BẠN ĐỌC CẢM NHẬN VỀ
THƠ
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
*
Gồm 50 bài thơ:
1. HƯƠNG
QUÊ
2. HƯƠNG
THU
3. THU
LẠNH
4. THU
SỚM
5. MƠ
ĐÊM
6. EM
7. RƯỢU
SAY
8. ẨM
TRỜI
9. THIẾU
NỮ
10. NHỚ
MẸ
11. VỀ
QUÊ ĐI MÀY
12. VĂN
THÙY “DỊ NHÂN”
13.
ĐƯỜNG DÀI
14. LỠ
15.
CHUNG
16. RU CON
17.
CHIỀU LẠ
18. CHẤP
CHỚI
19. MỘT
TÔI
20. QUÊ
NGHÈO
21. GÁNH
HÁT
22. DẤU
HỎI
23. BẠN
QUAN
24. QUAN
TRƯỜNG
25. LAN
MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN
28. LAN
MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU
27. NHỚ
28.
NGƯỜI DƯNG
29. MƠ
TRĂNG
30. SAY
YÊU
31. ĐỜI
NGHỆ SĨ
32. ĐỜI
KHÁT
33. VIẾT
CHO NGÀY VALENTINE
34. TIM
ĐAU
35. MEN
ĐẮNG
36. TÌNH
NỞ
37. TÔI
NGHE
38.
CUỒNG YÊU
39. HỒN
QUÊ
40. RÉT
CẰN
41. CÒN
YÊU
42. ĐỪNG
ĐI
43. HOA
NHÀI
44. VIẾT
CHO KHỜ
45. TRÒ
ĐỜI
46. THẾ
GIAN SAY
47. TÒ
HE
48. BỎ
YÊU
49. Ở
LẠI
50. ĐỢI
XUÂN...
HƯƠNG QUÊ
Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà
hàng xóm
Cô bé thậm thò vắt ngang dải yếm
Níu bờ sông
Ơi ời “ra ngõ mà trông”
Vi vút gió đồng...
Ngẩn ngơ
giấc mơ
Níu đôi bờ bằng dải yếm
Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm
Áo tứ thân trải lá lót nằm
Gom gió lại để chiều bớt rộng...
Thẩn thơ
Tiếng mơ thầm thĩ
“Người ơi...
Người ơi...”
Dan díu lời thề
Ngõ quê líu quíu.
*.
Hà Nội, chiều 31.08.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “HƯƠNG QUÊ”
Thơ Đặng Xuân Xuyến thường chơi cái trò ỡm ờ. Lời
ít, thấy nhiều, hiểu rộng, suy diễn sâu xa tùy người. Do đó thơ Đặng Xuân Xuyến
thường gặp phải hai dòng cảm ứng khác nhau: người cho dở kẻ khen hay.
Đọc bài thơ này thấy ngắn quá, có cái gì cụt cụt,
thiếu thiếu làm cho ta ấm ức trong lòng. Nhưng chính cái thiếu thiếu, cụt cụt
đó làm ta cứ thòm thèm như mới ăn nửa cái bánh thì bánh có dở cũng thành ngon
mà bánh ngon cũng chưa biết hết mùi vị chính xác thế nào. Cái đó thương thì nói
nghệ thuật mà ghét thì nói xảo thuật. Nghệ thuật hay xảo thuật thì cũng là một
thành công của sự kết cấu bài thơ, của ý đồ tác giả.
Đọc bài thơ ta thấy cái dải yếm nó lớn thật, nó vắt
ngang níu bờ sông, rồi nó làm náo động cả xóm làng: Ơi ời "ra ngõ mà trông". Sự náo động đó
thật ra không phải của xóm làng đâu mà là của chàng trai kia đến tuổi động yêu
mà thôi. Cái "Hương cốm"
cũng chưa chắc của nhà ai đâu. Cái hương đó có thể tỏa ra từ dải yếm phơi bên
bờ sông thơm đến độ nhà ai cũng ngửi được mà cứ tưởng rằng của nhà bên cạnh
duyềnh sang.
Cái thằng con trai cũng chết mê chết mệt. Nó ngẩn
ngơ mơ giữa ban ngày thấy sông, thấy nước, thấy gió, thấy cả trời chiều nằm
trong yếm, trong tóc, trong áo cô gái kia.
Nó ở bên này sông mà cô gái phơi yếm ở bên kia
sông. Vậy mà con mắt lãng mạn của nó thấy "níu đôi bờ bằng dải yếm".
Rồi thì thằng con trai yêu đến độ tâm thần đi lang
thang và thì thầm trong miệng "Người
ơi...Người ơi...." Nó "dan
díu" thế thì chẳng khác chi Bùi Giáng dan díu với nàng Kim Cương xưa
vậy.
Người chơi ngọc có khi chưa mang chiếc kính nhìn
ngọc thi chưa thấy hết giá trị của nó đâu. Người đọc thơ cũng vậy, nên chịu khó
nhìn thơ qua con mắt lãng mạn của mình như mang chiếc kính kia thì sẽ khám phá
được thơ hay vậy./.
*
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính,
Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
ĐẶNG XUÂN XUYẾN NÍU DẢI YẾM ĐI VỀ CÕI YÊU
Tôi mới biết và còn chưa kịp quen nhà thơ có lối
viết rất riêng này...
Tôi với nhà thơ cách nhau khá xa về tuổi tác, nên
đọc "Cưỡng Xuân" và một số tác phẩm khác của anh, tôi cứ phải
né né... nín nhịn từ xa mà vẫn chưa sao "thấu cảm" được với anh.
Rồi hôm nay tôi lục được bài này trong blog của
anh. Tôi thích nó. Tôi thích cái lối tưng
tửng này. Cái già dặn hơi buông tuồng, nửa "đồ nho" nửa "Tây
bồi" như gói, như mở, như kín, như hở ... rất lạ, khiến người đọc vừa
đỏ mặt tý, vừa tò mò tý, vừa lại như bừng bực, vừa khó chịu để rồi bị cuốn thụt
lút trong mê đắm của mênh mang tâm tưởng và men nồng như say như tỉnh của một
loại rượu chả cần phải nhắp môi cũng tự lâng lâng.
Tưng tửng "hắt" thiên hạ sang một
bên ngay từ câu đầu: "Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm".
Giọng điệu gì mà dửng dưng, vênh vênh, ngạo mạn một
cách khó chịu của một kẻ trai tự biết mình cao giá. Cái kiểu "Các người cứ
làm hàng cho các người tự ngắm đi, còn trai đây thì”... thì ba hồn bảy vía còn
để ở "cái dải yếm vắt ngang" của "cô bé thậm thò..." kia. Rõ là đa tình đến độ và tinh ranh đến
độ... đến độ ngoa dụ cho nàng "níu
bờ sông" bằng cái dải yếm... rồi trầm trồ "Ơi ời “ra ngõ mà trông"
...
Trông cái gì đây? chắc không phải chỉ trông cái dải
yếm, dù cái “dải yếm" đang phất
phơ "vi vút gió đồng" ...
Không cần giầu tưởng tượng lắm ta cũng thấy một tấm lưng thon thon nuột nà con
gái của dải yếm đã buông lơi, thấy thấp thoáng cặp tuyết lê kín hở khi cái yếm
bung dây bị gió đồng ren rén bồng lên phập phồng đùa giỡn…
Cái yếm thắm bung dải ngang phơ phất mặt sông, cái
lưng mịn nâu màu mật, cái cổ ngấn ba, cườm tay săn nhỏ như giữ, như cởi, như
thắt, như buông, như tung, như hứng theo nhịp dập dềnh phóng khoáng của gió
lộng chiều quê thanh vắng nên thơ... trên bên sông xanh nước in mây, trên bãi
cỏ non cạnh cánh đồng lúa ngô mướt mắt màu nõn biếc.
Một nét chấm phá cho một bức tranh. Một cuộc đòng
đưa cho cuộc tình mơ nồng nàn như mâm cỗ đầy có ngọn thịnh soạn, thơm tho...
hình như ai đó đã cất công và tỉ mẩn chuẩn bị, bày đặt... và ai đó cũng chỉ chờ
có thế. Họ chờ, cùng chờ... "Chuốt
tóc mềm làm gối chăn êm, Áo tứ thân trải lá lót nằm..." Thơ chả nói đến ai, chả nhắc đến ai... mà ai cũng
rõ là AI "Gom gió lại để chiều bớt rộng " ...
Mà rồi chiều chẳng có rộng đi nữa thì họ vẫn gom
gió lại. Họ cần gì rộng hay chật vì bão giông đã nổi lên cuốn tình chìm nghỉm
... chỉ còn dập dềnh dải yếm “nối
đôi bờ".
Đôi bờ nào? Cần gì phải nói. Dải yếm đâu? Cần gì
phải hỏi? ... Cứ thả ra mà suy, cứ nhắm mắt lại mà
tưởng...
Tình bồng bềnh, gió bồng bềnh, dải yếm bồng bềnh...
trong "Ngẩn ngơ giấc mơ..."...
Cái dải yếm thắt cho tình hai bờ khít lại, cái dải
yếm cởi cho "tòa thiên nhiên" (chữ trong Truyện Kiều) lồ lộ, cho
hương ai quyện vào gió ngát, và vị cỏ dịu ngọt, và ướt át sông nước mịn dòng
quấy đạp tùy nghi...
Một cuộc tình nên thơ với những câu từ trong cuộc
nghe như vô nghĩa, cứ nói để mà nói, nói không để nghe. .."Người
ơi… Người ơi..." ngôn từ được tác giả gọi
bằng "tiếng mơ thầm thĩ".
Rõ là chả có lời yêu, rõ là chả có lời mê đắm mà chỉ có một cuộc tình như nó
vốn đã là như thế, không cần lời, không cần xoa xuýt âu yếm... mà chỉ với vô
nghĩa từ, câm lặng bốc ngùn ngụt như hỏa diệm sơn... mà lại vẫn có cái gì
vụng trộm dấu diếm khi ta đọc đến "Dan
díu lời thề / Ngõ quê líu quíu" thì mới thấy tình yêu này
bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê.
Cuộc tình đó chất phác như hạt lúa củ khoai. Cuộc
tình đó là vô ngôn tình lại có cái gì đó như vội vàng dấu diếm, như trao
gửi vụng về, lại trong trẻo chân thành... vì từ ngữ là thừa, là tạp âm, là xáo
trộn nguồn yêu.
Nhưng trong những đắm say, những “thẩn thơ” với tình yêu "tiếng mơ thầm thĩ" vẫn còn
thốt ra những: "Dan díu lời thề"
khiến "Ngõ quê líu quíu"...
thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê. Tình yêu ấy bản năng trong trẻo và mộc mạc, không
tính toán, không ngoa ngôn kiểu cách, tự nhiên chân chất như con sông, như bờ
cỏ.
Một bài thơ ngắn, khá ngắn với từ ngữ mộc mạc, nói
về cái dải yếm, neo sông, cách tả hình không có hình, cách tả tình không có
tình.
"Hương Quê" là bài thơ nói về
yêu mà không dùng một chữ yêu. Một bài thơ tả tình lồ
lộ mà không có một ngôn từ nào chỉ tình ấy, mà khi gặp nó, người đọc vẫn
thấy ngồn ngộn cảnh, ngồn ngộn tình, ngồn ngộn bão giông mây mưa ào ạt, thấy
lớp lang của sự dâng hiến, trao gửi cuộn trào.
Đó là cái tài tình và già dặn của một cây bút, mà
khi ra đời đã không còn nhìn thấy yếm áo lỏng lẻo gợi cảm của thiếu nữ nông
thôn hay thành thị lững lờ sau vuông yếm mỏng manh nửa kín nửa hở... mà viết
như vậy thì:
Nếu không có vốn kiến thức về xưa cũ, khó có thể
viết ra điều ấy. Nếu không hòa mình trong mê đắm cuộc
tình cũng không thể nào viết gợi thế được.
Với tôi, đây là bài thơ gợi tình thật đáng
đọc. Đọc để thấy Đặng Xuân Xuyến đang níu dải yếm đi về cõi
yêu theo kiểu độc đáo riêng mình.
*.
Hà Nội, 14 tháng 10.2017
BÙI CỬU TRƯỜNG
Địa chỉ: phố Trần Quang
Diệu, phường Ô Chợ Dừa,
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
NGÕ QUÊ ĐỘC ĐÁO TRONG “HƯƠNG QUÊ”
Bài thơ viết về cái ngõ
quê với rất nhiều bảng lảng khói sương. Thật khó để bình luận vì tất cả thi ảnh
ở đây đều ẩn chứa cái phi lí tận cùng của phi lí. Cái hư ảo tận cùng của hư ảo.
Câu đầu tiên hiểu thế nào là nhà bên và hiểu thế nào là nhà hàng xóm mà hương
cốm đầu mùa đã duyềnh sang nhau. Sao cứ phải ợm ờ? Cái ợm ờ như các cụ vẫn bảo
trăm nhát cuốc bổ vào lòng cả trăm. Một câu thơ đã cho ta cảm nhận được mùi
hương cốm ở đây vừa quấn quýt, lan tỏa và quyện hòa, vừa thân thương ràng buộc
hai ngôi nhà và trong hai ngôi nhà đó có một chàng trai si tình và cô gái vắt
ngang dải yếm. Dải yếm là thứ để buộc chặt và che đậy sao ở đây nó lại vắt
ngang và vì sao nó lại vắt ngang thì may ra ông trời và Đặng Xuân Xuyến hiểu
được mà thôi. Còn chúng ta những kẻ trần tục làm sao có thể hiểu được? Phải
chăng cái dải yếm ấy vắt ngang để níu dòng sông để bắc cái cầu đón nhà thơ sang
chơi. Tất nhiên khi cái dải yếm được cởi ra để vắt ngang thì chắc chắn nhà thơ
đã nhìn thấy một bầu ngực căng đầy khát vọng. Vui quá nhà thơ cứ ời ợi gọi cả
làng ra mà trông chúng tôi đang làm cái việc mà chỉ có sức mạnh tình yêu mới có
thể làm được. Thật kì diệu cái dải yếm chỉ tày gang thôi mà sao ở đây cứ dài
mãi ra đến vô cùng có thể níu đôi bờ sông xích lại gần nhau cho những lứa đôi
xum họp thay cho con đò nhỏ mong manh. Để không còn tiếng gọi đó thảm khắc
trong đêm.
Đến đây thì chất phồn thực
đã lấp đầy từng câu thơ, từng chữ thơ rồi. Họ đã làm được cái việc phi phàm
nhất: "Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm".
Bộ tóc được bao lăm mà có thể chuốt làm chăn làm gối. Ở đây qua câu thơ chở đầy
khát vọng đó ta chỉ thấy được cái đầu hầm hập nóng của nhà thơ đang được gối
lên và vùi lấp trong mái tóc dài sóng sả của em thôi. Cái dải yếm thì bỏ ra làm
cầu còn áo tứ thân cũng được cởi nốt để trải lá lót nằm! Bạo liệt quá họ chẳng
cần phải dấu diếm làm gì vì đó là đích đến cuối cùng của tình yêu và sự sinh tồn
nhân loại. Thế vẫn là chưa đủ đối với hai người đang khao khát thì chiều ở đây
như càng rộng thêm ra lấy gì để khỏa lấp chắn che? Đôi trai gái ấy lại làm thêm
một việc phi phàm nữa, họ đã níu được cả gió để buộc cho chiều bớt rộng để đêm
chóng về...và chỉ còn bóng đêm nhốt chặt hai con người đang khao khát. Có phải
thế không thi nhân?
Nhưng…Vẫn luôn tồn tại
một chữ nhưng oan nghiệt vì đây chỉ là: "Thẩn thơ / Tiếng mơ thầm thĩ / “Người ơi... Người ơi...” / Dan díu
lời thề / Ngõ quê líu quíu.”
Chỉ là một tiếng mơ thầm
thĩ, gian díu một lời thề trong cái ngõ quê líu quíu. Cái ngõ quê rất đặc trưng
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Trong đời chỉ có tình yêu
trong mơ là đẹp. Hay nói khác đi tình yêu chỉ là tiếng gọi thầm thĩ của những
giấc mơ chứ không bao giờ có thật.
Từ trong tiếng gọi mơ
thầm thĩ ấy bằng ngôn ngữ thi ca Đặng Xuân Xuyến đã sáng tạo ra một ngõ quê độc
đáo nhất trong đời… Tôi nghĩ thi ca luôn là như thế, luôn là sự vụt hiện lóe
sáng của cảm xúc, của tài năng!
Tôi rất mến yêu và trân
trọng những bài thơ đã đến được với sự tối giản của ngôn ngữ, nhưng lại chứa
đựng tối đa những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm cho chúng ta để cùng thăng
hoa và suy ngẫm./.
*
Bắc Ninh, 04 tháng 11.2018
NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,
Phường Vệ An - Thành phố Bắc Ninh
HƯƠNG THU
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi tính tang khoan
nhặt
Da diết bổng trầm xao xác sông xưa
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen.
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân quen
Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới
Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
*.
Hà Nội, chiều 07 tháng 08
năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG THU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Giữa một đô thị như Hà Nội gần như đã chật cứng xe
cộ, nhà cửa, âm thanh… Trừ những người giàu có, quyền tước chiếm giữ được những
khoảng không gian riêng có cây che bóng mát cho những ô cửa sổ mở ra để nhìn
ngắm ánh trời… Còn cuộc sống của hầu hết mọi sinh linh chọn thành phố làm nơi
cư ngụ. Âm thanh chát chúa, khói bụi cay mù, xe cộ với tốc độ luồn lách… Nhìn
những dòng người, dòng xe với những chiếc mũ bảo hiểm dọc theo những con đường
nắng bốc hơi ngùn ngụt người đã thấy nôn nao như mình đã lạc sang một “tiểu
hành tinh” nào đấy mù xa… Không biết làm thế nào đấy mà người thơ vẫn có một
buổi chiều Hà Nội, vẫn dành riêng cho mình một cõi đắm say thanh thản. Ta như
nghe được tiếng reo của người đang chìa bàn tay chờ đón mùa thu bằng cảm giác
mùi hương.
Tạo hóa ban phát riêng cho những người làm thơ thứ
hạnh phúc không ai có thể tranh giành, không luật pháp khắc nghiệt nào có thể
ngăn trở tâm hồn người ta đến với cái đẹp; người thơ như được đứng riêng một
cõi:
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi tính
tang khoan nhặt
Da diết bổng trầm xao
xác sông xưa
“Tóc rối” của ai bay? Ai nhìn ai “mòn đuôi mắt”? Cái gì “bổng trầm”? Cái gì “xao xác” và “sông xưa” là
con sông nào mà thả được dòng trôi vào cái mảnh đất nhà cửa chen chúc những
khối bê tông thô ráp mệt mỏi dâng đầy giữa Hà Nội ngày càng ngột ngạt, chật hẹp
để người thơ vẽ nên chiều thu thơ mộng, lãng mạn?
Đọc đoạn hai bài thơ Hương thu
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ
nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt ve
thật khẽ
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen.
Đọc đến đây ta có thể khẳng định sự mơ hồ của “lá rơi” của ngọn “gió mơn man ve vuốt” của sắc trời chiều “biêng biếc”, thêm vào chút “hương
sen man mát” làm cho ngây ngất, mở lòng, chứ anh cũng chưa gặp mùa thu - vì còn phải hỏi chiều “thu đã về chưa”? Nhưng nào say đắm có
mất gì, khi lòng ta bỗng dưng bổi hổi, xao xuyến nhớ về một mùa thu đẹp đã đi
qua để lại cho hồn ta những vẻ đẹp, những màu sắc âm thanh sáng trong, ngập
ngừng, bối rối:
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân quen
Tí tách bếp ai dẻo thơm
cốm mới
Câu lý giao duyên ngập
ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
Thơ hay thường là những kỷ niệm đẹp nhưng phải được
cháy lên hoặc thắt quặn lòng mình.
Thêm vào một tay nghề … Hương thu có nhiều nét
đẹp nhưng mới chỉ dừng lại ở những “xốn xang”, còn “thiếu vị buồn”. Bởi cái gì
đẹp thăm thẳm thường pha thêm chút ánh buồn (Đẹp và buồn đi với nhau), như thế
bài thơ mới chiếm được hết lòng độc giả, mới làm mê mẩn người xem./.
*.
Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh
Trì, Hà Nội.
“HƯƠNG THU” - ĐƠN GIẢN MÀ HỒN CỐT CÓ DUYÊN
Lâu lâu mới thấy một bài thơ không có âm tình phiêu
phưởng phảng phất liêu trai của Đặng Xuân Xuyến.
Cái mạnh của tác giả nằm ở chỗ cô đọng từ ý đến
ngôn từ. Vần điệu cứ tự nhiên tuôn ra một cách thoải mái trong cấu tứ:
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt.
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời...
Cô đọng đến mức tuyệt đối mà chặt chẽ, vừa đủ để
nhớ, làm bài thơ có vần điệu với tâm trạng thay đổi trước cảnh thu vàng.
Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả dùng đại từ nhân
xưng AI, tuy cách sử dụng không mới nhưng thật hợp với tâm sự mênh mang, hỏi mà
hỏi thôi, trong cái bề bộn của nỗi nhớ, của buổi chiều thu:
Tí tách bếp ai dẻo thơm
cốm mới.
Câu lý giao duyên ngập
ngừng bối rối.
Một sự tưởng tượng của thi nhân tức cảnh để bật
thành thơ, một tư duy thơ hợp lý và được độc giả chấp nhận lại tạo ra sức sống
cho thơ.
Không có nhân vật cụ thể kiểu như: mình về mình có
nhớ ta? Mặc dù chỉ là mặc định nhưng ai cũng thấy mình trong đó.
Rõ ràng bài thơ thật giản dị, không có mỹ từ, không
có ý tứ sâu xa, không gồng lên bằng cách tìm kiếm nhọc nhằn từ lạ trái lại thấy
gần gũi, dễ mến như đứng trước cô gái chân quê bình dị lại rất có duyên.
Ô kìa chiều!
Một sự phát hiện đột ngột nên buột miệng: Ô kìa! Từ
cái đột ngột ấy cảm xúc tuôn ra, bài thơ không có chủ đề vì nó nói lên rất
nhiều vấn đề mà cứ từ từ mở ra theo tưởng tượng nhiều hơn quan sát.
Quả thật tả chiều thu nhiều người làm lắm rồi nên
muôn hình muôn vẻ nhưng bài thơ Hương Thu này có một sức nặng nhất
định vì có hồn cốt, nghệ thuật nằm trong chính sự đơn giản mà tác giả vô tình
nắm được.
*.
Thành Nam, 03.10.2018
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
THU LẠNH
Người đã đi rồi, đi quá xa
Bỏ ta ở lại với quê nhà
Hôm nay về lại thăm làng Đá
Ngơ ngẩn chiều tà ta với ta…
Giếng nước còn trong, bậc đã rêu
Chênh chao chiều vọng tiếng cu gù
Tháng chín thôi mà... sao đã lạnh
Thu vàng vồi vội rải nắng hanh.
Ừ, trách gì đâu, chỉ nhớ thôi
Người đi thì cũng đã đi rồi
Nào ai biết được duyên mà đợi
Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi.
