TÔI THỰC SỰ RUNG CẢM KHI ĐỌC BÀI THƠ
‘QUÊ NGHÈO’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Ta từng biết
đến cái nghèo cùng cực vô vọng của người nông dân ở những vùng quê, khoảng
những năm 1936 đến 1940, thời còn thực dân Pháp đô hộ: Chị Dậu trong tác phẩm
"Tắt Đèn" của Ngô
Tất Tố, gia cảnh nghèo, túng quẫn, chồng đau ốm, đã phải bán cả đàn chó và núm
ruột của mình là đứa con gái bé bỏng ngoan ngoãn hiếu thảo cho vợ chồng lão
nghị Quế lấy hai đồng nộp sưu thuế; Lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao vì
mất mùa đau ốm phải bán đi người bạn thân thiết nhất của mình, chú chó có tên
là VÀNG. Những hình ảnh ấy tưởng xa xưa lắm rồi vì cách đây đã gần 80 năm,
nhưng chao ôi, ở thế kỷ 21 ta lại thấu cảm cái nghèo trong bài thơ QUÊ NGHÈO
của Đặng Xuân Xuyến.
Cái nghèo
vẫn đang hiện hữu ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, không lạ nhưng ở đây cái nghèo
đánh đu, đeo bám người dân ở vùng quê cách Hà Nội có vài chục km. "Quê tôi nghèo lắm / Vẫn lác đác nhà tranh /
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt / Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát".
Không còn cảnh cơ hàn như thời của chị Dậu, của Lão Hạc phải bán con bán chó nhưng
cái nghèo trong QUÊ NGHÈO khiến ta day dứt đắng chát khi "Cha cả đời lam lũ / Mẹ một đời chắt chiu"
mà không có nổi thóc gạo (loại lương thực truyền thống của người Việt) nấu cơm
ăn, để rồi "Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ / Tuổi thơ tôi đói ngủ / Thương cánh cò bấu bíu lời ru". Hình
tượng thơ đẹp và buồn khi tuổi thơ biết thương cả cánh cò "bấu bíu lời ru". Không phải là
những cánh cò sải cánh trên đồng lúa xanh rờn hay là những chú cò giang cánh
chụm mỏ rỉa lông, mà là cánh cò mệt mỏi buồn bã “bấu bíu lời ru”.
Ca dao từng
có bài ca ngợi cuộc sống đủ đầy của người dân qua những hình ảnh của phiên chợ Thành
Nam:
"Chợ tỉnh Nam vui lắm ai ơi
Quanh năm tứ thời thiên hạ mua bán
Đủ hàng thịt, gạo rau dưa
Đủ loại tôm cá, ốc cua thịt gà
Bao nhiêu vải vóc lụa là
Áo quần khăn mũ bầy ra thiếu gì
Hàng quà chẳng thiếu thứ chi
Bún thang, bún chả, kẹo bi, kẹo vừng”
Còn chợ quê
trong Quê Nghèo của Đặng Xuân
Xuyến được phết phủ bộ mặt buồn thảm đìu hiu èo uột "Dăm ba nải chuối / Vài mớ rau tươi / Mẹt sắn mẹt ngô” / “ Lèo tèo dăm
người bán / Lẻ tẻ mấy người mua / Ế bán / Chán mua / Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi". Cái nghèo còn tạc sự mốc meo, xấu xí, khẳng khiu vào khuôn mặt,
dáng hình, len lỏi vào tâm hồn lũ trẻ và lớp trai làng: "Lũ trẻ gầy như con cá mắm / Lũ trai mặt mũi
mốc meo / Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó / Nơm nớp lo đời như chiếu bạc".
Vâng! Cái nghèo đeo đẳng, dai dẳng bám theo, vậy còn gì ở tương lai nhỉ? cuộc
đời sẽ như canh bạc mà thôi. Thật tủi phận! "Thương con cò, con vạc / Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất quê mình”. Một
hình tượng hay về người nông dân bươn trải, lam lũ cực nhọc trên đồng đất quê
mình mà nghèo vẫn nghèo.
