đó là nhân vật nào ta đâu
biết. Một tri kỷ? một đồng chí? Một lảnh tụ chăng? chứ dứt khoát không phải chỉ
là một chàng kỵ mã bình thường.”
Đúng ý hay sai ý của tác
giả thơ chưa biết nhưng trong trường hợp này, thì phương pháp giả định để cảm
nhận Bến
My Lăng theo cách của tác giả Châu Thạch là cách tiếp cận hợp lý.
Hay như khi bình Một
Buổi Trưa của Bùi Giáng, mà theo Châu Thạch, thì đó là một bài thơ hay
nhưng rất bí hiểm, khó lý giải trong số “những bài thơ tỉnh táo của Bùi
Giáng”. Và để bình bài thơ này, tác giả Châu Thạch đã vận dụng phương pháp giả
định để liên tưởng, giả định để gợi mở, để “cảm” Một Buổi Trưa.
Xin mời cùng đọc trích
dẫn:
“Em có định sẽ cùng ai kể lể
Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao
Vừng hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ
Một mùi hương nồng tụ ở nơi nào
“Em có định sẽ cùng ai kể lể” là một câu nghi vấn mà không có
dấu hỏi, nó có công dụng cho ta biết tác giả không trực tiếp hỏi em
mà tự nhủ trong lòng mình. Câu thơ này cũng cho ta một phỏng đoán có
thể em đang ở đó và cũng có thể em không có đó, nghĩa là tác giả
đang một mình giữa bao la suy nghĩ về em. “Em” trong ba câu thơ còn lại
như là một bóng ma. Bóng ma có một cuộc đời “hư huyễn giữa chiêm
bao”, sống ở một vùng “hiu hắt nguyệt hờn mây nhỏ lệ” mà nơi đó là
một nơi có thể hiểu là nơi vô định vì nó có “một mùi hương
nồng tụ” mà tác giả không biết “ở nơi nào”.
Vế thơ này cho ta cảm
giác gì? Cảm giác một bóng người lãng đãng trong một khung trời ảm
đạm. Và cho ta một cảm nhận gì? Cảm nhận đây là linh hồn của tác
giả. “Em” ở đây không ai khác là tâm thần của người nằm mộng. Cái tâm
thần đó đã trải qua bao hệ lụy của cuộc đời, nay nó bước ra từ tâm
tác giả và hóa hình vào trong cơn mơ ấy. Cái tâm thần đó u ám
trong lòng tác giả, nay nhân dịp thể xác êm ái trong giấc trưa, nó
hiển hiện trong cơn mơ làm nên một bóng dáng của bao điều hệ lụy.”
Cũng dùng phương pháp
giả định để cảm thụ, Châu Thạch đã thả nguồn cảm hứng của ông lạc trôi theo
cánh “Chuồn Chuồn bay...”, phiêu cùng thơ Trần Mai Ngân đến với cõi
mộng:
“Chuồn chuồn mà bay được đến cổng trời là chuyện không thể vì thân nó
quá nhỏ, cánh nó quá mỏng. Vậy chỉ có con chuồn chuồn hóa thân vào linh
hồn tác giả thì mới đến được cổng trời trong mơ ước. Con chuồn chuồn bây giờ
trở nên vô hình vì nó nằm trong ảo tưởng. Đây thật sự là một giấc mơ với muôn
vàn khắc khỏai. Đây thật sự là tấm lòng ăn năn của người trong cuộc, ăn năn vì
số phận ly tan, duyên trời chia cách chớ không phải ăn năn vì phụ bạc tình
nhau. Bởi vì con chuồn chuồn đã yêu sâu đậm và thủy chung đến suốt một đời: “Ví
dầu…dẫu mộng không thành/ Buồn, vui vẫn đậu…ngọt lành vẫn xin”. Chuồn chuồn mà
bay đến cổng trời cũng có thể hiểu được là người xưa có thể đã trở thành người
thiên cổ không còn ở thế gian. Câu chuyện chẳng khác chi Điệp ngày xưa đã đến
cổng chùa để tạ lỗi với Lan. Điệp còn biết có Lan khi dây chuông bị cắt
đứt nhưng con chuồn chuồn của Trần Mai Ngân chỉ đến cổng trời trong mơ ước mà
thôi. Chính hình ảnh đó cho ta hiểu được niềm quặn thắt triền miên của người ở
lại giữa cuộc đời nầy. Hình ảnh cánh chuồn chuồn chuồn mỏng manh mà bay đến tận
cổng trời cũng cho ta thấy được tình yêu vĩ đại chất chứa trong lòng người đi
tìm quá khứ. Vế thơ thứ nhất đưa con người vào mộng, vế thơ thứ hai đưa con
người vào đau, một nỗi đau lớn chất nặng trên cánh con chuồn chuồn bé bỏng. Cái
đẹp được pha trộn nỗi đau làm tăng thêm nỗi đau và nỗi đau làm tăng thêm cái
đẹp. Người đọc thơ ở đây sẽ hưởng được thi vị trong nỗi đắng cay vì những câu
thơ rất đẹp lướt qua một cuộc tình ngang trái.”.
&.2
Tuy phương pháp giả định
được ông vận dụng khá nhiều trong các bài bình thơ nhưng không phải phương pháp
này được ông ưu tiên làm chính yếu, mà trong nhiều trường hợp, ông đã linh hoạt
khi tiếp cận để tìm tòi, khám phá sự “đặc biệt”, tinh tế về cấu tứ, âm điệu, kỹ
thuật... của bài thơ, lấy đó làm “nguyên liệu” cho việc “cảm” và bình thơ. Đấy
cũng là một điểm nhấn đáng lưu ý trong phong cách bình thơ của Châu Thạch.
Gặp được bài thơ hay,
ông phấn khích, ông “sướng nâng” như bị “lên đồng”. Chẳng hạn, khi đọc “Thềm
Xưa, Em Đợi Người Về”, trước kỹ thuật sử dụng ngôn ngữ khá “đắc địa”
của Hà Nhữ Uyên, ông như chịu sự tác động của một loại chất kích thích cực
mạnh, buộc ông “tự nguyện” thả hồn phiêu cùng Hà Nhữ Uyên, “tự nguyện” “lên
đồng” cùng Hà Nhữ Uyên:
“Thú thật, bốn câu thơ ở vế đầu đã làm tôi sướng nâng và đọc những vế
thơ kế tiếp tôi có cảm nhận mình đã thèm, đã thèm như chất kích thích đầy hương
vị của “Ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng” ngấm vào trong thớ thịt:
Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
Câu thơ tôi yêu mến đầu
tiên là câu “nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn”: Bài thơ này tác giả dùng chữ
“em” nghĩa là viết thay cho một người con gái, và câu thơ này cho thấy được hết
cả cái tâm hồn uỷ mị của cô em, cũng cho ta thấy hết được cái khung cảnh cô
liêu nơi cô ngồi, cả sự lãng mạn trong suy tư của em. Nhặt hạt nắng là hành
động của một kẻ tâm thần, nhưng tất nhiên cô gái không là kẻ bị bệnh tâm thần,
vậy nhặt hạt nắng là một cử chỉ siêu lãng mạn của con người đa cảm, một hành
động vô tâm nhưng bày tỏ một tính cách rất nên thơ có trong một tâm hồn rất đẹp.
Câu thơ thứ hai tôi
thích là “nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan”. Ở câu thơ trên ta thấy cô
gái”nhặt bâng quơ hạt nắng”, ở câu thơ dưới ta thấy cô gái “nhặt hoài mong”.
Vậy thì trong vế thơ này sự hoài mong của cô gái được thể hiện trên hạt nắng.
Cô gái nhặt hạt nắng như nhặt sự hoài mong của mình, và tất nhiên hạt nắng thì
trôi tuột qua “mười ngón tay đan” nên sự hoài mong cũng trôi theo hạt nắng. Câu
thơ liên kết sự mong đợi với hạt nắng ngủ trên bàn thật là lý thú. Cái vô hình
trong tâm được thể hiện bằng cái hữu hình trên bàn, và cả hai được lồng trong
bức tranh tỉnh vật chứa đựng sự sâu kín trong hồn hoà điệu cùng phong cảnh.”
Nhưng cũng có trường hợp
ông nhấn sâu vào âm điệu của bài thơ, xoáy sâu vào cấu trúc của bài thơ để chọn
cấu trúc, âm điệu của bài thơ làm “chất xúc tác” cho việc cảm thụ và bình thơ.
Ví dụ như khi ông bình bài thơ “Chấp Chới” của Đặng Xuân Xuyến:
“Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn kim”
Ơi người nhớn nhác đi tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Người “xe chỉ luồn kim”
là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành
người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se sắt”. Còn người ở lại thì lang
thang đầu ghềnh và mê mải trong tâm đi tìm quá khứ.
Khổ thơ với những
vần thơ có thể gọi là “cà giựt”, nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ
và tứ thơ không dính dáng gì nhau, nhưng chính cái “cà giựt”
đó làm cho tiếng thơ trở nên dập dồn, kích thích người đọc, làm
căng thẳng cảm xúc và trọn vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái
thất tình.
Qua khổ thơ thứ ba
tác gỉả dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên tục vào điểm yếu
của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm cho nghẹn ngào, uất
ức:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.”
&.3
Một điểm nhấn nữa trong
phong cách bình thơ của Châu Thạch là ông bình thơ bằng tâm thế của người cảm
thụ thơ nên trước hết ông thả hồn vào bài thơ để phiêu cùng tác giả tới mọi
ngóc ngách của bài thơ, để tìm cho được sắc thái riêng của bài thơ, để cảm thụ
được hết vẻ đẹp của bài thơ và khi viết lời bình, ông cố gắng tiết chế cái tôi
của người “phê bình văn học” sao cho hài hòa, hợp lý để lời bình được chân
thực, khách quan.
Ví dụ, Mơ Trăng
tôi viết trong tâm trạng: khi thấy người yêu vội vã tận hưởng những phút giây
ân ái, cuống quýt thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, tôi lặng người, đớn đau, thấy
tội nghiệp cho tình yêu em đang dâng hiến, và cũng xót xa, tội nghiệp cho cuộc
tình của cả hai. Tôi muốn đẩy em ra, muốn hét lên: - Đừng yêu anh nữa! Hãy
tránh xa anh đi! Nhưng tôi không làm được. Đúng ra là tôi không thể làm thế nên
lại quấn lấy em, gồng lên để hòa vào cơn khát thèm thể xác với em. Tôi đã tả
rất chân cuộc tình ấy, ngay từ khổ thơ đầu:
Em rướn mình hà hít nụ hôn anh
Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội
Môi khóa môi mà sao xa vời vợi
Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.
Và tôi run người khi đọc
những lời bình của ông vì đã gặp lại mình trong cuộc tình ấy: “Bây giờ có hai Đặng Xuân Xuyến, một
Đặng Xuân Xuyến đang vùi trong hương hoa của tình yêu và một Đặng Xuân
Xuyến đang vùi trong trũng sầu bi, khắc khỏai và đắng cay. Lúc này nhà
thơ đương yêu hay là không yêu? - Đâu biết được. Chỉ biết nhà thơ đang ôm
một khối tình, khối tình nóng cháy như hỏa diệm sơn mà cũng rét
cóng như băng giá miền cực bắc.”
“Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình thường
không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ luôn mơ
mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc đời.
Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng thơ
Đặng Xuân Xuyến quả là đúng như vậy.”
Tôi không biết các nhà
thơ khác sáng tác thế nào nhưng những bài thơ tôi viết là những tiếng lòng chân
thật của tôi, dù đớn đau hay vui mừng, dù chán chường hay phấn chấn thì những
cảm xúc trong thơ của tôi cũng phản ánh rất chân thật tâm trạng, tình cảm của
tôi, tuyệt không hư cấu. Vì thế, khi đọc những dòng cảm nhận của ông về thơ của
tôi, tôi như lần nữa được sống lại với những tâm trạng, cảm xúc mà tôi đã mượn
thơ để giãi bày. Nếu không thả hồn để phiêu cùng bài thơ, để tìm cho được cái
hồn, cái sắc thái riêng của bài thơ thì Châu Thạch không thể viết được những
dòng cảm nhận như được moi ra từ gan ruột của tác giả.
Ví dụ, khi đọc tập thơ
Cưỡng Xuân, Châu Thạch đã viết: “đọc“Cưỡng
Xuân” của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự rung động cùng một lúc. Đó là sự rung
động của con tim yêu chân tình, say đắm và độ lượng. Cùng lúc đó cũng bốc lên
trong bầu máu nóng của ta một thứ hương tình cúa thể xác. Hai thứ hương đó
quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng trong nỗi đau khổ quặn thắt. Khoái
lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn lửa của ái ân thể xác và của âu
yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến làm lạnh con tim, nỗi sầu được
diễn tả như bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn lòng se thắt. Thơ đó không
phải là thứ thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như những bông hoa trường trải
được nẩy mầm từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập trong bao nhiêu biến động của
đời.”.
Hay khi đọc Em Về
Nhặt Chút Hương Phai của Huỳnh Gia, Châu Thạch đã không đứng phía bên
ngoài để “cảm” thơ mà ông thả hồn mình phiêu cùng nữ sĩ Huỳnh Gia để cùng Huỳnh
Gia cảm nhận bài thơ bằng những cảm xúc chân thật được cất lên từ tiếng lòng
của nữ sĩ:
“Mai em về thăm
xuân chưa ấm nổi đất trời
tìm đến đồi Cù
tìm về khung trời cũ
bức rào chắn phân ranh
cỏ úa màu trách cứ
mỏi mắt tìm không thấy điểm hẹn xưa
Trong vế thơ này hai câu
thơ “Cỏ úa màu trách cứ/ mỏi mắt tìm không thấy điểm hẹn xưa” làm người đọc
thấy khung trời hoang sơ rộng vắng của đồi Cù, mà sự rộng vắng có giới hạn ấy
trở thành mênh mông vô tận trong tâm hồn tác giả khi “mỏi mắt tìm” điểm hẹn xưa
mà không thấy nữa. Cái lạnh của cuối đông vẫn còn vì “xuân chưa ấm nổi đất
trời” sẽ càng lạnh thêm biết bao khi người về gặp “bức rào chắn phân ranh”. Đây
là bức rào chắn phân ranh khung trời cũ trên địa thế đồi Cù nhưng nó cũng là
bức rào chắn phân ranh quá khứ và hiện tại trong tâm hồn người quay lại. Vế thơ
cho ta thấy tất cả sự tiêu điều, se lạnh của khung cảnh trùm lên tâm hồn và nỗi
dằn vặt trong lòng cũng thể hiện ra trên cỏ úa, trên bức rào, trên điểm hẹn đã
bị mất đi. Cảnh bây giờ hình như cũng gây trắc trở cho người vì có lẽ cảnh và
người ở đây cùng chung số phận, định mệnh như nhau.”
&.4
Thêm một điểm nhấn “son”
nữa về phong cách bình thơ của Châu Thạch là khi bình thơ, ông chịu khó tìm tòi
để phát hiện ra những tinh tế, những sáng tạo của nhà thơ trong bài thơ, rồi
truyền tải nguyên vẹn, thậm chí có phần dầy hơn, đẹp hơn những cảm xúc được
thăng hoa của nhà thơ tới bạn đọc.
Cảm nhận về Hà
Nội Quê Tôi của Lê Mai là một ví dụ:
“Chùa Diên Hựu là của tôi!
Đóa sen tâm bừng nở ngát cõi người cho tôi hiểu vì sao người Hà Nội cấp
gạo thuyền giặc chết khỏi tha hương.
“Chùa Diên Hựu hay
chùa Một Cột, là một trong những biểu tượng của thủ đô Hà
Nội, có kiến trúc độc đáo như một bông sen từ dưới nước vươn lên.
Nhà thơ đem cái bông sen đó làm biểu tượng cho tấm lòng nhân đạo của
người Hà Nội ngày xưa, cùng với dân ta đem lúa gạo của mình cấp cho
quân giặc Minh xâm lược bị thua trận có cái ăn mà quay về bản xứ.
Cấp gạo cho giặc và xây chùa Một Cột không liên quan nhau, nhưng nhà thơ
đã khôn khéo dùng hình tượng hoa sen của chùa, lấy kỳ quan đất nước
sừng sững ngàn đời thể hiện cho lòng vị tha của dân tộc là một kết
cấu giữa văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể vô cùng nhuần
nhuyễn để tôn cao ý nghĩa của hai cái đẹp giữa lòng thủ đô Hà Nội.”
Hay như đoạn được trích
dẫn dưới đây trong bài Vài Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn Khôi,
ông luận bàn thật “đắt” về từ “tắt trăng”, một sáng tạo độc đáo của nhà thơ
Nguyễn Khôi:
“Với tôi Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng’ trong câu chót là một tứ thơ
sáng tạo, độc đáo, khác lạ và tuyệt hay đã nâng cả bài thơ lên tầm cao thị vị.
Nếu tác giả dùng chữ “lịm” hay chữ “khuất” thì câu thơ “Để cả bầu trời phải lịm
trăng” hay “Để cả bầu trời phải khuất trăng” chỉ có ý nghĩa là trăng nhìn thấy
sự lõa thể mà mê mẩn đến mờ đi ánh sáng hay trốn vào đâu đó để ghé mắt nhìn
trộm. Tứ thơ này đã cũ quá và đã lạc hậu vô cùng vì đã có hàng ngàn thi nhân
viết rồi từ xưa đến nay. Nguyễn Khôi dùng chữ “tắt trăng” đã đưa trăng có cái
nhân cách người, có cái đạo đức của chính nhân quân tử khi trăng tự tắt ngọn
đèn của mình, hay quay lưng đi không nhìn những người phụ nữ tắm ao. Tứ
thơ này hoàn toàn mới, diễn đạt một ý thơ chỉ sự thanh cao của trăng, cũng
chính bộc lộ sự thanh cao của tâm hồn tác giả mà từ xưa đên nay chưa một ai
nghĩ đến trong thơ.”
&.5
Bên cạnh những phương
pháp chủ quan, bao gồm cả phương pháp giả định và các phương pháp tiếp cận để
cảm thụ thơ văn như đã dẫn giải ở trên, Châu Thạch cũng có khi dùng cả phương
pháp khách quan cho việc tìm tòi, khám phá và cảm thụ thơ văn của ông. Ẩm
Trời - Thơ Đặng Xuân Xuyến: Một Phong Cách Tình Khác Lạ là một ví dụ:
“Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn gọn
tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không phải thế.
Đọc thơ, ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ phải là
những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình trường,
dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có thể yêu
nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ biết họ
trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô thiển.
Bài thơ hay là hay ở
chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được,
không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng
là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ
như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem
tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy
ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho
ta se lòng và cảm mến..”
Rõ ràng, ở đoạn vừa
trích dẫn, tác giả Châu Thạch, bằng phần nào sự hiểu biết của ông về tuổi tác,
con người và tính cách... của (tác giả thơ) Đặng Xuân Xuyến, ông đã dùng phương
pháp khách quan - thông qua “tiểu sử” tác giả - để “cảm thụ” bài thơ Ẩm Trời.
Đây là một phương pháp được các nhà phê bình văn học sử dụng khi phương pháp
chủ quan yếu thế, có thể sẽ không phát huy được hiệu quả như khi sử dụng phương
pháp khách quan trong việc bình thơ.
Hay như trong bài Vài
Lời Biện Hộ Về Thơ Nguyễn Khôi, tác giả Châu Thạch đã dùng phương pháp
khách quan - những hiểu biết của bản thân từ thực tiễn về tiếng “nai tác” - để
phản biện chỉ trích của Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên về chữ “nai tác” trong
bài thơ Đêm Mộc Châu của nhà thơ Nguyễn Khôi:
“Tiến sĩ viết như sau:
Nguyễn Khôi đã viết:
Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “tác”
Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
Mới hay cuộc sống còn đói khát
Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn
Theo chúng tôi đây cũng
là một bài thơ hay của Nguyễn Khôi. Hai câu đầu là tả thực. Hai câu cuối có sức
khái quát lớn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở nơi mà đã có “dân đốt nương núi
cháy xém vầng trăng”, tàn phá rừng, hủy hoại môi trường như thế thì không còn
nghe thấy tiếng “nai tác” được nữa. Có chăng chỉ còn nghe tiếng thạch sùng mà
thôi!” Sau đó tiến sĩ còn khẳng định: “Ở đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn
ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng “nai tác”. Vậy nên ta cũng không nên “chẻ
sợi tóc làm tư” mà làm gì miễn là đó là thơ hay!”
Đây là một nhận xét thật
sự sai lầm. Người viết bài này đã từng nhiều lần nghe suốt đêm tiếng nai tác
trong một vùng tàn phá môi trường hàng ngàn dặm. Sau 1975 tôi được điều đi khai
hoang sản xuất trên vùng rừng núi. Chúng tôi thường nghe tiếng nai “tác”
bi thương kéo dài trong đêm. Hỏi ra mới biết đó là tiếng của những con
nai lạc bầy do môi trường bị hủy hoại. Bởi sự thay đổi của núi rừng làm cho
những con nai con thường lạc mẹ, thế là con gọi mẹ hay mẹ tìm con cứ “tác” suốt
đêm trường. Tiếng gọi ấy của nai khắc khỏi trong đêm vọng vào hồn tôi cũng đang
khắc khoải vì những biến động của cuộc đời tôi thuở ấy.”
&.&
Có thể nói, Châu Thạch
là một cây viết sung sức, đầy nội lực, viết nhanh, viết khỏe và viết nhiều. Tôi
không biết chính xác ông đã hạ bút viết bao nhiêu bài phê bình thơ (và cả văn)
nhưng để lan man tìm hiểu về phong cách bình thơ của tác giả Châu Thạch như bài
viết này, tôi đã phải ngồi tham khảo chừng 130 bài bình thơ của ông mà theo số
liệu thống kê của văn sĩ Thái Quốc Mưu thì tính đến tháng 07 năm 2017, chỉ
riêng bình thơ, tác giả Châu Thạch đã “xuất xưởng” trên 200 bài. Quả thật, sức
viết của ông rất đáng kính nể.
Những điểm mạnh trong
phong cách bình thơ của nhà phê bình văn học Châu Thạch khá nhiều, còn hơn
những gì người viết đã lan man dẫn giải nhưng trong phong cách bình thơ của ông
vẫn còn vài điểm hạn chế mà theo người viết, nhà phê bình văn học Châu Thạch
rất cần khắc phục.
Đó là:
1. Việc chọn bài còn để
lọt những bài thơ chưa thật sự hay, chưa đúng như tiêu đề bài viết. Điều này có
thể do tình thân hữu, sự cả nể khiến ông “tặc lưỡi”. “Nội lực” bài thơ không có
nên dù người bình cố “tán”, cố “đẩy” thì bài thơ vẫn chỉ như bông hoa kém tươi,
lạc lõng giữa vườn hoa đua sắc khoe màu. Vô tình, những bông hoa “cả nể” đó đã
làm vườn hoa đẹp của nhà phê bình văn học Châu Thạch giảm nhiều hương sắc.
2. Phương pháp giả định
được ông vận dụng với mật độ khá dầy trong các bài bình thơ, đã ít nhiều tạo ra
hiệu ứng đơn điệu, đều đều, nhàm chán trong việc tiếp thu, cảm nhận thơ văn của
bạn đọc, khiến bạn đọc nảy sinh tâm trạng nghi ngờ nhà phê bình đang cố “tán”,
cố “lái” bài thơ theo dòng cảm xúc đã được định hướng.
3. Việc “đồng màu chỉ
khen không chê” trong hàng loạt bài bình thơ của nhà phê bình văn học Châu
Thạch. Có thể vì là người trọng tình cảm nên ông tránh làm tổn thương người
khác; hoặc có thể vì trân quý những tìm kiếm, những thành công của tác giả thơ
nên ông “không nỡ” nêu ra hạn chế, sợ tác giả thơ sẽ nhụt chí... Cho dù với lý
do gì thì việc “chỉ khen không chê” cũng làm thiệt thòi cho cả 3 đối tượng: nhà
thơ (không biết được yếu kém để sửa chữa, nâng cao tay nghề), bạn đọc (không
nâng cao được khả năng học và cảm thụ thơ văn) và nhà phê bình (tác phẩm tạo ra
đồng màu, đơn điệu).
*
Hà Nội, chiều 19 tháng
09 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM NHẬN KHI ĐỌC TẬP THƠ
“SÓNG NGẦM” CỦA NGÔ NGUYỄN
*
Nhận được tập thơ Sóng Ngầm cũng đã mươi
ngày nhưng bận quá nên chiều nay tôi mới “lôi” Sóng Ngầm ra đọc. Giở đi
giở lại, cứ vẩn vơ ý nghĩ: thơ tình của nhà thơ tuổi đã xấp xỉ 80 không biết
cái “khoản yêu” kia có được “hùng hục như
trâu húc bờ” hay chỉ “lả lướt”
vài ba nét nhấn nhá cho có chút vị gọi là hương yêu? Nghĩ thế nên tôi chưa vội
đọc mà lẩn thẩn ngồi đếm xem tập thơ có bao nhiêu bài. Vâng. Tập thơ nho nhỏ,
xinh xinh với 80 bài, đa phần là những bài thơ ngắn, số đông là thơ tình. Đúng
như tiêu đề của tập thơ: SÓNG NGẦM - Thơ tình ** Ngô Nguyễn đã trình làng.
Cũng lâu rồi, tôi lười đọc, lười viết nên hôm nay
sẽ chịu khó ghi lại vài dòng cảm nhận khi đọc Sóng Ngầm, vừa để luyện
trí nhớ, chống lão hóa, vừa có bài đưa lên trang blog cá nhân. Vâng! Tiện cả
đôi đường! Rất thực dụng đấy ạ!
Đọc Sóng Ngầm, với những câu: Ngỡ như/ mắc bả bùa yêu/ Bốn con mắt/ cứ
vụng về tìm nhau (Mắt chạm mắt), chắc sẽ có ai đó nhăn mặt: Thơ gì mà xưa
cũ thế? Ờ thì... Đứng trước người mình “thích”, mình “si mê”, ai chẳng có những
phút giây “vụng về” khi đưa mắt “tìm nhau”. Tình huống đấy quen lắm nhưng
không hề cũ, mà luôn luôn mới. Tình yêu với những rung cảm của trái tim thì làm
gì có chuyện cũ? Yêu là yêu! Thế thôi! Phải yêu, phải “thèm yêu” thì mới có những hình ảnh đẹp, lãng mạn, đầy chất thơ: Lâu nay/ khô cạn ước mong/ Dập dờn cánh
bướm/ uốn cong dáng chiều...(Thèm yêu) chứ? Khi yêu, ai lại lôi
khái niệm cũ mới ra để so đo?!
Ở tuổi gần 80 mà tình yêu (đôi lứa) trong ông vẫn
đằm những khát khao trẻ trung, bạo dạn: Áo
em/ cháy đỏ lũy tre/ Ngỡ là bó đuốc/ đốt hè nóng ran... (Áo đỏ), vẫn như
những “khối tình” đượm sẵn lửa: Môi em/
diềm phải bao diêm/ Môi anh vừa chạm/ bật lên cháy bùng... (Nụ hôn đầu),
vẫn thòm thèm những trận yêu được “cuồng loạn”: Nụ hôn/ cuồng loạn bão mưa/ Hạn lâu/ cơn lũ chỉ vừa mát cây! (Hạn
hán). Đấy! Gần 80 tuổi, tưởng thi sĩ đi lại còn khó khăn, thở còn đã nhọc, đã
khó, ấy vậy mà thi sĩ Ngô Nguyễn vẫn hừng hực “máu lửa” như thế, kém sung sức
so với thanh niên cũng đâu có nhiều.
Tuy là
nói vui như thế, nhưng thật lòng, thơ Ngô Nguyễn ít có những giằng xé dữ dội
của tâm trạng, của những ham muốn yêu đương xác thịt mà thường là những chuyển
biến rất nhẹ nhàng, những xáo trộn tình cảm vẫn còn nằm trong sự “kiểm soát” và
“giữ gìn” của lý trí, kiểu: Ừ thì,/
gió thoảng mây bay/ Ừ thì,/ chỉ cái chau mày/ nhếch môi....(Ừ thì)... của
những nỗi buồn chơi vơi, của những xâm chiếm nhẹ nhàng hồn cốt: Được lời/ em đến thăm nhà/ Ngó cau/ cau mới
đang hoa/ bao giờ (Mùa cau)... Tình yêu đấy “sạch” quá, “lành” quá.
Ôi! Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”, phải có những cắn, cấu, cong
người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng, mới khoái, mới đã, mới đích
thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í a í a thì quá chán... Vâng!
Tôi quan niệm tình yêu phải vậy. Có lẽ do tuổi tác, do “tạng người” mà tình yêu
trong thơ thi sĩ Ngô Nguyễn mới mang mang gam trầm?
Tuy không nhiều, dù “hiếm hoi” gặp sự “nổi loạn”
của Ngô Nguyễn trong tình yêu như ở “Em - Áng mây chiều”: Gió tứ phía/ Thốc bập bùng/ Cánh diều nổi loạn/ bứt tung dây giằng!,
hay như trong “Bão gần”: Bão nào đến/
tự nơi xa/ Từ cô hàng xóm/ thốc qua nhà
mình... nhưng sự “nổi loạn” chỉ
thoảng qua “bấy nhiêu” thôi cũng đã “thổi” vào “hồn yêu” của ông thêm sắc diện,
khiến thơ Ngô Nguyễn đậm thêm chút hương vị của tình yêu.
Tập thơ Sóng Ngầm với những bài thơ “ấn
tượng”: Tiếng Kinh, Mùa Cau, Lưng Lửng... với những
câu thơ có thể gọi là tinh tế, như: Mắt
nàng/ nào phải lưỡi dao/ Liếc mòn vẹt đá/ chém nhào ngã cây...(Mắt), Gặp em/ nửa lạ/ nửa quen/ Nửa vồ vập/ nửa
mon men rụt rè (Nửa), Nỗi sầu/ thấm
ướt trang kinh/ Gió lùa hoang lạnh/ rùng mình/ kinh rơi! (Tiếng Kinh), Ngắn dài/ chân vẫn chân thôi/ Miễn là/ đỡ
được thân người thẳng ngay! (Chân dài),... tuy không mới, chưa thật sự đặc
sắc nhưng như thế cũng đã có sức nặng đủ để níu giữ Sóng Ngầm đọng lại trong
tâm trí người đọc.
Gập tập thơ lại, tôi cứ tiếc: Giá nhà thơ Ngô
Nguyễn “máu lửa” thêm chút nữa, bạo liệt “xác thịt” thêm chút nữa... Nhưng rồi
tôi lại thần người với suy nghĩ: Gần 80 tuổi rồi mà vẫn yêu được như thế là nhà
thơ vẫn còn sung sức lắm, oách lắm, còn hơn chán vạn kẻ... Vài chục năm nữa,
không biết tôi (kẻ đang than thở) có “máu lửa” bằng nửa của nhà thơ không? Hay
lúc đấy có cố lê lết nụ cười cũng đã là quá khó...
*.
Hà Nội, chiều 27 tháng
09 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐÔI ĐIỀU KHI ĐỌC: QUẢNG NGÃI -
CÂU THƠ NẶNG TÌNH CỐ THỔ
*
Tập sách QUẢNG
NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ của tác giả Lê Ngọc Trác được viết theo lối
giới thiệu thân thế và sự nghiệp văn học của 31 “hồn thơ” xứ Quảng dưới dạng
phê bình và cảm nhận văn học. Đây là tập sách thứ 7 của tác gia Lê Ngọc Trác (tác gia: tác giả của nhiều tác phẩm, nhiều
đề tài), là “khối trầm tích tình yêu” của những người con Quảng Ngãi luôn
đau đáu về nơi “chôn nhau cắt rốn”, nơi luôn được thầm nhắc đến với lòng tự hào
và thành kính: núi Ấn sông Trà.
Tuy là viết về thân thế và sự nghiệp của các chân
dung văn học với mục đích phục vụ cho việc khảo cứu chân dung văn học nhưng tác
giả Lê Ngọc Trác không viết theo lối phân mục tiểu sử (thân thế) và sự nghiệp
như các tác giả khác từng làm mà ông làm mềm hóa đi, giảm bớt sự khô cứng của
lối viết giáo khoa - khảo cứu bằng cách loại bỏ sự phân mục A, B, C... đồng
thời chuyển các yếu tố nghiên cứu thành các yếu tố cảm nhận, biến các “thông
điệp” về thân thế và sự nghiệp của các chân dung văn học khô khan thành những
bài cảm nhận văn học dung dị, liền mạch, tạo tâm lý nhẹ nhàng, thoải mái cho
bạn đọc khi tiếp cận các chân dung văn học. Hiểu đơn giản và ngắn gọn là ông
không dùng lối viết biên khảo truyền thống mà khéo léo lồng tiểu sử các chân
dung văn học vào các bài viết phê bình và cảm nhận văn học, bằng tư duy và ngôn
ngữ của người nghiên cứu khoa học. Đây là thành công của tác giả Lê Ngọc Trác
khi mà biên khảo là một thể loại văn chương dễ viết nhưng lại rất khó thành
công!
Bên cạnh một số bài viết khá sâu về thân thế và sự
nghiệp của nhân vật lịch sử, như: Danh
thần Trương Đăng Quế - Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương, Nguyễn Vỹ -
Nhân chứng của một thời,... thì đa phần là những bài viết, tác giả Lê Ngọc
Trác hướng bạn đọc chú trọng vào những tìm tòi khám phá, những thành công của
các chân dung văn học đã có đóng góp ít nhiều cho diện mạo văn học nước nhà,
ông chỉ “đá đưa” chút ít về tiểu sử nhân vật để bạn đọc biết thêm hoặc lấy đó
làm tài liệu khảo cứu với lượng thông tin vừa đủ về một chân dung văn học. Với
cách viết như vậy, bạn đọc được cảm nhận đầy hơn, sâu hơn “sự nghiệp” văn học
của các chân dung văn học mà tác giả Lê Ngọc Trác vẫn làm tròn được tiêu chí
của tập sách: cung cấp những thông tin vừa đủ về thân thế và sự nghiệp của nhân
vật như một công trình biên khảo. Thành công này của tác giả Lê Ngọc Trác là
thành công mà ngay cả những người viết sách chuyên nghiệp cũng không dễ dàng có
được, trong khi ông chỉ là “một tay chơi ngang”, viết sách bởi sự đam mê rất Lê
Ngọc Trác: viết để được học.
Điều thú vị khi đọc QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ là tác giả Lê Ngọc Trác đã
rất khéo khái quát chân dung nhân vật qua việc đặt tên tiêu đề của bài viết, ví dụ: Nguyễn Vỹ - Nhân chứng của một thời, Thanh
Thảo với những câu thơ mềm mại mà mãnh liệt, Nguyễn Thánh Ngã “gõ” vào cõi nhân
gian, Trần Phố khúc tâm tình đậm tính nhân văn, Nguyễn Tấn On - Thấm đẫm hồn
quê, Vũ Hồ với "Nỗi buồn trăm năm", Nguyễn Minh Phúc -
"Nhắn quê xa lắc tiếng kêu thầm".... Chỉ mới đọc tiêu đề
bài viết, bạn đọc cũng đã có thể hiểu được cốt cách của chân dung văn học hoặc
phần nào thấy được diện mạo của nhân vật mà tác giả Lê Ngọc Trác sẽ khắc họa.
Với cách viết nhẹ nhàng, cô đọng và xúc tích nhưng
theo góc nhìn và cách đánh giá công tâm của người nghiên cứu khoa học, tác giả
Lê Ngọc Trác đã phác họa các chân dung văn học (xứ Quảng) trong QUẢNG NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ
bằng những nét vẽ chân thực, những cảm nhận tinh tế và những cảm kích khách
quan, chân thành.
Mời đọc những trích dẫn:
- “Trong thơ
Khắc Minh, âm tiết, giai điệu như những lời ru ngọt ngào, làm dịu đau thương
lòng người trong bối cảnh chiến tranh. Có lẽ, đây là nét riêng trong thơ của
Khắc Minh so với những người cùng thời. Phần lớn, thơ của Khắc Minh không mang
nặng những dằn vặt khổ đau, cô đơn hoang lạnh, rên rỉ quằn quại. Thơ Khắc Minh
nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu trong cuộc sống.”
“Khắc Minh không triết lý vụn trong thơ, không
đánh đố người đọc bằng câu chữ bí hiểm. Thơ của ông âm hưởng ca dao mượt mà,
như những câu hò ba lý của quê hương miền Ân Trà” (Khắc Minh - Ngọt ngào
lời ru dưới chân Thiên Bút).
- “Đứng trước
những câu thơ của Nguyễn Minh Phúc được viết ra từ nỗi nhớ quê hương tha thiết
của anh, chúng ta không cần phải "bình giảng lý luận". Ai mà đi tìm
lý lẽ của con tim. Chúng ta cứ đọc, thấm và đồng cảm với tác giả. Những người
sống xa quê như thấy mình cùng cảnh ngộ, nỗi niềm...”. (NGUYỄN MINH PHÚC -
"Nhắn quê xa lắc tiếng kêu thầm")
- “Đọc thi
phẩm "Mưa hoang" của Hà Quảng, người đọc cảm nhận những cơn mưa ướt
từng câu thơ, thấm đẫm cả những trang thơ... Nào những cơn "mưa thơm"
trên cánh đồng lúa ,đồng hoa chốn quê nhà yêu thương, mưa thơm ngát hương trên
dòng sông Trà, sông Vệ, "mưa tháng Bảy, mưa tháng ba..." và "một
trời mưa nhớ" đến quặn lòng ở những phương trời cách biệt. Chúng ta còn
bắt gặp những cơn "mưa hoang" trong cuộc đời mình mà một thời "lời
môi ngọt ngào", một thời đã xa "chạm vào nỗi nhớ".
("Mưa hoang" đầy nỗi nhớ trong thơ HÀ QUẢNG)
- “Sau khi
đọc nhiều bài thơ của Vũ Hồ, tôi nhận ra một điều: Ông là một người tài hoa
trong thơ, nhưng trong toàn bộ thơ của ông thể hiện một nỗi cô đơn - cô đơn đến tận cùng.” (VŨ HỒ với "Nỗi
buồn trăm năm")
Tuy là viết QUẢNG
NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ bằng sự đam mê, không chịu áp lực bởi
“chuyện cơm áo gạo tiền” làm ảnh hưởng tới độ sắc bén, mềm dẻo, linh hoạt của
ngòi bút nhưng Lê Ngọc Trác không hoàn toàn phó mặc cho cảm xúc dẫn dắt ngòi
bút mà ông đã “điều phối” những cảm xúc, “cầm cương” những thăng hoa cảm xúc để
cái tôi của tác giả Lê Ngọc Trác đứng ở vai trò của người tổng kết, ở vị trí
của một hướng dẫn viên luôn nhiệt tình đồng hành cùng bạn đọc. Đấy là sự khéo
léo, cũng là thành công của ngòi bút Lê Ngọc Trác trong việc truyền tải “ý đồ”
của tác giả Lê Ngọc Trác đến với bạn đọc qua từng bài viết, xuyên suốt “QUẢNG
NGÃI - Câu thơ nặng tình cố thổ”.
Với tình yêu dành cho quê hương luôn lớn, tác giả
Lê Ngọc Trác đã cố dồn ép để đẩy niềm tự hào về quê hương Quảng Ngãi cao hơn,
xa hơn, qua số gương mặt được tập hợp trong tập sách lên con số 31, vô hình
chung, những gương mặt được chúng tôi ví là “những trái chín ép”, “những trái
tình cảm”, đã làm QUẢNG NGÃI - Câu thơ
nặng tình cố thổ thành sự chọn lọc của tình cảm, dễ dãi, khiến cấu trúc tác
phẩm bị xộc xệch, gương mặt các chân dung văn học trong tập sách trở nên mất
cân đối. Theo thiển ý của người viết, tập sách chỉ nên dừng ở con số 23 gương
mặt thì hợp lý hơn.
Đọc nhiều và viết nhiều là ưu điểm của ông. Viết
bằng tấm lòng là điểm sáng của ông nhưng trong các bài viết của ông, đâu đó vẫn
xuất hiện một vài hạn chế: chỉ nêu hiện tượng sự việc mà không dẫn giải bản
chất của hiện tượng sự việc dù chỉ ở sự gợi mở, lưu ý bạn đọc, ví dụ như: “Thơ Nguyễn Thánh Ngã đọc xong ghim lại trong
lòng người yêu thơ. Anh đã tạo được phong cách của mình trong thơ. Thơ Hai-ku
của Nhật Bản có qui luật về số từ, nhưng khi làm thơ Haiku, Nguyễn Thánh Ngã đã
có những cách tân đầy sáng tạo. Những bài thơ Haiku của Nguyễn Thánh Ngã có một
nét rất riêng. Dường như Nguyễn Thánh Ngã muốn tạo ra một trường phái thơ riêng
của mình. Chính vì vậy, có lúc các bạn yêu thơ gọi thơ Haiku của Nguyễn Thánh
Ngã là thơ "Ô haii" (Ô hay!)”. Đọc cả bài viết, bạn đọc
không tìm được câu trả lời: “cách tân đầy
sáng tạo”, “nét rất riêng”, “trường phái thơ riêng” của Nguyễn Thánh
Ngã là thế nào. Tuy không nhiều, không lớn nhưng những “hạt sạn” như thế không
nên xuất hiện trong các bài viết của cây bút đã dày dạn bản lĩnh như tác gia Lê
Ngọc Trác vì sự xuất hiện một vài hạn chế như thế đã vô tình làm giảm tính
thuyết phục của cả bài viết.
Và đấy cũng là hạn chế mà tác gia Lê Ngọc Trác cần
khắc phục để những tác phẩm của ông được tròn trĩnh hơn.
*.
Hà Nội, chiều 06 tháng
10 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “TÌNH NHÂN ƠI”
CỦA TRẦN HẠ VI
*
Đưa bài HỔN HỂN VỚI “TÌNH NHÂN ƠI” CỦA TRẦN HẠ VI
lên trang blog Đặng Xuân Xuyến từ sáng 07.11.2017 nhưng sáng nay tôi mới có
thời gian đọc bài thơ này. Bị ám ảnh bởi câu “Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi” của Trần Hạ Vi,
tôi cứ trằn trọc, lỡ mất giấc ngủ trưa. Tôi khoái hình ảnh tươi nõn, phồn thực
của “bờ môi” đầy dục tính.... nên dù
đang rất đau lưng (bệnh xương khớp) cũng cố ngồi “lạch cạch” đôi dòng cảm nhận
về bài thơ của nữ thi sĩ họ Trần.
Bình thơ ư? Chắc chắn là không rồi! Bài thơ đã được
nhà phê bình văn học Châu Thạch ưu ái phóng bút, đã viết gần như cũng đủ hết
các ý rồi nên bài viết này chỉ ghi lại vài “sự thích” nho nhỏ của tôi khi đọc “Tình
Nhân Ơi” của Trần Hạ Vi, một bài thơ đang được bạn bè trên facebook quý
mến.
Vâng! Tôi thích cách “nhớ” của Trần Hạ Vi. Nó rốt ráo, cuống cuồng. Nó gấp gáp, dồn dập.
Nó căng lên như dây đàn. Nó rền rĩ như tiếng va đập vọng về của âm thanh chiều
vọng: “Em nhớ anh/ cồn cào cội nguồn thúc
thôi triền khao khát”. Để làm gì? Chỉ là “Em mong anh/ mơ lắm một bàn tay!”. Thế thôi! Yêu thì nhớ, thì mong,
thì cần có nhau, cần những phút giây thuộc về nhau, để quyện vào nhau, để tình
yêu được thăng hoa... Vâng! Thì là yêu mà! “Nhớ”
như thế thì tình yêu nào chẳng có nhưng “nhớ”
ở trong “Tình Nhân Ơi” lại thấy cứ “sao sao”? Nghe nhẹ hều mà sống mũi
cay cay?! Khác lắm! Lạ lắm! Buồn lắm!
Thích là thế nhưng tôi khoái khổ thơ thứ 4, khổ mà
theo tôi chính là xương cốt, làm trụ cho bài thơ:
“Tình nhân ơi
sao anh cứ làm thinh?
Nghĩ gì bên bờ môi căng
mọng ngụm tươi non mời gọi
Mưa nguồn lũ xối
Úp mặt em cười sau nhàu
gối chăn hoan”
Những câu thơ rất “phồn thực”, bỏng nhẫy truy hoan
và nỗi sướng rơn hoan hỉ của cô gái sau cuộc ái ân mãn nguyện được Trần Hạ Vi
quẳng toẹt lên gường, chẳng cần úp úp mở mở, che che giấu giấu.
Gã trai đã hết hưng phấn, đang thèm được nghỉ ngơi
khi đã làm xong nhiệm vụ của giống đực nhưng cô gái thì vẫn còn đang âm ỉ rạo
rực, vẫn còn đang lửng lơ ở đỉnh của khoái cảm. Tuy “Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan” vì đã mãn nguyện với trận “Mưa nguồn xối lũ” nhưng cô vẫn chờ được
ngấu nghiến tiếp, vẫn sẵn sàng với những “nhàu
gối chăn hoan”. Máu lửa trong hành động, bạo liệt và tự tin trong cả suy
nghĩ như thế bởi cô tin vào thứ vũ khí lợi hại đang sở hữu: “Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non
mời gọi”. Vâng! Tôi khoái hình ảnh “bờ
môi” rất nữ tính, rất sex này. Một hình ảnh đẹp, tươi nõn mà phồn thực,
căng phồng những gợi cảm, và đầy kích thích dục tính như thế thử hỏi có gã đàn
ông nào “làm thinh”? Tôi cũng khoái tính cách thẳng thắn, bạo liệt của cô gái:
Yêu bảo yêu! Thích thì sẵn sàng “ba bảy cũng liều” chứ chẳng thèm ỡm ờ, thả
thính.
Không nói nhiều về gã trai, chỉ một câu thán “sao anh cứ làm thinh?”, Trần Hạ Vi đã
“tố” mối duyên này trái ngang, không thuận. Phải có uẩn khúc nào đó, trắc trở
nào đó thì gã trai mới lặng thinh như thế, mới “thụ động” như thế. Phút lặng
thinh đó không hẳn là gã thèm được nghỉ ngơi khi đã làm xong nhiệm vụ của giống
đực mà còn là phút tự vấn của gã về những liên quan tới cuộc tình mang hơi
hướng “vụng trộm”, trái ngang. Cảm thông cho gã thì mới hiểu được lý do vì sao
cô gái luôn khát yêu, bạo yêu, mới cảm thương mối tình chông chênh, trắc trở.
Đọc “Tình
Nhân Ơi”, thấy cô gái “ngông nghênh” trong tình yêu, mà cũng se lòng vì
mơ hồ thấy căn nguyên của cái “ngông nghênh” ấy.
Vâng! Thêm một khoái nữa, đó là khoái cách tỏ tình
(đúng hơn là cách gạ yêu) của Trần Hạ Vi: “Yêu
em đi” rất thẳng thắn, huỵch toẹt, chẳng màu mè, làm giá như những ả nàng.
Sự chân thành đến dạn dĩ, mạnh bạo đến trần trụi, và tinh thần “tử vì tình”,
chấp nhận thua thiệt trong tình yêu, dẫu biết tình yêu ấy là trái ngang, trắc
trở, là bia miệng của người đời thì vẫn cứ bất chấp, vẫn cứ: “Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa/ Nuốt lấy
nhau kệ tiếng đời mai mỉa” như Trần Hạ Vi thì quả thật ngay trong giới mày
râu cũng khối kẻ lấm lét đứng nhìn.
Không biết ngoài đời Trần Hạ Vi có “ngông nghênh”
yêu như vậy không và với những gã trai có tính rụt rè, nhát gái (kiểu như người
viết bài này) mà gặp được người trong mộng như vậy thì sao nhỉ? Chắc sẽ tròn
mắt vì ngạc nhiên, và cả vì hạnh phúc! Vâng! Là tôi nghĩ thế!
..
TÌNH NHÂN
ƠI
Tình nhân ơi, gọi em đi
Tên em trên môi anh dòng ngọt ngào chảy mật
Ta rúc vào nhau
cơn cuồng si hổn hển ngắn dài
quên áo cơm đời chật vật
Em nhớ anh
cồn cào cội nguồn thúc thôi triền khao khát
Em mong anh
mơ lắm một bàn tay!
Yêu em đi
ngoài kia ngày vẫn là ngày
Đêm vẫn là đêm, chỉ chúng mình là bỏng rát
Cuộn trào trong từng cơn khát
Khát anh khát em
quằn quại đam mê khát tình...
Tình nhân ơi
sao anh cứ làm thinh?
Nghĩ gì bên bờ môi căng mọng ngụm tươi non mời gọi
Mưa nguồn lũ xối
Úp mặt em cười sau nhàu gối chăn hoan
Mưa xuân lất phất tưới nụ hoa xoan
Ú ớ hoan mê những lời vô nghĩa
Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa
Nguyên thủy hồng hoang tràn về...
sự sống mới mới lại sinh sôi
Tình nhân ơi,
lại nhớ anh rồi....
*
04.11.2017
TRẦN HẠ VI
*.
Hà Nội, chiều 15 tháng
11 năm 2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC ĐỖ HOÀNG “CẢM”
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG?
*
Nguyễn Bình Phương là nhà thơ tên tuổi nhưng tôi
chưa đọc thơ (văn) của ông, đơn giản vì không có nhu cầu. Trang blog Đặng Xuân
Xuyến cũng đã đăng mấy bài viết về ông, có trích dẫn thơ ông một vài đoạn, một
vài bài nhưng khi đưa bài lên trang, tôi chỉ đọc lõm bõm cho việc dàn trang nên
cũng mù tịt về thơ Nguyễn Bình Phương. Trong số 5 bài viết về thơ Nguyễn Bình
Phương đã đăng trên blog Đặng Xuân Xuyến thì có đến 4 bài của nhà thơ Đỗ Hoàng,
bạn cùng khóa Viết Văn IV với ông.
Chả hiểu Đỗ Hoàng sao lại ghét Nguyễn Bình Phương
đến thế? Ngày học Đại học Văn Hóa, tôi biết Nguyễn Bình Phương nhưng không giao
tiếp, quan hệ. Thấy ông là người lành lành, kiệm lời, có vẻ sống nội tâm, mà
theo thiển nghĩ của tôi thì người sống nội tâm dứt khoát không thể ứng xử xuề
xòa, bốc đồng, dễ “gây thù chuốc oán” với người khác (kinh nghiệm của tướng thuật (tướng tâm) cho rằng: người sống nội tâm
một khi đã thù ai thì thù thậm sâu, đã ra đòn với ai thì đòn ấy thật hiểm).
Còn Đỗ Hoàng, dù tiếp xúc ít nhưng với cá tính bộc trực, ruột để ngoài da, tôi
nghĩ sẽ khó có chuyện Đỗ Hoàng để bụng thù ai được lâu. Vậy mà đọc 4 bài Đỗ
Hoàng “cảm” thơ Nguyễn Bình Phương, tôi thấy lạ lắm. Việc khen - chê khi cảm
nhận thơ văn là chuyện bình thường nhưng cả 4 bài đều viết theo lối áp đặt, bới
lông tìm vết để chửi và chửi thì mối quan hệ của 2 ông chắc có nhiều uẩn khúc?
Nhiều lần muốn hỏi Đỗ Hoàng nhưng ngại Đỗ Hoàng cho là người nhiều chuyện nên
thôi, cứ để lửng lơ thắc mắc: dù gì thì cũng là đồng môn đồng khóa, nỡ nào
phang nhau đến cạn chữ tình?!
Nói thật, đọc Đỗ Hoàng “chửi” Nguyễn Bình Phương
tôi thấy Đỗ Hoàng ngoa ngôn lắm, nhiều khi ông
“chửi” lấy được:
“Nguyễn Bình
Phương phải thực sự cầu thị đi học lại một cách nghiêm túc chương trình tiếng
Việt từ cấp một đến cấp 3 (phổ thông trung học), chương trình lớp 2 cấp một trở
lên có học âm Hán Việt, để khi nói khi viết, khi đặt câu cho chính xác, tránh
sơ suất như vừa nêu trên! Sau đó rồi hãy làm thơ. Vì làm thơ không phải làm
xiếc chữ viết tù mù hổ lốn uốn éo, kém học như vậy.” (Dịch thơ Viêt ra thơ
Việt - Dịch Vô lối Nguyễn Bình Phương)
Hay những câu miệt thị, kiểu cả vú lấp miệng em:
“Tôi
đồ rằng tác giả Buổi câu
hờ hững có thể bị tâm thần hoặc là bị chấn động
thần kinh, tâm hồn bất định. Nhiều bài viết rất thiểu năng trí tuệ,
giả đò (giả vờ): Buổi câu hờ hững, Phân chim, Chân dung khi
trống trải, Khoảng giữa, Nói với em từ nơi trống trải, Hỏi…”. (TỰ BẠCH
THỜI BÌNH - vô lối, nông cạn, hời hợt, kém học, phi văn chương)
Thậm chí, cả những câu chợ búa ông cũng chẳng từ:
“Đọc bài vô
lối ngu tối “Em và hoa” của Nguyễn Bình Phương có cảm giác như khi đánh xi giày
đi hội ra đường dính vào đống cứt chó. Một cảm giác tởm lợm khó chịu, hôi hám,
bẩn thỉu rủi khi mình bị vướng vào!”. (Em Và Hoa - Vô lối ngu tối của
Nguyễn Bình Phương).
Đọc 4 bài, thấy ít lắm những câu Đỗ Hoàng dịu giọng
một chút, ví như trích dẫn dưới đây:
“Nguyễn Bình
Phương muốn mình tạo ra cách nghĩ, cách nói cho khác người, chứng tỏ ta là loại
siệu việt, loại nghìn năm mới có một nhân vật như ta (!). Nói thật ra đó là
cách nghĩ cách nói của một kẻ ngu độn, càng nghĩ càng nói kiểu này bạn đọc hiểu
biết họ cười vào mũi, họ sẽ phỉ nhổ không thương tiếc.
Chưa hết, tác giả cho
“cuộn lên”: “Cuộn lên một cái cây chưa tỉnh táo/ Cuộn lên những quả chuông vang
reo trận mưa rào/ Ngân nga giọng của trăng sao”. Tiếng nói của em có màu sắc mới
cuộn lên như bão vậy. Tiếng nói mà cuộn được những quả chuông reo vang trận mưa
rào thì tiếng nói ấy phải hơn cả sói tru, hổ gầm; bét thì cũng phải như Trương
Phi gầm thét trên cầu Trường Bản làm kẻ địch sợ mất vía vỡ mật mà chết! Người
đẹp - em ấy sẽ là người “lỗ mũi mười tám gánh lông” “bánh đúc em
xới cả lò, rượu tăm em uống mười vò không say(!). Thân thể em thì khủng long
thời tiền sử cũng không so nổi(!)
Chưa hết, tác giả lại
nhân cách hóa loài thỏa mộc “cuộn lên cái cây chưa tỉnh táo”. Cái cây chưa tỉnh
táo này ở đâu ra? Vì sao nó chưa tỉnh táo? Nó uống nhiều rượu hay bị người đẹp
bỏ rơi? Toàn là viết và nói ba lăng nhăng, dớ dẩn, tối tăm hủ nút!”. (Em Và Hoa - Vô lối
ngu tối của Nguyễn Bình Phương).
Mà cũng lạ. Bị “chửi” như vậy mà (hình như) Nguyễn
Bình Phương cũng không lên tiếng. Không biết Nguyễn Bình Phương ngại chuyện cãi
cọ là mấy chuyện chỉ của cánh “đàn bà” nên chịu trận hay Nguyễn Bình Phương
nghĩ ông là bậc chính nhân quân tử nên ông “đếch” thèm chấp “cái thằng” Đỗ
(Chí) Hoàng? Hoặc trước kia ông có lỗi với Đỗ Hoàng nên giờ “cái thằng” Đỗ
(Chí) Hoàng “huyếnh lên” “chửi” quá cũng đành chịu...
Tôi chả tin vào mấy lý do Đỗ Hoàng ghét Nguyễn Bình
Phương như ông đã viết trong Em Và Hoa - Vô lối ngu tối của Nguyễn Bình
Phương:
“Không ai ghét gì người thiểu năng
trí tuệ, người không thông minh, không ai thù gì người thiếu năng lực, người
văn hóa, học vấn thấp; người ta cảm thương nữa là đằng khác. Nhưng phải căm
ghét và thù hận những kẻ ngu dốt, vô văn hóa, vô học ở trong cái cơ chế xin cho
bằng mánh khóe luồn lách, lưu manh, man trá, xảo trá, che đậy sự ngu dốt của
mình bằng vỏ bọc chức quyền, tiền bạc, lợi dụng truyền thông tung hứng lăng xê
mình lên trời xanh, những kẻ ấy phải lên án và vạch mặt chúng ra. Nguyễn Bình
Phương, Hoàng Quang Thuận… là những đứa như thế!
Nguyễn Bình Phương cứ
viết điên loạn tù mù, vô học, vô văn hóa, in hết bài này đến bài khác, báo này
đến báo khác, giải thưởng này giải thướng khác, luận văn thạc sỹ này đến thạc
sỹ khác viết về thơ Nguyễn Bình Phương rồi thăng trật chức này chức khác. Thử
hỏi có nguy cho nhân quần không?”.
Vì những “nguy”
đó đưa ra rất gượng ép, chứa nhiều ấm ức cá nhân nên chả thuyết phục. Chẳng có
lẽ quá rảnh rỗi, Đỗ Hoàng “ngứa mồm” “chửi” chơi Nguyễn Bình Phương cho vui?!
*.
Hà Nội, 22 tháng 11 năm
2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC: GỌI ĐÊM
TRỞ GIÓ CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG
*
GỌI ĐÊM
TRỞ GIÓ
Gió sao không lùa mé Tây
- cái phía nhà em không cửa.
mà cứ lọn dai, lọn dài buốt giá
len qua kính mà run!
Ở đâu, ơi ngàn thương?
Đi đâu, ơi vạn nhớ?
Nẻo về tàn lá cỏ
Lối sang mờ màn mưa...
Gió bấc căm căm rét cóng cơn mơ
thốc ngược gối gường trống vắng.
Đông mình em / cây đường lập cập.
Đông mình em / sương muối buốt khuya
Trở gió. Rét về
Sao Người không về lại?
Gầm gào gió cơn man dại
hù doạ đêm mồ côi.
*
Trở gió 24/11/2016
BÙI CỬU TRƯỜNG
(Bút
danh khác: Hạt Cát Diệu Sinh)
LỜI BÌNH:
Tôi thích “Gọi
đêm trở gió” của nhà thơ, bác sĩ Bùi
Cửu Trường vì bài thơ được viết như trải lòng, rất thật mà câu chữ lại sáng,
đẹp, thanh thoát. Đọc đi đọc lại, tôi càng thích bài thơ hơn. Và dù đã rất buồn
ngủ, tôi cũng cố ngồi viết vài cảm nhận về bài thơ hay, nhưng buồn mà đẹp này.
Ấn tượng níu giữ tôi đầu
tiên là câu:
Nẻo về tàn lá cỏ
Lối sang mờ màn mưa...
Câu thơ thật hay, đẹp.
Và cả lạ nữa.
Tôi chưa được gặp cách
diễn tả nỗi đau xa cách nào bằng hình ảnh: “Nẻo
về tàn lá cỏ / Lối sang mờ màn mưa...”, hay và lạ vì bảng lảng nét liêu
trai như thế. Có thể là vì tôi ít đọc, nhất là thơ thì lại càng lười đọc nhưng
ở 2 câu thơ này, cách diễn đạt như thế, không phải là tình cảm nhớ nhung thông
thường vì xa cách, mà là vời vợi những nhớ thương của người sống với người đã
khuất, là nỗi đau khôn nguôi bởi sự cách trở bất khả kháng của Âm - Dương cách
biệt. Đấy là câu thơ hay và đẹp của tình nghĩa Tào Khang, hoàn toàn không dành
cho tình yêu trai gái.
“Nẻo về tàn lá cỏ / Lối sang mờ màn mưa...” cứ bồng bềnh nhân ảnh,
cứ bảng lảng nét liêu trai, như là những ngăn trở bất khả kháng, càng khiến nỗi
trống vắng trong “Gọi đêm trở gió” thêm hoang hoải, xót xa.
Tôi đã suýt bật khóc khi
đọc:
Trở gió. Rét về
Sao Người không về lại?
Câu “Trở gió. Rét về” được ngắt làm 2 nhịp
bằng dấu chấm ngăn cách, đã đẩy sự cô đơn, trống vắng của “Gọi đêm trở gió” thêm vời vợi, xót xa. Đấy không chỉ là lời cảm thán
của tâm trạng xót xa khi Đông về mà là cả sự nhớ nhung được dồn nén bấy lâu.
Đọc: “Sao người không về lại?”, tim
tôi như thắt lại, cứ mường tượng tới hình ảnh một thiếu phụ ngoái đầu, đăm đắm
ánh nhìn hướng về phía cánh cửa như đang ngóng chờ một “Người” nào đó rất quan trọng “về
lại”, diết da lắm, mà cũng tuyệt vọng lắm. Câu thơ bật ra như tiếng thổn
thức của nỗi lòng, như trải ra để mong được vơi đi nỗi nhớ nhung đang bào xát
con tim. Dường như vì sự nhớ thương đến khắc khoải, cũng da diết đã từ rất lâu,
khiến thiếu phụ đụt hơi, đuối sức. Câu: “Sao
Người không về lại?”, nghe
như một tiếng nấc nghẹn của sự nhớ thương đến tuyệt vọng, âm điệu nhỏ dần, nhỏ
dần, xót xa, nghẹn đắng:
Trở gió. Rét về
Sao Người không về lại?
Hình ảnh đẹp. Rất thơ!
Rất họa! Tôi cứ ngẩn ngơ với ý nghĩ: Giá như bài thơ dừng lại ở đây thì hay
hơn, vì như thế bài thơ sẽ gợi cảm xúc hơn, ấn tượng hơn, và chất thơ sẽ đẹp
hơn.
Vâng! Đấy chỉ là vài cảm
nhận của tôi khi đọc “Gọi đêm trở gió”. Và những cảm nhận
đó có thể sẽ không trùng với ý tác giả, nhưng như thế thì tôi cũng rất cám ơn
nhà thơ Bùi Cửu Trường đã cho tôi thưởng thức một bài thơ hay, để tôi thêm cảm
nhận về một cung bậc tình cảm qua bài thơ lấp lánh những nhớ thương đến xót
lòng.
*
Hà Nội, 3 giờ sáng
02.03.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM
TRONG RỪNG XANH MƯA
*
Định viết bài cảm nhận
về tập thơ RỪNG XANH MƯA của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng tôi không đủ sự
kiên nhẫn để đọc một mạch hết tập thơ, vì thú thật, để hiểu được thơ của ông,
với tôi quả thật là không dễ, nên đành chọn phương pháp vài ngày đọc một bài,
nghiền ngẫm từ từ, thật chậm để "ngộ" được "nỗi niềm thầm
kín" ẩn trong những bài thơ mang mang hơi thở Thiền của ông. Hôm nay, đọc
mấy bài thơ về biển, gặp những tứ thơ hay, lạ, tôi vội gõ đôi dòng theo mạch
cảm xúc: BIỂN CỦA NGUYỄN THANH LÂM TRONG RỪNG XANH MƯA.
Với nữ sĩ Xuân Quỳnh: “Biển như cô gái nhỏ/ Thầm thì gửi tâm tư”,
dịu dàng những xao động của cõi người, nhưng với Nguyễn Thanh Lâm thì biển
không chỉ dịu dàng như thiếu nữ tuổi dậy thì mà còn đẹp hơn thế, khi ông phát
hiện: biển trong mưa thật đẹp, đẹp trắng trong, tinh khiết “Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc”, chỉ
nên chiêm ngưỡng bằng tâm thể thánh thiện của cõi Thiền. Vẻ đẹp ấy đã khiến nhà
thơ và cõi phàm trần “trở bệnh tương tư”,
“ngẩn ngơ” tiếc nuối:
Biển lại mưa
Như thiếu nữ đã vào chùa xuống tóc
Mây ngẩn ngơ bay
Gió trở bệnh tương tư
Đường chân trời ảo mờ trong mắt
(Biển lại
mưa)
Khi mưa tạnh, biển trở
lại hiền hòa, êm dịu, thì dưới lăng kính lãng mạn của nhà thơ, biển đẹp như “cô gái mới vào chùa chưa xuống tóc”, còn
nguyên nét ngây thơ, trong sáng của tuổi mới lớn. Nét đẹp ấy mơn mởn những phồn
thực mà hồn nhiên, sáng trong, lặng thầm của hương trinh nữ, làm xuyến xao nhà
thơ với miền cảm mến thanh tao, không vẩn nét phàm trần, khiến những trăn trở,
nghĩ suy của nhà thơ về trách nhiệm với cuộc đời trở nên an nhiên, tự tại:
Lòng tôi rỗng không ngắm biển
Tóc trắng trên đầu lặng sóng
Mắt khép hờ lỏng then quá khứ - tương lai
Hồn nhiên nhịp thở
Hương hạnh phúc dâng đầy
(Biển sau mưa)
Đứng trước biển, nhà thơ
lặng lẽ quan sát, lặng lẽ thả hồn đắm chìm vào những cảm xúc để hồn thơ thăng
hoa, bay lên. Những hình ảnh sống động,
đan quyện vào nhau, uyển chuyển giữa hư và thực, tạo nên một bức tranh “siêu
thực”, đẹp như trong cổ tích, thể hiện tài sử dụng hình ảnh thật khéo, thuần
thục đến nhuần nhuyễn của nhà thơ:
Mưa réo sôi trên đầu sóng
Biển sưởi hồn tôi bằng mặt trời năm xưa
Tôi khẽ nâng mặt trời trong sóng
Ôm vào lòng cho đỡ ướt tâm tư
(Gặp mưa)
Vâng! Tôi thích những
câu thơ như thế. Tôi thích những hình ảnh tráng lệ từ nét vẽ tài hoa của Nguyễn
Thanh Lâm. Những câu thơ như: “Mưa réo
sôi trên đầu sóng”, “Tôi khẽ nâng mặt
trời trong sóng”... đã nâng nhà thơ lên thêm một tầm cao.
Con người và thiên nhiên
đã thẩm thấu nhau, hòa quyện vào nhau, cùng phiêu trong cảm xúc của nhà thơ,
tạo nên một bức tranh lung linh huyền ảo, đẹp đến ngỡ ngàng:
Trong vòng tay tôi mặt trời thiêm thiếp
Tôi tự ru mình trong tiếng mưa
(Gặp mưa)
Tôi yêu những câu thơ
này! Tôi tự hỏi: “mặt trời” nào của
nhà thơ “thiêm thiếp” vậy? Là ảo ảnh
của tình yêu năm xưa chợt ùa về? Hay ảo ảnh mặt trời trong sóng biển khiến nhà
thơ liên tưởng? Uầy... Là gì thì những hình ảnh ấy cũng rất đẹp, cũng khiến
người đọc mơ màng, ngơ ngẩn.
Nhưng có khi, biển của
Nguyễn Thanh Lâm không khoác hình hài của một thiếu nữ tuổi trăng tròn, đẹp dịu
dàng, trong sáng, cũng không là hình ảnh “mặt
trời năm xưa” khiến nhà thơ nâng niu “Ôm
vào lòng cho đỡ ướt tâm tư” mà biển mang dáng dấp như người đã trưởng
thành, người từng trải... bằng những câu thơ đượm vị đời với những suy tư,
chiêm nghiệm, đậm chất triết lý, với những nỗi đau cũng thật đời, rất người:
Biển chưa im lặng bao giờ
Suốt đời quằn quại sóng
Cả đời mặn nước mắt khổ đau
Mưa trời không thể bão hòa vị mặn
(Nước mắt biển)
Đắm mình trong không
gian sống động của biển cả, thả tâm tư hòa quyện với trời mây… nhưng nhà thơ
không quên đối diện với “lòng mình”
mà “ngộ” ra điều: biển không hề yên bình, giống như lòng thi sĩ cũng đang ngổn
ngang trăm nghìn tơ rối, để mà thêm thấm: “Nước
mắt chảy vào trong mặn cõi người”, để mà tự thức tỉnh về lẽ đời nơi cõi
người vốn nhiều oan trái, khổ đau:
Tôi nhìn vào lòng mình thấy biển
Nước mắt chảy vào trong mặn cõi người
(Nước mắt biển)
Và có những lúc, biển
của Nguyễn Thanh Lâm trở nên khác lạ, không ồn ào, dữ dội, không "quằn quại sóng" bởi "cả đời mặn nước mắt khổ đau", cũng
không dịu dàng như thiếu nữ tuổi cập kê trăng tròn, mà biển yên bình, lãng đãng
chất lãng mạn chốn thôn quê:
Sóng ì oàm vỗ mạn tàu
Nghe như tiếng gàu sòng tát nước trăng khuya
(Đêm tạm trú)
Có lẽ chỉ nhà thơ Nguyễn
Thanh Lâm mới nghe được tiếng sóng biển vỗ mạn tàu "ì oàm" "như tiếng
gàu sòng tát nước trăng khuya". Và chỉ có ông mới vẽ biển bằng
những nét vẽ lãng mạn, yên bình, đầy chất thơ mà khác, lạ như thế.
Chừng 8 bài thơ viết về
biển, như thế không phải là ít trong tổng số 70 bài thơ của RỪNG XANH MƯA. Thơ
ông viết về biển, bài nào cũng tươi rói cảm xúc, cũng được cảm nhận bằng một
tình yêu trong sáng, thánh thiện của cõi Thiền. Có lẽ vì không phải là người
vùng biển nhưng lại rất yêu biển nên ông viết về biển bằng những cảm xúc thật,
đẹp và lạ, bằng tâm trạng của người lâu lắm rồi mới gặp lại biển, ngỡ ngàng
trước vẻ đẹp đa sắc thái, đa hình ảnh... của biển mà hồn thơ ông bay bổng với
nhiều sắc thái tâm tưởng.
*
Hà Nội, chiều 08 tháng
05 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
NGẪM CHIỀU - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO
CỦA BÙI CỬU TRƯỜNG
*
NGẪM CHIỀU
1- tơ nhện thả mành
nà nuột
mưa rớt giọt
lộp độp hè cánh đỏ
phượng rơi.
lòng rối bời
dạ rối bời
lắng lo nỗi bòng bong
rối
liêu xiêu bước vội
bàn chân ai lối về.
canh hẹ cuộc đời hắt bến
mê
bông lau tóc xoã vạt
chiều héo úa
bàn tay thõng rớt niềm
tin vụn vỡ
hạt đất buồn xa xót ngọn
cỏ côi.
...
2 - Bỏ lại muộn sầu đi
nhặt niềm vui
hít hà hương lá
vói rẻ quạt ráng hồng
quạt gió
xoe búp trời thiên thanh
Bỏ lại bộn bề về tĩnh
tại mình
tiếng mõ cá quyện chiều
lam khói
chuông đồng vọng thinh
không vòi vọi
Thơ.
3 - đời - mơ
trong vắt.
*.
Hà Nội, 02.03.2018
BÙI CỬU TRƯỜNG
LỜI BÌNH:
Ngẫm Chiều là bài thơ của nhà
thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường, được sáng tác vào ngày 02 tháng 03 năm 2018 nhưng
mãi tận chiều qua, 16 tháng 06 năm 2018 tôi mới có cơ duyên được đọc Ngẫm
Chiều trên trang facebook của bà.
Ngay từ những câu đầu
của khổ đầu bài thơ, Ngẫm Chiều đã gây ấn tượng đặc
biệt với người đọc qua những chấm phá khá độc đáo:
“tơ nhện thả mành
nà nuột
mưa rớt giọt
lộp độp hè cánh đỏ phượng rơi.”
Thơ tự do, phóng bút,
không chú trọng vần điệu, không gò bó hình thức. Hình ảnh đẹp, lạ, gợi những
nét huyền bí, liêu trai.
Tiếp theo, là: “Lòng rối bời/ Dạ rối bời”, chủ ý ngắt ra
từ “lòng dạ rối bời” thành 2 câu
riêng biệt, đồng nghĩa, để nhấn nhá, đẩy lên cao tâm trạng bồn chồn, sốt ruột,
với ngổn ngang những lo lắng chồng chéo, đan xen, khó tháo gỡ, khiến bàn chân “liêu xiêu bước vội”. Nhịp thơ thật
riết róng, dồn nén, ngắc ngứ, rưng rức xót lòng trong “chiều bời rối”, và những phảng phất nét
cô liêu với đau đáu nỗi niềm “bàn chân ai
lối về”, khiến người đọc cũng nghẹn lòng, thảng thốt:
“lòng rối bời
dạ rối bời
lắng lo nỗi bòng bong rối
liêu xiêu bước vội
bàn chân ai lối về.”
Tâm trạng hụt hẫng, xa
xót được đẩy xa, sâu hơn, bởi những hình ảnh: “tóc xõa vạt chiều”, “bàn tay
thõng”, “ngọn cỏ côi”... mang
mang gam trầm buồn, của tâm trạng xáo trộn bất ổn, muốn thõng tay buông bỏ tất
cả, quên đi tất cả, đã tạo nên một bức tranh sống động mà trầm mặc, u uẩn mà da
diết.
Không chú trọng vào gieo
vần, cứ thả cho mạch thơ tự nhiên trôi theo dòng cảm xúc nhưng nhà thơ Bùi Cửu
Trường lại thật cẩn trọng khi chọn lựa, sắp xếp câu chữ, với những động từ: “hắt”, “xõa”, “rớt”, “vỡ”... được đặt đúng tâm trạng, đúng ngữ
cảnh, khiến nỗi đời, nỗi người của cõi người đã đau càng đau se sắt, và đẩy câu
thơ bay lên, thấm nhẹ nhàng vào trái tim người đọc:
“bàn tay thõng rớt niềm tin vụn vỡ
hạt đất buồn xa xót ngọn cỏ côi.”
Hai câu thơ thật hay, mà
buồn, xót xa lắm.
Rồi, nhà thơ “Bỏ lại muộn sầu đi nhặt niềm vui/ hít hà
hương lá”, để tĩnh tâm trước cõi người nơi trần tục còn lắm khổ lụy, phiền
não, để buông bỏ nhẹ nhàng nhưng dứt khoát những tham - sân - si - ái - ố của
chúng sinh mà gửi hồn vào “tiếng mõ cá
quyện chiều lam khói/ chuông đồng vọng thinh không vòi vọi”, mà mong được
an lạc nơi cõi Thiền.
Sắc - Sắc - Không -
Không, đời người là bể khổ trầm luân, đạt tới “đời - mơ/ trong vắt” là đạt tới cảnh giới. Ước mơ đó đâu phải
chỉ là của riêng nhà thơ Bùi Cửu Trường?!
Ngẫm Chiều là bài thơ với thi
tứ hay và lạ, cách sử dụng từ ngữ khá độc đáo, nhất là cách nói ngược: nà nuột / cánh đỏ phượng / lắng lo / vụn vỡ
/ xa xót / muộn sầu / bộn bề / chiều lam khói... được dùng như là thủ pháp
chính đã tạo ấn tượng thật đặc biệt với người đọc. Hay hay không hay là tùy
thuộc vào cảm nhận của riêng mỗi người nhưng với người viết, thì NGẪM CHIỀU là
một bài thơ hay, rất đáng đọc.
*
Hà Nội, 17 tháng 06 năm
2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC: “MỢ HỮU”
CỦA TRẦN NHUẬN MINH
*
MỢ HỮU
Cậu xây xong nhà ba tầng
Người cứ dần dần héo
quắt
Thế rồi một sớm tinh mơ
Cậu cứ lặng im mà mất
Cô bác từ quê ra viếng
Thấy mợ dịu dàng mảnh
mai
Mà nhà thì to đẹp thế
Biết rồi sẽ về tay ai?
Em chồng mắt lườm miệng
nguýt
Vô tâm mợ có thấy đâu
Thương cậu, mợ không
biết khóc
Thỉnh thoảng lại hờ một
câu
Mợ khổ từ hồi tấm bé
Mong chi lầu trắng gác
xanh
Cậu chết mợ thành người
lạ
Bơ vơ trong chính nhà
mình
Chẳng thiếu kẻ đe người
ướm
Nhà xinh mợ lại càng
xinh
Như con thuyền nan không
bến
Lênh đênh trong chính
phòng mình
Khách khứa dập dìu lá
gió
Đêm đêm chớp bể mưa
nguồn
Mắt mợ dần dần hoang
vắng
Họ hàng mợ cứ quên luôn
Mợ đáng thương hay đáng
trách
Trời ơi! Tách bạch làm
chi
Dòng sông muôn đời vẫn
thế
Đục trong thì vẫn trôi
đi
*.
Hải Phòng, năm 1990
TRÀN NHUẬN MINH
LỜI BÌNH:
Gần 20 năm viết sách và
kinh doanh sách kiếm tiền, tôi không mặn mà tới mấy chuyện thơ văn nên khi dàn
trang đưa bài “Trần Nhuận Minh - Thi Nhân “Sĩ Phu Bắc Hà”” lên trang blog Đặng
Xuân Xuyến, tôi mới biết Trần Nhuận Minh là nhà thơ tài hoa. Chả trách, nhà thơ
Chu Vương Miện ở tận Hoa Kỳ “say” ông đến “mê mẩn”.
Và cũng từ vô tình đó mà
tôi biết, rồi thích bài thơ MỢ HỮU của ông.
Vâng. Tôi thích bài thơ Mợ
Hữu đậm chất tự sự của Trần Nhuận Minh.
Mở đầu bài thơ, là lối
kể chuyện chầm chậm, nhẩn nha, như để nén những cảm xúc sẽ ùa về, sợ sẽ làm vỡ
chuyện về người cậu, người em của mẹ. Bốn câu thơ ở khổ thơ kể về người cậu
thật giản dị, mộc mạc, hệt lối nói dân dã, chân chất của người chân quê. Chỉ
thế thôi mà người đọc thấy được “Cậu” của nhà thơ là người “một nắng hai sương”,
chỉn chu, căn cơ, chất phác. Từ “cứ”
được sử dụng như một điệp từ, lặp lại 2 lần trong 4 câu thơ của khổ thơ như
nhấn thêm, xoáy sâu thêm vào sự bất lực, xót xa trước sức khỏe có chiều hướng
xấu đi trông thấy của người cậu. Hai từ “Thế
rồi” ở câu thứ 3 thốt ra thật nhẹ, nghe như buông xuôi, như tuyệt vọng mà
sức nặng ngàn cân:
Cậu xây xong nhà ba tầng
Người cứ dần dần héo
quắt
Thế rồi một sớm tinh mơ
Cậu cứ lặng im mà mất
Sau khổ thơ tự sự thật
nhiều cảm xúc về người cậu, nhà thơ bắt đầu kể về người mợ, bằng cách đặt hình
ảnh “Thấy mợ dịu dàng mảnh mai” bên
cạnh “Mà nhà thì to đẹp thế” để đẩy
lên nỗi xót xa của “cô bác”, của
những thân bằng quyến thuộc, dành cho người vừa mất: tài sản làm ra mà không
được hưởng. Câu nghi vấn, cũng là câu cảm thán, của lối suy diễn bạc bẽo và đố
kỵ của thói đời: “Mà nhà thì to đẹp thế/
Biết rồi sẽ về tay ai?”. Nghe sao mà chua xót!
Nỗi đau đời được Trần
Nhuận Minh đẩy cao thêm: “Em chồng mắt
lườm miệng nguýt”, làm đau hơn cái thế thái nhân tình bị sức mạnh vật chất
chi phối. Thì ra, người ta đến đám tang người thân phần ít là vì đau xót, mà
phần nhiều là vì ấm ức, đố kỵ, là ngóng kiếm chác từ khối tài sản kếch xù của
người vừa mất, xác vẫn còn đang nằm trong quan tài giữa nhà. Thật là tàn nhẫn,
bỉ ổi!
Hình ảnh “Em chồng mắt lườm miệng nguýt” làm ta
nhớ tới mối quan hệ “chị dâu em chồng” vốn đã được mặc định chả tốt đẹp gì
trong tiềm thức dân gian. Chỉ câu “Em
chồng mắt lườm miệng nguýt”, Trần Nhuận Minh đã khắc họa mối quan hệ giữa “Mợ” và “Em chồng” rõ đang ở thế gầm ghè, căng thẳng, sắp chực trào vì sức
hút của kim tiền, khiến ta chạnh lòng thêm về hình ảnh người mẹ rất thực dụng
trong ca dao: “Em đã bảo mẹ rằng đừng/ Mẹ
hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào.”.
Gia đình chồng (cô bác)
thì như thế. Em chồng thì như vậy. Tất cả đều ghé mắt vào khối tài sản “Cậu” để
lại mà hậm hực, mà đố kỵ. Còn “Mợ” thì sao? Nếu ở khổ thơ trước, Trần Nhuận
Minh kể “Mợ” của ông đẹp về hình thức “Thấy
mợ dịu dàng mảnh mai”, thì ở những khổ thơ này, ông kể về bản chất thật
thà, chân chất của người mợ: “Vô tâm mợ
có thấy đâu/ Thương cậu, mợ không biết khóc/ Thỉnh thoảng lại hờ một câu.”.
Và ông trần tình thêm về
người mợ:
Mợ khổ từ hồi tấm bé
Mong chi lầu trắng gác
xanh
Cậu chết mợ thành người
lạ
Bơ vơ trong chính nhà
mình
Đến đây, người đọc thấy
nhói lòng, đau xót quá.
Câu ca dao “Cậu chết mợ ra người dưng” đã phũ phàng,
đen bạc chốn dân gian nhưng qua sự kế thừa của Trần Nhuận Minh, ông đẩy sự tàn
nhẫn, đen bạc đó cao lên thêm một bậc: “Cậu
chết mợ thành người lạ”, bởi “người
dưng” chỉ người ngoài, người không có quan hệ họ hàng, thân thích, còn “người lạ” chỉ người không hề quen biết,
khiến hình ảnh người mợ “bơ vơ trong
chính nhà mình” càng tăng thêm ám ảnh, đau xót.
Dường như quá bất bình
với những đố kỵ, hẹp hòi từ những kẻ mượn danh người thân hòng sang đoạt tài
sản của người mợ, từ những toan tính trục lợi của những kẻ cơ hội, nhà thơ đã
chua xót lật tẩy thói đời khốn nạn của những kẻ lòng dạ nhơ bẩn, đau đáu vì
tiền: “Chẳng thiếu kẻ đe người
ướm/ Nhà xinh mợ lại càng xinh”; và cảm thán sự bất lực, lẫn cả sự bất
hạnh của người mợ chân chất, hiền lành trước lũ người gian manh, đểu cáng khi
mà người phụ nữ “chân quê” đó chỉ mong có được sự bình yên nhỏ nhoi với một
hạnh phúc bình dị, giản đơn cũng không có được: “Như con thuyền nan không bến/ Lênh đênh trong chính phòng mình.”
Nhà thơ tiếp tục đau xót
với nỗi cảm thương cho người mợ bằng những dòng thơ viết về tận cùng nỗi cô
đơn: “Khách khứa dập dìu lá gió/ Đêm đêm
chớp bể mưa nguồn”; về nỗi đau âm ỉ của niềm tin, của tình nghĩa đã cạn
kiệt, héo rũa: “Mắt mợ dần dần hoang
vắng/ Họ hàng mợ cứ quên luôn”. Từ “cứ”
lần nữa được nhà thơ sử dụng, như thêm một mặc định tất nhiên để cảm thông cho
người mợ.
Rồi nhà thơ tự hỏi, tự
vấn lòng mình: “Mợ đáng thương hay đáng
trách”? Và kêu lên tiếng than, nửa như tự trách mình, nửa như trách cứ
người đời: “Trời ơi! Tách bạch làm chi.”,
để tiếp tục lại tự trấn an mình bằng triết lý có phần an phận, chấp nhận xuôi
theo thói đời vô cảm như đã thành thông lệ, thành chân lý của dòng đời: “Dòng sông muôn đời vẫn thế/ Đục trong thì
vẫn trôi đi.”
Bài thơ khép lại với một
tiếng thở dài.
*
Hà Nội, chiều 07 tháng
09 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
MƠ QUÊ TRONG “XÓM CỎ”
CỦA NGUYỄN KHÔI
*
XÓM CỎ
"Khóm
tre già đợi gió đứng bên ao"
-
Anh Thơ
(Tặng:
Đặng Xuân Xuyến)
-------
Mơ... được bỏ Cao Tầng
về Xóm Cỏ
Ngồi bờ đê hít thở với
sông dài
Ngắm dáng con đò trước
cầu cao ngạo nghễ
Bãi ngô non thấp thoáng
bóng ai...
Ta là kẻ lạc loài chán
chê Phố Thị
Chàng Nhà Quê mê kéo vó
đêm
Thả hồn thơ cùng chị
Hằng "tăm" cá
Cánh tay trần
"cất" cả ánh trăng lên...
Ta muốn quên cái thời
đang biến động
Chỉ vài hôm đã sạch lũy
tre làng!
Cánh đồng xanh đã thành
Đô Thị Mới
Ở giữa quê như chẳng có
Quê Hương?!
Còn chút hẻo lẻ loi chòi
Xóm Cỏ
Ta ra đây ngụ với Bác cu
Bần
Nuôi vịt, trồng
rau...xuống sông kéo vó
No cái mùi Hoa Cỏ nức
hương xuân...
*
Bắc Ninh, 12 tháng 03.2016
NGUYỄN KHÔI
LỜI BÌNH:
Lẽ thường, người ta mơ
"từ quê" được "ra tỉnh", để được sống không khí náo nhiệt,
sầm uất nơi phố xá, thị thành, thì nhà thơ Nguyễn Khôi lại mơ bỏ phố về làng,
ngược với lẽ thường của nhân thế:
Mơ… được bỏ Cao Tầng về
Xóm Cỏ
Ngồi bờ đê hít thở với
sông dài
Ngắm dáng con đò trước
cầu cao ngạo nghễ
Bãi ngô non thấp thoáng
bóng ai...
Nhà thơ tự nhận mình
"là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị"
nên mới mơ khác lẽ thường ở đời: "bỏ
Cao Tầng về Xóm Cỏ", để được là:
Chàng Nhà Quê mê kéo vó
đêm
Thả hồn thơ cùng chị
Hằng "tăm" cá
Cánh tay trần
"cất" cả ánh trăng lên...
Những câu thơ đẹp, hàm
súc và tươi tắn chất thôn quê.
Những hình ảnh lãng mạn
mà khỏe khoắn, phóng khoáng mà dung dị đời thường của “Chàng Nhà Quê” đượm hồn quê trong giấc mơ quê.
Tôi ngẩn ngơ với câu: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...”.
Nét tài hoa của nhà thơ
Nguyễn Khôi ở những câu thơ này là sử dụng câu chữ rất "đắc địa",
đặt đúng vị trí, đúng hoàn cảnh, đúng ngữ cảnh, không thể xáo trộn, thay đổi.
Ví như câu: "Cánh tay trần
"cất" cả ánh trăng lên..." nếu bỏ hoặc thay chữ "trần" bằng một chữ khác thì hình
ảnh "cánh tay trần" rất
đẹp, gợi nét vạm vỡ, phong trần và đậm đặc chất đàn ông sẽ không còn nữa, câu
thơ sẽ thiếu “lửa”, nhạt đi và kém hay. Hoặc nếu thay từ "cất" bằng
một từ khác thì câu thơ: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...” vốn hút hồn người đọc bởi
hình ảnh thơ mộng, đẹp phóng khoáng kiểu Chử Đồng Tử an nhiên tự tại giữa bãi
Tự Nhiên: “cất” cả ánh trăng lên...” sẽ không còn nữa,
câu thơ cũng vì thế mà mất hay, hết duyên.
Ta đọc tiếp khổ thơ thứ
3 xem nhà thơ nói gì:
Ta muốn quên cái thời
đang biến động
Chỉ vài hôm đã sạch lũy
tre làng!
Cánh đồng xanh đã thành
Đô Thị Mới
Ở giữa quê như chẳng có
Quê Hương?!
Ồ. Thì ra nhà thơ mơ bỏ
Phố Thị về Xóm Cỏ là xót xa vì sự đô thị hóa "lũy tre làng" nhanh quá, khủng khiếp quá, còn hơn cả tằm
"ăn rỗi": “Chỉ vài hôm đã sạch lũy tre làng”. “Mái rạ, bờ tre”, nét đặc trưng bao đời
của làng quê Việt chỉ trong "chốc lát" đã biến mất. Câu “tắt lửa tối đèn có nhau” sâu nặng tình
làng nghĩa xóm "ngoảnh đi ngoảnh lại" chắc cũng chẳng còn ý nghĩa.
Nhà thơ xót xa, "muốn quên cái thời
đang biến động" nhưng làm không được, khiến nhà thơ rưng lệ, ngậm
ngùi: "Ở giữa quê như chẳng có Quê
Hương?!"
Chẳng có đau xót nào lớn
hơn khi "Ở giữa quê" mà
"như chẳng có Quê Hương?!".
Một dấu hỏi, một dấu chấm than đặt ở cuối câu như mũi khoan xoáy vào thẳm sâu
nỗi xót xa khi nhà thơ phải chứng kiến sự đổi thay đang tàn phá chất quê, hồn
quê của “cái thời đang biến động”.
Nhà thơ dồn liên tục,
liên tục tâm trạng xót xa của kẻ cô đơn, lạc lõng bằng một loạt tính từ: "chút", "hẻo", "lẻ loi"...
đặt liền nhau, đứng trong cùng một câu thơ, để sự cô đơn, nỗi bi thương, tuyệt
vọng của kẻ vô gia cư ngay trên chính quê hương mình thẩm sâu vào trái tim
người đọc. Ôi, đã "còn chút hẻo",
nhà thơ lại bồi thêm hình ảnh "lẻ
loi" của "chòi Xóm Cỏ" trong cùng một câu: “Còn chút hẻo lẻ loi chòi Xóm Cỏ”, rồi nhấn nhá thêm bằng giọng ngạo
nghễ, bông đùa: “Ta ra đây ngụ với
Bác cu Bần.”. Khiến người đọc se lòng với những quặn thắt: Có ai thất thế
ra nhập nhóm người vô gia cư lại thản nhiên như vậy? Có ai sa cơ "nhập
hội" mấy "bác thằng bần” lại bỡn cợt như thế? Không. Đấy là nhà thơ
đang cố mượn giọng bông đùa để bỡn cợt, giấu đi nỗi đau đang bóp nghẹt trái
tim.
Ở 2 câu cuối, ở khổ thơ
khép lại bài thơ, nhà thơ lại vẽ tiếp một giấc mơ quê, một giấc mơ không thể
đơn giản hơn nữa, không thể nhỏ bé hơn nữa bởi những hình ảnh trong ước mơ rất
đời thường, đời thường đến lam lũ mà đau đáu những khát khao trong trẻo của hồn
quê, chất quê:
Nuôi vịt, trồng
rau...xuống sông kéo vó
No cái mùi Hoa Cỏ nức
hương xuân...
Ôi, giấc mơ giữ lại chút
hồn quê, chất quê của nhà thơ Nguyễn Khôi, hay đúng hơn là nhà thơ cất tiếng
nói thay ước mơ giữ lại được chút hồn quê, chất quê trên mảnh đất thôn quê, của
những người dân lam lũ mà nặng lòng da diết với quê hương, ở “cái thời đang biến động" này sao mà lệ mặn ngược vào tim?!
Bởi, là mơ đấy, là khao
khát chỉ “tầm thường” thế đấy mà cũng e khó thành!
Ôi! Những giấc mơ quê
trong thời đại kim tiền!
*
Hà Nội, chiều 23 tháng
09 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ THƠ
TRẦN MAI NGÂN
*
Thơ của Trần Mai Ngân là thơ của nỗi lòng. Hình
như, chị mượn thơ chỉ để ghi lại Nhật Ký Nỗi Lòng nên thơ của chị gần gũi, dễ
đi vào lòng người bởi đọc thơ chị. người đọc dễ “cảm”, dễ nhớ. Chị viết nhanh
để ghi lại những cảm xúc thật của mình nên những câu thơ của chị rõ là của chị,
không chịu ảnh hưởng cúa ai, cứ nhẹ nhàng đằm thắm, nhẹ nhàng chịu đựng, nhẹ nhàng
hy sinh (có lẽ) như chính con người của chị.
Đọc những câu thơ:
- “Tôi đi nhặt lấy phù
du
Trần gian một cõi mịt mù
chơi vơi
Tôi tìm trong chiếc lá
rơi
Phận người với cả một
đời hư hao”
(Phù Du)
- Ngồi buồn xòa ngón tay
hao
Đã đan trong gió đã nhòa
trong mưa
Gần xa cũng đã từng chưa
Ngón tay đeo nhẫn như
vừa chơi vơi.
(Ngồi Buồn Bấm Đốt Ngón Tay)
- Gió chiều, chân vội
bước qua
Chỗ cười, chỗ đứng đã là
ngày xưa
Mười Hai trời chẳng thôi
mưa
Tiễn Thu hay tiễn tôi
vừa hôm nay!”
(Tiễn Thu 2)
người đọc thấy trân quý cuộc đời hơn dù những câu
thơ ấy viết về sự cô đơn, về nỗi xót xa vì những dang dở chuyện tình, bởi thơ
ấy không hề bi lụy, tiêu cực mà chỉ nhẹ nhàng dâng kín nỗi buồn, rồi nhẹ nhàng
buông bỏ để người thơ trở về với những gì là của mình, thuộc về mình.
Tôi thích thơ chị, có lẽ cũng từ những câu thơ hay
và tinh tế như thế.
Hôm nay, đưa thơ chị lên trang blog Đặng Xuân
Xuyến, không hiểu lý do gì mà 3 lần tôi lập cập làm hỏng, cứ phải dàn trang
lại. Vì đặc thù riêng (một phần do thiết kế) nên thời gian dành cho việc đưa
bài lên trang blog Đặng Xuân Xuyến thường tốn khá nhiều nên tôi bực, định xóa
hẳn bài nhưng tiếc công sức đã bỏ ra nên nán làm lại, vì thế mà tôi đọc kỹ bài
thơ GIẬN của chị. Tôi bật cười với suy nghĩ: Thảo nào tên bài thơ là Giận!
Và cặm cụi ngồi gõ đôi dòng về Giận và cả về thơ của chị:
GIẬN...
Cứ một lần giận dỗi
Là thêm một cách xa
Mà em luôn nói dối
Không sao...em ổn mà!
Cứ một lần im lặng
Không nhìn nói với nhau
Làm tim em băng giá
Một mình âm thầm
đau
Thêm một lần... lần nữa
Có chắc còn lần sau
Ngày mỗi ngày hờ
hững
Nên tình đành xa mau...
Canberra trắng màu
Mây trôi xa xôi
quá
Em nhủ lòng quên đi
Chuyện đôi ta ...còn
gì?
*
Canberra, 25 tháng 08.2018
TRẦN MAI NGÂN
Vâng. Thơ Trần Mai Ngân là thế. Cứ thẳng tuột với
những suy nghĩ của mình, chẳng cần chọn lựa câu chữ bóng bảy, chẳng cần rào dậu
chắn be. Sự thẳng tuột ấy chỉ là chị tự nói với lòng mình, tự lẩm bẩm với nỗi
buồn đang xâm kín lòng mình, sự nhẹ nhàng ấy rất phụ nữ Miền Tây:
Cứ một lần giận dỗi
Là thêm một cách xa
Biết là giận dỗi là căn nguyên của sự “cách xa” nhưng chị không giãi bày, không
phân tỏ mà chỉ âm thầm chịu đựng, âm thầm để níu giữ:
Mà em luôn nói dối
Không sao... em ổn mà.
Câu: “Không
sao... em ổn mà!” nghe như tiếng nấc đang được chị cố ghìm lại.
Chị tiếp tục thật thà với nỗi ấm ức đầy vơi của
mình, bằng những câu không thể đời thường hơn, không thể thật hơn, cứ như chị
bê nguyên xi nỗi ấm ức, hờn tủi của chị bằng những câu nói thường nhật trong
cuộc sống vào thơ mà chẳng cần cầu kỳ gọt rũa, chẳng cần chọn lựa kỹ câu từ. Vì
thế mà chuyện của chị, thơ của chị thật lắm, đời và dễ chạm vào lòng người:
Cứ một lần im lặng
Không nhìn nói với nhau
Làm tim em băng giá
Một mình âm thầm đau
Biết là sức chịu đựng của con người có giới hạn nên
khi đối diện với lòng mình, chị lắng hỏi lòng mình, và cũng là tự nhủ với lòng
mình: "Thêm một lần... lần nữa/ Có
chắc còn lần sau". Biết sự nhường nhịn ấy, cam chịu ấy rồi cũng sẽ
không đem lại kết quả tốt đẹp, nhưng chị lại buông xuôi, bất lực, tiếp tục cam
chịu “thêm một lần”, rồi lần nữa, “lần nữa”... để chấp nhận sự đổ vỡ, chia
ly: “Ngày mỗi ngày hờ hững/ Nên
tình đành xa mau...”, thì thật là một bi kịch.
Nhẫn nhịn và bất lực trước cuộc tình sắp tan vỡ là
tư tưởng yếm thế của một phụ nữ cam chịu xuyên suốt bài thơ.
Đọc bài thơ, không thấy hình bóng ai ngoài hình
bóng chị, được mặc định bởi nhân vật "em"
đang thủ thỉ kể chuyện tình buồn của mình. Cũng không biết căn nguyên những lần
giận dỗi từ đâu, sự giận dỗi ở mức nào mà chỉ thấy hình ảnh nhẫn nhịn, cam chịu
của chị, với những tâm sự của riêng chị, cũng rất chung chung, mơ hồ, khiến
người đọc dù mến thương, cảm thông với nhân vật "em", vẫn buông tiếng thở dài, nhẹ nhàng trách cứ: "tại anh tại ả, tại cả đôi đường.".
Dù thế, thì "Giận" vẫn là bài thơ
nhiều cảm xúc, cuốn hút người đọc bởi sự chân thành trong từng câu chữ của
người viết.
Vâng! Thơ của Trần Mai Ngân là thế, là thơ của nỗi
lòng, là tấm gương phản chiếu chân thực cuộc sống mà nữ sĩ Trần Mai Ngân đã
trải qua, đã cảm nhận và đối diện.
Tôi thích những câu thơ buồn nhẹ nhàng nhưng lại
rất sâu, rất thấm, kiểu:
Xa nhau, ừ nhỉ xa nhau
vậy
Vá víu trăm năm một nụ
cười
Mắt đã rời xa không trở
lại
Lúc ở cạnh nhau đã vắng
rồi.
(Khắc Vào Gió)
Nhưng tôi mong lắm được đón đọc những bài thơ tươi
rói nụ cười, những niềm tin rạng ngời về sự vẹn tròn, đủ đầy của tình yêu chung
thủy như mái ấm gia đình mà chị đang có, về những hạnh phúc lứa đôi mà tôi thấy
đã có nhưng chưa nhiều trong thơ của chị.
*
Hà Nội, 27 tháng 09.2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “QUÊ TRONG PHỐ”
CỦA NGUYỄN XUÂN MÔN
*
Lang thang dạo facebook,
tôi “gặp” “Quê Trong Phố” của nhà thơ Nguyễn Xuân Môn. Bài thơ chỉ sau vài
ngày “xuất xưởng” đã nhận được lời tán thưởng và chia sẻ của nhiều bạn đọc trên
facebook: 892 lượt thích, 166 bình luận (hầu hết là lời ngợi khen) và 8 lượt
chia sẻ. Những con số thật ấn tượng.
Phần vì tò mò, phần vì
cũng đã từng đọc và thích thơ của ông nên tôi chầm chậm đọc để hiểu “Quê
Trong Phố” của Nguyễn Xuân Môn.
QUÊ TRONG PHỐ
Văng sang từ phía nhà
bên
Tiếng gà gáy vỡ toác đêm
thu tàn
Sớm mai tia sáng nằm
ngang
Khói bay nghiêng sợi khẽ
khàng luồn sương
Ánh đèn đêm phố còn
vương
Còi xe đã xé rách đường
tả tơi
Lắng tai nhặt tiếng chim
rơi
Tiếng kêu của là úa rời
cành đau
Nhớ quê sân thượng trồng
cau
Trầu… không: Vẫn thả dây
trầu “neo” quê
Thích "hương"…
bùn - mặc người chê
Cá kho niêu, vại cà thề
hợp ngon
Quê từ cha “nhiễm” sang
con
Trát ngoài “phấn” phố
vẫn còn quê trong
Người quê ở phố, quê…
bong?
Tôi "quê"
trong phố bởi lòng có quê!
*.
Tháng 10 năm 2018
NGUYỄN XUÂN MÔN
Ngay từ những câu thơ
đầu, nhà thơ đã sử dụng từ ngữ, hình ảnh “độc đáo” và táo bạo, không nền nã như
"tạng" của thể thơ lục bát:
Văng sang từ phía nhà
bên
Tiếng gà gáy vỡ toác đêm
thu tàn
"văng" tiếng gà gáy làm "vỡ toác đêm thu tàn".
Là "văng" chứ không phải là "vẳng", là thô ráp, trần trụi của “vỡ toác đêm” chứ không phải là trong
trẻo của một sớm mai yên bình, tinh khiết. Một sự “thưởng ngoạn” tiếng “gà gáy
sáng” rất khác lạ.
Và hình ảnh "sớm mai" cũng trái ngược với lẽ
thường, vì người ta hay nói "tia nắng xiên xiên", còn nhà thơ Nguyễn
Xuân Môn thì viết: “Sớm mai tia sáng nằm
ngang”. Một “sớm mai” thật khác
lạ! Bởi, thường thì “tiếng gà gáy”
sáng chỉ có ở thôn quê nên “tia sáng nằm
ngang” - tia sáng được khúc xạ bởi một góc nghiêng chừng 30 độ so với
phương nằm ngang - nghe chừng không hợp lý. Thế nhưng tiêu đề bài thơ là
"Quê Trong Phố" thì đích thị "tiếng gà gáy" ở trong thành phố. Có lẽ là ở vùng giáp ngoại ô?
Sở dĩ tôi nêu những thắc mắc như vậy là vì mấy chục năm sống ở thành phố Hà
Nội, tôi không hề nghe được "tiếng gà gáy sáng". Mà đã là "tiếng gà gáy" sáng ở thành phố thì
"tia sáng nằm ngang" có thể
chấp nhận vì tính hợp lý: ánh sáng được khúc xạ bởi những ngôi nhà cao tầng.
Hình ảnh "Khói bay nghiêng sợi khẽ khàng luồn sương"
của một "sớm mai" yên bình
và mộng mơ đã bị phá vỡ bởi những vội vã, cấp tập của cuộc sống nơi đô hội, thị
thành:
Ánh đèn đêm phố còn
vương
Còi xe đã xé rách đường
tả tơi
Lắng tai nhặt tiếng chim
rơi
Tiếng kêu của lá úa rời
cành đau
Phải thừa nhận ở khổ thơ
này (và cả ở khổ thơ đầu), nhà thơ Nguyễn Xuân Môn đã bỏ ra khá nhiều công sức
cho việc tìm tòi, sáng tạo ngôn từ để có được những câu thơ gợi cảm, hình ảnh
độc đáo, thể hiện sự nghiêm túc trong lao động và sáng tạo, nhưng có là quá lời
chăng khi người đọc lại cảm thấy dù nhà thơ đã cố gắng thể hiện nỗi lòng bằng
những câu thơ kỳ công trau chuốt thì những câu thơ đó cũng chỉ như những vật
trang sức bóng bảy, phù phiếm vì chúng lạc lõng, chẳng hề ăn nhập với cấu tứ
của bài thơ:
Lắng tai nhặt tiếng chim
rơi
Tiếng kêu của lá úa rời
cành đau
Nếu đấy là nói về sự đô
thị hóa đã tàn phá làng quê, “hồn” quê, “chất” quê thì tâm trạng ấy, đau xót ấy
hợp lẽ, hợp cảnh nhưng đây là những hoạt động thường nhật ở nơi phố xá, thị
thành thì sự náo nhiệt, hối hả, thậm chí là xô bồ, đôi khi đến nghiệt ngã hơn
thế cũng là phải, cũng là điều dễ hiểu. Đâu cần nhà thơ phải nức nở, đớn đau
như thế?! Vô tình, ở những câu thơ này, nhà thơ Nguyễn Xuân Môn đã đẩy tâm
trạng xót xa của “nhân vật trữ tình” quá lên, chẳng hề ăn nhập gì với cấu tứ
bài thơ, khiến người đọc thơ cho là sáo rỗng, phù phiếm, thậm chí còn thốt lên:
Thật chẳng đâu vào đâu.
Hai khổ thơ cuối được
viết với kết cấu lỏng lẻo, ý tứ nhạt nhẽo, nhất khi ông cố dụng tâm “chơi chữ”
ở khổ thơ kết, nhằm làm nổi bật tình yêu quê hương sâu đậm trong tim:
Quê từ cha “nhiễm” sang
con
Trát ngoài “phấn” phố
vẫn còn quê trong
Người quê ở phố, quê…
bong?
Tôi "quê"
trong phố bởi lòng có quê!
nhưng cách sử dụng từ
ngữ cẩu thả, thiếu cân nhắc, việc chọn lựa hình ảnh cũng hời hợt, tùy tiện,...
đã khiến dụng tâm của ông thất bại. Đơn cử, tình quê hương là thiêng liêng, là
sâu lắng trong trái tim mọi người, nhưng đọc câu: “Quê từ cha “nhiễm” sang con”, người đọc cảm thấy ớn lạnh khi nghĩ
đến nghĩa của những cặp từ: lây nhiễm, truyền nhiễm, ô nhiễm... Khiến người đọc
nghi ngại đặt dấu hỏi: Yêu quê sao lại rẻ rúng tình quê như thế? Nếu ông cẩn
thận một chút, chả cần cầu kỳ đến mức trau chuốt như khi ông chọn lựa ngôn từ,
hình ảnh cho mấy khổ thơ đầu, chỉ đơn giản là ví dụ ông dùng từ “thấm” hoặc từ “ngấm” thay cho từ “nhiễm”:
“Quê từ cha “thấm” (ngấm) sang con”,
là được.
Thơ của ông tôi đã đọc
và cũng thích một số bài nhưng những câu thơ nhạt nhẽo, thô kệch như: “Quê từ cha “nhiễm” sang con/ Trát ngoài
“phấn” phố vẫn còn quê trong”, hay: “Thích “hương”... bùn mặc người chê/ Cá kho
niêu, vại cà thề hợp ngon”... đã ít nhiều giảm sự yêu thích thơ ông trong
tôi và khiến “Quê Trong Phố” của ông, của nhà thơ
Nguyễn Xuân Môn thành... kém duyên.
*
Hà Nội, chiều 21 tháng
10 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC
LÃO GÀN CHỬI QUAN THAM
*
“Xin Chửi Một Phát Hạ Hỏa”
là bài thơ 5 chữ của nhà thơ Nguyễn Xuân Lộc, sáng tác năm 2015, nhân sự kiện
ông Cầm Ngọc Minh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Sơn La có “tâm tư”: “Chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng
tôi”.
Bài thơ như một cái tát,
giáng thẳng vào mặt lũ quan tham, lũ người mà nhân dân miệt thị và căm phẫn gọi
là “cẩu quan”.
XIN CHỬI MỘT PHÁT HẠ HỎA
Lại tượng đài ngàn tỉ
Trời ơi! Thuế của dân
Cụ Hồ mà sống lại
Chắc phải bị tâm thần.
Thằng chó nào phê duyệt
Những dự án tào lao
Một đời ông giản dị
Biết phô trương lúc nào?
Chúng bay học tập Bác
Thì học được thứ gì
Cần kiệm và liêm chính
Sao chúng bay vất đi?
Kiếm ăn trên thân xác
Một người đã chết rồi
Lại nhân danh cộng sản
Khốn nạn thế thì thôi!
Lâu rồi không muốn chữi
Nghĩ đàn gãy tai trâu
Nhưng làm sao cất được
Cục tức ở trong đầu .
Rặt một phường xỏ lá
Lên giọng dạy người ngay
Ông cụ nằm trong đó
Đau lắm bởi chúng mày.
Vì tiền làm những chuyện
Hại nước rồi hại dân,
Thương cụ mà như thế
Hơn hại cụ ngàn lần.
*.
NGUYỄN XUÂN LỘC
Mở đầu bài thơ, nhà thơ
đi thẳng vào vấn đề: “Lại tượng đài ngàn
tỉ” với tiếng kêu căm phẫn: “Trời ơi!
Thuế của dân”. Và chẳng cần lịch sự, ông chỉ mặt và gọi thẳng bọn quan tham
là "thằng chó". Đấy không
chỉ là sự miệt thị mà còn là sự căm phẫn đến tột cùng của ông, của triệu triệu
người dân đất Việt dành cho lũ quan tham:
"Thằng chó nào phê
duyệt
Những dự án tào lao
Một đời ông giản dị
Biết phô trương lúc
nào?"
Hệ thống truyền thông
rần rần những ngợi ca đức tính giản dị, cần kiệm, liêm chính, chí công của cụ
Hồ. Báo đài của Đảng - Nhà nước cũng rầm rộ kêu gọi toàn Đảng - toàn dân - toàn
quân quyết tâm "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ
đại'. Tiêu tốn biết bao tiền thuế của dân vào cuộc vận động "sống, chiến
đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại'', ấy thế mà lũ quan tham
chẳng học được gì để “vì dân vì nước”, mà chúng chỉ chăm chăm nghĩ ra những
chiêu trò đục khoét, cướp bóc của dân, thỏa chí 'vinh thân phì gia'. Chúng nghĩ
ra trăm nghìn “dự án tào lao” để chia
chác “lợi ích”, tàn phá đất nước, bất chấp lòng dân uất hận.
Xót xa khi liên tưởng
tới cuộc đời thanh bạch, giản dị của cụ Hồ: “Một đời ông giản dị/ Biết phô trương lúc nào?”, nhà thơ thẳng thắn
chất vấn lũ quan tham: "Chúng bay
học tập Bác/ Thì học được thứ gì", khi mà: “Cần kiệm và liêm chính/ Sao chúng bay vất đi?".
Ông chua xót chỉ ra lũ
quan tham là hiện thân của một bầy kền kền:
"Kiếm ăn trên thân
xác
Một người đã chết rồi
Lại nhân danh cộng sản
Khốn nạn thế thì
thôi!"
Có lẽ ông không thể ngờ
những con kền kền ấy lại "kiếm ăn
trên thân xác" của chính người mà chúng đã tôn thờ, đẩy lên thành bậc
thánh nên lời thơ của ông chứa đầy sự uất hận và mai mỉa.
Lũ kền kền ấy đã nghĩ ra
đủ chiêu trò để đục khoét ngân khố quốc gia, bòn rút cạn kiệt tiền thuế của
dân: xây tượng đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng, xây Quảng trường Hồ Chí Minh... Chúng
trắng trợn và tởm lợm đến mức tị hiềm nhau giữa “quốc dân đồng bào”: "chưa có tượng đài là thiệt thòi cho chúng
tôi" vì nếu xây dựng tượng đài cụ Hồ thì những khoản "chia
chác" đút túi sẽ không nhỏ, sẽ chả kém gì dự án "bột nở" - dự án
nạo vét sông Sào Khê (Ninh Bình) đội vốn gấp 26 lần: từ 72 tỉ lên 2.600 tỉ.
Đấy mới là mục đich của
chúng!
Chúng cần gì quan tâm
đến cuộc sống của người dân đang lầm than, cơ cực:
"Tôi nghe...
Đứa trẻ Gia Lai chết
trong tức tưởi
Ba năm tới trường bằng
mượn áo rách của anh
Bà Lò Thị Phanh
Bệnh viện trả về
Không tiền thuê xe
Xác cuốn chiếu
Gập ghềnh xe thồ hơn
trăm cây số."
(Tôi Nghe - Đặng Xuân
Xuyến)
Dặn lòng nhẫn nhịn vì
nghĩ "đàn gảy tai trâu", nhà
thơ Nguyễn Xuân Lộc cũng tựa như triệu triệu người dân đất Việt nhẫn
nhịn mọi chuyện để an phận với cuộc sống ấm ức, bị chặn đầu cướp đuôi. Sai lầm
của ông, của tôi, của nhiều người dân lương thiện là đã "tặc lưỡi"
cho qua "mọi chuyện" mà không biết rằng lũ quan tham ma mãnh lắm, xảo
trá lắm, độc ác lắm. Chúng rành rẽ mọi chuyện, chúng giỏi “công tác dân vận”,
chúng sành về tâm lý và "chiến tranh tâm lý" nên chúng làm được những
chuyện "kinh thiên động địa", những chuyện táng tận lương tâm - những
chuyện mà người lương thiện không bao giờ dám làm.
Ông vạch mặt, chỉ đích
danh lũ chúng là phường xỏ lá, kệch cỡm, là lũ vì tiền mà bán linh hồn cho quỷ,
hại nước hại dân:
"Rặt một phường xỏ
lá
Lên giọng dạy người
ngay"
Và trầm giọng:
“Ông cụ nằm trong đó
Đau lắm bởi chúng mày.”
Rồi kết luận:
“Thương cụ mà như thế
Hơn hại cụ ngàn lần.”
Tôi nghĩ, ở 2 câu kết
này nhà thơ Nguyễn Xuân Lộc đã sai vì lũ quan tham ấy, lũ kền kền ấy nào có thương
xót cụ Hồ. Chúng chỉ lợi dụng tên tuổi Cụ, uy danh Cụ để hợp thức hóa việc trấn
cướp tài sản của đất nước, bòn hút xương máu của nhân dân. Có lẽ, bài thơ không
nên có khổ thơ thứ 7 thì sức chiến đấu sẽ cao hơn.
Dẫu vậy, thì đây là một
bài thơ rất đáng đọc.
*
Hà Nội, chiều 26 tháng
10 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
THẦY PHONG THỦY BÙI ĐỒNG
VÀ NHỮNG COMMENT BÌNH THƠ
*
Trên trang facebook cá
nhân, ngày 28 tháng 10 năm 2018, tôi viết vài dòng kệ:
Ngẫu hứng bình thơ thiên
hạ
Tấm lòng thấu cảm bật ra
Dở hay mặc người bình
bán
Cứ là hồn nhiên như tiên
Là mấy dòng khái quát về
thầy phong thủy Bùi Đồng, người bình khá nhiều thơ của bạn bè trên facebook
dưới dạng những dòng comment.
Ông bình thơ rất ngẫu
hứng và lời bình của ông phiêu diêu, lãng tử. Chất ngẫu hứng trong lời bình của
ông đậm nét hương đồng gió nội, và cảm xúc thì tuôn trào theo mạch, tự nhiên,
không bị lý trí cầm cương, chỉ đạo nên chất lãng tử trong câu chữ của ông mang
nét dân dã, nhiều khi phảng phất chút yếu tố tâm linh huyền bí, nhưng lại rất
tự nhiên, không hề gượng ép. Ông bình thơ bằng những rung cảm bất chợt xuất
hiện từ những câu chữ của thơ, dẫn giải những rung cảm đó bằng ngôn ngữ đời
thường, không cố tạo dáng khoe mẽ bằng những câu từ ra vẻ bác học, hiện đại nên
người đọc tiếp nhận lời bình với tâm trạng nhẹ nhõm, thoải mái.
Khi đọc bài “Hơi
thở của núi rừng trong bài thơ CHUNG”, nhà thơ Yên Sơn đã gửi thư qua
email (yenson68@gmail.com) tới tôi: “Một bài bình thơ rất độc đáo. Độc đáo ở chỗ
thấy được cả những hoang sơ, hồn nhiên trong hơi thơ của nhà thơ; không như
những "nhà bình thơ thiên tài" ưa đem cái tôi của mình áp
đặt vào thơ người khác đến nỗi đọc xong chả hiểu là nhà phê bình văn học tài ba
ấy nói cái gì! Xin cám ơn anh Bùi Đồng.”
Ông bình thơ cũng lạ
lắm. Chả cần quan tâm tới tác giả bài thơ là ai? Cũng chả cần biết bài thơ đó
đã có ai bình chưa? Và bài bình đó hay dở thế nào? Thích bài thơ thì ông bình,
viết như vội chép để kịp ghi lại những cảm xúc bất chợt xuất hiện khi đọc thơ.
Thế thôi!
Hãy nghe ông thổ lộ:
“Ta bỗng dưng không còn là mình nữa, ta bị thơ ngấm đẫm, ta bị thơ chuốc
say... để buồn không ra buồn, say chả ra say của trạng thái ngộ tình.
Gió thốc ngược gối
giường trống vắng
…...
Đông mình em / cây đường
lập cập
Đông mình em / sương
muối buốt khuya
Đến đây người đọc lại bị
dụ vào tử huyệt lần nữa. Mặc dù biết thiếu phụ một mình rồi nhưng lặp
từ: “đông mình em” làm dâng lên sự cô đơn đến chua xót tàn khốc. Cái
cây run lập cập kia, làn sương muối đùng đục buốt giá ấy có khác nào tâm trạng
người?
Bất giác ta nhớ bài ĐÊM
ĐÔNG và lần nữa buông tiếng thở dài đồng cảm.”
(Gọi Đêm Trở Gió - Bài
thơ hiếm lạ của Bùi Cửu Trường)
Có lẽ, vì không phải là
nhà phê bình văn học chuyên nghiệp, cũng không thích bị gán danh là người viết
phê bình văn học nên ông không quan tâm tới việc mài rũa câu từ, trau chuốt văn
phong cho nhuần nhuyễn, cho có dáng dấp của lối "văn chương bác học",
cũng không mấy câu nệ chuyện khen chê của bạn đọc nên ông bình thơ theo cảm
hứng ngẫu nhiên, say như “lên đồng”.
Những bài (đúng ra là
những comment) bình thơ của ông rất ít khi bàn về nghệ thuật thi pháp mà thường
là những khám phá, những rung cảm của ông trước vẻ đẹp nằm sâu trong ngữ nghĩa,
ý tứ của bài thơ. Chẳng thế mà khi nhà thơ Phạm Đức Nhì nhận xét tác giả Bùi
Đồng “bình thơ mà không bàn thi pháp”, ông đã nhã nhặn vài dòng comment: “Đọc thơ nó thú ở cái ý tứ, ngữ nghĩa trước
đã và thích thì cứ tuôn cái cảm giác ấy để chia sẻ với tác giả và bạn thơ thôi
(tạm gọi là bình thơ). Phạm Đức Nhì thì thưởng thơ bằng cách nhấm nháp,
nhâm nhi, soi kỹ một cách có tình và nghiêm khắc. Có nhiều phát hiện mới
đáng để học qua bài viết của anh. Thôi thì, cứ vậy đi, mỗi người đều thể hiện
cái thấy, cái tình của mình, theo cách của mình cũng đáng trân trọng lắm chứ.”
Ông cũng rất thẳng thắn,
không câu nệ khi viết comment dưới những bài thơ, những bài bình thơ của bè bạn
trên facsebook. Ví như, khi đọc nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường bình bài thơ “Hương
Quê”, mặc các nhà thơ, nhà văn: Đồng Thị Chúc, Bùi Thị Sơn, Châu
Thạch,... ưu ái comment khen tặng, ông ‘phê’ thẳng tưng: - “Hương cốm duyềnh lên? Từ duyềnh này chỉ sự
dâng lên đột ngột của nước biển, mà hương cốm chỉ phảng phất, ý tứ, mơn man tỏa
lan thôi, sao thô bạo tràn sang nhà hàng xóm.... Tác giả đã tầm thường hoá
hương cốm mất rồi. Nếu không có lỗi này thì bài thơ hoàn hảo, đáng nhớ.”,
khiến nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường ái ngại, tế nhị gửi tôi tin nhắn: - “Cháu xin lỗi bác Bùi Đồng hộ cô
vì DUYỀNH là chữ đầu tiên ĐẬP VÀO MẮT, làm cho bài thơ này khác lạ và tạo
nên cái tưng tửng khó chịu cho người đọc đấy... hihiiii...". Tôi đã trả lời bà: - “Cô ơi, chú Bùi Đồng là người trực tính nhưng rất tốt. Nhận xét đó tuy
có phần chủ quan nhưng xuất phát từ chữ TÂM cô ạ.”
Vâng. Ông là thế. Thẳng
thắn viết comment cảm hứng “tức thì” dưới những status là thơ hoặc bình thơ của
bè bạn. Ông viết những comment đó chỉ để giải tỏa tâm trạng “bức bách” trước
sức hút từ câu, chữ của bài thơ, không phải để “phê bình” hoặc “lý luận” về thi
pháp, tư tưởng... của bài thơ, của tác giả thơ nên ông không mấy quan tâm tới
phản ứng của người đọc.
Ông nương cảm xúc theo
ngữ, nghĩa của câu chữ để "luận", để "tán" cảm xúc đang
hưng phấn, nhưng có lẽ vì thích thì ghi lại mạch cảm xúc đang tuôn trào nên
những comment của ông thường ngắn gọn, súc tích và luôn tạo cảm giác “thòm
thèm” nơi người đọc. Ví như khi ông viết comment dưới bài thơ NHỚ của Hoàng Ngọc:
“Đêm chưa qua, mà ngày chưa tới.
Trong cái chạng vạng như
buổi hỗn mang của càn khôn thiên địa. Thì nỗi nhớ mang tầm vũ trụ của một tinh
vân với tinh cầu cũng bao la lắm, như giọt nước mắt của ngọn bạch lạp cứ lắt
lay và nhỏ giọt rồi lắp đầy tâm khảm. Đọc lướt thì như vậy nhưng ngẫm kỹ
lại thấy tầm vóc của nỗi nhớ nỗi nhớ nối hai bờ quá khứ, hiện tại. “ngọn nến hồ
tàn còn nhỏ lệ. Thân tằm đến chết vẫn vương tơ”
Tự nhiên nhớ đến vần thơ
cổ cũng khẩu khí na ná như thế .
Trăng chẳng ngủ bao giờ,
ở nơi đó có khi nào con thao thức...như ta???
Ta lo lắm, nếu một ngày
nào đó con chót chạm vào giấc mơ thì với bản lĩnh, thần lực như con liệu có thể
theo kịp cái mênh mông, bao la như một hố đen cuốn hút để rồi biến mất trong
cõi uyên nguyên ngàn trùng ấy không?
Lo lắm, nỗi lo của từ
mẫu, của sư phụ mãi dõi theo người con của nhân duyên, thiên định.
Đọc bài thơ thấy rõ sự
chông chênh hiếm có của Hoàng Ngọc trong lúc đất trời chuyển mình khi âm chưa
qua, dương chưa tới.
Thật khó ngờ!”
Không ít những comment
ngắn gọn, súc tích, phảng phất chút phiêu diêu giữa cõi thực với cõi hư vô như
thế. Và chính từ những comment “kiệm lời” ấy, ông như đã thổi vào câu thơ, bài
thơ thêm luồng sinh khí để câu thơ, bài thơ thêm tươi tắn, hay hơn, đẹp hơn.
Phải chăng ông đã đạt tới cảnh giới ngay trong cả những comment?!
Không dùng những câu chữ
mỹ miều để phong tặng cho các tác giả thơ, cũng không cao giọng chỉ trích người
viết thế này, thế kia, ông công tâm ghi nhận những thành công của họ, những
sáng tạo của họ, tuy có kiệm lời nhưng lời văn nhã nhặn, chân thành, đủ ý, đủ
tình trong những đánh giá ấy đủ làm ấm lòng người đọc và ấm lòng cả người sáng
tác.
Xin trích dẫn vài trường
hợp để bạn đọc tham khảo:
- “Thật đắt, thật người, với cái gió heo may se lạnh, chính gió cũng không
tin mình nữa, chính gió cũng khẽ khàng, rón rén vì sợ cái lạnh của nhiệt độ
thấp và cả cái lạnh tê tái của cõi lòng buốt giá. Gió là ta, hay ta là
gió?
Để heo may rụt rè hoá
thành gió rét.
Hay thật. Câu thơ làm
mọi người bất ngờ phát hiện ra tác giả đã chín.
Thơ Đinh Sỹ Minh khác
trước rất nhiều, thay vì dàn trải, kể lể thì nay cô đọng, chắt chiu từ ngữ, tập
trung vào cảm xúc mà không bị gò lại bởi vần điệu, ước lệ nữa.
Đã thấy phong cách riêng
của Đinh Sỹ Minh rõ nét hơn.”
(trích: comment bài thơ
LỬNG THU của Đinh Sỹ Minh)
- “Tất cả biến ảo vô
hình. Khi nhìn ra chân lý như ngọn đèn bùng lên lần cuối và tự an ủi cho một
khoảng thời gian ngây ngô dại khờ, ngọt ngào và đắng chát đan xen, thì:
Tháng ba sấm dậy
Tháng năm lúa sây
bông
Tàn thu, lụi đông
Năm sót lại đen xì đêm
củ mật.
Chẳng có sự thay đổi,
lột xác để trưởng thành hơn mà không có đau đớn. Vẫn hơi thơ, mạch dứt khoát,
cô đọng như một câu thành ngữ và cách dùng từ dân dã đã làm người đọc thú vị và
bị cuốn hút.
Tác giả đã chín rồi và
cách quan sát, hoài niệm, cách dùng hình ảnh thật chắc chắn làm cho bài thơ
sống động và chạm vào khoảng riêng tư của tình người làm họ trân trọng.”
(trích: Vài cảm nhận về
bài thơ “Yêu Và Không Yêu”)
- “Đọc thơ Trần Thị Bảo Thư phải
nhắm từ từ, phải thật tĩnh mới ngấm được cái men lìm lịm chất đời.
Rượu tàn, tàn cả trăng
khuya
Tìm nhau gai xước đầm
đìa dấu môi
Đốt lên rưng rức khói
đời
Tiễn nhau cũng chỉ một
thôi đoạn trường
Bài thơ đã được đẩy lên
cao trào, thần thơ xuất hiện, trăng tàn, rượu tàn, khói đời rưng rức, kệ gai
xước, dấu môi cứ đầm đìa... một loạt tính từ bạo dạn, nhuần nhuyễn kết hợp tài
tình làm nên hồn thơ mạnh mẽ. Đến đây bỗng thèm có một tri nhân để mà say như
vậy.”
(trích: Đọc “Vô Hình Bỉ
Ngạn” của Trần Thị Bảo Thư)
- “Bài thơ hay ở chỗ
dùng từ, đọc lên người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét
vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với
tâm cảnh, hồn người nên cứ thấy hay.
Điều đặc biệt là bài thơ
không thể chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô
đọng. Đặc biệt hơn là cả bài không có đại từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy
mình trong đó và đó chính là thủ pháp "hỏa mù" chả
ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của tác giả...
Ồ! Mà lạ chưa: tâm động
qua một cái nhón chân thi vị.”
(trích: Một cái nhón
chân... thật lạ)
- “Quay về nhón hạt thóc cười
Vểnh nghe trâu ợ ra lời
rạ rơm
(...) Tác giả thấy hạt
thóc cười (tách mầm) qua cái nhón tay vô thức mong manh mà được cả một nụ cười
của ngũ hành, vũ trụ: thành trụ hoại diệt! (thông qua cái nhón tay và hạt thóc
tưởng như vô hồn)
Văn Thuỳ là vậy, vừa
giống thiền sư, vừa giống bác nông dân mộc mạc, chân chất... lang thang, cần
mẫn trên thửa ruộng đời bề bộn.
Con trâu là đầu cơ
nghiệp nhưng tác giả nghe cả tiếng chóp chép nhai lại để: ợ ra lời rạ
rơm!
Câu thơ xuất thần, hiếm
gặp! Cái ợ hơi với nhiều người đọc vội sẽ thấy thô thiển nhưng đọc kỹ sẽ thấy
hồn quê, hương đồng nội được hình thành từ rơm rạ, một vòng luân hồi: hạt thóc,
nhành mạ, cây lúa, rơm rạ, qua dạ dầy trâu lại trở lại ruộng đồng, cây
lúa!”
(trích: Cảm sự lạ...
trong “Hồn Rơm” của Văn Thùy)
Ông bình thơ dưới dạng
viết comment trên facebook khá nhiều nhưng ông không viết thành bài status để
chia sẻ với bạn bè hoặc gửi đăng trên các trang web vì ông quan niệm: - “Đọc thơ nó thú ở cái ý tứ, ngữ nghĩa trước
đã và thích thì cứ tuôn cái cảm giác ấy để chia sẻ với tác giả và bạn thơ thôi.”.
Đó là nét cá tính đặc biệt ở ông. Tôi không biết như thế là nên hay không nên?!
Kết bạn trên facebook
với ông từ tháng 09 năm 2016. Chưa gặp ông ngoài đời nhưng qua những status về
văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử của ông, nhất là những lần “trao đổi” với ông
qua facebook, điện thoại... tôi cảm nhận ông là người thiện tâm.
Đọc những status và
những comment bình thơ của ông,... tôi cảm nhận trong đó ấm áp những chất đời,
tình đời.
Văn là người. Không biết
với những người khác có phải như thế hay không, nhưng với ông thì tôi tin đúng
là vậy!
*.
Hà Nội, chiều 15 tháng
11 năm 2018
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC: "THUYỀN
THEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN
*
Chiều 19 tháng 01 năm
2019, nhẩn nha dạo facebook, tôi "gặp" bài thơ "Thuyền
Neo Bến Lạ" của nhà thơ Phúc Toản:
THUYỀN NEO BẾN LẠ
- Gửi NTPT -
.
Lạnh lùng cơn gió chiều
đông
Xô con thuyền nhỏ theo
dòng về xa ...
Dây đời buộc tím nhành
hoa
Ngày vui ...mà lệ ướt
nhòa câu thơ ...
.
Thật rồi... vẫn ngỡ là mơ
Lấy chồng! Em lấy chồng!
Ơ! Lấy chồng...
Gừng cay, muối mặn xát
lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào
trong nỗi mừng...
.
Một luồng gió thổi sau
lưng
Tân bao kỷ niệm, đoạn
từng nhớ thương...
Mùa xuân phía trước dâng
hương
Đằng sau lạnh buốt một
phương trời buồn...
*.
Tân Yên, tháng 01.2001
PHÚC TOẢN
Thoạt đọc, bài thơ không
có gì đặc biệt, cũng như những bài thơ tình than vãn về tình yêu lứa đôi bị
chia rẽ, bội bạc... đầy rẫy trên mạng, đọc xong là quên liền. Tôi định nhấn
like rồi chuyển đọc tin khác thì âm hưởng câu thơ: "Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy chồng..." níu tôi đọc lại.
Vâng. Tôi thích khổ thơ
thứ hai, khổ thơ gây nhiều ấn tượng với tôi.
Cách chuyển nhịp từ 2/4
(tiết tấu chậm) ở câu lục: "Thật
rồi... vẫn ngỡ là mơ", sang nhịp 2/3/1/2 (tiết tấu nhanh) ở câu bát:
"Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơ! Lấy
chồng...", đã khéo léo đặt tâm trạng của nhân vật "tôi" cùng
(lúc) rơi vào nhiều cung bậc tình cảm. Với cách ngắt nhịp đặc biệt ở câu bát
như thế, nhà thơ Phúc Toản đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của chàng trai
khi được tin người yêu lấy chồng chỉ trong một câu thơ. Từ tâm trạng còn nhiều
ngờ vực, bán tín bán nghi: "Lấy
chồng", chuyển sang tâm trạng sững sờ, buộc phải chua chát mà tin:
"Em lấy chồng", và đẩy nỗi
niềm đắng cay dâng tiếp lên cao bằng câu thảng thốt: "Ơ", biểu hiện của tâm trạng bất lực, rồi buông thõng bằng câu
xác tín: "Lấy chồng..." của
tâm trạng thất vọng, chán chường.
Tôi nghĩ, đấy là câu thơ
độc đáo, đã giúp bài thơ sáng lên.
Không than vãn, kế nể,
không nặng lời trách móc khi người yêu theo "thuyền neo bến lạ",
nhà thơ Phúc Toản đã gói ghém tất cả sự trách giận, nỗi xót xa của chàng trai
vào 2 câu thơ:
"Gừng cay, muối mặn
xát lòng
Nỗi buồn cứ nhói vào
trong nỗi mừng ..."
Chính sự kiệm lời ấy
càng làm nỗi đau nhân đôi.
Tôi nghĩ, ở câu thơ:
"Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...",
dù nhà thơ Phúc Toản chỉ nói về nỗi đau đang cứa vào trái tim của riêng "anh" thì người đọc vẫn cứ liên
tưởng, vẫn cứ hình dung đấy là nỗi đau đã lan tỏa, đã xâm chiếm cả không gian
ngày "em" làm lễ Vu Quy.
Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim
cô gái - người đang cử hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.
Vâng. Câu thơ: "Nỗi
buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..." đã đích thực chỉ ra là vậy.
Tôi thích 2 chữ "cứ nhói" ở câu thơ này. Nó diễn đạt
được nhiều điều. Nó làm cho câu thơ day dứt thêm và lắng đọng hơn.
*.
Làng Đá, sáng 20 tháng
01.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
THƯA CHUYỆN CÙNG BẠN ĐỌC ...
VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG NGUYÊN LẠC
*
Thật sự là tôi không
thích đọc những bài viết chuộng lối "tầm chương trích cú" nên ngày 14
tháng 02 năm 2019, khi nhà thơ La Thụy gửi qua email, ngó thấy tên tác giả bài
viết là Nguyên Lạc, tôi liền nhấn chuột thoát ra để vào đọc thư khác. Sở dĩ như
vậy là vì gần đây, vào cuối năm 2018, vô tình đọc 2 bài viết của tác giả Nguyên
Lạc, cũng do nhà thơ La Thụy gửi qua email, tôi đã phát hãi khi phải đọc những
đoạn "tầm chương trích cú" mà nhiều người đã biết hoặc không cần phải
biết, được ông Nguyên Lạc sử dụng na ná kiểu "Sơn Đông mãi võ", “lên
gân dạy đời” dành cho những nạn nhân không chỉ là nhà phê bình văn học Châu
Thạch, nhà thơ Phạm Ngọc Thái hay Giáo sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, Phó giáo sư Phó
tiến sĩ Bùi Hiền,... mà với tất cả những ai đọc 2 bài viết đó.
Tôi không có ý định
"trả lời" bài: VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ “THUYỀN NEO BẾN LẠ”
vì không muốn bị cuốn vào những tranh cãi làm phí phạm thời gian bởi mấy việc
chẳng đâu vào đâu với ông Nguyên Lạc. Nhưng sớm hôm nay, 16 tháng 02.2019, một
người bạn khuyên tôi nên có đôi lời với bạn đọc đã đọc "VÀI SUY NGHĨ KHI
ĐỌC "THUYỀN NEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC TOẢN" của blog Trang Đặng Xuân
Xuyến và các trang web thân hữu nên tôi ngồi gõ đôi dòng.
Tôi lọc ra mấy điểm ông
Nguyên Lạc nêu trong bài dài vài nghìn chữ: VÀI SUY NGHĨ KHI ĐỌC BÀI BÌNH THƠ
“THUYỀN NEO BẾN LẠ”, rườm rà vì "tầm chương trích cú" đến hơn nửa
dung lượng bài viết, để thưa cùng bạn đọc.
I.
Ông Nguyên Lạc viết:
“Theo tôi, ở đây phải dùng chữ ƠI hay ÔI để tán thán sự buồn mới đúng:
Ơi (ôi) em!/ ơi (ôi) anh! chúng ta đành phải xa nhau rồi.v.v... Buồn, bất
lực là hai chữ này.
Chắc có lẻ nhà bình
luận hiểu chữ Ơ rộng nghĩa hơn tôi!
Tuy câu thơ bị khuyết
điểm nhỏ này, nó cũng tạm coi là đạt.”
Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:
Tôi nghĩ, hẳn khá nhiều
người đều hiểu:
- Ơ là tiếng thốt ra
biểu lộ sự ngạc nhiên trong những tình huống bất ngờ mà chủ thể chưa có thời
gian cảm nhận để có phản ứng thích hợp.
Ví dụ: Ơ... sao ngu thế!
- ÔI là tiếng thốt ra
biểu lộ xúc động mạnh mẽ trước nỗi đau đã thấm sâu hoặc trước điều không ngờ.
Ví dụ: Ôi! Hắn đểu thế!
Trong trường hợp của bài
thơ "Thuyền Neo Bến Lạ" thì từ Ơ được nhà thơ Phúc Toản sử dụng
hợp với hoàn cảnh của nhân vật trong thơ nên hay hơn rất nhiều so với dùng chữ
ÔI như ông Nguyên Lạc bày vẽ.
Còn chữ ƠI thì sao?
- Ơi là cảm từ, là khẩu
ngữ dùng để gọi (hoặc đáp) một cách thân mật, thân thiết, ví như: Tuấn ơi, Minh ơi, Hùng ơi... Cũng có khi
dùng với ý than vãn, ví như: Trời ơi!,
Cha Mẹ ơi!...
Nếu thay chữ Ơi như bày
vẽ của ông Nguyên Lạc:
“Lấy chồng! Em lấy chồng! Ơi! Lấy chồng...”
thì câu thơ thành vô
duyên, ngớ ngẩn khi nhân vật trong thơ đang xót xa vì tình yêu tan vỡ.
II.
Ông Nguyên Lạc viết:
a. "Gừng cay, muối
mặn xát lòng"
Câu thơ này có chính xác
ở trường hợp này không?
Xin mời nhà bình thơ
đọc trích đoạn này:
[...Như đã nói trên, quan hôn tang tế không
thể nào không có rượu. Nhất là ngày "loan phụng hòa minh" và đêm
"động phòng hoa chúc"
Đất Quảng Nam chưa mưa
đã thấm,
Rượu Hồng Đào chưa nhấm
đà say...
Với tục lệ Việt Nam cổ
truyền thì lễ động phòng cần có: Chỉ đỏ hoặc chỉ ngũ sắc gọi là dây tơ hồng,
đĩa muối với dăm lát gừng tươi, chai rượu Hồng Đào đính kèm một chiếc chung.
Chú rể buộc tơ hồng vào cổ tay nàng dâu và ngược lại. Rót đầy chung rượu, chàng
uống nửa, nàng uống nửa. Xong, cùng lấy gừng chấm muối mà nhai, đôi lứa vừa hít
hà, vừa dìu dặt ngâm nga:
Tay bưng đĩa muối chấm
gừng,
Tình nồng nghĩa mặn
xin đừng bỏ nhau
(Rượu Hồng Đào: Quảng
Nam song hỷ tửu - Phanxipăng)[2]
Ở đây chàng trai và cô
gái "động phòng, hợp cẩn" lúc nào mà nhai muối/ gừng xát
lòng? Nhà bình thơ có chú ý đến điều này không?
Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:
Tôi thật sự ngạc nhiên
trước "sự hiểu" hoặc rất là ngây thơ, hoặc rất là máy móc, hoặc là cố
tình "bẻ cong" của ông Nguyên Lạc. Đoạn ông trích dẫn trên, có chăng
chỉ là đoạn văn mô tả tập tục cưới hỏi của người bản địa, đó là tập tục cưới
hỏi của người dân xứ Quảng, không phải là phong tục cưới hỏi truyền thống của
người Việt Nam.
Quê tôi, quê nhà thơ
Phúc Toản hay quê của nhiều người khác trong lễ Hợp Cẩn đâu có dùng rượu Hồng
Đào bởi rượu Hồng Đào là một "đặc sản" của tỉnh Quảng Nam, không
phải là rượu cưới truyền thống của người Việt? Cũng đâu có nghi thức “cùng lấy gừng chấm muối mà nhai, đôi lứa vừa
hít hà, vừa dìu dặt ngâm nga: Tay bưng đĩa muối chấm gừng, / Tình nồng nghĩa
mặn xin đừng bỏ nhau” sau khi đã “rót
đầy chung rượu, chàng uống nửa, nàng uống nửa”?
Dân gian dùng vị mặn của
muối, vị cay của gừng đưa vào ca dao, tục ngữ làm tượng trưng cho tình nghĩa
sâu đậm, thắm thiết, khó quên của tình yêu đôi lứa, của tình nghĩa vợ chồng đã
gắn bó cùng nhau trải qua những đắng cay, được mất... của cuộc đời - một tượng
hình rất dân dã, chân thực mà sâu sắc. Việc nhà thơ Phúc Toản dùng vị mặn của
muối, vị cay của gừng vào thơ, để xót xa mối tình khắng khít, sâu đậm bị tan vỡ
đâu có sai?!
Thật là buồn cười khi
ông Nguyên Lạc ngô nghê cho rằng câu "gừng cay, muối mặn" chỉ được
dùng khi trai gái đã thành vợ thành chồng.
III.
Ông Nguyên Lạc viết:
b. "Nỗi buồn cứ
nhói vào trong nỗi mừng..."
Theo chủ quan tôi câu
này có vấn đề ở hai điểm:
- Hai chữ ở cùng một câu
(Nỗi) là điều các nhà thơ nổi tiếng khuyên nên tránh.
- "Nỗi mừng"?
Người yêu vu qui đi lấy chồng mà mừng? Cũng lạ?
Nhà bình luận, bạn đã
nói đây là cuộc hôn nhân "không tình yêu", vậy thì cả 2 đều phải buồn
chứ làm sao mà có chữ "mừng" ở đây? Nếu nói "mừng" thì
không thật lòng, không đúng cảm xúc của hai người yêu nhau.
- Nếu "mừng"
này ở chàng trai thì câu này có nghĩa là chàng vừa buồn vì tiếc và vừa
"mừng" vi "tống khứ" cô gái được phải không? Tình yêu chân
thật?
- Nếu "mừng"
này ở cô gái thì sự "không chân thật" trong tình yêu càng rõ ràng. Cô
gái thoát nợ!
Nhà binh thơ có thể nói
(hay đoán) "nỗi mừng" là ngoài mặt của cô gái, còn trong lòng thì
buồn. Làm sao biết được trong lòng của người khác?
Trong câu thơ, nếu một
vài chữ có thể gây ra sự suy nghĩ tiêu cực của độc giả thì nên tránh đừng
dùng, phải dùng chữ có nghĩa chính xác. Đừng chủ quan theo ý mình, nên dự
phòng những vấn đề rắc rối có thể sảy ra.
Theo tôi (xin nói chỉ là
chủ quan) phải thay chữ nào khác phù hợp với ý tứ bài thơ để giải quyết
các vấn đề nêu trên:
Thí dụ như dùng chữ bâng
khuâng ta giải quyết được điệp từ và chuyện rắc rối lẫn lộn giữa
buồn/mừng nêu trên. Lúc này câu thơ sẽ như thế này:
Bâng khuâng cứ nhói vào
trong nỗi buồn...
Đây chỉ là thí dụ gợi ý,
quyền là ở tác giả bài thơ, ông là người "sáng tạo"
Để tránh việc người khác
(trong đó có thể có nhà bình thơ) cho rằng sự thay thế chữ khiến "lợn lành
thành lợn què", tôi sẽ phân tích chữ "nỗi" và chữ
"niềm" cho rõ ý.
Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:
Ở mục trên (mục b), ông
Nguyên Lạc soạn lại và phát triển thêm từ những comment trao đổi với tôi dưới
bài viết "VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC "THUYỀN NEO BẾN LẠ" CỦA PHÚC
TOẢN" đăng trên trang Văn Nghệ Quảng Trị ngày 20 tháng 01 năm 2019.
Tôi không trả lời lại mà
copy 2 comment của tôi trên trang Văn Nghệ Quảng Trị như sau:
Comment 1:
- Thưa chú Nguyên Lạc!
Đúng là “Hai chữ ở cùng
một câu ̣(NỖI) là điều nên tránh” nhưng ở câu thơ này, chú Phúc Toản đã (chủ ý)
đặt đối trọng “nỗi buồn” - “nỗi mừng” giữa “anh” và “em” (chứ không phải chỉ
riêng tâm trạng chàng trai) để nhấn sâu hệ lụy nỗi đau của cuộc hôn nhân
không tình yêu, như thế theo cháu lại thành hay đấy ạ.
Comment 4:
- Vâng! Thưa chú Nguyên
Lạc!
Cháu cũng trả lời chú
lần này lần cuối vì chú và cháu có cách hiểu khác nhau nên cứ trao đổi sẽ mất
nhiều thời gian, mà cũng sẽ làm phiền người khác.
1. Thì hẳn câu thơ
"Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..."
diễn tả tâm trạng chàng trai nên nhà thơ mới dùng từ NỖI mừng mà không là NIỀM
vui hoặc chữ nào khác. Vì lẽ ra chàng trai cũng như mọi người đến dự hôn lễ của
cô gái để chúc mừng hạnh phúc của cô gái nhưng trong hoàn cảnh trớ trêu cô gái
lại là người yêu (của mình) nay “theo
thuyền neo bến lạ” thì chàng trai sao vui được? Còn cô gái, nhân vật chính
của ngày đại hỉ, người chàng trai nói là “nỗi mừng”, (thân bằng quyến thuộc của
cô gái sẽ nói là ngày vui, niềm vui) thì trong nghịch cảnh ấy đâu có thể vui
khi gặp chàng trai? Và cả những người biết chuyện tình của hai người đó nữa, thấy
cảnh đấy ai chẳng có phút trầm buồn?
Thế nên cháu mới viết:
“Tôi nghĩ, ở câu thơ:
"Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng...",
dù nhà thơ Phúc Toản chỉ nói về nỗi đau đang cứa vào trái tim của riêng
"anh" thì người đọc vẫn cứ liên tưởng, vẫn cứ hình dung đấy là nỗi
đau đã lan tỏa, đã xâm chiếm cả không gian ngày "em" làm lễ Vu Quy.
Nỗi đau ấy không chỉ bào xót trái tim chàng trai mà còn làm rức buốt trái tim
cô gái - người đang cử hành hôn lễ với một người đàn ông xa lạ.
Vâng. Câu thơ: "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..."đã
đích thực chỉ ra là vậy.”
2. Câu thơ "Nỗi buồn cứ nhói vào trong nỗi mừng..."
theo ý cháu không nên thay thế chữ MỪNG bằng “chữ “bâng khuâng” hay chữ nào đó”
vì nếu không khéo sẽ rất dễ “lợn lành thành lợn què” đấy ạ.".
Còn giả dụ nếu theo bày
vẽ của ông Nguyên Lạc thì sao?
Hẳn ai cũng hiểu BÂNG
KHUÂNG là cảm xúc luyến tiếc, nhớ thương xen lẫn nhau, không rõ ràng khiến tâm
trạng gần như ngẩn ngơ. Như thế, nếu thay chữ BÂNG KHUÂNG theo bày vẽ của ông
Nguyên Lạc:
“Bâng khuâng cứ nhói vào
trong nỗi mừng...”
sẽ không diễn tả được
tâm trạng giằng co nửa cười nửa khóc của chàng trai trong ngày đại hỷ của cô
gái, chẳng khác gì việc cố tình tạo hình cho nhân vật: giữa mùa hè mặc quần
đùi, khoác áo bông, chạy lông nhông ngoài đường phố.
IV.
Ông Nguyên Lạc viết:
LỜI KẾT
Lâu lắm rồi, tôi thường
gặp câu nầy: "Dưới ánh sáng..." "Nhờ ơn..." gì gì đó...tác
giả mới viết được bài này... Và những lời "hít hà" khen các bài văn
thơ của của những người ve cổ áo veston trước ngực có logo "quốc huy sao
vàng" (cấp lãnh đạo). Ai mà dám nói thật, ai mà dám chê trong thời này? Vì
sợ, vì muốn lấy lòng để được hưởng chút "ơn mưa móc". (Về vụ
"sợ" hình như nhà văn Tô Hoài đã có lần thừa nhận, nếu tôi nhớ không
lầm)
Nhưng bây giờ là thời
khác, không thể làm giống thế được, phải "lương thiện" với lòng, phải
"chính danh" là trí thức là nhà bình luận . Nhà bình luận nên nhớ lại
“Lời mẹ dặn” của Phùng Quán đã nhắc ở trên.
Một nhà thơ đã viết:
Ta tìm ta bắt, trong
thơ...
Những con sâu chữ, lơ mơ
"ra rìa"
(Hà
Nguyên Du)
Đúng, phải tìm bắt
sâu chữ: Trong vườn hoa nghệ thuật, văn thơ, người bình luận giống như người
làm vườn, phải chăm sóc vung trồng và tìm bắt những con sâu để cho cây hoa
tươi tốt, nở ra những những nụ hoa đầy hương sắc cho đời.
Trên trang nhà Đặng
Xuân Xuyến, nhìn kỷ thấy trên ngực (cổ áo Veston cà - vạt) của nhà thơ Phúc
Toản có logo "quốc huy sao vàng"[1].
Hãy trân trọng gìn
giữ tiếng nước ta. Tiếng Việt mà bị tiêu diệt thì dân tộc Việt sẽ tự nhiên
biến mất y như Học giả Phạm Quỳnh đã từng nhận xét. Hãy bảo về sự trong sáng
của tiếng Việt. Nên cẩn trọng về tính chính xác của nó nếu không sẽ dẫn đến
"văn nạn" "bút máu" mà tôi đã đề cập trong bài viết
"VĂN NẠN VÀ TÍNH CHÍNH XÁC CỦA NGÔN NGỮ(3)
Mời đọc trích đoạn:
[... Chữ viết chắt lọc
từ tiếng nói. Văn và nhất là thơ là tình túy của CHỮ. Nên cẩn trọng với CHỮ
NGHĨA. CHỮ quan trọng lắm, có thể làm chết hoặc làm tiêu tan sự nghiệp và tài
sản con người. Không nhớ vụ án Minh sử triều Thanh đã làm tiêu mạng biết bao
Nho sĩ Minh mà Kim Dung đã viết trong phần nhập của bộ truyện Lộc Đỉnh Ký sao?
Vụ án của Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc (giết ba họ) do sự ganh ghét, đố kỵ của
đám tiểu nhân đắc chí, trong đó có một phần từ văn nạn. Và cuối cùng với hàng
chữ "Kim loại màu vàng" mà "ai đó" ghi khi kiểm kê vàng của
người dân miền Nam trong đợt "cải tạo tư sản" 1976.
VĂN NẠN (cũng được gọi
là ÁN VĂN), nói nôm na là những vụ án liên quan đến chữ nghĩa, văn chương, văn
nghệ... Có khi nạn nhân chết chỉ do một chữ chứ không cần cả bài, cả tập. Chết
mà không biết mình vì sao bị chết...]
Đừng như hai ngài Giáo
sư Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại và Phó giáo sư Phó tiến sĩ Bùi Hiền, những người mắc
bệnh VĨ CUỒNG (mégalomanie, megalomania) muốn làm mai một nó.
Đặng Xuân Xuyến thưa với bạn đọc:
Tôi sống ở Hà Nội, đã bỏ
cơ quan nhà nước (Viện Sử học) để làm dân lao động tự do, đã viết những: Quê
Nghèo, Bạn Quan, Quan Trường, Tôi Nghe, Tôi
Thấy... và không thích tham gia bất kỳ hội -
nhóm - đảng phái nào. Còn nhà thơ Phúc Toản, là cán bộ hưu trí, sống tại Bắc
Ninh, mới kết bạn facebook với tôi chừng năm nay, vô tình đọc và đồng cảm với
"Thuyền Neo Bến Lạ" mà tôi viết đôi dòng cảm nhận. Bài viết
ấy cũng chỉ là chia sẻ vài cảm nhận của người đọc với tác giả thơ, có ghê gớm
gì đâu mà ông Nguyên Lạc phải "thốt lên": "Bài bình thơ "Thuyền Neo Bến Lạ" của nhà thơ kiêm
nhà bình luận Đặng Xuân Xuyến được đăng trên trang nhà anh và rất nhiều trang
Web trong cũng như ngoài nước. Nó là Top Hít và được các fans anh "hít
hà" khen thưởng." rồi dành hẳn mục LỜI KẾT, dễ đến hơn nghìn chữ
trong bài viết vài nghìn chữ để bóng gió, quy chụp tôi là kẻ nịnh nọt, mắc bệnh
cuồng vĩ như ông đã từng chụp mũ ông Châu Thạch, ông Phạm Ngọc Thái trong 2 bài
viết mà nhà thơ La Thụy đã vô tình chuyển qua email tới tôi.
Thật nực cười!
Nếu là người bình thường
sẽ không có lối suy diễn biến thái, bệnh hoạn khi cố tình quy chụp hoặc bóng
gió quy chụp người khác là nịnh nọt, là mắc bệnh cuồng vĩ kiểu "suy bụng
ta ra bụng người" như ông Nguyên Lạc.
Muốn phất cao ngọn cờ “yêu thương thơ văn cùng với niềm trân trọng
sự chính xác và trong sáng của tiếng Việt thân yêu” để đánh trống, giong
cờ hiệu triệu mọi người cùng theo làm một cuộc “Cách Mạng” như ông Nguyên Lạc
rùm beng thì tối thiểu ông Nguyên Lạc phải làm được 2 điều:
- Hiểu mình nói gì, viết
gì.
- Bỏ thói “suy bụng ta
ra bụng người”
Nhưng tôi tin đó là 2
điều quá xa xỉ với ông Nguyên Lạc!
*.
Hà Nội, sáng 16 tháng
02.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC: RÉT BÂN NHỚ MẸ
- NGÀY 8 THÁNG 3
*
RÉT BÂN NHỚ MẸ
.
Rét Bân
vương má con hạt mưa
Kiểu mưa
Bân này dễ ho, mẹ ạ
Chân mẹ ấm
không / rét Đài sương giá?
Tay mẹ
cóng không / rét Lộc buốt tê?
.
Mẹ
ơi!
Từ hồi Mẹ
đi
quanh con
hơ hoác trống.
.
Mưa Bân
chắt lọc
từ li ti
hương xuân rất trong
Tình mẹ ấm
nồng
gom nhặt
từ tháng ngày vất vả
tháng ngày
ngược xuôi tất tả
lần hồi mẹ
áo nâu sờn...
.
Mưa Bân
rất tròn
mỏng dầy
xếp giọt
Trời
thương Nàng Bân, Trời ban rét ngọt
Con xin
Trời cho con nắng tươi
cho con
thấy nụ cười
nhóng
nhánh hạt na đen của mẹ.
.
Rét Bân
rất nhẹ
Đủ lùa
thông thống tháng ba.
Đủ cuốn
tuổi đông con
về Mẹ chốn
bao la
Tìm hơi ấm
Mẹ.
*.
Hà Nội, 08 tháng 03.2019
BÙI CỬU TRƯỜNG
LỜI BÌNH:
Sáng
ngày 8 tháng 3, tôi được đọc một bài thơ tự sự, viết về MẸ của nhà thơ, bác sĩ
Bùi Cửu Trường.
Bài
thơ có tựa đề: RÉT BÂN NHỚ MẸ.
Tôi
ấn tượng với bài thơ ở ngay những câu đầu:
"Rét Bân vương tay
con hạt mưa
Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ
ạ
Mẹ đủ ấm không / khi trời
lạnh giá?
Mẹ đủ ấm không / khi đất
buốt tê?"
Những
câu thơ tự sự giản dị, mộc mạc, trĩu nặng nỗi niềm, từ hạt mưa vương vào tay,
gợi nên nỗi lo dịu dàng thường trực: "Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ ạ",
rồi đột nhiên thay đổi tâm trạng, từ dàn trải tâm sự sang dồn nén những lo
lắng:
"Mẹ đủ ấm không/ khi
trời lạnh giá?
Mẹ đủ ấm không/ khi đất
buốt tê?"
Khiến
người đọc sững lại, rồi trầm lặng khá lâu trước sức ám ảnh của những hình ảnh
xuất hiện trong những thước phim rất ngắn. Đến đây, người đọc mới vừa thốt lên
lời đồng cảm cùng tâm trạng xót thương của người con hiếu đễ với người Mẹ đã
khuất, thì lại vỡ òa cảm xúc bằng những câu tự sự lắng đầy nước mắt. Sự nhớ
thương trong đau xót, cút côi được dồn nén đến tận cùng bởi những câu thơ ngấn
lệ, trầm buồn:
“Mẹ ơi
Từ hồi Mẹ đi
quanh con hơ hoác trống.”
3
chữ “hơ hoác trống” đã diễn tả tất cả sự nhớ thương - mất mát - cút côi
của người con khi mất Mẹ.
Tôi
thích 4 câu thơ:
"Rét Bân vương tay
con hạt mưa
Kiểu mưa Bân này dễ ho mẹ
ạ
Mẹ đủ ấm không / khi trời
lạnh giá?
Mẹ đủ ấm không / khi đất
buốt tê?"
được
viết ban đầu hơn so với 4 câu đã được nhà thơ chỉnh sửa.
Bởi
theo cảm nhận của riêng tôi thì 4 câu chưa chỉnh sửa rất gợi cảm xúc với người đọc. Câu “Rét Bân vương tay
con hạt mưa” gợi tâm trạng chông chênh, chới với của người con giữa trời
mưa rét khi cô đơn, vắng (mất) Mẹ. Sự lặp lại cụm từ 4 chữ: "Mẹ đủ ấm
không" ở 2 câu cuối khổ thơ: “Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá?”
- “Mẹ đủ ấm không / khi đất buốt tê?" nghe chân chất, mộc mạc, như
tự nhiên bật ra trong tâm thức nhà thơ trước cái lạnh giá của tiết trời và
chính sự lặp lại cụm từ 4 chữ ấy đã làm câu thơ thêm day dứt, xót xa. Câu thơ lấy
nước mắt người đọc bởi sự tự nhiên, chân chất ấy. Nhưng với 2 câu thơ đã chỉnh
sửa: “Chân mẹ ấm không / rét Đài sương giá?” - “Tay mẹ cóng không /
rét Lộc buốt tê?” thì sự cẩn thận về kiến thức, sự cầu toàn về ý thức tay
nghề đã lấy đi nét mộc mạc, dung dị, khiến câu thơ trở nên thiếu nhựa. Sự rành
mạch "rét Đài" - "rét Lộc" - “rét Bân” vì sự cầu toàn... ở 2 câu
thơ trên là không cần thiết, bởi theo thiển nghĩ của người viết, sự rành rẽ câu
chữ như thế khiến bạn đọc khó "phiêu" cùng bài thơ để khám phá và cảm
thụ bài thơ, cũng vì thế mà làm bài thơ bớt hay.
Là
kẻ lười đọc thơ nhưng tôi lại thích đọc thơ Bùi Cửu Trường, có lẽ vì cách dùng
từ ngữ của bà khá độc đáo, sáng tạo nhưng vẫn giữ được chất dân dã, chân quê.
Những câu: “Từ ngày mẹ đi/ quanh con
hơ hoắc trống”, "lần hồi mẹ áo nâu sờn .."/ "Nhóng nhánh hạt na
đen của Mẹ."
hay: "Rét Bân rất nhẹ/ đủ lùa thông thống tháng ba/ đủ cuốn tuổi Đông
con" trong
RÉT BÂN NHỚ MẸ, tuy chưa phải là những câu thơ thật hay, những câu thơ tài hoa
nhưng những câu thơ đậm dấu ấn rất riêng của Bùi Cửu Trường như thế thì không
phải dễ làm, không phải cứ muốn là viết được.
*.
Hà Nội, chiều 08 tháng 03.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI LỜI VỀ BÀI CẢM NHẬN
BÀI THƠ “RÉT BÂN NHỚ MẸ”
*
Khi
đọc tôi cảm nhận bài thơ RÉT BÂN NHỚ MẸ của nhà thơ, bác sĩ Bùi Cửu Trường, nhà
thơ Nguyễn Đăng Hành điện cho tôi. Mới nghe: - "Em nghe anh ơi."
thì anh đã xối xả:
-
Anh chắp tay lạy mày! Mày là vĩ nhân. Mày là thiên tài. Xuân Diệu có sống lại
cũng phải đứng từ xa vái mày vì mày giỏi quá, siêu quá. Hoài Thanh còn sống gặp
mày cũng phải tế mày như tế sao vì mày trác tuyệt quá. Mày tuyệt vời. Mày là
đỉnh cao của trí tuệ...
Tôi
cười, ngắt lời anh:
-
Vừa ăn ớt cay quá à? Chửi gì mà ngoa thế?
-
Ớt cái gì. Ngoa cái gì. Bài thơ đấy mà cũng ngồi thổi lên tận mây xanh được. Ối
giời! Câu thơ người ta sửa lại có hồn vía, cựa quậy như thế, âm dương cân đối
hài hòa như thế mà lại chê ỉ chê ôi, chê cứ như đúng rồi. Mày hay chữ nhỉ?
Mày... đúng là thiên tài! Anh lạy thiên tài! Anh vái thiên tài!
Chẳng
để tôi phân trần, anh cụp máy. Rồi chừng mươi phút sau, anh điện lại, tôi chưa
kịp nói: -“Em nghe anh ơi,..” thì anh đã xối xả:
-
Dạo này lại hăng máu đi bình thơ nữa chứ. Thích thể hiện là người tài giỏi đến
thế cơ à? Ở đời phải biết mình là ai? Mình đứng ở chỗ nào? Đừng nên chết vì ngộ
nhận.
Nói
xong, anh lại cụp máy, chẳng thèm để tôi “dăm câu ba điều”.
Tôi
nghĩ, viết cảm nhận thơ (gọi là BÌNH THƠ cho oai), không nhất thiết phải là bài
thơ đó thật hay, thật đặc sắc mà có thể vì tứ thơ mới lạ, vì tài dùng câu chữ
hoặc vì những câu thơ hay, độc đáo của bài thơ... Việc cảm nhận về 1 bài thơ cụ
thể cũng không ai giống ai, người này khen hay, người kia cho là bình thường,
thậm chí ngay một người cũng có thể lúc này cho là bình thường, lúc khác lại
khen hay... vì thơ hay hay không hay phụ thuộc vào tài thơ, tay nghề và “phút
xuất thần” bất chợt của nhà thơ nhưng việc cảm thụ thơ lại phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó có yếu tố tâm cảm, sự rung động của người cảm thụ. Tất nhiên,
một bài thơ dở thì không thể có những câu thơ hay, tứ thơ mới lạ, hoặc tài sử
dụng câu chữ của nhà thơ... làm rung động tâm cảm để người cảm thụ ngồi viết
những dòng cảm nhận.
Ở
bài thơ RÉT BÂN NHỚ MẸ có những câu thơ độc đáo, có tứ thơ mới lạ (ví như thay
mới ở khổ I, tứ mới lạ, thể hiện tay nghề cao nhưng tôi vẫn thích khổ I như nhà
thơ Bùi Cửu Trường viết ban đầu, dù tứ đó cũ nhưng chân thật, dung dị và truyền
cảm), đặc biệt là tài sử dụng câu chữ của nhà thơ, như tôi đã viết khi cảm nhận
về “Rét Bân Nhớ Mẹ”: Những câu: “Từ ngày mẹ đi/ quanh con
hơ hoắc trống”, "lần hồi mẹ áo nâu sờn .."/ "Nhóng nhánh hạt na
đen của Mẹ."
hay: "Rét Bân rất nhẹ/ đủ lùa thông thống tháng ba/ đủ cuốn tuổi Đông
con", tuy chưa phải là những câu thơ tài hoa nhưng những câu thơ đậm
dấu ấn rất riêng của Bùi Cửu Trường như thế không phải cứ muốn là viết được.
Văn sĩ Trần Quốc Phiệt (Ha Thai),
vốn khắt khe và kiệm lời khi bình luận văn chương cũng đã công tâm comment về bài thơ “Rét Bân Nhớ Mẹ”: - “Có
thể nói “Rét Bân Nhớ Mẹ” chưa phải là một bài thơ hay, nhưng có nét riêng nhờ lối dụng từ chơn
chất làm cho lời tự sự truyền cảm, như vậy là tác giả đã thành công.”. Ngạn ngữ có câu: Có bột mới gột nên hồ là
vì lẽ đó.
Lẽ
ra bài cảm nhận về RÉT BÂN NHỚ MẸ tôi nên viết sâu thêm, dài hơi hơn, nhất là tài sử dụng câu chữ: độc
đáo, mới mà dễ hiểu, lại giàu sức truyền cảm của nhà thơ Bùi Cửu Trường nhưng
vì vội tôi đã kết thúc bài sớm quá, dẫn đến bài viết không được như ý!
Khi
nhận được chia sẻ của nhà thơ Bùi Cửu Trường qua tin nhắn facebook:
-
“Hai câu: “Mẹ đủ ấm không / khi trời lạnh giá? - Mẹ đủ ấm không / khi
đất buốt tê?” làm cho cô hình dung rất rõ về lúc THAY ÁO cho mẹ cô và NƠI
mẹ cô yên nghỉ. Giữa cánh đồng ... gió bấc đông, mưa giông hè... và cô không
chịu nổi, khi hình dung ra Huyệt mộ của Mẹ (Bọn cô đã xây một khu lăng nho nhỏ
cho dòng họ) nên quyết định sửa cho lòng đỡ THẢNG THỐT.
Thế đấy. Sửa có thể không
GỢI, nhưng nó xoa dịu được nỗi đau. Nếu vượt qua được nỗi đau, Cô sẽ để như
cháu góp ý.
Cô THẤY CHÁU NÓI
HOÀN TOÀN ĐÚNG, chỉ LÒNG CÔ KHÔNG YÊN thôi.
Cô cứ đắn đo, rồi nghĩ
chi bằng nói thật ra với cháu là hơn.”
Tôi
bớt chút áy náy nhưng những lời phê bình thẳng ruột ngựa có phần chát chúa của
nhà thơ Nguyễn Đăng Hành vẫn ám ảnh tôi mất mấy ngày.
*.
Hà
Nội, 12 tháng 04.2019
ĐẶNG
XUÂN XUYẾN
VỀ TRUYỆN NGẮN
CỦA LÊ MAI
*
Biết nhà văn Lê Mai qua
nhà thơ Nguyễn Khôi và blog Trang Đặng Xuân Xuyến cũng đã giới thiệu một số bài
thơ và 7 truyện ngắn của ông nên khi nhà thơ Nguyễn Khôi có nhã ý muốn trang
nhà đăng lại bài Nguyễn Khôi cảm nhận về thơ Lê Mai - người bạn, người em tri
kỷ của ông - tôi đã đắn đo khá nhiều, bởi blog Trang Đặng Xuân Xuyến không đăng
lại những bài đã đưa lên trang nhà, đang hiện diện trên trang nhà nhưng trước
tấm chân tình dành cho người bạn, người em của nhà thơ lão niên làm tôi cảm
động. Dù lưng rất đau, tôi cũng cố ngồi đọc để viết đôi lời giới thiệu về một
số truyện ngắn của nhà văn Lê Mai đã đăng trên blog Trang Đặng Xuân Xuyến.
*
Quyền Được Rên là một truyện ngắn hay,
tạo được nhiều chú ý trong dư luận. Lúc sinh thời, Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc
Kiên đã không tiếc lời ca ngợi: - “Có thể
nói mà không sợ ngoa ngôn rằng “Quyền được rên” của nhà văn Lê Mai có thể xếp
trên “Sống mòn” của Nam Cao; vì “Sống mòn” viết về cuộc đời của ông
giáo Thứ rất khổ cực trước cách mạng tháng Tám. Ở đây nhân vật chính là Hoàng
không những vô cùng cực khổ mà còn phải chịu trăm đắng ngàn cay! “Quyền được
rên” còn xếp trên “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, có dung lượng mấy trăm
trang, cuối cùng chỉ đi tìm câu trả lời vì sao mình bị tù. “Quyền được rên” là
truyện ngắn nén rất chặt trong mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn
của một tiểu thuyết. Nó được viết ra không phải để gây thù chuốc oán hoặc khắc
sâu thêm mối hận thù. Mà nó rất bao dung để nhớ lại một thời ấu trĩ!”
(Quyền Được Rên - Một Kiệt tác của nhà văn Lê Mai ; Nguyễn Ngọc Kiên). Biết
rằng mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhất là trong trường hợp đem so sánh Quyền
Được Rên với Sống Mòn của Nam Cao, Chuyện
Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn thì thật khiên cưỡng. Tôi nghĩ, vì yêu Lê
Mai quá mà Tiến sĩ Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên đã “xếp” Quyền Được Rên “có thể”
trên Sống Mòn nhưng anh “còn xếp trên
“Chuyện Kể Năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn” thì thật khó hiểu. Anh lý giải: “Quyền được rên” là truyện ngắn nén rất chặt
trong mấy chục trang, nhưng nó có tầm tư tưởng rất lớn của một tiểu thuyết.”,
theo tôi là không thuyết phục vì truyện ngắn là truyện ngắn, tiểu thuyết là
tiểu thuyết, không nên vì quý mến nhau mà ưu ái khen như thế, hơn nữa, “Chuyện
Kể Năm 2000” thực ra là hồi ký của Bùi Ngọc Tấn được viết dưới dạng tiểu thuyết
nên các yếu tố văn chương như: thủ pháp, cốt truyện... không được tác giả chú
trọng như các yếu tố: tư liệu, giãi bày..., đem 2 thể loại văn học này đặt cạnh
nhau để so sánh về giá trị văn chương hay về chủ đích sáng tác... đều không
thỏa đáng. Nhưng công bằng nhận xét thì Quyền Được Rên là một truyện ngắn
viết bạo tay và hay, có sức khái quát sâu và rộng về QUYỀN CON NGƯỜI bị xúc
phạm trắng trợn ở cái chế độ luôn ra rả đề cao QUYỀN CON NGƯỜI, làm lu mờ nhiều
truyện ngắn được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải.
Mặt Trời Xanh là câu chuyện của tình
người còn sót lại, lắng lại ở một ông quan to lúc cuối đời muốn chuộc lại những
lỗi lầm của kiếp làm quan bằng vài việc rất đời, rất người. Cốt truyện chỉ đơn
giản là vậy, không đao to búa lớn, không lên gân triết lý về nhân sinh quan ở
đời. Và người kể chuyện, cũng không cố dụng công sắp xếp những tình tiết của
câu chuyện, không chú trọng tô vẽ diễn biến tâm trạng của nhân vật, cứ chậm rãi
dẫn bạn đọc vào truyện bằng lối kể chuyện thủng thẳng, chân chất để tái hiện
câu chuyện một cách tự nhiên, chân thực. Vì thế, người đọc thấy thương và tiếc
cho “cậu học trò” đã ngộ được đạo làm người nhưng lại chậm và “sai thời điểm”,
thấy tin và trân quý những lời bộc bạch thật tận đáy lòng của vị “khách quan” “người gày gày, da mai mái nhưng thần thái
vẫn rực lên những nét quyền uy, lịch lãm” với thầy giáo cũ.
Nhập truyện tự nhiên,
diễn biến truyện cũng tự nhiên, hợp lý. Chủ đích của nhà văn Lê Mai qua Mặt
Trời Xanh đã thành công: TÌNH NGƯỜI LÀ VĨNH CỬU. Chỉ tiếc, ở đoạn kết
truyện: “Đặt lá thư xuống bàn ông Nhân
thờ thẫn ngứơc cặp mắt hoen rỉ nhìn vào khoảng không mờ ẩm trước mặt. Không
gian bổng chuyển màu ngọc bích xanh suốt mang mang... và phía xa, xa thẳm của
không gian ngọc bích một đốm sáng nhập nhoà nhấp nháy như vẩy như gọi ông...
mông lung, mờ ảo. Ông vật người ra nghế cố ghìm tiếng thở dài. Tiếng thở buồn,
tê tái như hơi thở của rừng già heo hút.”, nhất là ở những dòng cuối cùng
để khép lại truyện, khi nhà văn đặc tả hình ảnh thầy giáo Nhân: “Ông vật người ra nghế cố ghìm tiếng thở dài.
Tiếng thở buồn, tê tái như hơi thở của rừng già heo hút.” đã hướng câu
chuyện chuyển mạch, đẩy truyện sâu vào BI, khiến niềm tin vào TÌNH NGƯỜI tưởng
vẫn còn sức sống âm ỉ trong đời sống xã hội thông qua sự thức ngộ của “cậu học
trò làm quan” lúc cuối đời sẽ lan tỏa bỗng thành mong manh. Truyện kết thúc với
gam màu tối, u ám. Vô tình, dù không có chủ ý nhưng hình ảnh thầy giáo Nhân ở
kết truyện như thế đã ít nhiều giảm chủ đích tích cực của nhà văn.
Tìm Cha Trong Gương là truyện ngắn đề cập
đến những di chứng sau cuộc chiến tranh giữa 2 miền Nam - Bắc. Đây là mảng đề
tài những nhà văn cùng thế hệ với Lê Mai hay khai thác vì có nhiều “mảng miếng”
để các nhà văn thi thố “dụng võ”. Viết về đề tài này, Lê Mai lên án chiến tranh
ở góc nhìn khác với số đông, được phản ánh qua câu chuyện về những thân phận
(ruột thịt) bị ly tán bởi hệ lụy của chiến tranh và sự ươn hèn, tệ bạc của thói
đời, lòng người. Truyện phát triển bằng cách sắp xếp những cuộc đối thoại giữa
các nhân vật trong hành trình tìm lại người thân, và trong hành trình đó, nhà
văn chỉ “khách quan” gạch đầu dòng thật trung thực những cuộc đối thoại, rồi
thi thoảng “chêm” vào đôi ba lời dẫn chuyện. Thật tiếc là tôi chưa được đọc 3
tiểu thuyết: Tẩu Hỏa Nhập Ma, Bạn Cùng Lớp và Thời Gian Xuẩn Ngốc của
Lê Mai nên khi đọc truyện ngắn này đã có những băn khoăn không biết có phải đấy
là chủ ý của nhà văn không chú trọng vào miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân
vật? hay miêu tả nội tâm nhân vật không phải là điểm mạnh của nhà văn Lê Mai
nên diễn biến Tìm Cha Trong Gương được nhà văn sắp xếp là những cuộc đối
thoại giữa các nhân vật bằng những gạch đầu dòng liên tiếp?! Nhưng với bố cục
truyện chặt chẽ, tiết tấu truyện nhanh và mạch lạc như thế, khiến truyện ngắn Tìm
Cha Trong Gương cuốn hút được người đọc thì tôi nghĩ đấy có thể là chủ
ý của nhà văn Lê Mai chứ không phải do sự vụng về của tác giả.
Hoa Trạng Nguyên là truyện ngắn được
viết theo thủ pháp phúng dụ, mượn chuyện bà Lan Phương thủ thỉ trước 2 ngôi mộ:
với Thiện, là bạn, cũng là người bà yêu nhưng dứt khoát không chọn làm chồng;
với Thiên, là bạn, cũng là chồng, tuy không yêu nhưng bà nhất tâm chọn làm
chồng, về những chuyện bà đã cùng họ (Thiên và Thiện) trải qua, khi tuổi đã xế
chiều, lúc lắng lòng đã buông bỏ tất cả những ham hố sân si mới tĩnh tâm ngộ ra
được, để ám chỉ cái bản ngã của con người thật mong manh trước những cám dỗ của
vật chất, trước những toan tính ma mãnh mà khốc liệt đến trần trụi của kiếp
người. Lê Mai đã thành công với truyện ngắn Hoa Trạng Nguyên khi phản
ánh cuộc đấu tranh giữa lý trí và dục vọng, giữa tốt với xấu, giữa cao cả với
thấp hèn....
Những hình ảnh ở đoạn
kết truyện được nhà văn khắc họa thật đẹp, giàu tính nhân văn, đượm triết
thuyết của đạo làm người trong cõi vi vô: Con người ta tất thảy đều sẽ trở về
với cát bụi. Mọi tranh quyền đoạt lợi dù có được thì rồi cũng thành hư vô. Chỉ
có sự vô tư, trong sáng của đạo làm người mới trường tồn, bất biến trước mọi
thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian:
“Bà Lan Phương từ từ đứng dậy, bẻ một nhành cây trạng nguyên bên mộ
chồng cắm sang mộ bạn. Rồi cắm trước mộ bạn một tấm bia nền đen trên khắc hai
câu thơ không đầu, không cưối, không tác giả lấp lánh ánh vàng:
...Vi anh khát một bát
nước trong
Nên phải uống cạn dòng
sông đục...
Xong xuôi bà Lan Phương
lững thững ra về. Hình như lòng bà thanh thản hơn và thiên nhiên làng quê hình
như cũng thế.”.
Cún Khóc, là truyện ngắn hài
hước, ngộ nghĩnh về chuyện “có một nhà nọ” nuôi mèo để bắt chuột nhưng mèo lại
ma mãnh thông đồng với lũ chuột đã thành tinh để lòe chủ nhà, bỡn cợt chủ nhà
khiến chủ nhà phải nuôi chó thay mèo bắt chuột. Và rồi, chó trung thành là thế,
mẫn cán là thế cũng bị lũ chuột đã thành tinh qua mặt, diễu cợt, chấp nhận bất
lực mà gầm gừ “đau đớn” ngước nhìn “trên
xà nhà, nóc nhà có tới bốn năm con chuột đang khả ố trêu ngươi”. Chuyện hài
nhưng hay mà đau ở chỗ: Mèo được tạo hóa ban cho đầy đủ sức mạnh của thiên chức
dùng để bắt chuột, diệt chuột thì lại quay sang “bắt tay” “câu kết” với lũ
chuột đã thành tinh cùng diễn trò, bỡn cợt chủ nhà. Chó trung thành, mẫn cán,
căm ghét lũ chuột, quyết tiêu diệt lũ chuột tới cùng nhưng vì sức mạnh của
thiên chức bắt chuột, diệt chuột không có nên đành nhìn lũ chuột ngang ngược
hoành hành mà ngậm ngùi nằm “khóc” vì bất lực.
Đọc Cún Khóc khiến người ta
liên tưởng tới vấn nạn tham nhũng và thực trạng diệt trừ tham nhũng đang diễn
ra trong xã hội Việt Nam nó hài hước mà xót xa, đau đớn làm sao. Ở truyện ngắn
này, với lối viết nhẹ nhàng, hài hước, nhiều ẩn dụ... nhà văn Lê Mai đã mang
đến cho bạn đọc nụ cười chua chát đi cùng những giọt nước mắt xót xa về chuyện
của đời nhưng không phải là chuyện chỉ của riêng nhà “người ta”.
*
Nhìn chung, 7 truyện
ngắn của Lê Mai trên blog Trang Đặng Xuân Xuyến đều được viết với văn phong
giản dị, câu chữ trong sáng. Tình tiết của truyện được sắp xếp nhẹ nhàng, hợp
lý, các xung đột cũng rất ít khi được đẩy đến gay gắt, một mất một còn để
truyện có điểm bùng nổ như Quyền Được Rên. Tuy vậy, 7 truyện
ngắn của nhà văn Lê Mai đều rất đáng để bạn đọc bỏ công sức tìm kiếm.
Định cố viết giới thiệu
đủ 7 truyện ngắn của Lê Mai đã đưa lên blog Trang Đặng Xuân Xuyến nhưng vì lưng
tôi đau quá, cũng không thể để bài viết này dở dang lâu thêm nên 2 truyện ngắn:
Hình
Như Trong Sữa Có Máu và Cho Nó Có Đạo Đức xin được giới
thiệu với Quý bạn đọc vào dịp khác.
*.
Hà Nội, ngày 06 tháng
06.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM ĐỌC GÃ KHỜ TRONG
“MỘNG MỊ” CỦA NHỤY GIALAI
*
Khi đưa bài thơ Mộng
Mị của nhà thơ Nhụy GiaLai lên blog Trang Đặng Xuân Xuyến, mấy câu thơ
đầu đã gây tò mò với tôi:
"Đôi khi tôi mơ
thấy em
Cùng đi với một gã khờ
Em tươi xinh hồng má
thắm
Gã khờ khệ nệ bầu
thơ."
Tôi thích thú với cách
mượn thơ kể “chuyện của gã khờ” nên đọc tiếp:
"Dừng bên đồi mơ
lối mộng
Gã chọn lấy một bông
hồng
Gói gém trang thơ màu
tím
Trao nàng nhẹ gót sang
sông."
Vẫn là những ngây ngô
của chàng trai với người đẹp được khoác thêm 2 chữ lãng mạn, không mới. Định
không đọc nữa nhưng khổ thơ thứ 3, tuy bị khớp câu đầu nhưng 3 câu tiếp theo đã
níu tôi lại:
"Bến đò chiều, nàng
sang sông
Sóng xô, xô cả đôi bờ
Bóng người mờ xa nhân
thế
Gã còn đứng lặng ngẩn
ngơ!"
Khổ thơ thật buồn với
những câu chữ nhiều ẩn dụ, giàu hình tượng và gợi nhiều cảm xúc; như những nét
vẽ sắc nét, vừa đủ độ để tạo nên một bức tranh chia ly giữa đôi bờ sông nước,
với lãng đãng cảm xúc trầm buồn nhưng không u uẩn bi lụy. Chỉ tiếc, cách ngắt
nhịp 3/3 ở câu: "Bến đò chiều, nàng
sang sông" đã biến câu thơ còn yếu chất thơ thành câu nói khô khốc,
lạc vần lạc điệu với 3 câu thơ nhiều ẩn dụ, đang đan xen hình ảnh, hòa quyện
cảm xúc vào nhau để tạo nên một bức tranh đẹp: Sóng xô, xô cả đôi bờ / Bóng người
mờ xa nhân thế / gã còn đứng lặng ngẩn ngơ!
Một bức tranh buồn ảm
đạm, với những ám ảnh mơ hồ bởi một tình yêu cũng mơ hồ.
"Gã cùng thơ mãi lơ
ngơ
Xuân xanh chợt hết bao
ngày!
Chút duyên thầm ban sơ
ấy
Xót xa đã chớm hao
gầy..."
Gã đã khờ, lại làm thơ,
nhìn đời như nhìn qua lớp khói sương bảng lảng nên hình ảnh, sự việc được phản
chiếu lại cũng hư hư ảo ảo, đến quá nửa đời người rồi mà vẫn "mãi lơ ngơ", chưa hiểu hết căn nguyên duyên cớ nào "Gã và nàng yêu nhau lắm/ Yêu người, yêu cả hồn thơ" mà nàng nỡ
"nhẹ gót sang sông", bỏ lại
gã "lặng ngẩn ngơ" đến tận
khi đã bước qua phía nửa bên kia của cuộc đời. Từ "chợt" trong câu "Xuân
xanh chợt hết bao ngày" đã diễn tả đầy đủ, tinh tế nỗi xót xa về cái
giá đã phải trả bởi sự ngu ngơ với đời, với tình yêu đến tội nghiệp của "gã", khéo léo đẩy câu thơ chạm vào
trái tim người đọc, khiến người đọc cũng chơi vơi, thảng thốt...
"Nàng ra đi tìm
hạnh phúc
Gã mòn lối bến bờ xa.
Nàng có quên, hay còn
nhớ
Tình xưa rồi cũng phôi
pha!"
Chữ "mòn" dùng ở khổ thơ này thật hay,
đã lột tả được những tiếc nuối, cô đơn, những đằng đẵng kiếm tìm của “gã khờ”
khi “nàng” buông bỏ gã để “đi tìm hạnh phúc”. Nàng yêu gã rất
nhiều, hao phí tuổi thanh xuân với gã cũng đã thật nhiều nhưng gã cứ luôn mơ hồ
trước tình yêu của nàng để vô tâm mơ hồ chạy theo "thú vui chữ
nghĩa". Rong ruổi khắp đó đây với bầu thơ túi rượu cho thỏa chí tang bồng
thơ phú, gã tìm kiếm hình bóng “nàng”
đến "mòn lối bến bờ xa",...
nhưng gã tìm “nàng” cho tình yêu đời
thực của gã hay tìm “nàng” cho những
tứ thơ? Gã không biết. Gã cứ mơ hồ ranh giới giữa hư với thực, giữa đời với thơ
để những “lối bến bờ” tìm kiếm “nàng” ngày một thêm “xa”, thêm “mòn” dưới gót chân của gã.
Mạch thơ đều đều, dàn
trải với tiết tấu 2/2/2 bỗng khựng lại ở câu thứ ba, rồi chuyển sang nhịp 3/3
bằng câu tự vấn của người kể chuyện: "Nàng
có quên, hay còn nhớ" như lời độc thoại của gã khờ khiến tâm trạng
người đọc chùng xuống, để cùng hắt ra tiếng thở dài buồn man mác: "Tình xưa rồi cũng phôi pha.".
Khi đã hiểu ra vấn đề
thì "gã khờ " nhà thơ xuôi
tay buông bỏ, chẳng nhiều tiếc nuối với bầu thơ chữ nghĩa:
"Bầu thơ - thôi,
trút xuống sông
Chữ nghĩa lêu bêu xuôi
dòng
Ai kia vô tình nhặt được
Khen chê, rồi cũng hư
không…"
Nghe mà chua chát, hệt
thói đùa của nhân thế.
Hai chữ "lêu bêu" như vết cắt, cứa thật sâu
vào nỗi đau cười ra nước mắt của những người thơ, nghiệp thơ: chữ nghĩa chẳng
giúp ích gì được cho đời, chỉ là những cuộc chơi vô bổ, của những phận người
"lêu bêu" thất bại và luôn
là của những tâm hồn trẻ con trú đóng trong thân xác người lớn, rồi tự khoác
vào mình chiếc áo văn chương chữ nghĩa cho có vẻ ta đây cũng "gì lắm"
với đời.
Tôi thích hai chữ "lêu bêu" này vì nó diễn tả được nhiều
điều.
---------------
MỘNG MỊ
Đôi khi tôi mơ thấy em
Cùng đi với một gã khờ
Em tươi xinh hồng má
thắm
Gã khờ khệ nệ bầu thơ.
Dừng bên đồi mơ lối mộng
Gã chọn lấy một bông
hồng
Gói gém trang thơ màu
tím
Trao nàng nhẹ gót sang
sông.
Bến đò chiều, nàng sang
sông
Sóng xô, xô cả đôi bờ
Bóng người mờ xa nhân
thế
Gã còn đứng lặng ngẩn
ngơ!
Gã và nàng yêu nhau lắm
Yêu người, yêu cả hồn
thơ
Nhưng tình không như
mộng ảo
Và đời không như là mơ!
Gã cùng thơ mãi lơ ngơ
Xuân xanh chợt hết bao
ngày!
Chút duyên thầm ban sơ
ấy
Xót xa đã chớm hao
gầy...
Nàng ra đi tìm hạnh phúc
Gã mòn lối bến bờ xa.
Nàng có quên, hay còn
nhớ
Tình xưa rồi cũng phôi
pha!
Bầu thơ - thôi, trút
xuống sông
Chữ nghĩa lêu bêu xuôi
dòng
Ai kia vô tình nhặt được
Khen chê, rồi cũng hư
không…
*
NHỤY GIALAI
*
Hà Nội, chiều 03 tháng
08.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ TẬP THƠ
“NHÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ”
*
Chiều 30 tháng 09 năm
2019, nhận được tập thơ “Nhà Không Có
Đàn Bà” của nhà thơ, họa sĩ Phan Võ Hoàng Nam gửi tặng, tôi háo hức ngồi
đọc. Sách dày 96 trang, khổ 13x21cm, gồm 46 bài thơ, chủ yếu được viết ở thể
thơ tự do, là những hồi ức, những cảm xúc về quê hương, cha mẹ, bạn bè, người
xưa cũ...
Quê hương, trong ký ức
tuổi thơ của nhà thơ, nhạc sĩ Phan Võ Hoàng Nam thật hiền hòa, thơ mộng, với
những hình ảnh bình dị, trong trẻo, đẹp đến nao lòng:
"Ừ, đã xa.
Thuở ôm cây chuối lội
sông.
Ba bốn đứa tranh nhau
trái cà na thơm lựng.
Xuồng nhỏ tròng trành,
cha quăng mẻ lưới.
Chiều xóm quê!
Canh chua rau nhút thơm
lừng.
Mùa nước về quê,
Thuyền xuôi ngược trên
đồng.
Mẹ đón cá ra sông ủ thêm
lu nước mắm.
Em đến trường xắn quần
lội qua cầu khỉ.
Con nước rong,
Trăng giỡn giữa
đồng."
(Xa rồi mùa cũ)
Chỉ với 12 câu thơ trong
2 khổ thơ, nhà thơ Phan Võ Hoàng Nam đã tái hiện sinh động nhiều hình ảnh quê
hương, nhiều kỷ niệm xưa với bạn bè, với cha mẹ, với người yêu...
Cách viết không bó buộc
câu chữ, không ràng buộc bởi bất kỳ niêm luật nào, cứ thoải mái phóng bút theo
cảm xúc, cũng chẳng chủ ý gieo vần trong Xa Rồi Mùa Cũ đã tạo nhiều ấn tượng
với người đọc. Có lẽ vì tình yêu quê hương trong Phan Võ Hoàng Nam sâu lắng và
diết da lắm nên đã tự bật ra những thi tứ, thi ảnh và ngôn từ đậm chất sông
nước miền Tây để Xa Rồi Mùa Cũ dễ dàng thẩm thấu vào cảm xúc của người đọc. Cách
viết tự nhiên, phóng khoáng như thế, Phan Võ Hoàng Nam thành công không chỉ ở
một vài bài.
Ngay cả khi viết về quê
hương với nỗi lo cơm áo gạo tiền thì những mảnh đời được anh khắc họa cũng
phóng khoáng, tự nhiên, cũng ấm áp tình, tươi rói niềm tin như bản tính vốn
chân thành, mộc mạc của những người con sông nước miền Tây. Nếu không nặng lòng
với quê hương, không thao thiết gửi trọn niềm tin vào ngày mai tươi sáng thì
Phan Võ Hoàng Nam không thể viết được những câu thơ ấm áp, căng tràn sức sống
thế này:
"Gã trai lực điền
gật gà giấc ngủ.
Hồn phiêu diêu. Chốn cũ,
vườn xưa.
Bàn tay ấm ngày bỏ quê
lên phố.
Con đò trôi.
Cô thôn nữ dịu
dàng."
(Chuyến xe chiều cuối
năm)
Những hình ảnh đẹp như
thế xuất hiện khá nhiều trong thơ Phan Võ Hoàng Nam. Tuy ở một vài bài thơ, gặp
ở vài câu thơ viết về gánh nặng mưu sinh của những phận đời bươn trải như một
quy trình “nối dài những nốt trầm ngọt
đắng”: “Phố rồi lại phố” / “Mùa lại những mùa dong ruổi”. Những mảnh đời đáng
thương như thế, xuất hiện không nhiều trong “Nhà Không Có Đàn Bà”:
Phố rồi lại phố.
Mùa lại những mùa dong
ruổi.
Tiếng rao đêm nối dài
những nốt trầm ngọt đắng.
Rao bán bình yên
Mua thân phận làm
người.
(Tiếng rao đêm)
Đọc những bài thơ: Tháng
Sáu, Xa Rồi Mùa Cũ, Sao Không Về Mỹ Đức, Khói
Chiều Đồng Nước, Nắng Đồng Bằng... tôi chạnh lòng nghĩ
về quê tôi. Cũng là làng quê Việt Nam, cũng là những người dân một nắng hai
sương, chân chất hiền lành, sao An Giang quê anh giữ được nét mộc mạc, hồn
nhiên, với những trong trẻo niềm tin vào cuộc sống yên bình, hạnh phúc, còn quê
tôi thì sự đổi thay đang từng ngày tàn phá chất quê, hồn quê, để những người
con xa xứ chúng tôi phải nghẹn ngào nuốt lệ.
Hay những câu thơ viết
về Mẹ, dù là những ngậm ngùi "Mẹ một
đời qua bao mùa lũ" "bủa
lưới đồng sâu" "leo lét đèn
dầu" để tần tảo lo toan cho cuộc sống gia đình thì tiếng lòng của nhà
thơ Phan Võ Hoàng Nam vẫn ngân lên âm hưởng của những câu lý sâu lắng, những
điệu hò ngọt ngào sóng nước miền Tây, không hề vương chút bi lụy, yếu
đuối. Hồn Mẹ hồn Quê cứ đan quyện vào nhau, cứ trong trẻo ngân lên trong tâm
tưởng của người con hiếu thảo:
"Mẹ một đời qua bao
mùa lũ.
Thời con gái theo chồng
bủa lưới đồng sâu.
Leo lét đèn dầu.
Xuồng câu dập dềnh sóng
nước
Đói no, buồn vui
Con nước lớn ròng."
(Khói chiều đồng nước)
Tôi khựng lại khi gặp
những câu thơ hay, bàng bạc buồn nhưng mà đẹp anh lặng viết về Mẹ:
"Cây ô môi sau vườn
còn hoa đỏ.
Lũ sâu ngủ đông mơ cánh
bướm rộn ràng.
Chiều.
Mẹ ra sông ngẩn ngơ đò
dọc
Biền biệt người từ độ
thu xưa"
(Năng đồng bằng)
Viết về Mẹ thì hầu như
nhà thơ nào cũng có vài bài và đó thường là những bài nổi trội hơn cả của các
nhà thơ. Có lẽ vì tình Mẹ bao la, sự hy sinh vô bờ của Mẹ với gia đình, với quê
hương, đất nước nên thơ viết về Mẹ thường đằm sâu, thao thiết:
"Tháng chạp.
Mẹ chọn từng hạt nếp
Góp tình quê đợi phút
sum vầy
Phía dòng sông cơn bấc
còn se lạnh
Mẹ đã nghe ấm lửa đêm
xuân."
(Xôn xao tháng Chạp)
Hay:
"Bến cũ còn đây,
Mẹ giờ xa khuất nẻo.
Cánh buồm trôi về chốn
hư vô.
Ổ bánh nóng giòn, cánh
hoa sao trong gió.
Trẻ thơ ơi lạc đâu mất
lời ru."
(Tháng Bảy và Mẹ)
Đọc những câu thơ như
thế hỏi ai không chùng lòng, không cắn môi để ngăn dòng lệ vì quắt quay nhớ Mẹ.
Tôi cũng thế, khi đọc những lời thơ anh viết dâng Mẹ, tôi nhớ Mẹ tôi nhiều lắm.
Tôi nhớ dáng xiêu xiêu với đôi quang gánh trên vai Mẹ tất tả về nhà. Tôi nhớ
bữa cơm độn nhiều khoai sắn, Mẹ luôn giục chị em tôi ăn nhiều cho no bụng, rồi
cuối bữa Mẹ chậm rãi vét miếng cháy, miếng khoai còn thừa, và nói: - "Mẹ ăn cho đỡ phí.". Vì thế, khi đọc
những dòng thơ anh viết về Mẹ, tôi mấy lần phải buông sách đứng dậy, đi đi lại
lại để ngăn dòng lệ chực trào.
Viết về sự cách biệt âm
dương với Mẹ thì "Lá trầu vàng" / "trái
cau xanh héo úa", được nhiều nhà thơ sử dụng, không mới, nhưng những
hình ảnh bình dị, đời thường như thế, khi được Phan Võ Hoàng Nam đặt cạnh những
hình ảnh: "Con ngẩn ngơ" /
"Bờ lau trắng chiều xuân"
của rất riêng anh thì lại có sức truyền cảm mới mẻ, làm lay động lòng người về
sự nhớ thương Mẹ mỗi khi Tết đến Xuân về:
Lá trầu vàng.
Trái cau xanh héo úa.
Lễ tổ tiên cánh phượng
bay xa.
Dòng sông trôi, con đò
tách bến.
Con ngẩn ngơ .
Bờ lau trắng chiều xuân.
(Góc quê Xuân và Mẹ)
Bên cạnh những bài thơ
viết về quê hương, về Mẹ, là những bài tình thơ đôi lứa chiếm dung lượng khá
nhiều trong “Nhà Không Có Đàn Bà”. Và tôi đã từng quan niệm: - “Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”,
phải có những cắn, cấu, cong người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng,
mới khoái, mới đã, mới đích thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í
a í a thì quá chán...”. Với tôi, yêu là phải “máu lửa”, phải có những “đè”,
“cắn”, “cấu”, “quấn”... nên không thích đọc những bài thơ dán nhãn thơ tình mà
toàn những ỉ ôi mây trôi cá lượn, ne né từ xa để tránh diễn tả những hưng phấn
(ham muốn) thể xác mà cuộc tình đó, đoạn tình đó nên có, phải có,... Thế nhưng
khi đọc Phan Võ Hoàng Nam viết về tình yêu đôi lứa, mà lạ là những bài thơ đó
chỉ viết những nhớ nhung anh dành cho (không ít) người yêu cũ, dù thiếu vắng
những “cắn”, “cấu”, “cưỡng”, “ghì”... tôi lại chăm chú ngồi đọc. Có lẽ bởi tình
yêu đó sâu lắng, thuần khiết, được chiết xuất từ trái tim cũng chỉ thuần khiết
yêu?!
Tôi muốn viết thêm vài
cảm nhận về thơ tình sâu lắng, thuần khiết của Phan Võ Hoàng Nam nhưng vì lưng
đau quá, nên mảng thơ tình của anh xin hẹn sẽ đề cập vào một dịp khác.
*.
Hà Nội, 1giờ30 ngày
01.10.2019
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “THÁNG TƯ MÀU NHỚ”
CỦA PHẠM ĐỨC MẠNH
*
Sáng nay, 30 tháng
04.2020, đọc bài thơ TÔI của Phạm Đức Mạnh, nhà phê bình Nguyễn Xuân Dương đã
chia sẻ trên dòng thời gian của ông, tôi còm: “Cái giá của "chiến thắng" sao mà đắt thế? đau thế?”. Tối
nay, đọc nhà thơ Phạm Đức Mạnh trả lời: “Còn
hơn thế Đặng Xuân Xuyến ạ. Có người may mắn vượt qua, đổi đời. Có
người không may mãi chìm ngập trong nỗi đau, cơ cực không thoát ra được.”.
Tôi tự hỏi: - Chả có lẽ cái giá của chiến thắng là nhục? Là tội ác? Thế thì phũ
quá, mà nói thế cũng chả hẳn đúng, chả nên. Tôi không trả lời ông vì tin ông
đang đau lắm, đang hận cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” nhiều lắm. Nói đúng hơn,
ông đang hận xã hội này với đầy rẫy những bất công, ngang trái, những mảnh đời
sống không bằng chết đang hiển hiển trước mắt, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ
trong cái xã hội đang dần mất đi những luân thường đạo lý, đang bị “tiền” -
“quyền” và “côn đồ” khuynh đảo.
Chiều, đọc bài “Tháng
Tư màu nhớ” của ông, tôi đã còm: “Những
câu thơ như cứa vào tim người đọc!”. Và rất nhanh ông trả lời: “Để ta luôn nhắc mình đừng quên quá khứ, đừng
bao giờ mất cảnh giác, thỏa hiệp,... Đặng Xuân Xuyến”. Rất tác phong người
lính: nhanh và thẳng. Tôi cũng qua đời lính, cũng đã từng cầm súng giữ biên
cương, đối diện với giặc Tàu (dù chỉ vài tháng) nên thích sự thẳng thắn, dứt
khoát, mau lẹ trong hành xử (trả lời bạn facebook bình luận) của ông.
Đến giờ, tôi vẫn bị ám
ảnh những hình ảnh người lính sau cuộc chiến bị chế độ phụ bạc, bỏ rơi như ông
đã khắc họa trong “Tháng Tư màu nhớ”: Phũ, mà đau, nhưng oái oăm lại đúng, chả ai
phản bác được vì đó là những lát cắt của cuộc sống đang diễn ra và chưa biết
đến lúc nào sẽ kết thúc:
Tháng Tư
những người lính kiệt
sức vì đạn bom
thoi thóp sống
lết tìm nhau
nhặt mảnh vụn xuân thì
đang trôi mất
hàn rỉ sét chiến tranh
bó vết thương lòng kiếm
tìm đồng đội
câu: “bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội”
đau và đắt quá. Tôi ngẩn người với suy nghĩ có phần ngờ nghệch: Sao người ta cứ
rầm rộ tổ chức những lễ kỷ niệm “ngày chiến thắng”, “ngày giải phóng” làm gì
nhỉ? Giá người ta hiểu được nỗi đau bị bỏ rơi, bị phụ bạc của những người lính
sau cuộc chiến: “bó vết thương lòng kiếm
tìm đồng đội”, để giảm bớt những ngợi ca chiến thắng, những chúc tụng làm
tứa máu hàng triệu con tim người Việt không chỉ một thời ở phía bên kia chiến
tuyến thì hay biết bao.
Vâng. Những người lính “thoi thóp sống / lết tìm nhau” không chỉ
để “nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất
/ hàn rỉ sét chiến tranh” mà còn “bó
vết thương lòng kiếm tìm đồng đội” để an ủi phần hồn của những người đã nằm
xuống. Tuy không hẳn tất cả đều vậy nhưng những hình ảnh
như thế lại khá phổ biển thì đau và đáng hận lắm chứ?!
Khi đọc những câu thơ: “mẹ thắt ruột chờ con / nỗi đau tê dại / hình
viên đạn chẻ đôi găm xé vào tim mẹ / đứa bên này / đứa bên kia / hết đối đầu
chĩa súng vào nhau / sao lặng lẽ không về”, tôi lặng người nhớ tới những
câu thơ tài hoa của nhà thơ Chử Văn Long: “Mùa
xuân về trên mộ hai người lính / Một phía bên kia, một phía bên này / Những
ngọn cỏ gà bò lan chầm chậm / Như những bàn tay tìm gặp bàn tay.” (Xuân về
trên mộ hai người lính - Chử Văn Long). Tôi giật mình với suy nghĩ: Chiến
tranh, mãi mãi chỉ những người dân, người lính mới thấm thía tội ác của chiến
tranh bởi chỉ họ mới là những người phải trả giá, phải chịu mất mát, hy sinh vì
thế dù “thắng” hay “thua” thì họ vẫn là những người bị mất mát, đau khổ nên thơ
của những người dân, người lính mới đau với nỗi đau của tình người, của nhân
tình thế thái.
Vâng. Cuộc chiến “huynh
đệ tương tàn” đã kết thúc 45 năm nhưng hệ lụy của cuộc chiến “nhồi da xáo thịt”
có lẽ còn nhức nhối rất lâu.
--------------------------------
THÁNG TƯ MÀU NHỚ
Tháng Tư
đất trời rợp sắc đỏ
cờ
hoa
tiếng khóc vỡ òa màu nhớ
người qua cõi chết trở
về
nổ bung nụ cười chiến
thắng
non sông một dải nối
liền
Tháng Tư
những người lính kiệt
sức vì đạn bom
thoi thóp sống
lết tìm nhau
nhặt mảnh vụn xuân thì
đang trôi mất
hàn rỉ sét chiến tranh
bó vết thương lòng kiếm
tìm đồng đội
Tháng Tư
ký ức dâng tràn
mẹ thắt ruột chờ con
nỗi đau tê dại
hình viên đạn chẻ đôi
găm xé vào tim mẹ
đứa bên này
đứa bên kia
hết đối đầu chĩa súng
vào nhau
sao lặng lẽ không về
Trắng hồn khăn tang
kiếp phong trần bày lên
niết bàn lạnh lẽo
mẹ thắp nén hương đắng
đời sinh nở
dằn cơn vật vã cô đơn
húp cháo
chờ được phong danh hiệu
Tháng Tư
những ngôi biệt thự nguy
nga
phơi quyền lực
giàu sang trước phố
ẩn náu gam xấu hổ
người qua vội bước chân
xa
Tháng Tư
mùa tha thứ cho nhau
nhìn từ nhiều phía
hạnh phúc
khổ đau
ai muốn quên
ai hoài nhớ
Người lính
bị nhuốm chất độc da cam
ngâm đời trong bể khổ
làm sao gieo hạt tương
lai
Ngày
sống ngồi niệm được thua
nuôi ký ức
Đêm
tập chết mơ chốn vô
thường
chuông hồn
ru giấc thời gian cũng
ám ảnh
giật mình…
*.
27.04.2020
Phạm Đức Mạnh
*.
Hà Nội, 20g35 ngày
30.04.2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
BÌNH THƠ
*
Thi thoảng vào trang
facebook của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương, tôi gặp khá nhiều statuts
và những dòng comment ngắn, ghi lại cảm xúc của ông về thơ của bạn thơ và những
dòng “chia sẻ” đó thường nghiêng về “gợi mở” hơn là “bình”. Có lẽ ông chủ ý chỉ
đứng ở vị trí là người “phát hiện” ra thơ hay còn cảm nhận thơ hay thế nào là
việc của bạn đọc nên ngay cả những lời “gợi mở” ông cũng khá kiệm lời, ví như
khi viết về “Lời Yêu” của Đồng Thị Chúc:
“Chập chờn như thể lời
yêu
Lúc tha thiết lúc như
điều không đâu
Em về mang áo ra khâu
Cây kim sợi chỉ để xâu
chập chờn.
Chỉ bốn câu thơ mà ngổn
ngang rối bời tâm trạng. Phải chăng cõi người đã thêm một định nghĩa hay khác
đi thêm một phạm trù nữa của tình yêu. Tôi tin tất cả những người mới bắt đầu
nếm trải cái vị ngọt, đắng của tình yêu đều có tâm trạng chập chờn như Đồng Thị
Chúc. Trong cái lâng lâng dịu ngọt ban đầu ấy đã xuất hiện một nỗi lo âu. Bởi
khi người ta quá hạnh phúc người ta lại lo âu đó là điều không có thực điều dễ
mất đi nên cứ chập chờn khi có khi không.
Rồi để tự trấn tĩnh mình
nên “Em về mang áo ra khâu”. Tức là muốn được va chạm được nắm cầm những điều
hiện hữu đó là tấm áo, sợi chỉ cây kim để như muốn chứng minh hay nói đúng hơn
là để nhận biết mình đang tồn tại. Thế nhưng rồi em không thể khâu áo mà lại
khâu cái chập chờn của lời yêu. Khâu nó vào đâu và sao lại phải khâu? Phải
chăng em muốn giữ chặt nó mãi trong em không bao giờ nó còn chập chờn được nữa
để rồi nó mãi là của em vì em đã xâu chặt nó vào tim em... vào đời em...
Thơ có cần gì nhiều đâu.
Tôi nghĩ chỉ cần thế thôi cũng đủ để lưu danh trong cõi người ...”
Chả cần bình! Chỉ khoảng
hơn mười dòng chia sẻ như thế cũng đã đủ để gợi mở tâm trạng rối bời với ngổn
ngang những thấp thỏm nỗi niềm của kẻ đang yêu, khát yêu... cũng đủ để bạn đọc
tự cảm nhận được sự dịu dàng, nữ tính và những đăm đắm yêu thương, những nhớ
nhung bời bời trong thơ hay của Đồng Thị Chúc. Vâng, cái khéo của cây viết dạn
dày Nguyễn Xuân Dương là thế. Người đọc cảm thấy thoải mái khi đi theo sự gợi
mở của người viết vì người viết rất khéo cất đi cái tôi của mình. Hình như, đấy
là cách viết được coi là chủ lực của nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương?!
Hay những dòng status
rất ngắn về “Vô Đề”, một bài thơ cũng rất ngắn (19 chữ) của Trịnh Loan:
“Em chẳng cách nào buộc
chặt đôi cánh gió.
Chỉ có thể dịu
dàng...
Quàng khăn ấm cho anh!
Chỉ cần thế thôi đã là
tất cả tình yêu em dành cho anh suốt cả cuộc đời. Đã mấy ai khi gió rét mưa dầm
không thể buộc gió che mưa lại biết dịu dàng quàng khăn ấm cho anh trước mỗi
sáng đi làm. Hình tượng người vợ tuyệt vời chỉ bằng mấy dòng thơ ngắn ngủi.
Trên đời này biết bao người khát thèm mơ ước hành động thật giản đơn như thế từ
tấm lòng từ tay người vợ. Bởi không phải ai cũng nghĩ và làm được điều đơn giản
đó ...
Thơ Trịnh Loan bao giờ
cũng đầy ắp yêu thương”
Ngắn, rất ngắn, ngắn đến
kiệm lời nhưng chỉ vài dòng cảm nhận ngắn ngủi thế thôi đã đủ để đẩy bài thơ
đến trái tim bạn đọc và nhanh lan tỏa. Thơ đã nén chặt, bình lại kiệm lời, bạn
đọc thêm nhiều “đất” để thỏa sức phiêu bồng cảm xúc cùng thơ. Cách bình thơ
này, nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã gặp nhà nghiên cứu Văn hóa Bùi
Đồng ở điểm: xúc tích, ngắn gọn, không “áp đặt”, không “suy diễn”, chủ ý chừa
lại “đất” để bạn đọc cảm nhận theo những cách riêng của bạn đọc. Cái tôi của
tác giả bình thơ được chủ ý đặt khiêm nhường phía sau tác giả thơ để đẩy bài
thơ thăng hoa cảm xúc cùng bạn đọc!
Đôi khi, gặp những bài
thơ mà do rào cản của ngôn từ, khiến người đọc khó cảm nhận hết được cái hay,
cái đẹp trong thơ thì ông vận dụng sự hiểu và biết của mình để "dẫn dụ”
bạn đọc khám phá cái hay, cái đẹp ẩn sâu trong câu chữ của bài thơ. Ví như khi
bình bài thơ “Đêm Trắng” của Trần Đăng Khoa: “Đêm trắng lạnh, có một người không ngủ / Nhớ quê hương mà chẳng thể trở
về / Ngoài cửa sổ cây bạch dương biết thế / Trổ lên trời lặng lẽ đóa
trăng quê...”, ông đã dùng câu chuyện về sự tích 2 từ Thôi Xao
để bật lên “tài năng và sự kì khu nghiêm
cẩn về sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ Trần Đăng Khoa”. Cách bình thơ này đòi
hỏi người bình phải có vốn sống, vốn kiến thức sâu rộng và làm chủ được cảm xúc
để bài bình không sa vào “tán dương kiến thức”, để dẫn dắt được cảm xúc của
người đọc thăng hoa cùng thơ.
Yêu cầu của việc bình
thơ là phải đáp ứng được yếu tố phát hiện. Bài bình thơ chỉ ấn tượng với bạn
đọc khi người bình phát hiện ra những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo hoặc
nghệ thuật sử dụng câu chữ “đắc địa”, tài hoa... của nhà thơ. Khá nhiều bài
bình thơ của tác giả Nguyễn Xuân Dương đã đáp ứng được yêu cầu đó. Tuy nhiên,
đọc các bài ông bình thơ, rất ít gặp ông bình sâu về nghệ thuật tu từ hay cách
dựng tứ ở bài thơ mà thường là chia sẻ những cảm xúc, những phát hiện của ông
về những câu thơ hay, những tứ thơ độc đáo, những cách dùng chữ “đắc địa”...
với bạn đọc, ví như đoạn trích dẫn dưới đây trong bài “Trao đổi với nhà thơ Nguyễn Vượng
về ngôn ngữ trong thi ca”:
"Rõ ràng cụm từ: BÊN ĐÂY BỜ VĨNH TẬN là một
cụm từ sáng tạo của nhà thơ Dung Thị Vân. Hiểu thế nào về cụm từ đó chỉ có nhà
thơ mới lí giải một cách cặn kẽ. Nhưng đôi khi sự lí giải ấy chắc gì đã được
người đọc chấp nhận. Với tôi, tôi nghĩ đây thuộc về một giới hạn vô cùng của
không gian và không chỉ là không gian mà còn là giới hạn của của cảm xúc. Qua
đó hình như nhà thơ đã muốn bày tỏ về sự tận cùng vĩnh cửu của những tàn phai. Ta
cứ phải mặc nhiên công nhận nó và ta cảm nhận sự mông mênh của thi ca. Ta thấy
những câu thơ như thế chiếm đoạt được cảm xúc của con tim mà không hiểu được vì
sao lại như thế. Nó rất hay, nhưng hay ở chỗ nào thì ta cũng không thể lý giải."
để bạn đọc thăng hoa cảm
xúc cùng thơ theo cách cảm nhận riêng của bạn đọc. Có lẽ vì thế mà những bài
bình thơ của ông dễ đồng cảm với người yêu thơ.
Khi đọc Nguyễn Xuân
Dương giới thiệu “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo” của Nguyễn Đăng Thanh, tôi xuýt xoa, nghẹn
ứ ngay ở những câu thơ đầu:
“Em đứng trên bờ, tiễn chị về phía bên sông / Quay mặt bỏ đi, rẽ lối nào
cũng gió / chị ơi, tháng ba… / đường làng mình nở đầy hoa Gạo đỏ / có lẽ, thấy
em buồn / hoa khóc… rụng ở triền sông.”
Hay quá! Nhiều cảm xúc
quá! Nhưng những câu thơ tiếp theo bị cái bóng sừng sững của “Lá Diêu Bông” chặn mất cảm xúc khiến tôi
nản định thôi đọc, rồi tò mò đọc lời bình, tôi bị cuốn theo cảm xúc của Nguyễn
Xuân Dương, ông đã xóa nhòa bức tường vô hình của “Lá Diêu Bông” để tôi cứ cùng Nguyễn Đăng Thanh mà day dứt nhớ
thương, mà trách cứ tủi buồn, mà rưng rưng lệ với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo”. Tôi
comment cám ơn người bình: “Thơ hay nhưng
người đọc không khoái lắm vì bị "Lá Diêu Bông" chặn mất nguồn cảm
hứng. Khổ thế đấy. "Lá Diêu Bông" sừng sững như thế cơ mà! May thay,
đọc lời bình của tác giả Nguyễn Xuân Dương,
mạch cảm hứng với “Chị Bỏ Mùa Hoa Gạo”
lại dâng trào. Cám ơn nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã giới thiệu một
bài thơ hay!”
Tôi nhớ có lần ông tâm
sự, một ngày lên facebook mà không được đọc một bài thơ hay, không được viết
cảm nhận về một bài thơ độc đáo, ấn tượng thì ông bứt rứt khó chịu nên khi gặp
được bài thơ hay là ông cặm cụi viết cho thỏa đam mê, cho đã “cơn nghiền”.
Mặc dù luôn nâng niu cảm
xúc khi bình thơ và chỉ viết lời bình khi cảm xúc dâng trào trước bài thơ hay,
trước tứ thơ độc đáo, đẹp, lạ nhưng có lần nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân
Dương cũng để chữ tình vướng víu ngòi bút, ví như bài “Vô Đề” của Đỗ Cao Nhân:
“Trưa Sa Pa hửng nắng
Tối mưa lạnh Lai Châu
Hỏi người vùng sơn cước
Sáng mai đi về đâu.”
Khi đọc những lời cảm
thơ vì tình bạn của ông: “Bài thơ thật
giản dị hai câu đầu nói về chuyện mưa nắng của vũ trụ và chen vào đó là hai địa
danh. Sự đột biến và cao trào thơ lại chính là hai câu dưới. Nhân vật trữ tình
thứ hai chỉ là Người sơn cước và cái hay của thơ ở đây là chính chữ NGƯỜI không
có giới tính.”, dù ông khéo léo rào dậu che chắn sự “nâng đỡ” “Vô Đề”
ở mấy dòng kết bài: “Tôi rất trân trọng
bài thơ này vì nó chẳng nói gì mà thực ra lại đã nói rất nhiều nếu ta biết chìm
sâu vào phía sau con chữ và có lẽ cần thêm một chút lương duyên cùng nghề
nghiệp ...”, tôi tin vẫn không ít bạn đọc sẽ hiểu sai ông viết vì “nhuận
bút” do bạn đọc không biết chữ tình ông trân quý dành cho bạn bè, nhất là bạn
cùng nghề Địa chất - nghề đã để lại không ít ký ức trong ông như một “nghiệp
quả” của số phận.
Tôi đã comment dưới bài
viết của ông thế này: - “Thực sự là người
bình vì chữ TÌNH BẠN mà đẩy bài này lên quá xa, quá nhiều. Cháu rất xin lỗi 2
chú khi nói thật lòng! Cũng vì rất quý yêu những trang viết của chú Nguyễn Xuân
Dương nên cháu mới thật lòng đấy ạ.”. Ông đã tế nhị gửi tin nhắn tới tôi:
-“Cái khó của người cầm bút là chữ TÌNH
anh ạ, nhất là khi chữ TÌNH đã trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc
đời. Chú nghĩ, nếu vì chữ tình mà người viết thiệt thòi cái TÔI một chút để đem
lại niềm vui nho nhỏ rất đáng cho bạn bè thì cũng nên, anh Đặng Xuân Xuyến
nhỉ?!”.
Nhưng không phải trường
hợp nào ông cũng xuề xòa vì 2 chữ tình bạn. Chẳng hạn, có lần ông đã thật chu
đáo viết lời bình một bài thơ của nhà thơ ông rất yêu quý nhưng khi trao đổi về
câu thơ (tên bài thơ) nhà thơ trích dẫn sai, ông quyết định xóa bỏ bài viết vì
“sai sót thuộc về trích dẫn mà với câu
thơ (thực ra là tên bài thơ) trích dẫn thì đã là người yêu thơ ai cũng thuộc,
“người ta” sẽ đánh giá người bình luận kém hiểu biết hoặc người bình luận không
nghiêm túc”. Hay lần khác, một nhà thơ mến mộ tài bình thơ của ông, gửi
tặng ông tập thơ qua bưu điện với lời đề nghị “xin bác cho cháu vài lời cảm nhận”, ông thật lòng hồi đáp: -“Tôi thích cách sử dụng câu chữ sáng tạo của
anh nhưng tôi không bình luận được dù đã đọc kỹ tập thơ anh gửi tặng. Câu chữ
của anh đẹp lắm nhưng những chữ đó như cái xác đẹp mã mà thiếu hồn nên đọc xong
cứ trôi tuột, chả đọng lại gì thì bình luận làm sao!”
Vì yêu thơ, vì nâng niu
những cảm xúc do thơ đem lại nên ông hào phóng khen tặng những câu thơ hay,
những thi tứ đẹp, ví như ông khen câu “Ríu
chiều hiu hắt mưa” trong bài “Đọc “Rét Cằn” của Đặng Xuân Xuyến”:
“Ôi! Yêu quá câu thơ: “RÍU CHIỀU HIU HẮT MƯA”. Giá có bình luận một câu
thơ này thì như cổ nhân đã dạy: "Thuyết thi nhất thủ thị hàn tuyền",
có nghĩa: Bàn về một bài thơ hay một suối sách vẫn không đủ. Với câu thơ này
thì cứ cho là một khe sách vẫn chưa đủ.
Có những lúc xuất thần
chỉ cần một câu thơ như thế bài thơ sẽ bừng sáng lên. Và như có lần Hoài Thanh
đã nói về một bài thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã
lưu danh”. Tôi nghĩ với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu
danh trong đời. Bỏi vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa.”.
Hay như lời khen ông ưu
ái dành cho “Em có về lối cũ của Đinh Tiến Hải” (5): “Sóng
Tây Hồ / Xôn xao trên mắt nắng / Hồn lang thang / Mây dạt phía chân trời / Em
có về? / Ngang qua mùa xưa cũ / Ngắm me vàng / Rụng mải miết lối đi”. Phải tinh
tế và tài hoa lắm mới lưu giữ được những thi ảnh hư ảo này vào thi ca để gửi
gắm cho người đọc cùng mê say và càng thêm tiếc nuối vì mấy ai trong chúng ta
giờ có thể trở về ngồi bên bờ hồ Tây nơi Phủ Tây Hồ mà nhìn ngắm những mắt nắng
xôn xao trên sóng nước hồ Tây hay sóng nước xôn xao trên mắt nắng.?”
Những bài thơ trên tất
nhiên không dở nhưng đạt được như những lời ông đã phóng bút khen ngợi thì vẫn
còn nhiều khoảng cách. Có lẽ vì quý các tác giả thơ, vì yêu những cảm xúc bài
thơ đem lại mà ông hào phóng lời khen. Giá như ông tiết chế bớt một chút lời
khen thì thật hay cho người đọc, hay cho người bình và hay cho cả tác giả thơ!
Phải chăng ông quan niệm: Khen để khích lệ những tìm tòi, sáng tạo, những thành
công của tác giả thơ thì khen quá một chút cũng chẳng sao?!
Vâng! Ông bình thơ nhiều
lắm. Tôi không biết chính xác bao nhiêu bài nhưng với 2 tập Phê bình Văn học
ông đã xuất bản và rất nhiều bài giới thiệu thơ, bình thơ trên trang facebook
cá nhân thì có lẽ ông đã đồng hành cảm xúc, đã tiếp thêm “sinh khí” cho khoảng
trên bốn trăm bài thơ để những bài thơ đấy trở nên hay hơn, đẹp hơn và nhanh
lan tỏa.
*.
Hà Nội,19 tháng 05 năm
2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
- THƠ TRẦN VẤN LỆ
*
“Như một bài tập làm văn”
là bài thơ sáng tác gần đây của nhà thơ Trần Vấn Lệ.
Thơ 5 chữ, cuốn hút
người đọc ngay từ những câu thơ đầu:
"Gió không chừa
ngọn cỏ
Mưa không chừa lá
nào"
Tả thực mà tinh tế,
nhiều gợi cảm. Chữ không thừa không thiếu, vừa đủ để người đọc “cảm thấy”,
"nhìn thấy" trận mưa quét rát rạt đang diễn ra trước mắt.
Câu: "Mưa gió rung rinh rào" làm nặng
thêm sức lạnh của gió mưa, khiến người đọc gai người rùng mình với cảm giác cô
đơn trước khung cảnh hoang vắng, lạnh lẽo của chiều mưa gió.
Câu: "Hoa đào còn, rụng hết..." ngắt
thành nhịp 3/2 với dấu chấm lửng ở cuối câu khiến dư âm buồn của trận mưa quét
đã tàn phá cảnh vật thêm u ám, xót xa.
Không gian và thời gian
càng lạnh lẽo và hoang vắng khi nhà thơ đặt "Người đưa thư, một mình" giữa "Rộng mênh mông phố xá", nhất là cách ngắt câu ở "Người đưa thư, một mình" thành 2 vế
để tăng thêm sự cô tịch và đẩy sự hoang vắng lạnh lẽo
của phố xá chiều mưa nhuốm thêm u buồn sang nỗi lòng của người thơ.
Từ "làm" cố ý lặp lại ở câu: "Làm việc và làm thinh" chủ ý để
nhấn mạnh hình ảnh lẻ loi nhưng cần mẫn, trách nhiệm với công việc trong suy
nghĩ, hành động của người đưa thư.
"Cái bóng hình” người đưa thư “quen thuộc!" được Trần Vấn Lệ vẽ
tiếp bằng những câu chữ bình dị, đời thường mà thật ấn tượng:
"Ông vẫn đi từng
bước
Dừng lại trước từng nhà
Cái hộp thư mở ra
Cái hộp thư khép
lại..."
Tôi bị những câu thơ này
ám ảnh.
Hình ảnh người đưa thư
cần mẫn, lặp lại đều đều những hành động đơn điệu, tẻ nhạt nhưng cần mẫn, chỉn
chu như một lịch trình sắp đặt sẵn được nhà thơ quan sát kỳ thú và kĩ lưỡng đến
từng chi tiết. Hai câu: "Cái hộp thư
mở ra / Cái hộp thư khép lại..." thật ám ảnh những nỗi niềm về cõi
người, phận người.
Rồi nhà thơ chạnh buồn,
hẫng hụt:
"Mai, Chúa Nhật thì
phải?
Sẽ không được thấy ông!
Phố xá đã mênh mông
Sẽ mênh mông thêm
chút..."
Cặp từ "mênh mông" được sử dụng như điệp
từ, lặp lại ở câu 3 và câu 4 của khổ thơ đẩy nỗi buồn thêm se sắt.
Nhịp thơ dàn trải, trầm
buồn bỗng vướng chút loạn nhịp, tiết tấu thay đổi, với những hình ảnh khá đắt: "Mưa như
cầm bình trút / Gió vẫn như lá cờ” khi dùng để ám dụ trận "cuồng
phong" đang "nổi loạn" trong lòng
thi sĩ:
"Mưa như cầm bình
trút
Gió vẫn như lá cờ
Mưa gió và gió mưa
Cách ly đời ly
cách..."
Đến đây người đọc mới vỡ
lẽ nhà thơ bị "cầm tù" trong bốn bức tường bởi dịch virus Vũ Hán nên
ông khao khát được “tự do”. Sự đảo từ "mưa
gió" thành "gió mưa",
"cách ly" thành "ly cách" ở ngay trong câu 3 và câu
4 của khổ thơ được sử dụng như một thủ pháp để diễn tả tâm trạng bức bối, tù túng,
khao khát được tự do không chỉ của riêng nhà thơ Trần Vấn Lệ trong những ngày
“cách ly xã hội” phòng chống virus Vũ Hán.
Nếu ở những khổ thơ
trước là tâm trạng u buồn do ngoại cảnh (dịch virus Vũ Hán) tác động tới (cách
ly xã hội) thì ở những khổ thơ cuối bài là tâm trạng u uẩn, đằm sâu trong trái
tim người xa xứ. Hình ảnh người đưa thư lặp đi lặp lại suốt bài thơ như những
thước phim quay chậm sự đơn độc nhưng cần mẫn, chỉn chu với công việc của người
trung chuyển, để giữ sự bình yên, ấm êm cho xã hội.
Hình ảnh ấy khiến người
con xa xứ nghẹn lòng khi nghĩ tới những lo toan, vật lộn tìm kiếm kế mưu sinh
của những người thân nơi đất Mẹ Việt Nam giữa đại dịch virus Vũ Hán. Nhà thơ
thốt lên:
Tôi nhớ quá Việt Nam
Mẹ Cha cõng mưa nắng...
Rồi kết thúc bài thơ ở
kết mở, ai nghĩ sao thì tùy:
Cho tôi được im lặng
khi nghĩ về Quê Hương!
Tôi không thích cái kết
của bài thơ như thế! Bởi yêu Quê Hương ai lại chọn giải pháp im lặng? Bất kỳ lý
do nào, hoàn cảnh nào thì tôi nghĩ giải pháp: "Cho tôi được im lặng / khi nghĩ về Quê Hương" vẫn thuộc tâm
thế của người có tình yêu Quê Hương chưa đủ lớn để vượt qua những trở ngại của
phép tính giữ mình.
Nhưng đấy là quan điểm
của tôi, theo góc nhìn của một bạn đọc. Còn kết thúc bài thơ thế nào? Ý tứ ra
sao là quyền của nhà thơ Trần Vấn Lệ.
Với tôi, "Như
một bài tập làm văn" là bài thơ nhiều cảm xúc, nhiều ám ảnh!
--------------
NHƯ MỘT BÀI TẬP LÀM VĂN
Gió không chừa ngọn cỏ
Mưa không chừa lá nào
Mưa gió rung rinh rào
Hoa đào còn, rụng hết...
Không thể nói là ghét
Không thể nói là thương
Không Địa Ngục, Thiên Đường
Im lặng. Buồn khôn tả!
Rộng mênh mông phố xá
Người đưa thư, một mình
Làm việc và làm thinh
Cái bóng hình quen thuộc!
Ông vẫn đi từng bước
Dừng lại trước từng nhà
Cái hộp thư mở ra
Cái hộp thư khép lại...
Mai, Chúa Nhật thì phải?
Sẽ không được thấy ông!
Phố xá đã mênh mông
Sẽ mênh mông thêm chút...
Mưa như cầm bình trút
Gió vẫn như lá cờ
Mưa gió và gió mưa
Cách ly đời ly cách...
Người đưa thư che mặt
Cái khẩu trang đẫm mưa
Ông không thấy bơ vơ
Bạn ông là công việc!
Tôi từng thấy xứ tuyết
Người đưa thư đi làm!
Tôi nhớ quá Việt Nam
Mẹ Cha cõng mưa nắng...
Cho tôi được im lặng
khi nghĩ về Quê Hương!
*.
TRẦN VẤN LỆ
*.
Hà Nội, 19g45 ngày
10-07-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “ĐÔI BỜ SÔNG BẾN HẢI”
VÀI LỜI VỚI NHÀ THƠ NGUYỄN HƯNG HẢI
*
Khi đọc bài thơ “Đôi Bờ Sông Bến Hải” của
nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải với những câu thơ:
"Hai bờ sông Bến
Hải
Những đứa con của mẹ sao
lại bắn vào nhau?!
Mẹ ở phía bên nào cũng
giữa hai làn đạn
Dù ở bờ bên nào cũng đều
ghê tiếng súng
Chia cắt một cây cầu
không hiểu tại làm sao!?"
người đọc dâng trào nỗi xót xa với những câu thơ
đau đáu nỗi niềm, tưởng người viết ra những câu thơ đó là người được thụ hưởng
sự giáo dục tử tế sẽ có trái tim ấm áp và trách nhiệm đúng mực nhưng thật buồn
khi người đọc đọc phải những câu thơ nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hưng Hải xúc phạm
những người Mẹ miền Nam:
"Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ
huân chương
Bờ Nam, mẹ một đời cúi
mặt"
Chiến tranh "huynh đệ tương tàn" đã qua lâu rồi. Nỗi đau của cuộc nội chiến
cũng đang dịu dần và những người Mẹ ở cả 2 miền Nam - Bắc cũng đã chung sống
yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong cùng một thế chế xã hội. Các Mẹ vẫn luôn
hiện hữu bên cạnh con cháu, động viên con cháu tuân thủ hiến pháp, pháp luật
của Nhà nước, cùng nhau làm giàu cho gia đình, làm giàu cho Đất Nước.
Nhà nước cũng luôn đề cao tinh thần hòa hợp dân
tộc, gác lại những bất đồng về ý thức hệ chính trị của quá khứ để cùng chung
tay xây dựng và bảo vệ Đất nước, cớ sao nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải với bề
dày hơn 50 năm cầm bút lại tàn nhẫn khi miệt thị các Mẹ miền Nam, chống lại
chính sách hòa hợp dân tộc của Nhà nước bằng 2 hình ảnh đối lập?!.
"Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ
huân chương
Bờ Nam, mẹ một đời cúi
mặt"
Con cháu các Mẹ tham gia vào cuộc chiến "huynh đệ tương tàn" đâu phải là lỗi
của các Mẹ mà các Mẹ phải "một đời
cúi mặt" với tâm thế của những kẻ tội đồ.?!
Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải có biết như thế là
hỗn khi viết những lời bất kính với các Mẹ?!
Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Hưng Hải có biết như thế là
gián tiếp chia rẽ sự đoàn kết, tiếp tay cho kẻ xấu phá rối tinh thần hòa hợp
dân tộc?!
--------------
ĐÔI BỜ SÔNG BẾN HẢI
Bờ Bắc, ngực mẹ đỏ huân
chương
Bờ Nam, mẹ một đời cúi
mặt
Cũng chỗ ướt mẹ nằm
Đều cùng từ một bọc
Giuã cây cầu hai bà mẹ
đều đau ...
Hai bờ sông Bến Hải
Những đứa con của mẹ sao
lại bắn vào nhau?!
Mẹ ở phía bên nào cũng
giữa hai làn đạn
Dù ở bờ bên nào cũng đều
ghê tiếng súng
Chia cắt một cây cầu
không hiểu tại làm sao!?
Hai phía từ đâu ra cùng
một bọc đồng bào
Không có cuộc chiến
tranh nào không làm đau lòng mẹ
Ai đã đẩy các con về hai
phía
Mẹ ở bờ bên nào cũng đau
nỗi đau chung
Nối lại một cây cầu lòng
mẹ bao dung
Cùng thả xuống dòng sông
một niềm đau như xé
Xin đừng ai làm đau thêm
lòng mẹ
Dưới đáy sông Bến Hải có
nhìn lên?!
Đôi bờ sông Bến Hải có
nhìn
Giuã cây cầu nhìn nhau
hai bà mẹ
Cùng nhìn xuống dòng
sông
Dắt tay nhau cùng đi về
một phía
Nối nhịp một cây cầu
vòng hoa trắng đang trôi ...
*.
NGUYỄN HƯNG HẢI
Làng Hùng Đô, xã Lam Sơn, huyện Tam
Nông, tỉnh Phú Thọ.
*.
Hà Nội, 27 tháng 09-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ TÌNH
CỦA CẬU HỌC TRÒ LỚP 12
*
Đọc 2 bài thơ tình
"Tôi đi tìm tiếng ơi" và "Giết" của Nguyễn Tấn
Thành tôi thấy lạ lắm: Thật diết da, thật khắc khoải, thật hy vọng và cũng thật
nhiều bi lụy, tuyệt vọng. Tất cả những cung bậc tình cảm đó đều có trong 2 bài
thơ "Tôi đi tìm tiếng ơi" và "Giết".
Những câu thơ đẫm lệ với
xám xịt màu hy vọng tình yêu của Nguyễn Tấn Thành thật có sức ám ảnh người đọc:
Tôi đang gọi. Sao chẳng
thấy ai "ơi"?
Ai đáp "ơi",
nơi nào tôi xin tới
Cho thỏa mong, hai mảnh
hồn chờ đợi
Tiếng đáp
"ơi", tôi chờ đến bao giờ?
(TÔI ĐI TÌM TIẾNG ƠI -
Nguyễn Tấn Thành)
Đọc những câu thơ như
thế của anh tôi chợt nhớ tới những câu thơ mời gọi, van lơn, xót xa đến đứt
ruột của cô kỹ nữ trong thơ Xuân Diệu:
"Khách ngồi lại
cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng lạnh
quá, khách ơi!
Đêm nay rằm: yến tiệc
sáng trên trời;
Khách không ở, lòng em
cô độc quá!
Khách ngồi lại cùng em!
Đây gối lả,
Tay em đây mời khách ngả
đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn
của em đây,
Em cung kính đặt dưới
chân hoàng tử.
Chớ đạp hồn em! Trăng về
viễn xứ."
(LỜI KỸ NỮ - Xuân Diệu)
Tôi chép thơ Xuân Diệu
ra đây không có ý để so sánh thơ của anh với thơ của "Hoàng tử thi
ca" Xuân Diệu vì như thế là khập khiễng, là ngô nghê nhưng những câu thơ
đã trích dẫn ở trên của Nguyễn Tấn Thành được viết khi anh đang là cậu học trò
lớp 12 (2016) tuy không phải là những câu thơ hay nhưng tôi tin nhiều người thơ
cũng không viết được những câu thơ gợi nhiều cảm xúc như thế. Thật tiếc, khi
trở thành sinh viên khoa Văn học và Ngôn ngữ (đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn thành phố Hồ Chí Minh) thì thơ anh không viết bằng cảm xúc thật của tiếng
lòng nên nhợt nhạt, thiếu nhựa và không có hồn. Trang Đặng Xuân Xuyến chỉ mới
giới thiệu mấy bài thơ của cậu học trò cấp 3 Nguyễn Tấn Thành vì những bài thơ
ấy giàu cảm xúc, nhiều ám ảnh người đọc.
Thơ tình ("Tôi
đi tìm tiếng ơi" và "Giết") của Nguyễn Tấn Thành,
của cậu học trò cấp 3 tỉnh Bến Tre, có gam màu lạ lắm. Nó diết da mà nhuốm màu
u uẩn. Nó cháy bỏng khát khao mà phủ kín nỗi đớn đau, bi lụy!
Đọc những câu thơ:
Rồi ngày tàn, bóng tối
phủ muôn nơi,
Trong đêm mơ, tôi vẫn
sầu vời vợi,
Mộng gặp ai đáp lại giữa
cuộc đời,
Tôi chợt tỉnh! Tiếng
"ơi" kia vẫn đợi.
(TÔI ĐI TÌM TIẾNG ƠI -
Nguyễn Tấn Thành)
tôi cứ hỏi: Sao tình yêu
của Nguyễn Tấn Thành lại bi lụy, tuyệt vọng đến thế? Thứ tình yêu xám xịt niềm
tin mà cậu học trò lớp 12 đang đau đáu khắc khoải là thứ tình yêu gì vậy? Trên
đời này thực tồn tại thứ tình yêu đó thật sao?
Đọc thơ anh, tôi thích
cách viết của cậu học trò lớp 12 Nguyễn Tấn Thành khi anh viết về những cuộc
“truy hoan” giữa 2 thực thể mê đắm yêu nhau: Êm ái nhưng đủ sự cuồng nhiệt, dữ
dội, nhẹ nhàng nhưng đủ nỗi khát khao, khêu gợi:
Ta giết nhau bằng lưng
chừng thương nhớ
Khi đã trao từng nhịp
thở nồng nàn
Đôi tay hờ trên xương
thịt mê man
Lối sơn khê người dò
hang tìm tối.
(GIẾT - Nguyễn Tấn
Thành)
Câu chữ Nguyễn Tấn Thành
dùng vừa đủ dẫn người đọc thả sức tưởng tượng để bước vào cuộc truy hoan tình
ái với những mê đắm, khát khao, những dữ dội, cuồng nhiệt nhưng lại thật êm ái,
nhẹ nhàng, không vướng tí ti nào khêu gợi sự dâm tục. Một cậu học trò lớp 12 mà
viết về “những cuộc truy hoan" dày dạn cả kinh nghiệm "dục
tính", cả kinh nghiệm "tả dục tình" nóng bỏng mà không sa vào
"dâm thơ" như thế thì quả thật rất đáng khen ngợi.
Khi đọc những câu thơ:
Ta giết nhau bằng lưng
chừng lo sợ
Một chuyện tình chẳng
viết được nên thơ
Người bỏ dở gục đầu trên
giấy trắng
Kẻ viết hoài dù mặn đắng
bờ môi.
(GIẾT - Nguyễn Tấn
Thành)
Tôi như gặp lại một chút
tâm trạng của mình khi viết "Mơ Trăng":
"Em rướn mình hà
hít nụ hôn anh
Tê tái lắm. Cuộc tình
mình thật tội
Môi khóa môi mà sao xa
vời vợi
Đêm cuống cuồng khoả lấp
nỗi chơi vơi."
nhưng chuyện tình của
"Mơ Trăng" là cuộc tình một bên cuống quýt được thỏa mãn
cơn khát thèm thể xác, vội vã tận hưởng những phút giây ân ái, một bên lặng
người, xót xa, tội nghiệp cho tình yêu "em" đang dâng hiến và cũng tê
tái cho cuộc tình ngang trái của cả hai. Còn chuyện tình của "Giết"
thì hoàn toàn khác, cả 2 đều yêu nhau, đều khao khát dâng hiến, đều khao khát
được mãi bên nhau nhưng oái oăm, cả 2 đều xót xa buông bỏ, tự rời xa nhau vì
"Một chuyện tình chẳng viết được nên
thơ".
Hai câu cuối của khổ thơ
những ầng ậc nước mắt của hai kẻ yêu nhau, khao khát trọn đời bên nhau nhưng
người đọc không hiểu vì "trắc trở tình duyên" nào mà kẻ chấp nhận
buông bỏ, kẻ vẫn cố kiên trì bấu víu để nuôi dưỡng chút hy vọng mong manh từ
chính trong sự “trớ trêu”, "oan nghiệt" của cuộc tình:
Người bỏ dở gục đầu trên
giấy trắng
Kẻ viết hoài dù mặn đắng
bờ môi.
(GIẾT - Nguyễn Tấn Thành)
Không biết lý do nào
khiến 2 kẻ yêu nhau, khao khát bên nhau đến răng long đầu bạc lại cay đắng “tự
nguyện” buông bỏ? Nguyễn Tấn Thành không nói. Người đọc chỉ mơ hồ suy đoán có
thể cuộc tình đó bị gia đình cấm cản vì không "môn đăng hộ đối", vì 1
trong 2 người đã có vợ có chồng hoặc có thể vì chênh lệch tuổi tác quá lớn,...
Tất cả nhưng suy đoán đó càng khó hiểu, thậm chí là hoang mang khi Nguyễn Tấn
Thành mở đầu 3 khổ thơ liền nhau đều bằng mệnh đề "Ta giết nhau bằng lưng chừng..." lần lượt với: thương nhớ, bối rối, lo sợ. Đó là sự sắp xếp chủ ý theo cấp độ gia tăng tình
cảm của tác giả.
Ôi! Tình yêu mà phải “Ta giết nhau bằng lưng chừng...” để bi
lụy vì tình thì chua xót nào bằng?! Tình yêu là phải được thăng hoa, phải được
"đốt để cháy hết mình” với tình yêu chứ cứ “lưng chừng”, “nửa vời” “đứt
đoạn” như thế thì thật xót xa, tội nghiệp!
Đọc những bi lụy tình
của Nguyễn Tấn Thành tôi lại nhớ những dữ dội tình, những cuồng nhiệt tình kiểu
"trắng phớ" "tất tay" của Trần Hạ Vi. Tôi thích "cách tỏ tình (đúng hơn là cách gạ yêu) của
Trần Hạ Vi: “Yêu em đi” rất thẳng thắn, huỵch toẹt, chẳng màu mè, làm giá như
những ả nàng. Sự chân thành đến dạn dĩ, mạnh bạo đến trần trụi, và tinh thần
“tử vì tình”, chấp nhận thua thiệt trong tình yêu, dẫu biết tình yêu ấy là trái
ngang, trắc trở, là bia miệng của người đời thì vẫn cứ bất chấp, vẫn cứ: “Ú ớ
hoan mê những lời vô nghĩa/ Nuốt lấy nhau kệ tiếng đời mai mỉa” như Trần Hạ Vi
thì quả thật ngay trong giới mày râu cũng khối kẻ lấm lét đứng nhìn."
(ĐỌC "TÌNH NHÂN ƠI" CỦA TRẦN HẠ VI - Đặng Xuân Xuyến).
Tôi thầm hỏi: Tình yêu
lạ thế? Kê là đấng nam nhi sao lại rụt rè, không dám cháy hết mình với tình yêu
để rầu rĩ chịu cảnh tình bi lụy, ngậm ngùi kêu rên những tiếng tang thương phẫn
uất, còn người mang phận liễu yếu đào tơ lại mạnh mẽ, thẳng tuột với khát vọng
cháy mình cho yêu, vì yêu?!
Rồi lại thắc mắc: Nhưng
mà "Giết" và "Tôi đi tìm tiếng ơi" là thơ của
cậu học trò lớp 12, ở lứa tuổi trong trắng hồn nhiên, nhiều đam mê, tươi trẻ,
nhiều khát vọng khám phá, chinh phục... sao u ám và bi lụy đến vậy?!
Phải chăng đó là những
ẩn ức sinh lý, những tổn thương tâm lý đã gây sang chấn tâm lý khiến thơ tình
được cất lên từ tiếng lòng của Nguyễn Tấn Thành mới lạ lẫm với những gam màu u
uẩn rất riêng như thế?!
*.
Hà Nội, 28 tháng 10 năm
2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ
“NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN”
*
Tôi gặp lại tiếng thơ
nỗi lòng của Trần Mai Ngân khi đọc "Nói Với Mẹ - Mùa Xuân". Vẫn là
cách viết đơn giản, không có gì đặc biệt, chỉ là những câu tự sự bình thường,
những câu thơ chị thủ thỉ chuyện trò với di ảnh của Mẹ:
“Chiều nay về con cùng
ngồi với Mẹ
Con nói nhiều mà Mẹ chỉ
lặng im”
Vâng, chỉ thủ thỉ vậy
thôi mà nghe những xót xa, những chất chứa hờn tủi. Lạ thế. Đọc những câu thơ
mộc mạc, chân chất, không hề sử dụng chữ nào diễn tả sự hờn tủi, xót xa mà lòng
lại trĩu nặng nỗi buồn, lại thấy xót xa cảnh cút côi vì vắng Mẹ? Đó là sự khéo
léo dùng thi ảnh để lấy xúc động nơi người đọc của Trần Mai Ngân hay đấy là
tiếng đích thực chân thành của con tim mà câu thơ chị viết mới dễ dàng chạm
được vào trái tim người đọc?! Có lẽ thơ của chị được viết bằng những cảm xúc
thật nên những câu thơ mộc mạc tự nhiên, không uốn éo làm dáng mới gây được xúc
động nơi bạn đọc.
Thì đây, vẫn là những
câu chị thủ thỉ với di ảnh Mẹ mà sao cứ nhoi nhói tâm can người đọc:
“Sao dưng không con lại
khóc một mình
Năm sắp hết ... chín
Xuân liền vắng Mẹ!”
Trần Mai Ngân lấy nước
mắt bạn đọc ở những câu thơ "nỗi lòng" như thế. Tôi yêu thơ chị có lẽ
cũng bởi cái duyên thầm từ những câu thơ như vậy.
--------------------------------
NÓI VỚI MẸ - MÙA XUÂN
.
Chiều nay về con cùng
ngồi với Mẹ
Con nói nhiều mà Mẹ chỉ
lặng im
Khói hương bay qua năm
tháng nỗi niềm
Con không khóc cho Mẹ
vui trọn vẹn
.
Trong di ảnh mắt Mẹ nhìn
xa lắm
Như mông mênh... con ở
lại thế nào
Dẫu đắng cay xin vẫn lấy
ngọt ngào
Trên mây trắng Mẹ yên
tâm siêu thoát
.
Chiều nắng tắt chẳng
muốn rời xa Mẹ
Đôi mắt con, đôi mắt Mẹ
vẫn nhìn
Sao dưng không con lại
khóc một mình
Năm sắp hết ... chín
Xuân liền vắng Mẹ!
.
Con về nhà đây- đường
buồn quạnh quẽ
Dáng đơn côi con bước
nốt cuộc đời
Năm sắp hết nhà mình sẽ
đón Tết
Hoa đầy nhà hương tỏa
mãi ngày xưa!
*.
TRẦN MAI NGÂN
*.
Hà Nội, ngày 03 tháng
12-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
CẢM NHẬN NGẮN VỀ BÀI THƠ
“ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ”
*
Đọc “Đom
Đóm Tuổi Thơ” của Kiên Duyên, tôi thích 2 câu thơ:
"Mẹ chong đèn đan
sợi cói bao giờ
Vài đồng lẻ mua mắt mờ
trước tuổi..."
Sự vất vả bởi cuộc sống
khốn khó nơi thôn quê được Kiên Duyên tạc bằng tượng hình MẸ với những hình ảnh
gần gũi, đậm chất quê, xưa như cảnh làng quê Việt Nam đã tồn tại bao đời.
Giọng thơ cũ, hình ảnh
cũ nhưng Kiên Duyên đã làm mới cách thể hiện nên câu thơ mộc mạc mà lấp lánh,
đằm sâu lòng biết ơn và sự kính trọng với đấng sinh thành.
Viết về mẹ đã có rất
nhiều bài thơ hay, nhiều câu thơ làm day dứt lòng người, ví như những câu thơ
tinh tế, nhiều sáng tạo của Nguyễn Xuân Môn: “Quá mười tư chẳng có rằm / Nhả bao tơ trả kiếp tằm… mẹ ơi! / “Cá chuối
đắm đuối…” quên đời / Cho đầy con, mẹ chắt vơi cạn mình” (Mẹ Tôi), hoặc
những câu thơ tài hoa của Văn Thuỳ "dị nhân": "Vinh hoa con ướm trên người / Phất phơ tóc
mẹ dệt lời yêu thương / Đã đi nhẵn một con đường / Còn nghe tóc mẹ bốn phương
rối bời / Con đi dọc nửa kiếp người / Vẫn quanh lọn tóc rối thời mái gianh"
(Tóc Rối Của Mẹ Năm Xưa). Hay những câu thơ tuyệt hay viết về Mẹ của Trần Đăng
Khoa: "Cánh màn khép lỏng cả ngày /
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa / Nắng mưa từ những ngày xưa / Lặn trong
đời mẹ đến giờ chưa tan" (Mẹ Ốm), hoặc những câu thơ như được chắt ra
từ tấm lòng hiếu thảo với Cha của Nguyễn Quang Thiều: "Con từng ba dại bảy điên / Chén trà con rót
tràn miền đắng cay / Phận con nhàu trọn lòng tay / Một câu thơ bạc một ngày vô
ơn / Chén trà, con có gì hơn / Mời cha rồi nuốt tủi hờn sau cha" (Dâng
Trà).
Câu thơ "Vài đồng lẻ mua mắt mờ trước tuổi..."
chưa là câu thơ tuyệt hay nhưng sự sáng tạo trong cách dùng câu chữ để thể hiện
hình ảnh, tâm cảm đã làm câu thơ lấp lánh, sáng đẹp lên nhiều! Đây là thành quả
của tinh thần lao động nghiêm túc và sự sáng tạo rất đáng trân trọng của Kiên
Duyên!
Cách viết của "Đom Đóm
Tuổi Thơ" tuy không mới, vẫn trung thành với lối viết của thơ
truyền thống nhưng sự làm mới cách thể hiện câu chữ để diễn tả tâm cảm, hình
ảnh ở một số câu thơ đã khiến những câu thơ đó tạo được điểm nhấn, vượt lên như
những điểm sáng để bài thơ lung linh, nhanh lan tỏa.
Đọc xong bài thơ mà dư
âm của những câu thơ:
- "Con cá đớp mảnh
trăng rơi trầm mặc
Một mình em gom cay đắng
cuộc đời"
- "Mẹ chong đèn đan
sợi cói bao giờ
Vài đồng lẻ mua mắt mờ
trước tuổi.."
cứ vấn vít mãi trong
đầu.
--------------------------------
ĐOM ĐÓM TUỔI THƠ
Đêm lao xao nghe bờ tre
thổn thức
Mảnh trăng rơi miền ký
ức theo về
Chị theo chồng từ dạo ấy
hai quê..
Để thu chớm nghe não nề
xóm vắng..
Con cá đớp mảnh trăng
rơi trầm mặc
Một mình em gom cay đắng
cuộc đời..
Tuổi thơ buồn ngày giáp
hạt chị ơi..
Đêm vó tép một trời thơ
ở lại..
Bờ ao quê đâu tiếng cười
con gái..
Những quê mùa thuở ấy
mãi ngây ngô..
Mẹ chong đèn đan sợi cói
bao giờ
Vài đồng lẻ mua mắt mờ
trước tuổi..
Nghe thu chớm đêm ru tàu
lá chuối
Tuổi thơ ơi sao gọi chẳng
trả lời..
Chị em mình giờ mỗi đứa
một nơi..
Để áo mẹ lâu lắm rồi
không vá..
Em níu lại ngày xa xưa
nhớ quá..
Gọng vó gù bao vất vả lo
toan..
Mảnh trăng thu sao vụn
vỡ ao làng
Rơi xuống đáy vỡ tan
thành đom đóm..
*.
KIÊN DUYÊN
*.
Hà Nội, ngày 04 tháng
12-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ 2 BÀI THƠ
VIẾT VỀ CHIỀU 30 TẾT
*
Tôi đọc bài thơ "Chiều
Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại cũng khá lâu rồi,
cách đây chắc cũng vài năm.
CHIỀU CUỐI NĂM
Chiều ba mươi tết về quê
Mẹ còn tất tả nón mê ra
đồng
Ruộng còn một thửa chưa
xong
Mạ non mẹ cấy lưng còng
chiều đông
Bao nhiêu công việc nhà
nông
Chìm trong giá buốt, còn
trông tới mùa
Một đời vất vả nắng mưa
Một đời cơm áo sớm
trưa... một đời
Con đi xa đã lâu rồi
Dù thương không nói nổi
lời tri ân
Đàn cò mỏi cánh phân vân
Xà xuống bờ ruộng cho
gần mẹ ta
Cấy xong trời đã xế tà
Bước chân xiêu vẹo về
nhà cúng cơm
Hương, hoa, cơm mới ngát
thơm
Dâng lên tiên tổ ghi ơn
đức dày
Hôm nay con trở về đây
Mẹ không còn nữa hao gầy
nén nhang
Khói bay bảng lảng mơ
màng
Rước mẹ về đón xuân
sang, lệ nhoà ...
*
ĐỒNG DUY TOẠI
Ngày đó định viết đôi
lời giới thiệu về bài thơ nhưng rồi lấn cấn việc nọ việc kia nên tôi chưa làm
được.
Chiều nay, 04/12/2020,
gặp bài thơ "Chiều Ba Mươi Tết" của nhà thơ, nhà báo Nguyễn
Hưng Hải trên trang facebook nhà thơ đại tá Quân đội Nguyên Hà, tôi tò mò đọc
vì thấy mấy câu ở khổ thơ đầu khá giống với khổ thơ đầu bài thơ "Chiều
Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại:
CHIỀU BA MƯƠI TẾT
Chiều ba mươi tết ở quê
Mẹ còn chân vấp, nón mê
ra đồng
Vội vàng cấy nốt cho
xong
Mấy đon mạ mót ở trong
sương mù
Cánh đồng chia khoảnh,
chia khu
Vẫn liền chân mạ, vẫn
như bao đời
Gió ơi đừng thổi rỗng
trời
Đồng không ai biết mẹ
tôi nhọc nhằn
Ngày cùng tháng tận bao
năm
Còn lo manh áo, cái ăn xuân
về
Bao người như mẹ ở quê
Chiều ba mươi vẫn nón mê
ra đồng
Một đời cấy mãi chưa
xong
Mẹ đi lui đến lưng còng
còn lui
Nhẹ nhàng đon mạ ấy thôi
Mà bao gồng gánh, khóc
cười đăm đăm
Tháng mười vui với tháng
năm
Nào ai gặt hái xa xăm có
nhìn
Đồng quê bóng mẹ hút
chìm
Chiều ba mươi vẫn đi tìm
mùa xuân
Cho sang năm hết nợ nần
Mẹ tin rảnh mạ đang cầm
trên tay
Là bình minh của một
ngày
Là giao thừa của xưa nay
giao thừa
*
NGUYỄN HƯNG HẢI
Ở khổ đầu của 2 bài thơ
này, không những giống ý 100% mà có những câu còn giống nhau gần tuyệt đối.
Thời điểm ra đời của 2 bài thơ lại khác nhau nhưng không vì thế mà nói chuyện
"đạo" thơ ở đây được vì ý (trong trường hợp này) giống nhau 100% cũng
là điều bình thường, và sự giống nhau đến 99% của câu "Chiều ba mươi tết về quê" với
"Chiều ba mươi tết ở quê"
hoặc “Mẹ còn tất tả nón mê ra đồng”
với “Mẹ còn chân vấp, nón mê ra đồng”...
cũng không thể lấy làm căn cứ để quy kết ai "đạo" thơ ai, vì nếu gạt
những câu đó ra ngoài bài thơ thì chúng chỉ là những câu giao tiếp thông thường,
tựa như: "bố tôi", "mẹ tôi", "sáng nay", "chiều
mai"....
Tôi lan man đôi chút bởi
thi thoảng trên mạng xã hội (facebook chẳng hạn) có chuyện tố nhau "thằng
này ", "đứa kia"... "đạo thơ" của xyz...
Trở lại 2 bài thơ "Chiều
Cuối Năm" của Đồng Duy Toại và "Chiều Ba Mươi Tết"
của Nguyễn Hưng Hải.
Với "Chiều
Cuối Năm" của nhà thơ, nhà giáo Đồng Duy Toại thì cảm xúc chân
thực và câu chữ giản dị là điểm sáng của bài thơ. Những câu thơ giàu thi ảnh,
thi tứ như: "Đàn cò mỏi cánh phân
vân / Xà xuống bờ ruộng cho gần mẹ ta" / "Bao nhiêu công việc nhà nông / Chìm trong giá buốt, còn trông tới mùa"
hay những câu thơ gợi nhiều cảm xúc được viết bằng tình cảm chân thực của người
con hiếu đễ: "Chiều ba mươi tết về
quê / Mẹ còn tất tả nón mê ra đồng / Ruộng còn một thửa chưa xong / Mạ non mẹ
cấy lưng còng chiều đông"... đã có sức nặng ghim "Chiều
Cuối Năm" trong trí nhớ bạn đọc.
Với "Chiều
Ba Mươi Tết" của Nguyễn Hưng Hải thì anh cũng dùng thể thơ lục bát
để viết về Mẹ và mẹ của anh cũng là người mẹ nông dân của nắng mưa tần tảo.
Những câu thơ thật hay,
thể hiện kỹ thuật tay nghề cao và tài sử dụng câu chữ của Nguyễn Hưng Hải trong
bài thơ "Chiều Ba Mươi Tết" khá nhiều: - "Gió ơi đừng thổi rỗng trời / Đồng không ai biết mẹ tôi nhọc nhằn"
/ "Một đời cấy mãi chưa xong / Mẹ đi
lui đến lưng còng còn lui / Nhẹ nhàng đon mạ ấy thôi / Mà bao gồng gánh khóc
cười đăm đăm" / "Đồng quê
bóng mẹ hút chìm /Chiều ba mươi vẫn đi tìm mùa xuân"…
Đọc những câu thơ tinh
tế, giàu thi ảnh, thi tứ như thế tôi lại thấy tiếc khi đã vô tình đọc phải
những câu "thơ" không biết nên gọi là phá thơ hay giết tiếng Việt,
kiểu như anh đảo chữ: "Giữa chang
chói Người là dòng nước mát" hoặc những câu anh viết lấy được: “Bác cũng giống Lê nin, Cac Mac / Làm đổi
thay thế giới, mỗi con người / Trong đêm đen có được ánh mặt trời / Không có
Bác không đường đi, chân lý”....), trong bài thơ: "Khai
Sinh Ra Đảng".
*.
Hà Nội, chiều 04 tháng
12-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
THƠ VIẾT VỀ MẸ
CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC
*
Trong những bài thơ viết
về Mẹ mà tôi đã được đọc thì thơ viết về Mẹ của nhà thơ Đồng Thị Chúc để lại
nhiều ấn tượng. Hình như chất nền nã của thể thơ Lục Bát đã thấm vào máu thịt
của bà nên những câu Lục Bát bà viết ra rất tự nhiên, dịu dàng và đằm thắm.
Nhất là khi viết về Mẹ thì những vần thơ của bà thật ấm nồng và tha thiết.
Có lẽ chưa có nhà thơ
nào viết về Mẹ thời thiếu nữ lại viết được những câu thơ tươi giòn sức sống của
thiếu nữ thôn quê như hình ảnh thiếu nữ (Mẹ) trong thơ bà:
"Quết trầu tô đỏ
làn môi
Cau non say để hồng
đôi má hồng"
(Mẹ Tôi)
Phải hiểu và tự hào về
Mẹ lắm thì bà mới viết được những câu thơ đặc "hương đồng gió nội"
với tượng hình Mẹ đẹp dịu dàng, thùy mị nhưng thắm đượm và tươi giòn như thế.
Chỉ với vài ba câu thơ
kể về quê Mẹ nghèo, kể về người Mẹ nghèo mà nhà thơ Đồng Thị Chúc đã cho người
đọc hình dung được cái nghèo cụ thể, cái nghèo không chỉ bó hẹp phạm vi ở một
làng quê và cái tình của người nghèo nơi thôn quê không chỉ nằm ở tinh thần
"nhường cơm sẻ áo" mà còn rất giàu lòng tự trọng.
Những câu thơ của bà mộc
mạc mà tài hoa:
"Chợ phiên mủng
thóc không đầy
Đường thôn mà lắm ăn
mày đến xin
Kéo vành nón rách
che nghiêng
Mẹ tôi giấu những ưu
phiền sẻ chia."
(Mẹ tôi)
Nhà thơ Đồng Thị Chúc
viết về Mẹ không nhiều, hình như chỉ có 2 bài thơ là "Mẹ Tôi" và "Cảm
Xúc Thơ Về Mẹ", trong đó bài "Cảm Xúc Thơ Về Mẹ"
không trực tiếp viết về Mẹ của bà nhưng cảm xúc trong bài thơ với Mẹ thì rất
thật. Có lẽ Mẹ đã là tượng đài thiêng liêng trong trái tim của những người con
nên Mẹ của bà có nhiều nét giống với Mẹ của mọi người nhưng vẫn có những nét
rất riêng Mẹ của nữ thi sĩ Đồng Thị Chúc:
“Con cò lặn lội bờ
sông”
Lời ru con hóa ru
lòng mẹ tôi"
(Mẹ Tôi)
Những câu thơ viết về Mẹ
mượt mà phảng phất chất liệu ca dao và gợi được nhiều cảm xúc như thế đã làm
nên sự khác biệt giữa thơ của Đồng Thị Chúc với thơ mọi người.
Không dùng những câu chữ
to tát, không cố kẻ vẽ, tô màu, Đồng Thị Chúc cứ nhẹ nhàng viết về Mẹ, nhẹ
nhàng nghĩ về Mẹ như những thủ thỉ tự trải ra với lòng để tự động viên bản thân
cố lên, cố lên. Những câu thơ tự nhiên, cũng không cần cầu kỳ trau chuốt tạo
hình ảnh mà tượng hình Mẹ trong thơ bà vẫn lồng lộng, sáng chói:
"Ta đi bao bước
phong trần
Vẫn không sánh được một
lần mẹ qua "
(Cảm Xúc Thơ Về Mẹ)
Vâng, những câu thơ được
tinh chiết từ sự kính trọng, lòng biết ơn bao giờ cũng hàm xúc, tạo sự xúc động
và lan tỏa hơn những câu thơ dùng đến kỹ thuật, tay nghề để tạc vẽ tượng hình
Mẹ:
"Khi ta đổ những
giấc mơ
Ghé vai mẹ dựng cơ đồ
đẹp hơn"
(Cảm Xúc Thơ Về Mẹ)
Những câu thơ mộc mạc,
chân chất được viết ra từ thẳm sâu trong tâm tưởng thật đằm sâu, xúc động và có
sức lan tỏa như thế trong thơ Đồng Thị Chúc khá nhiều!
*.
Hà Nội, 11 tháng 12-2020
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC
"THĂM BẠN" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC
*
Nhà thơ Đồng Thị Chúc
gửi tặng tôi 2 tập thơ: "Lục Bát
Dâng Tặng Mẹ Ta" và "Con
Gái Thì Thứ Hai" vào những tháng cuối năm 2019. Thi thoảng tôi mang
thơ bà ra đọc, thích khá nhiều bài, cũng định viết ít bài cảm nhận về thơ của
bà nhưng cứ mãi lần lữa chưa viết.
Thơ bà không nói đến
những chuyện to tát, những răn dạy giáo huấn về đạo làm người, cũng không sa
vào dòng thơ thế sự chính trị để gây "ấn tượng" mà đa phần chỉ là
những chuyện "vụn vặt" đời thường của cuộc sống: những lần về quê,
những chuyến thăm bạn, những chia sẻ cảm thông với phận nghèo, với phận đời gái
cơ nhỡ...
Bài thơ "Thăm
Bạn" là một trong số những bài thơ như thế.
THĂM BẠN
Ghé nhà cửa đóng then
cài
Đầy sân lá rụng thềm
ngoài rêu phong
Dao quanh trong khoảng
thinh không
Mắt đưa tìm bóng, nào trông bóng người