*
Hà Nội, chiều 20 tháng
10.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC THU PHAI VÀ THU LẠNH
(Thơ Trần Mai Ngân và Đặng Xuân Xuyến)
Hình như đọc thơ cũng có cái duyên tiền định. Kiếp
trước không biết tôi có quan hệ gì với hai nhà thơ này hay không mà kiếp này
đọc thơ họ, tôi luôn luôn cảm thấy có một sợi dây trong thơ của họ quấn quýt
lòng tôi, buôc tôi phải nghĩ phải suy và phải viết. Như hôm nay bài thơ Thu
Phai của Trần Mai Ngân và bài thơ Thu Lạnh của Đặng
Xuân Xuyến khiến cho tâm hồn tôi cũng thấy tâm trạng phai và lạnh. Lạ thay,
phai lạnh trong cuộc đời thì buồn nhưng phai lạnh trong cuộc tình lại thường
làm cho tâm hồn phong phú thêm. Điều đó được chứng minh ở hai bài thơ này, bởi
họ không có cuộc tình phai, lạnh thì làm gì có hai bài thơ làm cho ta cảm động.
Điều đó cũng được chứng minh khi tôi ngồi đọc thơ họ giữa thời tiết vào đông,
bên ngoài đang phai và đang lạnh thì tiếng lòng phai lạnh của họ trong thơ cũng
đem đến cho tôi những cảm xúc thăng hoa.
Đọc Thu Phai của Trần Mai Ngân
THU PHAI
Thắp hương sùng bái nỗi
đau
Gánh buồn ôm hết - ngọt
ngào cho ai
Giật mình sợi tóc Thu phai
Làm sao nhuộm hết năm
dài xa xưa
*
TRẦN MAI NGÂN
ta thấy thu không phai chút nào mà kỷ niệm mùa thu
trong lòng tác giả cũng chẳng phai, chỉ có tóc trên đầu tác giả là phai mà
thôi. Vậy thì Trần Mai Ngân dùng tóc mình để nói về tuổi vào thu cúa cuộc đời
mình, một cuộc đời mà đeo đẳng một cuộc tình triền miên trong nỗi đau. Lạ thay,
nỗi đau đó lại được tác giả “Thắp hương
sùng bái” nghĩa là tôn sùng nó và hy sinh cho nó đến nỗi “Gánh buồn ôm hết- ngọt ngào cho ai”.
Không cần bíết sâu về cuộc tình ta cũng đoán định được, đây là một cuộc tình
lớn trong tâm hồn tác giả. Bài thơ cho ta thấy một thân phận trong tình yêu,
thân phận đó phải đối mặt với những nghịch lý trong tình trường, chịu đắng cay
với nỗi buồn ôm hết nhưng cũng bằng lòng với hạnh phúc của một thuở xa xưa nào
đó, đến nỗi muốn nhuộm lại những năm dài xa xưa ấy như nhuộm cho xanh lại mái
tóc mình. Thế nhưng cuộc tình khác với mái tóc, không làm sao nhuộm được.
Bài thơ ngắn nhưng ôm trọn biến cố của thời gian
vào lòng, thức dậy trong lòng người đọc những tình cảm khác lạ, trong đó sự ray
rứt và cảm mến, sự hờn dỗi và yêu đương, sự thiết tha và hời hợt xen lẫn cùng
nhau, khiến cho đọc nó ta như thấy mùa thu tuổi đời đang phai nhưng mùa thu của
ngày nào hình như còn hiện hửu mãi trong tim.
Qua “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến ta
thấy lạnh ngay, lạnh nhiều, lạnh cóng vì “Người
đã đi rồi, đi quá xa”. Bài thơ “Thu
lạnh” của Đặng Xuân Xuyến cho ta một khung cảnh còn héo hắt hơn “dấu xưa hồn thu thảo/ nền cũ bóng tịch
dương”.
Hình ảnh cái giếng năm xưa, nước vẫn còn trong
nhưng bậc cấp bước lên rêu phủ, giống như yêu vẫn còn nhưng tình đã hóa xa xôi.
Hình ảnh con chim cu gù và tiếng kêu của nó trong thu vàng nắng, trong mây tím
lưng trời làm cho bức tranh thu vô cùng xa vắng và nỗi buồn thu bàng bạc kia phả
xuống, len trong từng ngóc nghách của làng quê.
Những câu thơ buông xuôi, hờn dỗi:
“Ừ trách gì đâu, chỉ nhớ
thôi
Người đi thì cũng đã đi
rồi
Nào ai biết được duyên
mà đợi
Mây tím lưng trời, thôi,
cũng thôi”
nó không làm ta cảm thấy đau lòng như “Thu Phai”, nhưng nó làm cho cõi lòng ta
trống vắng đến vô cùng, hiu hắt đến vô tận. Trong cái khung cảnh hiu hắt đó,
con người cô đơn lại càng cảm thấy cô đơn hơn nữa, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã
thở dài một câu thườn thượt làm cho thu lạnh càng kéo dài lê thê đến tận cuối
chân trời: “Mây tím lưng trời, thôi, cũng
thôi”
Bài thơ cũng không dài lắm, không than van lắm, mà
sao nó khiến xao động lòng ta đến thế. Bởi vì tác giả dựng một bức tranh quê
quá thân yêu, chứa chan bao dấu tích, mà nay trở nên lặng lẽ đến vô cùng. Rồi
thì nhà thơ gởi vào bức tranh đó cõi lòng tê tái, tê tái nhưng vẫn gượng ép,
gượng ép chối bỏ sự tê tái của mình bằng những câu thơ bất cần, buông xuôi và
vu vơ hờn trách.
Tôi vô tình đọc hai bài thơ của hai tác giả một
lần, “Thu Phai” và “Thu Lạnh” đọc trong buổi đầu đông.
Những cơn gió phai và lạnh trong thơ lạ thay, làm cho tôi âm áp. Ngược lại, cơn
gió thổi đầu đông ngoài kía đem cái lạnh len lỏi vào phòng. Cả hai cơn gió đều
làm tôi se lòng, se lòng nhớ quá khứ tuổi thanh xuân ./.
*
CHÂU THẠCH
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính,
Đà Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
THU SỚM
Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa
Có nghe se lạnh gió chuyển mùa?
Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?
Có thấy nhà bên rúc rích cười?
Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi
Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi
Diều ai dìu dặt chòng chành nắng
Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.
*
Làng Đá, Hưng Yên
18.09.2015
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
SỚM THU, THU SỚM - THU BUỒN HAY VUI?
Đã mấy năm sống ở Sài
Gòn với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ,
trong tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu
đã thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của nhà thơ
Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm tôi bật nhớ ra mùa
thu đang về trên miền Bắc.
Mà cũng lạ, hai nhà thơ
tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau.
Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi
Em thì nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về
Làm Chi Nữa, nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài
thơ “đều là tiếng gọi người về trong
nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê hương mỗi
ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú đưa lên
bài Sớm Thu thì hôm nay 16/08
nhà thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm, một sáng tác được nâng niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai
bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân thật và rất đẹp của hai tâm hồn
trước cảnh Thu về.
Mặc dù đang vào ngưỡng
tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của nhà thơ lão thành
Nguyễn Khôi,
SỚM THU
"Sớm nay trời nhẹ lên cao" - thơ Xuân Diệu
-----
Sớm nay nghe hồn lành lạnh
Một trời sương trắng: ờ thu,
Cao Tầng ánh sao lấp lánh
Ban công vẳng tiếng chim Cu...
Chim Cu nhốt lồng gọi bạn
Mơ về một cánh rừng xa
Nhốt lồng khác chi bị
"hoạn"
Không còn được sướng mây mưa...
Đón thu lưng trời cao ốc
Quờ tay định tóm đám mây
Mây đen chừng đầy khí độc
Tạt qua tối xẩm mặt mày...
Cúc vàng mua về cắm lọ
Nhớ nhung lá đỏ cành Phong
Thu vàng nước Nga rực rỡ
Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...
Xuân tới 80 rồi nhỉ?
Sớm nay qua nẻo thu sang
Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ
Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...
*
Hà Nội, ngày 15-08-2016
NGUYỄN KHÔI
ta không thấy hình ảnh
lá vàng khi mùa thu tới mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đại đến cận đại,
từ cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đến Tản Đà, Lưu Trọng
Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi.
Mà với Nguyễn Khôi là
cảnh Sớm Thu rất hiện đại:
Sớm nay nghe hồn lành
lạnh
Một trời sương trắng: ờ
thu ,
Cao Tầng ánh sao lấp
lánh
Ban công vẳng tiếng chim
Cu
Có lành lạnh, có sương
trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà: Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu
bạch / Khói thu xây thành.
Đó là cái lạnh cái sương
trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và
không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng
chim Cu”. Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung
được ví như tiếng nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức
mà là tiếng chim Cu trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:
Chim Cu nhốt lồng gọi
bạn
Mơ về một cánh rừng xa
Nhốt lồng khác chi bị
"hoạn"
Không còn được sướng mây
mưa...
Tiếng kêu trong bức bối
khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang bị giam cầm tù
hãm.
Hơn một trăm năm trước,
đứng trên mặt đất làng Bùi, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên mới
thấy được:
Trời thu xanh ngắt
mấy tầng cao,
Nay nhà thơ Nguyễn Khôi
ở lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ
phàng đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:
Đón thu lưng trời cao ốc
Quờ tay định tóm đám mây
Mây đen chừng đầy khí
độc
Tạt qua tối xẩm mặt
mày...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân
thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ
nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em:
Em hỡi! Mùa thu đã đến
chưa?
Có nghe se lạnh gió
chuyển mùa
Có nghe thoang thoảng
thơm cốm mới?
Có thấy nhà bên rúc rích
cười?
Và bây giờ mới chắc chắn mùa Thu đã
đến thật:
Em nhỉ. Mùa thu đến thật
rồi
Sương chiều bảng lảng
rắc muôn nơi
Diều ai dìu dặt chòng
chành nắng
Vắt vẻo em cười. Ơ ...
đã thu.
Có gió chuyển mùa se
lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm
mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có
tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu
của em! Một Thu Sớm thật thanh bình, thật đáng yêu.
Từ tháng 8.1945, mùa Thu
đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi, mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay mùa thu
của “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi
buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả mùa Thu thiên nhiên vốn có: Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa
Nhà thơ Thâm Tâm từ
những “Chán ngán tình gia sầu ngất
ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới trong
khung cảnh “Mùa Thu Mới”:
Trái hồng trĩu xuống cây
rơm
Sáng nay mùa cốm dậy
thơm đầy làng
Lúa vươn thân hút ánh
vàng
Nguồn tươi vống nở thu
sang mát lành.
Nguyễn Đình Thi thì rất
vui khi so sánh hai trạng thái cảm xúc của mình về mùa thu trước và
mùa thu nay:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa
núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp
phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười
thiết tha
Rồi cuộc kháng chiến
chống Pháp 9 năm, mặc dầu đang chiến tranh, mùa thu cũng không bớt
đẹp đi chút nào: Sáng mát trong như sáng
năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Sau giải phóng Điện Biên
Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ
Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:
Ngẩng đầu lên: Trong
sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu xanh
thẳm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp lắm!
Mây của ta, trời thẳm
của ta
Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa!
Sau khi nước nhà thống
nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường,
mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn
minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu
Sang của Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên
dáng, đẹp đến nỗi phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Dòng sông sang thu không
còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như
một con người đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương
Nam tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội
vã”. Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia
cùng bạn. Thu Sang đúng là đẹp hơn thơ!
Đến nay, người đứng đầu
đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ
nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm
Thu, Thu Sớm trong bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và
Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?
Với bài thơ rất chân
thực của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi bạn / Mơ về một cánh
rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây
đen chừng đầy khí độc/ Tạt qua tối xẩm mặt mày...”. Và chính vì
không vui được nên nhà thơ phải “Cúc vàng
mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:
Nhớ nhung lá đỏ cành
Phong
Thu vàng nước Nga rực rỡ
Buồn thay, ngồi
trong Sớm Thu ở nhà mình trên Thủ đô nước mình,
ngắm Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở
tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì lại nghe thấy: Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...
Sớm Thu nay buồn nên nhà
thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho tuổi 80 của mình: Xuân tới 80 rồi nhỉ?/ Sớm nay qua nẻo thu
sang. Và niềm hy vọng ấy khiến nhà thơ: Ngắm
hoa thấy lòng tươi trẻ/ Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh,
có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới.
Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng
cười rúc rích bên nhà hàng xóm, có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!
Nhưng hẳn bạn đọc còn
nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê
tôi nghèo lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao
cái làng Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp và vui như vậy.
Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?
Tôi nói chỉ là giấc mơ
thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà
thơ ca ngợi Thu Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ
Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng
Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ Nam Lộc đã soạn thành
một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến
của tuổi học trò:
Thu giăng heo may che
bóng cây lạnh này
Người cho em nghe câu
nhớ thương từng ngày…
Người mang cho em quen
môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em
rung những đêm lạnh lùng…
Nắng vấn vương nhẹ gót
chân
Trưng Vương vắng xa anh
rồi
Mùa thu đã qua một lần
Chợt nghe bâng khuâng lá
rơi đầy sân...
Và hàng trăm nhà thơ
khác chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:
Sài Gòn Thu đã chớm
sang
Em đi qua phố dịu
dàng như mơ
Mùa Thu đẹp tựa vần
thơ
Tim anh xao xuyến đến
giờ còn vương
Chả là giấc mơ mùa thu
cho Sài Gòn đó sao?
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp cho cái làng Đá quê
hương của anh. Mà nói như nhà văn Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư”. Bởi thế, tôi trân trọng tất cả những giấc mơ đẹp,
những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của bác Nguyễn Khôi và Thu
Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Tôi thành thực cầu chúc
cho hai nhà thơ:
Nhà thơ tuổi chú Nguyễn
Khôi sẽ luôn có những Sớm Thu với những giây
phút “ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ” và
sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:
Cùng với ánh quanh minh
còn mãi.
- Cho người vui
cảnh quên già.
Nhà thơ tuổi cháu Đặng
Xuân Xuyến cùng làng Đá quê anh sẽ có được đích thực những Thu
Sớm đẹp với “Diều ai dìu dặt
chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy trong thôn xóm.
*
Sài Gòn, Rằm tháng Bảy (17/08) 2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy,
Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
MƠ ĐÊM
Đêm!
Trở mình
Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm
Giật mình
Ánh mắt nửa đêm
Hun hút đại ngàn gió hú...
Thèm trận cuồng lũ
Dào dào ngấu ải chờ mưa...
Khát...
Cong đêm...
Yên ả.
*.
Hà Nội, đêm 28 tháng 12.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN VỀ MƠ ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thực ra bài thơ MƠ ĐÊM
không hay bằng một số bài thơ tình khác của Đặng Xuân Xuyến. Tuy nhiên, tôi
thích cách cấu tạo tứ và sự ngắn gọn súc tích của bài thơ này!
Thơ Đặng Xuân Xuyến
thường cô đọng, súc tích, cảm xúc dồn nén, tứ thơ mới, ngôn ngữ giàu hình ảnh
so sánh. Bài MƠ ĐÊM là một ví dụ. Chỉ vỏn vẹn có 37 chữ mà bài thơ khái quát
được tâm trạng vô thức (MƠ) giữa cái trống trải cô đơn và niềm khát khao hạnh
phúc lứa đôi mãnh liệt ...
Từ ĐÊM ở đầu bài thơ
được tách ra đứng một mình như báo hiệu một sự cô đơn của nhân vật trữ tình
trong bài thơ. Đêm vừa là thời gian vừa là không gian mà ở đó con người có thể
ngủ một giấc bình yên và mơ những giấc mơ đẹp. Và cũng có thể là nỗi trằn trọc
không ngủ được với bao tâm trạng suy tư ... Ở đây, nhân vật trữ tình trong
trạng thái vô thức đang mơ về một cuộc tình đầy mãnh liệt: "Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm".
"Hơi ấm" ở đây là chủ thể
thứ hai, là EM. Câu thơ đi giữa hai làn gianh rất dễ rơi vào chủ nghĩa tự
nhiên nhưng nhà thơ đã rất ý nhị ... Nhưng rồi giấc mơ ấy, sự vội vã, niềm cháy
bỏng và mãnh liệt ấy vụt tan biến khi "giật
mình" thức tỉnh. Giờ thì chỉ còn lại có đêm và gió hú.
Cái "ánh mắt nửa đêm" ấy
chính là ánh mắt mở to của kẻ vừa mất đi giấc mơ hạnh phúc. Giờ chỉ còn lại sự
cô đơn trống trải với đêm hoang vắng nơi đại ngàn chỉ có gió ...và gió ...
Đêm ... bây giờ thì
không ngủ được. Trạng thái cô đơn trống trải dường như được thay thế bằng niềm
khát khao có thật ở cuộc đời. Sự mãnh liệt của tình yêu, của hạnh phúc lứa đôi
được so sánh như những "trận cuồng
lũ", như "ngấu ải chờ mưa",
chỉ có khát và khát ...
Kết thúc bài thơ lại trở
về với đêm, nhưng bây giờ là đêm yên ả. Dường như sau giấc MƠ ĐÊM quá xáo trộn
với tâm trạng đầy biến động, một giấc ngủ bình yên đến với nhà thơ. Và biết đâu niềm khát khao hạnh phúc sẽ thành hiện
thực?
*.
Sài Gòn, ngày 09 tháng 01.2017
ĐỒNG DUY TOẠI
Email: toaiduyhd@yahoo.com.vn
MƠ ĐÊM - NỖI NIỀM XÓT XA CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Không còn là giấc mơ đêm
nữa mà là sự khát khao của chính tác giả về một điều hoàn toàn bình thường
trong cuộc sống nhưng được Đặng Xuân Xuyến gói kín trong thi từ, thức
cảnh.
Từ một cái “trở mình” trằn trọc đơn lẻ trong đêm,
một vòng tay cuống cuồng cố gắng “ghì hơi
ấm” của tàng thức và tất nhiên là sự hẫng hụt, bừng tỉnh khi hiểu ra cảnh ngộ!
Lạ lắm, lúc nửa đêm về
sáng con người ta thường trở về với mình một cách mộc mạc đến trần trụi. Xót xa
lắm một cái “ghì” không khí, ghì dĩ
vãng, ghì kỷ niệm trong đêm. Nói ghì vậy thôi chứ, ghì cái hư vô không hình
tướng thì chả bao giờ thật được. Cái “hơi
ấm” của ai đây cũng vậy, cứ Liêu Trai bảng lảng, gặm nhấm một tâm thức mất
lý trí trong cơn nửa mơ nửa thực. Trong trạng thái đó một: ánh mắt nửa đêm - Hun hút đại ngàn gió hú!
Ai có trải qua trạng
thái tương tự mới cảm hết được câu thơ rất thật mà cũng đắt này. Ánh mắt người
thương nó vời vợi lắm, như gọi mời cũng lại vừa ngăn cản, vừa trách móc, vừa
yêu thương nên: hun hút đại ngàn gió hú là câu vừa đúng vừa hay mà cũng
nói lên cả sự đa đoan, cắc cớ của một khối tình mang xuống tuyền đài không tan.
Cái ánh mắt ấy thật gần
mà cũng rất xa xăm. Thổn thức trong đêm, thảng thốt với trạng thái, ắt như góp
gió thành bão, tức nước vỡ bờ: Thèm
trận cuồng lũ / Dào dào ngấu ải chờ mưa…
Cái ruộng muốn cải tạo
đất thì người nông dân phải cày vỡ lên, cho ải (khô) đi để chờ nước chảy hay
mưa về. Đất này “ngấu ải” có nghĩa đã
đủ lắm rồi, thời gian chờ đợi và khát khao đến tận cùng cứ thiêu đốt nỗi niềm
riêng tư, sức chịu đựng của con người .
Đất chính là người,
chính là nỗi khát khao tiềm ẩn thường trực trong tác giả. Nó đeo bám khắc khoải
bên trong cái vẻ bất cần đời, đằng sau cái miệng cười một nửa của Đặng Xuân Xuyến. Tất
cả dù chỉ là giấc mơ đêm đã đủ sức bẻ cong tác giả, đủ sức phá nát một đêm vốn
tưởng chừng yên ả! Một cái đêm tĩnh lặng bên ngoài nhưng thực ra là: hun hút đại ngàn gió hú.
Bây giờ nhiều người làm
thơ lắm nhưng để súc tích, ý nằm ngoài thơ thì ít lắm. Đa phần tả cảnh, dùng mỹ
từ, điển tích, thơ dài thườn thượt.... nhưng bài này có phần khác, tác giả cứ
như bình tĩnh móc thi tứ ra từ tâm thức và nhẹ nhàng sắp lên giấy một cách nhàn
hạ. Chính vì vậy ai cũng giật mình tưởng tác giả lôi lòng kéo ruột mình ra cho
thiên hạ tỏ tường.
Buông bài thơ xuống
nhưng lòng lại nhập vào cái bất an của tác giả và thấy mình cũng thổn thức, hồn
hển theo.
Và, cũng ngấu lắm cơn
khát của đất trời.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
EM
Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.
Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.
Trời đất như cuồng say
Ngả nghiêng theo nhịp phách
Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu.
*.
Hà Nội, đêm 21 tháng 01 năm 2015
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
EM - MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Người ta ví von người
phụ nữ như lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương
triều... quả thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA
“trinh bạch” sừng sững được “nửa đời” người rồi.
Mở đầu, “TA” rất hồn
nhiên, rất tự tin vào bản lĩnh đàn ông vững chãi của mình nên đủng đỉnh “gạ” EM
cạn chén. Vâng, chỉ là “gạ” thôi, chứ không mời, không ép, không nghĩ sâu xa,
mưu mô gì cả. Chỉ đơn giản điều vì “TA” là đàn ông, còn EM là đàn bà, nên mới
“gạ” em “cạn chén”. Nghĩa là “ta” chỉ bông đùa chút chút với “em” cho vui, cho
có khí thế, chứ “ta” thừa biết, “em” sao uống được rượu với ta mà “cạn chén”.
Ngạo nghễ là thế, đủng đỉnh là thế, ấy vậy mà “ta” phải sững người với hành
động của em: “Thế là em cạn ta”. Ô
hay. “Gạ” người ta cạn chén lại để người ta “cạn” mình thì chỉ có thi sĩ họ
Đặng mới được trải nghiệm.
Ở khổ thơ đầu, thi sĩ họ
Đặng đã vẽ một khung cảnh có 2 kẻ đang “vờn” nhau, chỉ để bông đùa nhau rất nhẹ
nhàng, êm ái, không một tiếng động nhưng đằng sau những cử chỉ (gạ rượu) rất
nhẹ nhàng ấy lại là những chuyển động thật mãnh liệt, kinh khủng và máu lửa ở
sinh lý, ở tâm trạng:
“Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta
Nửa đời ta trễ hẹn
Em nồng nàn đốt ta.”
Ở khổ thơ này, tác giả
viết như là rất tự nhiên, như là không hề sắp xếp, bài trí, cứ nhẹ nhàng, cứ
thanh thoát giữa “ta” với “em”. Và người đọc dễ bị đánh lừa bởi khung cảnh yên
ả, rồi trở chiều (có vẻ) thuận chiều ấy. Người đọc như thấy tác giả của EM từ
thế chủ động thành thế bị động, từ “hung thủ” trở thành “nạn nhân” rất nhẹ
nhàng, êm ái và khá ngọt:
“Ta gạ em cạn chén
Thế là em cạn ta”
Một câu thán xuôi chiều,
chấp nhận tự nguyện không hề miễn cưỡng (Thế là em cạn ta), cũng rất “hồn
nhiên”, tự nhiên như sự gạ (rượu) ban đầu của “chàng”. Tâm trạng ấy cứ nhẹ
nhàng, đều đều dẫn người đọc đi hết khổ thơ, để bạn đọc chỉ hình dung thấy
“chàng” đang bị “nàng” “ăn thịt” trở lại. Và sự trở chiều ấy lại rất ngọt, rất
khoái bởi “nửa đời ta trễ hẹn” nên giờ “Em nồng nàn đốt ta” là hợp lẽ, là trên
cả mong đợi.