"Quê tôi nghèo lắm"! Điệp ngữ này
được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần chính là tiếng than, tiếng kêu nghẹn đắng
trong tim tác giả, làm ta thấy rưng rưng buốt giá. "Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp / Sừng sững bê tông cốt thép / Ngạo
Nghễ tượng đài / Ngạo nghễ trần ai". Suốt độ dài bài thơ là sự nghèo
khó của người dân, là phiên chợ quê xơ xác, đối lập với phần cuối là chiếc cổng
làng: "Sừng sững bê tông cốt thép /
Ngạo nghễ tượng đài / Ngạo nghễ trần ai". Hình ảnh rất đắt. Thật
nghịch cảnh!.
Những năm
gần đây các tỉnh thành đua nhau xây tượng đài tốn cả ngàn tỷ. Ngay cả tỉnh còn
thiếu ăn phải xin trung ương hỗ trợ lương thực và kinh phí vẫn "hăm hở"
xây tượng đài. Bởi sổ tiền khổng lồ ấy là tiền thuế của dân, sẽ có phần trăm
chảy vào túi các ngài quan. Không thể không làm phép tính sơ đẳng cấp tiểu học,
với đồng lương công chức, sao họ có biệt phủ, xe hơi sang trọng, con cái du học
nước ngoài. Ăn chơi tiêu sài khủng. Mới đây truyền thông nước ngoài có đưa tin
một sếp bự của Việt Nam là thực khách trong bữa đại tiệc bò dát vàng ở London.
Một xuất như vậy có giá 850 bảng Anh khoảng 2000usd, chưa kể 15% phí phục vụ và
các món ăn kèm. Nhưng đấy là chuyện nhỏ, rất nhỏ so với vụ kit test đang bùng
lên trong bối cảnh dịch covid đang hoành hành trên cả nước. Công ty sản xuất
kit test Việt Á này thu lợi 4000 tỷ đồng (theo báo Tuổi Trẻ). Người dân đặt câu
hỏi phải chăng? một mình công ty Việt Á làm được việc động trời như vậy?. Và
4000 tỷ đồng này chẳng ai khác chính là người dân phải gánh chịu. Trong khi
người dân nghèo "Vẫn bát cơm chan mồ
hôi mặn chát / Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ" hàng đêm.
Bài thơ của
tác giả Đặng Xuân Xuyến sáng tác vào năm 2014, cách đây gần 8 năm. Mặc dù vào
thời điểm này, mức sống của người dân trong xã hội đã phần nào được nâng lên,
được cải thiện, song về cơ bản, vẫn giữ được tính thời sự của nó. Dù cái nghèo
có mang bộ mặt khác, hình thái khác, khi những người dân bị lấy đất với giá trị
bồi thường rẻ mạt, thậm chí bị cưỡng chiếm, tiếng kêu than ngút trời. Họ bỏ quê
lên thành phố đầu tắt mặt tối mưu sinh. Khi dịch covid bùng phát dữ dội mấy
chục ngàn người chết. Hàng ngàn người dân ban đầu đã chạy trối chết khỏi Sài
Gòn với phương tiện của mình: xe máy, xe đạp, thậm chí đi bộ vượt hàng trăm km
để quay lại quê nhà với cuộc sống đắp đổi qua ngày. Rồi những trẻ em mồ côi cả
cha mẹ, những người già không nơi nương tựa, về bản chất, đấy chính là cái
nghèo. Tác giả Đặng Xuân Xuyến rất chuẩn xác khi nói đã nghèo: "Nghèo cả giấc mơ". Bởi khi con
người phải vật lộn cơ cực với cuộc sống hàng ngày đâu còn dám ước mơ. Bài thơ
thật sâu sắc!
----------
Quê nghèo
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*
Hưng Yên, chiều 29
tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Trịnh Thị Nhâm0
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận
về bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân
Xuyến đọc bài thơ QUÊ NGHÈO:
*.
TRỊNH
THỊ NHÂM
Địa chỉ: Tổ 9 khu 3, số 14/04 tòa A
chung
cư Trần Hưng Đạo Plaza
thành
phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh
Email: trinhnham52@gmail.com
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày
15.01.2022
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích
đăng lại.
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét