CẢM NHẬN THƠ VĂN 2

(cập nhật ngày 25 tháng 07 năm 2024)

*

gồm những bài viết sau:

 

41. VỀ CÂU KẾT 2 BÀI THƠ 'THĂM BẠN' VÀ 'ĐỒNG VỌNG' CỦA NHÀ THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC

42. VÀI CẢM NHẬN KHI XEM PHIM BỐ GIÀ (WEB DRAMA) CỦA TRẤN THÀNH

43. “LẠC” CỦA KHÉT

44. MỘT CHÚT TÂM TÌNH VỀ THƠ MẠC PHONG TUYỀN

45. BÀI THƠ "KHÓC CHỒNG" CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

46. BÀI THƠ ‘QUÊ CHOA’ CỦA ĐINH SỸ MINH

47. VÀI CHUYỆN NGOÀI LỀ BÀI THƠ ‘ĐỪNG ĐI’

48. HÔN QUÂN LƯU TỬ NGHIỆP VÀ VAI DIỄN CỦA TRƯƠNG DẬT KIỆT

49. YẾU TỐ ĐỒNG TÍNH TRONG THƠ ĐỖ ANH TUYẾN

50. BÀI THƠ ‘LỬNG ĐÈO TÌNH KHÚC’CỦA PHẠM THÀNH

51. BÀI THƠ “PHIÊN CHỢ DÀO SAN” CỦA TRƯƠNG HỮU THIÊM

52. THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG TRONG “THƠ TRẦN VẤN LỆ”

53. MỘT CHÚT TÂM SỰ KHI ĐỌC THƠ NGUYỄN TUYỂN

54. BÀI THƠ “CÁI TÔI” CỦA NHÀ THƠ ÁI NHÂN THI SĨ

55. THƠ TRẦN ĐỨC TÍN: VÀI TRAO ĐỔI VỚI VŨ THỊ HƯƠNG MAI

56. VÀI CẢM NGHĨ KHI ĐỌC "THU VÀNG PHỐ CŨ" CỦA HOÀNG XUÂN SƠN

57. GẶP TRẦN QUANG ĐẠO "TRONG MƯA XUÂN"

58. "ĐAU ĐẾN LƠ NGƠ" CÙNG NGUYỄN ĐỨC HẠNH

 

 

 

VỀ CÂU KẾT 2 BÀI THƠ 'THĂM BẠN' VÀ

'ĐỒNG VỌNG' CỦA NHÀ THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC

*

Khi đọc cảm nhận của tôi về bài thơ "Thăm Bạn" của nhà thơ Đồng Thị Chúc, nhà thơ Khang Minh có chút băn khoăn về câu kết bài thơ: “Phải chi nữ sĩ Đồng Thị Chúc cho thêm hai câu kết nữa thì hay quá Đặng Xuân Xuyến, vì đọc tới câu "Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua" có cảm giác thiêu thiếu cái gì đó, bài thơ chưa thể khép lại ở câu này được! Tiêng tiếc là!”. Tôi lại nghĩ khác anh, câu kết bài thơ như thế là hợp lý, tròn trĩnh mà còn gợi rất nhiều sau khi đã đọc bài thơ. Nếu nhà thơ Đồng Thị Chúc thêm một vài câu thơ nữa sẽ làm bài thơ kém duyên, mất hay.

Chuyện về một câu thơ, thậm chí cả bài thơ có những cảm nhận trái ngược là lẽ thường. Người này bảo hay, người kia bảo bình thường, hoặc người này hiểu thế này, người kia hiểu thế kia cũng là "chuyện thường ở huyện". Thơ mà! Thế nên dân gian mới gắn cho thơ, cho nhà thơ những cặp từ: “thơ thẩn”, “lẩn thẩn”,...

Trở lại chuyện câu kết bài thơ “Thăm Bạn” của nhà thơ Đồng Thị Chúc.

Bài thơ thật ngắn, chỉ có 6 câu nhưng chứa đựng nhiều nỗi niềm:

THĂM BẠN

 

Ghé nhà cửa đóng then cài

Đầy sân lá rụng thềm ngoài rêu phong

Dạo quanh trong khoảng thinh không

Mắt đưa tìm bóng, nào trông bóng người

 

Đành lòng quay gót trở lui

Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua.

*.

ĐỒNG THỊ CHÚC

Nhất là câu kết: "Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua" gợi nhiều cảm xúc với tâm trạng hụt hẫng, chán chường xen lẫn chút hờn tủi, cộng thêm chút hoang mang, lo lắng khi nhà thơ chợt nghĩ chuyện không hay của tuổi già có thể đến với bạn mình... khiến người đọc gai gai người, cùng hụt hẫng, thảng thốt theo tâm trạng chới với, "bùi ngùi" của nữ sĩ họ Đồng.

Một câu kết hợp lý, tròn trĩnh, vừa gợi cảm xúc để người đọc thăng hoa, vừa "đóng lại" để cảm xúc về chuyến "Thăm bạn" không lan man, loãng chuyện... Nếu nhà thơ thêm một vài câu thơ nữa sẽ phá mất bài thơ hay vì bố cục bài thơ đã chặt chẽ, câu kết bài thơ hợp lý và gợi được nhiều cảm xúc như thế, người có tay nghề sẽ không ai làm thế cả.

Hay bài thơ "Đồng Vọng", một trong số những bài thơ hay của nhà thơ Đồng Thị Chúc, có câu kết lửng cũng thật hay, để lại nhiều ám ảnh với người đọc.

Bài thơ lấy cảm xúc từ câu chuyện có thật: Một lần trên đường đến cơ quan làm việc, bà "gặp đôi anh chị tuổi trung niên nét mặt khắc khổ, anh mặc bộ quân phục sỹ quan đã cũ, chị mặc cái áo xanh đã bạc màu, đèo nhau trên chiếc xe đap cà tàng", "đang đi thì xe đạp của họ xịt lốp và họ phải xuống xe loay hoay xem xét.". Nhìn họ, bà trào dâng cảm xúc rất lạ, và sau đấy một thời gian, bài thơ "Đồng Vọng" được ra đời:

ĐỒNG VỌNG

 

Hai người tình

Ngồi bên nhau

Hai mái đầu

Điểm bạc.

Chiếc áo anh đang mang

Vương bụi thời trận mạc

Chị – thân hình khô xác

Nép bên bờ vai anh

Vẫn trong chiếc áo xanh

Bạc qua mùa chờ đợi.

 

Trăng soi từ vời vợi

Gió về từ xa xăm...

*.

Hà Nội, Tháng 02-1992

ĐỒNG THỊ CHÚC

Cũng theo kể lại của nhà thơ Đồng Thị Chúc thì "đôi anh chị" ấy đã già, đã quá cái tuổi sung sức để thực hiện ước mơ thay đổi số phận. Họ có gì để thay đổi số phận khi họ chỉ có "thân hình khô xác" với mái tóc "điểm bạc" cùng tài sản giá trị nhất cả về vật chất lẫn tinh thần là "chiếc áo xanh" "Bạc qua mùa chờ đợi" giờ đã là ký ức, là kỷ niệm tình yêu một thủa?! Với họ, một bữa cơm ngon, một giấc ngủ đằm sâu hơn khi bớt đi được một chút canh cánh chuyện cơm áo gạo tiền đã là xa xỉ với ước mơ của họ thì nói gì đến ước mơ đổi đời, được giàu sang phú quý viển vông ở tận đẩu đâu. Hai câu kết: "Trăng soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm... " chỉ gợi ký ức xa vời, chả có giá trị với thực tại. Đau nhưng mà thực và cũng vì cái đau ấy mà bài thơ mới nhiều ám ảnh.

Đọc "Đồng Vọng", với hai câu thơ thật hay: "Trăng soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm... ", thể hiện sự tìm tòi và sáng tạo của nhà thơ Đồng Thị Chúc, tôi chợt nhớ đến những câu thơ như những lát cắt trần trụi, đau đáu xót xa của nhà thơ Phạm Đức Mạnh:

"Tháng Tư

những người lính kiệt sức vì đạn bom

thoi thóp sống

lết tìm nhau

nhặt mảnh vụn xuân thì đang trôi mất

hàn rỉ sét chiến tranh

bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội."

(Tháng Tư Màu Nhớ)

Những câu thơ trần trụi đến phũ phàng, không chỉ gián tiếp lên án cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" mà còn là tiếng lòng nhà thơ Phạm Đức Mạnh xót xa trước chính sách đãi ngộ hoặc chưa thỏa đáng hoặc đã bị lãng quên của chế độ đối với những chiến binh vừa bước ra khỏi cuộc chiến. Những câu thơ: "những người lính kiệt sức vì đạn bom / thoi thóp sống / lết tìm nhau / bó vết thương lòng kiếm tìm đồng đội” thật đau và đắng ngắt.

Cả hai bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" và "Đồng Vọng" đều gián tiếp lên án cuộc nội chiến vô nghĩa, đều xót xa trước hiện thực cuộc sống "thoi thóp", mờ mịt, bị chế độ xã hội lãng quên chính sách đãi ngộ hoặc đãi ngộ chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, biểu tượng của những người lính vừa trở về sau cuộc chiến. Hai bài thơ với hai gam màu khác nhau, hai cách viết khác nhau: một bên mang gam màu "kỷ yếu ", thời sự của Hội chứng chiến tranh, và người viết đang cố gắng tìm tòi để làm mới diện mạo thơ mình theo cách viết "hiện đại", một bên là những lát cắt của cuộc sống thường nhật với gam màu dung dị của cuộc sống, và người viết chỉ nhẩn nha tìm tòi, sáng tạo theo lối viết nhẹ nhàng, nền nã đã định hình để phả vào thơ hương sắc chân thực của cuộc sống. Khác, nhưng cả 2 bài thơ đều là tiếng lòng của người cầm bút có trách nhiệm với tình yêu quê hương đất nước.

Sở dĩ tôi nhắc đến bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" của nhà thơ Phạm Đức Mạnh bởi khi đọc những câu thơ tái hiện hình ảnh vợ chồng người cựu chiến binh trong bài thơ "Đồng Vọng" tôi chợt liên tưởng tới hình ảnh người lính trong Hội chứng chiến tranh đã được thể hiện ở nhiều thể loại văn học nghệ thuật, hoàn toàn không có ý như đặt lên bàn cân để so sánh giá trị nghệ thuật giữa 2 bài thơ và tài thơ của 2 nhà thơ.

Trở lại bài thơ "Đồng Vọng" với 2 câu thơ kết thật hay, và không quá lời nếu nói đây là 2 câu thơ tài hoa của nhà thơ Đồng Thị Chúc:

"Trăng soi từ vời vợi

Gió về từ xa xăm..."

Một cái kết mở với những hình ảnh thật đẹp cho sáng tác thơ ca nhưng lại thật đau, thật đắt để bạn đọc liên tưởng tới tương lai vợ chồng người cựu chiến binh đã đợi chờ nhau suốt chiều dài cuộc nội chiến về ý thức hệ giữa 2 miền Nam Bắc: Phía trước vợ chồng họ là "Trăng", là "Gió", là những thứ chỉ dành cho thơ ca, những thứ chỉ dùng để "ru ngủ đời sống tinh thần", những thứ chẳng có chút giá trị với cuộc sống thực ở cõi người. Đã vậy "Trăng" còn "soi từ vời vợi", "Gió" còn "về từ xa xăm", lại thêm ba dấu chấm lửng ở câu thơ cuối bài như mũi kiếm xoáy thêm sâu vào tương lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến binh. Ôi! Phần thưởng - cái giá đắng chát dành cho “lý tưởng” của những người lính trở về sau cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" là đây sao?!

Đồng Vọng” đã vượt lên trên sự cảm thông của nhà thơ Đồng Thị Chúc trước tương lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến binh để cất lên tiếng nói chân thực, trách nhiệm của người cầm bút với quê hương đất nước!

Thật tiếc, khi tuyển chọn "Đồng Vọng" in trong thi phẩm "Những Gương Mặt Mới", cố thi sĩ Trinh Đường đã thêm 2 câu: "Tiếng chim gì da diết / Hay từ quy thương xuân.” vào cuối bài thơ, mà theo ông để “cho thêm phần da diết." nhưng ông đâu ngờ chính 2 câu thơ "thêm ấy" đã làm cho bài thơ mất đi tính "chiến đấu", giảm hẳn sự ám ảnh với người đọc vì thế mà bài thơ kém hay.

*.

Hà Nội, đêm 03 tháng 03.2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI XEM PHIM

BỐ GIÀ (WEB DRAMA) CỦA TRẤN THÀNH

*

BỐ GIÀ (Web drama) là bộ phim giải trí, đậm đặc chất thương mại, thực hiện rất kỹ ngay từ khâu viết kịch bản. Từ việc quy tụ các ngôi sao "ăn khách", các "hiện tượng mạng" đã được Trấn Thành cẩn thận "đo chân đóng giày" (cho diễn viên thể hiện) với từng hình tượng nhân vật để hút fan tới rạp, đến việc lồng quảng cáo các sản phẩm, dịch vụ... vào phim đều được tác giả kịch bản kiêm nhà sản xuất Trấn Thành khéo léo "bày binh bố trận" theo đúng chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp.

Kịch bản được viết theo kiểu "đo chân đóng giày" cho từng vai diễn nên các diễn viên có nhiều đất diễn để tròn vai. Ví như: “Má Ngọc Giàu” diễn tự nhiên, rất đời, khiến những tình tiết trong các phân đoạn có sự xuất hiện của nghệ sĩ Ngọc Giàu trở nên chân thực, sống động. Hay như Khả Như xuất hiện chỉ thoảng qua nhưng cô vẫn kịp để lại dấu ấn khó quên bởi sự xinh đẹp và nét duyên của cô trong vai diễn có nhiều nét hài tình huống. Hoặc Trúc Nhân, chàng ca sĩ nổi đình đám với những ca khúc: "Bốn chữ lắm", "Thật bất ngờ".... vẫn nhí nhố đáng yêu trong tạo hình một chàng "bóng lẹo hám trai"....

Sở dĩ phim Việt Nam những năm gần đây thường bị khán giả quay lưng có nhiều nguyên nhân, trong đó có khâu kịch bản thiếu thực tế, không đưa được hơi thở thực của cuộc sống vào trong phim... "BỐ GIÀ" (Web drama) của Trấn Thành đã làm rất tốt ngay từ khâu viết kịch bản, đã đưa được những lát cắt "phổ cập" của cuộc sống vào trong phim mà các gia đình người Việt Nam ít hay nhiều đều có.

Báo chí ca ngợi Trấn Thành quá nhiều khi anh đảm nhận vai ông bố (Ba Sang) trong BỐ GIÀ chiếu ở rạp, coi đó là “hiện tượng”, và khen ngợi Trấn Thành thực sự đã trở thành “diễn viên ngôi sao”... Chưa xem phim BỐ GIÀ chiếu ở rạp nên tôi không biết Trấn Thành có xứng đáng với những lời khen ngút ngàn về diễn xuất như vậy hay không nhưng xem BỐ GIÀ (Web drama) thì tôi thấy anh đã hoàn thành vai diễn khá tốt.

Tuy vậy, xem Trấn Thành diễn trong BỐ GIÀ (Web drama), tôi thấy anh trội về diễn hài nhưng đuối về diễn bi. Chẳng hạn, ở cảnh quay Sang (Tuấn Trần) chịu thay ông Thành (Trấn Thành) nhát dao đâm trả thù của bọn cướp, Trần Thành diễn khá đơ, nhất là khi quay cận cảnh khuôn mặt ông Thành, Trấn Thành không những để lộ khả năng diễn bi không giỏi còn “tố” tay nghề nghiệp dư của anh. Cũng may, chỉ sau vài nhịp, Trấn Thành đã nhập vai trở lại, cùng Tuấn Trần lấy nước mắt của khán giả. Ở những thước phim này, diễn viên trẻ Tuấn Trần vào vai khá nhuyễn và chính sự phối hợp nhịp nhàng ăn ý của cặp đôi bố con Thành - Sang đã cống hiến cho khán giả những thước phim "chân thực", lột tả được tình cha con đang hiện hữu trong cuộc sống đời thường.

Hay như ở những thước phim cuối của tập 4, ở cảnh quay Sang (Tuấn Trần) đặt con dao ở bàn và nói: -“Ba sinh một đứa con, ba cho nó sự sống nhưng ba không cho nó sống theo cách mà nó muốn sống thì lấy lại đi!”. Ở cảnh quay này, đạo diễn cho ông Thành đấm Sang 2 cú đấm không đủ mạnh chỉ mang tính chất hù dọa vì tức giận rồi đổ sập người xuống là hợp lý, phù hợp với tâm lí và tính cách của ông Thành: ngoài cứng trong mềm, yêu con hết mực; vì bực mà đánh con nhưng vẫn sợ con đau nên 2 cú đấm "tung ra" chỉ "nửa vời", rồi bất lực đổ gục người xuống. Ở cảnh quay này, Trấn Thành chưa diễn bật được: thành trì cứng rắn của người cha gia trưởng và cố chấp (vì sợ con không phát triển được sự nghiệp sẽ nghèo khổ) bị thách thức, bị đe dọa sụp đổ (nhưng chưa sụp đổ) trước phản kháng của Sang. Hình ảnh ông Thành, qua cách diễn của Trấn Thành đã trở thành ông bố nhu nhược, yếu đuối, dễ đầu hàng, thoái lui. Tôi nghĩ, đấy không phải là hình tượng nhân vật trong ý đồ của tác giả kịch bản, của đạo diễn phim BỐ GIÀ (Web drama). Và tôi thấy cũng lạ là Trấn Thành diễn nội tâm không giỏi mà đạo diễn (hình như) lại thích khai thác quay cận cảnh những cảnh đòi hỏi diễn viên phải là người thực sự có nghề! Rất may, Trấn Thành cũng có những thước phim diễn nội tâm khá tốt, ví như khi phân đoạn Sang nằm cấp cứu trong bệnh viện (tập 5): người xem đã thấy được những đau đớn, những giằng xé, những ân hận, xót xa và nỗi bi ai tuyệt vọng trong con người ông Thành qua ánh mắt, giọng nói và nét mặt của diễn viên Trấn Thành. 

(Vai Sang, một trong những vai chính của BỐ GIÀ (Web drama), do diễn viên trẻ Tuấn Trần đảm nhiệm cũng để lại ấn tượng tốt với người xem. Tuy nhiên, vai diễn này cũng có những hạt sạn để người xem dễ dàng nhận ra đấy là sản phẩm tay nghề của diễn viên nghiệp dư ví như khi ở phân đoạn Sang tập bài cùng nhóm nhạc, vô tình bị bố Thành (Trấn Thành) bắt gặp, ở cảnh quay này Tuấn Trần diễn (bị) thoát vai, người xem không thấy nhân vật Sang mà chỉ thấy người mẫu Tuấn Trần đang làm mẫu ảnh.)

Xem 5 tập BỐ GIÀ (Web drama), đã thấy rõ những nét diễn chuyên nghiệp của diễn viên Trấn Thành nên tôi tin: khoảng thời gian từ 2020 với BỐ GIÀ chiếu trên mạng đến 2021 với BỐ GIÀ chiếu ở rạp, đủ để một người đa tài và đầy tham vọng chinh phục những thành công như Trấn Thành có thể tỏa sáng như những lời khen của báo giới.

Viết vài cảm nhận khi xem phim BỐ GIÀ (Web drama) để tặng con trai yêu Đặng Tuấn Hưng khi 2 giờ sáng thấy con viết trên tin facebook: “Xem phim Bố Già (chiếu rạp) thấy nhớ Bố quá”.

*.

Hà Nội, chiều 29 tháng 04-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

"LẠC" CỦA KHÉT

*

Nhận được tập thơ "Mình Mắc Cạn Vào Nhau" của Khét (Trần Đức Tin) gửi tặng chiều qua, 05 tháng 05 năm 2021. Cầm tập thơ nho nhỏ xinh xinh, chừng trăm trang in, tôi muốn đọc một lèo rồi viết vài dòng cảm nhận về tâp thơ, để đáp lại sự quý yêu của Khét nhưng sách in cỡ chữ nhỏ quá mà lưng thì đau, cánh tay lại nhức buốt, cử động rất khó khăn nên cả tối qua vất vả lắm tôi mới đọc được vài bài. Những lúc thế này mới thấy sức khỏe thật đáng quý.

Thơ Khét, như mấy bài tôi vừa đọc, có cách viết khá giống với phần đông những cây viết trẻ: làm mới, lạ và "độc" trong cách sử dụng câu từ nhưng giọng thơ của Khét thì lại khá ấn tượng, rất riêng biệt của Khét. Bài "Lạc" là một bài thơ như thế:

LẠC

Những đứa trẻ

lạc

đường

đi hoang như chưa từng có mẹ

thổi khúc sáo tiêu dao, trâu mỏi mòn gặm nhấm

thèm uống nửa trưa đồng nắng hạ, nứt nẻ chân đất soi bóng những hố bom

con lia thia quẫy đuôi, không trôi được nỗi buồn

những đứa trẻ

lạc

đường

thèm lời à ơi, câu chuyện bà kể dù cổ tích không thiêng

trơ vơ

Bụt

tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió

ăn hết những yêu thương.

*.

Khét (Trần Đức Tin)

Khét viết về "Những đứa trẻ / lạc / đường" với lối ví von rất ngộ nghĩnh: "đi hoang như chưa từng có mẹ". Thì hẳn là vậy mà! Không có Mẹ thì không có sự chằm bặp yêu thương, không có sự dẫn dắt dạy bảo, thì khổ lắm, dễ lầm đường lạc lối lắm. Nhưng lạ là ở văn bản bằng chữ của "Lạc", Khét ghi cụ thể: "như chưa từng có mẹ" thì rõ ràng chính "những đứa trẻ" đã tự ý thức "lạc đường", tự chối bỏ vòng tay yêu thương chở che của "mẹ" để "đi hoang", để tự dời bỏ Quê Hương mang theo nỗi đau của kẻ xa xứ, không nhà. Nghĩa đen là vậy. Ẩn ý ở những câu chữ này là gì? "Lạ" và "ngộ nghĩnh" ở sự ví von này sao cứ làm đau trái tim người đọc khi những câu thơ cứ nhoi nhói bắt người đọc liên tưởng tới thực trạng những hình ảnh xám xịt màu đen trong xã hội hiện tại?!

Khét viết tiếp về chuyện "đi hoang" của "những đứa trẻ" bằng những cách ghép chữ mới, lạ, với những hình ảnh gợi nhiều cảm xúc:

"thổi khúc sáo tiêu dao, trâu mỏi mòn gặm nhấm

thèm uống nửa trưa đồng nắng hạ, nứt nẻ chân đất soi bóng những hố bom

con lia thia quẫy đuôi, không trôi được nỗi buồn"

Những câu: “thèm uống nửa trưa đồng nắng hạ, nứt nẻ chân đất soi bóng những hố bom”, "con lia thia quẫy đuôi, không trôi được nỗi buồn" thật xót xa, nhiều ám ảnh.

Khét viết tiếp ước mơ của "những đứa trẻ" tự bỏ nhà "đi hoang": "thèm lời à ơi, câu chuyện bà kể" bằng tiếp tục ý thức tự đánh lừa niềm tin vì đã biết "dù cổ tích không thiêng", vẫn cố bấu víu vào hy vọng huyễn hoặc sẽ có được chút phép nhiệm màu của những câu chuyện "cổ tích" để có được cuộc sống bình thường với “mẹ”, với Quê hương.... 

Nhưng sự thực cuộc sống hiện tại theo Khét kể sao mà đắng chát, mà đằm những xót xa:

"trơ vơ

Bụt

tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió

ăn hết những yêu thương."

"Bụt" trong truyện cổ tích là một ông Tiên có phép nhiệm màu luôn chớ che, bảo vệ, luôn đem đến những yêu thương, hạnh phúc cho con người còn "Bụt" trong "Lạc" của Khét lại là một ông Bụt “trơ vơ”, bất lực “tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió”, "ăn hết những yêu thương."... Phép nhiệm màu của Bụt, của ông Tiên trong niềm tin ngàn đời của người dân Việt đã bất lực trước sự hoành hành đang chiếm thế thương phong của cái ác.

Đọc những câu thơ này của Khét, tôi nhớ hình như đã nghe ở đâu đó, đọc ở đâu đó lời ngợi ca về một "ông Tiên", một ông "Bụt" hiện hữu giữa đời thường còn nhân đức hơn nhiều ông tiên, ông "Bụt" trong truyện cổ tích… nhưng mà suốt từ sáng đến giờ tôi vẫn không thể nhớ ra.

*.

Hà Nội, trưa 06 tháng 05.2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

MỘT CHÚT TÂM TÌNH VỀ THƠ

MẠC PHONG TUYỀN

*

Nhà thơ trẻ Mạc Phong Tuyền là người rất kỹ tính trong sáng tác. Một bài thơ từ lúc là bản nháp đến khi anh đưa ra giới thiệu với bạn đọc có thể đến vài tuần, vài tháng, thậm chí ngay cả khi bài thơ đã công bố rồi anh vẫn sửa đi sửa lại, sửa tới sửa lui, hôm nay ưng cái bụng nhưng ngày mai chưa chắc cái bụng anh còn ưng. Vì thế mà câu chữ anh chọn dùng thường mới, lạ và có nhiều sáng tạo trong cách sử dụng ngôn từ. Có những chữ “cũ kỹ”, “quê mùa” từ chốn dân dã, thôn quê bỗng trở nên lạ, đẹp, “đắt” trong thơ Mạc Phong Tuyền, và chính những chịu khó tìm tòi làm mới cách thể hiện văn cảnh đã tạo phong cách thơ cá tính, độc đáo, rất của riêng Mạc Phong Tuyền. Sự “làm mới” mang nhiều yếu tố phá cách này như con dao 2 lưỡi, có thể đẩy bài thơ lên cao nhưng cũng có thể đạp bài thơ xuống tận cùng thất bại. Thật mừng, trong vốn liếng thơ ca của Mạc Phong Tuyền, có khá nhiều bài gây ấn tượng mạnh với bạn đọc bởi cấu tứ lạ, bởi những thao tác làm mới cách thể hiện khiến những câu chữ “cũ kỹ”, đời thường trở nên sinh động, mềm mại, đẹp, lạ, vẫn giữ được chất dân dã chân quê mà lại thêm nét khoáng đạt, hiện đại.

Những người theo trường phái thơ "siêu thực", "cách tân" sẽ thích thơ của Mạc Phong Tuyền vì cấu tứ lạ, vì sự bóng bảy, đa nghĩa, bí hiểm và sáng tạo trong cách sử dụng câu chữ. Phái này quan niệm thơ càng rối rắm, càng bóng bảy, khó hiểu và đa nghĩa thì tài của nhà thơ càng cao, càng “tuyệt bút”. Nhưng những người trung thành với lối thơ truyền thống sẽ không thích thơ Mạc Phong Tuyền vì ngoài sự bóng bẩy, bí hiểm, người đọc khó tìm thấy những rung cảm của nhà thơ nên không tạo được sự đồng cảm với người đọc. Phái chuộng lối thơ truyền thống cho rằng: Thơ rối rắm kiểu đánh đố người đọc, lại vô hồn, không tạo được sự đồng cảm với người đọc thì đấy là điểm chưa thành công của người làm thơ.

Thực ra, thơ của Mạc Phong Tuyền không rối rắm, bí hiểm như thơ của các nhà thơ thuộc trường phái “cách tân”, “siêu thực”. Anh chịu khó tìm tòi làm mới cách thể hiện câu chữ để tạo những hình ảnh lạ mà đẹp trong thơ, và cũng khá nhiều bài thơ của anh găm sâu trong trí nhớ người đọc. Tuy nhiên cũng có những trường hợp anh “làm mới” còn đuối, chưa đạt nên những bạn đọc khó tính cho là “tạo dáng”, là xa lạ, khó hiểu. Có lẽ vì vậy mà người yêu thơ anh cũng nhiều mà người “lánh” thơ anh cũng không ít.

Chặp gần Tết năm 2021, anh tâm sự qua messenger, bài thơ "Nhớ Huế", ban đầu anh công bố trên trang facebook cá nhân:

Hổm rồi ghé chợ Đông Ba

Ngỡ rằng Huế đắt Huế la Huế rầy

Ai dè Huế vẫn thơ ngây

Tôi về Vỹ Dạ - nhớ - đày đọa tôi...

nhưng sau những chỉnh sửa, anh công bố lại "Nhớ Huế" với "diện mạo" hoàn toàn mới:

Hổm rồi ghé chợ Đông Ba

Ngỡ rằng Huế đắt xắt ra miếng rồi

Thần Kinh vẫn nếp xưa thôi

Tôi về Vỹ Dạ - nhớ - tồi tội tôi...

thì bạn đọc Quỳnh Hương bình luận: - "Bữa trước tôi rất thích cái tứ "đày đọa", hôm nay tôi vào xem lại thấy đổi “đày đọa” thành “tồi tội” lấy làm tiếc lắm.".

Khi đọc những tâm sự của Mạc Phong Tuyền qua messenger, tôi trả lời anh, chưa bàn đến sự hay dở của "Nhớ Huế" với những chỉnh sửa ở 3/4 câu thơ trong bài "Nhớ Huế" nhưng tôi thích 2 chữ "tồi tội" hơn vì 3 chữ "tồi tội tôi" khiến câu thơ: "Tôi về Vỹ Dạ - nhớ - tồi tội tôi..." gợi được nhiều cảm xúc của nhiều cung bậc tình cảm: hờn tủi, luyến tiếc, nhớ nhung,... nhẹ nhàng quyện vào nhau để nỗi bâng khuâng dành cho Huế thêm da diết, xóa đi tâm trạng nặng nề và cảm giác cảm xúc không thật như khi dùng 2 chữ "đày đọa". Sự thay đổi ở câu cuối này làm “dư vị” đất cố đô thêm bâng khuâng, thao thiết.

Mạc Phong Tuyền yêu thơ, làm thơ theo cách chơi thơ rất riêng như thế.

*.

Hà Nội, sáng 16 tháng 07-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ "KHÓC CHỒNG"

CỦA ĐỒNG THỊ CHÚC

*

Bài thơ "Khóc Chồng" của nhà thơ Đồng Thị Chúc, viết từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, nhưng mãi tới ngày 29 tháng 7 năm 2021 bà mới đưa lên facebook giới thiệu với bạn bè:

KHÓC CHỒNG

 

Vừa mới hôm qua thức bên anh

Nhỏ to câu chuyện nặng nghĩa tình

Hôm nay anh bước vào Thiên cổ

Để lại một mình em đứng trông.

 

Em đứng nơi đây giữa biển trời

Mênh mông sóng nước, một thuyền trôi

Thuyền trôi theo sóng mà vô hướng

Em giữa lòng thuyền vụng tay bơi.

 

Em đã gọi hoài gọi mãi anh

Đáp lời là tiếng gió rít đanh

Tiếng em chìm đắm trong vô vọng

Chỉ còn tiếng sóng giữa biển xanh.

 

Em đã như chim gãy cánh rồi

Nằm im bất động mặc thuyền trôi

Mắt em đăm đắm vào ảo ảnh

Cầu chúc hồn anh mãi thảnh thơi.

*.

(Những ngày bi quan nhất)

ĐỒNG THỊ CHÚC

Bài thơ giàu cảm xúc của tình nghĩa vợ chồng, nhất là 4 câu thơ ở khổ thơ thứ 2 gây nhiều xúc động:

"Em đứng nơi đây giữa biển trời

Mênh mông sóng nước, một thuyền trôi

Thuyền trôi theo sóng mà vô hướng

Em giữa lòng thuyền vụng tay bơi."

đọc mà thấy nặng những đau đáu xót xa bới sự cô đơn bủa vây, bởi những hoang vắng, hụt hẫng, những buồn tủi đau đớn vì mất mát mà ý thức của nhân vật trong thơ không thể thật sự làm chủ được cảm xúc. Nỗi đau ấy thật lớn, đã vô thức bao phủ cả tâm thức nhân vật, cả không gian, thời gian... Hình ảnh con thuyền trong thơ thể hiện sự hụt hẫng, đau xót đến vô thức của người vợ trước sự "ra đi" đột ngột của người chồng. Hai câu: "Thuyền trôi theo sóng mà vô hướng / Em giữa lòng thuyền vụng tay bơi." đã diễn tả nỗi xót xa đến tột cùng sự bất lực của tâm trạng hụt hẫng, chới với trước mất mát quá lớn. Từ "vụng" được đặt ở câu cuối khổ thơ thứ 2 này thật đắc dụng, đã khéo léo thể hiện tâm trạng buồn tủi, xót xa của người vợ yêu chồng, luôn được chồng yêu thương chở che, luôn được chồng làm điểm tựa vững chắc cho đời sống tinh thần ... khi mà phía trước là những tháng ngày người vợ sẽ bơ vơ đơn độc đối diện với cuộc đời. Chữ "vụng" trong câu "Em giữa lòng thuyền vụng tay bơi." đã đẩy nỗi đau nhân lên gấp bội.

Khổ tiếp theo, nhà thơ nghẹn lời với người quá cố: "Em đã gọi hoài gọi mãi anh" và nhận về sự tuyệt vọng xót xa: "Đáp lời là tiếng gió rít đanh / Tiếng em chìm đắm trong vô vọng / Chỉ còn tiếng sóng giữa biển xanh."

để rồi chấp nhận sự thật xót lòng:

"Em đã như chim gãy cánh rồi

Nằm im bất động mặc thuyền trôi

Mắt em đăm đắm vào ảo ảnh

Cầu chúc hồn anh mãi thảnh thơi."

Chữ trong những câu thơ này không mới, tứ cũng không có gì đặc biệt nhưng lại tạo được đồng cảm với bạn đọc bởi sự mộc mạc, chân chất trong cách diễn tả tâm trạng nhân vật đã chạm vào trái tim người đọc. Tôi thích đọc thơ bà vì những câu thơ chân thật như thế, như được chiết ra từ nước mắt và nỗi đau rất thật của bà.

"Khóc Chồng" là bài thơ nhiều cảm xúc của tình chồng vợ, nhất là khổ 2 của bài thơ đã gây nhiều xúc động với tôi khi đọc bài thơ này.

*.

Hà Nội, sáng 30 tháng 07/2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ ‘QUÊ CHOA’

CỦA ĐINH SỸ MINH

*

Chiều 25 tháng 7 (2021), rảnh thời gian tôi mở tủ sách lấy tập thơ "THĂM THẲM BÓNG LÀNG" của nhà thơ Đinh Sỹ Minh ra đọc lại. Trong 45 bài thơ của "THĂM THẲM BÓNG LÀNG", bài thơ "Quê Choa" với ngôn từ mộc mạc, với cách viết ngẫu hứng và hồn nhiên đã để lại cảm xúc khá ấn tượng trong tôi.

QUÊ CHOA

 

Giữa ồn ào náo nhiệt phố đông

“Đi mô rứa”, nghe nao lòng đến thế!

Cảm giác quê choa vừa thương vừa lạ

“Mi ngài mô?” đã đủ xao lòng!

 

Có một thời mới ở quê ra

Cứ ngượng ngịu rầy vì giọng Nghệ

Ngữ điệu ríu ran líu lo í ới

Muốn che đi như mắc lỗi không bằng.

 

Giờ đã qua ngữ điệu bốn phương

Ta thấy yêu tiếng quê choa đến vậy

Qua cay đắng ngọt bùi, những ngữ phương từng trải

Thấy không mô bằng tiếng mẹ mình ru con.

 

Dòng sông La và dãy Trường sơn

Cứ thác lũ, quê ơi nặng nợ

Nặng nhân ái, nặng phù sa núi lở

Ta lớn khôn, nhớ cha thuở roi đòn.

 

Tình yêu qua gian khổ mặn mòi hơn

Gió Lào quắt khô, cát trắng, trắng trời

Nắng và gió phôi thai điệu ví

Dẫu đi khắp bốn phương trời vẫn vậy

Tiếng quê choa chan chứa tình choa.

*.

ĐINH SỸ MINH

Cái tình giành cho quê hương của nhà thơ Đinh Sỹ Mình trong "Quê Choa" thật hồn nhiên, trong trẻo, đáng yêu như bản ngã người dân xứ Nghệ chân thành đến khắc khổ. Có lẽ, tệ phân biệt, chia rẽ vùng miền cố hữu ở một số người khiến anh ngại ngùng muốn giấu đi thổ ngữ quê Choa? Những câu thơ chân chất được ngẫu hứng cất lên từ tiếng lòng của nhà thơ Đinh Sỹ Minh đã rất nhanh chạm vào trái tim người đọc:

"Có một thời mới ở quê ra

Cứ ngượng nghịu rầy vì giọng Nghệ

Ngữ điệu ríu ron líu lo í ới

Muốn che đi như mắc lỗi không bằng"

Tâm trạng này cũng là tâm trạng chung của những người dân "Quê Choa" xa xứ. Đinh Sỹ Minh đã thành công khi anh "biến" tâm trạng của riêng anh thành tâm trạng "riêng" của nhiều người dân xứ Nghệ.

Tình quê hương thấm sâu trong hơi thở nên đi đâu, làm gì, bất chợt gặp lại tiếng mẹ đẻ, tiếng "Quê Choa" cũng làm Đinh Sỹ Minh bâng khuâng nỗi nhớ. Lần nữa, những câu thơ như được bật ra tức thì từ cảm xúc ngẫu hứng của nhà thơ Đinh Sỹ Minh lại làm mềm lòng những người dân xứ Nghệ:

"Giữa ồn ào náo nhiệt phố đông

"Đi mô rứa", nghe nao lòng đến thế

Cảm giác quê choa vừa thương vừa lạ

"Mi ngài mô?" đã đủ xao lòng!"

Khi bươn chải nơi đất khách quê người, với những va đập, bon chen giữa nhiều kiểu người tốt - xấu - hay - dở, với tệ phân biệt vùng miền còn cố hữu ở một số người, người dân "Quê Choa" có những lúc phải tạm giấu đi ngữ điệu "trọ trẹ quê hương" mà hòa đồng với "ngữ điệu bốn phương" để mưu sinh... Đinh Sỹ Minh cũng vậy, anh cũng phải giấu đi tiếng "trọ trẹ quê Choa" khi bước chân xa quê lập nghiệp. Và sau những năm tháng lăn lộn ở xứ người với những "cay đắng ngọt bùi" nếm trải thì phút lắng lòng vẫn da diết tiếng "trọ trẹ" quê hương:

"Giờ đã qua ngữ điệu bốn phương

Ta thấy yêu tiếng quê choa đến vậy

Qua cay đắng ngọt bùi, những ngữ phương từng trải

Thấy không mô bằng tiếng mẹ mình ru con."

Những câu thơ chân thật kiểu ngẫu hứng "thấy gì viết đấy", không chỉ ở vài câu thơ mà gần như ở cả bài, vậy mà "Quê Choa" lại chiếm được cảm tình của nhiều bạn đọc. Tôi nghĩ, bạn đọc (nhất là bạn đọc xứ Nghệ) thích bài thơ "Quê Choa" vì nhà thơ Đinh Sỹ Minh đã làm được điều mà nhiều nhà thơ chưa làm được, đó là nói hộ tiếng lòng của những người dân xa xứ, đã "biến" tâm trạng của riêng anh thành tâm trạng "riêng" của nhiều người dân xứ Nghệ xa quê.

*.

Hà Nội, ngày 4 tháng 8-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CHUYỆN NGOÀI LỀ

BÀI THƠ ‘ĐỪNG ĐI’

*

"Đừng Đi" là bài thơ tôi viết rất ngẫu hứng, không phải ngẫu hứng từ chuyện tình cảm của tôi mà ngẫu hứng từ những than vãn dư lệ của một chàng trai trẻ, một người bạn trên facebook.

Đêm ấy, đêm 29 tháng 9 năm 2018, những cảm xúc của tâm trạng lâu ngày mới về quê làm tôi mất ngủ. Lang thang "dạo” facebook để giết thời gian tôi gặp những "tiếng nấc" của chàng trai trẻ Vũ Mai về mối tình thơ mộng 7 năm có “nguy cơ” bị tan vỡ. Vì "biết" Vũ Mai và bạn gái của cháu từ những ngày đầu mới chơi facebook (tháng 9 năm 2012) nên tôi nhắn tin hỏi: "Hai đứa lại có chuyện à? Con gái người ta có thì, yêu nhau cũng lâu rồi, cưới đi cháu.", thì Vũ Mai liền điện thoại tới tôi, nghẹn lời: -"Em ấy giục cưới nhưng con chưa muốn cưới vì công việc của con còn bấp bênh lắm. Con bảo vài năm nữa nhưng em ấy không chịu, dứt khoát chia tay con rồi, chú ơi...".

Chắp nối những chuyện tôi "biết" về chuyện tình 7 năm của 2 cháu, thêm nữa chút chuyện "của đời", tôi viết rất nhanh "Đừng Đi", định đề tặng chuyện tình 7 năm của Vũ Mai nhưng sợ cháu thêm buồn nên tôi post lên trang facebook cá nhân như một bài thơ tình của mình..

ĐỪNG ĐI

.

Ở lại đi

Một đêm thôi

Một đêm thôi, ở lại

Ta xin người ở lại, chỉ một đêm

Ngoài kia trời lướt khướt sũng đêm

Ta tí tách trong này mơ hồ từng giọt rỏ

.

Ta nào khóc. Chỉ là ta quá nhớ

Những chiều Thu ai tết tóc bên thềm

Rãi trăng vàng ai ríu rít hằng đêm

Và ai nữa khiến ta từng ngộp thở.

.

Ta xin đấy. Ngoài kia là những gió

Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ

Người ở lại.

Đừng đi!

Đừng đi!

Ta sợ

Bảy năm trời thoáng chốc chỉ là mơ.

*.

Làng Đá, đêm 29.09.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Sáng sớm ngày 1 tháng 7 năm 2019, tôi nhận được bài cảm nhận về bài thơ "Đừng Đi" của Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương gửi qua messenger với lời nhắn: "Chú gửi đôi dòng bình luận. Cháu đọc rồi hồi âm cho chú nhé."

Đọc xong, tôi có vài băn khoăn.

Hình như Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã thả cảm xúc "phiêu" quá nên mấy câu thơ: "Ngoài kia là những gió / Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ", ông đã cảm nhận với những cảm xúc thật lắm:

“Ta xin đấy. Ngoài kia là những gió

Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ

Người ở lại.

Đừng đi!

Đừng đi!

Ta sợ”

Một lần nữa nhà thơ đã gửi lời cầu xin. Cầu xin không được rồi hù dọa cảnh đêm khuya hun hút gió lùa, đêm thì tối, đèn thì mờ... Rồi anh lo lắng sợ hãi nếu nàng cứ quyết ra đi không ở lại liệu trong đêm tối trời trong gió mưa ấy nàng có mệnh hệ gì anh biết sao đây? Anh sẽ phải ân hận suốt cả cuộc đời.".

Thực ra mấy câu thơ: "Ngoài kia là những gió / Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ" Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương không nên hiểu thật thà đến thế mà nên được hiểu là những lo lắng bởi những tệ nạn, những cạm bẫy đang rình rập ở bên ngoài xã hội...

Và câu kết bài thơ: "Bảy năm trời thoáng chốc chỉ là mơ", cũng được Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương hiểu theo nghĩa hoàn toàn khác với ý của văn bản thơ:

"Đọc câu kết ta mới hiểu không chỉ khoảnh khắc, không chỉ một phút, một giờ, một đêm mà bảy năm rồi nhà thơ của chúng ta đã cầu xin một tình yêu và anh chợt nhận ra rằng giờ nó đã hoàn toàn vụn vỡ chia xa. Chỉ là một giấc mộng kê vàng. Thế mới biết sự chờ đợi trong tình yêu đã đạt đến giới hạn của sự vô cùng:

“BẢY NĂM TRỜI THOÁNG CHỐC CHỈ LÀ MƠ”

Nỗi khát khao tình yêu của Đặng Xuân Xuyến là khát khao rất thực từ một con tim bạo liệt và có lẽ sẵn sàng quyên sinh vì người anh yêu dấu. Có nỗi đợi chờ nào đã suốt 7 năm. 7 năm có bao nhiêu ngày bao nhiêu giờ bao nhiêu phút bao nhiêu giây và bao nhiêu khoảnh khắc mà không đợi chờ không khao khát. Phải không các bạn. Tôi trân trọng nỗi đợi chờ này..."

Sau lời cám ơn ông đã đồng cảm với "Đừng Đi", tôi đề nghị ông sửa lại đoạn cuối bài cảm nhận vì "Bảy năm trời thoáng chốc chỉ là mơ" là nỗi đau về một tình yêu đẹp của 7 năm vừa bị tan vỡ, hoàn toàn không phải là nỗi đau "bảy năm rồi nhà thơ của chúng ta đã cầu xin một tình yêu" trong "nỗi đợi chờ" như ông đã viết. Ông hồi âm ngay sau đó: "Chỉ một câu là sáng rõ thôi. Yên tâm nhé." nhưng khi đưa bài cảm nhận về bài thơ "Đừng Đi" lên trang facebook cá nhân, ông để nguyên trạng bài viết như đã gửi qua messenger.

Có lẽ, nhà phê bình văn học Nguyễn Xuân Dương đã thả hồn "phiêu" với "Đừng Đi" “say” quá nên ông chưa cầm cương được cảm xúc dẫn đến cảm xúc "phiêu" quá xa với ý thơ: "Nỗi khát khao tình yêu của Đặng Xuân Xuyến là khát khao rất thực từ một con tim bạo liệt và có lẽ sẵn sàng quyên sinh vì người anh yêu dấu.". Hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ "Đừng Đi", qua cảm nhận của Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã khoác một bộ dạng rất khác và trở nên lạ lẫm vì tính cách yếu đuối và tư tưởng yếm thế, tiêu cực. Cả bài thơ không chỉ là tâm trạng đau khổ của chàng trai khi tình yêu bị tan vỡ mà còn là những hoài niệm đẹp về một tình yêu thơ mộng và cả sự lo lắng của chàng trai với người con gái mà chàng trai đã yêu, vẫn còn đang rất yêu. Đau khổ nhưng không yếu đuối, hoài niệm kỷ niệm xưa nhưng không bi lụy, tiêu cực, đấy là hình ảnh chàng trai trong “Đừng Đi”. Cả bài thơ, không một chữ nào, một ý nào khiến bạn đọc sẽ hiểu chàng trai "gào lên" cảm nhận mình kẻ thấp hèn” rồi "cầu xin không được thì hù dọa" và "sẵn sàng quyên sinh vì người anh yêu dấu." như Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã cảm.

Là cây viết lão luyện, Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương đã đồng hành cảm xúc với khoảng năm trăm bài thơ của các nhà thơ, các bạn thơ trên facebook. Với 2 tập sách Phê bình Văn học đã xuất bản và rất nhiều bài giới thiệu thơ, bình thơ trên trang facebook cá nhân chưa xuất bản thành sách, đủ để khẳng định sức viết của Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương rất sung sức và tình yêu ông dành cho thơ ca thật nhiều! Vì thế, một chút sơ xuất như khi ông cảm nhận bài thơ "Đừng Đi" là điều đáng tiếc nhưng tôi tin bạn đọc vẫn yêu và tìm đọc những trang viết mang đậm dấu ấn rất riêng của tác giả Nguyễn Xuân Dương: Viết nhanh, viết khỏe, viết nhiều, viết bởi những cảm xúc chợt đến vì đam mê thơ ca, vì tinh yêu giành cho thơ ca không vụ lợi.

Viết đến đây tôi chợt nhớ tới bài cảm nhận của tôi về bài thơ "Lạc" của Nhà thơ Trần Đức Tín cũng có cái sai na ná như Nhà Phê bình Văn học Nguyễn Xuân Dương khi ông bình bài thơ "Đừng Đi": Hiểu sai ý thơ. Đó là khi tôi cảm nhận:

"trơ vơ

Bụt

tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió

ăn hết những yêu thương.".

Câu chữ rõ ràng như vậy nhưng không hiểu sao tôi lại đọc thành "trơ vơ / Bụt /  ăn hết những yêu thương" nên viết: "Bụt" trong truyện cổ tích là một ông tiên luôn chớ che, bảo vệ, luôn đem đến những yêu thương, hạnh phúc cho con người còn "Bụt" trong "Lạc" của Khét lại là một kẻ vô cảm, ác độc, "ăn hết những yêu thương.". Có lẽ vì đọc nhanh, đọc vội mà tôi bỏ sót dòng: “tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió” nên mới có những dòng cảm nhận đáng trách như vậy. May mà soạn giả Vũ Thị Hương Mai đã nhắn tin qua messenger: "Có lẽ anh đọc vội, đã nhầm giữa "diều ăn gió" với "Bụt ăn gió" nên đoạn kết bài "Lạc của Khét" sai với nội dung thơ, anh ạ.". Tôi đọc lại bài thơ "Lạc" của Nhà thơ Trần Đức Tín, rồi gửi email tới các trang web đã gửi bài đề nghị gỡ "Lạc của Khét" vì đọc thiếu câu nên tôi hiểu sai ý thơ. Sau đó, tôi sửa lại đoạn cảm nhận: "Bụt" trong truyện cổ tích là một ông Tiên có phép nhiệm màu luôn chớ che, bảo vệ, luôn đem đến những yêu thương, hạnh phúc cho con người còn "Bụt" trong "Lạc" của Khét lại là một ông Bụt “trơ vơ”, bất lực “tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió”, "ăn hết những yêu thương."... Phép nhiệm màu của Bụt, của ông Tiên trong niềm tin ngàn đời của người Việt đã bất lực trước sự hoành hành đang chiếm thế thương phong của cái ác.", lưu bài viết ở trang facebook và blog cá nhân như lưu lời nhắc nhở: Làm gì cũng không được vội vàng, hấp tấp, nhất là với các loại văn bản phải đọc đi đọc lại đến khi hiểu thật đúng và đầy đủ câu chữ trong văn bản mới được viết hoặc điềm chỉ, ký tên.

*.

Hà Nội, chiều 24 tháng 8-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

HÔN QUÂN LƯU TỬ NGHIỆP

VÀ VAI DIỄN CỦA TRƯƠNG DẬT KIỆT

*

- Viết tặng con yêu Đặng Tuấn Hưng -

 

Theo chính sử Trung Hoa thì Lưu Tử Nghiệp, tự Pháp Sư, là con trưởng của Hiếu Vũ đế (vua Lưu Tuấn) và Vương Hoàng hậu. Nghiệp sinh năm 449, chết năm 465, ở ngôi vua chưa đầy hai năm. Mẹ của Lưu Tử Nghiệp là một phụ nữ hiền thục, có công rất lớn trong việc củng cố ngôi Thái tử và đưa Lưu Tử Nghiệp lên ngôi Hoàng đế.

Theo sách Sử Trung Quốc thì Lưu Tử Nghiệp "ít tuổi mà cường bạo, khi lên ngôi thì sự ngang ngược lại càng quá quắt, thông dâm với cả chị ruột là Sơn Âm công chúa” đều do Hoàng hậu Vương Hiến Nguyên sinh ra. Lưu Tử Nghiệp còn đưa em gái ruột của vua cha (Hiếu Vũ đế) là công chúa Tân Sái Trường (còn gọi là Tân Thái) vào cung lập làm "tiểu thiếp". Khi bị chú rể phát hiện, Lưu Tử Nghiệp đã thằng tay tàn sát cả gia đình chú rể.

Sử Trung Quốc còn chép: “Nhà vua dạo chơi ở Trúc Lâm đường trong Hoa Lâm Viên, bắt các phi, cung nữ và tả hữu cởi truồng theo sau, hoặc bắt một số nữ hành lạc với một nam, hoặc một số nam hành lạc với một nữ. Lại bắt cung nhân cởi truồng giao cấu với dê đực, khỉ hoặc chó, lại trói ngựa đặt nằm ngửa trên mặt đất, bắt cung nhân lõa thể mà giao hợp với ngựa. Một cung nữ không chịu, liền bị chặt đầu.”

Như vậy, Lưu Tử Nghiệp không chỉ là kẻ loạn luân mà đích thực y còn là kẻ thác loạn trong tính giao.

Hình tượng hôn quân Lưu Tử Nghiệp trong bộ phim PHƯỢNG TÙ HOÀNG (52 tập, phát sóng năm 2017) được các nhà làm phim Trung Quốc tái hiện không hoàn toàn dựng theo chính sử, mà gia giảm “cốt truyện” để “biến tấu” hình ảnh Lưu Tử Nghiệp bớt xấu xí và tàn ác trong mắt khán giả. Các nhà làm phim đã đưa tính chân thực xuống hàng thứ yếu nên gia giảm (hư cấu) nhiều tình tiết “cốt truyện” về Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp trong các mối quan hệ “mắt xích” với Lưu Sở Ngọc, Lưu Úc, Lưu Hưu Nhân... để tái hiện hình ảnh Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp “cũ mà mới”, “quen mà lạ” với khán giả là những bạn đọc có sự hiểu biết về triều Lưu Tống là khá mạo hiểm, rất dễ thất bại khi công chiếu nhưng khi phim được khởi chiếu, xem Trương Dật Kiệt thể hiện hình ảnh "thằng vua trẻ con ngang ngược tàn ác" Lưu Tử Nghiệp thì khán giả dù khó tính cũng trầm trồ trước tạo hình Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp mới nhưng không lạ, quen mà không cũ qua diễn xuất “đóng đinh cho vai diễn” của nam diễn viên còn quá trẻ Trương Dật Kiệt.

Trương Dật Kiệt sinh năm 1999, bắt đầu tham gia đóng phim năm 2010. Khi tham gia phim PHƯỢNG TÙ HOÀNG anh mới 16-17 tuổi, đã thể hiện xuất sắc vai diễn, làm sống lại một Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp tàn ác, phóng túng, loạn luân và bất đạo như trong chính sử (Trung Quốc) và làm mới hình ảnh hôn quân Lưu Tử Nghiệp với những trắc ẩn, đáng thương của “vị đế vương trẻ con đa nhân cách Lưu Tử Nghiệp”.

Xem Trương Dật Kiệt diễn, khán giả như đang được chứng kiến cuộc đời thực của Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp, với những hỉ nộ ái ố của một vị vua trẻ con trong độ tuổi mới lớn, ở tâm lý tuổi nổi loạn, muốn khẳng định cái tôi chủ quyền tối thượng của mình. Bực đấy, căm tức đấy nhưng rồi người xem cũng động lòng trắc ẩn với những uẩn khúc, những bi thương trong quãng đời quá ngắn ngủi nhưng cũng có quá nhiều việc làm xằng bậy, càn quấy của hôn quân Lưu Tử Nghiệp.

Tôi đã bị “Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp” hớp hồn ngay từ những thước phim đầu với cách nhếch miệng cười khẩy, cách phụng phịu bực tức, cách hất tay đuổi cung nữ... đều mang dáng dấp còn “trẻ con” của hôn quân Lưu Tử Nghiệp. Ở những thước phim này, người xem thấy một đế vương còn “con nít”, phách lối kiểu con nít, vẫn phảng phất còn chút ngây thơ, chút bản tính lương thiện khiến người xem ghét đấy mà cũng thương đấy nhưng đến những thước phim sau đó, ở phân đoạn Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp cho gọi “2 con lợn” (cách Nghiệp gọi 2 chú ruột của y) đến để y “kiểm tra” thể trạng trước ngày “cho lên vỉ nướng”, Trương Dật Kiệt đã làm người xem bất ngờ về tài biến hóa hình tượng vai diễn đa nhân cách của anh. Vừa mới hí hửng cười ngặt nghẽo trêu chọc “con lợn” Trư Vương Lưu Úc (tức Lưu Tông Minh Đế, người kế ngôi vua sau khi Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp đã bị giết chết) với vẻ khoái chí của "con nít” ở độ tuổi mới lớn, nhưng khi nghe Kiến An vương Lưu Hưu Nhân (diễn viên Khương Bành) lớn tiếng hạch tội: - “Lưu Tử Nghiệp! Ngươi vừa đăng cơ liền vội vàng giết chết huynh đệ ruột của mình. Bây giờ với các thúc thúc của ngươi, sỉ nhục đủ điều, hận không thể giết họ nhanh hơn chút. Rốt cuộc bọn ta đã làm sai điều gì mà ngươi đối xử với bọn ta như heo như chó. Ngươi đừng có quên đây là thiên hạ của nhà họ Lưu không phải của một mình Lưu Tử Nghiệp ngươi đâu. Ngươi cứ cốt nhục tương tàn như vậy, tung hoành ngang dọc khiến người trong thiên hạ không yên ổn rồi!”, đã chuyển phắt sang sắc mặt lạnh tanh rồi chiếu ánh mắt đằng đằng sát khí tiến về phía Kiến An vương Lưu Hưu Nhân với tác phong lạnh lùng, bình thản của kẻ quyền uy tối thượng: - “Ngươi nói lại lần nữa xem! Ngươi không nói ta còn không biết đó chứ! Ngươi bất mãn với ta nhiều như vậy sao?”. Tưởng sẽ giết chết ngay Kiến An vương Lưu Hưu Nhân nhưng Lưu Tử Nghiệp lại phá lên cười, thích thú với trò tiêu khiển mới khi phát hiện Trư Vương Lưu Úc (diễn viên Lưu Ân Thượng) vì sợ quá mà tè ra quần. Sự độc ác, tàn bạo của Lưu Tử Nghiệp được đẩy lên điểm tận cùng khi trêu đùa đã chán chê Trư Vương Lưu Úc, y liền tiến tới Kiến An vương Lưu Hưu Nhân, chiếu ánh mắt sắc lạnh cùng giọng nói rành rẽ nặng những âm khí chết chóc: “Được rồi! Đợi Trư Vương giải quyết xong việc lớn, 2 các ngươi lại cùng nhảy lên vỉ nướng xem nào. Ta lại rất muốn nhìn xem Hoàng thúc ngươi lúc ở trong lửa nóng có thể kiên cường giống bây giờ hay không?”. Rồi phá lên cười đắc thắng bằng vẻ mặt hả hê của một thằng trẻ con độc ác.

Xem Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp, tôi thích cách diễn của Trương Dật Kiệt ở những phân đoạn mà cái ác của Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp được đẩy đến đỉnh điểm như khi y cho gọi 2 chú ruột là Lưu Úc và Lưu Hưu Nhân đến để y kiểm tra “thể trạng” trước ngày “cho lên vỉ nướng”, hay khi Lưu Tử Nghiệp hành xử bất đạo, thảm sát hàng loạt cung nữ ngay ngày đầu Đại tang Thái Hậu (mẹ đẻ của y), hoặc khi y ra lệnh giết hết đám trẻ hát bài đồng dao “Hoàng đế thật hoàng đế giả”... Sự phẫn nộ trước những việc làm tàn ác, bất đạo của khán giả với Lưu Tử Nghiệp được Trương Dật Kiệt đẩy lên điểm đỉnh cao trào nhưng cũng (gần như) liền ngay sau đấy Trương Dật Kiệt lại “hạ nhiệt” sự phẫn nộ đó bằng những diễn xuất “bao biện” cho cái ác của Lưu Tử Nghiệp được phát sinh từ sự phách lối, ngang ngược bởi tâm hồn bị khuyết tật của một đứa trẻ. Ở các phân đoạn này, Trương Dật Kiệt đã để tính cách “vẫn còn trẻ con” chi phối những hành động bộc phát của Lưu Tử Nghiệp khi yêu, khi ghét, khi giận dữ, khi làm các việc tàn ác, bất đạo... khiến người xem vừa căm, vừa hận, vừa ghét, vừa động lòng trắc ẩn thương Lưu Tử Nghiệp. Đành rằng tạo tính cách cho hình tượng nhân vật Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp là do ý tưởng của tác giả kịch bản và ý đồ của đạo diễn nhưng với sự nhập vai của diễn viên Trương Dật Kiệt thì ý đồ đó không những đã thể hiện sắc nét mà còn được thăng hoa xuất sắc qua diễn xuất đóng đinh cho vai diễn của Trương Dật Kiệt. Xem Trương Dật Kiệt diễn, người xem ngộ ra điều: Cái ác không phải tự nó sinh ra mà nó được bắt nguồn từ những nguyên nhân sâu xa do chính con người (trong đó có cả những nạn nhân) góp phần khởi tạo, bởi con người vốn dĩ như người xưa đã nói: “Nhân chi sơ tính bản thiện”.

Một điểm nhấn trong thành công ở vai diễn Tiền Phế đế Lưu Tử Nghiệp là Trương Dật Kiệt diễn nội tâm rất giỏi, nhất là khi xem những phân cảnh ở những phân đoạn có sự xuất hiện nhân vật Lưu Sở Ngọc (diễn viên Quan Hiểu Đồng) người xem cảm nhận được bản chất hiền lương vẫn còn sót lại, với những khao khát yêu thương được sẻ chia, được bù đắp bên cạnh sự nổi loạn phách lối của tính cách ngang ngược, hung ác... trong con người đa nhân cách của quân vương trẻ con Lưu Tử Nghiệp. Những thể hiện xuất sắc qua sắc thái của ánh mắt, nụ cười, hay cái cau mày, nhếch miệng hoặc cử chỉ nũng nịu, đến cái mím môi, quắc mắt khi trở mặt... đều rất có hồn ở từng phân cảnh cụ thể của diễn viên Trương Dật Kiệt đã dẫn dắt người xem cùng dõi theo sự phát triển kịch tính của nhân vật.

Xem những bộ phim như thế này mới thấy BỐ GIÀ của Trấn Thành, một bộ phim làm hao tốn kha khá giấy mực và thời gian tranh luận của những người làm điện ảnh ở Việt Nam đầu năm 2021, còn đứng ở vị trí bên dưới xa... xa lắm.

Dán lên đây tập phim về hôn quân Lưu Tử Nghiệp để các “tình yêu” nhấp chuột cùng xem:

https://www.youtube.com/watch?v=4V_zH41azFM

*.

Hà Nội, sáng 04 tháng 11-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

YẾU TỐ ĐỒNG TÍNH TRONG

THƠ ĐỖ ANH TUYẾN

*

Đỗ Anh Tuyến làm thơ không nhiều và thơ của anh chủ yếu ghi lại những cảm xúc "chợt đến chợt đi" của tâm trạng cá nhân nên số bài thơ lưu lại trong trí nhớ bạn đọc chắc chỉ ở con số vừa phải so với số lượng bài thơ không nhiều của anh. Thực tình, trong gia tài thơ ngót nghét trăm bài của anh tôi ấn tượng chắc cũng chỉ trên mươi bài mà oái oăm phần nhiều lại là những bài thơ có "vấn đề" về cảm xúc tình cảm trai gái, gây những cảm giác "lạ lạ khó hiểu" với bạn đọc. Bài viết này là chút cảm nhận của tôi về một số bài thơ tình mang “dấu ấn” lạ lạ khó hiểu của Đỗ Anh Tuyến, hoàn toàn không đem ra đo đếm định lượng khen-chê thơ anh bởi Đỗ Anh Tuyến chỉ mượn thơ để ghi lại những cảm xúc "chợt đến chợt đi" của riêng anh như trang nhật ký của tiếng lòng.

Vâng! Thơ tình của Đỗ Anh Tuyến lạ lắm, có gì đó hao hao từa tựa như thơ tình của Nguyễn Tấn Thành tôi đã giới thiệu trong bài "Vài cảm nhận về 2 bài thơ tình của cậu học trò lớp 12" nhưng bi quan hơn, xám xịt màu hy vọng hơn và nỗi đau cũng thật quặn thắt, đắng lòng:

"Đôi chân rã rời sợ đến ngày mai

Bàn tay hư hao lo đêm dài quá

Ánh mắt dửng dưng hai người xa lạ

Bất chợt tìm nhau ứa giọt lệ nồng"

(Mãi niềm cô đơn - Đỗ Anh Tuyến)

Đọc 4 câu thơ mà đau lòng tự hỏi: trên đời này sao lại có người bi quan, tuyệt vọng đến vậy? Hiện tại ư? Là nỗi lo đối diện với những u uẩn lẩn khuất trong cõi cô đơn của chỉ riêng mình: "Bàn tay hư hao lo đêm dài quá". Tương lai ư? Là: "Đôi chân rã rời sợ đến ngày mai"! Một nỗi sợ cụ thể mà lại mơ hồ, một nỗi đau thắt ruột thắt gan mà lại không thể réo gọi thành tên! Yêu ư? Không! Đấy không phải là yêu, càng không phải là tình yêu, mà là sự cộng hưởng xác thịt của 2 kẻ xa lạ: "Ánh mắt dửng dưng hai người xa lạ", đến với nhau chỉ để giải tỏa bức bối cơn khát thể xác, để cùng nhau đồng cảm sẻ chia nỗi đau tận cùng của bi quan, tuyệt vọng: "Bất chợt tìm nhau ứa giọt lệ nồng".

Đọc 4 câu thơ này hẳn nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên với thứ "tình yêu" lạ lạ đến khó hiểu của "Mãi mãi niềm cô đơn" nhưng nếu đã nghiên cứu về nhân dạng nam hoặc đã đọc những nghiên cứu về nhân dạng nam thì hẳn bạn đọc sẽ ngờ ngợ nhận ra đấy là tình yêu của người đồng tính hoặc song tính thì sự “lạ lạ” sẽ không còn khó hiểu.

Trong cuốn "Điểm yếu của người đàn ông hiện đại", Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành Quý 4 năm 2006, ở bài NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỒNG TÍNH, tôi đã luận bàn: "Điểm chung của người đồng tính là sự “mặc cảm tội lỗi”, tâm lý hoảng loạn, dễ bị tổn thương. Do “không giống ai” trong việc lựa chọn “đối tượng tình dục” và tình yêu của họ không được xã hội chấp nhận nên người đồng tính luôn sống trong tâm trạng mặc cảm, sợ sệt. Với người dị tính (tình yêu thuần khiết với người khác giới), sự thể hiện tình cảm của mình với “đối tượng” thường công khai, được xã hội chấp nhận (trong một chừng mực, hoàn cảnh nhất định), còn người đồng tính thì ngược lại: Âm thầm, lén lút vì sự kỳ thị của xã hội. Đây chính là lý do làm người đồng tính dễ bị tổn thương, luôn sống trong tâm trạng hoảng loạn và “mặc cảm tội lỗi”."

Chính vì thế mà những cuộc tình của người đồng tính, song tính thường mang hơi hướng của tình một đêm, của những "thỏa mãn" tạm bợ, của những "ngọt ngào" dối trá và của những bẽ bàng chua chát sau cuộc tình đậm dấu truy hoan thân xác mà sự thủy chung chỉ được người trong cuộc tính bằng "vài giây ngắn ngủi". Có lẽ đó là những cuộc truy hoan chỉ để thỏa mãn cơn khát được yêu, là cuộc tình éo le vụng trộm không được số đông trong xã hội thừa nhận nên "tình ấy” gấp gáp, "tình ấy” cuống cuồng, thây kệ để sự dối trá lên ngôi:

"Mùi xác thịt nghiến đời nhau tan nát

Mọi ngất ngây hoang lạc thảy tuôn trào

Lời thì thầm ngọt lịm sắc như dao

Sau đêm nay còn chút nào tha thiết"

(Người tình một đêm - Đỗ Anh Tuyến)

Đọc đến đây, có lẽ sẽ có bạn đọc chất vấn: vậy những người từng trải nghiệm tình một đêm đều là người đồng tính hoặc song tính? Không, thưa Quý vị! "Tình" của người đồng tính, song tính là tình của những ẩn ức sinh lý, những tổn thương tâm lý đã gây sang chấn tâm lý nên những cuộc tình của người đồng tính, song tính thường bao hàm sự u uẩn, bi lụy và đau khổ vì tình tuyệt vọng của cả 2 người đang "khát" yêu: “Ta thấy gì đâu sau sắc yêu kiều / Mà ta riết giữa đôi tay thất vọng / Dầu tin tưởng: chung một đời, một mộng / Em là em, anh vẫn cứ là anh / Có thể nào qua Vạn Lí Trường Thành / Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.” (Xa cách - Xuân Diệu), còn tình một đêm của những người dị tính là tình của những người luôn trân quý sự tận hưởng thú vui xác thịt với người khác giới nên không nhuốm màu bi lụy, tuyệt vọng: “Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non / Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận. / Yêu thương nhé. / Một lần thôi. Là đủ / Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...” (Say yêu - Đặng Xuân Xuyến). Nhưng cũng không hẳn thơ tình của người đồng tính, song tính sẽ luôn có hơi hướng tình một đêm mà khá nhiều bài thơ (nhất là những bài thơ được viết dưới hình thức ngụy trang), nếu nhà thơ không đủ dũng cảm để viết "trắng phớ tất tay" như nhà thơ trẻ Trần Đức Tín (Khét) "bạch hóa" cuộc tình đồng giới của anh với nhà văn Tống Phước Bảo thì bạn đọc sẽ không thể biết đấy là tình luyến ái của người song tính với người đồng tính: "gửi B / chút phong sương còn sót lại / cho những ngày ta nhiễm mặn vào nhau / cây dừa không đậu trái / ngọn lúa không trổ bông / sóng cứ ồ ạt sóng / người di cư / di cư" (Ta nhiễm mặn vào nhau - Trần Đức Tín).

Trở lại thơ tình của Đỗ Anh Tuyến với: Tự hỏi, Mãi niềm cô đơn, Khó gì quên được tình, Người tình một đêm, Giờ thành quá khứ... đều bao phủ những tủi hờn, tuyệt vọng, những dỗi hờn sậm màu bi lụy xót xa.

Hãy nghe Đỗ Anh Tuyến thổ lộ về "đoạn trường tình" của anh:

"Những mảnh đời đi qua đời tôi

Đậu xuống một đêm vô tình như gió

Như gió mỏng manh giọt sương òa vỡ

Như gió hao gầy tiếng vạc ăn đêm"

(Mãi niềm cô đơn - Đỗ Anh Tuyến)

Anh quy nạp những người tình là "những mảnh đời đi qua đời" anh để chỉ đích danh những ái ân đấy không phải là tình yêu bởi "những mảnh đời" đó đến với anh "vô tình" như gió, chỉ "đậu xuống một đêm" để cùng anh thỏa mãn bức bách sinh lý bị kìm nén chôn giấu bởi những định kiến cố hữu sai lệch với kiến thức khoa học của số đông trong xã hội. Hai câu thơ: "Như gió mỏng manh giọt sương òa vỡ / Như gió hao gầy tiếng vạc ăn đêm" lý giải căn nguyên tại sao Đỗ Anh Tuyến không coi những "đêm ấy" là những "đêm tình" bởi những ái ân đấy chỉ là những lén lút “vụng trộm” của bản năng thôi thúc trong bóng đêm để thỏa mãn khát khao dục tính. Tám chữ: "giọt sương òa vỡ/ tiếng vạc ăn đêm" đã diễn giải tận cùng sự bi lụy tình và tuyệt vọng tình của chàng trai Đỗ Anh Tuyến (hiểu rộng ra là của những người đồng tính, song tính) trong các cuộc tình đồng giới với những rên rỉ lặng thầm mà âm ỉ thảm thiết.

Những câu thơ nhuốm màu cô đơn với cảm giác ngậm ngùi chua chát của tâm trạng như mặc cảm tội lỗi, như lén lút, hụt hẫng, như chán chường tuyệt vọng... xuất hiện mật độ khá dầy trong thơ Đỗ Anh Tuyến:

- "Đôi chân rã rời sợ đến ngày mai

Bàn tay hư hao lo đêm dài quá

Ánh mắt dửng dưng hai người xa lạ

Bất chợt tìm nhau ứa giọt lệ nồng"

(Mãi niềm cô đơn - Đỗ Anh Tuyến)

- “Em ngủ gật sau những giờ chờ đợi

Mỏi mòn nhìn vế phía giấc mơ anh ...”

(Chưa bao giờ - Đỗ Anh Tuyến)

- "Đêm nhắn gió tìm người mộng

Dệt vội câu thơ nghe nhói lòng ...”

(Nuối tiếc - Đỗ Anh Tuyến)

- "Lặng lẽ mình ta, độc hành vạn dặm

Bỏng rát đôi chân lê lết những con đuờng”

(Thực tại – Đỗ Anh Tuyến)

- "Trong tim anh, em cũng là người khách

Ở trọ qua đường mỗi lúc nắng mưa?""

(Tự hỏi - Đỗ Anh Tuyến)

- "Ôi những vô cùng ôi những hư không

Cơn gió nào đi cơn gió nào sắp đến

Ta cay cực một đời như bến

Cánh buồm hoài ngóng đợi vẫn trong mây.."

(Mãi niềm cô đơn - Đỗ Anh Tuyến)

Ngay cả khi nhà thơ Đỗ Anh Tuyến viết dưới hình thức ngụy trang thì những câu thơ tình của anh vẫn chất chứa những sầu não "hờn", "tủi", "trách", oán... cam lòng với những rụt rè, giữ kẽ, bi quan... bởi "tình ấy" của anh không nằm trong khuôn khổ quy ước thông thường của định chế xã hội nên danh không chính ngôn không thuận, vì thế mà "tình ấy" phải lén lút, phải ngụy trang dưới vỏ bọc của những mối quan hệ anh em bè bạn nên dễ rơi vào trạng thái hụt hẫng, tạm bợ như “tình” của khách làng chơi. Người đọc tinh ý sẽ không khó để nhận ra đấy là tiếng lòng của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến dành cho người yêu cùng giới tính:

"Em sẽ làm gì khi chỉ có anh thôi

Em có tủi, em có hờn, em có trách:

"Trong tim anh, em cũng là người khách

Ở trọ qua đường mỗi lúc nắng mưa?""

(Tự hỏi - Đỗ Anh Tuyến)

Hay những câu thơ ngậm ngùi chua chát về "thứ tình yêu" "ngọt ngào đến mấy cũng tan thành mây" của người đồng tính, song tính phải lén lút vụng trộm vì không được gia đình và xã hội thừa nhận dẫu được viết dưới hình thức ngụy trang vẫn không giấu được tâm trạng phẫn uất xót xa... của chàng trai Đỗ Anh Tuyến trước sự kỳ thị "đàm tiếu" tình luyến ái đồng giới của người đời:

"Chiều nay em chẳng về trên lối ấy

Để cho anh thơ thẩn khắp phố quen

Tay cầm bình rượu người sặc mùi men

Mặc cho thiên hạ bao lời đàm tiếu."

(Say, em - Đỗ Anh Tuyến)

Trong cuốn "Điểm yếu của người đàn ông hiện đại", Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành Quý 4 năm 2006, ở bài NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỒNG TÍNH, tôi đã luận bàn: "Công bằng mà nói, người đồng tính là những người chịu nhiều thua thiệt, đau khổ trong cuộc sống. Trong con mắt mọi người, dù người đồng tính có tài giỏi, tử tế đến đâu, có ích cho gia đình và xã hội thế nào thì họ vẫn cứ là “kẻ biến thái”, “lập dị”, bị tránh xa vì “kinh tởm”. Một ông tổng thống, một nhà bác học hoặc một nhà thơ, một nhạc sỹ thiên tài... nếu đã “bị” là người đồng tính thì dù có vắt kiệt tài năng, trí tuệ để cống hiến cho nhân loại vẫn cứ phải đương đầu với sự ghẻ lạnh, “khinh rẻ” của người đời. Một kẻ giết người, một tên ăn trộm, một gã lừa đảo... nhiều khi lại được “xã hội” “tôn trọng” hơn nhiều những người đồng tính. Đấy chính là sự nghịch lý, là bất công của xã hội dành cho người đồng tính mà người đồng tính khó đủ sức để vượt qua.". Có lẽ chính vì thế mà chàng trai trẻ Đỗ Anh Tuyến đã hơn một lần dùng thuốc ngủ quá liều để tự giải thoát những dè bỉu, khinh khi, đàm tiếu vô lý và đầy ác ý của người đời...

Vâng, thơ của Đỗ Anh Tuyến phần nhiều là những dòng thơ đẫm lệ của sự tuyệt vọng, của những bi ai phẫn uất trước những định kiến sai lệch của xã hội và sự kỳ thị người đồng tính của số đông trong xã hội đã gián tiếp đẩy cuộc sống của người đồng tính (và song tính) sâu vào ngõ cụt.

*.

Hà Nội, ngày 10 tháng 11-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ ‘LỬNG ĐÈO TÌNH KHÚC’

CỦA PHẠM THÀNH

*

Tôi đọc bài thơ Lửng Đèo Tình Khúc của nhà thơ Phạm Thành cách đây chừng tháng, hơn tháng. Cũng định viết vài dòng cảm nhận khi đọc Lửng Đèo Tình Khúc nhưng lúc đó lưng tôi đau quá nên tạm lưu bài thơ vào mục xem sau để khi nào lưng bớt đau sẽ viết vài dòng cảm nhận.

LỬNG ĐÈO TÌNH KHÚC

 

Vẻ đại ngàn dường như pha loãng

Trưa Đèo Cà nắng cũng ngập ngừng hoang

 

Kìa, gái Tày đợi ai mà bồn chồn tròn bóng

E ấp khăn thêu gợi những nét rằm

Nhí nhảnh kèn lá giọng chòe lửa

Vui mùa vàng rưng rức những bậc thang

 

Bỗng đàn môi vọng từ nơi bờ suối

Mắt gái cười lúng liếng cả hoang sơ

 

Chao ôi! Tình rừng quyện độc đáo đến không ngờ.

*

PHẠM THÀNH

Đọc 3 chữ "ngập ngừng hoang" trong câu: "Trưa Đèo Cà nắng cũng ngập ngừng hoang", tôi nhớ tới câu thơ cũng độc đáo của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm trong bài thơ Hương Dương Cầm:

"Tiếng Dương Cầm loang loáng ướt

Ngập ngừng rơi."

Hai chữ "ngập ngừng" được 2 nhà thơ sử dụng đều làm cho câu thơ sống động đến mê hoặc người đọc. Với "ngập ngừng rơi" của "Tiếng Dương Cầm loang loáng ướt", Nguyễn Thanh Lâm đã biến Hương Dương Cầm thành vẻ đẹp của tình yêu và nỗi nhớ rất đặc trưng riêng của người Hà Nội. Còn với "ngập ngừng hoang" của "nắng" "trưa đèo Cà", Phạm Thành không chỉ thổi vào Lửng Đèo Tình Khúc vẻ đẹp hoang sơ quyến rũ với những phóng khoáng rất đặc trưng của nắng gió đại ngàn mà còn “pha loãng” làm mềm mại, sống động hơn chất hoang sơ của núi rừng bằng hiện diện của con người qua cách nói gián tiếp ở 2 câu đầu bài thơ bằng những cặp từ “pha loãng”, “ngập ngừng hoang”. Từ "hoang" ở câu thơ "Trưa Đèo Cà nắng cũng ngập ngừng hoang" khiến người đọc lâng lâng tâm trạng cũng muốn phiêu cùng "nắng đèo Cà" để được "ngập ngừng hoang".

Bốn câu thơ:

"Kìa, gái Tày đợi ai mà bồn chồn tròn bóng

E ấp khăn thêu gợi những nét rằm

Nhí nhảnh kèn lá giọng chòe lửa

Vui mùa vàng rưng rức những bậc thang"

Có thể tách ra đứng riêng thành một bài thơ.

Với cách dùng chữ độc đáo, lạ mà hay ở 4 câu thơ này: "bồn chồn tròn bóng", "giọng chòe lửa", "rưng rức những bậc thang"... Nhà thơ Phạm Thành đã khắc họa chân dung thiếu nữ Tày hồn nhiên những nét tươi xinh tuổi mới lớn, đượm cùng vẻ đẹp hoang sơ “rưng rức” của núi rừng. Bốn câu thơ đã vẽ một bức tranh sống động với ăm ắp những nhạc, những họa, đã gieo vào hồn bạn đọc những rung cảm tươi tắn khó quên.

Câu: "Kìa, gái Tày đợi ai mà bồn chồn tròn bóng" viết thật tự nhiên, tỏ sự ngạc nhiên và thích thú của thi nhân trước hình ảnh thiếu nữ Tày đang "bồn chồn" ngóng đợi người yêu. Bốn chữ "bồn chồn tròn bóng" nói được thật nhiều điều về không gian, thời gian và tâm trạng nhớ nhung, chờ đợi... của thiếu nữ. Cách ngắt câu bằng dấu phẩy (,) giữa "Kìa" với "gái Tày đợi ai mà bồn chồn tròn bóng" không chỉ làm tăng sự ngạc nhiên của thi nhân với “trưa đèo Cà” mà còn khe khẽ bật lên thanh âm như một tiếng reo thi vị.

Bài thơ sử dụng những cặp từ láy, những động từ: "ngập ngừng", "rưng rức", "bồn chồn", "lúng liếng", "e ấp", "nhí nhảnh" rất đắc dụng, làm sáng lên vẻ đẹp hồn nhiên trong trẻo của thiếu nữ miền sơn cước!

Hai câu:

Bỗng đàn môi vọng từ nơi bờ suối

Mắt gái cười lúng liếng cả hoang sơ

Đã chuyển nhịp bài thơ, thay cảnh bài thơ bằng một cái kết viên mãn, thật đẹp cho thiếu nữ “bồn chồn tròn bóng” ngóng đợi người yêu. Câu “Mắt gái cười lúng liếng cả hoang sơ” níu hồn người đọc.

Theo tôi, bài thơ kết thúc ở đây thì thật hay, thật đẹp.

Tiếc là, nhà thơ Phạm Thành lại cho thi nhân chen vào lời cảm thán: "Chao ôi! Tình rừng quyện độc đáo đến không ngờ." để kết thúc Lửng Đèo Tình Khúc đã phá vỡ mất kết cấu toàn bích của bài thơ.

*.

Hà Nội, sáng 12 tháng 11-2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ ‘PHIÊN CHỢ DÀO SAN’

CỦA TRƯƠNG HỮU THIÊM

*

PHIÊN CHỢ DÀO SAN

 

Vó câu khua rầm rập

Nhạc dập dồn lưng mây

Trai mười mường phầm phập

Gái chín bản phây phây.

 

Có vợ, đem theo vợ

Có chồng, rủ cả chồng

Chẳng có cứ đến chợ

Sẽ gặp người đi không.

 

Bát này rồi bát nữa

Rượu đầy như tình đầy

Vòng xoè làm bằng lửa

Tiếng đàn cháy trên dây.

 

Uống như chưa từng uống

Người say, núi cũng say

Bạn từ lưng trời xuống

Chân dính đầy mây bay.

 

Tiếng người xen tiếng lá

Tiếng lá lẫn tiếng chim

Tiếng chim chen tiếng đá

Tiếng đá hoà tiếng tim.

 

Áo bên hoa sặc sỡ

Khèn theo gió véo von

Thề nguyền trao giữa chợ

Nỗi niềm gửi lên non.

 

Họp ở trong không đủ

Thì kéo nhau ra đường

Ngựa hí dồn giục chủ

Lưng đầm đìa hơi sương.

 

Mật ong và thổ cẩm

Thuốc bắc và chè san

Thay vì làm tính nhẩm

Nhặt đá xếp lên bàn.

 

Đã bán, rẻ cũng bán

Đã mua, đắt cũng mua

Bán như là giời bán

Mua như là vua mua.

 

Ăn, ăn toàn thắng cố

Uống, uống toàn rượu ngô

Uống đến khi rượu đổ

Người đứng ngủ dưới ô.

 

Mỗi năm mười hai tháng

Mỗi tháng có bốn phiên

Suốt từ ba giờ sáng

Náo nức một vùng biên.

*

Sớm mai leo ngược dốc

Trở lại với non ngàn

Lòng như hòn đá hộc

Lăn xuôi về Dào San...

*.

TRƯƠNG HỮU THIÊM

LỜI BÌNH:

Bài thơ "Phiên chợ Dào San" của nhà thơ Trương Hữu Thiêm, đã hớp hồn tôi ngay từ những câu thơ đầu. Chất hoang dã đại ngàn đậm đặc trong 4 câu khổ đầu bài thơ đã tạo ấn tượng tức thì:

"Vó câu khua rầm rập

Nhạc dập dồn lưng mây

Trai mười mường phầm phập

Gái chín bản phây phây."

Các cặp từ láy: "rầm rập", "dập dồn", "phầm phập", "phây phây" được nhà thơ Trần Hữu Thiêm sử dụng thật đắc dụng. Chỉ với 20 chữ cho 4 câu thơ, ông đã khiến người đọc như đang chứng kiến những hình ảnh sống động của người của ngựa giữa đại ngàn lộng gió.

Những thước phim thật đẹp, đẹp những nét hào sảng và tráng lệ của miền sơn cước: Một sớm tinh mơ, những vó ngựa từ đỉnh núi cao, cao đến chọc trời "rầm rập" lao xuống phiên chợ Dào San, chợ phiên của người Mông, người Thái, người Dao,... Trên lưng ngựa là các chàng trai cường tráng với nét đẹp phóng khoáng của núi rừng và các cô gái hây hẩy sắc hương bản mường, náo nức về chợ như háo hức về lễ hội tình yêu. Những hình ảnh ấy, những thước phim ấy quyện lấy nhau, hòa vào nhau trong những nét đẹp rất riêng chỉ có ở văn hóa vùng cao Tây Bắc.

Đọc những câu thơ thật hay này tôi chợt nhớ tới những câu thơ tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi trong bài thơ "Xóm Cỏ":

"Ta là kẻ lạc loài chán chê Phố Thị

Chàng Nhà Quê mê kéo vó đêm

Thả hồn thơ cùng chị Hằng "tăm" cá

Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..."

"Tôi ngẩn ngơ với câu: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...”.

Nét tài hoa của nhà thơ Nguyễn Khôi ở những câu thơ này là sử dụng câu chữ rất "đắc địa", đặt đúng vị trí, đúng hoàn cảnh, đúng ngữ cảnh, không thể xáo trộn, thay đổi. Ví như câu: "Cánh tay trần "cất" cả ánh trăng lên..." nếu bỏ hoặc thay chữ "trần" bằng một chữ khác thì hình ảnh "cánh tay trần" rất đẹp, gợi nét vạm vỡ, phong trần và đậm đặc chất đàn ông sẽ không còn nữa, câu thơ sẽ thiếu “lửa”, nhạt đi và kém hay. Hoặc nếu thay từ "cất" bằng một từ khác thì câu thơ: “Cánh tay trần “cất” cả ánh trăng lên...” vốn hút hồn người đọc bởi hình ảnh thơ mộng, đẹp phóng khoáng kiểu Chử Đồng Tử an nhiên tự tại giữa bãi Tự Nhiên: “cất” cả ánh trăng lên...” sẽ không còn nữa, câu thơ cũng vì thế mà mất hay, hết duyên." - (Mơ Quê Trong "Xóm Cỏ" Của Nguyễn Khôi" - Đặng Xuân Xuyến)

Trở lại bài thơ "Phiên chợ Dào San" của nhà thơ Trương Hữu Thiêm với 4 câu thơ nối tiếp:

"Có vợ, đem theo vợ

Có chồng, rủ cả chồng

Chẳng có cứ đến chợ

Sẽ gặp người đi không."

Với cách ngắt nhip 2/3 bằng dấu phẩy ở câu "Có vợ, đem theo vợ", "Có chồng, rủ cả chồng" nhà thơ Trương Hữu Thiêm đã nhấn nhá rõ thêm tính thật thà, vô tư của những trai bản gái mường, như minh định bản tính hồn hậu, thuần khiết, chẳng có gì cần phải giấu giếm hay ý tứ bằng những lời xã giao, dối lòng của người Mông, người Thái, người Dao,... Những rủ rê minh bạch ấy, có chủ đích rõ ràng: Đến chợ để mua hàng hóa, để giao lưu bè bạn, để thêm ấm tình lứa đôi.... Có lẽ, đây là nét đặc trưng rất riêng của văn hóa chợ Dào San, chỉ ở vùng Phong Thổ, Lai Châu mới có tập tục độc đáo này.

Những khổ thơ kế tiếp kể về những hoạt động của phiên chợ Dào San với những câu thơ tinh tế, đặc sắc, đẹp như những viên ngọc lấp lánh làm ngẩn ngơ người đọc:

- "Vòng xòe làm bằng lửa

Tiếng đàn cháy trên dây"

- "Bạn từ lưng trời xuống

Chân dính đầy mây bay"

- "Áo bên hoa sặc sỡ

Khèn theo gió véo von

Thề nguyền trao giữa chợ

Nỗi niềm gửi lên non."

- "Ngựa hi dồn giục chủ

Lưng đầm đìa hơi sương",

- "Uống đến khi rượu đổ

Người đứng ngủ dưới ô."...

Những câu thơ đậm nét hương rừng gió núi và đẫm chất trai bản gái mường đẹp mê hồn như thế không phải cứ sống lâu ở miền núi là sẽ viết được mà những câu thơ đấy đã được thẩm thấu, chiết xuất từ hồn thơ thấm đượm hơi thở của núi rừng, từ cách quan sát tinh tế, cách dùng câu chữ độc đáo, sáng tạo của nhà thơ Trương Hữu Thiêm mà trở nên bừng sáng.

Những câu thơ mộc mạc, giản dị mà long lanh trong “Phiên chợ Dào San” đã tạo cảm giác gần gũi, tâm trạng phấn chấn, dẫn dắt người đọc cuốn theo câu chữ bài thơ để háo hức cùng nhà thơ Trương Hữu Thiêm tham dự phiên chợ Dào San.

Sự độc đáo của "Phiên chợ Dào San" còn ở những quan sát tinh tế, những chi tiết rất thực:

"Mật ong và thổ cẩm

Thuốc bắc và chè san

Thay vì làm tính nhẩm

Nhặt đá xếp lên bàn."

Hàng hóa chỉ là những sản phẩm tự cung tự cấp của người dân bản địa: Mật ong, thổ cẩm, thuốc bắc, chè san, rượu ngô, thắng cố... Và người bán người mua cũng rất mộc mạc nét "chân quê" chất phác: "Thay vì làm tính nhẩm / Nhặt đá xếp lên bàn".

Trải dọc bài thơ là những hình ảnh đẹp hào sảng, phóng khoáng tạo những cảm giác hứng khởi, phấn chấn với bạn đọc thì đến khổ thơ này nhà thơ Trương Hữu Thiêm lại làm lắng lòng bạn đọc với những hình ảnh chân thật đến nhoi nhói lòng. Hình ảnh người bán hàng: "Thay vì làm tính nhẩm / Nhặt đá xếp lên bàn" đã găm sâu vào trí nhớ người đọc bởi những hình ảnh độc, lạ mà ám ảnh chỉ có ở "Phiên chợ Dào San".

Khổ thơ cuối khép lại bài thơ với những nốt nhạc trầm nhưng những câu chữ tinh tế đầy thi tứ thi ảnh thấm đẫm chất hương rừng gió núi của "Phiên chợ Dào San" đã kịp găm sâu vào trí nhớ của người đọc khiến người đọc cũng bồi hồi với nhà thơ: “Lòng như hòn đá hộc / Lăn xuôi về Dào San...”.

*.

Hà Nội, 15 tháng 2-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG

TRONG “THƠ TRẦN VẤN LỆ”

*

Nhận được tập thơ THƠ TRẦN VẤN LỆ từ nhà thơ Nguyễn Thiên Nga (nhà thơ Trần Vấn Lệ ủy thác) từ Đà Lạt gửi tặng, tôi rất vui vì có được tập thơ của nhà thơ tôi yêu quý nhưng có chút tiêng tiếc là không được chính nhà thơ Trần Vấn Lệ đề tặng vì cách trở địa lý.

Tôi kết bạn facebook với ông từ tháng 6 năm 2019, từ tình cờ đọc những comment trao đổi giữa ông với bạn facebook về thơ ca, thấy cách “nói chuyện” của ông lạ lạ nên tò mò vào đọc trang facebook của ông và tôi bị thơ ông chinh phục. Sau đó ít ngày, tôi được nhà thơ Trần Quốc Phiệt cho biết đôi chút về ông: "Nhà thơ Trần Vấn Lệ, sinh ngày 31-5-1942 tại Phan Thiết tỉnh Bình Thuận. Trưởng thành và dạy học ở Đà Lạt. Hiện định cư tại Los Angeles - Hoa Kỳ". Sau này, khi đã trở thành bạn facebook một thời gian, nhà thơ Trần Vấn Lệ cho tôi thêm chút thông tin về ông: Định cư tại thị trấn Temple, Nam California, Hoa Kỳ từ năm 1989. Trước năm 1975, là Giáo sư Việt Văn trường Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), đã từng tham gia Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ trong đơn vị Bộ binh, Quân khu II của Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Tập thơ "Thơ Trần Vấn Lệ" là tập thơ thứ 22 của ông đã xuất bản thành sách.

Thơ ông viết tự nhiên, chân thực, không câu nệ hình thức, viết như trải lòng, như có gì viết nấy nhưng lại rất tài dùng câu chữ trong những văn cảnh cụ thể, cũng rất khéo ngụy trang cách thể hiện thi ảnh thi tứ để bạn đọc luôn cảm nhận được sự chân chất, tự nhiên mà sâu lắng, tinh tế trong không gian thơ ca đa tầng, đa chiều của thế giới thơ ca Trần Vấn Lệ.

Bài viết này là chút cảm nhận của tôi khi đọc tập thơ "Thơ Trần Vấn Lệ" qua một số bài thơ viết về THƠ, EM VÀ QUÊ HƯƠNG.

 

1.

Ông viết về “Em” và tình yêu ông dành cho "Em" lạ lắm, chả như mọi người  cứ gồng lên em đẹp đến thế này, em đẹp đến thế kia, em đẹp đến “nghiêng nước nghiêng thành”, đến “hoa ghen nguyệt thẹn”... “Em” của ông đơn giản chỉ là những niềm vui bình dị chợt đến từ câu thơ "nói về em", từ nụ cười “mỉm” của "Em"... chỉ vậy thôi cũng đủ khiến cuộc sống quanh ông trở nên tươi ấm:

"Có câu thơ, một hôm rất lạ,

nói về em như nói một ngày vui!

Em biết không em đã mỉm cười

và hôm ấy tự nhiên trời nắng ấm!"

(Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm)

Những câu thơ được cố ý viết bằng cách sắp xếp câu chữ thật bình dị, cấu tứ thật đơn giản với chủ ý diễn tả tâm trạng thật tự nhiên như tiếng lòng chân chất bật ra, đã khiến những câu thơ có ngữ điệu mộc mạc như thế trở nên ấm áp hơn, thật hơn, đời hơn bằng giọng thơ rất riêng của thơ Trần Vấn Lệ. Người đàn ông Trần Vấn Lệ ấy đã rất si mê, cũng rất biết nhịn nhường và biết hết mình vì "Em" với một tình yêu ăm ắp lãng mạn!

Hay những câu thơ:

"Sáng thức dậy, đóa hoa hồng trắng nở,

nụ môi em thì lại rất hồng!

Đang còn là tháng Chạp mùa Đông

em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!"

(Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm)

là khối tình si ông giành cho "Em" thật độc đáo đến độc nhất vô nhị. Hỏi thế gian này liệu có người thứ hai yêu "Em" như nhà thơ Trần Vấn Lệ?! Tôi không biết "Em" ở đời thực của ông đẹp thế nào nhưng với những câu thơ: "Đang còn là tháng Chạp mùa Đông / em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!" thì hẳn "Em" trong tâm tưởng của nhà thơ Trần Vấn Lệ không chỉ "bát ngát Xuân", căng tràn nhựa sống mà còn đem đến cho nhà thơ niềm tin yêu phơi phới. Hai chữ “chớp mắt” khiến câu thơ: “em chớp mắt mùa Xuân đẹp quá!" trở thành điểm nhấn lấp lánh làm bừng sáng "Em", bừng sáng sang cả bài thơ. Những câu thơ tinh tế đậm chất riêng như thế tôi gặp khá nhiều trong “Thơ Trần Vấn Lệ”.

Ông viết về tình yêu, về nỗi nhớ "Em" cũng lạ lắm, cũng chả cần phải "cồn cào", "da diết", "thôi thúc"... đến ồn ã, khuếch đại như nhiều nhà thơ mà là những cảm xúc rất thật, những tưởng tượng cũng rất thật với những hoàn cảnh thực tại mà ông - nhân vật trữ tình trong thơ - đang cô đơn độc thoại với lòng mình:

"Giờ này, Mỹ, tôi thức. Mặt trời lên. Chói chang

Em vẫn ở Việt Nam. Đêm. Trăng cài song cửa.

.

Tôi dang tay. Tôi thở. Tay em trên ngực em?

Tôi đang nghe tiếng chim. Em lim dim đi nhé..."

(Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

Hay:

- “Tôi nhìn nước mênh mông. Tôi nhìn trời bát ngát. Tôi muốn nghe ai hát bài Tình Xa. Tình Xa...

Em ơi em dễ thương, bài Tình Xa cứ hát... Tôi thèm cơn gió tạt áo dài em mênh mông!”

(Tình xa)

- "Màu tím của áo dài, gió vương nhòa sắc đá, đôi mắt huyền đẹp lạ... làm nao nao lòng người!"

(Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ)

- “Ờ nhỉ anh hôn mắt

của em xinh quá nha!

Cái miệng em nở hoa

hình như... chưa hôn nhé!”

(Đi chơi hoài trong thơ)

Những câu thơ đầy ắp cảm xúc với cách bộc lộ trực tiếp bằng những lo lắng cụ thể, những nỗi nhớ cụ thể của tâm thế cô đơn: Lặng lẽ yêu, lặng lẽ nhớ của nhà thơ Trần Vấn Lệ đã tạo sức nặng ám ảnh tới người đọc bởi những da diết yêu thương, những quặn thắt nỗi nhớ và dằng dặc những nỗi buồn bủa vây “khách lãng tử” đa tình cô đơn, cay đắng:

"Thương em quá, bàn tay, hai cái bàn tay ngọc! Thương em quá, mái tóc... Mái tóc dài như sông! Thương em quá cái lưng... cái lưng tàn nhang bám... Hay là anh phơi nắng... giấy trắng cho nó vàng?

.

Tôi đã nói với nàng những câu buồn như vậy!

Nước mắt nàng vẫn chảy. Thơ tôi ràn rụa theo!"

(Thơ và em)

Hay:

- "Thương em quá cái mặt. Nhớ em quá cái lưng.

Nói với nụ hoa hồng... Nụ hoa hồng màu trắng!"

(Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

- “Hoa có hương là hương Xuân nồng

Mưa phùn không chỉ một bên sông!

Người đi nửa bước đầu không nón

Nửa bước làm ai vạn nhớ nhung!”

(Mưa phùn mỗi Tết)

Không cố ý cách tân làm mới thơ theo hình thức Thơ Hậu Hiện đại, cũng không cố công gọt dũa câu chữ, sáng tạo ngôn từ nhưng nhà thơ Trần Vấn Lệ luôn chú trọng cách thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình bằng sự nâng niu cảm xúc, bằng cách chọn lựa câu chữ, sắp xếp câu chữ và sắp xếp thi tứ, thi ảnh sao thật chân chất, gần gũi, dễ thương, dễ cảm để thông điệp bài thơ truyền tải đến bạn đọc thật tự nhiên nên thơ Trần Vấn Lệ luôn mộc mạc mà tinh tế, bình dị mà sâu lắng:

- "Lúc đó gió động lay bức rèm xuân...

Lúc đó bâng khuâng mấy nhành liễu chạm!

.

Mặt trời bỗng sáng - sáng hơn hôm qua

Con ngõ vàng hoa - vàng hơn bữa trước ..."

(Bài thơ yêu quá)

- "Trước khi em đi ngủ, em gọi tôi: "Anh à...

Trăng, đúng là trăng ngà, đêm nay Rằm anh ạ!".

.

Mới "anh à, anh ạ". Em không nói gì thêm,

có lẽ em kéo mền che hai chân ngà ngọc?"

(Một bài thơ nằm ngoài giới hạn)

- "Mưa Đà Lạt trong veo, tôi nhớ thương Đà Lạt, tóc ai trầm hương ngát, chạm nhẹ mà ngát hương!"

(Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ)

“Hình như tôi mới bật cười! Con sông Ba nước cuốn trời Phú Yên... cuốn em luôn cái mặt hiền... câu thơ tôi sợi chỉ viền áo xưa!”

(Dẫn nhau đi tới Đỉnh Ngàn)

- "Anh nhớ vườn cau, em với Ngoại

Mưa làm lá rụng ngỡ tàu bay

Em sau bước Ngoại nâng tà áo

Chút xíu mưa làm má đỏ hây"

(Mù sương mùa đông)

- "Nàng mỉm cười như hoa ban mai

Tuyết băng óng ánh cặp chân mày

Mùa Xuân không đợi chờ chi nữa

Nắng bỗng chói ngời mỗi ngón tay!"

(Noel quê người quê nhà)

Đến cách đặt tên bài thơ ông cũng không giống mọi người, rất khác, rất ngộ, rất riêng của Trần Vấn Lệ: Năm nay năm con hổ năm nào năm con người, Buồn tay ghi lại dòng năm tháng, Dốc nhà làng Đà Lạt để thương để nhớ, Bạn có bao giờ nhặt nắng chưa, Bài thơ làm từ hồi năm xưa xưa lắm, Bài thơ có vị thơ, Bài thơ mồ côi, Mãi mãi thơ là thơ, Một bài thơ nằm ngoài giới hạn, Bài thơ yêu quá, Đi chơi hoài trong thơ, Gió chờ hoài không gió, Thế mà cũng xong một bài thơ...

 

2.

Cuộc chiến tranh 2 miền Nam - Bắc Việt Nam kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 và ông (nhà thơ Trần Vấn Lệ) thuộc phía những người "thua cuộc". Dời bỏ Tổ Quốc đến định cư tại xứ sở cờ hoa từ năm 1989 nhưng mãi tới tháng 3 năm 2016 ông mới có cơ duyên trở về thăm lại Cố Hương. Có lẽ vì thế mà thơ ông luôn đau đáu trầm buồn 2 tiếng Quê Hương:

"Lâu quá, lâu rồi, hai Thế Kỷ, người thì cuối biển kẻ đầu non... Tôi xa Tổ Quốc như chim én nhớ tổ bay tìm hương Cố Hương..."

(Hương tóc)

Hay:

- "Đà Lạt đào nở thắm

mùa Xuân ôi mùa Xuân!

Tôi đang sống tha hương,

mơ màng về thiên cổ!"

(Đi chơi hoài trong thơ)

- “Tết nay năm mới mùa Xuân mới

Đào đứng mong hoài gió ấm, không!

Gió có tới bay vào cửa điện

Giai nhân chải tóc, điểm môi son...”

(Nhắm mắt buồn thôi nhé Cố Hương)

Đọc thơ ông, chỉ thấy những nhớ thương đầy vơi, những xót xa buồn tủi nặng lòng kẻ phải cô đơn tha hương nơi xa xứ. Và lãng đãng trong thơ Trần Vấn Lệ, nhưng cũng hiếm hoi lắm mới chợt gặp tâm trạng ngậm ngùi tiếc nuối về quá khứ của "miền Nam tự hào", của “Sử vàng một giấc chiêm bao”, xen lẫn chút xót xa trước (hiện trạng) "Sử hồng máu lệ đã trào tiếp theo...” (?) bằng tâm thế bi ai của người phía "bên thua cuộc":

"Mình yêu biết mấy Đà Rằng, yêu cây cầu thuở miền Nam tự hào... Sử vàng một giấc chiêm bao. Sử hồng máu lệ đã trào tiếp theo...”

(Dẫn nhau đi tới Đỉnh Ngàn)

mà tuyệt không thấy câu thơ oán thán, hô hào "chống cộng" như không ít nhà văn nhà thơ đứng bên kia chiến tuyến với những người "anh em cùng dòng giống Tiên Rồng" phía "bên thắng cuộc". Có lẽ nhà thơ Trần Vấn Lệ đã ngộ ra được nỗi đau sau cuộc chiến sẽ loang tới tận hang cùng ngõ hẻm, luồn lách tới mọi ngóc ngách cuộc sống của người dân nên dù là "bên thắng cuộc" hay "bên thua cuộc" thì những di họa của cuộc chiến cũng đổ hết lên đầu người dân và những di chứng của cuộc chiến do đối lập ý thức hệ giữa 2 chính thể ở 2 miền Nam - Bắc còn mãi âm ỉ đau trong dòng chảy lịch sử của dân tộc:

"Tôi biết quê tôi không có tuyết

Chỉ làn khói quyện mỗi mai, chiều

Khói nhang hay khói cơm dằn bụng?

... những tấm bia mồ lính ngả xiêu..."

(Noel quê người quê nhà)

Hay:

“Có những miếu đình trơ đống gạch

Có những Nhà Thờ dấu đạn ghim

Những túp lều tranh đều lụp xụp

Bếp còn củi gộc cháy trong đêm...”

(Buồn tay ghi lại dòng năm tháng)

Tôi nghĩ đó là những cảm xúc rất thật của nhà thơ Trần Vấn Lệ, không phải ông cố diễn để dung hòa với những “người bạn” đang cổ súy tinh thần "chống Cộng" cực đoan nên Thơ và "Em" đã trở thành cứu cánh để nhà thơ Trần Vấn Lệ bám víu, tự xoa dịu những hệ lụy tàn khốc của cuộc chiến "huynh đệ tương tàn" mà trụ lại với đời. Nhưng rồi Thơ và cả "Em" nữa cũng trở thành thứ yếu, không đủ sức để làm dịu mát nỗi đau, nỗi buồn, nỗi nhớ... khi tuổi ông đã dần ngả về chiều, khi trái tim ông ngày đêm thêm quặn thắt hướng về Cố Hương:

“Liệu còn về được hay không? Quê Hương, nhật nguyệt hay vòng khói nhang? Khói vòng rồi khói cũng tan, cây nhang cắm đất mà tàn không bay...”

(Giấc mơ hồi hương)

Hay:

- “Thế là chúng ta đã thấy

Bốn tám năm rồi phù vân

Giao thừa không một âm thanh

Chỉ tiếng thở dài thậm thượt!

(Thêm một mùa Xuân tha hương)

- "Tôi muốn về Cheo Reo... đứng nhìn mãi ngọn núi.

Tôi muốn tìm bờ suối, hái, săm soi hoa quỳ...

Em ơi, anh muốn đi / tới đầu trời cuối biển. Thơ, anh hốt, anh liệng, ném khắp Thái Bình Dương? Ai cũng có Quê Hương... thơ thì vô Tổ Quốc?

.

Bây giờ thì tôi khóc!

Tại sao tôi làm thơ?"

(Thơ và em)

Tôi có chút “kỷ niệm” về câu kết một bài thơ với nhà thơ Trần Vấn Lệ khi viết vài dòng cảm nhận về bài thơ "Như Một Bài Tập Làm Văn" của ông.

Khổ cuối của bài thơ, ông bỏ lửng, chỉ có 2 câu:

"Cho tôi được im lặng

khi nghĩ về Quê Hương!"

Đây là dạng câu "kết mở", sẽ có những cảm nhận khác biệt giữa những người đọc và cả người đọc với tác giả.

Khi cảm nhận bài thơ này tôi đã viết: "Tôi không thích cái kết của bài thơ như thế! Bởi yêu Quê Hương ai lại chọn giải pháp im lặng? Bất kỳ lý do nào, hoàn cảnh nào thì tôi nghĩ giải pháp: "Cho tôi được im lặng / khi nghĩ về Quê Hương" vẫn thuộc tâm thế của người có tình yêu Quê Hương chưa đủ lớn để vượt qua những trở ngại của phép tính giữ mình.", nhưng khi đọc tập thơ "THƠ TRẦN VẤN LỆ" - (những sáng tác từ mùa Đông năm 2021 đến mùa Xuân năm 2022), với những câu thơ day dứt, nặng lòng về Quê Hương:

- "Trăng rơi! Có lẽ trăng rơi thật?

Ướt mắt tôi là những ánh sương!

Lấy giấy lau khô mà vẫn ướt

Lẽ nào đang bão ở Quê Hương?"

(Hỏi bờ lau sậy gió bay qua)

- “Ai yêu Hà Nội, xa Hà Nội, chỉ để buồn cho ai ngó theo... Còn để lại chăng là tiếng gió, tiếng dương cầm những giọt trong veo!”

(Vĩnh biệt nhạc sỹ Phú Quang)

- “Vừa mới Noel rồi sắp Tết

bao giờ nước Mỹ hết mùa Đông?

Dĩ nhiên ai cũng nhìn lên lịch

hoa sắp nở nhiều, Xuân phải không?”

(Đường xa chi mấy)

- “Quê Hương thành cái ảo, từ lâu rồi, quá buồn! Khi không mình tha hương, ba mươi ba năm, nhớ!

(Gửi hương cho gió)

- “Những người lầm lũi, nay lầm lũi

Gánh núi non mình lên núi xa

Họ hứng mây sương làm áo mặc

Hứng mưa làm nước mắt, tuôn ra”

(Nhắm mắt buồn thôi nhé Cố Hương)

- "Bao giờ mình về thật

cúi nhặt tuổi hai mươi?

Không lẽ cứ đi chơi

trong thơ hoài, buồn quá!"

(Đi chơi hoài trong thơ)

- "Nụ hồng trắng đắm đuối

Nở trong bàn tay ai...

Đó không phải Tương Lai

... mà Trời ơi! Dĩ Vãng!"

(Nụ hoa hồng trắng và bàn tay em)

- "Đời đẹp như bài thơ! Đâu bài thơ nào đẹp?

Mắt tôi từ từ khép. Lòng cửa kính sương lăn..."

(Đêm mùa đông)

"Chắc chắn Chúa giật mình... giật rớt cây Thánh Giá, cái lư hương được trả... khói thơm suốt bờ sông..."

(Thế mà cũng xong một bài thơ)

Và những câu thơ đã trích dẫn đưa vào bài viết từ tập thơ “Thơ Trần Vấn Lệ” thì tôi hiểu “đòi hỏi” như thế với nhà thơ Trần Vấn Lệ quả là không thỏa đáng. Bởi cũng như ở Việt Nam, bên cạnh những vòng tay luôn giang rộng đón chào “người anh em từng ở bên kia chiến tuyến” gác lại quá khứ trở về Việt Nam cùng hàn gắn vết thương chiến tranh, cùng chung tay xây dựng Đất nước thì vẫn còn những kẻ luôn tìm cách cản trở tiến trình Hòa giải Hòa hợp Dân tộc bằng sự phân biệt đối xử, tạo thêm hận thù, gây chia rẽ tình đoàn kết Dân tộc thì trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng vậy, bên cạnh những trái tim luôn đau đáu hướng về Tổ Quốc với tinh thần Hòa hợp Hòa giải Dân tộc cụ thể, thiết thực thì vẫn còn những kẻ rắp tâm cản trở tiến trình Hòa giải Hòa hợp Dân tộc bằng những hành động "chống Cộng" cực đoan.

Từng là người lính, tuổi cũng đã dần ngả về chiều nên có lẽ nhà thơ Trần Vấn Lệ sợ chiến tranh, sợ tái diễn cảnh “huynh đệ tương tàn”, sợ những đau thương mất mát lại tái hiện trên mảnh đất Việt Nam nên ông đã chọn phép dung hòa để “giữ mình”, để hy vọng tình yêu ông dành cho Quê Hương Việt Nam được vẹn nguyên, không sứt mẻ.

Tôi chép vào đây bài thơ "Xa Quê" viết tặng nhà thơ Trần Vấn Lệ ngày 23 tháng 6 năm 2021 để kết thúc bài viết này.

XA QUÊ...

- Kính tặng nhà thơ Trần Vấn Lệ -

 

Xa quê lâu ngày tưởng nhớ

Ai ngờ cứ dửng dưng quê

Chiều nay, hay tin núi lở

Cả làng vùi dưới chân đê...

 

Hôm tê, từ quê báo thế

Lũ dâng, dâng kín mái nhà

Người người hò nhau cứu tế

Lửa gần mà nước quá xa...

 

Hôm qua, thêm ba "tàu lạ"

Bắn chìm dân đảo Phú Lâm

Biển ta sắp là biển lạ

Dân ta nuốt lệ lặng thầm...

 

Ừ thôi, cứ bàn chân dậm

Ừ thì, cứ chặt nắm tay

Xa quê, thì đau thì thấm

Nước mắt ngược dòng mới hay...

*.

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*.

Hà Nội, sáng 15 tháng 5-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

MỘT CHÚT TÂM SỰ

KHI ĐỌC THƠ NGUYỄN TUYỂN

*

Tôi đọc thơ Nguyễn Tuyển không nhiều, cũng không thường xuyên nên hiểu về thơ của Nguyễn Tuyển không được sâu nhưng có lẽ Cha Mẹ và Quê Hương là mảng đề tài chiếm dung lượng khá lớn trong thơ anh thì phải.

Cũng là nhớ về đấng sinh thành nhưng với nhà thơ Nguyễn Tuyển (trong "Ngỡ") thì khác, anh hạnh phúc hơn khi còn bố còn mẹ nên nỗi nhớ cũng nhẹ nhàng hơn và ít nước mắt hơn so với nỗi nhớ của những ai không còn bố, không còn mẹ. Cho dù trong anh có quắt quay nhớ đấng sinh thành thì cũng chỉ ở mức rưng rưng ngấn lệ, nhưng vẫn còn đầy ắp hạnh phúc của sự chờ đợi được cha mẹ chằm bặp, yêu thương:

"Tôi mơ mùi thơm gạo mới

Nồng nàn vị mặn đất quê

Tôi mơ những chiều mẹ đợi

Bố lên nương rẫy chưa về"

(Ngỡ)

Hay những câu thơ thấm đẫm sự nhớ thương, lòng biết ơn và niềm tự hào về đấng sinh thành của người con khi phiêu bạt xa xứ:

- "Nhớ khói lam chiều quyện mái nhà tranh

Mùi cơm mới thơm nồng mồ hôi mẹ

Cha gánh hoàng hôn bước về lặng lẽ

Phía triền đê lúa trở dạ ngậm đòng”

(Thương nhớ quê nhà)

- “Mẹ nằm đếm tháng tính ngày

Tay lần tràng hạt cầu may mùa vàng

Cha ngồi bên bếp lửa tàn

Mơ trong gió thoảng những làn khói rơm”

(Tháng Ba hạt lúa nghẹn lòng)

- “Vườn của mẹ bỗng như bừng thức giấc

Những sớm mai cha mỉm cười tất bật

Chiếc áo sờn mẹ gánh cả mùa Xuân”

(Mùa Xuân đã đến phía sau mình)

Đọc những câu thơ ăm ắp tình mẹ, ăm ắp tình cha như thế hỏi ai chẳng nao lòng?!

Nỗi nhớ bố nhớ mẹ nhớ quê cứ hồn nhiên trong trẻo ngân lên như thế, rồi chợt lắng lại, trầm xuống với thoảng nhẹ chút hương nhớ vị thương đằm nét hồn quê của riêng Nguyễn Tuyển:

"Bây giờ quê xa vời vợi

Chợt thèm một khúc bánh xôi

Giận mình một đời nông nổi

Chiều rơi, ngỡ mình... mồ côi..."

(Ngỡ)

Câu "Chợt thèm một khúc bánh xôi" bằng cảm xúc rất thật, đã xóa đi cảm xúc còn chênh, chưa thật của câu: "Chiều rơi, ngỡ mình... mồ côi... ", khi Nguyễn Tuyển đẩy cảm xúc cao hơn tâm trạng thực để kết thúc bài thơ.

Không chú trọng vào việc tìm tòi cách thể hiện tứ "mới - lạ - độc" như nhiều nhà thơ trẻ hoặc thích "được trẻ hóa", Nguyễn Tuyển lặng lẽ chọn lựa câu chữ để thể hiện được tình nồng ấm, hồn hậu trong thơ anh. Những câu thơ anh viết về quê hương dễ chạm được vào trái tim người đọc bởi những nét đẹp yên bình như được lan tỏa từ trái tim nồng ấm, đôn hậu của Nguyễn Tuyển:

"Và chú chim líu lo trên cành biếc

Mổ hạt sương tan ở sau vườn

Con mèo nhỏ vùi mình trong xó bếp

Khúc khích đùa trông thật dễ thương"

(Mai về với Mẹ)

Những câu thơ trong trẻo hồn nhiên như thế đem lại cảm xúc rất khác với những câu thơ hay và đẹp trong bài "Tìm về ngày xưa", ví như:

"Tôi về vén bóng tre làng

Nghe bao thương nhớ cũ càng ùa xô

Con đò gác mái sóng nhô

Bờ sông thiêm thiếp, câu hò lạc trôi"

hay:

"Ngược chiều theo cánh thiên di

Ngày trôi qua đáy, mùa đi không về

Ngọn nồm quất rạc triền đê

Lòng tôi ngân ngấn bên lề nhớ quên"

Đọc những câu thơ hay và đẹp với kha khá chữ ấn tượng, gợi nhiều cảm xúc, thể hiện kỹ thuật thơ của người có tay nghề: "Bờ sông thiêm thiếp", "Ngày trôi qua đáy", "quất rạc triền đê ", ... , với những hình ảnh gần gũi thân quen như đã từng gặp ở đâu đó dễ làm bạn đọc nao lòng nhưng cũng chính những câu thơ với những hình ảnh, những ngữ điệu dễ nao lòng đấy lại tạo cảm giác thiêu thiếu cái hồn, cái tình vốn mộc mạc chân quê trong thơ Nguyễn Tuyển, khiến người yêu thơ Nguyễn Tuyển gợn chút nỗi bâng khuâng nhơ nhớ. Có lẽ, anh muốn tạo thay đổi diện mạo cho trang thơ Nguyễn Tuyển bớt đồng điệu đồng màu nên "Tìm về ngày xưa" với những tìm tòi học hỏi để làm mới mình trong ý tưởng cấu tứ nhưng thi tứ thi ảnh chưa thật sự tạo được rõ dấu ấn riêng của thơ Nguyễn Tuyển nên những câu thơ hay và đẹp đó vẫn gợn chút bâng khuâng nhơ nhớ chất thơ, hồn thơ mộc mạc và trong trẻo của Nguyễn Tuyển trong tâm trí bạn đọc.

Tôi thích những câu thơ mang nặng dấu ấn miền Trung nắng gió - quê hương Quảng Ngãi của nhà thơ Nguyễn Tuyển, ví như:

"Bình yên quá, gối đầu lên ngày cũ

Ta mơ màng bên hương khế xốn xang

Mơ dáng ngoại khẽ khàng ru ta ngủ

Chợt giật mình...

mùi cơm mới bay ngang."

(Bình yên quê Mẹ)

Hay:

- "Tôi nhớ làng như đứa trẻ lên ba

Ngồi ngóng mẹ đi chợ phiên ngày tết

Kể sao hết bao sắc màu xanh biếc

Con dế trong tôi cắn nát những đêm dài"

(Ngày bình yên)

- “Sáng ngồi

vẽ một bình minh

Ngờ đâu mưa xối thình lình ướt tôi

Giọt rơi rát bỏng hơn vôi

Cho tôi uống lấy bời bời niềm đau”

(Vẽ ngày bình yên)

- "Có vạt nắng chiều gầy guộc góc sân

Mẹ ngồi hong nhúm khoai mì đang mốc

Thương bông lúa trổ mầm ngoài rộc

Đàn gà con nhao nhác tìm mồi."

(Bài thơ tháng Mười)

- "Hơn nửa đời phiêu bạt đó đây

Giữa phố phồn hoa, rộn còi tàu hú

Tiếng dế nỉ non vẫn theo vào giấc ngủ

Như lời quê thầm thĩ nơi xa"

(Ngày bình yên)

Những câu thơ như thế rất dễ chạm vào trái tim người đọc bởi những câu thơ đấy được tinh lọc, phản chiếu từ cái nhìn trong trẻo mà run rẩy rung lên tiếng lòng từ trái tim hồn hậu của Nguyễn Tuyển.

Viết về Mẹ, Nguyễn Tuyển có khá nhiều câu thơ tinh tế, có sức ám ảnh người đọc với sự lan tỏa thầm lặng, ví như:

“Lời ru chìm giữa mênh mông

Tháng ba ai đốt khói đồng mắt cay

Cánh cò hun hút chân mây

Đồng sâu mẹ đội bóng ngày liêu xiêu”

(Dỗ mình)

Hay:

- "Men theo sợi khói lam chiều

Tôi về quê mẹ - nắng liêu xiêu gầy

Hương trầm ai đốt mà cay

Giọt tràn đáy mắt bỗng ngày rưng rưng"

(Khẽ khàng quê)

- "Mẹ giờ như cọng rơm gầy

Cuối mùa sót lại sau ngày nắng mưa

Chuồn chuồn bay giữa ban trưa

Sợ cơn bão nổi về lùa qua truông"

(Gió ơi lay khẽ thôi nào)

- "Rồi một chiều muốn bỏ chốn phồn hoa

Về bên mẹ hít hà mùi cơm mới

Mái tranh nghèo nhuộm vàng bao sợi khói

Nghe à ơi... bên cánh võng năm nào.”

(Chợt thèm một chút ngày xưa)

- "Tuổi của mẹ theo ngày trôi qua tóc

Mỗi xuân sang thêm vài sợi úa màu

Nồi nếp mới của vụ mùa khó nhọc

Mẹ gói vào cời lửa suốt đêm thâu."

(Mai con về tạ lỗi với quê hương)

- "Mẹ ạ!

chiều nay con lại nhớ

Chiếc chõng tre ọp ẹp thủa nào

Thèm một giấc ngủ vùi như chưa có

Để nghe tròn một khúc ca dao."

(Khóc giữa ban chiều)

- "Mặc cho giông thét bão gào

Âm thầm mẹ vá khuyết hao lở bồi"

(Mẹ ơi mùa trở gió rồi)

Bên cạnh hình ảnh Mẹ là tượng hình Cha với những khắc họa thật đẹp, đẹp lồng lộng, hào sảng với những lắng đọng ấm áp từ trong da diết nỗi nhớ của nhà thơ Nguyễn Tuyển:

"Cạn đêm kí ức cựa mình

Thấy cha cõng nắng chùng chình bước chân

Miệng cười gánh cả xuân sang

Hương đồng theo gót mênh mang gió lùa"

(Chợt mơ về với quê nhà)

Bốn câu thơ khá hay, với Tứ thơ đã được nhiều nhà thơ sử dụng khi khắc họa tượng hình người Cha nhưng tượng hình người Cha trong "kí ức cựa mình" của Nguyễn Tuyển đẹp đôn hậu hào sảng với những nét vẽ dễ chạm vào trái tim và găm sâu vào trí nhớ bạn đọc của riêng Nguyễn Tuyển. Thật tiếc, nhà thơ Nguyễn Tuyển đã không đầu tư thêm chút thời gian cho việc chọn chữ gieo vần để bốn câu thơ đó được tròn trĩnh hơn.

Hay những câu thơ khác Nguyễn Tuyển viết về Cha không cố ồn ào to tiếng mà anh đào sâu vào tâm thức với suy tưởng điềm tĩnh đến trầm lặng:

- "Mấy canh chầy cha tựa cửa lo âu

Canh con nước lớn ròng theo mùa lũ

Bóng cha nhoè lem trên bức tường rêu cũ

Đèn khuya hiu hắt bên thềm."

(Bài thơ tháng Mười)

- "Thấy bóng cha ngồi ở phía triền đê

Nối sợi dây diều tuổi thơ tôi vừa làm đứt

Hoàng hôn buông một màu đỏ rực

Chú dế mèn ngậm cỏ hát nghêu ngao"

(Một chút dại xưa)

khiến những câu thơ đó đầy ắp tâm trạng và nặng thêm sức ám ảnh với người đọc.

Thơ Nguyễn Tuyển luôn đầy ắp chất liệu mộc mạc, bình dị của cuộc sống và câu chữ anh dùng cũng là câu chữ chọn lựa từ ngôn ngữ của cuộc sống nên thơ Nguyễn Tuyển dễ gần dễ hiểu với bạn đọc. Có lẽ vì thế mà thơ của anh tuy không chú trọng làm mới cách sử dụng câu chữ và sáng tạo ngôn từ, cũng không làm mới hình thức thể hiện nhưng là thơ của cảm xúc chân thật nên bạn đọc đến với thơ Nguyễn Tuyển lặng lẽ, tự nhiên với sự lan tỏa thầm lặng không ồn ào vồn vã.

*.

Hà Nội, sáng 5 tháng 8-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ “CÁI TÔI”

CỦA NHÀ THƠ ÁI NHÂN THI SĨ

*

Nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ (có thêm các biệt danh là Ái Nhân Bùi, Vua Mộng...) viết bài thơ “Cái Tôi” từ 26 tháng 04 năm 2020, như tự răn mình, như trách người, trách đời... đã để "cái tôi tiêu cực” chi phối cuộc sống, phủ mờ và làm tổn thương các mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.

CÁI TÔI

.

Cái tôi mày xấu quá chừng

Vì mày tao cũng đã từng đắng cay

Ngạo đời, kệch cỡm khoe say

Biết đâu cũng giống mây bay vô thường

.

Oai phong vênh váo hoang đường

Hư danh bao gã cũng phường thảo mai

Vì mày ối đứa tưởng oai

Kiêu căng một đám choai choai khoe tiền

.

Cái tôi gieo rắc tỵ hiềm

Tan như bong bóng rơi miền… ảo hoang

*.

Hà Nội, 26 tháng 4, 2020

ÁI NHÂN BÙI CAO THẾ

Những câu thơ hao hao dáng dấp “văn nói xếp vần” (có thể do Ái Nhân Bùi vội viết theo cảm hứng) của "Cái Tôi" có hiệu ứng tức thì với người đọc bởi sự trút giận thẳng tưng theo lối chì chiết chẳng cần e dè, chẳng cần kiêng nể của nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ với thói kiêu ngạo, đố kỵ, điêu chác, háo danh, hoang tưởng... của lòng người, của thói đời mà bất kỳ ai cũng ít nhiều đều có.

Đọc “Cái Tôi” của anh, tôi tin nhiều người bằng trực cảm sẽ giật mình ngờ ngợ nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ chủ ý mượn thơ để "cay cú trả treo" mình, “đá xoáy” mình, “hậm hực chửi đổng” mình vì thấy bóng dáng mình hiển hiện trong những dòng thơ đó.

Bài thơ hay hay không hay không bàn luận, cũng chẳng nên lấy tiêu chí thơ ra làm quan trọng, chỉ nên biết “Cái Tôi” được nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ viết bằng cảm xúc của những tâm thế: thở than, oán thán, cay cú, trút giận... rất thật nhưng cũng lại rất ngạo nghễ, chả cần giấu diếm che đậy những bời bời tâm trạng trách mình, trách người, trách đời... cũng chẳng cần ý nhị nhẹ nhàng mà thẳng tưng bỗ bã, thậm chí là chì chiết cay nghiệt với những: “Ngạo đời, kệch cỡm”, “gieo rắc tỵ hiềm”,... của “phường thảo mai”, của “đám choai choai khoe tiền”... nên “Cái tôi” đã không còn là “cái tôi ấm ức”, “cái tôi hậm hực” của riêng tâm thế nhà thơ Bùi Cao Thế (họ tên đầy đủ theo giấy khai sinh của nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ) mà là tấm gương phản chiếu thói hư tật xấu làm giật thót khối người, thế là nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ đã thành công với mục đích sáng tác “Cái tôi” của mình!

Tôi nghĩ, làm thơ, đôi khi cũng nên tự cho phép bỏ qua những thủ pháp này nọ, những tiêu chí này kia để bài thơ vừa cất lên được tiếng nói thật của lòng mình, vừa góp phần lên án thói hư tật xấu của người đời lại tự an ủi được bản thân chút ít bằng “phép thắng lợi tinh thần” như “Cái tôi” của nhà thơ Ái Nhân Thi Sĩ thì cũng nên đấy chứ!

*.

Hà Nội, chiều 28 tháng 11-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THƠ TRẦN ĐỨC TÍN:

VÀI TRAO ĐỔI VỚI VŨ THỊ HƯƠNG MAI

*

Trần Đức Tín là nhà thơ trẻ, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1989, gốc người Cà Mau, vào hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh năm 2021. Thơ của anh xuất hiện khá nhiều trên các diễn đàn, các trang báo trực thuộc các hội văn nghệ do nhà nước quản lý. Anh viết theo kiểu thơ hình thức diễn giải (hậu hiện đại), lối thơ mà các nhà thơ trung thành với lối thơ truyền thống như Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng, Nguyễn Khôi, Triệu Lam Châu... gọi là "thứ giặc thơ", thứ “thơ vô lối", “thơ tân con cóc”, thơ phá tiếng Việt. Anh tham gia khá tích cực vào các cuộc thi thơ do các hội văn nghệ trong nước tổ chức, đã giành được vài giải và cũng gặp phải đôi ba ì xèo, kiện tụng quanh chuyện thơ dự thi của Trần Đức Tín có "những nét hao hao giống với con cái nhà người ta.".

Bài viết này là trao đổi của tôi với tác giả Vũ Thị Hương Mai về thơ của nhà thơ trẻ Trần Đức Tín (bút danh Khét) khi chị comment rất thẳng thắn dưới bài viết ""Lạc" của Trần Đức Tín" trên trang facebook của tôi.

Comment đầu tiên tác giả Vũ Thị Hương Mai viết: "Câu “Bụt / tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió / ăn hết những yêu thương” đọc nghe rất ngô nghê, cũ không ra cũ, mới không ra mới, giả tạo cảm xúc và màu mè làm dáng. Đừng nói đây là câu thơ chứa nhiều ẩn dụ phải thật suy tư mới tìm ra nghĩa bóng núp trong thơ như cách nói ngụy biện, bao che cho những cách làm mới thơ để phá tiếng Việt của các giọng thơ cùng đẳng cấp với "Mẹ tôi chửi kẻ trộm". Đây không phải là câu thơ “khó hiểu” mà là câu nói lung tung, rất tối nghĩa."

Đúng là thơ của Trần Đức Tín có khá nhiều câu lan man dài dòng diễn giải như văn nói, hoặc tối nghĩa hoặc khó hiểu và khó cảm, khiến người đọc như ú ớ đi trong mê lộ chữ nghĩa nhảy nhót điệu đà nhưng lại không có ý hoặc ý gượng ép chắp vá nên nhiều bài vừa đọc xong đã quên ngay:

- “chúng ta ăn trên những xác người nhé / không / chúng ta không phải kền kền / vậy chúng ta là gì / như mọi sinh vật khác / mở mắt và đi / làm thứ gì đó / đại loại, mâu thuẫn / và nhốt tối trong những bức tường” (Giấc mơ ký sinh)

- “loài người sinh ra / để lẩn trốn / nghệ thuật sinh ra / để đào thoát” (Khi ta viết chữ)

- “bạn hãy nhìn đi / nghệ thuật sẽ bị hủy diệt bởi chính trị / và giáo lý nào đó đã khiến chúng ta đấu tranh.” (Trên môi em tối cổ)

- “bài thơ đã mặc chiếc áo quá rộng / khi nó không có thuốc súng / không có điểm nhọn / như cậu học sinh biết yêu lần đầu / và bị mẹ cấm / cậu không cần lời ngợi ca, giấy khen và điểm” (Bài thơ cần lỗ thủng)

- “những lần chơi 5 - 10, thằng cu quẹo đã chui vào đống rơm / và dĩ nhiên, lần nào nó cũng thắng / phần thưởng là trận đòn của mẹ nó / vì mấy lần hụt hơi trước sàn lãng tưởng nó té xuống sông / hồi nhỏ” (Bạn hãy kết liễu nó)

- “cố quận mặc áo gì / sinh ra tôi ở câu hò nửa đen nửa trắng / mạ không còn non để mọc chân làng / chín nhánh đêm đêm vỗ lên mái tóc / đứa con rơi của đồng bằng / ở đậu nhịp song lang” (Đừng mang tôi về cố quận)

- “tôi đã nói với em / quy tắc chúng mình chỉ một / đẻ cho anh đứa con / chính nó cũng phá bỏ mẹ cái quy tắc.” (Quy tắc của hoa ngón)

- "không / chúng ta không thở chỉ để chết / mắt môi, con tim, lý tưởng này không sinh ra để bắn nhau" (Không bao giờ là súng)

(....)

Tôi cũng không thích thơ kiểu hình thức diễn giải nhưng vì quý nhau mà gắng đọc, gắng đánh vật với câu chữ rắc rối cố tạo bí hiểm của dòng thơ "hậu hiện đại" nhưng tác giả Vũ Thị Hương Mai cho rằng: "Câu “Bụt / tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió / ăn hết những yêu thương” đọc nghe rất ngô nghê, cũ không ra cũ, mới không ra mới, giả tạo cảm xúc và màu mè làm dáng. .... là câu nói lung tung, rất tối nghĩa." thì chưa công bằng với nhà thơ Trần Đức Tín bởi "Ông Bụt" nhắc đến trong bài thơ LẠC Không phải là ông Bụt trong truyện cổ tích mà Tín (Khét) chỉ mượn hình ảnh "ông Bụt" để nói chuyện đời, chuyện niềm tin bị dẫn dắt, lừa dối trong xã hội hiện đại như tôi đã viết trong bài ""Lạc" của Trần Đức Tín":

""Bụt" trong truyện cổ tích là một ông Tiên có phép nhiệm màu luôn chớ che, bảo vệ, luôn đem đến những yêu thương, hạnh phúc cho con người còn "Bụt" trong "Lạc" của Khét lại là một ông Bụt “trơ vơ”, bất lực “tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió”, "ăn hết những yêu thương."... Phép nhiệm màu của Bụt, của ông Tiên trong niềm tin ngàn đời của người dân Việt đã bất lực trước sự hoành hành đang chiếm thế thương phong của cái ác.

Đọc những câu thơ này của Khét, tôi nhớ hình như đã nghe ở đâu đó, đọc ở đâu đó lời ngợi ca về một "ông Tiên", một ông "Bụt" hiện hữu giữa đời thường còn nhân đức hơn nhiều ông tiên, ông "Bụt" trong truyện cổ tích… nhưng mà suốt từ sáng đến giờ tôi vẫn không thể nhớ ra."

Hay như comment khác của tác giả Vũ Thị Hương Mai: "Lại còn cái câu "thèm lời à ơi, câu chuyện bà kể dù cổ tích không thiêng" rất phản cảm. Xưa tới nay, những câu chuyện cổ tích có giá trị rất lớn trong việc vun đắp ước mơ, giáo dưỡng nhân cách tốt đẹp cho trẻ em vậy mà "nhà thơ cách tân" Trần Đức Tín, nghe đâu còn từng làm thầy giáo, viết câu thơ nhổ toẹt vào văn hoá của nhân loại, vậy mà anh cũng tán được. (...) Em không hiểu loại thơ vớ vẩn này mà cũng được báo chí lăng xê." thì có lẽ cũng vì không thích dòng thơ "hậu hiện đại" mà chị trách cứ Khét chăng?! Chuyện "cổ tích" trong "Lạc" là Khét "mượn" để nói về niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi đẹp của con người ở xã hội hiện tại là thứ "bánh vẽ" bị đánh tráo, cướp đoạt... nên tôi viết: "Khét viết tiếp ước mơ của "những đứa trẻ" tự bỏ nhà "đi hoang": "thèm lời à ơi, câu chuyện bà kể" bằng tiếp tục ý thức tự đánh lừa niềm tin vì đã biết "dù cổ tích không thiêng", vẫn cố bấu víu vào hy vọng huyễn hoặc sẽ có được chút phép nhiệm màu của những câu chuyện "cổ tích" để có được cuộc sống bình thường với “mẹ”, với Quê hương...."

Vâng! Đúng như tác giả Vũ Thị Hương Mai nhận xét là phần lớn ngôn từ thơ của nhà thơ Trần Đức Tín giống như những con chữ rời rạc, không có cảm xúc, đọc lên cứ trơn tuột khỏi đầu vì những con chữ đó không phải chữ của thơ, chỉ hao hao những câu văn nói lủng củng chắp vá vô hồn.

Có lẽ không làm chủ được cảm xúc hay không có cảm xúc hoặc cảm xúc chưa tới nên thơ của Trần Đức Tín nhạt và hời hợt, thậm chí cả những câu nói lảm nhảm cũng được anh dễ dãi đưa vào “thơ”. Tín chất vấn H. những câu thừa thãi: -"H ạ / ta sẽ đóng tất cả cửa / và đừng mở mắt / ta là gì nếu một ngày quên sống?” (Gửi H). Rồi Tín tự bạch, Tín sợ con người 2 mặt xấu xí đến ghê sợ của chính mình: - “rằm / tôi lễ chùa bằng chiếc lá đa mang che mắt phật / cuối tuần / tôi quét lời xưng tội ra đường cho xe cán / và đêm nào / tôi cũng sợ tôi” (Nước mắt mang hình nhau thai). Đôi lúc lại là tâm trạng bất lực mà buông xuôi với những câu than thở luẩn quẩn loanh quanh: -“Đêm và em: là hai tên phản bội / tôi có khóc đứng ngồi cũng thương nhớ cả hai.” (Đêm và em) hoặc đứng lẩm bẩm một mình những câu nói lộn xộn vô nghĩa: "không / chúng ta không thở chỉ để chết / mắt môi, con tim, lý tưởng này không sinh ra để bắn nhau" (Không bao giờ là súng). Cũng có khi Tín ấm ức ngửa cổ mà vu vơ chửi đổng: “tôi nói với em / quy tắc là thứ mẹ gì mà kìm nén chúng ta” (Quy tắc của hoa ngón), rồi như hớn hở với “chân lý” phải tốn bao công sức mò mẫm anh mới phát hiện ra mà tuyên bố chắc nịch: “tôi đã nói với em / quy tắc chúng mình chỉ một / đẻ cho anh đứa con / chính nó cũng phá bỏ mẹ cái quy tắc.” (Quy tắc của hoa ngón). Tín đưa triết lý vào "thơ" nhưng đó là thứ "triết lý" phi lý với thực tế, còn bao hàm cả yếu tố tiêu cực trong ý thức bảo vệ Tổ Quốc nếu Đất Nước không may gặp nạn giặc ngoại xâm: -"khi tôi cầm viết / không phải là súng / không bao giờ là súng… / nếu phải bắn / bài thơ sẽ tự bắn mình đầu tiên / và nhất quyết không bôi thêm vệt máu nào vào lịch sử" (Không bao giờ là súng). Và hồn nhiên với tinh thần của nhà hiệp sĩ xứ Mantra mà "ngạo nghễ" khẳng định Khét (tức Trần Đức Tin) sẽ trường tồn cùng dòng chảy của lịch sử: -"nếu có thể / hãy chôn tôi với núi non” (Này em).... Nhưng không biết vì tâm lý "mặc cảm thân phận" hay vì những nỗi đau thầm kín nào đó đã giày vò suốt năm tháng tuổi thơ mà thơ của Khét luôn phản chiếu những hình ảnh tiêu cực của tâm thế tự ti, bạc nhược của kẻ thất bại trong cuộc đời:

- “chín nhánh da vàng / chúng con: bọn bỏ quê / mót trăng trên đại lộ / đội lên đầu / rồi đấm ngực mình” (Trăng quê)

- “10 năm biệt quê / lủi thủi cúi đầu” (Khói)

- “như đêm nay / chúng ta đi vào rừng / và ngồi khóc" (Phục sinh)

- "cho tôi vay giấc mơ của em đi / tôi nghèo nàn cõng trên lưng ngàn năm hạt lép / không dám quay về gặp mẹ / không dám chạm mặt quê hương / tôi đi như đứa mồ côi / dưới gầm trời chỉ còn tiếng cúm núm...” (Cho tôi vay giấc mơ)

(....)

Những ý thơ tủn mủn, gượng ép, những hình ảnh u ám, xám xịt, những cảm giác lạc lõng, tủi hờn... trong những câu thơ không được viết bằng sự sáng tạo mà chỉ là viết khác đi nên những câu thơ na ná vay mượn xuất hiện trong thơ của Trần Đức Tín khá nhiều:

- "lạy hiên trước / lạy vườn sau / đừng phau phau trắng làm đau ruộng đồng" (Sinh nhật Mẹ)

- "tôi thương tôi: cả đời rời tổ / đêm giật mình ướt mấy sợi rơm khô." (Thưa mẹ, con về)

- "tôi dựng căn nhà hoang trên triền núi / có cành khảo quang trổ về hướng cửu long” (Tiếng đàn khảo quang)

- "bỗng nghe lá rụng giật mình / Phật cũng như lá lặng thinh mà buồn" (Vào chùa)

- "tôi / đưa tay / khụy gối / lạy hiên nhà / tôi đi" (Tôi đi)

- "tôi về ngồi cùng một con ma núi/ mới hay cổ tích / chết yểu / trên tay người" (Ngồi cùng ma núi)

- “Cho tôi vay giấc mơ của em đi / tôi nghèo nàn / giấc mơ cũng khô cạn.” (Cho tôi vay giấc mơ)

- “khi chết / đừng mang tôi về cố quận / hồi kinh chiều là lưỡi dao lam...” (Đừng mang tôi về cố quận)

- “mọp quỳ trời đất mênh mông / lạy mẹ / con đã / lưu vong quê mình” (Lạy mẹ: con cũng đã lưu vong quê mình)

 (....)

Vì muốn gây ấn tượng thơ của mình “mới, lạ”, Khét (Trần Đức Tín) đã viết những câu thơ phản cảm, miệt thị dân tộc mình bằng những câu thơ dị biệt mà nhà thơ, nhà báo Ngô Đức Hành đã không tiếc bỏ công chăm chút liệt kê để phong thánh cho thơ của Trần Đức Tín bằng những chữ diêm dúa rằng “tư tưởng thơ” đã “vượt lên mọi không gian cụ thể, dành cho chúng sinh, chủng tộc da vàng, đang quần cư và mơ ước” trong bài viết “Khét, có khi ta tự sinh ra mình”. Và ngay sau đó nhà thơ Ngô Đức Hành đã không ngại ngùng mà ngợi ca “Khét là nhà thơ của chất vấn, tự phản biện”. Tôi không biết nhà thơ Trần Đức Tín “chất vấn, tự phản biện” những gì nhưng cách anh lôi người Việt ra để miệt thị, xúc phạm như những câu được nhà thơ, nhà báo Ngô Đức Hành trích dẫn dưới đây thì thật không ổn:

- “điều giỏi nhất của giống loài mình

là làm đau người khác

phải không tôi...”

(Giống loài)

- “tôi thấy người Việt

gọt chân cho vừa giày

gọt màu da cho lờ lợ tổ tiên

(Lờ lợ tổ tiên)

- “đêm nay

ăn hết những giấc mơ có đốm

còn sót lại đôi mắt người Việt

nhìn chằm chằm vào tôi

(Giấc mơ có đốm)

Đó có thể là lối sống giả dối, tệ bạc, “biến thái trong tâm hồn, trong văn hóa” của Khét (Khét, có khi ta tự sinh ra mình - Ngô Đức Hành), của một số cá thể trong cộng đồng người Việt nhưng nhà thơ Trần Đức Tín không nên viết những câu miệt thị, xúc phạm người Việt Nam như thế vì những biến thái đấy không phải là đại diện cho tâm hồn, văn hóa của đại đa số người Việt!

Mươi ngày vật lộn đọc thơ Khét trên facebook để hiểu, để cảm thơ của Trần Đức Tín, tôi cũng đã tìm được những câu thơ găm sâu vào trí nhớ người đọc:

- “có phải mẹ đã đan cái nia bằng mảnh vụn thời gian / chuốt từng sợi xát vào tim cái nhớ” (Cái nia của mẹ)

- “đưa mẹ về qua đồng sau nhà ngoại / rơi một cánh cò mà loạng choạng cả quê hương” (Ngày mẹ về quê)

- "“ở quê nhà / cha mẹ ổn hay không / bão có giật giông đau cái kèo cái cột / mưa có dột mẹ mang đêm ra hứng / làm gì còn cái thau nào không đầy buồn / đôi mắt mẹ rưng rưng” (Mùa bão)

- “thương chiếc lá rơi ngủ vùi trên phố lạ / nửa mùa ngâu em mang về giấu bên ô cửa sổ / tôi chưa kịp buồn đã ướt nửa bơ vơ” (Sài Gòn bạt mạng cũng mình ên)

- “tôi đã kịp nói gì đâu mà sông chảy buồn biền biệt / bụi cỏ dại trước nhà lại cựa vào lòng gió rồi tự đau.” (Tôi rạ rơm mình lam triền sông khô đáy)

- “cơn bão đầu tiên anh đón nơi đất khách / nghe là lạ từng hạt mưa giăng mắc / lắm lúc trở mình đau hơi gió xa xôi” (Mình ơi bão qua rồi)

- “chạy tìm em trong chập chũng phận người / anh vấp ngã giữa minh mông sóng phố / khản đến buốt lòng anh cố gọi: / mình ơi!” (Mình ơi bão qua rồi)

Nhưng thật tiếc đấy lại là những bài thơ Khét viết từ những năm Khét chưa được xướng tên trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ của hội nhà văn Việt Nam. Có lẽ những lời tung hô vì nhiều lý do của các bạn thơ đã làm Trần Đức Tín ngất ngư trong ánh hào quang của thế giới ảo nên thơ của anh ngày càng lún sâu vào rối loạn ngôn từ?!

Là bạn trên facebook của Tín, cũng rất yêu quý Trần Đức Tín, tôi mong lắm được gặp lại Khét của những ngày anh mới chân ướt chân ráo từ Cà Mau về nhập cư đất Sài Gòn!

*.

Hà Nội, sáng 24 tháng 12-2022

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NGHĨ KHI ĐỌC "THU VÀNG

PHỐ CŨ" CỦA HOÀNG XUÂN SƠN

*

Tôi biết bài thơ "Thu Vàng Phố Cũ" của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn qua chuyên mục giới thiệu thơ hay vào thứ 7 hàng tuần trên facebook cá nhân của Nhà giáo, Dịch giả Nguyễn Đại Hoàng.

Đây là bài thơ thể tự do, viết theo lối truyền thống, với khá nhiều câu thơ đẹp, tinh tế, đã níu người đọc găm bài thơ vào trí nhớ:

THU VÀNG PHỐ CŨ

.

Khi lá rừng phong dần đỏ thắm

Anh nghe hương nồng bách diệp thoảng quanh đây

Ôi những mùa thu rực rỡ xứ người

Anh vẫn nhớ, vẫn mơ mỗi độ thu vàng phố cũ

Nhớ những con đường hoàng hôn tím nhẹ

Áo trắng ai đi dáng đẹp mơ hồ

Gót nhỏ thì thầm, guốc mộc đơn sơ

Như ghi dấu một thời anh mộng tưởng

.

Anh nhớ cả một trời mây thầm lặng

Con sông nằm khuất lấp bóng mù sương

Buổi sáng ra đi chưa có nắng trên đường

Nghe hơi lạnh phả vào hồn thích thú

Anh còn giữ

Xác bướm lồng trang sách cũ

Từng cánh hoa yêu ép vở học trò

Từng buổi tan trường đưa đón vẩn vơ

Theo ai đó mà ngại ngùng thăm hỏi

.

Mùa thu trở về với hồn thơ vụng dại

Ôm mộng thi nhân làm đẹp cho đời

Hè phố gieo mòn những bước đơn côi

Đi thơ thẩn như mây chiều lạc lối

.

Anh muốn hỏi

Một đời người có bao nhiêu lần thay đổi?

Con tầu đi không ghé mãi ga nào

Có đâu ngờ hoa bướm vẫn xôn xao

Trong trí nhớ mùa thu vàng phố cũ

Chiều nay đứng dưới hàng phong rực rỡ

Mà ngỡ rưng rưng mầu huyết phượng năm nào...

*

HOÀNG XUÂN SƠN

Không có chữ THƯƠNG chữ EM nào trong bài thơ nhưng phủ kín bài thơ là hình bóng em với dày đặc kỷ niệm cùng em, cùng mùa thu “rưng rưng” nỗi nhớ. Cách viết này thì nhà thơ nào cũng đã có viết nhưng điều khác biệt (và đặc biệt) ở bài thơ này là thi ảnh thi tứ của THU VÀNG PHỐ CŨ rất đẹp, rất gợi những cảm xúc của riêng Hoàng Xuân Sơn:

- "Áo trắng ai đi dáng đẹp mơ hồ

Gót nhỏ thì thầm, guốc mộc đơn sơ"

- "Buổi sáng ra đi chưa có nắng trên đường

Nghe hơi lạnh phả vào hồn thích thú"

- "Hè phố gieo mòn những bước đơn côi

Đi thơ thẩn như mây chiều lạc lối"

Tình yêu tuổi học trò hiện lên trong ký ức của thi nhân thật đẹp những ngại ngùng hồn nhiên của tuổi mới lớn:

"Xác bướm lồng trang sách cũ

Từng cánh hoa yêu ép vở học trò

Từng buổi tan trường đưa đón vẩn vơ

Theo ai đó mà ngại ngùng thăm hỏi"

Những vụng về ấy, những khù khờ ấy được nhà thơ Hoàng Xuân Sơn diễn tả ở 2 câu thơ với những chữ thật đắc dụng:

"Hè phố gieo mòn những bước đơn côi

Đi thơ thẩn như mây chiều lạc lối"

Tôi thích cách dùng chữ của nhà thơ Hoàng Xuân Sơn ở 2 câu thơ này!

Chữ "gieo" diễn tả sự ấp ủ, niềm hy vọng chờ đợi có được một tình yêu trong sáng thơ mộng. Chữ "mòn" diễn tả sự kiên nhẫn và độ dầy của bụi thời gian. Hai chữ "gieo mòn" kết hợp để khắc họa một tình yêu đơn phương, nồng nàn mà bền bỉ “thủy chung” đến khắc khoải của chàng trai độ tuổi xuân thì. Hai chữ "đơn côi" ở cuối câu: "Hè phố gieo mòn những bước đơn côi" đã tô đậm và làm nhoi nhói thêm hình ảnh lẻ loi, cô độc của chàng thanh niên chân chất, khờ khạo ôm mãi khối si tình. Hai chữ "thơ thẩn" đứng cùng 4 chữ "mây chiều lạc lối" trong câu: "Đi thơ thẩn như mây chiều lạc lối" đã tạc tạo lại hình ảnh chàng trai ngây thơ với nét buồn "vẩn vơ" giữa chiều tà nhạt nắng, đẹp nhưng mà buồn đến nao lòng của kẻ vì yêu mà “vẩn vơ” “ôm mộng thi nhân”.

Cả bài thơ là ăm ắp nỗi nhớ về "Em", về "Thu vàng phố cũ" nhưng viết trực tiếp về "Em" thì thi sĩ Hoàng Xuân Sơn cô đọng chỉ 2 câu:

"Áo trắng ai đi dáng đẹp mơ hồ

Gót nhỏ thì thầm, guốc mộc đơn sơ”

Bằng 16 chữ chọn lựa không ồn ào mỹ tự, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn đã khắc họa "Em" của "Thu Vàng Phố Cũ" thật sinh động với vẻ đẹp mềm mại, tinh khôi, vẻ đẹp ấy đã khiến trái tim chàng trai tuổi mới lớn phải "mơ hồ" ngơ ngẩn. Hai chữ "mơ hồ" ở cuối câu "Áo trắng ai đi dáng đẹp mơ hồ" làm nhiệm vụ bổ trợ, gợi mở thêm sự quyến rũ của "Áo trắng ai đi" thành vẻ đẹp huyền ảo như thực như mơ. Hai chữ "thì thầm" đặt trong câu "Gót nhỏ thì thầm, guốc mộc đơn sơ” đã nâng sự quyến rũ của "Áo trắng ai đi" thêm nền nã, sống động để “Em” được thật hơn và đời hơn.

Những câu thơ tinh tế, giàu thi tứ thi ảnh của "Thu Vàng Phố Cũ":

- “Áo trắng ai đi dáng đẹp mơ hồ

Gót nhỏ thì thầm, guốc mộc đơn sơ”

- “Con sông nằm khuất lấp bóng mù sương

Buổi sáng ra đi chưa có nắng trên đường

Nghe hơi lạnh phả vào hồn thích thú"

- “Hè phố gieo mòn những bước đơn côi

Đi thơ thẩn như mây chiều lạc lối”

đã níu người đọc đọc chậm lại bài thơ, và chính những hình tượng thơ đẹp những nét riêng của Hoàng Xuân Sơn như thế đã làm nên sự khác biệt và đặc biệt khó quên của THU VÀNG PHỐ CŨ!.

*.

Hà Nội, sáng 24 tháng 09-2023

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

GẶP TRẦN QUANG ĐẠO

"TRONG MƯA XUÂN"

*

Sáng nay, lang thang ngắm "phố phường" làng facebook, tôi gặp lại chàng thi sĩ Trần Quang Đạo "đầu trần chân đất" "đi mê mải" "dưới mưa xuân rây lộc" ngắm phố phường Hà Nội bằng tâm thế tĩnh tại của người đã ngộ được Đạo của cõi Người, với những câu thơ phảng phất chất men Thiền:

TRONG MƯA XUÂN

.

Dưới mưa xuân rây lộc

ta đầu trần

mưa cứ rơi đều

.

Mưa chia không thiên vị

.

Ta đi

phố phường mờ ảo

hoa đào

quất

hàng quán

bay trong mưa

.

Nỗi nghèo bay lên trời

năm đói kém

.

Ta cứ đi mê mải

mắt mua hết phố hết phường

mắt mua hết đào hết quất

mua hết người đẹp trên đường…

.

Tặng những người chưa gặp

.

Mưa cứ rơi nữa đi

chốc nữa bên hàng cây dọc phố

ta nẩy những nụ xuân!

.

Hà Nội, 01 tháng 02/2024

TRẦN QUANG ĐẠO

Tôi ấn tượng với 2 chữ "rây lộc" ở ngay câu thơ đầu: "Dưới mưa xuân rây lộc" bởi 2 chữ "rây lộc" này đã khiến "mưa xuân" của Trần Quang Đạo trở nên đặc biệt và gây ấn tượng khác hẳn với những "mưa xuân" của các nhà thơ khác. Nhờ 2 chữ "rây lộc" mà "mưa xuân" của Trần Quang Đạo trở thành mưa xuân của lòng nhân ái, của khát vọng tình đời. Hình ảnh chàng thi sĩ "đầu trần" đi dưới "mưa xuân" trong khổ thơ đầu thật ấn tượng:

"Dưới mưa xuân rây lộc

ta đầu trần

mưa cứ rơi đều”

Thì rõ, mưa rây mưa bụi hẳn sẽ "rơi đều", sẽ "chia không thiên vị" người sang hay kẻ hèn, người "đầu trần" hay kẻ che ô, đội mũ. Sự thật nghe đơn giản vậy nhưng phải nhờ quan sát thật kỹ, thật tỉnh mới ngộ ra được.

Nhà thơ Trần Quang Đạo đã tách biệt câu cảm thán: "Mưa chia không thiên vị." đứng độc lập với khổ thơ đầu để thêm nhấn mạnh sự chiêm nghiệm, ngộ thức về Đạo của người tu tập. Và nhà thơ thản nhiên cởi bỏ "thất tình lục dục" với những ái ố hỉ nộ, bon chen, giành giật của thói đời, kiếp người mà tĩnh tâm tự tại đắm say cái đẹp của đất trời, của tình đời:

"Ta đi

phố phường mờ ảo

hoa đào

quất

hàng quán

bay trong mưa"

Chỉ bằng 14 chữ với cấu trúc 6 nhịp ngắt dòng, nhà thơ Trần Quang Đạo đã tạc tạo Hà Nội ngày cuối năm qua những thước phim du dương tiếng nhạc, với hình ảnh “phố phường” - “đào” - “quất’... “bay” chậm chậm dưới "mưa rây" đẹp “mờ ảo” đến nao lòng. Tôi ngẩn người với khổ thơ 14 chữ cựa quậy, quẫy đạp, đầy nhạc, đầy họa này!

Rồi nhà thơ chuyển nhịp, chuyển cảnh, dẫn người đọc chuyển tâm trạng bằng 2 câu thơ tự thoại:

"Nỗi nghèo bay lên trời

năm đói kém"

tự nhắc lòng hãy thả "Nỗi nghèo bay lên trời" để trôi đi những phiền muộn âu lo của "năm đói kém" mà tĩnh tâm an lạc với cuộc đời và 2 câu thơ tự thoại cũng chính là nỗi lòng nhà thơ mong ước: "Nỗi nghèo bay lên trời" để thế nhân thoát nghèo thoát cực!

Ở khổ thơ này, nhà thơ Trần Quang Đạo dùng 2 chữ "Nỗi nghèo" để diễn tả HIỆN TRẠNG NGHÈO KHÔNG DỄ NHÌN THẤY, hiện trạng đó không đơn giản là "cái nghèo" vật chất dễ nhận ra, dễ nhìn thấy như ta thường nghe, thường nói mà là tâm trạng, là niềm tin, là khát vọng của cõi nhân gian đã nhuốm màu u ám trong bối cảnh kinh tế, xã hội cuối năm 2023 xám xịt màu hy vọng!

Nhà thơ lại chuyển cảnh, lại dẫn người đọc phân thân vào các phân cảnh, để người đọc ngẩn ngơ cùng nhà thơ "đi mê mải" giữa náo nhiệt phố phường, rồi đắm mình vào vẻ đẹp lãng đãng, bảng lảng của đất trời. Nhà thơ hào phóng "mua" hết những gì anh nhìn thấy, những gì đã lạc vào tầm mắt của anh khiến anh ngẩn ngơ, khiến anh bị mê hoặc rồi anh lại hào phóng đem "Tặng những người chưa gặp" những “phố” những “phường”, những “đào” những “quất”, những “người đẹp”..., đã làm anh say đắm.

“Ta cứ đi mê mải

mắt mua hết phố hết phường

mắt mua hết đào hết quất

mua hết người đẹp trên đường…

.

Tặng những người chưa gặp”

Đọc những câu thơ thoát tục độc đáo với điệp từ "mắt mua hết"/ “mua hết” thấm đượm lòng nhân ái, vị tha của nhà thơ Trần Quang Đạo tôi chợt nhớ tới những câu thơ xót lòng của nữ sĩ Đoàn Thị Lam Luyến trước tình yêu bị trói buộc bởi cái tôi chi phối, cương tỏa: "Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn ôm cả trời/ Mà sao không yêu trọn/ Trái tim một con người" mà thêm khoái những câu thơ thức ngộ đã đạt tới cảnh giới của thi sĩ họ Trần.

Bài thơ khép lại với tiếng cổ vũ hối thúc sức sống nhân ái và phấn chấn niềm tin sự hồi phục kinh tế ngoạn mục với những "nụ xuân" tươi mới, căng tràn sức trẻ:

"Mưa cứ rơi nữa đi

chốc nữa bên hàng cây dọc phố

ta nẩy những nụ xuân!"

Vâng, tiếng reo hân hoan “ta nẩy những nụ xuân” đã khép lại bài thơ ấm, đẹp của tình người, của niềm tin chân ái!

*.

Hà Nội, chiều 04 tháng 02-2024

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

"ĐAU ĐẾN LƠ NGƠ"

CÙNG NGUYỄN ĐỨC HẠNH

*

Đọc bài thơ "Thái Nguyên Ngày Mưa Vỡ" của nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Đức Hạnh, bên cạnh những câu thơ lạ về tứ, mới về ngôn từ và độc, lạ, đẹp về thi ảnh khiến người đọc thích thú: "Tôi về cắn giọt em vừa qua phố / Mưa ngàn năm nhuộm trắng mái đầu", "Dốc Nhà Bò, núi Cô Kê, quán Ba Trăm lay mòn sách cũ / Bao người đẹp thành bà cụ đi bộ toàn vấp gió", "Người tôi yêu thành giọt mưa vỡ / Lăn trăm năm trong một tiếng thở dài …"... thì 2 câu thơ: "Cầu Gia Bảy nứt vì bom Mĩ / Vá víu rồi còn đau đến lơ ngơ" được tác giả sắp xếp câu chữ như viết rất chân chất tự nhiên lại làm người đọc phải chùng lòng bởi sự ám ảnh:

THÁI NGUYÊN NGÀY MƯA VỠ

.

Cà phê Xưa chỉ còn ly đầy gió

Giọt ngày xưa rơi đắng bây giờ

Cầu Gia Bảy nứt vì bom Mĩ

Vá víu rồi còn đau đến lơ ngơ

.

Sông Cầu qua đây e thẹn

Giấu xoáy ngầm gọi tím Bằng Lăng

Yêu là thế! Tôi về cắn giọt em vừa qua phố

Mưa ngàn năm nhuộm trắng mái đầu

.

Dốc Nhà Bò, núi Cô Kê, quán Ba Trăm lay mòn sách cũ

Bao người đẹp thành bà cụ đi bộ toàn vấp gió

Những xinh tươi vào Di chúc cả rồi

Quả Sim nào lăn tím ngắt thơ tôi?

.

Về đến ngõ. Rung ngực. Thái Nguyên ơi

Áo Chàm rơi thành Hồ Núi Cốc

Người tôi yêu thành giọt mưa vỡ

Lăn trăm năm trong một tiếng thở dài …

*.

NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Viết về nỗi đau hậu cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc đã có quá nhiều nhà văn nhà thơ khai thác theo chủ đề xuyên suốt tác phẩm nhưng với "Thái Nguyên Ngày Mưa Vỡ" của Nguyễn Đức Hạnh thì không thế, chỉ là ông vô tình chợt thấy di chứng của cuộc chiến mà nỗi đau ám ảnh vào thơ. Cả bài 16 câu chỉ có 2 câu thơ: "Cầu Gia Bảy nứt vì bom Mĩ / Vá víu rồi còn đau đến lơ ngơ" gợi lại ký ức buồn về một chặng đường lịch sử của dân tộc với những chữ giản dị, mộc mạc như tự bật ra từ lồng ngực, từ trái tim nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Đức Hạnh.

Hai chữ "vá víu" đã lột tả thực trạng tâm, tầm và lực của lối suy nghĩ và cách hành xử của các cơ quan chức năng có trách nhiệm với "Cầu Gia Bảy nứt vì bom Mĩ", rộng ra là với cuộc sống của người dân và với hiện trạng của đất nước.

Hai chữ "lơ ngơ" diễn tả nỗi đau khó nói thành lời với những chất vấn không hiểu tại sao lại có cuộc chiến 2 miền Nam Bắc? Tại sao di chứng chiến tranh lại để mãi kéo dài?... Hỏi đấy mà không thể có câu trả lời thỏa đáng vì những lý do đưa ra "không thể tin được", "không thể hiểu được"... càng khiến người “chất vấn” thấy lạ lẫm, ngớ ngẩn đến khó hiểu! Nếu nhà thơ Nguyễn Đức Hạnh thay 2 chữ "lơ ngơ" bằng các chữ khác như: ngẩn ngơ, xót xa, quặn thắt, đắng lòng,... thì câu thơ thật bình thường, không có gì để bàn vì câu thơ dễ trôi tuột, không để lại ám ảnh với người đọc!

Tôi thích cách dùng câu chữ chân chất tự nhiên ở 2 câu thơ này. Bốn chữ "vá víu", "lơ ngơ" diễn tả được thật nhiều nỗi niềm!

*.

Hà Nội, ngày 25 tháng 07-2024

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

.

 

 

 

-----------------------------------

Đang cập nhật

.

0 comments:

Đăng nhận xét