Chỉ 4 câu thôi, “chàng”
đã bộc bạch cho mọi người biết là cả “chàng” và “nàng” đều đã cảm nhau từ lâu
rồi, từ “nửa đời” trước nhưng chỉ vì sự nhút nhát của chàng, sự e lệ, giấu kín
của nàng mà chuyến đò tình của 2 kẻ cảm nhau, yêu nhau mới “trễ hẹn”. Đến đây,
người đọc mới vỡ lẽ ồ thì ra việc “gạ” rượu của chàng chỉ là cái cớ, là phép
“lửa đổ thêm dầu” để tình yêu của nàng dành cho chàng bấy lâu phải bùng cháy.
Vào khổ thơ thứ 2, cũng
vẫn sự nhẹ nhàng, đều đều ấy nhưng mạch thơ nhanh hơn, nóng hơn, ngùn ngụt hơn:
“Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại
Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say.”
Ở khổ thơ này, tác giả
rất thành công: Mỗi một câu thơ là một hình ảnh đẹp, say đắm của tình yêu đến
từ hai phía. Cả “em”, cả “ta” đều say đắm đến hoang dại, đến quên tất tật để
tận hưởng sự ngọt ngào của tình yêu. Rõ là viết về một cuộc làm tình, mà làm
tình lại bạo liệt, ấy thế mà không hề có một tiếng động nào mới lạ?! Chẳng lẽ
cuộc làm tình này cần kín đáo nên âm thanh hoan hỉ phải được điều tiết, cấm
tiệt? Không phải vậy! Cái tuyệt vời chính ở chỗ không có tiếng động ấy! Đọc, ta
thấy 2 kẻ yêu nhau đang rất trân trọng cái khoảnh khắc được đốt nhau ấy. Họ
lặng lẽ cháy, lặng lẽ dâng hiến và lặng lẽ tận hưởng men say của ái tình. Họ
đến với nhau bằng tình yêu, bằng sự dồn nén “thèm muốn” lâu ngày nên họ trân
trọng thời khắc yêu ấy mà lặng lẽ cùng nhau hoan hỉ!
“Run rẩy, em ghì ta
Quấn vào ta hoang dại.”
Ở 2 câu này, người đọc
hình dung “nàng” đang rất ngỡ ngàng, rất hạnh phúc bởi tiến triển tình cảm với
“chàng” nên “nàng” lặng lẽ dâng hiến, lặng lẽ tận hưởng. Nàng sợ, rất sợ sẽ mất
chàng, mất khoảnh khắc được yêu chàng nên nàng “run rẩy”, nàng “ghì”, nàng
“quấn” chàng bằng cái tình yêu mãnh liệt mà bản năng của con người (hoang dại)
nhưng rất gượng nhẹ, êm ái và trân trọng, nâng niu. Một loạt động từ mạnh được
nàng sử dụng khi làm tình, ấy thế mà ta lại không nghe thấy một tiếng động nào,
dù chỉ là tiếng rên, tiếng phì phò, hổn hển phải có để cuộc làm tình được gọi
là thăng hoa. Cái hay, cái tuyệt của thi sĩ họ Đặng là ở đây, là ở cách tả tình
nóng bỏng mà không cần đến sự phụ trợ của âm thanh.
Tiếp 2 câu cuối của khổ
2:
“Thẫn người, ta ngây dại
Uống em từng giọt say”
Ở 2 câu này, hình ảnh TA
(chàng) hiện lên khá hoàn chỉnh sự hoan hỉ của chiến thắng. Từ “thẫn người” đến
“ngây dại” đều chung biểu cảm trạng thái hoan hỉ của sự toại nguyện, của niềm
vui chiến thắng. Hình ảnh chàng nhâm nhi “uống em từng giọt say” đã chỉ rõ
chàng là gã thợ săn đích thực và nàng tưởng là kẻ đảo chiều quay lại ăn thịt
chàng thì thực chất nàng chỉ là con mồi trong bữa tiệc ân ái của chàng mà thôi.
Từ thế chủ động tấn
công: “Ta gạ em cạn chén”, rơi vào
thế bị động, trở thành nạn nhân: “Thế là
em cạn ta”. Rồi từ thế bị động: “Thẫn
người, ta ngây dại” lại chuyển sang thế chủ động: “Uống em từng giọt say”... đọc qua, tưởng vậy mà lại không phải vậy
vì để ý kỹ mới thấy “TA” hoàn toàn làm chủ “thế trận”, “em” chỉ là người bị
“TA” giật dây, điều khiển.
Đến khổ 3, là khổ cuối
của bài thơ, theo cảm nghĩ của riêng tôi thì hình như tác giả viết để kết thúc
bài thơ cho phải phép nên không đầu tư câu chữ, cảm xúc, vì thế mà kém hay.
Đọc xong bài thơ, điều
tôi thắc mắc vẫn cứ ở sự khó hiểu của 2 câu kết:
“Nửa đời trai trinh bạch
Em nhuộm ta ngả màu”
Tôi hỏi mà không trả lời
được là sao “ta” phải giữ gìn sự trinh bạch ấy? Chẳng lẽ “ta” không ham ái
tình? Và nữa, “em” là thế nào mà “nhuộm ta ngả màu”? Sự ngả màu ấy là hàm ý
tiếc nuối bị mất đời trai trinh trắng hay sự hoan hỉ vì đời trai khờ khạo đã
được ngả màu?
Ôi! Chàng Đặng Xuân
Xuyến này, sao cứ bắt người đọc phải trăn trở về tình yêu của mình như thế?
Chẳng lẽ không thể viết rõ hơn được sao, chàng Đặng?!
*.
Hà Nội, tháng 02 năm 2015
GIÁP KIỀU HƯNG
RƯỢU SAY
Ừ này thì rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa thích
Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.
Nào nhấc chén lên. Cạn để say
Men tình chiu chắt ủ bấy nay
Đêm nay ta hứa say cùng bạn
Thế gian? Điên đảo được mấy ngày?
Thôi kệ cuộc đời. Ta cứ say
Rượu ngọt đào thơm vơi lại đầy
Ta kệ Cuội già từ cung Quế
Khẩn khoản mời ta ghé đôi ngày.
Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta được say.
*
Hà Nội, đêm 04 tháng 10
năm 2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RƯỢU SAY”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Rượu say là cuộc
độc ẩm của nhà thơ dưới trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh
thần có phần phấn khích:
Ừ này thì
rượu. Ừ thì say
Ừ rượu tri
âm ủ lâu ngày
Ta uống đêm nay cho thỏa
thích
Cho trời cùng đất ngất
ngưởng say.
Thế rồi say trong
men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn
nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung
Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:
Ta chẳng ghé đâu.
Ta ở đây
Sóng sánh mềm môi chén
rượu đầy.
Thôi Cuội về đi ta
chỉ muốn
Đêm nay thỏa thích ta
được say.
Bài thơ là một
tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá
nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Đà
thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với
chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:
Cung quế đã ai ngồi
đó chửa?
Cành đa xin
chị nhắc lên chơi
Một mộng tưởng lên cung
trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung
Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn
thoát ly cõi trần quá buồn chán.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi
buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy,
Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
ẨM TRỜI
Em gạ một đêm chồng vợ
Cho mùi da thịt thơm hương
Mấy ngày hôm nay mưa tợn
Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.
Ừ thì, một đêm thôi nhé
Mai đừng, nữa gạ một đêm
Mùa này ẩm trời dài lắm
Da đây thịt đấy đến mòn.
*.
Hà Nội, 13 tháng 03.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“ẨM TRỜI” - MỘT PHONG CÁCH TÌNH KHÁC LẠ
Có những bài thơ nói
về tình yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng như bướm bay, lãng mạn như
gió trăng và êm đềm như tiếng suối chảy. Cũng có những bài thơ nói
về tình yêu thiên về nhục dục hừng hực như lửa cháy, cuồng nộ như
con thiêu thân sa vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ
nói về tình yêu như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn
thể hiện sự độc đáo của một phong cách yêu. Vậy phong cách yêu là
gì? Đó là cách xử sự trong tình yêu tạo nên cái riêng của một người
hay một lớp người nào đó. “Ẩm Trời” của Đặng Xuân Xuyến
là một bài thơ thể hiện một phong cách yêu riêng của tác giả. Bài
thơ không chỉ nói về một đêm hẹn hò ái ân mà thật ra nó ẩn chứa
tình cảm, tâm lý của một lớp người đã già dặn trong tình trường.
Mở đầu bài thơ tác
giả đề cập đến một lời mời gọi:Em
gạ một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương
Câu thơ đầu cho thấy
tác giả được cô gái “gạ tình”. “Gạ tình” nghĩa là gì? Nghĩa là
những hành vi, cử chỉ, cách cư xử hướng vào sự khác biệt giới tính
để đưa tới yêu đương, ở đây là ân ái. Cô gái muốn có “một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm
hương” nghĩa là cô ta đã biết bạn, biết ta đều đã lâu ngày không
gần gũi người khác giới. Cái cớ để cô gái gạ tình cũng vô cùng mới
lạ. Cô nói như một người già lắm: Mấy
ngày hôm nay mưa tợn/ Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.
Thường thì người già
sẽ khó ở, thấy ghê mình mỗi khi mưa tợn, ẩm trời nên thích nằm
riêng, xa rời người khác phái. Ở đây, ngược lại mưa tợn, ẩm trời làm
nhục dục cô gái gia tăng nên cô mời gọi. Cô gái làm như mình gìà
lắm, mượn cái cớ lão thành để bông đùa trong lời mời ân ái của
mình. Cô mời gọi một cách thẳng thừng, không úp mở, giống như hai
người đàn ông rủ nhau đi làm vài ly rượu.
Qua khổ thơ này ta cảm
nhận được gì ở nhân cách cô gái kia? Cô không là người bán dâm, cũng
không là người cho dâm dễ dàng. Với lời mời gọi vừa trắng trợn, vừa
trịch thượng, lại khôn khéo lồng thời tiết vào câu chuyện của mình
chứng tỏ cô là người trường trải, khôn ngoan, thẳng thắn và có khiếu
hài hước. Với nhân cách này, chắc chăn cô phải gởi vàng đúng nơi mà
cô chọn chứ không phải đem cho không bừa bãi. Vậy vì sao cô gạ tình
tưởng như sỗ sàng?. Thật ra nếu cô gái không là tri kỷ của tác giả
thì hai người cũng phải hiểu nhau và tâm đắc cùng nhau giữa cuộc đời
này. Qua hai khổ thơ đối đáp, ta cảm được sự thâm giao giữa hai người.
Họ có một sự đồng điệu trong đối đáp cùng nhau. Họ có một phong
cách riêng âu yếm cùng nhau khác với thường tình. Họ có thể đã yêu
nhau rồi nhưng bày tỏ tình yêu theo cách riêng của họ.
Bây giờ ta hãy nói
đến chàng trai. Chàng trai cũng mồm mép không thua gì cô gái: Ừ thì một đêm thôi
nhé/ Mai đừng, nữa gạ một đêm/ Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt
đấy đến mòn
Người ta có thể tìm
thấy trong ca dao hay trong thơ những câu đối đáp rất hay của những
chàng trai trả lời cô gái đang gặt lúa trên đồng hay ban đêm giã gạo
cùng nhau. Những câu đó chắc chắn rất trữ tình nhưng chắc chắn không
bao giờ thân ái như lời thơ trong khổ thơ này. “Ừ thì một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói
với em. Chúng ta tưởng tượng lời từ của miệng chàng trai thốt ra âu
yếm vô cùng, ấm áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, nữa gạ một đêm”: Câu
thơ không phải là lời từ chối, ngược lại đó là lời hẹn hò những
đêm kế tiếp bằng một câu bông đùa tế nhị. Tác giả thật tuyệt
vời khi xuống hai câu thơ chót: Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn.
Dựa vào thời tiết
sẽ còn mưa lâu dài, tác giả hứa hẹn ngày tháng có nhau còn dài
không bằng những lời thề thốt mà bằng một lời cảnh báo sẽ hao mòn
thân xác nếu cứ bên nhau. Tất nhiên đây là một câu bông đùa, một lời
dọa có tác dụng ngược lại, đem cho cô gái niềm vui hy vọng được kề
cận với tác giả lâu dài. Câu thơ “Da đây thịt đấy đến mòn” bày tỏ
sự hoà hợp thân xác giữa hai người. Đừng nghĩ đây là một câu thơ có
nhiều dục tính. Ta nên hiểu rằng bài thơ chỉ mới là lời đùa cợt,
tất cả đều chưa vượt qua giới hạn của sự thanh khiết. Vì vậy câu thơ
bày tỏ “da” và “thịt” gắn bó với nhau đến hao mòn cũng là lời nói
chơi nơi cửa miệng. Do phong cách yêu độc đáo của riêng mình mà phong
cách bày tỏ cho nhau cũng khác lạ, khiến cho lời tỏ tình nghe thì
thô nhưng nó đậm đà hơn tất cả những lời tỏ tình mà thơ thường hay
diễn đạt.
“Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn
gọn tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không
phải thế. Đọc thơ ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ
phải là những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình
trường, dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có
thể yêu nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ
biết họ trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô
thiển.
Bài thơ hay là hay ở
chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được,
không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng
là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ
như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem
tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy
ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho
ta se lòng và cảm mến../.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
THIẾU NỮ
Ô kìa người ngọc giữa sớm mai
Áo xiêm trễ nải chả chịu cài
Ngực nõn phập phồng ru hồn gió
Bổng đảo in hồng trong mắt ai.
*.
Hà Nội, ngày 05/02/2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẾN VỚI “THIẾU NỮ”, BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Trong không khí mùa xuân
Đinh Dậu (2017), mọi người của thế kỷ 21 này đón xuân, đón tết cổ truyền không
còn thèm khát ở sự ăn mà ở sự chơi, hưởng thú vui tinh thần, không màng đến “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ”. Nhưng tìm
thú vui tinh thần đâu phải dễ dàng, bởi xã hội tình người vô cảm, âu lo và bất
an nhiễm vào hồn người như một căn bệnh - căn bệnh của loài người.
May mắn thay tôi đọc
được bài thơ “Thiếu nữ” của Đặng
Xuân Xuyến. Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong
cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng
hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp
- người ngọc. Ôi đã là đàn ông không biết thưởng thức vẻ đẹp của “Thiếu nữ” chẳng đáng buồn sao!
Đầu đề bài thơ là “Thiếu nữ” nghĩa là tuổi còn tơ non như
hoa đương nụ, như trăng mới nhú, gái ở tuổi dậy thì. Tàng ẩn những điều kỳ diệu
cho hồn tha hồ tưởng tượng, sự tưởng tượng đến bến bờ yêu say đắm và dịu ngọt
trong hồn không thể cưỡng được. Đến nỗi nhà thơ phải thốt lên: “Ô kìa” - “Ô kìa người ngọc giữa sớm mai”. Chữ “Ô kìa” như sự thảng thốt bất ngờ ngoài ý
tưởng. Có gì khác thường, khác với thông lệ, khác với nếp nghĩ của nhà thơ.
Chắc nhà thơ nghĩ rằng người đẹp sẽ phải đoan trang e lệ, “Dín gió e sương”, nhất là giữa sớm mai càng phải kín đáo hơn. Chữ
sớm mai biểu thị thời gian tươi mới nõn nà của thiếu nữ. Thế mà thiếu nữ ấy: “Áo xiêm trễ nải chả chịu cài”. Một bức
tranh nude cho người xem tưởng đến trường phái hội họa thời phục hưng rất gợi
cảm và gợi dục. Xưa ở Việt Nam nữ sỹ Xuân Hương đã vẽ bức tranh thiếu nữ ngủ
ngày rất phồn thực: “Thiếu nữ nằm chơi
quá giấc nồng/… Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa
thông/ Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong”.
Bức tranh thơ của Đặng
Xuân Xuyến chỉ là bức tranh phồn thực mờ, đòi hỏi sức tưởng tượng, nude nhưng
mờ ảo. “Chả chịu cài” có nghĩa là có
phần kín có phần hở và phải có phẩn hở phần kín mới nên thơ. Gợi giác quan cảm
xúc. Chất thi sỹ cũng là ở đây, nếu hở quá lộ quá sẽ không còn thơ nữa, chính
vì vậy: “Ngực nõn phập phồng ru hồn gió”.
Gió bị ru hồn hay thi nhân bị thôi miên, thiếu chữ “ru hồn gió” sẽ mất thiêng, gió còn bị ru hồn thì người còn bị ru
hồn hơn. Nếu nói ngôn ngữ của tuổi trẻ thì còn bị “Phê” hơn.
Nếu đổi lại câu thơ “Phập phồng ngực nõn” thì sẽ bị giảm cái
hay cái thực của chủ thể “Ngực nõn”.
Chẳng khác gì nói: “Hồng thắm làn môi”
mà phải nói “làn môi hồng thắm” mới
chính xác. Thế mới biết làm thơ như đánh cờ, như sự sắp đặt cuộc đời vậy. Đánh
cờ quân nào đi trước, đứng trước, quân nào đi sau, ván cờ tình yêu - cuộc sống
cũng vậy, cũng phải có luật chơi và phải hiểu luật mới chơi được. Chữ “Ru hồn gió” tạo chất say của câu thơ,
tài của nhà thơ là biết điều khiển câu chữ cho hợp với đạo thơ. “Bồng đảo in hồng trong mắt ai” hay ở chữ
“in hồng”. Trong mắt như có lửa - lửa
của đắm say, nhưng chỉ hồng thôi mà không chói, sự đam mê vừa tới, vừa đủ. Chói
quá - nhìn kỹ quá sợ làm đau bồng đảo. Cách thưởng thức vẻ đẹp bằng sức cảm của
tâm hồn không trần tục thì mới là thơ.
“Trong mắt ai” nhà thơ nhìn thấy mà lại “trong mắt ai”. Lòng thi sỹ cảm giác vẻ đẹp ấy là của trời, không
phải của mình, có chút gì đấy như sự “ghen”,
ghen với đời, bâng quơ ghen với ai, sự ghen đáng yêu của tuổi 50 tự biết mình,
tiếc cho mình!
Ôi. Trong mùa xuân khao
khát niềm vui tinh thần hơn vật chất này, được thưởng một bài thơ “Thiếu nữ” - Nude như xem bức tranh bằng
hồn thật đáng quý biết bao!
*
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai
Bà Trưng, Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
BỨC TRANH "THIẾU NỮ" ĐẶC SẮC CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
Nếu mấy năm trước, được
nhiều cô gái khác yêu thương nhưng chàng trai ấy đã không dám hôn nhân lần nữa
vì cảm thấy mình đã chớm già, sợ cưới nhau rồi trước là pháo hoa sau cũng ra
tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ, sợ đến nỗi có lúc đã cảm thấy chán cái
vị yêu đương mới:
Ta bỗng chán vị yêu nhạt
thếch
Xộc xệch tình
Lếch thếch tiếng yêu.
Thì năm nay, cái sự chán
vị yêu nhạt thếch ấy dường như đã tan biến khiến trái tim chàng đã biết say mê
rung động trước một vẻ đẹp thiếu nữ:
Ô kìa người ngọc giữa
sớm mai
Áo xiêm trễ nải chả chịu
cài
Ngực nõn phập phồng ru
hồn gió
Bồng đảo in hồng trong
mắt ai.
(Thiếu nữ)
Bài thơ tứ tuyệt với bức
tranh một thiếu nữ đẹp giữa cảnh sớm mai của mùa Xuân đã khiến nhà thơ Nguyễn
Thanh Lâm phải tốn công gõ phím với cả ngàn chữ bình luận rất xác đáng: “Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những
bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm
bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên
bóng hình của người đẹp - người ngọc”.
Người ngọc - Thiếu nữ đã
là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân, vì vậy thơ Đông thơ
Tây đã có cả ngàn bài tuyệt tác ca ngợi vẻ xinh đẹp của thiếu nữ. Nhưng ở Á
Đông, do những hủ tục bất nhân, những tập quán ti tiện, xem thường vai trò của
người phụ nữ trong xã hội cũ, thơ ca có phần dè dặt khi tôn vinh vẻ đẹp đó. Ba
nhà thơ Đường trứ danh của Trung Quốc như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Xương
Linh, trước vẻ đẹp của các cô gái hái sen đã không ai bảo ai mà cùng phóng bút
viết nên mấy khúc ca diễm tình cùng chung một tên là Thái liên khúc (Khúc hát
hái sen).
Đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Bạch cư Dị: Một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng chèo
chiếc thuyền nhỏ giữa một đầm sen để hái hoa và vô tình thấy chàng trai đang
đắm đuối nhìn mình, người thiếu nữ thẹn thùng, muốn nói chẳng nên lời, để đến
nỗi đánh rơi chiếc trâm cài đầu xuống đáy ao lúc nào chẳng hay:
Sóng đưa lá, gió rung
hoa
Đầm sen thuyền nhỏ lướt
qua thấy chàng
Cúi đầu thẹn, chẳng nói
năng
Ao sâu rơi xuống chiếc
trâm cài đầu
Thái Liên Khúc (Bạch Cư Dị-Hải Đà dịch)
Đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Lý Bạch: Một khuôn mặt đẹp như hoa, hồn nhiên, nhí
nhảnh, ngây thơ bên ngòi Nhược Da, dưới bầu trời cao rộng, trời xanh nước biếc,
nắng hồng, hoa trắng giao hòa tạo ra một vẻ đẹp thanh tao huyền ảo:
Có cô con gái nhà
ai,
Hái sen, chơi ở bên ngòi
Nhược Da.
Mặt hoa cười cách đoá
hoa,
Cùng ai nói nói mặn mà
thêm xinh.
Áo quần mặc mới sáng
tinh,
Nắng soi đáy nước rung
rinh bóng lồng.
Thơm thơ vạt áo gió
tung,
Bay lên phấp phới trong
không ngạt ngào.
Thái liên khúc (Lý Bạch-Tản Đà dịch)
Và đây là cô gái trong Khúc
hát hái sen của Vương Xương Linh: Màu quần lụa của cô gái lẫn một màu
giữa rừng lá sen xanh thắm chập chùng, mặt nàng tươi như hoa thắm khó mà thấy,
bỗng đâu một tiếng hát khe khẽ ngân vang mới biết có bóng người:
Lá sen quần lụa một
màu,
Mặt tươi hoa thắm như
nhau mặn nồng.
Dưới ao trà trộn khôn
trông,
Nghe ca mới biết là
trong có người.
Thái liên khúc (Trần Trọng Kim dịch)
Ba bức tranh thiếu nữ
hái sen với những nét vẽ khác nhau đều tuyệt đẹp. Nhưng vẻ đẹp thiếu nữ đó chỉ
thuần khiết là một vẻ đẹp thanh xuân trong trắng tựa hoa sen.
Ở ta, mới cách nay vài
chục năm, người đọc cũng chỉ thấy trong thơ hình ảnh những thiếu nữ đẹp ngây
thơ trong sáng như người thiếu nữ bên hồ Xuân trong thơ mới của Thế Lữ: Trên vừng trán ngây thơ, trong sáng/ Vẩn vơ
qua một áng hương buồn/ Giây lâu cô vẫn như còn/ Lâng lâng trông gửi tâm hồn
lên cao.
Mà không thể thấy được
một bức tranh thiếu nữ nào với vẻ đẹp phồn thực của những áo xiêm trễ nải, ngực
nõn, bồng đảo đầy quyến rũ như thiếu nữ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.
Một bài thơ Đường được
coi là sexy nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa là bài “Thanh Bình điệu” do Đường
Minh Hoàng đã lệnh cho Lý Bạch làm để ca ngợi Dương quý phi. Dương qúy phi vốn
là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy.
Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc
Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba
dân số Trung Hoa thời đó. Nhưng dưới ngọn bút tài hoa của Lý Bạch, vẻ đẹp viên
mãn và gợi dục của Dương Quý Phi sau một đêm làm tình với nhà vua cũng chỉ như
một đóa nhánh hồng tươi ướt đẫm sương:
Một nhánh hồng tươi, móc
đọng sương,
Mây mưa Vu giúp uổng sầu
thương
Và hình ảnh sexy của
Dương quý phi cũng chỉ được diễn tả trong hai câu thơ trác tuyệt này:
Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ
mây,
Hiên sương phơ phất gió
xuân bay
Không phải là vẻ đẹp
kiêu sa ngồn ngộn của xác thịt như bộ ngực hay đôi vú mà chỉ là một vẻ đẹp mờ
ảo như mây như sương như gió.
Vậy mà, câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” được
xếp vào hàng câu thơ gợi dục nhất của cả ngàn năm nay. Câu thơ này, mới hơn một
năm trước đây đã khiến một vị anh hùng lao động của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam bị ném đá tơi bời khi người anh hùng đã trăm tuổi này, Giáo
sư Vũ Khiêu lấy nguyên vẹn câu thơ tả dâm phụ đó làm câu đối: "Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng
y thường hoa tưởng dung” để tặng cho hoa hậu Kỳ Duyên, một cô gái chưa
chồng chỉ nhỉnh hơn chắt nội gái của cụ Quốc sư có vài tuổi.
Giờ đem đặt câu thơ Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây được coi là
câu thơ sexy hết mực ấy bên cạnh những câu tả vẻ đẹp phồn thực của thiếu nữ
trong thơ Đặng Xuân Xuyến ta thấy vẻ đẹp kiêu sa của Dương Quý Phi chỉ là một
vẻ đẹp của một người mây mờ áo còn vẻ đẹp của thiếu nữ lại là một vẻ đẹp rất
phồn thực và rất cụ thể với áo xiêm trễ nải, bộ ngực nõn và đôi gò bồng đảo in
hồng vào mắt người chiêm ngưỡng.
Tôi đồ rằng khi chụp bức
tranh thiếu nữ này Đặng Xuân Xuyến đã không quên nghĩ đến bức tranh thiếu nữ
trong thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
Đôi gò bồng đảo sương
còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối
chửa thông
Rõ ràng, thiếu nữ trong
thơ Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã sexy hơn, gợi dục hơn thiếu nữ trong thơ
Đặng Xuân Xuyến ở câu: “Một lạch đào
nguyên suối chửa thông”. Nhưng thiếu nữ của Bà chúa là thiếu nữ ngủ ngày và
bị chụp bởi đôi mắt đầy dục vọng của “Quân
tử dùng dằng đi chẳng dứt” còn thiếu nữ của Đặng Xuân Xuyến là thiếu nữ
đứng trong gió xuân giữa sớm mai được chiêm ngưỡng bằng cái “Ru hồn gió” vì say mê của tác giả. Nhà
thơ hiện đại học tập và kế thừa nhà thơ lớn của dân tộc như vậy là vừa đủ và
thật đáng khích lệ.
- Trích từ bài viết
CHÀNG TRAI ẤY BÂY GIỜ RA SAO -
*
DƯƠNG NINH NINH
Email:
duongninhsg@gmail.com
NHỚ MẸ
Lòng quặn thắt
Nhớ những chiều nắng tắt
Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà
Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà
Cha ở phương xa
Chúng con còn bé dại
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai
Sương buốt sớm mai
Nắng táp trưa hè nhễ nhại
Mẹ gửi đồng xa tiếng cười
Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt
Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát
Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt
Nước mắt ngược vào tim mặn chát
Con muốn hỏi trời cao
Con muốn cào đất rộng
Đâu là lẽ công bằng
Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay
Sao lắm cơ cực đắng cay
Lặng thầm qua đời mẹ
Tan nát lòng con trẻ
Con về thăm mẹ
Thơ thẩn vào ra hương khói nghẹn
ngào.
*.
Làng Đá, 02 tháng 07 năm
2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “NHỚ MẸ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình
ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi
người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ
mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương
tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái
tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau
mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại /
Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng
Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được
cảm xúc của người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao
trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi
lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn
hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân
hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh
người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay
con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao,
chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần
nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những
yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng
lên Mẹ.
Chưa hẳn là bài thơ
tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một
trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
VỀ QUÊ ĐI MÀY
- Với Nguyễn Xuân Thành
-
Mày về quê chơi đi
Tao lại dạy mày chơi trò trận giả
Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá
Lông nhông đầu làng cuối ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo
Đủ trò
Mày khờ khạo
Tao ngây ngô
Nghéo tay cưới chung một vợ
Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở
To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.
Mày về quê chơi đi
Biền biệt thế
Bặt tin như thế
Tao nhớ mày
Rượu tao uống chẳng say
Đêm cuối cùng mày nói thật hay
Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ
Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại
Hai mấy năm trời
Nước chảy bèo trôi...
Mày về quê chơi đi
Về với tao. Về với thời thơ dại
Về đi mày
Đừng lời nói gió bay.
*.
Làng Đá, Ngày 11 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
VỀ QUÊ ĐI MÀY - TIẾNG GỌI CỦA
NHÀ THƠ HAY CỦA THỜI THƠ DẠI?
Tôi xa Hà Nội không
phải “năm lên mười tám” như nỗi lòng một người đã xa Hà Nội trong một
nhạc phẩm nổi tiếng từ hơn 60 năm trước, mà là năm tôi mới lên mười bẩy. Tôi xa
Hà Nội cũng không được như người đó “khi vừa biết yêu” mà là tôi chưa
hề biết yêu và thật lòng cũng chẳng biết có ai đó đã yêu tôi (!)?. Tôi xa Hà
Nội cũng không vì một biến cố trọng đại của chung xã hội hay của riêng gia đình
tôi mà chỉ là một duyên cớ rất đời thường: Thi được một suất học bổng sang Sing
học tập. Do vậy, khi nhận được giấy báo phải xa Hà Nội, trong tôi đã cuộn sóng
những niềm vui sướng suốt cả hai tháng trời chờ đợi. Chỉ đến khi ngồi trên máy
bay, tôi mới thấy một nỗi buồn cô đơn xâm chiếm lòng mình mặc dù chuyến bay có
đủ cả trăm hành khách. Tôi bắt đầu thấy thiếu vắng gia đình, thiếu vắng bè bạn
rồi bất chợt nhận ra cái thiếu vắng lớn nhất là một khoảng trời rộng lớn, đó là
Hà Nội quê tôi. Vâng, Hà Nội quê tôi, mặc dù nơi tôi sinh ra và lớn lên chỉ là
một con ngõ nhỏ trong lòng phồn hoa của Hà Nội, nhưng bố tôi bảo hơn 10 đời nhà
ta đã sống trên mảnh đất ngõ này, trong căn nhà nhỏ thân thương này đã được tạo
dựng và tu đi đi sửa lại cũng đã mấy trăm năm.
Học xong, đi làm cho
công ty người nước ngoài, những thiếu vắng trên càng dầy lên trong tâm hồn tôi.
Những nỗi buồn vì xa gia đình, xa bè bạn may nhờ có cái máy tính, cái điện
thoại nên nhiều lúc vẫn có thể vừa trò chuyện vừa nhìn thấy người trò chuyện
với mình. Vẫn thấy được những khuôn mặt hiền lành như Phật của ông bà nội
ngoại; vẫn thấy được nét đẹp thanh tú và giọng nói dịu hiền của mẹ cùng đôi mắt
sáng vừa hiền từ vừa nghiêm khắc và những lời khuyên ân cần của bố; vẫn thấy
được khuôn mặt ngây thơ nũng nịu của đứa em gái nhỏ luôn nhắc chị bao giò
về thì đưa em đi ăn kem Tràng Tiền nhé và vẫn thấy được những dáng vẻ
tinh anh cùng những câu nói mày tao chí tớ thân thiết chia vui chia buồn
của lũ bạn. Nhưng còn Hà Nội quê tôi trong đó có cái ngõ hẹp với ngôi nhà thân
thương của tôi thì sao mà nhìn thấy và chuyện trò cùng chúng?
Chiều cuối tuần được
nghỉ việc, sau khi đọc và trả lời hết các thư điện tử của lũ bạn gửi từ Hà Nội,
lòng tôi như một dòng sông ngập tràn nỗi nhớ nhung về chúng. Để đỡ buồn, tôi
lên net và thật bất ngờ, khi vừa mở một trang mạng thì 4 tiếng “Về quê đi mày” bật lên trước mắt tôi rồi
chúng vang lên thành một tiếng gọi vừa rất quen vừa rất lạ. Phải chăng lũ bạn
tôi, tất cả chúng nó đang hòa chung giọng thiết tha gọi tôi: “Về quê đi mày”? Nhưng chỉ mấy giây sau,
tôi hiểu ra mình đã bị ảo thanh bởi đó là tên một bài thơ của Đặng Xuân Xuyến
mới đưa lên trang Nhà văn Lê Xuân Quang hôm đầu tuần. Bài thơ ghi rõ cả tên
người bạn được gọi: Với Nguyễn Xuân Thành chứ đâu phải với tôi. Nhưng
tôi vẫn chăm chú đọc nó.
Vỏn vẹn 26 câu thơ tự
do, toàn những lời tiếng bình dị đời thường không một từ trau chuốt, bài thơ
được mở đầu bằng một lời nhắn gọi:
Mày về quê chơi đi
Thói thường khi nói đến
mấy tiếng “về quê chơi”, người ta sẽ nghĩ ngay đến chuyện về thăm nơi chôn
rau cắt rốn của mình, về cái làng ta phong cảnh hữu tình thân yêu,
nơi có triền đê, lũy tre, cánh đồng, phiên chợ… và những người dân quê cần
cù một nắng hai sương trong đó có những người ruột thịt họ hàng của ta. Nhưng
suốt bài thơ của Đặng Xuân Xuyến, ta không hề bắt gặp một cảnh vật và một con
người hữu tình nào như vậy. Thậm chí, ở cuối bài, tác giả có ghi rõ tên quê
mình là Làng Đá, một làng quê nổi danh ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên với
tích truyện ngôi chùa Đá, nhưng trong “Về quê đi mày”, tuyệt nhiên
cũng không thấy một câu, một hình ảnh, một dấu tích nào về ngôi
chùa lịch sử cổ kính có từ thời nhà Lý ấy. Mà “Mày về quê chơi đi” là
để:
Tao lại dạy mày chơi trò
trận giả
Mày lại dạy tao bóng
chuyền bóng đá
Lông nhông đầu làng cuối
ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo
Đủ trò
Hai tiếng “đủ trò” tưởng đã là hết nhưng chưa,
bởi còn thêm cái trò này nữa:
Mày khờ khạo
Tao ngây ngô
Nghéo tay cưới chung một
vợ
Bọn bạn bảo tao mày 2
thằng dở
To xác rồi đầu vẫn cứ
ngu ngơ.
Đến đây thì ta đã
rõ, “Mày về quê chơi đi” của
Đặng Xuân Xuyến không phải là lời rủ một người bạn về quê chơi mà là tiếng nhắn
gọi người bạn đó về quê để hai đứa “to xác rồi” sẽ cùng nhau chơi lại
những trò ngu ngơ thời con trẻ.
Nhưng tội nghiệp, sau
một chuỗi lời gọi bạn tha thiết ấy, hình như không nghe có tiếng hồi vọng khiến
tâm hồn nhà thơ nghẹn lắng lại. Anh lại cất tiếng gọi “Mày về quê
chơi đi” lần thứ hai rồi thở dài buồn tủi nhắc nhớ bạn về tình cảnh ly
biệt của hai đứa:
Biền biệt thế
Bặt tin như thế
Và anh kể lể nỗi
lòng nhớ thương bạn của mình:
Tao nhớ mày
Rượu tao uống chẳng say
Mỗi người đều có một nỗi
nhớ bạn cho riêng mình. Người bình dân trong Ca dao nói “nhớ bạn
chơi vơi”, thì ở đây Đặng Xuân Xuyến nói nhớ bạn “rượu uống chẳng say”.
Phải chăng đây là rượu vừa uống vừa chờ bạn về để cùng chung chén nên không thể
được phép say?
Đúng là nhà thơ không
say thât. Anh còn nhớ rất kỹ cái đêm cuối cùng trước khi bạn chia tay, giờ nói ra
vừa để bạn ở xa cùng nhớ lại vừa kín đáo gửi vào đó một hờn trách nhẹ nhàng con
người đã quên lời hẹn ước:
Đêm cuối cùng mày nói
thật hay
Khắc trong tim bạn hiền
tri kỷ
Nghéo tay tao hẹn ngày
trở lại
Hai mấy năm trời
Nước chảy bèo trôi...
Vậy mà buồn thay, vẫn
lại không nghe có tiếng hồi vọng. Quá tam ba bận, nhà thơ đành phải cố cất
tiếng gọi lần thứ ba:
Mày về quê chơi đi
Và lần này thì thôi,
không kể lể nhắc nhớ cho thêm dài lời mà chốt lại rõ ràng dứt khoát:
Về với tao. Về với thời
thơ dại
Rồi nhấn thêm:
Về đi mày
Tiếng gọi ngắn hẳn, nghe
có vẻ hụt hơi. Nhưng không, đó là chính là lời thúc giục để kèm theo câu nói
cuối cùng vừa có ý dặn dò vừa có ý răn đe:
Đừng lời nói gió bay.
Như vậy qua chữ nghĩa
rất bộc tuệch của 26 câu thơ, ta thấy “Về
quê đi mày” là tiếng một người bạn gọi một người bạn thân biệt tăm đã
lâu mau về quê để cùng nhau chơi lại đủ trò ngây ngô khờ khạo thời thơ dại. Với
tên người được gọi đã được ghi cụ thể ở đầu bài thơ, liệu đây có phải là tiếng
thực của nhà thơ gọi bạn?
Xin hãy giả tưởng, người
bạn của nhà thơ đọc được bài thơ này, nghe được lời nhắn gọi của bạn trong
những vần thơ này và lần này anh ta không “lời nói gió bay” như “Hai
mấy năm trơi/ Nước chảy bèo trôi..,” đã qua; anh ta sẽ về quê thật,
thì đôi bạn có cùng nhau sẽ sống lại “đủ trò” như tác giả đã hứa với bạn
không? Tôi tin là không, hoàn toàn không thể có lại được “đủ trò” thơ dại ấy. Làm sao có thể
tưởng ra cảnh hai kẻ đàn ông đang ở cái tuổi tri thiên mệnh, mắt đã phai
và má đã hóp về đến quê lại có thể cùng nhau:
Lông nhông đầu làng cuối
ngõ
Cướp cờ
Đánh đáo…
và khờ khạo ngây
ngô:
Nghéo tay cưới chung một
vợ?
Chính tác giả đã nói, đó
là “2 thằng dở”, theo tiếng nói ở quê anh, còn dân ngõ quê tôi Hà Nội
gọi là hai thằng rồ! Thế thì làm sao họ có thể diễn cảnh hai thằng dở, hai
thằng rồ như vậy. Người ta có thể nhớ về thời thơ dại, ôn lại kỷ niệm của một
thời vụng dại, lưu luyến đôi chút với cái quá khứ đã một đi không trở lại đó
chứ sao có thể níu kéo nó lại được, nói gì đến việc sẽ lặp lại nó thêm một lần nữa
trong đời khi ta đã thành người lớn.
Vì không thể có lại được
những trò thơ dại ấy nên “Về quê đi
mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ.
Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ
mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi
nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong tâm hồn mỗi
người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê
mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn
bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu
vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên
trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến
cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời”
thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng
anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về
quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết
ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng
gọi “Về quê đi mày” là ở
đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân
Xuyến.
Bây giờ, tôi lại mong
cái giọng hòa âm “Về quê đi mày” của lũ bạn tôi từ Hà Nội vang lên
một lần nữa. Nhưng cũng lại là vô vọng. Thay vì cái ảo thanh tôi mong muốn ấy
chỉ là mấy tiếng bip bip của điện thoại báo có tin nhắn: “Chàng nhà tao bảo, mai chủ nhật ăn bún chả nhé! Tao hỏi, đi ăn ở quán
Ôbama mới ăn hồi sang Hà Nội gần đây? Chàng lắc đầu: Không, ăn ở nhà do em làm
cơ. Mày về với tao đi, về cùng tao vào bếp rồi cùng nhau ăn như hồi xưa
hai chúng mình đã từng lăng xăng phụ mẹ tao mỗi lần bà làm bún chả ở bếp nhà
tao để chiều mồm chúng mình ấy!”
Là tin nhắn của cái Hằng
đã cùng tôi chung trường chung lớp 12 năm từ Tiểu học đến hết Trung học. Nó dịu
dàng yểu điệu như một đóa hoa đẹp lại được bà mẹ giỏi nữ công gia chánh dạy cho
nhiều thứ nên bọn tôi gọi nó là Hằng Thục Nữ. Chàng nhà nó hay chồng nó bây giờ
là dân công sở, lớn hơn nó 6 tuổi, dắt lưng mấy cái bằng học thực, bị nó đánh
sét từ khi nó mới lên lớp 10. Gã đã kiên trì ủ mầm tình yêu nó, chờ nó học xong
Sư phạm Mẫu giáo là xin cưới liền tay. Giờ họ đã có một bé trai kháu khỉnh gần
2 tuổi.
Đọc tin nó nhắn, tôi đã
toan nhắn mắng lại nó:
“Con Nỡm, mày thừa biết tao đang ở xa Hà Nội cả nghìn cây số lại thêm
cơm áo không đùa với kẻ làm thuê cho người nước ngoài, sao lại đưa cái món bún chả
Hà Nội khoái khẩu của tao ra để nhem thèm tao thế?”.
Nhưng nghĩ vui thế thôi
chứ tôi biết, con bạn thân của tôi nó đâu có nhem thèm tôi mà chính nó đang nhớ
tôi hay đúng hơn là nhớ một thoáng thơ dại của chúng tôi, những buổi tôi đến
nhà nó cùng nhau lăng xăng phụ bếp bên mẹ nó làm một bữa bún chả ngon lành…
Vì vậy, tôi không vội
nhắn lại cho nó một chữ mà đợi trưa mai, tôi sẽ mở hộp thư gửi cho nó bài
thơ Về quê đi mày của Đặng Xuân Xuyến cùng đôi dòng tản bình của
tôi để, sau khi xong bữa bún chả cho chàng nhà nó, nó sẽ đọc rồi tha hồ mà
thương nhớ thời thơ dại mới qua chưa lâu của chúng tôi.
*
DƯƠNG NINH NINH
Email: duongninhsg@gmail.com
ĐỌC ‘VỀ QUÊ ĐI MÀY’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Ha...ha...một căn bệnh
thời đại.
Có khác chi nhiều người
đâu?! Tác giả thèm gặp lại bạn xưa, thèm sống lại kỷ niệm xưa, thèm gặp lại
mình... của ngày xưa!
“Mày về quê chơi đi”, tiếng gọi luyến tiếc, năn nỉ đến mấy lần, làm
toàn bài thơ cứ đau đáu, trầm buồn nhưng lạ là không bi lụy.
Bài thơ này không thấy
tác giả gọi rông nữa vì tình cảm của “Về Quê Đi Mày” là nghiêm túc thật sự,
thông qua một tình bạn ngây ngô từ thời thơ dại để làm phương tiện cho vấn đề
đáng nói hơn đó là tình yêu quê hương đất nước. Có như vậy người đọc mới thấy
thú.
Cám ơn tác giả Đặng Xuân
Xuyến đã để đất cho người đọc thấy hứng, thấy tò mò, rồi tự mình khám phá tác
giả, khám phá mình vì nương theo ý thơ lúc nào không biết.
Thế mạnh của tác giả nằm
ở lối chơi chữ, nếu mê mẩn thì câu chữ cứ dễ dàng tuôn ra, cảm xúc cũng vỡ oà
làm tứ thơ cô đọng, xúc tích, dễ thăng hoa cùng tác giả.
Cháu tôi vừa hỏi: - Ông ơi thơ là gì mà sao ông và mọi người cứ
chúi chụi vào nó vây??.
Tôi trả lời: - Thú thật ông cũng không biết thơ là gì vì
nếu biết được, định nghĩa được thì ông đã ngồi trên toà sen văn học rồi chứ
không phải cái danh xưng: hội nhà văn nhạt nhẽo, đua đòi như bây giờ.
Bài thơ cứ mạch đơn giản
như thế, dân dã như thế, cô đọng, xúc tích hóm hỉnh như thế kéo dài toàn bài.
Hay!
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ dán tem "thơ
bụi'. (1)
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười tim héo.
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở.
Giả ngố
Mượn chữ bày trò
Vác thơ
Tưng tửng.
................
(1):
Chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Khôi
*.
Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “VĂN THÙY DỊ NHÂN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi đã được đọc thơ và một số bài viết ca ngợi nhà
thơ Văn Thùy in báo và đăng trên trang mạng rộng rãi, nhưng chưa một lần gặp
mặt. Tình cờ một ngày đầu xuân năm nay (tháng 3/2017) tôi sang Ân Thi - Hưng
Yên thăm nhà người bạn và gặp Văn Thùy cũng có mặt trong cuộc vui không hẹn
này. Thì ra anh là người cùng quê với anh bạn trẻ tôi quen. Còn Văn Thùy không
biết hàng ngày và ở những cuộc gặp gỡ khác anh ăn vận ra sao. Trước mặt tôi lúc
này với chiếc nón nan rộng vành và tấm áo dài thâm phai màu, chưa thể nhìn được
khuôn mặt, bộ râu cùng mái tóc muối tiêu tung tỏa … nom anh như nhân vật dấu
mặt trong những bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung từ đâu xuất hiện. Có lẽ hình ảnh
nón nan với áo trùng than này đã tạo cho người đời nhìn nhà thơ Văn Thùy thành
“Dị nhân” đi kèm với tuổi tên chăng? Tôi quan sát anh khi xếp thứ “áo nón
phường tuồng” đi, là một ông lão tuy đã râu tóc phai màu nhưng còn nhanh nhẹn,
đôi mắt sáng, bộ comple tôn thêm vẻ ngoài đĩnh đạc của một thi nhân khi hai tay
đón lấy chén trà… Tan cuộc, anh tặng tôi hai tập sách dày dặn: Tập thơ “Mảnh ghép của thơ Việt” và tập “Thư pháp” có nhiều bức vẽ chữ cho chính
những câu thơ anh tâm đắc đã gửi cùng đời. Và anh khoe đã bán được hơn “BẨY
CHỤC TRIỆU ĐỒNG” sau hàng tháng bán thơ, vẽ thơ ở Văn Miếu - Hà Nội…
Ngày tháng trôi đi… chiều qua tôi đọc được bài thơ
của Đặng Xuân Xuyến vẽ chân dung của người thơ Văn Thùy đã gợi lại những câu
thơ và nét thư pháp bâng khuâng của con người xương thịt “Văn Thùy” khi tiễn
tôi ở Ân Thi ra về thêm một đoạn đường, không nón để râu tóc được tự do bay
trong gió. Nhưng khi sống cùng thơ trong bức chân dung của Đặng Xuân Xuyến vẽ
anh thì say thơ, mê thơ đến “cuống quýt”,
“lử đử” như đã bị thơ lấy mất đi hồn
vía, lấy mất đi chính cả cuộc đời đã hơn bẩy mươi năm bút mực dốc cạn mà không
biết có phút nào nhận ra mình:
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ, dán
tem “thơ bụi”
Câu thơ như thể nét cắt sắc lẻm, đau tận xương tủy
cho những ai đã đi cùng thơ sắp hết đời mình với bao mơ mộng chứa chan khi cầm
bút từng mong, không thi hào thi bá thì cũng để lại chút danh thơm như Nguyễn
Công Trứ từng ghi “Đã sinh ra ở trong
trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Giờ nhìn lại, còn lại:
“Dăm ba bài thơ dán tem
“thơ bụi”
Đau hơn, cuộc sống bình thường, đời thường no đói,
giàu nghèo, sang hèn gì ai cũng có một tổ ấm vợ, con xum họp mới là đời người,
mới là cuộc sống… Người thơ ở đây không biết còn lý do gì ngoài sự mê đắm thi
ca hay chỉ vì “Dăm ba bài thơ dán tem thơ
bụi” đã đổi cả hạnh phúc êm ấm gia đình:
Thiếu vợ
Thiếu con.
Viết đến đây, hình ảnh Văn Thùy để đầu trần phóng
xe tiễn tôi thêm một quãng qua thị trấn Ân Thi bỗng thoáng hiện về trong trí
nhớ: Một người hơn bẩy mươi tuổi còn tháo vát nhanh nhẹn như vậy, anh như tự lý
giải cho những câu thơ của Đặng Xuân Xuyến, lý giải cuộc đời này:
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở
Đã thế thì anh việc gì phải: Giả ngố/ Mượn chữ bày
trò/ Vác thơ/ Tưng tửng như Đặng Xuân Xuyến đã
khắc họa? Bởi tất cả từng trải, mất mát và bao nhiêu nỗi buồn đau của giấc mơ
bệnh lý do nàng thơ ám ảnh suốt cả đời người đã làm cho con tim khô héo, có thể
phẩy tay “Thây kệ thế gian…” thì con
người Văn Thùy cũng đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào đời với cái nhìn khinh bạc thật
sự, không cần “Giả ngố”, không cần
phải “Mượn chữ bày trò” anh đã đem
chính những câu thơ mình, dùng thêm “hoa
tay thư pháp” vẽ thành tranh trước Văn Miếu, Quốc Tử Giám bán cho bàn dân
thiên hạ. Liệu có bao người làm thơ dám đem ra bán giữa chợ đời như anh.
Qua bài thơ Văn
Thùy “Dị nhân”, Đặng Xuân Xuyến đã thành công ở những nét đặc tả một dạng
thi sĩ số phận lận đận trong cuộc sống cơm áo con người.
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh
Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
VĂN THÙY DỊ NHÂN HAY KỲ NHÂN
Đọc Văn Thùy “Dị Nhân”
của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết
về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn
Thùy “Dị Nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai
gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là
thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người
là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà
như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “Dị Nhân” là bài thơ như
thế.
Bài thơ không hề kể lể,
chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”...
Này nhé:
Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu đổ.
không tả trời, không tả
đất, không tả người... mà hình dạng thi nhân đã ngất ngưởng bước ra. Cứ cái đà
đồng đảo này thì thi nhân sẽ “kinh thiên - động địa” chẳng khác Nguyễn Công
Trứ, chẳng kém Tú Xương, nhưng không, tác giả đã cho người đọc biết mình nhầm
để tỉnh ngay khi đọc tiếp đến câu thơ nhẹ nhàng mà thôi thúc, ngắn gọn mà súc
tích, tĩnh mà tỉnh:
Cả đời
đánh đổi
được gì?
Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt
lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là
sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi”
đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ
bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?”
song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó: “Dăm
ba bài thơ dán tem thơ bụi”.
Rồi tiếp:
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng cười
tim héo
Ôi đau quá! Buồn quá! Tác
giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo”
bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy
nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán
phục và công nhận cái giá của sự say xưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi
ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén
lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân”
được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.
Tác giả thơ lại tiếp tục
điềm tĩnh, công tâm, phán nhận: “Đời lắt
léo/ Phận eo sèo” rồi nhập tâm nhập thần mà nói hộ tâm trạng, bản lĩnh của
Văn Thùy “dị nhân”: “Thây kệ thế gian úp
mở”.
Những câu thơ: “Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng
tửng” được cất lên bằng giọng
điệu bất cần và hài hài, đã khắc họa nổi bật lão thi sĩ với hình ảnh ngạo ngạo,
ngông ngông, dị dị mà tài hoa và bản lĩnh. Thử hỏi, không tài hoa, không bản
lĩnh thì làm sao lão thi sĩ có thái độ ngông ngạo, bất cần: “Thây kệ thế gian úp mở”? Không tài hoa,
không bản lĩnh thì lão “dị nhân” có thể “mượn
chữ bày trò” khiến thiên hạ phải mắt tròn mắt dẹt?! Hình ảnh thi sĩ “vác thơ/ tưng tửng” khiến ta liên tưởng
nghĩ tới hình ảnh Đức Chúa Giê Su vác cây thánh giá đi khắp cõi truyền giảng
đạo, cứu nhân độ thế. Đọc đến đây, đến câu cuối bài thơ thì cái dáng dấp hình
thể, cái thần thái hồn vía của lão thi sĩ dị nhân ngất ngưởng, ngông ngạo,
không phải là Văn Thùy “dị nhân” thì là của ai mà nhập hồn nhập bóng này được?!
Văn Thùy xứng lắm chứ. Chân dung này thật xác thực và sống động. Nó cựa quậy
đồng đảo lắm chứ. Tôi đồ rằng, tác giả vẽ chân dung này phải là người có tài
quan sát và tinh tế lắm mới có thể khắc họa “hô sĩ nhập hồn” chân dung quậy sĩ dị nhân Văn Thùy thêm kỳ kỳ, ngộ
ngộ.
Xin thưa, vì tôi cũng có
quen biết Văn Thùy, có biết chút ít về ông: Ông là người tài hoa (chụp ảnh
siêu, vẽ họa giỏi), thơ hay và chí khí tang bồng hồ thỉ nhưng phần gia cảnh thì
hình như hơi thiệt thòi, công danh cũng chẳng thuận... Nên tôi đánh giá bài thơ
Văn Thùy “Dị Nhân” này là bài khá, vì tác giả không kể lể kẻ vẽ mà đã
khảo dựng được chân dung một con người thơ thật thơ, cho thơ tử vì đạo...
Nếu cho phép tôi được góp
ý thì tác giả bài thơ vì tính cẩn thận và thực thà quá nên dễ gây cho đọc giả
cảm tưởng tác giả be chắn tỉ mẩn, bày biện chữ nghĩa. Trong chữ phải chứa đủ
tình - cảnh - sự cho suy tưởng hình tượng thơ sống động. Thơ càng vô lý càng
tuyệt, càng chủ quan càng hay. Thơ phải là phi lý, là ảo, là mở mang khơi gợi.
Những câu thực thà máy móc đã làm giảm chất say của thơ. Ví dụ như câu thứ 3: “Say thơ như điếu đổ” thì chữ “say thơ” chưa đắt vì chính 2 câu “Cuống quýt với thơ/ Lử đử cùng thơ” đã
thấy cái say rồi còn nhắc tới “say thơ”
làm gì? Giá như tôi, tôi sẽ sửa là “Biêng
biêng điếu đổ”. Hoặc câu “Dăm ba bài
thơ dán tem thơ bụi” thì cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều không sát với Văn
Thùy. Thực thì người đời - làng thơ đã công nhận loạt bài, phong cách thơ Văn
Thùy là “Thơ bụi” rồi nên chăng sửa
là “Loạt bài thơ bụi”. Hay câu 15: “Giả ngố” thật quá đã tố sự nghiệp, tố
chân dung “dị nhân”, làm giảm hình tượng đẹp của 2 câu kết mà chính tác giả
Đặng Xuân Xuyến đã kỳ công tạo dựng: “Vác
thơ/ Tưng tửng”. Đành rằng Văn Thùy
biết và cảm rất rõ những mất mát của đời mình và ông phải “giả ngố” để mua vui,
để tự xoa dịu nỗi đau của đời nhưng đấy là đời, là cuộc sống thực của Văn Thùy
nhưng khi vào thơ sao Đặng Xuân Xuyến không cho là “Ngố ngố” hoặc “Quá ngố”
để hình ảnh Văn Thùy “dị nhân” bớt đời đi để thơ hơn?!
*
Hà Nội, 28 tháng 04.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã
Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Email:
nguyendanghanh1234@gmail.com
ĐƯỜNG DÀI
- Yêu
mến tặng Huyền Thương -
- Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ lâu.
- Chúng mình đến chẳng được đâu
Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì
Thôi thì cứ để em đi
Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân
Anh dù vì nghĩa, chả cần
ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn
Trái tim
sợ lắm bước dồn
Thôi.
Em về.
Kẻo lời đồn
khổ anh
Nhà nghèo
duyên phận mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non phận hèn
Dằn lòng rồi cũng phải quen
Thôi.
Em về
kẻo
mờ đèn
phố xa
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài.
*.
Hà Nội, đêm 13 tháng 05.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
BÀI THƠ “ĐƯỜNG DÀI” MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP
ĐƯỜNG DÀI, bài thơ mới
nhất của Đặng Xuân Xuyến không dài nhưng đọc xong có cảm giác vừa đọc một
chuyện tình buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Bài thơ chỉ có 3 lời thoại nhưng đã
hiện lên đầy đủ không gian, thời gian, hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không
gian là một nơi trong ngôi nhà của chàng trai, không quan tâm cụ thể đó là
phòng khách, vườn hoa hay ban công hoặc nơi nào trong ngôi nhà đó. Thời gian là
khoảng “Trời đã buông rèm từ lâu”
nghĩa là sau lúc hoàng hôn và trời đã tối rồi. Nhân vật là một chàng trai với 2
lời thoại và một cô gái duy nhất chỉ có một lời. Không biết cô gái đến nhà
chàng trai vào lúc nào và họ đã chuyện trò với nhau đã bao lâu, cũng không cần
biết họ đã nói với nhau những gì bởi chuyện của trai gái với nhau từ nghìn đời
nay đều là những chuyện đâu đâu, từ chuyện trên trời dưới biển đến chuyện thời
tiết gió mưa, từ chuyện hoa trong vườn nhà đến cây ngoài đường phố, từ chuyện
nỗi lòng mình đến chuyện nỗi lòng ai đó… nhưng tất cả đều huyền diệu muôn màu
muôn vẻ diễm tình. Nhà thơ chắc cũng biết thế nên cũng đã không thừa chữ để
viết dông dài.
Nhưng bây giờ hiển nhiên
là hoàng hôn đã tắt vì “trời đã buông rèm
từ lâu” và cô gái xem chừng tỏ ý muốn ra về khiến chàng trai vội vã van xin
nằn nỉ:
Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ
lâu.
Cái hay trong câu nài nỉ
này cho ta thấy, có thể cô gái đã nói, trời tối rồi, em về đây kẻo muộn. Nhưng
chàng trai lại vin vào đó để bảo nàng: trời tối đã lâu rồi, em về làm gì, anh
không muốn em trong “cảnh khuya thân gái dặm trường” nên anh mong “Ở lại đi em”! Và chàng đã được cô gái
trả lời:
Chúng mình đến chẳng
được đâu
Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì
Một câu nói dấu bên
trong một hơi thở nhẹ buồn báo hiệu những cảnh ngộ éo le của đôi lứa. Chúng
mình không thể đến được với nhau đâu, anh bảo em ở lại cùng anh trong đêm nay
có khác gì khuấy sóng bể dâu.
Và để chứng minh rằng
mình nói đúng, cô gái lần lần nhắc chàng trai nhớ ra những cảnh ngộ éo le đó.
Trước hết, cô không ngần
ngại tự bảo mình không còn trẻ trung gì nữa:
Mười lăm năm nữa còn gì
nét xuân
Hiểu theo cách nói của
dân gian, hẳn cô đang chừng ba mươi tuổi và trong vòng 15 năm nữa trong cô sẽ
không còn một nét xuân thì nào nữa. Thế thì ở lại đêm nay để rồi sẽ đến với
nhau làm gì khi em đã là gái đang về già.
Và để làm rõ hơn cho lý
do từ chối này, cô tiếp:
Anh dù vì nghĩa, chả cần
ngó ngơ chi lũ dở đần dở
khôn
Trái tim
sợ lắm bước dồn
Thôi.
Em về.
Kẻo lời đồn
khổ anh
Em cảm ơn anh là người
tình nghĩa, chả ngại gì miệng tiếng người đời với biết bao kẻ dở đần dở khôn
nhưng em không muốn anh sẽ phải khổ vì những lời đồn đại thị phi không đẹp
ấy.
Là bạn gái của chàng
trai, chắc cô gái đã biết có lần anh đã mượn thơ để nói rằng:
Sợ gì danh phận hư hao
Sợ gì thiên hạ trông vào
nhỏ to
Sợ gì nhỉ? Chẳng phải
lo!
Trai đơn gái lẻ … nhỏ to
bằng thừa!
Và vì đã biết chàng là
thế, cô phải nói ra luôn cái lý do nữa cho thêm sức nặng. Ấy là thân phận của cô:
Nhà nghèo/ duyên phận mỏng manh
Và thân phận của chàng: Anh dù chẳng vợ còn con
Nên em biết anh yêu em
và em cũng yêu anh. Nhưng cạp hai cảnh đó với nhau thì sao cho được. Vì vậy, em
chỉ xin: Em neo chữ nghĩa chữ tình với
son
Vâng! Em xin nợ anh chữ
nghĩa chữ tình và chữ sắt son. Nhưng em chỉ có thể cắm chặt những chữ ấy vào
đáy lòng, không để cho nó trôi đi còn đến với anh thì không thể được, vì: Cố chen em chỉ nước non phận hèn
Chen vào cuộc sống của
anh, dù nay anh không còn người vợ cũ nữa nhưng còn con anh, làm thế khác nào
phá vỡ sự bình yên trong ngôi nhà này, phá vỡ hạnh phúc con anh đang có và làm
thế, khác nào tự em chuốc lấy cái phận hèn vào mình.
Dứt lời, cô gái quyết
định:
Dằn lòng rồi cũng phải
quen
Thôi.
Em về
kẻo
mờ đèn
phố xa
Không thấy có nước mắt
nhưng câu thơ có 8 tiếng mà xẻ ra thành 5 nhịp nghe nấc lên những
tiếng nghẹn ngào khi cô gái dằn lòng mình để nói lời cuối và khi cô tự vẽ nên
cái cảnh lạc lõng cô đơn buồn tủi của mình khi sẽ ra về trong cảnh “mờ đèn phố xa”.
Cách viết câu thơ 8
tiếng thành 5 dòng này có thể coi là một cách tân rất thành công của Đặng Xuân
Xuyến về cách xẻ tiếng của câu thơ lục bát ra thành nhiều nhịp để diễn tả tâm
trạng trữ tình của nhân vật trong thơ. Thành công này không chỉ một lần trong
lời thoại của cô gái mà còn trong 2 lần lời thoại của chàng trai.
Nếu như khi nằn nì bạn
gái đừng về, cả hai câu thơ chỉ bị cắt thành thành 4 nhịp:
- Đừng mà.
Ở lại đi em
Ngoài kia
Trời đã buông rèm từ
lâu.
Thì trong lời thoại
cuối, khi cô gái nhất quyết dằn lòng ra về, câu lục xẻ ra 3 nhịp và câu bát xẻ
ra 4 nhịp
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài
Khiến câu nói như mắc
nghẹn trong cổ họng nhưng phải cố nói cho xong trong nỗi đau đành khoanh tay
đón chịu duyên phận và nghĩ tới cảnh người con gái mình yêu sẽ lầm lụi ra về mà
không thể làm gì hơn một việc là chỉ đưa một chiếc khăn để nàng quấn cho đỡ
lạnh trên ngõ xa đường dài trong khi chính chàng đang thấy lòng mình tràn ngập
hơi lạnh giá ở trong căn phòng sắp vắng bóng nàng, đúng như cảnh trong thơ Thế
Lữ từ thế kỷ trước:
Ai lau nước mắt cô mình?
Dưới đây duy có một mình
ta thôi.
Cầm khăn lòng những bồi
hồi,
Lệ ta cũng chửa ai người
lau cho.
Có thể nói, ĐƯỜNG DÀI là
một bài lục bát hay nhất trong các bài lục bát của Đặng Xuân Xuyến mà tôi đã đọc.
Tiếng thơ dịu êm như từng hơi gió nhẹ thổi nỗi buồn của đôi trai gái hòa tan
vào trái tim người đọc.
Trong bài thơ, ta thấy
cô gái rất nặng lòng với chàng trai, hẳn trong lòng cô cũng âm vang nỗi tiếc
khi phài về:
Còn đêm nay nữa, anh đi,
Lượng vàng không tiếc,
tiếc khi ngồi kề
(Ca dao)
Lượng vàng không tiếc
nhưng tiếc những khi ngồi kề bên anh nên em sẵn sàng cam chịu sẽ neo tình yêu
của anh vào tận đáy lòng nhưng không thể sống lứa đôi cùng anh vì lo sợ đường
dài sẽ còn có biết bao ngăn trở.
Chàng trai cũng rất yêu
cô gái và hẳn chàng rất biết:
Còn đêm nay nữa, mai về
Lạng vàng không tiếc,
tiếc kề môi son
(Ca dao)
Lạng vàng không tiếc
nhưng tiếc những giây phút được kề môi son nên anh tôn trong những suy nghĩ của
em mà chỉ dám ngỏ lời muốn níu kéo:
Đừng mà.
Ở lại đi em
Nhưng rồi anh vẫn ngậm
ngùi để em được tự giải thoát:
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Dù anh đau xót quặn lòng
biết rằng em sẽ lạnh lùng buồn tủi trên ngõ xa đường dài đêm nay.
Ôi! ĐƯỜNG DÀI! Đó đâu
chỉ là lối đi về của em tối nay mà đó chính là đường đời còn thăm thẳm nhiều hệ
lụy trắng đen mà anh và em, chúng ta rất dễ dàng bị đánh gục trong khoảnh khắc
khi chúng ta cảm thấy bất lực không vượt qua được những trở ngại trên con đường
dài đó.
Tôi, người yêu bài thơ
này không có lạng vàng nào để tiếc nhưng rất tiếc cho cô gái và rất tiếc cho cả
chàng trai.
Với cô gái, ta hãy bình
tâm xem lại hai lý do chính cô gái đưa ra để em về kẻo phố xa đèn mờ.
Lý do thứ nhất: Mười
lăm năm nữa còn gì nét xuân
Tiếc cho cô sao không
nhớ tới cô gái “Phiếu hữu mai” (Mai rụng) trong Kinh thi, một cô gái muộn
chồng, nhưng trong trái tim luôn khát khao mong sớm đạt được nguyện ước “có
chàng, có thiếp, như đũa có đôi”:
Mai em đã bắt đầu rơi
Mười phần hương sắc chỉ
vơi ba phần
Ai người quân tử cầu
thân
Trầu cau ngày tốt Tấn
Tần kề vai
Một tình cảm thật táo
bạo tựa như “cọc đi tìm trâu” nhưng thật đáng quý biết bao cô gái “Mai rụng”
đó. Còn cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bây giờ đang ngồi kề bên chàng trai
rất yêu mình, năn nỉ cô ở lại cùng chàng nốt đêm nay nhưng sao cô cứ một mực
đứng lên vì sợ đường dài
Lý do thứ hai:
Nhà nghèo
duyên phận mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ
tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non
phận hèn
Ôi sao cô lại yếu lòng
đến thế? Tiếc cho cô không nhớ ra cô gái trong “Bần nữ thán”. Cô ấy cũng rất
nghèo và vì nghèo nên chẳng được ai ngó ngàng tới, mặc dầu cô ấy thông minh,
giỏi và đẹp:
Vì một nỗi thua tiền,
thua bạc,
Hóa cho nên thua sắc,
thua tài
Nhưng sau bao lời tâm sự
buồn than, cô gái nghèo ấy đã nhận ra ngay rằng mình chỉ: Giận duyên nói bấy
nhiêu lời. Rồi vững lòng tin vào phẩm giá của mình, của một cô gái nhà
nghèo trước cảnh đời:
Ngọc lành còn đợi giá
cao,
Rồng còn uốn khúc ở ao
đợi thì
Còn cô, cô gái trong thơ
Đặng Xuân Xuyến, ngọc lành đâu còn phải đợi giá cao? Chàng trai ngồi kề bên cô
đang năn nỉ níu kéo cô ở lại bên chàng, sao cô vẫn mặc cảm về “Nhà nghèo duyên phận mỏng manh” của mình
mà dằn lòng đứng lên như thế?
Với chàng trai, chàng
yêu nàng đến thế mà sao lại cố nói cho xong những lời nghẹn đắng trong lòng:
- Ờ ...
Thì...
Em trở lại nhà
Khăn đây
em quấn
Ngõ xa
đường dài
ĐƯỜNG DÀI! Sao lại sợ
đường dài đến thế mà không nhớ tới câu: Đường
dài, ngựa chạy biệt tăm,/ Người thương có nghĩa, trăm năm cũng về
Để mà níu bằng được đôi
chân cô gái ở lại nốt đêm nay cùng nhau thỏa nguyện: Tơ tằm đã vấn thì vương,/ Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.
Chính vì thế, bài thơ
ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến có thể coi như một chuyện tình nhỏ bé và đơn giản
nhưng chan chứa nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất đẹp xuất phát từ hai trái tim
sâu thẳm yêu nhau nhưng chưa đến được với nhau thành đôi thành lứa vì chưa bước
qua được những rào cản. Một chuyện tình buồn đẹp như câu thơ của nhà thơ Hồ
ZDếnh: Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở (Ngập
ngừng).
Câu thơ cụ ZDếnh hay quá
khiến tôi hy vọng rằng, những lời của chàng trai và cô gái trong bài thơ ĐƯỜNG
DÀI của Đặng Xuân Xuyến chỉ là mấy câu buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Rồi đêm nay
sẽ qua, ngày mai đẹp ánh ban mai sẽ đến, họ sẽ lại ngồi kề bên nhau để cho
chuyện tình buồn đẹp của hai người sẽ mất đi chữ buồn mà chỉ còn lại chữ đẹp.
*.
Sài Gòn, 15 Tháng 05.2017
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy,
Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“ĐƯỜNG DÀI” - CÂU CHUYỆN TÌNH ĐƯỢC KỂ RẤT THẬT
Lâu rồi mới được đọc bài
thơ thật đến vậy. Cách gieo vần thoáng khoát, lối ngắt câu hợp lý với tâm
trạng phiêu phiêu, bảng lảng, trăn trở, níu kéo, giằng xé đã chạm vào nỗi riêng
tư của từng người đọc.
Vừa xem vừa lo hết và
lại mong xem kết cục câu chuyện thế nào.
Ta cũng hổn hển, gấp
gáp, luống cuống theo tác giả từ mạch thơ. Hình như tác giả viết một hơi, sợ
không ghi kịp ý đang dồn dập tuôn trào trong tâm thức.
Đừng mà ở lại đi em
Ngoài kia trời đã buông
rèm từ lâu.
Bắt đầu từ lời cáo từ
giã biệt. Tác giả cuống quýt lo cho cái buổi vui ngắn chẳng đầy gang trôi mất!
Chàng vội năn nỉ, níu kéo chỉ sợ Em đi mất nên nêu một lý do chẳng
thuyết phục tý nào.
Ngược lại, trong tình
yêu thì người nữ luôn tỉnh táo, thực tế hơn:
Chúng mình đến chẳng
được đâu
Anh còn khuấy sóng bể
dâu làm gì
Thôi thì cứ để em đi
Mười lăm năm nữa còn gì
nét xuân
Cô gái cũng nói vậy thôi
để giải phóng tình thế dùng dằng khó dứt nhưng cũng đầy ắp tiếc nuối và muốn ở
bên nhau mãi mãi.
Con người vốn hay mâu
thuẫn, tự tạo phức tạp cho mình, cho hoàn cảnh để rồi đi cũng dở, ở không xong.
Với cách gieo vần khoáng
thoát, cách nhả câu hợp lý cùng tâm trạng rất tâm trạng làm cho người đọc bị
cuốn theo lúc nào không biết.
Càng lúc lời cô gái càng
tha thiết, phân tích càng có tình có lý:
Anh dù vì nghĩa chả cần
Ngó ngơ chi lũ dở đần dở
khôn
Trái tim sợ lắm bước dồn
Thôi em về, kẻo lời đồn
khổ anh.
Khen anh đấy, vì em mà
chẳng thèm để ý đến cái lũ người chả giống ai cả. Chính em cũng giống anh, vẫn
thấy khó quyết định đi hay ở lại. Do đó đến lượt em nêu ra lý do cũng kém
thuyết phục: sợ lời đồn! Ai đồn? Sao lại khổ anh khi anh đang vui những phút
như bất tận thế này.
Và EM ở đây là ai nhỉ?
Càng cố tìm hiểu càng thấy bảng lảng, liêu trai! Mình cứ thấy EM phảng phất,
bồng bềnh, mờ nhân ảnh. Dù vậy, nhưng khối tình lại rất thật, thật như dao cau
cật nứa, sắc lẻm, ngọt ngào làm người đọc thấy như tứa máu......
Cuộc gặp gỡ nghe ra đượm
sắc liêu trai, mộng mị nhưng rất nặng tình người. Người đọc bất giác thèm được
như vậy. Thương lắm, yêu lắm, gần lắm mà cũng xa lắm. Thì ra dặm trường là vậy!
Từ cõi thực đến cõi hư vô có một khoảng cách cảnh giới!
Đọc đến đây bỗng thấy
thương tác giả, thương cô gái và... thương mình.
Thế giới ta đang sống là
thế giới lẫn lộn đồng cư của hư thực, yêu ghét, tốt xấu, hạnh phúc và bất hạnh.
Thôi thì hãy gạn đục khơi trong, hãy tử tế, nhìn ra quy luật để mà hoàn
thiện.
Cô gái còn nói nữa, đã
chào em về mà cô mãi vẫn chưa dứt nổi:
Nhà nghèo duyên phận
mỏng manh
Em neo chữ nghĩa chữ
tình với son
Anh dù chẳng vợ còn con
Cố chen em chỉ nước non
phận hèn
Dằn lòng rồi cũng phải
quen
Thôi em về kẻo mờ đèn
phố xa ...
Cảm xúc vỡ oà.
Rõ ràng âm dương cách
biệt nhưng tình người chan chứa, thật đáng trân trọng. Thà gần hình bóng còn
hơn vạn lần xa mặt cách lòng.
Bất giác không còn
khoảng cách âm dương nữa. Một cách sống, một nghĩa tình đã neo nhau lại bởi
nghĩa, tình son sắt.
Ờ thì em trở lại
nhà
Khăn đây em quấn ngõ xa
đường dài .....
Đến đây tác giả mới nói.
Câu nói như nghẹn ngang cổ họng, lo lắng cho khoảng cách em đi ..
Bài thơ khép lại rồi mà
tôi vẫn thổn thức, buồn vui lẫn lộn nhưng rõ ràng thấy mến tác giả vì sự thật
lòng qua tiểu phẩm hay và nặng.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
LỠ
Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng
Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông
Thầm thĩ với người từng vun mộng
Trăng kia bến cũ có thay dòng?
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống
Môi kề môi ấy có lạ không?
Và đã khi nào mỏi mòn trông
Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?
Tôi biết, nhưng thôi, chỉ rầu lòng
Ái tình cố níu cũng bằng không
Lòng người còn thẳm hơn sông rộng
Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.
*.
Hà Nội, chiều mưa 19.08.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
May thay tác giả bài thơ
“Lỡ”
được sinh ra ở thời đại những làng quê Việt Nam còn nhiều mơ mộng, còn có những
bến đò gợi niềm cách trở cho kẻ ở người đi. Phương tiện để nối lại đôi bờ chỉ
là những con đò tay người chèo lái… Cuộc sống chậm đến nỗi “Chỉ lỡ nhịp chèo”
mà nhiều khi tình duyên lỡ dở, biệt ly, để bây giờ làng quê, thành thị nối liền
nhau, qua sông đã có những cây cầu vững chãi vươn thẳng nhịp nối đôi bờ cho
những dòng người, dòng xe lăn bánh bon bon, chớp mắt đã được cầm tay, đã được
kề tựa bên nhau không còn phải phấp phỏng ngóng chờ mà tác giả vẫn có được
những câu thơ trở về trong mộng:
Tôi đắm hồn tôi nơi bến
vắng
Thấy lại cả vầng trăng
“say lướt khướt rớt đáy sông” vì hồn người lúc ấy đắm say “thầm thì với người
từng vun mộng”. Bây giờ lấy vợ, cưới chồng tuy thủ tục rườm rà nhưng có lẽ
người ta đã mơ ước khác xưa, ước muốn khác xưa. Có đôi lứa nào đến với nhau:
“Thầm thĩ với người từng vun mộng”. Cái thực bây giờ đã thay cái mộng. Còn đôi
lứa nào giờ yêu nhau như câu thơ Xuân Diệu từng gợi lên vẻ đẹp tình yêu sống
mãi muôn đời: “Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Yêu mà không nói được vì sao
tôi yêu em. Vì sao em yêu tôi, thời nay chắc không còn nữa. Khi viết câu thơ
“Trăng kia bến cũ có thay dòng” hẳn tác giả là người có tình yêu bền chặt. Đời
thật tất cả đã đổi thay. Sông, người ta đắp đập, chặt khúc làm thủy điện. Bây
giờ còn ai ngẩn ngơ “Cầm tay đi dạo dưới trăng vàng”. Chưa kể thứ tình yêu thác
loạn nơi đèn màu, nhạc Rốc nơi phố thị, vầng trăng quê đã bị bỏ rơi từ đã lâu
rồi như câu thơ một nhà thơ viết thời đương đại:
Trăng đã mất từ khi Hàn
đi mất
Trăng còn đây chỉ là bản
photo
Hàn là thi sĩ Hàn Mặc
Tử, thi sĩ sống cùng trăng, sống với trăng bây giờ không còn. Vầng trăng ta
thấy đây chỉ là “vầng trăng photo” giống hệt vầng trăng muôn xưa, nhưng không
phải, bởi còn đâu thứ tình yêu thật sự trong lành để nuôi sống mơ mộng cho
trăng…
Nhưng nghĩ lại, giữa đời
sống bẩy tỷ người trên trái đất, chỉ có một vành trăng mơ mộng mà thôi, ai còn
có nó, giữa bao bậm trợn, ham hố, thèm muốn ở đời, tác giả là một con người
hạnh phúc, vẫn sống với vầng trăng đẹp để mơ chung thủy với người không chung
thủy với mình. Hơn hết để còn những câu thơ như “kẻ tâm thần không chịu tỉnh”
như thế này:
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ
xuống
Môi kề môi ấy có lạ
không?
Bài thơ “Lỡ” sẽ đem đến
cho ai chịu thiệt thòi lỡ dở, thứ hạnh phúc suốt đời vẫn có một tình yêu tươi
đẹp, sáng trong.
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh
Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
CẢM NHẬN BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tác giả bài thơ “Lỡ”
quê ở Hưng Yên, bên kia bờ sông Hồng đối diện với dải đất ngoại thành Hà Nội
bên này. Ngày xưa khi chưa có những cây cầu hiện đại bắc qua, làng mạc dọc theo
bờ sông suốt miền châu thổ Bắc bộ, đâu cũng có bến đò ngang… Bến nước, con đò
là nơi nối nhịp thông thương qua lại giữa hai bờ Nam, Bắc. Bao nhiêu đôi lứa đã
gặp gỡ qua ánh mắt nụ cười trên bến, dưới thuyền mà nên duyên chồng vợ, gắn bó
keo sơn, đến đầu bạc răng long. Tác giả bài thơ có lẽ là một người đã được
hưởng thứ hạnh phúc dân dã trong lành một thuở để có những câu thơ hoài niệm về
những kỷ niệm mà cuộc sống tất cả đã đổi thay, không còn gặp ở tình yêu tuổi
trẻ bây giờ:
Tôi đắm hồn tôi nơi bến
vắng
Lướt khướt trăng vàng
rớt đáy sông
Thầm thĩ với người từng
vun mộng
Trăng kia bến cũ có thay
dòng?
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ
xuống
Môi kề môi ấy có lạ
không?
Giờ không còn bến với
đò, nhịp sống hối hả trên những cây cầu lồng lộng vắt ngang trời xanh dẫn về
những làng quê cũng nhà tầng, cũng tường cao cửa kín, chưa kể nhiều nơi người
ta đã lắp đặt những con mắt điện tử (camera) ma quái rình mò, giăng mắc ngày
đêm, ta được đọc những câu thơ như giở lại những kỷ vật cũ càng: “Tôi đắm hồn
tôi nơi bến vắng/ Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông” để được tiếc nuối những
gì say đắm đã đi qua, chẳng thú vị sao! Có lẽ tác giả bài thơ là lứa tuổi người
cuối cùng nhìn thấy “Vầng trăng say khướt rơi xuống đáy sông”. Bởi trong các
nhà thơ hiện đại đã có người viết “Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất/ Trăng còn
đây chỉ là bản phô tô”. Vẻ đẹp của tạo hóa lung linh huyền diệu lấp lánh trong
thi ca muôn thuở, đã nhuộm thắm hồn người làm cho tình yêu trở nên bất tử mơ
màng, bỗng bị thứ ánh sáng đèn màu với âm thanh thác loạn của những điệu nhạc
cuồng si che phủ, mờ nhạt như một bản phô tô, một vầng trăng in giấy không hồn,
bởi chính lòng người vô cảm trước những nhu cầu vật chất, của cải, tiện nghi
chẳng biết sẽ còn đưa cuộc sống con người đi đến nơi nao? Người ta đã chế tạo
được những “người Rô bốt” nhằm thay thế con người bằng xương thịt trong lao
động tay chân, đã sản xuất được cả những máy tính có khả năng viết những bài thơ
theo lập trình có sẵn… Liệu ngày nào đấy con người sẽ tìm ra thứ “tình yêu Rô
bốt” mới chăng? Nói vậy để thấy vui vì hôm nay ta còn được đọc những câu thơ
ngơ ngơ, ngẩn ngẩn vì tình của Đặng Xuân Xuyến viết cuối năm 2016:
Và đã khi nào mỏi mòn
trông
Héo hắt than hoa lạc
cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ
trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi phiêu
bồng...?
Đôi lứa yêu nhau bây giờ
chắc chẳng bao giờ dùng lại những câu thơ “Héo hắt than hoa lạc cuối dòng”.
“Than hoa lạc…” là than thế nào? “Cõi phiêu bồng” là ở đâu? Khi những chiếc máy
bay siêu tốc một giờ đã rẽ mây đi hàng nghìn cây số! Và những giấc mơ đã được
dùng làm nghiệm chứng cho con số tính đề thua được, đỏ đen…Có được bài thơ gợi
lại một tình yêu thủy chung, son sắt “chỉ lỡ một nhịp chèo mà thành xa cách…”, mà
tháng năm cứ còn mãi bên lòng ngọn lửa không tàn phai đã là an ủi cho ai người
vẫn còn khao khát thủy chung!
*.
Hà Nội, tháng 11 năm
2016
Nhà thơ HÀ NGUYÊN
Địa chỉ: 126 Nam Cao,
Hai Bà Trưng, Hà Nội
Email: kstoan12@gmail.com
CHUNG
- Tặng Quỳnh Hương -
Em có cần anh không?
Nếu cần anh hãy cùng anh chung sống
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ cười...
Đừng ngại em ời...
Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng
Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi trăng...
Em sẽ là buồm căng
Anh sẽ là gió lộng
Thuyền trăng mình thơ mộng
Dập dìu giữa biển xanh
Em. Nào, về với anh!
*.
Hà Nội, trưa 25 tháng 04. 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Đã lâu… tôi mới nghe
được một thông điệp tình yêu - lời tỏ tình mộc mạc,
giản đơn mà chân thành, vừa cổ điển vừa hiện đại. Lời tỏ tình từ tâm can, không
ấp úng rụt rè vụng dại của tuổi trẻ mới vào đời, mà là lời tỏ tình của người đã
trải qua những cung bậc thăng trầm trong tình ái, đã bước vào ngôi đền tình yêu
thắp nén tâm hương của lòng mình và nghe được thần ái tình mách bảo lẽ hằng
thường vĩnh cửu - bền vững của tình yêu. Tiếng nói
của thần ái tình thường thì thầm trong lòng con người, nhưng không phải ai cũng
nghe rõ. Hình như trời cho trái tim thơ của Đặng Xuân Xuyến nghe được tiếng nói
tâm linh.
Trong kinh dịch quẻ Hàm
là đạo vợ chồng - tiếp nối đến quẻ Hằng là đạo dài
lâu. Sự dài lâu nào cũng có nguyên lý của nó như nhu cầu thiết yếu trong cuộc
sống con người. Như khí trời, không có khí trời thì vạn vật và con người không
thể tồn tại và con người cũng cần tình yêu như khí trời vậy, “Đến sỏi đá cũng
cần có nhau” thì con người sinh ra trong trời đất không có tình yêu và tình vợ
chồng chẳng có lỗi với tạo hóa lắm sao!
“Em có
cần anh không”, một câu hỏi tưởng giản đơn bình thường nhưng đầy nội lực,
không trải qua những thao thức với tình yêu, không hiểu thấu nguồn cội của tình
yêu, đặc biệt là tình yêu vợ chồng là sự hằng thường lâu dài không thể tỏ tình
từ tâm can như vậy. Chữ “cần” vừa
mang sức nặng của câu thơ, vừa là ngọn lửa minh bạch và chân thành thắp sáng
trong ngôi đền tình yêu của mọi lứa đôi trong cõi đời này. Thiếu sự “cần” ấy
mọi cuộc tình sẽ thành tẻ nhạt. Ngược lý của cần là không cần, ôi không cần nhau
thì đâu còn là tình yêu nữa.
“Em có
cần anh không”. Cần là một nhu cầu như nhu cầu hít thở để bảo toàn sự sống
con người, và con người không có tình yêu như trái đất thiếu mặt trời là điều
tất nhiên. Nhưng câu hỏi này đối tượng được hỏi phải là người nào? Mới gặp
nhau, mới biết nhau mà hỏi như vậy thật là vô duyên. Đặng Xuân Xuyến tặng bài
thơ này cho Quỳnh Hương có nghĩa là 2 người đã hiểu nhau, biết nhau lâu rồi.
Quỳnh Hương đã là không khí trong lành trong lồng ngực nồng nàn của nhà thơ hít
thơ, nàng đã là bài thơ mà Đặng Xuân Xuyến là tác giả. Cũng có trường hợp 1
bóng hồng lướt qua đã rung động cho thi nhân làm thơ tặng, nhưng tôi dám chắc
rằng không có nhà thơ nào dám cả gan hỏi “Em
có cần anh không” như Đặng Xuân Xuyến.
Sau câu hỏi “Em có cần anh không” thì câu thứ 2 sinh
ra là lẽ tất nhiên “Nếu cần hãy cùng anh
chung sống”. Lòng thành của nhà thơ cụ thể hơn, tính mục đích rõ ràng minh
bạch hơn, câu thơ như ánh nắng hồi hộp thở trong hoa, ánh mắt của nhà thơ đang
ngước lên thành kính đợi chờ vị thần tình ái của lòng mình. Sự chân thành như
sóng đã dâng lên là hối hả vỗ bờ, và mọi sự chân thực đều ngắn gọn và rõ ràng:
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ
cười
Lời tỏ tình đến đây
tưởng như đã đủ, nhưng với tình yêu đặc biệt là tình yêu chân thành thì nói
biết bao nhiêu cho vừa. Xuân Diệu:
Đã hôn rồi
Hôn lại
Hôn mãi mãi muôn đời
Anh mới thôi dào dạt
Đặng Xuân Xuyến là nhà
thơ hậu sinh cái gen đa tình bay bổng của thơ đã nhiễm với gen đời. Anh vẫn tỏ
tình với ngôn ngữ mộc mạc:
Đừng ngại em ời
Giường nhà anh đủ dài đủ
rộng
Chăn nhà anh đủ ấm đủ
nồng
Câu thơ gọi hồn những
trang cổ tích, cho người đọc trôi ngược về cội nguồn nề nếp cha ông, nhưng cũng
rất hiện đại trong cuộc sống hôm nay. Chữ “đủ”
là linh hồn của câu thơ, đủ có nghĩa là không thừa không thiếu, đủ mang hồn của
triết học phương đông, kín đáo nói với người tình của mình và cho tất cả những
lứa đôi, những cặp vợ chồng và cả chúng ta: mọi sự ở đời này hãy tự cho là đủ -
thì sẽ đủ. Tôi nghe thấy tiếng Lão Tử cười thầm và tay khẽ vuốt râu - Đạo đã
thành thơ.
Cái đẹp của thơ Đặng
Xuân Xuyến là sự mộc mạc vì hồn cốt của anh mộc mạc. Nhưng cái mộc mạc của
chàng trai quê Hưng Yên đã già nửa đời ra đi dan díu với kinh thành, nên vẻ đẹp
mộc mạc mang một vẻ đẹp khác. Sau những điều cụ thể của sự “cần” có anh không,
của gạo chung nồi, chăn chung, gối chung của căn nhà đủ dài đủ rộng, sự mộc mạc
của thơ bay lên với tất cả nỗi lòng:
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi
trăng.
Khêu ngọn lửa hồng ý tưởng của câu
thơ mang nỗi lo xa, cẩn thận gìn giữ tình yêu, ngọn lửa tình yêu khêu lên, thắp
sáng không chỉ một đêm nay, đêm mai mà sáng cả một đời. Câu quan họ không chỉ
hát trong đêm nay mà “Ta nối câu quan họ”
nối dài mãi ngân vang mãi trong cả đời. Chữ “khêu” và chữ “nối” đọc
lướt qua sẽ không thấy nỗi lòng của nhà thơ.
Từ bệ phóng của đời
sống, của lòng chân thành hồn thơ bay lên, tình yêu ảo diệu lung linh “Ta
bện mây với gió/ Kết thành thuyền chơi trăng”. Bàn tay của ái tình thật
kỳ diệu “Bện mây với gió”, chủ thể và
khách thể giao hòa - anh với em là một. Anh không nhớ anh là mây hay là gió, em
không nhớ em là gió hay là mây. Như Liệt Tử nói: “Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta”, gió và mây quện vào nhau kết thành
con thuyền chơi trăng, và con thuyền chơi trăng ấy vừa có, vừa không mang sắc
màu huyền bi đạo phật. Bơi trong cuộc sống vĩnh hằng. Đọc đến đây mới thấm thía
chữ “cần”. Mây cần có gió, gió cần có
mây để hóa con thuyền chơi trăng và vui sống trong cõi đời này.
Nếu là tôi, tôi sẽ dừng
bài thơ ở đây. Nhưng nhà thơ đang yêu, đang say nên dù đã qua sự tột đỉnh thăng
hoa, nhưng tình yêu hoàn nguyên cho anh sức khỏe, vẫn yêu tiếp:
Em sẽ là buồm căng
Anh sẽ là gió lộng
Thuyền trăng mình thơ
mộng
Dập dìu giữa biển xanh
Em, nào, về với anh.
Buồm căng và gió lộng là
ý thơ không có gì mới, không say lòng người bằng “Bện mây với gió”, “Thuyền
trăng mình thơ mộng/ Dập dìu giữa biển xanh” tưởng là hình ảnh đẹp của thơ
nhưng đã thiếu lửa, không cháy như sự đam mê quấn bện vào nhau như mây gió.
Thế mới biết làm thơ cực
khó, thêm một chữ thì thừa, bớt một câu thì thiếu. Ngoài sự xúc động thực, vốn
đời cần có tư tưởng và câu chữ bầu lên nhà thơ.
Ở bài thơ này một số chữ
tôi đã phân tích ở trên đã bầu lên nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Câu kết: “Em, nào, về với anh”. Một câu nói thừa
nhưng lòng tôi hình dung hình ảnh bàn tay nắm bàn tay, đôi tình nhân cùng nhau
tung tăng bước vào ngôi nhà hạnh phúc. Tôi thầm cầu trời sự hình dung mong đợi
của tôi và của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thành sự thật.
*.
NGUYỄN THANH LÂM
Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai
Bà Trưng, Hà Nội
Email: thanhlam.tho@gmail.com
ĐÔI LỜI GÓP THÊM VỀ BÀI THƠ “CHUNG”
Nhân đọc bài ĐẾN VỚI BÀI
THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Khôi tôi
có đôi lời “góp thêm”.
Bài thơ có 2 câu HAY
nhất, đó là "tứ" thơ - là rường cột của bài thơ:
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi
trăng
Một "tứ" thơ
lạ, một sáng tạo độc đáo. Nó thơ mộng nhưng cũng thầm bảo: đằng sau cái thơ
mộng là biển khổ cuộc đời đấy, có dám chung lưng đấu cật "Vượt biển"
thì hãy về với anh?
Viết đến đây Nguyễn Khôi
lại nhớ đến Trường ca "Khảm Hải" - Vượt Biển của Dân
tộc Tày, Việt Bắc (thói quên nghề nghiệp của 1 đời ở và làm công tác Dân Tộc
mà). Thật là sòng phẳng, nói trước cái khó khăn / có chấp nhận (chịu nổi) thì mới "Em, nào, về với anh"..., kẻo sau này lại:
Chồng gì anh
Vợ gì tôi
Chẳng qua là cái
nợ đời của nhau...
(Ca dao)
rồi lại chia tay như
cuộc hôn nhân trước...
Chao ôi, thơ Tình là
tiếng lòng, tiếng con tim thổn thức của tuổi trẻ, nhưng ở cái tuổi dở ông / dở
thanh niên như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, thì đó là sự "hồi xuân" mà
lửa lòng bưng bừng "khát" (thèm) một cuộc hôn nhân (già) như mộng? để
có một bạn đời cùng chung một con thuyền tình để "vượt biển" qua nốt
quãng đời còn lại trên thế gian này.
Nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm
về cơ bản "bình" trong bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN là đủ rồi, rất Hàn lâm...
Tuy nhiên, cái có vẻ
"mộc mạc", “giản đơn” của Đặng Xuân Xuyến ở mấy câu thơ khổ đầu như
dẫn dắt cô gái quê ngây thơ kia đi đến "ta bện..." thì không
còn mộc mạc nữa mà là rất lãng mạn, kiểu lãng mạn của nhà thơ Xuân Diệu:
"Là thi sĩ nghĩa là
ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn
cùng mây
Để linh hồn ràng buộc
với muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm
tình yêu mến..."
(Cảm Xúc)
thì ở đây phải là một cô
gái có tâm hồn đồng điệu mới kham nổi cái "tầm" yêu (khát vọng yêu
của Đặng Xuân Xuyến) để thành một cặp đôi hoàn hảo khi kết thành thuyền Thơ...
HAY, HAY, HAY.
LẠ, LẠ, LẠ...
Đó là một cống hiến nhỏ
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cho ngàn lẻ cái Thơ Tình xưa nay hiếm của “Chung”
là thế chăng?!
Nguyễn Khôi gõ nhanh, có điêu gì bất cập xin được
miễn thứ.
*.
Phố Hàn 3 giờ sáng 11-10-2016
NGUYỄN KHÔI
Địa chỉ: P12A05 nhà 17T,
Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội.
Email: khoidinhbang@gmail.com
HƠI THỞ NÚI RỪNG TRONG BÀI THƠ “CHUNG”
Cái chất giọng, hơi thở
và cách tỏ tình của chàng trai trong bài thơ làm người đọc hình dung ra một
vùng đồi núi trập trùng, hương rừng ngai ngái và chàng trai được ướp mình trong
không gian đó nên lời nói cũng mộc mạc, rõ ràng như thuở bản thiện tính:
Em có cần anh
không
Nếu cần hãy cùng anh
chung sống ...
Thế thôi! Đơn giản nhưng
lại là lời cầu hôn đẹp nhất mà cũng “rừng rú” nhất và chắc chắn người phụ nữ
kia không hề từ chối.
Gạo nấu chung nồi
Chăn trùm chung gối
Ta chia chung ánh mắt nụ
cười.
Đến đây càng chắc chắn
hơn: lời tỏ tình của một chàng trai thẳng thắn, bộc trực, chả màu mè nhưng tình
lại vô cùng sâu đậm.
Đừng ngại em ời...
Giường nhà anh đủ dài,
đủ rộng
Chăn nhà anh đủ ấm, đủ
nồng
Ta khêu ngọn lửa hồng
Ta nối câu quan họ
Ta bện mây với gió
Kết thành thuyền chơi
trăng...
Cái thật thà đậm chất
sơn cước nhưng cũng rất lãng mạn kiểu núi rừng của chàng trai (trong thơ) như
thế, làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Em Tắm của nhà thơ Cầm
Vĩnh Ui (Bạc Văn Ùi):
“Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi
Tay của đất của nương.
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem”
Cả bài thơ CHUNG là hơi
thở của núi rừng, là cách thổ lộ tình cảm của chàng trai miền sơn cước: thẳng
thắn, bộc trực mà sâu đậm. Đọc thơ, ta hình dung như thấy chàng trai đang mộc
mạc tỏ tình với cô gái giữa đại ngàn lộng gió. Khó tìm thấy chất trai thành thị
hay trai miền đồng bằng trong bài thơ này.
Thế đấy, tôi cứ bám mãi
vào tâm tư đấy mà quả quyết người con trai Hà Thành Đặng Xuân Xuyến đã hoá mình
thành chàng trai rừng núi, yêu cô miền núi, mới bị đồng hóa sâu đến thế .
Toàn bài không có ý
tưởng đặc biệt, cũng chẳng có từ hoa mỹ, lại càng không dùng thủ pháp nhưng khi
đọc ta cũng thấy mình hổn hển theo lối nói gấp gáp, trần trụi, sơn cước để yêu
hơn một con người.
Thật lạ là sao lại như
vậy?
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
VÀI LỜI GÓP VUI KHI ĐỌC BÀI THƠ “CHUNG”
CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Anh chàng Đặng Xuân
Xuyến nầy chắc là nhà thơ nên tán gái có nghệ thuật hơn anh chàng nông dân
"Tát nước đầu đình" của ca dao Việt Nam.
Anh chàng nông dân tuy
vào đề:
Hôm qua tát nước đầu
đình
Bỏ quên chiếc áo trên
cành hoa sen
thì thật hay nhưng rồi
đoạn sau chỉ hứa hẹn những sính lễ là vật chất bình thường như: "Một thúng xôi vò, một cơn lợn béo, một vò
rượu tăm, đôi chiếu em nằm, đôi chăn em đắp ..." là những thứ không
bày tỏ được tình yêu thắm thiết.
Anh chàng Đặng Xuân
Xuyến thì khác.
Anh vào đề bằng một câu
chắt cú:
Em có cần anh không?
để cô gái trợn mắt ngạc
nhiên rồi Đặng Xuân Xuyến từ từ dìu cô vào một giấc mơ có đầy đủ vật chất và
tinh thần.
Đầu tiên Đặng Xuân Xuyến
chỉ mời "góp gạo chung nồi"
thật là chơn chất như một lời đùa vui. Sau đó từng bước, từng bước Đặng Xuân
Xuyến trổ tài siêu việt của nghệ thuật tỏ tình để đôi tai cô càng nghe càng đắm
say trong viễn ảnh tương lai vừa đầy đủ vật chất vừa thơ mộng tâm hồn.
Lời tỏ tình của Đặng
Xuân Xuyến từ chỗ bông lơn lúc ban đầu trở nên trang nghiêm dần dần, lũy tiến
những lời kết ước nghiêm chỉnh, bày tỏ được tường tận cái chiều sâu của tâm hồn
nghệ sĩ trong Đặng Xuân Xuyến để cô gái hiểu hoàn toàn về anh.
Những đoạn Đặng Xuân
Xuyến đề cập đến quan họ, đến trăng, đến gió, đến thuyền tình là đoạn chính của
lời tỏ tình, vì lúc đó Đặng Xuân Xuyến bộc lộ hết tất cả tính lảng mạn trong
anh, những mơ ước mà anh ấp ủ trong tâm hồn cho một cuộc tình lớn trong đời
anh. Lúc này cô gái chắc sẽ rất cảm động vì thấy được ở Đặng Xuân Xuyến một con
người vẹn toàn khi lo từng chi tiết trong cuộc sống vật chất mà cũng không quên
tô bồi tình yêu đó bằng những nguồn vui cao thượng.
Xin gởi vài lời góp ý
cho vui vậy thôi./.
*.
Đà Nẵng, 22 tháng 10 năm 2016
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
RU CON
Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày mỗi già
Tóc thêm dày sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.
Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
Ầu ơ... thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ.
Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ
Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?
Ầu ơ... Ơi cái ngủ
Ngủ ngoan nào con yêu...
*.
Hà Nội, đêm 20 tháng 08
năm 2013
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Thường thì người ta hay
dùng lục bát để ầu ơ ru con, có mấy ai dám dùng thể thơ ngũ ngôn để ru con. Ấy
thế mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã mang thể thơ ngũ ngôn âm dương cân đối, nhịp
điệu hùng khí để ru con. Âu cũng là cái may, cái mạnh để nhà thơ diễn đạt cái
tình của mình.
Bài thơ đi thẳng luôn vào
vấn đề, không kể lể dài dòng, không trình bày nguyên nhân, đã dựng được một
khung cảnh chân thật, cảm động:
Con mỗi ngày mỗi lớn
Mình mỗi ngày mỗi già
Tóc thêm dày sợi bạc
Đêm trở mình nhiều hơn.
Ngay ở khổ thơ đầu, đã
khắc họa hình ảnh người cha với những đường nét đặc biệt: Đó là người cha độc
thân, gánh cả thiên chức làm cha và làm mẹ. Đó là người cha cô đơn, đang cảm
nhận sự già yếu của bản thân theo thời gian (tóc thêm dày sợi bạc) nên càng
trăn trở, lo lắng cho tương lai của đứa con, khiến “Đêm trở mình nhiều hơn”.
Hình ảnh người cha “lặng nhìn con nằm ngủ” trong khung cảnh
tĩnh lặng với trĩu nặng yêu thương ấy, tưởng yên bình mà lại hừng hực cái tâm
biến động:
Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò
Ầu ơ... thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ.
Hành động “Giấu nỗi buồn trong thơ” không phải là
để trốn tránh hiện thực mà là giấu đi những nỗi buồn, để con thơ luôn được vui
tươi trong sự chở che, bảo bọc của người cha.
Bài thơ đi tiếp với nhịp
trầm trầm như tự sự:
Giận “người lớn” dạy hư
Khiến con thơ phải khổ
Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ
Không một lời kể lể,
không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người
lớn” đã “dạy hư”, làm khổ đứa con
bé bỏng của mình, nhưng trong thơ đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc
động: Con níu vào giấc ngủ
Kiếm nụ cười trong mơ.
Đọc đến đây tôi đã khóc,
khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào
giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ
“níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động,
gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu
chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu
vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong
mơ”, để tự bù đắp những thua
thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người con,
hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ với
những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra
kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với
kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo
dòng chảy sức sống của bài thơ.
Con như búp non tơ
Cần đời cha bóng cả
Cha đã qua mùa hạ
Chở che con mấy mùa?
Nhà thơ đã dùng thủ pháp
so sánh đối tỉ để hiện lên khuôn mặt non tơ của con thơ bên gương mặt cương
nghị và bóng dáng lồng lộng của người cha dẫu đã qua mùa hạ rực lửa vẫn vững
vàng chở che cho đứa con bé bỏng của mình. Tôi hơi ngạc nhiên với dấu chấm hỏi
“?” ở cuối khổ thơ này: “Chở che con mấy
mùa?”. Phải chăng, vì sợ sức khỏe và tuổi già sẽ không thể che chở cho con
đến khi con trưởng thành nên người cha mới nặng lòng đến thế? Theo tôi, giá cứ
chấm than “!” có lẽ sẽ gợi cảm, tạo hồn thơ hơn.
Ầu ơ... Ơi cái ngủ
Ngủ ngoan nào con yêu...
Bài thơ dừng lại rất đúng
lúc, đã khơi dòng mãn đạt tình cảm cha con, đã bừng sáng lên niềm tin vào tương
lai tốt đẹp. Dù vậy, Ru con vẫn chưa
thật sự là bài thơ hay, mới chỉ đạt ở mức khá được.
Tiêu đề bài thơ tuy cũ,
cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con
vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy,
xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru con!
*
Hà Nội, ngày 17 tháng 04/2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã
Đa Tốn
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Email:
nguyendanghanh1234@gmail.com
VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Cái ru của người đàn ông
khác lắm. Không ê a, khề khà, kể lể nên gọn gàng đủ ý.
Đàn ông ru con thì cứ thế
mà ru, chả ai thèm để ý xem có đúng chủ trương, đường lối một cách ngớ ngẩn
nữa.
Mình thích cách diễn giải
của tác giả vì nó phóng khoáng, chân thật nhưng cũng rất thơ.
Khổ thật, khi đọc thơ lại
phải xem quan điểm thế nào, viết có nhiều người thích không... để rồi mất mình,
mất thơ, mất cái khoái thong dong khi nhắm thơ.
Đặng Xuân Xuyến đã tránh
được điều đó nên rất thân thiện với người đọc và thơ cũng tự nhiên hay, chả cần
thủ pháp, nguyên tắc, quan điểm gì cả.
...Lặng nhìn con nằm ngủ
Ngổn ngang mối tơ vò..
Đây là khoảnh khắc thú
nhất và thật nhất của đời người. Ai không có những phút thế này thật thiệt thòi
vì lúc này cảm xúc bề bộn, thiêng liêng và pha trộn nhiều lắm, tình bố con cũng
lớn dần từ đây, người đọc thơ dễ bỏ qua tình tiết này nên thật phí.
Ầu ơ...thương cái ngủ
Giấu nỗi buồn trong thơ
Câu thơ này đã làm nên
bài thơ mà mạch của nó tự nhiên như củ khoai hạt lúa.
Thương lắm cái ngủ,
thương cả tiếng ầu ơ trầm buồn chậm rãi để giấu đi tâm trạng, lo lắng, sợ hãi
khi nghĩ về tương lai của con mình.
Tình bố khác với tình mẹ,
nó không ồn ào, phơi bầy vì nó quá sâu chứ không phải cơi đựng trầu... Lo lắm
chứ bởi những thói hư tật xấu của cuộc đời lây lan sang con, di truyền sang con
dù vô tình hay cố ý.
Người ta bảo thơ hay ở
chỗ khi tác giả không định làm thơ thì mới hay được! Có lẽ đúng.
Con níu vào giấc ngủ
Cách biểu cảm thật hay.
Trẻ con lớn lên trong giấc ngủ mà giấc ngủ đó rất cần:
Cần đời cha bóng cả
Chở che con mấy mùa...
Cám ơn Đặng Xuân Xuyến và
cám ơn anh Nguyễn Đăng Hành đã cho mình có cơ hội tiếp xúc và cảm nhận được bài
thơ.
*.
Thành Nam, 16 tháng
11/2019
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
CHIỀU LẠ
- Tặng L.L -
Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya
Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ
Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.
*.
Hà Nội, chiều 02 tháng 10.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
THẢO LUẬN BÀI THƠ “CHIỀU LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Bài thơ có tiêu đề “Chiều
lạ” nhưng qua mấy câu thơ ta không thấy buổi chiều có gì
lạ.
Bài thơ chỉ có một
câu thơ đề cập đến chiều: “nắng
chiều rơi trên lá”. Nắng chiều rơi trên lá là một chuyện bình
thường trong mọi buổi chiều. Vậy buổi chiều lạ ở chỗ nào? Nó lạ vì
chiều nay có chiếc “áo lạ”.
Chiếc áo lạ làm cho buổi chiều thay đổi hẳn, hay đúng ra, chiếc áo
lạ đã đánh động tâm hồn của người thơ làm cho dậy lên trong lòng thi
sĩ sự băn khoăn đến độ nếu không nhìn được nó thì “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya”.
“Quẩn gió/ xáo xác khuya” chỉ là mượn cảnh để diễn tả cái
tình xảy ra trong lòng, hay đúng hơn là diễn tả cái tâm trạng thao
thức trong đêm của người muốn nhìn chiếc áo lạ. Chiếc áo đó dầu
đẹp đến đâu cũng không khiến cho lòng người xao động đến thế. Sở dĩ
lòng người xao động đến thế vì chiếc áo lạ nhưng người không lạ.
Người không lạ vì người nếu không là hình bóng của kẻ mà nhà thơ
say đắm thì cũng là người có sợi dây vô hình gắn bó, có tiền duyên
từ một kiếp nào để đánh thức niềm đam mê, làm sống dậy khối tình
đang ngủ từ trăm năm, từ ngàn năm trước chăng?
Đọc bảy chữ đầu của
bài thơ:
“Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya”
thì ai cũng đặt trong
đầu mình một dấu hỏi vì sao phải sợ như thế. Đọc đến các câu thơ
kế tiếp cho ta một cảm giác thiết tha với tà áo vì tà áo trong thơ
quan trọng quá, nó thoáng qua trong đôi mắt, nó mỏng manh nhưng nó đã
làm cho “quẩn gió/ xáo xác khuya”
là làm ảnh hưởng không gian, thời gian, thay đổi khí hậu hay đúng ra,
nó dằn vặt một tâm hồn bình an để thấy vạn vật chung quanh đều chuyển
đổi.
Hai câu thơ:
Cố vét vớt nắng
chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ
cười nhòe áo lạ
thật là khó hiểu.
Tuy thế qua thơ ta cũng đoán được rằng “áo lạ” xuất hiện vào một buổi chiều tắt nắng. Trời chưa
tối hẳn nhưng ánh nắng chỉ còn rơi lẻ loi trên lá, để cho tác
giả phải “cố vét vớt” cái nắng
chiều, tìm thêm ánh sáng mà nhìn cho rõ thêm tà áo lạ. Cái anh nắng
“cố vét vớt” đó nó chênh chao.
Vì sao nó chênh chao? Vì nó rơi trên lá, mà lá rung trong gió nên nó
phải chênh chao. Lạ thay, thứ ánh nắng cố vét vớt đó tác giả lại
cho “thể nụ cười” tức là như nụ
cười, mà nụ cười ấy lại làm cho “nhòe
áo lạ”.
Ta biết thứ ánh nắng
sót lại của buổi chiều nó vô cùng dịu mát, nó cũng làm cho cây cỏ
được dát vàng, nghĩa là nó rất đẹp. Vậy thì trong bài thơ này nó
đại diện cho nụ cười của người mặc chiếc áo. Chiếc áo lạ đã đẹp.
Vậy mà nụ cười “như nắng chiều rơi trên lá chênh chao” làm nhòe chiếc
áo lạ thì nụ cười ấy đẹp biết bao. Đọc thơ, người ta tưởng khoe
chiếc “áo lạ” là đẹp nhất,
nhưng không, chiếc áo lạ dầu đẹp cũng vô tri mà nụ cười mới mang linh
hồn của người mặc áo. Nụ cười đẹp hơn chiếc áo. Té ra tác giả
dùng chiếc áo lạ để tá khách nụ cười vào đó, tôn vinh nụ cười đến
chỗ tuyệt mỹ khôn lường.
Và lạ lùng thay, ba
câu thơ chót như bức màn nhung kéo xuống, kéo xuống để khán giả nhìn
xuyên qua bức màn nhung thấy cả buổi chiều trở nên êm ái, để người
đọc cảm khái cái im lìm của hoạt cảnh xảy ra:
Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.
Ta hãy nhớ lại bài
thơ Trăng của nhà thơ Xuân Diệu:
“Trong vườn đêm ấy
trăng nhiều quá
Ánh sáng tuôn đầy cả
lối đi
Tôi với người yêu qua
nhè nhẹ
Im lìm, chẳng dám
nói năng chi”.
Vì sao qua nhè nhẹ,
vì sao im lìm? Nhà thơ Xuân Diệu nói vì: “Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp
lá / và làm sai lỡ nhịp trăng đang”
Ở đây nhà thơ
Đặng Xuân Xuyến cũng thế. “Te
tẻ chiều” là buổi chiều bình an quá, thơ mộng chẳng khác gì
trăng trong vườn nhiều quá, trăng đầy cả lối đi. “Nhớn nhác/ nhón chân qua” vì muôn giữ sự yên tịnh của một
buổi chiều, vì muốn hình bóng tuyệt vời của tà áo lạ không biến
đi, vì muốn giữ nụ cười thơ mộng như giọt nắng chênh chao trên lá cho
của riêng mình không tan ra bởi biến động nào, nhà thơ đành nhẹ chân trong
im lìm nhón gót theo em.
Bài thơ ngắn diễn tả
chỉ một hành động nhưng cho ta một chiếc áo quá đẹp, một nụ cười
quá đẹp, một khung trời quá đẹp, quá bình yên, quá thơ mộng và một
giấc mơ mang hình ảnh tuyệt vời của một buổi chiều rất quen mà
dường như rất lạ vì cảm nhận được những điều tinh tế trong
thơ./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
MỘT CÁI NHÓN CHÂN... THẬT LẠ
Sợ đêm về quẩn gió, xáo
xác khuya!
Cái lo thường tình của
người đa cảm, thi tâm; bởi trong sự cô tịch, vắng vẻ của màn đêm người ta hay
hoài niệm, mơ hồ và lòng trắc ẩn được giấu kín ban ngày thì đêm về dễ òa ra,
trào dâng một cách khó kiểm soát.
Chính bởi lẽ ấy mà tác
giả chín hơn, khôn hơn, rón rén mà: “nhón
chân” qua cái “te tẻ chiều”!
Mặc dù vậy nhưng tâm nào
có an, vẫn bị cái điều mơ hồ, không thể đặt tên kia làm cho tâm trạng: nhớn nhác.
Cố vét vớt nắng chiều
rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười
nhòe áo lạ
Kiểu tâm trạng: “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”!
(Xuân Diệu) Cố gắng vơ vét, nhọc nhằn những điều đáng có nhất để làm gì? Không
biết! Có được rồi thì đặt vào đâu? Không biết nốt. Vì tất cả đều mơ hồ, mặc
định và ước lệ như: “nụ cười nhòe” trên “áo lạ”!
Tác giả tránh đêm nhưng
lại vướng ngày, vướng cái hoàng hôn đầy trắc ẩn, trầm trầm với vài giọt nắng
cuối cùng rơi trên lá... thì tâm trạng cũng “nguy hiểm” không kém mấy ban đêm.
Chính vì vậy mà nhà thơ phải “nhớn
nhác” để “nhón chân qua” cái
chiều “te tẻ”.
Bài thơ hay ở chỗ dùng
từ, đọc lên người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với tâm cảnh,
hồn người nên cứ thấy hay.
Điều đặc biệt là bài thơ
không thể chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô
đọng.
Đặc biệt hơn là cả bài
không có đại từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy mình trong đó và đó chính là
thủ pháp "hỏa mù" chả ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của
tác giả...
Ồ! Mà lạ chưa: tâm động
qua một cái nhón chân thi vị.
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
CHẤP CHỚI
Có người líu ríu theo chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn kim”
Ơi người nhớn nhác đi tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
*
Làng Đá, 21 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“CHẤP CHỚI” - MỘT BÀI THƠ LẠ VỀ CẤU TỨ
Phải nói thẳng Chấp
Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức
trung bình. Thế nhưng, tôi lại thích bài thơ này bởi lối viết hiện đại và cái
khác lạ về cấu tứ của bài thơ.
Mới làm thơ được vài năm
nhưng thơ của Đặng Xuân Xuyến đã tạo được nét riêng, thường ngắn gọn, súc tích,
tiết tấu nhanh, tứ thơ mới, khẩu khí mạnh, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh và dễ
cảm, nhất là ở thể thơ tự do. Thế nhưng ở bài thơ này những nét đặc trưng đó
hầu như đã biến mất, thay vào đó là sự khác lạ, hư hư ảo ảo, khó hiểu.
Ta thử thưởng thức Chấp
Chới như cách vẫn thường cảm thơ.
Khổ thơ thứ nhất:
Có người líu ríu theo
chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Mở đầu khổ thơ, tác giả
bâng quơ kể: “Có người líu ríu theo chồng”,
sang câu 2, câu 3, rồi đến câu 4, vẫn tiếp dòng tự thán, tự kể, rất bâng quơ...
tuy vậy, tác giả cũng vẽ nên một bức tranh đẹp, với những hình ảnh gợi cảm và
giàu nhạc điệu. Hình ảnh người con gái “líu
ríu”, “buông lơi lời hát”, bỏ lại
“ngày xuân ngăn ngắt” vội sớm lấy
chồng được phác họa với tiết tấu nhanh, thái độ bâng quơ, và sự không rõ ràng
về đại từ nhân xưng khiến người đọc tuy “cảm” được thơ nhưng không hiểu được
cấu tứ thơ nên chưa thật sự “khoái”, chưa thật sự “thích”.
Sang khổ thứ 2:
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn
kim”
Ơi người nhớn nhác đi
tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Vẫn là những lời bâng
quơ, tự thán, tự kể về mối tình trai gái, không đẩy cảm xúc thành cao trào, cứ
hờ hững, trôi xuôi mà cũng chẳng mấy ăn nhập với tâm trạng ở khổ thơ đầu. Tiết
tấu thơ chậm, dàn trải, không rõ đại từ nhân xưng, dẫu khiến tâm trạng người
đọc bảng lảng, buồn mang mác đấy nhưng vẫn “không khoái”, “không thích” vì khó
“bắt” tứ thơ.
Sang khổ 3, khổ kết của
bài:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
Nhịp thơ trầm, lắng, cảm
xúc dâng trào, được đẩy lên với sự thúc giục, thảng thốt, của nghẹn ngào nước
mắt, của “chấp chới cánh diều” giữa “trời mưa” nặng hạt, “gió gằn”... nhưng người đọc vẫn khó
“nắm” được tứ thơ dù khổ 3 có cái kết như một triết lý sống, như một mệnh đề để
kết thúc bài thơ như vẫn thường thấy. Đến đây, dù đã đọc xong bài thơ, vẫn thấy
mơ hồ, vẫn chưa thể nhận rõ ra “ai” với “ai” và tác giả “gửi gắm” những gì ở
bài thơ này. Vì thế, bài thơ tạo cảm giác hư hư ảo ảo, lâng lâng, khó hiểu.
Mới đọc, dễ có cảm giác Chấp
Chới như được ghép thành từ 3 bài thơ, với 3 cách nhìn ở 3 tâm trạng
khác nhau, không có sự liên kết hoặc sự liên kết lỏng lẻo vì khó “bắt” được tứ
thơ. Người không tinh sẽ bảo bài thơ bị tản vì tứ thơ bảng lảng như sương mù,
không (có) rõ, thậm chí nếu khó tính còn hạ bút phê là thơ viết vội, không có
tứ, nhưng thực ra bài thơ này viết theo lối mới, hiện đại: dùng tâm trạng và
nhạc điệu để vẽ lên tứ thơ (tứ kín) nên tứ tập trung vào từng khổ thơ, tứ chỉ
để phục vụ cái tâm trạng của nhà thơ, của người đàn ông đang đau khổ trước sự
đổ vỡ của tình yêu đôi lứa. Đây là cách viết táo bạo, hơi liều, bởi nếu viết
không khéo sẽ dễ bị “cảm” là viết ẩu, viết không tới. Là cây bút mới (về thơ),
không nên dại dột thử sức như thế này, cho dù như anh tâm sự trên trang
facebook là “mượn thơ chỉ để giãi bày tâm sự”.
Tóm lại, Chấp
Chới là bài thơ có tâm trạng, có hình tượng, có nhạc điệu, chuyển cấu
tứ rất nhanh nhưng đọc Chấp Chới phải thật tĩnh tâm, nhắm mắt để thả hồn theo ý
thơ, nương theo mạch thơ thì mới cảm được hồn thơ. Nếu đọc Chấp Chới theo lối truyền
thống, có vào đề, đến nội dung, rồi kết thúc như xưa nay thì khó “cảm” được
“hồn cốt” bài thơ này.
Vài lời cảm nhận cá nhân
khi đọc bài thơ Chấp Chới, có gì bất cập mong được bạn đọc, nhất là các nhà
thơ, nhà phê bình văn học chiếu cố, đại xá cho kẻ hậu sinh “múa rìu qua mắt
thợ”.
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
ĐỌC “CHẤP CHỚI”, THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Dầu tác giả Đỗ Anh Tuyến đã viết một bài bình cho bài thơ này
và nhận xét “Chấp Chới chưa phải
là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình”
thì tôi
vẫn đánh giá nó là một bài thơ hay vì nó đã là “một bài thơ khá, trên mức trung bình” thì phải là một bài
thơ hay rồi. Tôi đã viết nhiều bài cảm nhận về thơ Đặng Xuân Xuyến
nên tôi không muốn viết nữa về anh. Thế nhưng đọc “Chấp Chới”
xong thì trí óc tôi cứ ngứa ngáy như thơ anh có chất gì gây
ngứa cho tôi. Ngứa thì phải gãi, không gãi thì nó cứ ngứa. Vậy nên tôi
phải viết. Đây là viết cho tôi, như mình tự gãi cho đã ngứa mình, chớ
không phải viết cho nhà thơ chút nào.
Khổ thơ thứ nhất vào đề cho ta liên tưởng đến hình ảnh xa xưa
của cái thời hát dân ca thịnh hành ở các miền quê Bắc bộ.
Có người líu ríu theo
chồng
Buông lơi lời hát
Bỏ ngày xuân ngăn ngắt
Thúc nhịp trống dồn...
Các cụm từ “líu ríu theo
chồng” cho ta nghĩ đến một đám cưới ép duyên.
Rồi các câu thơ “Buông lơi câu
hát/ Bỏ ngày xuân ngăn ngắt/ Thúc nhịp trống dồn” khiến ta liên
nghĩ đến vô vàn hội hè, đình đám gọi là “văn hoá phi vật thể” của
cái thời mà nông thôn còn nguyên bản sắc của nó. Ngày nay, các hội
hè đó được lập lại một cách giả tạo mà nếu đưa vào thơ thì nó
trở thành nhạt nhẽo cho thơ. Vậy nên đọc bốn câu thơ trên ta phải nghĩ
về quá khứ thì mới thấy rung động bởi vàng son của một thời và
bởi niềm đau của người phụ nữ trong thời lạc hậu xa xưa mà ngày nay
rất ít xảy ra.
Vậy khổ thơ hay chổ nào?
Hay ở chỗ nói cụt ngủn mà lại diễn đạt tràn lan. Ta đọc thơ,
hiểu được tính cách cô gái, thấy được làng quê yên bình, cảm nhận
được dáng dấp cô gái bị ép theo chồng, và tất cả tâm hồn ta như
đứng giữa cái khung cảnh yêu thương, gắn bó, cộng với nỗi buồn điểm
xuyết, làm cho thi vị trong tâm hồn được thắm thiết thêm.
Vế thơ thứ hai diễn tả cái gì?
- Thất tình và đi tìm kỷ niệm:
Se sắt buồn
Ơi người “xe chỉ luồn
kim”
Ơi người nhớn nhác đi
tìm
Đầu ghềnh cuối bãi
Lời xưa có còn mê mải...
Người “xe chỉ luồn kim”
là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se
sắt”. Còn người ở lại thì lang thang “Đầu ghềnh cuối bãi” và mê mải trong tâm đi tìm kỷ niệm của quá
khứ.
Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà dựt”, “cà dựt”,
nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng gì nhau,
nhưng chính cái “cà dựt” đó làm cho
tiếng thơ trở nên dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm
xúc và trọn vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.
Qua khổ thơ thứ ba
tác gỉả Đặng Xuân Xuyến dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên
tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm
cho nghẹn ngào, uất ức:
Tìm ai...
Kìa ai...
Lừng chừng câu hát
Gió gằn ràn rạt
Trời mưa...
Chấp chới cánh diều.
Cuối cùng, tác giả dùng câu thơ “Chấp
chới cánh diều” để hình tượng cho bài thơ “Chấp Chới” của
mình. Đó là một kết luận tuyệt hảo diễn đạt toàn bộ sự chao đảo,
nỗi cô đơn và vẻ đẹp lung linh của mối tình như cánh diều chấp chới
giữa bầu trời.
“Chấp chới” là một bài
thơ vô cùng “chấp chới”. Nó đúng
như là cánh diều vút lên rồi chao lượn trên nền trời. Nó làm người
xem cứ ồ lên tán thán vì nhìn đã con mắt, bởi chính “Chấp chới” là một “cánh diều” vừa lạ lại vừa lả
lướt tung hoành trên bầu trời, đem lại cảm giác mãn nhãn cho người xem ./.
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
MỘT TÔI
(tặng cháu Đặng Hải)
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi
Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài tôi với tôi!
*.
Hà Nội, 22 tháng 11.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“MỘT TÔI” - CUỘC ĐỘC ẨM NHIỀU CẢM XÚC
Trước hết là bài “Một
tôi” với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có
6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:
Một chai
Một chén
Một tôi thôi
Một đêm gió quẩn chỗ tôi
ngồi
Một bàn tay lạnh
quờ vai lạnh
Một tiếng thở dài
tôi với tôi!
Chai rượu chỉ có
một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm
gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy
rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi
lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12
chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Đông vốn
kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có ai
khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm,
uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối cảnh không gian và thời gian
lại là:
Một đêm gió quẩn
chỗ tôi ngồi
Một đêm, một làn gió
cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ
bé.
Thi nhân đã cô đơn lại
thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí
bao quanh lạnh lùng là không thể khác.
Vì vậy, nhà
thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:
Một bàn tay lạnh
quờ vai lạnh
Bàn tay của mình
quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình
tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên:
Một tiếng thở dài
tôi với tôi!
Tôi với tôi, không có ai
chia sẻ.
Bài thơ ngắn mà
giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài
thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng
trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng
để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm
gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa,
bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra
bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn
canh,
Giật mình mình lại
thương mình xót xa.
--------------
(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi
buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)
*.
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy,
Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“MỘT TÔI” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN
XUYẾN
Người ta thường nói
những gì nghĩ ra trong lúc say, nói trong lúc say là những gì chân thật nhất.
Đó cũng là lúc mà những bài thơ mà chính tác giả khi say viết hoặc khi tức cảnh
sinh tình viết ra nói lên biết bao tâm trạng của kẻ say rượu hay nói đúng hơn
là say tình.
Khi nói về thơ về rượu
với những cảm xúc buồn của chính tác giả, chiêm nghiệm về nỗi buồn nhân thế thì
đều thấm đẫm nhân tình thế thái. Người ta thường nói thưởng trà không nên quá 3
người vì sẽ không cảm nhận được cái ngon của trà, cái hay của câu chuyện người
nói. Còn thưởng rượu thì cần phải từ 4 người trở lên thì cuộc vui mới dài mới
lâu. Thế nhưng, có những cuộc rượu “độc ẩm” một mình của nhà thơ. Ấy thế mà
say, mà đau mà buồn mà tràn đầy cảm xúc xuyến xang khó có thể “tỉnh”ngay được.
Nếu bạn đang yêu, đã yêu
hoặc trải qua một cuộc tình dang dở hay đơn giản đang buồn vì “không hiểu vì sao tôi buồn” thì hãy
cùng Duy Quang hòa mình trong những áng thơ của nhà văn Đặng Xuân
Xuyến dưới đây nhé. Mỗi bài thơ của ông đều để lại cảm xúc chân thật nhất, đảm
bảo sẽ nói lên được tâm trạng của chính bạn.
Cả bài thơ chỉ có 6 câu
đều bắt đầu bằng từ “Một”. Như vậy
cũng đủ để thấy cái cô đơn hiu quạnh của thi sĩ khi chỉ có chén rượu làm bạn mà
thôi. Một chai rượu này có to hay nhỏ thì cũng có quan trọng gì. Quan trọng là
chỉ có một chén kia. Người uống rượu thật chẳng biết tâm sự cùng ai. Nhất là nó
lại trong một không gian không thể hiu quạnh hơn:
Một đêm gió quẩn chỗ tôi
ngồi
Cái đêm lạnh ấy, làn gió
cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé. Thi
nhân thì cô đơn đến làn gió cũng cô đơn không kém. Tác giả thật tinh tế khi đã
nhân hóa cơn gió như một con người đến làm bạn với mình vậy. Nhưng vẫn không
thể nói hết được cái buồn nơi đây. Không có ai sẻ chia, chính bàn tay lạnh cóng
của mình quờ lên vai của chính mình, buông một tiếng thở dài trong đêm cô đơn.
Bài thơ thật đặc biệt.
Ngắn gọn và súc tích với nghệ thuật điệp lại từ “Một” ở mỗi đầu câu. Các câu thơ liên tiếp nhau từ 2 tiếng đến 3
tiếng diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi
thở dài buồn bã.
Khi đọc những vần thơ
của Đặng Xuân Xuyến, Duy Quang bất giác lại nhớ đến tâm trạng nàng Kiều của Đại
thi hào Nguyễn Du hơn 200 năm trước:
Khi tỉnh rượu lúc tàn
canh,
Giật mình mình lại
thương mình xót xa.
Phải chăng đó cũng chính
là tâm trạng xót xa, bẽ bàng cho thân phận của mình mà Đặng Xuân Xuyến không
nói ra?!
--------------
(Trích từ “Chùm thơ về rượu hay nhất, cảm xúc, tâm trạng” của Nguyễn Duy
Quang)
*
NGUYỄN DUY QUANG
Địa chỉ: Số 254 Nguyễn
Đình Chiểu
Phường 6, Quận 3, thành
phố Sài Gòn.
Email: kenhsntv.vn@gmail.com
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp
hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của
mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Là người Việt Nam không
ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời.
Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài
thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều
câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại
thương cho phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính
quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy
vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công
bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới
đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang
đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi
mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống mỗi vùng
quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát
khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh
áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.
Nhìn từ bên ngoài:
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt
thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật bên
trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng
con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra
rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị
cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ
hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi
mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu
từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà
nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể
tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải
rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ…
Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ
khắc họa cái nghèo rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo
khó
Mà cuộc sống khổ nghèo
trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn
mai chưa biết thế nào.
Hình ảnh trong bài thơ
của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi
những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba
nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây
còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt
nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên
người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được
lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc
suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên
nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài,
tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê
đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình
không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển,
nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với
biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn
nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt
lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như
thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than
đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được
hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta
cái tình, tình người muôn thuở.
Làng thơ Việt Nam bây
giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật
đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội
nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song
ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch,
bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì
để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất
công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú...
*.
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh
Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG
Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường
được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh
Pháp Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà
tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê nghèo” của Phạm Duy mà tôi
có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình,
cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre còm tả tơi”…
Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn
không còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân
chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi
dần vào lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm
đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào
hợp tác xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng
ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì thế hai
tiếng “Quê nghèo” cũng lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.
Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê
nghèo” lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm
“Quê nghèo” một thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê
nghèo” còn như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!
Bài thơ Quê
nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một
tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ
chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của
người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi
mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên
tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì
có thể thay đổi được qua năm tháng.
Tuy nhiên, vẫn lác
đác nhà tranh thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn
tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan
mồ hôi mặn chát” thì không dễ gì thoát được khi mà người dân
quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu
từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ
tư phải tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm
vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu
lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không
phải là cánh cò bay lả bay la/ bay
từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà
phải là những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…
Bài thơ Quê
nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê
nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã
qua không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến
vậy: lũy tre còm tả tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn
trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:
Chiều rơi thoi thóp trên
vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy
Nhưng trong tiếng kêu
thống thiết ấy vẫn còn có niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo
khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu
thương của mẹ:
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi
Sau hơn 60 năm đi theo
con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng
quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê
tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc
Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200
năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài
trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố
Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê
nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi,
là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong
giấc đói ngủ của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy
không giấu giếm trong cảnh chợ làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế,
không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người
và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ
quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần
gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của
văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay,
bao người ao ước: Muốn cho gần chợ mà
chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ
quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng
rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải
gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả
đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn
chút sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi
lòng khi thấy hình hài lũ trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Nhìn lũ trẻ Quê
nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát
trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió
đẩy… về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…
Rồi lại ùa về thêm trong
tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: “cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi
chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn
vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu,
quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa
nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó
là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt
gà con luộc..." (trích Chiều chiều).
Bây giờ đâu còn dễ kiếm
được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng,
rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên
lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.
Những thân hình đói khổ
ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như
chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh
chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên
đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông
nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?
Hãy nghe nhà thơ cắt
nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau
truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Tiếng oan khiên từ thời
Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội
của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở
làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của
làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được
dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng
làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở
điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ
ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa
đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ
màng
Hiện ra khi thoáng cổng
làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không
còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng
quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành
chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt
thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người
ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ kết thúc với hai
câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là
cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc
mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo
thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì
chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ!
Trong muôn vạn bài thơ
của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những
bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm
độc, thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được
những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà
thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động
thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những
tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người
đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.
*
Sài Gòn 17 tháng 06/2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy,
Quận 7, Sài Gòn.
Email: bnguyen37@gmail.com
“QUÊ NGHÈO” -
XÓT XA NHỮNG TIẾNG LÒNG
Ngoài kia Ngâu đang rả
rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!
Mà cũng lạ, cái quê này
ở đâu vậy nhỉ? Cố tìm một địa danh mà chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên tưởng đến quê
mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương gần lại càng
thương.
Tác giả đã nói hộ mọi
người:
Quê tôi nghèo lắm
(…)
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu ...
Đọc hai câu thơ này
giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác
giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả
đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn
về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa
trọn!
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ ...
Trời ạ, khi đói chả ai
ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng
réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ
mà không làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên
đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa,
đến: Cánh cò (còn phải) bấu bíu
lời ru!
Câu thơ đến đây làm
nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương
cái thân phận của mình.
Có người nói: muốn biết
vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua.
Ế bán
Chán mua
Lại một lần nữa cách
diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất
nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật,
tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa
hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên
đồng đất của mình.
Người nông dân thua trận
ngay trên quê mình, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy.
Đặng Xuân Xuyến
ơi:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như
là rơi nghiêng”
- (Trần Đăng Khoa)
Đặng Xuân Xuyến đã làm
tôi liên tưởng so sánh về sự hòa hồn với quê hương tới mức đồng thể!
Ngạc nhiên thật. Thơ
không giấu được về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và
công bằng.
Bẵng đi... đến thời nay
(mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):
Chiếc cổng làng dựng nên
thật đẹp
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai...
Để:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Quê tôi nghèo
Nghèo (đến) cả giấc mơ!
Đúng là hình ảnh làng
văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn
làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi
nghèo! Ta đã thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng
thèm thích nghi nữa.
Con cò: bấu
víu lời ru
Con người: nghèo
cả giấc mơ!
Mơ chả mất tiền, không ai
đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời.
Ngoài kia giọt mưa thu
đã ngừng rơi
Còn trong lòng mưa vẫn
rơi sùi sụt!
Thương cho những quê
nghèo với những xót xa tiếng lòng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân
Xuyến!
*.
BÙI ĐỒNG
Địa chỉ: 3/176 Phan Đình
Phùng, t/p Nam Định.
Email: hatbuinhangian.db@gmail.com
ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”
- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -
Bài này (Quê Nghèo) nhà phê
bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi
pháp.
1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không
bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy
luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ
dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực
tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ,
câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải
mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả
không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê
dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một
cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ
nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn
mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già
cỗi.
Và:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Tiếng oan khiên từ thời
Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Không biết do tác giả có
tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh,
sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu
thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất
khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội
cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh
toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn
hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ
nhịp điệu thơ nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp
nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo
được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.
Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”
Tôi đã để ý đến “cách làm
thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất
nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người
trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web
lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh
bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi
thường đi sau thiên hạ một bước.
Hôm nay, nhân dịp viết
loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê
Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn
hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh,
có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con
chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng
của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”;
tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp
số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn
Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài
thơ” của anh bị lãng quên.
Theo tôi, riêng về phần
kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với
Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 - anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt
là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá
anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp
(đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của
thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến
lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì
với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.
*
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.
Email: nhidpham@gmail.com
CHIẾC CỔNG LÀNG ĐẶC BIỆT TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
“Quê
nghèo là một trong số những
bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con
khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao
thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm
tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình
tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng
qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn
thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là
cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế đã
giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng
kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ
cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai”
cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các
loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm
đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng -
biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không
chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”,
mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức:
“Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ.”
--------------
(Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)
*.
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng
Hòa, thị trấn Thanh Nê,
Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn
VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Chưa bàn đến hay, không
hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ
này:
“Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác
giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Cảnh quê nghèo này nó
nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét.
Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng còn nhiều người đói khổ, tuy
nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đã đổi đời, con em họ
được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xã hội. Tuy nhiên xã hội
nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt tích cực.
Với bác PHẠM ĐỨC NHÌ
Dù cho tôi không biết bác
là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn
và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi
bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của
anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”.
Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc
lúc yêu đương phải không bác?
“Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết
bài thơ để đời của mình.”. Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn nữa đưa
ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.
Nếu nghe câu này chắc
chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình
ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật
tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm,
hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để
bài thơ hay hơn.”.
Điều này rất thẳng thắn,
tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc
của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.
Tuy nhiên bác vẫn thừa
nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng
rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho
bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi
“gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ
mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.”
Nếu không thực sự yêu mến
nhà thơ thì bác ấy đã không mất công để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý như
là góp ý cho một đứa con trai.
“1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi;
số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ,
tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh,
thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng
con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ
một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.
2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ
tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau
thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu
đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như
ăn chè vừa đủ độ ngọt.
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng
trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ
thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo
cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2
cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không
đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện
cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo
hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn
tượng.”
Dù muốn hay không muốn
bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân tình: “Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”
Tôi không hiểu nhiều về
bóng đá, và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức
Nhì có một nhận thúc khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù
đôi lúc vẫn còn giữ thói quen của những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng
về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội
(thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ
của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén”
một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra
không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho
đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”
Với CảnhThư Sg:
Người thực sự chấp nhận
được sự suy nghĩ khác với mình là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời,
tôi không biết tác giả đã từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?
Nhưng lời bình dù chỉ
trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ
hiểu được điều này nên không lên tiếng phản bác?
Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người
đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì
bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có
tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ
rồi”.
Bạn nói rất đúng, nếu
không yêu thì bình làm chi? Còn việc bạn cho rằng : “Ở một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay
không?
Đành rằng bây giờ không
chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: “người đọc thơ cũng chả ai được học và cần
học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở,
quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người ngoại đạo thì tôi nghĩ, ai
cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng của mình. Nhưng tùy theo
trình độ và chuyên môn mà người bình có thể đánh giá bài thơ đó theo cách riêng
của họ. Còn theo bản thân tôi một bài thơ có ý tứ hay người nghe cảm thụ, ngoài
ra còn có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn bát cú, thơ Đường Luật, thơ
thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái hay, cái tài tình cái thông
minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua thơ người ta có thể hiểu thấu
được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố ai tìm được chỗ sai nào trong
bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!
Vài ý kiến của một người
ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không
đến tận nơi.
*
Ngày 05 tháng 04 năm 2018
NGUYỄN BÍCH THỦY
facebook: Nguyen Bich Thuy
VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ
“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh việc mổ xẻ bài
thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở Bỉ.
Tôi thích bài viết nầy vì lời văn điềm đạm, dễ
thương. Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm
Đức Nhì thì nhiều mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao, đó là phong
cách riêng của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn
Bích Thủy đã cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”.
Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng “sau cách
mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi
đời nầy thì phải nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay
trong làng, chứng kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ” có khi còn hơn trước. Điều
Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá
cờ đỏ” đã làm chế độ tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một
đời văn.
Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến
trong bài viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về bài
thơ Quê
Nghèo:
“Quê nghèo
là một trong số những
bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con
khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao
thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm
tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng -
hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong
khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”
Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê
nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của
tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về nỗi đau đã
đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần
ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ lụy cho người
nông dân.
Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được
trong một bài thơ hay trong một vài trang giấy.
Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích
Thủy bài góp ý nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến”
của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:
“Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại
là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi
lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị
Dậu
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên
thật đẹp
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Bài thơ cho ta thấy một
nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói
rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau
nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu
nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người /
Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh
cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.”
Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau
vì tôi thấy mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.
Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả
Nguyễn Bích Thủy bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.
*.
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà
Nẵng.
Email: truongvantran@hotmail.com
TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY
Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ
Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có
nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp
Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không
Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô
thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính
thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề.
Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó.
Nguyễn Bích Thủy:
Chưa bàn đến hay, không
hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ
này:
“Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...”
Đây là chủ quan của tác
giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.
Phạm Đức Nhì:
Nếu cô Nguyễn Bích Thủy chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại