CÔNG TRÙM THIÊN HẠ VÌ SAO TRẦN HƯNG ĐẠO
QUYẾT KHÔNG CƯỚP NGÔI VUA
*
Ba lần phá quân Nguyên, một đời trung trinh, son sắt, Hưng
Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là một nhân cách lớn, chiếu rọi hào quang nghìn
năm trong sử Việt. Dù lập được chiến công phi thường nhưng sự trung thành của
ông khiến tất cả phải thán phục.
Buông bỏ hận
thù mới là trang tuấn kiệt
Cơ nghiệp của nhà Trần khởi lên được là nhờ
một tay thái sư Trần Thủ Độ. Ông dàn xếp cuộc hôn nhân giữa Trần Cảnh và Lý
Chiêu Hoàng. Rồi cũng chính tay ông ép Chiêu Hoàng nhường ngai vàng cho Trần
Cảnh (sau này đăng cơ là Trần Thái Tông). Bởi Trần Thái Tông ở ngôi 11 năm mà
vẫn chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ tiếp tục dàn xếp một cuộc hôn nhân
khác. Ông ép Trần Liễu (anh ruột Trần Thái Tông) phải nhường lại vợ là Thuận
Thiên công chúa cho vua Trần Thái Tông. Khi ấy, Thuận Thiên công chúa đã mang
thai được 3 tháng.
Anh Sinh vương Trần Liễu (chính là cha của
Trần Quốc Tuấn) một lúc mất đi cả vợ lẫn con, đùng đùng nổi trận lôi đình. “Đại
Việt Sử Ký toàn thư” chép lại việc này như sau:
Đinh Dậu, năm thứ 6 (1237)… Lấy công chúa
Thuận Thiên Lý thị, vợ của anh là Hoài Vương Liễu, lập làm hoàng hậu Thuận
Thiên, giáng Chiêu Thánh làm công chúa. Bấy giờ Chiêu Thánh không có con, mà
Thuận Thiên thì có mang Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực
mật mưu với vua là nên mạo nhận lấy để nhờ về sau, cho nên có mệnh ấy. Do đó
Liễu họp quân ra sông Cái làm loạn.
– Đại
Việt sử ký toàn thư, quyển V, kỷ nhà Trần
Tuy nhiên, cuộc nổi loạn của Trần Liễu bất
thành. Tự nhận thấy sức lực không đủ, thân cô thế cô, Liễu tự nguyện đầu hàng.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép, được hai tuần khởi sự, Liễu
tự biết thế cô, ngầm đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá đến chỗ vua Trần
Thái Tông xin hàng. Hai anh em gặp gỡ, mừng mừng tủi tủi mà ôm nhau khóc. Trần
Thủ Độ tiến tới đòi giết Trần Liễu. Vua phải giấu anh trai ở trong thuyền, lấy
mình che đỡ, xin Thủ Độ tha mạng cho Trần Liễu.
Dù vậy, Trần Liễu vẫn mang trong lòng mối
thù sâu nặng. Trước khi lâm chung, ông gọi Trần Quốc Tuấn đến giường căn dặn: “Con
không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt
được”. Chiều lòng cha, Quốc Tuấn gật đầu nhưng trong bụng vẫn không
cho đó là điều nên làm.
Quốc Tuấn vốn từ nhỏ đã có tư chất thông
minh hơn người, đọc rộng hiểu nhiều, tài kiêm văn võ. Khi mới sinh, một thầy
tướng số nhìn Quốc Tuấn và đoán: “Đứa trẻ này lớn lên sau này ắt sẽ trở thành
anh hùng, có thể giúp đời cứu nước”. Lớn lên, trong lòng Quốc Tuấn quả thực
không có chí phục thù, rửa hận như di ngôn của cha. Là hoàng thân, ông luôn
được gần gũi với vua Trần, có thể nói là muốn xuống tay hạ thủ khi nào cũng
được. Nhưng vốn thấu tỏ lẽ cương thường, đạo vua tôi nên ông lúc nào cũng cung
kính nghe mệnh. Ông phò tá qua mấy đời vua Trần đều giữ một khoảng cách phân
định vua tôi rõ ràng như thế. Có lần, đi dạo cùng Trần Nhân Tông, ông cầm một
cây gậy bịt sắt nhọn. Thấy các cận thần cứ đưa mắt nhìn vào chiếc gậy có ý đề
phòng, Quốc Tuấn bèn bẻ gẫy đôi chiếc gậy đi tức khắc để xoá mối hiềm nghi.
Sau này, khi vận nước lung lay, quân Mông Cổ
phạm vào bờ cõi, đe doạ nuốt chửng vương triều Trần non trẻ, Trần Quốc Tuấn trở
thành rường cột nước nhà. Ông lại đem việc cha căn dặn trước lúc lâm chung bàn
với các gia thần là Dã Tượng, Yết Kiêu để thử lòng họ. Hai tướng vốn được Quốc
Tuấn thu nhận từ thuở hàn vi, đã theo ông chinh chiến nhiều năm, nói:
Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu
ngàn năm. Nay Đại Vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thề xin chết
già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy
người làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi.
– Đại
Việt sử ký toàn thư, quyển VI, kỷ nhà Trần
Quốc Tuấn nghe lời gan ruột của các tướng,
trong lòng cảm phục vô cùng, nước mắt tuôn rơi, khen ngợi Yết Kiêu, Dã Tượng
mãi không thôi.
Một lần khác, ông lại đem chuyện ấy ra hỏi
con mình là Quốc Tảng. Quốc Tảng dõng dạc nói: “Tống Thái Tổ vốn là một
ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ”, ý muốn
khuyên cha nên thừa cơ cướp lại ngai vàng. Quốc Tuấn nghe xong nổi giận đùng
đùng, rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra”, đoạn toan
giết Quốc Tảng. Người nhà khóc lóc mãi, xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.
Nhưng ông vẫn chưa nguôi giận, dặn đi dặn lại người nhà: “Sau khi ta chết, đậy
nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Lấy thiện đãi
người, tấm lòng bao dung như biển cả
Khi vó ngựa Mông Cổ đã phạm vào bờ cõi, việc quan trọng nhất
chính là đoàn kết lòng người, chung sức đánh giặc. Là Quốc Công tiết chế, Trần
Quốc Tuấn đã làm được những điều khó tưởng tượng nhất để thu phục nhân tâm.
Chiêu Minh vương Trần Quang Khải là con của
Thái Tông hoàng đế Trần Cảnh. Xét về ngành thứ, ông là em họ của Trần Quốc
Tuấn. Tuy nhiên, vì hiềm khích từ đời cha (vụ Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu)
nên hai anh em cũng dè chừng, ít quan hệ đi lại với nhau.
Dù vậy, Quốc Tuấn vẫn ứng xử hết sức công
bằng, chưa từng dùng phép công để trả thù riêng. Ông đối xử với Quang Khải cũng
như với mọi văn thần, võ tướng khác. Cũng giống Quốc Tuấn, Quang Khải vốn là
người có học thức, hiểu biết, tài kiêm văn võ. Ông thường được theo hầu cùng xe
với Thánh Tông (tức Trần Hoảng, con vua Thái Tông Trần Cảnh) đi trấn áp giặc cỏ
ở miền núi.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
Trước kia, Thánh Tông thân đi đánh giặc,
Quang Khải theo hầu, ghế tể tướng bỏ không, vừa lúc có sứ phương Bắc đến. Thái
Tông gọi Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn tới bảo: “Thượng
tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư đồ để tiếp sứ phương Bắc”.
Quốc Tuấn trả lời: “Việc tiếp sứ giả,
thần không dám từ chối, còn như phong thần làm Tư đồ thì thần không dám vâng
chiếu. Huống chi Quan gia đi đánh giặc xa, Quang Khải theo hầu mà bệ hạ lại tự
ý phong chức, thì tình nghĩa trên dưới, e có chỗ chưa ổn, sẽ không làm vui lòng
Quan gia và Quang Khải. Đợi khi xa giá trở về, sẽ xin vâng mệnh cũng chưa muộn”.
Xem thế đủ biết Quốc Tuấn hoàn toàn không
muốn tăng thêm lòng nghi kỵ, hiềm khích giữa đôi bên. Với vị thế là anh, ông
chấp nhận nhường nhịn.
Một lần khác, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp (thuộc
Hải Dương ngày nay) tới thăm. Quang Khải xuống thuyền yến ẩm, chuyện trò suốt
cả ngày. Vốn biết Quang Khải rất sợ tắm, Quốc Tuấn mới đùa: “Mình mẩy cáu
bẩn, xin tắm giùm”. Thế là Quốc Tuấn cởi áo Quang Khải ra, tắm cho ông bằng
nước thơm, vừa tắm vừa nói: “Hôm nay mới được tắm cho Thượng tướng”.
Quang Khải vừa bất ngờ, vừa cảm phục cũng đáp lại: “Hôm nay cũng được Quốc
công tắm rửa cho”. Từ đó, hai người xoá bỏ mọi nghi kỵ, thường đi lại thân
thiết với nhau, tình như thủ túc.
Gương sáng soi
kim cổ
Nếu người Trung Hoa thường nhắc về một Gia
Cát Khổng Minh trung trinh tiết liệt một đời, “cúc cung tận tuỵ, đến chết mới
thôi”, một lòng phò tá nhà Thục Hán thì người Việt cũng có lý do để tự hào với
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cả đời thờ 3 đời vua Trần. Ông chính là biểu
tượng của trung nghĩa, là người đặt định ra nội hàm của chữ “Trung” trong cổ sử
Việt Nam.
Với quyền lực của một Quốc công, nắm trong
tay binh quyền cả nước, Trần Quốc Tuấn thực sự chỉ cần hô một tiếng thì chính
biến lúc nào cũng có thể xảy ra. Nhưng ông không chọn con đường bất trung, bất
nghĩa ấy, dù đó có là lời trăng trối của cha ruột trước lúc ra đi. Trần Hưng
Đạo phò tá 3 đời vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông) không một phút
sơ suất. Dù lập đại công nhưng Quốc Tuấn không vì thế mà trở nên kiêu ngạo,
trái lại càng khiêm nhường, thủ tiết vững hơn.
Vua Trần phong Quốc Tuấn là Thượng Quốc
công, có quyền được phong tước cho bất kỳ ai từ hầu trở xuống mà không cần phải
xin chiếu chỉ, ngay cả tước hầu cũng là phong trước tâu sau. Dù thế, cả đời ông
chưa từng phong tước cho bất kỳ ai, kể cả con cháu thân tộc.
Người ta vẫn thường truyền tụng nhau một
câu: “Quân tử báo thù 10 năm chưa muộn”. Nhưng đó chỉ là một thứ quan điểm cứng
nhắc, quá tuyệt đối. Với Trần Hưng Đạo, quân tử chính là bỏ thù riêng, lo việc
nước, cứu nước, an dân, giúp vua chống cường địch, trị thiên hạ.
Quốc Tuấn tài kiêm văn võ, khí phách trùm
non sông, được nhân dân xưng tụng là “Đức Thánh Trần”. Không có nhiều nhân vật
trong sử Việt nhận được vinh dự ấy. Trong “Dụ chư tì tướng hịch văn”,
thường quen gọi là “Hịch tướng sĩ”, Trần Hưng Đạo đã viết những lời gan
ruột nhất, thể hiện chí khí, bản lĩnh cũng như lòng tận trung với quốc gia, với
hoàng triều:
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối,
ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan,
uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc
trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.
Những nhân vật lịch sử cuối cùng đã hoàn
thành vai diễn của mình, tấm màn sân khấu lịch sử khép lại nhưng dư âm của nó
hãy còn vang mãi nghìn thu. Lớp bụi thời gian dù có cuốn lấp nhưng những gương
mặt cũ, chiến công cũ vẫn lưu danh hậu thế. Văn hoá của một dân tộc, bản lĩnh
của một dân tộc thể hiện chính ở những anh hùng hào kiệt ấy. Hưng Đạo đại vương
Trần Quốc Tuấn để lại cho hậu thế “Binh thư yếu lược”, là tâm huyết cả một đời
chinh chiến trận mạc của mình. Nhưng đó chưa phải là điều đáng quý nhất. Di sản
lớn nhất của ông chính là tấm lòng trung nghĩa, tận tuỵ báo quốc, là khí phách
bất phàm của một bậc chính nhân quân tử.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời thư giãn với nhạc phẩm DÒNG MÁU LẠC HỒNG
của Lê Quang, qua tiếng hát Đan Trường:
Trần Hải Sơn giới thiệu
Tác giả: Hữu Bằng - Nguồn: yeuquehuong.net
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn:
internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét