BẠN ĐỌC CẢM NHẬN VỀ

 THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*

Gồm 50 bài thơ:

1. HƯƠNG QUÊ

2. HƯƠNG THU

3. THU LẠNH 

4. THU SỚM

5. MƠ ĐÊM

6. EM

7. RƯỢU SAY

8. ẨM TRỜI

9. THIẾU NỮ

10. NHỚ MẸ

11. VỀ QUÊ ĐI MÀY

12. VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

13. ĐƯỜNG DÀI

14. LỠ

15. CHUNG

16. RU CON

17. CHIỀU LẠ

18. CHẤP CHỚI

19. MỘT TÔI

20. QUÊ NGHÈO

21. GÁNH HÁT

22. DẤU HỎI

23. BẠN QUAN

24. QUAN TRƯỜNG

25. LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN

28. LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU

27. NHỚ

28. NGƯỜI DƯNG

29. MƠ TRĂNG

30. SAY YÊU

31. ĐỜI NGHỆ SĨ

32. ĐỜI KHÁT

33. VIẾT CHO NGÀY VALENTINE

34. TIM ĐAU

35. MEN ĐẮNG

36. TÌNH NỞ

37. TÔI NGHE

38. CUỒNG YÊU

39. HỒN QUÊ

40. RÉT CẰN

41. CÒN YÊU

42. ĐỪNG ĐI

43. HOA NHÀI

44. VIẾT CHO KHỜ

45. TRÒ ĐỜI

46. THẾ GIAN SAY

47. TÒ HE

48. BỎ YÊU

49. Ở LẠI

50. ĐỢI XUÂN...

 

HƯƠNG QUÊ

 

Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm

Cô bé thậm thò vắt ngang dải yếm

Níu bờ sông

Ơi ời “ra ngõ mà trông”

Vi vút gió đồng...

 

Ngẩn ngơ 

giấc mơ

Níu đôi bờ bằng dải yếm

Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm

Áo tứ thân trải lá lót nằm

Gom gió lại để chiều bớt rộng...

 

Thẩn thơ

Tiếng mơ thầm thĩ

“Người ơi...

Người ơi...”

Dan díu lời thề

Ngõ quê líu quíu.

*.

Hà Nội, chiều 31.08.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “HƯƠNG QUÊ”

Thơ Đặng Xuân Xuyến thường chơi cái trò ỡm ờ. Lời ít, thấy nhiều, hiểu rộng, suy diễn sâu xa tùy người. Do đó thơ Đặng Xuân Xuyến thường gặp phải hai dòng cảm ứng khác nhau: người cho dở kẻ khen hay.

Đọc bài thơ này thấy ngắn quá, có cái gì cụt cụt, thiếu thiếu làm cho ta ấm ức trong lòng. Nhưng chính cái thiếu thiếu, cụt cụt đó làm ta cứ thòm thèm như mới ăn nửa cái bánh thì bánh có dở cũng thành ngon mà bánh ngon cũng chưa biết hết mùi vị chính xác thế nào. Cái đó thương thì nói nghệ thuật mà ghét thì nói xảo thuật. Nghệ thuật hay xảo thuật thì cũng là một thành công của sự kết cấu bài thơ, của ý đồ tác giả.

Đọc bài thơ ta thấy cái dải yếm nó lớn thật, nó vắt ngang níu bờ sông, rồi nó làm náo động cả xóm làng: Ơi ời "ra ngõ mà trông". Sự náo động đó thật ra không phải của xóm làng đâu mà là của chàng trai kia đến tuổi động yêu mà thôi. Cái "Hương cốm" cũng chưa chắc của nhà ai đâu. Cái hương đó có thể tỏa ra từ dải yếm phơi bên bờ sông thơm đến độ nhà ai cũng ngửi được mà cứ tưởng rằng của nhà bên cạnh duyềnh sang.

Cái thằng con trai cũng chết mê chết mệt. Nó ngẩn ngơ mơ giữa ban ngày thấy sông, thấy nước, thấy gió, thấy cả trời chiều nằm trong yếm, trong tóc, trong áo cô gái kia. 

Nó ở bên này sông mà cô gái phơi yếm ở bên kia sông. Vậy mà con mắt lãng mạn của nó thấy "níu đôi bờ bằng dải yếm".

Rồi thì thằng con trai yêu đến độ tâm thần đi lang thang và thì thầm trong miệng "Người ơi...Người ơi...." Nó "dan díu" thế thì chẳng khác chi Bùi Giáng dan díu với nàng Kim Cương xưa vậy.

Người chơi ngọc có khi chưa mang chiếc kính nhìn ngọc thi chưa thấy hết giá trị của nó đâu. Người đọc thơ cũng vậy, nên chịu khó nhìn thơ qua con mắt lãng mạn của mình như mang chiếc kính kia thì sẽ khám phá được thơ hay vậy./. 

*                        

CHÂU THẠCH 

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN NÍU DẢI YẾM ĐI VỀ CÕI YÊU

Tôi mới biết và còn chưa kịp quen nhà thơ có lối viết rất riêng này...

Tôi với nhà thơ cách nhau khá xa về tuổi tác, nên đọc "Cưỡng Xuân" và một số tác phẩm khác của anh, tôi cứ phải né né... nín nhịn từ xa mà vẫn chưa sao "thấu cảm" được với anh.

Rồi hôm nay tôi lục được bài này trong blog của anh. Tôi thích nó. Tôi thích cái lối tưng tửng này. Cái già dặn hơi buông tuồng, nửa "đồ nho" nửa "Tây bồi" như gói, như mở, như kín, như hở ... rất lạ, khiến người đọc vừa đỏ mặt tý, vừa tò mò tý, vừa lại như bừng bực, vừa khó chịu để rồi bị cuốn thụt lút trong mê đắm của mênh mang tâm tưởng và men nồng như say như tỉnh của một loại rượu chả cần phải nhắp môi cũng tự lâng lâng.

 Tưng tửng "hắt" thiên hạ sang một bên ngay từ câu đầu: "Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm".

Giọng điệu gì mà dửng dưng, vênh vênh, ngạo mạn một cách khó chịu của một kẻ trai tự biết mình cao giá. Cái kiểu "Các người cứ làm hàng cho các người tự ngắm đi, còn trai đây thì”... thì ba hồn bảy vía còn để ở "cái dải yếm vắt ngang" của "cô bé thậm thò..." kia. Rõ là đa tình đến độ và tinh ranh đến độ... đến độ ngoa dụ cho nàng "níu bờ sông" bằng cái dải yếm... rồi trầm trồ "Ơi ờira ngõ mà trông" ...

Trông cái gì đây? chắc không phải chỉ trông cái dải yếm, dù cái “dải yếm" đang phất phơ "vi vút gió đồng" ... Không cần giầu tưởng tượng lắm ta cũng thấy một tấm lưng thon thon nuột nà con gái của dải yếm đã buông lơi, thấy thấp thoáng cặp tuyết lê kín hở khi cái yếm bung dây bị gió đồng ren rén bồng lên phập phồng đùa giỡn…

Cái yếm thắm bung dải ngang phơ phất mặt sông, cái lưng mịn nâu màu mật, cái cổ ngấn ba, cườm tay săn nhỏ như giữ, như cởi, như thắt, như buông, như tung, như hứng theo nhịp dập dềnh phóng khoáng của gió lộng chiều quê thanh vắng nên thơ... trên bên sông xanh nước in mây, trên bãi cỏ non cạnh cánh đồng lúa ngô mướt mắt màu nõn biếc.

Một nét chấm phá cho một bức tranh. Một cuộc đòng đưa cho cuộc tình mơ nồng nàn như mâm cỗ đầy có ngọn thịnh soạn, thơm tho... hình như ai đó đã cất công và tỉ mẩn chuẩn bị, bày đặt... và ai đó cũng chỉ chờ có thế. Họ chờ, cùng chờ... "Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm, Áo tứ thân trải lá lót nằm..." Thơ chả nói đến ai, chả nhắc đến ai... mà ai cũng rõ là AI "Gom gió lại để chiều bớt rộng " ... 

Mà rồi chiều chẳng có rộng đi nữa thì họ vẫn gom gió lại. Họ cần gì rộng hay chật vì bão giông đã nổi lên cuốn tình chìm nghỉm ... chỉ còn dập dềnh dải yếm “nối đôi bờ".

Đôi bờ nào? Cần gì phải nói. Dải yếm đâu? Cần gì phải hỏi? ... Cứ thả ra mà suy, cứ nhắm mắt lại mà tưởng...

Tình bồng bềnh, gió bồng bềnh, dải yếm bồng bềnh... trong "Ngẩn ngơ giấc mơ..."...

Cái dải yếm thắt cho tình hai bờ khít lại, cái dải yếm cởi cho "tòa thiên nhiên" (chữ trong Truyện Kiều) lồ lộ, cho hương ai quyện vào gió ngát, và vị cỏ dịu ngọt, và ướt át sông nước mịn dòng quấy đạp tùy nghi...

Một cuộc tình nên thơ với những câu từ trong cuộc nghe như vô nghĩa, cứ nói để mà nói, nói không để nghe. .."Người ơi… Người ơi..." ngôn từ được tác giả gọi bằng "tiếng mơ thầm thĩ". Rõ là chả có lời yêu, rõ là chả có lời mê đắm mà chỉ có một cuộc tình như nó vốn đã là như thế, không cần lời, không cần xoa xuýt âu yếm... mà chỉ với vô nghĩa từ, câm lặng bốc ngùn ngụt như hỏa diệm sơn... mà lại vẫn có cái gì vụng trộm dấu diếm khi ta đọc đến "Dan díu lời thề / Ngõ quê líu quíu" thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê.

Cuộc tình đó chất phác như hạt lúa củ khoai. Cuộc tình đó là vô ngôn tình lại  có cái gì đó như vội vàng dấu diếm, như trao gửi vụng về, lại trong trẻo chân thành... vì từ ngữ là thừa, là tạp âm, là xáo trộn nguồn yêu.

Nhưng trong những đắm say, những “thẩn thơ” với tình yêu "tiếng mơ thầm thĩ" vẫn còn thốt ra những: "Dan díu lời thề" khiến "Ngõ quê líu quíu"... thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê. Tình yêu ấy bản năng trong trẻo và mộc mạc, không tính toán, không ngoa ngôn kiểu cách, tự nhiên chân chất như con sông, như bờ cỏ.

Một bài thơ ngắn, khá ngắn với từ ngữ mộc mạc, nói về cái dải yếm, neo sông, cách tả hình không có hình, cách tả tình không có tình.

"Hương Quê" là bài thơ nói về yêu mà không dùng một chữ yêu. Một bài thơ tả tình lồ lộ mà không có một ngôn từ nào chỉ tình ấy, mà khi gặp nó, người đọc vẫn thấy ngồn ngộn cảnh, ngồn ngộn tình, ngồn ngộn bão giông mây mưa ào ạt, thấy lớp lang của sự dâng hiến, trao gửi cuộn trào. 

Đó là cái tài tình và già dặn của một cây bút, mà khi ra đời đã không còn nhìn thấy yếm áo lỏng lẻo gợi cảm của thiếu nữ nông thôn hay thành thị lững lờ sau vuông yếm mỏng manh nửa kín nửa hở... mà viết như vậy thì:

Nếu không có vốn kiến thức về xưa cũ, khó có thể viết ra điều ấy. Nếu không hòa mình trong mê đắm cuộc tình cũng không thể nào viết gợi thế được.

Với tôi, đây là bài thơ gợi tình thật đáng đọc. Đọc để thấy Đặng Xuân Xuyến đang níu dải yếm đi về cõi yêu theo kiểu độc đáo riêng mình.

*.

Hà Nội, 14 tháng 10.2017

BÙI CỬU TRƯỜNG

Địa chỉ: phố Trần Quang Diệu, phường Ô Chợ Dừa,

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

 

NGÕ QUÊ ĐỘC ĐÁO TRONG “HƯƠNG QUÊ”

Bài thơ viết về cái ngõ quê với rất nhiều bảng lảng khói sương. Thật khó để bình luận vì tất cả thi ảnh ở đây đều ẩn chứa cái phi lí tận cùng của phi lí. Cái hư ảo tận cùng của hư ảo. Câu đầu tiên hiểu thế nào là nhà bên và hiểu thế nào là nhà hàng xóm mà hương cốm đầu mùa đã duyềnh sang nhau. Sao cứ phải ợm ờ? Cái ợm ờ như các cụ vẫn bảo trăm nhát cuốc bổ vào lòng cả trăm. Một câu thơ đã cho ta cảm nhận được mùi hương cốm ở đây vừa quấn quýt, lan tỏa và quyện hòa, vừa thân thương ràng buộc hai ngôi nhà và trong hai ngôi nhà đó có một chàng trai si tình và cô gái vắt ngang dải yếm. Dải yếm là thứ để buộc chặt và che đậy sao ở đây nó lại vắt ngang và vì sao nó lại vắt ngang thì may ra ông trời và Đặng Xuân Xuyến hiểu được mà thôi. Còn chúng ta những kẻ trần tục làm sao có thể hiểu được? Phải chăng cái dải yếm ấy vắt ngang để níu dòng sông để bắc cái cầu đón nhà thơ sang chơi. Tất nhiên khi cái dải yếm được cởi ra để vắt ngang thì chắc chắn nhà thơ đã nhìn thấy một bầu ngực căng đầy khát vọng. Vui quá nhà thơ cứ ời ợi gọi cả làng ra mà trông chúng tôi đang làm cái việc mà chỉ có sức mạnh tình yêu mới có thể làm được. Thật kì diệu cái dải yếm chỉ tày gang thôi mà sao ở đây cứ dài mãi ra đến vô cùng có thể níu đôi bờ sông xích lại gần nhau cho những lứa đôi xum họp thay cho con đò nhỏ mong manh. Để không còn tiếng gọi đó thảm khắc trong đêm.

Đến đây thì chất phồn thực đã lấp đầy từng câu thơ, từng chữ thơ rồi. Họ đã làm được cái việc phi phàm nhất: "Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm". Bộ tóc được bao lăm mà có thể chuốt làm chăn làm gối. Ở đây qua câu thơ chở đầy khát vọng đó ta chỉ thấy được cái đầu hầm hập nóng của nhà thơ đang được gối lên và vùi lấp trong mái tóc dài sóng sả của em thôi. Cái dải yếm thì bỏ ra làm cầu còn áo tứ thân cũng được cởi nốt để trải lá lót nằm! Bạo liệt quá họ chẳng cần phải dấu diếm làm gì vì đó là đích đến cuối cùng của tình yêu và sự sinh tồn nhân loại. Thế vẫn là chưa đủ đối với hai người đang khao khát thì chiều ở đây như càng rộng thêm ra lấy gì để khỏa lấp chắn che? Đôi trai gái ấy lại làm thêm một việc phi phàm nữa, họ đã níu được cả gió để buộc cho chiều bớt rộng để đêm chóng về...và chỉ còn bóng đêm nhốt chặt hai con người đang khao khát. Có phải thế không thi nhân?

Nhưng…Vẫn luôn tồn tại một chữ nhưng oan nghiệt vì đây chỉ là: "Thẩn thơ / Tiếng mơ thầm thĩ / “Người ơi... Người ơi...” / Dan díu lời thề / Ngõ quê líu quíu.”

Chỉ là một tiếng mơ thầm thĩ, gian díu một lời thề trong cái ngõ quê líu quíu. Cái ngõ quê rất đặc trưng của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.

Trong đời chỉ có tình yêu trong mơ là đẹp. Hay nói khác đi tình yêu chỉ là tiếng gọi thầm thĩ của những giấc mơ chứ không bao giờ có thật.

Từ trong tiếng gọi mơ thầm thĩ ấy bằng ngôn ngữ thi ca Đặng Xuân Xuyến đã sáng tạo ra một ngõ quê độc đáo nhất trong đời… Tôi nghĩ thi ca luôn là như thế, luôn là sự vụt hiện lóe sáng của cảm xúc, của tài năng!

Tôi rất mến yêu và trân trọng những bài thơ đã đến được với sự tối giản của ngôn ngữ, nhưng lại chứa đựng tối đa những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm cho chúng ta để cùng thăng hoa và suy ngẫm./.

*

Bắc Ninh, 04 tháng 11.2018

NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,

Phường Vệ An - Thành phố Bắc Ninh

 

HƯƠNG THU

 

Ô kìa chiều

Ai thả nắng vương cây

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt

Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt

Da diết bổng trầm xao xác sông xưa

 

Ta hỏi chiều

Thu đã về chưa

Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ

Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen.

 

Ta hỏi chiều

Sao rất đỗi thân quen

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời.

*.

Hà Nội, chiều 07 tháng 08 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG THU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Giữa một đô thị như Hà Nội gần như đã chật cứng xe cộ, nhà cửa, âm thanh… Trừ những người giàu có, quyền tước chiếm giữ được những khoảng không gian riêng có cây che bóng mát cho những ô cửa sổ mở ra để nhìn ngắm ánh trời… Còn cuộc sống của hầu hết mọi sinh linh chọn thành phố làm nơi cư ngụ. Âm thanh chát chúa, khói bụi cay mù, xe cộ với tốc độ luồn lách… Nhìn những dòng người, dòng xe với những chiếc mũ bảo hiểm dọc theo những con đường nắng bốc hơi ngùn ngụt người đã thấy nôn nao như mình đã lạc sang một “tiểu hành tinh” nào đấy mù xa… Không biết làm thế nào đấy mà người thơ vẫn có một buổi chiều Hà Nội, vẫn dành riêng cho mình một cõi đắm say thanh thản. Ta như nghe được tiếng reo của người đang chìa bàn tay chờ đón mùa thu bằng cảm giác mùi hương.

Tạo hóa ban phát riêng cho những người làm thơ thứ hạnh phúc không ai có thể tranh giành, không luật pháp khắc nghiệt nào có thể ngăn trở tâm hồn người ta đến với cái đẹp; người thơ như được đứng riêng một cõi:

Ô kìa chiều

Ai thả nắng vương cây

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt

Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt

Da diết bổng trầm xao xác sông xưa

 Tóc rối” của ai bay? Ai nhìn ai “mòn đuôi mắt”? Cái gì “bổng trầm”? Cái gì “xao xác” và “sông xưa” là con sông nào mà thả được dòng trôi vào cái mảnh đất nhà cửa chen chúc những khối bê tông thô ráp mệt mỏi dâng đầy giữa Hà Nội ngày càng ngột ngạt, chật hẹp để người thơ vẽ nên chiều thu thơ mộng, lãng mạn?

Đọc đoạn hai bài thơ Hương thu

Ta hỏi chiều       

Thu đã về chưa

Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ

Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen.

Đọc đến đây ta có thể khẳng định sự mơ hồ của “lá rơi” của ngọn “gió mơn man ve vuốt” của sắc trời chiều “biêng biếc”, thêm vào chút “hương sen man mát” làm cho ngây ngất, mở lòng, chứ anh cũng chưa gặp mùa thu - vì còn phải hỏi chiều “thu đã về chưa”? Nhưng nào say đắm có mất gì, khi lòng ta bỗng dưng bổi hổi, xao xuyến nhớ về một mùa thu đẹp đã đi qua để lại cho hồn ta những vẻ đẹp, những màu sắc âm thanh sáng trong, ngập ngừng, bối rối:

Ta hỏi chiều

Sao rất đỗi thân quen

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời.

Thơ hay thường là những kỷ niệm đẹp nhưng phải được cháy lên hoặc thắt quặn lòng mình.

Thêm vào một tay nghề … Hương thu có nhiều nét đẹp nhưng mới chỉ dừng lại ở những “xốn xang”, còn “thiếu vị buồn”. Bởi cái gì đẹp thăm thẳm thường pha thêm chút ánh buồn (Đẹp và buồn đi với nhau), như thế bài thơ mới chiếm được hết lòng độc giả, mới làm mê mẩn người xem./.

*.

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2016

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.

               

“HƯƠNG THU” - ĐƠN GIẢN MÀ HỒN CỐT CÓ DUYÊN

Lâu lâu mới thấy một bài thơ không có âm tình phiêu phưởng phảng phất liêu trai của Đặng Xuân Xuyến.

Cái mạnh của tác giả nằm ở chỗ cô đọng từ ý đến ngôn từ. Vần điệu cứ tự nhiên tuôn ra một cách thoải mái trong cấu tứ:

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt.

 

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen

 

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời...

Cô đọng đến mức tuyệt đối mà chặt chẽ, vừa đủ để nhớ, làm bài thơ có vần điệu với tâm trạng thay đổi trước cảnh thu vàng.

Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả dùng đại từ nhân xưng AI, tuy cách sử dụng không mới nhưng thật hợp với tâm sự mênh mang, hỏi mà hỏi thôi, trong cái bề bộn của nỗi nhớ, của buổi chiều thu:

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới.

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối. 

Một sự tưởng tượng của thi nhân tức cảnh để bật thành thơ, một tư duy thơ hợp lý và được độc giả chấp nhận lại tạo ra sức sống cho thơ. 

Không có nhân vật cụ thể kiểu như: mình về mình có nhớ ta? Mặc dù chỉ là mặc định nhưng ai cũng thấy mình trong đó.

Rõ ràng bài thơ thật giản dị, không có mỹ từ, không có ý tứ sâu xa, không gồng lên bằng cách tìm kiếm nhọc nhằn từ lạ trái lại thấy gần gũi, dễ mến như đứng trước cô gái chân quê bình dị lại rất có duyên.

Ô kìa chiều! 

Một sự phát hiện đột ngột nên buột miệng: Ô kìa! Từ cái đột ngột ấy cảm xúc tuôn ra, bài thơ không có chủ đề vì nó nói lên rất nhiều vấn đề mà cứ từ từ mở ra theo tưởng tượng nhiều hơn quan sát.

Quả thật tả chiều thu nhiều người làm lắm rồi nên muôn hình muôn vẻ nhưng bài thơ Hương Thu này có một sức nặng nhất định vì có hồn cốt, nghệ thuật nằm trong chính sự đơn giản mà tác giả vô tình nắm được.

*.

Thành Nam, 03.10.2018

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

THU LẠNH 

 

Người đã đi rồi, đi quá xa

Bỏ ta ở lại với quê nhà

Hôm nay về lại thăm làng Đá 

Ngơ ngẩn chiều tà ta với ta…

 

Giếng nước còn trong, bậc đã rêu

Chênh chao chiều vọng tiếng cu gù

Tháng chín thôi mà... sao đã lạnh

Thu vàng vồi vội rải nắng hanh.

 

Ừ, trách gì đâu, chỉ nhớ thôi

Người đi thì cũng đã đi rồi

Nào ai biết được duyên mà đợi

Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi.

*

Hà Nội, chiều 20 tháng 10.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC THU PHAI VÀ THU LẠNH

(Thơ Trần Mai Ngân và Đặng Xuân Xuyến)

Hình như đọc thơ cũng có cái duyên tiền định. Kiếp trước không biết tôi có quan hệ gì với hai nhà thơ này hay không mà kiếp này đọc thơ họ, tôi luôn luôn cảm thấy có một sợi dây trong thơ của họ quấn quýt lòng tôi, buôc tôi phải nghĩ phải suy và phải viết. Như hôm nay bài thơ Thu Phai của Trần Mai Ngân và bài thơ Thu Lạnh của Đặng Xuân Xuyến khiến cho tâm hồn tôi cũng thấy tâm trạng phai và lạnh. Lạ thay, phai lạnh trong cuộc đời thì buồn nhưng phai lạnh trong cuộc tình lại thường làm cho tâm hồn phong phú thêm. Điều đó được chứng minh ở hai bài thơ này, bởi họ không có cuộc tình phai, lạnh thì làm gì có hai bài thơ làm cho ta cảm động. Điều đó cũng được chứng minh khi tôi ngồi đọc thơ họ giữa thời tiết vào đông, bên ngoài đang phai và đang lạnh thì tiếng lòng phai lạnh của họ trong thơ cũng đem đến cho tôi những cảm xúc thăng hoa.

Đọc Thu Phai của Trần Mai Ngân

THU PHAI

 

Thắp hương sùng bái nỗi đau

Gánh buồn ôm hết - ngọt ngào cho ai

Giật mình sợi tóc Thu phai

Làm sao nhuộm hết năm dài xa xưa

*

TRẦN MAI NGÂN

ta thấy thu không phai chút nào mà kỷ niệm mùa thu trong lòng tác giả cũng chẳng phai, chỉ có tóc trên đầu tác giả là phai mà thôi. Vậy thì Trần Mai Ngân dùng tóc mình để nói về tuổi vào thu cúa cuộc đời mình, một cuộc đời mà đeo đẳng một cuộc tình triền miên trong nỗi đau. Lạ thay, nỗi đau đó lại được tác giả “Thắp hương sùng bái” nghĩa là tôn sùng nó và hy sinh cho nó đến nỗi “Gánh buồn ôm hết- ngọt ngào cho ai”. Không cần bíết sâu về cuộc tình ta cũng đoán định được, đây là một cuộc tình lớn trong tâm hồn tác giả. Bài thơ cho ta thấy một thân phận trong tình yêu, thân phận đó phải đối mặt với những nghịch lý trong tình trường, chịu đắng cay với nỗi buồn ôm hết nhưng cũng bằng lòng với hạnh phúc của một thuở xa xưa nào đó, đến nỗi muốn nhuộm lại những năm dài xa xưa ấy như nhuộm cho xanh lại mái tóc mình. Thế nhưng cuộc tình khác với mái tóc, không làm sao nhuộm được.

Bài thơ ngắn nhưng ôm trọn biến cố của thời gian vào lòng, thức dậy trong lòng người đọc những tình cảm khác lạ, trong đó sự ray rứt và cảm mến, sự hờn dỗi và yêu đương, sự thiết tha và hời hợt xen lẫn cùng nhau, khiến cho đọc nó ta như thấy mùa thu tuổi đời đang phai nhưng mùa thu của ngày nào hình như còn hiện hửu mãi trong tim.

Qua “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến ta thấy lạnh ngay, lạnh nhiều, lạnh cóng vì “Người đã đi rồi, đi quá xa”. Bài thơ “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến cho ta một khung cảnh còn héo hắt hơn “dấu xưa hồn thu thảo/ nền cũ bóng tịch dương”.

Hình ảnh cái giếng năm xưa, nước vẫn còn trong nhưng bậc cấp bước lên rêu phủ, giống như yêu vẫn còn nhưng tình đã hóa xa xôi. Hình ảnh con chim cu gù và tiếng kêu của nó trong thu vàng nắng, trong mây tím lưng trời làm cho bức tranh thu vô cùng xa vắng và nỗi buồn thu bàng bạc kia phả xuống, len trong từng ngóc nghách của làng quê.

Những câu thơ buông xuôi, hờn dỗi:

“Ừ trách gì đâu, chỉ nhớ thôi

Người đi thì cũng đã đi rồi

Nào ai biết được duyên mà đợi

Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi”

nó không làm ta cảm thấy đau lòng như “Thu Phai”, nhưng nó làm cho cõi lòng ta trống vắng đến vô cùng, hiu hắt đến vô tận. Trong cái khung cảnh hiu hắt đó, con người cô đơn lại càng cảm thấy cô đơn hơn nữa, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã thở dài một câu thườn thượt làm cho thu lạnh càng kéo dài lê thê đến tận cuối chân trời: “Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi

Bài thơ cũng không dài lắm, không than van lắm, mà sao nó khiến xao động lòng ta đến thế. Bởi vì tác giả dựng một bức tranh quê quá thân yêu, chứa chan bao dấu tích, mà nay trở nên lặng lẽ đến vô cùng. Rồi thì nhà thơ gởi vào bức tranh đó cõi lòng tê tái, tê tái nhưng vẫn gượng ép, gượng ép chối bỏ sự tê tái của mình bằng những câu thơ bất cần, buông xuôi và vu vơ hờn trách. 

Tôi vô tình đọc hai bài thơ của hai tác giả một lần, “Thu Phai” và “Thu Lạnh” đọc trong buổi đầu đông. Những cơn gió phai và lạnh trong thơ lạ thay, làm cho tôi âm áp. Ngược lại, cơn gió thổi đầu đông ngoài kía đem cái lạnh len lỏi vào phòng. Cả hai cơn gió đều làm tôi se lòng, se lòng nhớ quá khứ tuổi thanh xuân ./.

*

CHÂU THẠCH 

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

THU SỚM

 

Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa

Có nghe se lạnh gió chuyển mùa?

Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?

Có thấy nhà bên rúc rích cười?

 

Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi

Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi

Diều ai dìu dặt chòng chành nắng

Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.

*

Làng Đá, Hưng Yên 18.09.2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

SỚM THU, THU SỚM - THU BUỒN HAY VUI?

Đã mấy năm sống ở Sài Gòn với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ, trong tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu đã thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của nhà thơ Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm tôi bật nhớ ra mùa thu đang về trên miền Bắc.

Mà cũng lạ, hai nhà thơ tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau. Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi Em thì nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về Làm Chi Nữa, nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài thơ “đều là tiếng gọi người về trong nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê hương mỗi ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú đưa lên bài Sớm Thu thì hôm nay 16/08 nhà thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm, một sáng tác được nâng niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân thật và rất đẹp của hai tâm hồn trước cảnh Thu về.

Mặc dù đang vào ngưỡng tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi,

SỚM THU

"Sớm nay trời nhẹ lên cao" - thơ Xuân Diệu
                                                -----

Sớm nay nghe hồn lành lạnh

Một trời sương trắng: ờ thu,

Cao Tầng ánh sao lấp lánh

Ban công vẳng tiếng chim Cu...

 

Chim Cu nhốt lồng gọi bạn 

Mơ về một cánh rừng xa

Nhốt lồng khác chi bị "hoạn"

Không còn được sướng mây mưa...

 

Đón thu lưng trời cao ốc

Quờ tay định tóm đám mây

Mây đen chừng đầy khí độc 

Tạt qua tối xẩm mặt mày...

 

Cúc vàng mua về cắm lọ

Nhớ nhung lá đỏ cành Phong

Thu vàng nước Nga rực rỡ

Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...

 

Xuân tới 80 rồi nhỉ?

Sớm nay qua nẻo thu sang

Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ

Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...

*

Hà Nội, ngày 15-08-2016

NGUYỄN KHÔI

ta không thấy hình ảnh lá vàng khi mùa thu tới mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đại đến cận đại, từ cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đến Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi.

Mà với Nguyễn Khôi là cảnh Sớm Thu rất hiện đại: 

Sớm nay nghe hồn lành lạnh

Một trời sương trắng: ờ thu ,

Cao Tầng ánh sao lấp lánh

Ban công vẳng tiếng chim Cu

Có lành lạnh, có sương trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà: Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu bạch / Khói thu xây thành.

Đó là cái lạnh cái sương trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng chim Cu”. Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung được ví như tiếng nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức mà là tiếng chim Cu trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:

Chim Cu nhốt lồng gọi bạn

Mơ về một cánh rừng xa

Nhốt lồng khác chi bị "hoạn"

Không còn được sướng mây mưa...

Tiếng kêu trong bức bối khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang bị giam cầm tù hãm.

Hơn một trăm năm trước, đứng trên mặt đất làng Bùi, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên mới thấy được:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Nay nhà thơ Nguyễn Khôi ở lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ phàng đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:

Đón thu lưng trời cao ốc

Quờ tay định tóm đám mây

Mây đen chừng đầy khí độc

Tạt qua tối xẩm mặt mày...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em: 

Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa?

Có nghe se lạnh gió chuyển mùa 

Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?

Có thấy nhà bên rúc rích cười?

Và bây giờ mới chắc chắn mùa Thu đã đến thật:

Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi

Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi

Diều ai dìu dặt chòng chành nắng

Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.

Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em! Một Thu Sớm thật thanh bình, thật đáng yêu.

Từ tháng 8.1945, mùa Thu đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi, mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay mùa thu của “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả mùa Thu thiên nhiên vốn có: Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa

Nhà thơ Thâm Tâm từ những “Chán ngán tình gia sầu ngất ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới trong khung cảnh “Mùa Thu Mới”:

Trái hồng trĩu xuống cây rơm

Sáng nay mùa cốm dậy thơm đầy làng

Lúa vươn thân hút ánh vàng

Nguồn tươi vống nở thu sang mát lành.

Nguyễn Đình Thi thì rất vui khi so sánh hai  trạng thái cảm xúc của mình về mùa thu trước và mùa thu nay:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm,  mặc dầu đang chiến tranh, mùa thu cũng không bớt đẹp đi chút nào: Sáng mát trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Sau giải phóng Điện Biên Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:

Ngẩng đầu lên: Trong sáng tuyệt trần

Tháng Tám mùa thu xanh thẳm

Mây nhởn nhơ bay

Hôm nay ngày đẹp lắm!

Mây của ta, trời thẳm của ta

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa!

Sau khi nước nhà thống nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu Sang của Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên dáng, đẹp đến nỗi phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông sang thu không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như một con người đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương Nam tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội vã”. Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia cùng bạn. Thu Sang đúng là đẹp hơn thơ!

Đến nay, người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm Thu, Thu Sớm trong bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?

Với bài thơ rất chân thực của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi bạn / Mơ về một cánh rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây đen chừng đầy khí độc/ Tạt qua tối xẩm mặt mày...”.  Và chính vì không vui được nên nhà thơ phải “Cúc vàng mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:

Nhớ nhung lá đỏ cành Phong 

Thu vàng nước Nga rực rỡ

Buồn thay, ngồi trong Sớm Thu ở nhà mình trên Thủ đô nước mình, ngắm  Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì lại nghe thấy: Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...

Sớm Thu nay buồn nên nhà thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho  tuổi 80 của mình: Xuân tới 80 rồi nhỉ?/ Sớm nay qua nẻo thu sang. Và niềm hy vọng ấy khiến nhà thơ: Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ/ Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm, có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!

Nhưng hẳn bạn đọc còn nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê tôi nghèo lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao cái làng Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp và vui như vậy. Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?

Tôi nói chỉ là giấc mơ thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà thơ ca ngợi Thu Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ  Nam Lộc đã soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến của tuổi học trò:

Thu giăng heo may che bóng cây lạnh này

Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày…

Người mang cho em quen môi hôn ngọt mềm

 Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng…

Nắng vấn vương nhẹ gót chân

Trưng Vương vắng xa anh rồi

Mùa thu đã qua một lần

Chợt nghe bâng khuâng lá rơi đầy sân...

Và hàng trăm nhà thơ khác chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:

Sài Gòn Thu đã chớm sang

Em đi qua phố dịu dàng như mơ

Mùa Thu đẹp tựa vần thơ

Tim anh xao xuyến đến giờ còn vương

Chả là giấc mơ mùa thu cho Sài Gòn đó sao?

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp cho cái làng Đá quê hương của anh. Mà nói như nhà văn Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư”. Bởi thế, tôi trân trọng tất cả những giấc mơ đẹp, những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của bác Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân  Xuyến.

Tôi thành thực cầu chúc cho hai nhà thơ:

Nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi sẽ  luôn có những Sớm Thu với những giây phút “ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ” và sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:

Cùng với ánh quanh minh còn mãi.

 - Cho người vui cảnh quên già.

Nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến cùng làng Đá quê  anh sẽ có được đích thực những Thu Sớm đẹp với “Diều ai dìu dặt chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy trong thôn xóm.

 *

Sài Gòn, Rằm tháng Bảy (17/08) 2016

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

MƠ ĐÊM

Đêm!

Trở mình

Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm

Giật mình

Ánh mắt nửa đêm

Hun hút đại ngàn gió hú...

 

Thèm trận cuồng lũ

Dào dào ngấu ải chờ mưa...

Khát...

 

Cong đêm...

Yên ả.

*.

Hà Nội, đêm 28 tháng 12.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ MƠ ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thực ra bài thơ MƠ ĐÊM không hay bằng một số bài thơ tình khác của Đặng Xuân Xuyến. Tuy nhiên, tôi thích cách cấu tạo tứ và sự ngắn gọn súc tích của bài thơ này!

Thơ Đặng Xuân Xuyến thường cô đọng, súc tích, cảm xúc dồn nén, tứ thơ mới, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh. Bài MƠ ĐÊM là một ví dụ. Chỉ vỏn vẹn có 37 chữ mà bài thơ khái quát được tâm trạng vô thức (MƠ) giữa cái trống trải cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ...

Từ ĐÊM ở đầu bài thơ được tách ra đứng một mình như báo hiệu một sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Đêm vừa là thời gian vừa là không gian mà ở đó con người có thể ngủ một giấc bình yên và mơ những giấc mơ đẹp. Và cũng có thể là nỗi trằn trọc không ngủ được với bao tâm trạng suy tư ... Ở đây, nhân vật trữ tình trong trạng thái vô thức đang mơ về một cuộc tình đầy mãnh liệt: "Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm". "Hơi ấm" ở đây là chủ thể thứ hai, là EM. Câu thơ đi giữa hai làn gianh rất dễ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên nhưng nhà thơ đã rất ý nhị ... Nhưng rồi giấc mơ ấy, sự vội vã, niềm cháy bỏng và mãnh liệt ấy vụt tan biến khi "giật mình" thức tỉnh. Giờ thì chỉ còn lại có đêm và gió hú. Cái "ánh mắt nửa đêm" ấy chính là ánh mắt mở to của kẻ vừa mất đi giấc mơ hạnh phúc. Giờ chỉ còn lại sự cô đơn trống trải với đêm hoang vắng nơi đại ngàn chỉ có gió ...và gió ...

Đêm ... bây giờ thì không ngủ được. Trạng thái cô đơn trống trải dường như được thay thế bằng niềm khát khao có thật ở cuộc đời. Sự mãnh liệt của tình yêu, của hạnh phúc lứa đôi được so sánh như những "trận cuồng lũ", như "ngấu ải chờ mưa", chỉ có khát và khát ...

Kết thúc bài thơ lại trở về với đêm, nhưng bây giờ là đêm yên ả. Dường như sau giấc MƠ ĐÊM quá xáo trộn với tâm trạng đầy biến động, một giấc ngủ bình yên đến với nhà thơ. Và biết đâu niềm khát khao hạnh phúc sẽ thành hiện thực?

*.

Sài Gòn, ngày 09 tháng 01.2017

ĐỒNG DUY TOẠI

Email: toaiduyhd@yahoo.com.vn

 

MƠ ĐÊM - NỖI NIỀM XÓT XA CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Không còn là giấc mơ đêm nữa mà là sự khát khao của chính tác giả về một điều hoàn toàn bình thường trong cuộc sống nhưng được Đặng Xuân Xuyến gói kín trong thi từ, thức cảnh. 

Từ một cái “trở mình” trằn trọc đơn lẻ trong đêm, một vòng tay cuống cuồng cố gắng “ghì hơi ấm” của tàng thức và tất nhiên là sự hẫng hụt, bừng tỉnh khi hiểu ra cảnh ngộ! 

Lạ lắm, lúc nửa đêm về sáng con người ta thường trở về với mình một cách mộc mạc đến trần trụi. Xót xa lắm một cái “ghì” không khí, ghì dĩ vãng, ghì kỷ niệm trong đêm. Nói ghì vậy thôi chứ, ghì cái hư vô không hình tướng thì chả bao giờ thật được. Cái “hơi ấm” của ai đây cũng vậy, cứ Liêu Trai bảng lảng, gặm nhấm một tâm thức mất lý trí trong cơn nửa mơ nửa thực. Trong trạng thái đó một: ánh mắt nửa đêm - Hun hút đại ngàn gió hú! 

Ai có trải qua trạng thái tương tự mới cảm hết được câu thơ rất thật mà cũng đắt này. Ánh mắt người thương nó vời vợi lắm, như gọi mời cũng lại vừa ngăn cản, vừa trách móc, vừa yêu thương nên: hun hút đại ngàn gió hú là câu vừa đúng vừa hay mà cũng nói lên cả sự đa đoan, cắc cớ của một khối tình mang xuống tuyền đài không tan.

Cái ánh mắt ấy thật gần mà cũng rất xa xăm. Thổn thức trong đêm, thảng thốt với trạng thái, ắt như góp gió thành bão, tức nước vỡ bờ:  Thèm trận cuồng lũ / Dào dào ngấu ải chờ mưa…

Cái ruộng muốn cải tạo đất thì người nông dân phải cày vỡ lên, cho ải (khô) đi để chờ nước chảy hay mưa về. Đất này “ngấu ải” có nghĩa đã đủ lắm rồi, thời gian chờ đợi và khát khao đến tận cùng cứ thiêu đốt nỗi niềm riêng tư, sức chịu đựng của con người .

Đất chính là người, chính là nỗi khát khao tiềm ẩn thường trực trong tác giả. Nó đeo bám khắc khoải bên trong cái vẻ bất cần đời, đằng sau cái miệng cười một nửa của Đặng Xuân Xuyến. Tất cả dù chỉ là giấc mơ đêm đã đủ sức bẻ cong tác giả, đủ sức phá nát một đêm vốn tưởng chừng yên ả! Một cái đêm tĩnh lặng bên ngoài nhưng thực ra là: hun hút đại ngàn gió hú. 

Bây giờ nhiều người làm thơ lắm nhưng để súc tích, ý nằm ngoài thơ thì ít lắm. Đa phần tả cảnh, dùng mỹ từ, điển tích, thơ dài thườn thượt.... nhưng bài này có phần khác, tác giả cứ như bình tĩnh móc thi tứ ra từ tâm thức và nhẹ nhàng sắp lên giấy một cách nhàn hạ. Chính vì vậy ai cũng giật mình tưởng tác giả lôi lòng kéo ruột mình ra cho thiên hạ tỏ tường. 

Buông bài thơ xuống nhưng lòng lại nhập vào cái bất an của tác giả và thấy mình cũng thổn thức, hồn hển theo. 

Và, cũng ngấu lắm cơn khát của đất trời.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

EM

 

Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta

Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta.

 

Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại

Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say.

 

Trời đất như cuồng say

Ngả nghiêng theo nhịp phách

Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu.

*.

Hà Nội, đêm 21 tháng 01 năm 2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

EM - MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Người ta ví von người phụ nữ như lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương triều... quả thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA “trinh bạch” sừng sững được “nửa đời” người rồi.

Mở đầu, “TA” rất hồn nhiên, rất tự tin vào bản lĩnh đàn ông vững chãi của mình nên đủng đỉnh “gạ” EM cạn chén. Vâng, chỉ là “gạ” thôi, chứ không mời, không ép, không nghĩ sâu xa, mưu mô gì cả. Chỉ đơn giản điều vì “TA” là đàn ông, còn EM là đàn bà, nên mới “gạ” em “cạn chén”. Nghĩa là “ta” chỉ bông đùa chút chút với “em” cho vui, cho có khí thế, chứ “ta” thừa biết, “em” sao uống được rượu với ta mà “cạn chén”. Ngạo nghễ là thế, đủng đỉnh là thế, ấy vậy mà “ta” phải sững người với hành động của em: “Thế là em cạn ta”. Ô hay. “Gạ” người ta cạn chén lại để người ta “cạn” mình thì chỉ có thi sĩ họ Đặng mới được trải nghiệm.

Ở khổ thơ đầu, thi sĩ họ Đặng đã vẽ một khung cảnh có 2 kẻ đang “vờn” nhau, chỉ để bông đùa nhau rất nhẹ nhàng, êm ái, không một tiếng động nhưng đằng sau những cử chỉ (gạ rượu) rất nhẹ nhàng ấy lại là những chuyển động thật mãnh liệt, kinh khủng và máu lửa ở sinh lý, ở tâm trạng:

“Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta

Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta.”

Ở khổ thơ này, tác giả viết như là rất tự nhiên, như là không hề sắp xếp, bài trí, cứ nhẹ nhàng, cứ thanh thoát giữa “ta” với “em”. Và người đọc dễ bị đánh lừa bởi khung cảnh yên ả, rồi trở chiều (có vẻ) thuận chiều ấy. Người đọc như thấy tác giả của EM từ thế chủ động thành thế bị động, từ “hung thủ” trở thành “nạn nhân” rất nhẹ nhàng, êm ái và khá ngọt:

“Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta”

Một câu thán xuôi chiều, chấp nhận tự nguyện không hề miễn cưỡng (Thế là em cạn ta), cũng rất “hồn nhiên”, tự nhiên như sự gạ (rượu) ban đầu của “chàng”. Tâm trạng ấy cứ nhẹ nhàng, đều đều dẫn người đọc đi hết khổ thơ, để bạn đọc chỉ hình dung thấy “chàng” đang bị “nàng” “ăn thịt” trở lại. Và sự trở chiều ấy lại rất ngọt, rất khoái bởi “nửa đời ta trễ hẹn” nên giờ “Em nồng nàn đốt ta” là hợp lẽ, là trên cả mong đợi.

Chỉ 4 câu thôi, “chàng” đã bộc bạch cho mọi người biết là cả “chàng” và “nàng” đều đã cảm nhau từ lâu rồi, từ “nửa đời” trước nhưng chỉ vì sự nhút nhát của chàng, sự e lệ, giấu kín của nàng mà chuyến đò tình của 2 kẻ cảm nhau, yêu nhau mới “trễ hẹn”. Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ồ thì ra việc “gạ” rượu của chàng chỉ là cái cớ, là phép “lửa đổ thêm dầu” để tình yêu của nàng dành cho chàng bấy lâu phải bùng cháy.

Vào khổ thơ thứ 2, cũng vẫn sự nhẹ nhàng, đều đều ấy nhưng mạch thơ nhanh hơn, nóng hơn, ngùn ngụt hơn:

“Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại

Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say.”

Ở khổ thơ này, tác giả rất thành công: Mỗi một câu thơ là một hình ảnh đẹp, say đắm của tình yêu đến từ hai phía. Cả “em”, cả “ta” đều say đắm đến hoang dại, đến quên tất tật để tận hưởng sự ngọt ngào của tình yêu. Rõ là viết về một cuộc làm tình, mà làm tình lại bạo liệt, ấy thế mà không hề có một tiếng động nào mới lạ?! Chẳng lẽ cuộc làm tình này cần kín đáo nên âm thanh hoan hỉ phải được điều tiết, cấm tiệt? Không phải vậy! Cái tuyệt vời chính ở chỗ không có tiếng động ấy! Đọc, ta thấy 2 kẻ yêu nhau đang rất trân trọng cái khoảnh khắc được đốt nhau ấy. Họ lặng lẽ cháy, lặng lẽ dâng hiến và lặng lẽ tận hưởng men say của ái tình. Họ đến với nhau bằng tình yêu, bằng sự dồn nén “thèm muốn” lâu ngày nên họ trân trọng thời khắc yêu ấy mà lặng lẽ cùng nhau hoan hỉ!

“Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại.”

Ở 2 câu này, người đọc hình dung “nàng” đang rất ngỡ ngàng, rất hạnh phúc bởi tiến triển tình cảm với “chàng” nên “nàng” lặng lẽ dâng hiến, lặng lẽ tận hưởng. Nàng sợ, rất sợ sẽ mất chàng, mất khoảnh khắc được yêu chàng nên nàng “run rẩy”, nàng “ghì”, nàng “quấn” chàng bằng cái tình yêu mãnh liệt mà bản năng của con người (hoang dại) nhưng rất gượng nhẹ, êm ái và trân trọng, nâng niu. Một loạt động từ mạnh được nàng sử dụng khi làm tình, ấy thế mà ta lại không nghe thấy một tiếng động nào, dù chỉ là tiếng rên, tiếng phì phò, hổn hển phải có để cuộc làm tình được gọi là thăng hoa. Cái hay, cái tuyệt của thi sĩ họ Đặng là ở đây, là ở cách tả tình nóng bỏng mà không cần đến sự phụ trợ của âm thanh.

Tiếp 2 câu cuối của khổ 2:

“Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say”

Ở 2 câu này, hình ảnh TA (chàng) hiện lên khá hoàn chỉnh sự hoan hỉ của chiến thắng. Từ “thẫn người” đến “ngây dại” đều chung biểu cảm trạng thái hoan hỉ của sự toại nguyện, của niềm vui chiến thắng. Hình ảnh chàng nhâm nhi “uống em từng giọt say” đã chỉ rõ chàng là gã thợ săn đích thực và nàng tưởng là kẻ đảo chiều quay lại ăn thịt chàng thì thực chất nàng chỉ là con mồi trong bữa tiệc ân ái của chàng mà thôi.

Từ thế chủ động tấn công: “Ta gạ em cạn chén”, rơi vào thế bị động, trở thành nạn nhân: “Thế là em cạn ta”. Rồi từ thế bị động: “Thẫn người, ta ngây dại” lại chuyển sang thế chủ động: “Uống em từng giọt say”... đọc qua, tưởng vậy mà lại không phải vậy vì để ý kỹ mới thấy “TA” hoàn toàn làm chủ “thế trận”, “em” chỉ là người bị “TA” giật dây, điều khiển.

Đến khổ 3, là khổ cuối của bài thơ, theo cảm nghĩ của riêng tôi thì hình như tác giả viết để kết thúc bài thơ cho phải phép nên không đầu tư câu chữ, cảm xúc, vì thế mà kém hay.

Đọc xong bài thơ, điều tôi thắc mắc vẫn cứ ở sự khó hiểu của 2 câu kết:

“Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu”

Tôi hỏi mà không trả lời được là sao “ta” phải giữ gìn sự trinh bạch ấy? Chẳng lẽ “ta” không ham ái tình? Và nữa, “em” là thế nào mà “nhuộm ta ngả màu”? Sự ngả màu ấy là hàm ý tiếc nuối bị mất đời trai trinh trắng hay sự hoan hỉ vì đời trai khờ khạo đã được ngả màu?

Ôi! Chàng Đặng Xuân Xuyến này, sao cứ bắt người đọc phải trăn trở về tình yêu của mình như thế? Chẳng lẽ không thể viết rõ hơn được sao, chàng Đặng?!

*.

Hà Nội, tháng 02 năm 2015

GIÁP KIỀU HƯNG

 

RƯỢU SAY

 

Ừ này thì rượu. Ừ thì say

Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày

Ta uống đêm nay cho thỏa thích

Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.

 

Nào nhấc chén lên. Cạn để say

Men tình chiu chắt ủ bấy nay

Đêm nay ta hứa say cùng bạn

Thế gian? Điên đảo được mấy ngày?

 

Thôi kệ cuộc đời. Ta cứ say

Rượu ngọt đào thơm vơi lại đầy

Ta kệ Cuội già từ cung Quế

Khẩn khoản mời ta ghé đôi ngày.

 

Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây

Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.

Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn

Đêm nay thỏa thích ta được say.

*

Hà Nội, đêm 04 tháng 10 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RƯỢU SAY”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Rượu say là cuộc độc ẩm của nhà thơ dưới trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn khích:

Ừ này thì rượu. Ừ thì say

Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày

Ta uống đêm nay cho thỏa thích

Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.

Thế rồi say trong men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:

Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây

Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.

Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn

Đêm nay thỏa thích ta được say.

Bài thơ là một tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Đà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Một mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi trần quá buồn chán.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

ẨM TRỜI

 

Em gạ một đêm chồng vợ

Cho mùi da thịt thơm hương

Mấy ngày hôm nay mưa tợn

Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.

 

Ừ thì, một đêm thôi nhé

Mai đừng, nữa gạ một đêm

Mùa này ẩm trời dài lắm

Da đây thịt đấy đến mòn.

*.

Hà Nội, 13 tháng 03.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“ẨM TRỜI” - MỘT PHONG CÁCH TÌNH KHÁC LẠ

Có những bài thơ nói về tình yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng như bướm bay, lãng mạn như gió trăng và êm đềm như tiếng suối chảy. Cũng có những bài thơ nói về tình yêu thiên về nhục dục hừng hực như lửa cháy, cuồng nộ như con thiêu thân sa vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ nói về tình yêu như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn thể hiện sự độc đáo của một phong cách yêu. Vậy phong cách yêu là gì? Đó là cách xử sự trong tình yêu tạo nên cái riêng của một người hay một lớp người nào đó. “Ẩm Trời” của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ thể hiện một phong cách yêu riêng của tác giả. Bài thơ không chỉ nói về một đêm hẹn hò ái ân mà thật ra nó ẩn chứa tình cảm, tâm lý của một lớp người đã già dặn trong tình trường.

Mở đầu bài thơ tác giả đề cập đến một lời mời gọi:Em gạ một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương

Câu thơ đầu cho thấy tác giả được cô gái “gạ tình”. “Gạ tình” nghĩa là gì? Nghĩa là những hành vi, cử chỉ, cách cư xử hướng vào sự khác biệt giới tính để đưa tới yêu đương, ở đây là ân ái. Cô gái muốn có “một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương” nghĩa là cô ta đã biết bạn, biết ta đều đã lâu ngày không gần gũi người khác giới. Cái cớ để cô gái gạ tình cũng vô cùng mới lạ. Cô nói như một người già lắm: Mấy ngày hôm nay mưa tợn/ Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.

Thường thì người già sẽ khó ở, thấy ghê mình mỗi khi mưa tợn, ẩm trời nên thích nằm riêng, xa rời người khác phái. Ở đây, ngược lại mưa tợn, ẩm trời làm nhục dục cô gái gia tăng nên cô mời gọi. Cô gái làm như mình gìà lắm, mượn cái cớ lão thành để bông đùa trong lời mời ân ái của mình. Cô mời gọi một cách thẳng thừng, không úp mở, giống như hai người đàn ông rủ nhau đi làm vài ly rượu.

Qua khổ thơ này ta cảm nhận được gì ở nhân cách cô gái kia? Cô không là người bán dâm, cũng không là người cho dâm dễ dàng. Với lời mời gọi vừa trắng trợn, vừa trịch thượng, lại khôn khéo lồng thời tiết vào câu chuyện của mình chứng tỏ cô là người trường trải, khôn ngoan, thẳng thắn và có khiếu hài hước. Với nhân cách này, chắc chăn cô phải gởi vàng đúng nơi mà cô chọn chứ không phải đem cho không bừa bãi. Vậy vì sao cô gạ tình tưởng như sỗ sàng?. Thật ra nếu cô gái không là tri kỷ của tác giả thì hai người cũng phải hiểu nhau và tâm đắc cùng nhau giữa cuộc đời này. Qua hai khổ thơ đối đáp, ta cảm được sự thâm giao giữa hai người. Họ có một sự đồng điệu trong đối đáp cùng nhau. Họ có một phong cách riêng âu yếm cùng nhau khác với thường tình. Họ có thể đã yêu nhau rồi nhưng bày tỏ tình yêu theo cách riêng của họ.

Bây giờ ta hãy nói đến chàng trai. Chàng trai cũng mồm mép không thua gì cô gái: Ừ thì một đêm thôi nhé/ Mai đừng, nữa gạ một đêm/ Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn

Người ta có thể tìm thấy trong ca dao hay trong thơ những câu đối đáp rất hay của những chàng trai trả lời cô gái đang gặt lúa trên đồng hay ban đêm giã gạo cùng nhau. Những câu đó chắc chắn rất trữ tình nhưng chắc chắn không bao giờ thân ái như lời thơ trong khổ thơ này. “Ừ thì một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói với em. Chúng ta tưởng tượng lời từ của miệng chàng trai thốt ra âu yếm vô cùng, ấm áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, nữa gạ một đêm”: Câu thơ không phải là lời từ chối, ngược lại đó là lời hẹn hò những đêm kế tiếp bằng một câu bông đùa tế nhị. Tác giả thật tuyệt vời khi xuống hai câu thơ chót: Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn.

Dựa vào thời tiết sẽ còn mưa lâu dài, tác giả hứa hẹn ngày tháng có nhau còn dài không bằng những lời thề thốt mà bằng một lời cảnh báo sẽ hao mòn thân xác nếu cứ bên nhau. Tất nhiên đây là một câu bông đùa, một lời dọa có tác dụng ngược lại, đem cho cô gái niềm vui hy vọng được kề cận với tác giả lâu dài. Câu thơ “Da đây thịt đấy đến mòn” bày tỏ sự hoà hợp thân xác giữa hai người. Đừng nghĩ đây là một câu thơ có nhiều dục tính. Ta nên hiểu rằng bài thơ chỉ mới là lời đùa cợt, tất cả đều chưa vượt qua giới hạn của sự thanh khiết. Vì vậy câu thơ bày tỏ “da” và “thịt” gắn bó với nhau đến hao mòn cũng là lời nói chơi nơi cửa miệng. Do phong cách yêu độc đáo của riêng mình mà phong cách bày tỏ cho nhau cũng khác lạ, khiến cho lời tỏ tình nghe thì thô nhưng nó đậm đà hơn tất cả những lời tỏ tình mà thơ thường hay diễn đạt. 

 Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn gọn tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không phải thế. Đọc thơ ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ phải là những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình trường, dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có thể yêu nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ biết họ trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô thiển.

Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng và cảm mến../.

*

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

THIẾU NỮ

 

Ô kìa người ngọc giữa sớm mai

Áo xiêm trễ nải chả chịu cài

Ngực nõn phập phồng ru hồn gió

Bổng đảo in hồng trong mắt ai.

*.

Hà Nội, ngày 05/02/2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẾN VỚI “THIẾU NỮ”, BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Trong không khí mùa xuân Đinh Dậu (2017), mọi người của thế kỷ 21 này đón xuân, đón tết cổ truyền không còn thèm khát ở sự ăn mà ở sự chơi, hưởng thú vui tinh thần, không màng đến “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ”. Nhưng tìm thú vui tinh thần đâu phải dễ dàng, bởi xã hội tình người vô cảm, âu lo và bất an nhiễm vào hồn người như một căn bệnh - căn bệnh của loài người.

May mắn thay tôi đọc được bài thơ “Thiếu nữ” của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc. Ôi đã là đàn ông không biết thưởng thức vẻ đẹp của “Thiếu nữ” chẳng đáng buồn sao!

Đầu đề bài thơ là “Thiếu nữ” nghĩa là tuổi còn tơ non như hoa đương nụ, như trăng mới nhú, gái ở tuổi dậy thì. Tàng ẩn những điều kỳ diệu cho hồn tha hồ tưởng tượng, sự tưởng tượng đến bến bờ yêu say đắm và dịu ngọt trong hồn không thể cưỡng được. Đến nỗi nhà thơ phải thốt lên: “Ô kìa” - “Ô kìa người ngọc giữa sớm mai. Chữ “Ô kìa” như sự thảng thốt bất ngờ ngoài ý tưởng. Có gì khác thường, khác với thông lệ, khác với nếp nghĩ của nhà thơ. Chắc nhà thơ nghĩ rằng người đẹp sẽ phải đoan trang e lệ, “Dín gió e sương”, nhất là giữa sớm mai càng phải kín đáo hơn. Chữ sớm mai biểu thị thời gian tươi mới nõn nà của thiếu nữ. Thế mà thiếu nữ ấy: “Áo xiêm trễ nải chả chịu cài”. Một bức tranh nude cho người xem tưởng đến trường phái hội họa thời phục hưng rất gợi cảm và gợi dục. Xưa ở Việt Nam nữ sỹ Xuân Hương đã vẽ bức tranh thiếu nữ ngủ ngày rất phồn thực: “Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng/… Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa thông/ Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong”.

Bức tranh thơ của Đặng Xuân Xuyến chỉ là bức tranh phồn thực mờ, đòi hỏi sức tưởng tượng, nude nhưng mờ ảo. “Chả chịu cài” có nghĩa là có phần kín có phần hở và phải có phẩn hở phần kín mới nên thơ. Gợi giác quan cảm xúc. Chất thi sỹ cũng là ở đây, nếu hở quá lộ quá sẽ không còn thơ nữa, chính vì vậy: “Ngực nõn phập phồng ru hồn gió”. Gió bị ru hồn hay thi nhân bị thôi miên, thiếu chữ “ru hồn gió” sẽ mất thiêng, gió còn bị ru hồn thì người còn bị ru hồn hơn. Nếu nói ngôn ngữ của tuổi trẻ thì còn bị “Phê” hơn.

Nếu đổi lại câu thơ “Phập phồng ngực nõn” thì sẽ bị giảm cái hay cái thực của chủ thể “Ngực nõn”. Chẳng khác gì nói: “Hồng thắm làn môi” mà phải nói “làn môi hồng thắm” mới chính xác. Thế mới biết làm thơ như đánh cờ, như sự sắp đặt cuộc đời vậy. Đánh cờ quân nào đi trước, đứng trước, quân nào đi sau, ván cờ tình yêu - cuộc sống cũng vậy, cũng phải có luật chơi và phải hiểu luật mới chơi được. Chữ “Ru hồn gió” tạo chất say của câu thơ, tài của nhà thơ là biết điều khiển câu chữ cho hợp với đạo thơ. “Bồng đảo in hồng trong mắt ai” hay ở chữ “in hồng”. Trong mắt như có lửa - lửa của đắm say, nhưng chỉ hồng thôi mà không chói, sự đam mê vừa tới, vừa đủ. Chói quá - nhìn kỹ quá sợ làm đau bồng đảo. Cách thưởng thức vẻ đẹp bằng sức cảm của tâm hồn không trần tục thì mới là thơ.

Trong mắt ai” nhà thơ nhìn thấy mà lại “trong mắt ai”. Lòng thi sỹ cảm giác vẻ đẹp ấy là của trời, không phải của mình, có chút gì đấy như sự “ghen”, ghen với đời, bâng quơ ghen với ai, sự ghen đáng yêu của tuổi 50 tự biết mình, tiếc cho mình!

Ôi. Trong mùa xuân khao khát niềm vui tinh thần hơn vật chất này, được thưởng một bài thơ “Thiếu nữ” - Nude như xem bức tranh bằng hồn thật đáng quý biết bao!

*

NGUYỄN THANH LÂM

Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: thanhlam.tho@gmail.com

 

BỨC TRANH "THIẾU NỮ" ĐẶC SẮC CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Nếu mấy năm trước, được nhiều cô gái khác yêu thương nhưng chàng trai ấy đã không dám hôn nhân lần nữa vì cảm thấy mình đã chớm già, sợ cưới nhau rồi trước là pháo hoa sau cũng ra tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ, sợ đến nỗi có lúc đã cảm thấy chán cái vị yêu đương mới:

Ta bỗng chán vị yêu nhạt thếch

Xộc xệch tình

Lếch thếch tiếng yêu.

Thì năm nay, cái sự chán vị yêu nhạt thếch ấy dường như đã tan biến khiến trái tim chàng đã biết say mê rung động trước một vẻ đẹp thiếu nữ:

Ô kìa người ngọc giữa sớm mai

Áo xiêm trễ nải chả chịu cài

Ngực nõn phập phồng ru hồn gió

Bồng đảo in hồng trong mắt ai.

(Thiếu nữ)

Bài thơ tứ tuyệt với bức tranh một thiếu nữ đẹp giữa cảnh sớm mai của mùa Xuân đã khiến nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm phải tốn công gõ phím với cả ngàn chữ bình luận rất xác đáng: “Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc”. 

Người ngọc - Thiếu nữ đã là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân, vì vậy thơ Đông thơ Tây đã có cả ngàn bài tuyệt tác ca ngợi vẻ xinh đẹp của thiếu nữ. Nhưng ở Á Đông, do những hủ tục bất nhân, những tập quán ti tiện, xem thường vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũ, thơ ca có phần dè dặt khi tôn vinh vẻ đẹp đó. Ba nhà thơ Đường trứ danh của Trung Quốc như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Xương Linh, trước vẻ đẹp của các cô gái hái sen đã không ai bảo ai mà cùng phóng bút viết nên mấy khúc ca diễm tình cùng chung một tên là Thái liên khúc (Khúc hát hái sen).

Đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Bạch cư Dị: Một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng chèo chiếc thuyền nhỏ giữa một đầm sen để hái hoa và vô tình thấy chàng trai đang đắm đuối nhìn mình, người thiếu nữ thẹn thùng, muốn nói chẳng nên lời, để đến nỗi đánh rơi chiếc trâm cài đầu xuống đáy ao lúc nào chẳng hay:

Sóng đưa lá, gió rung hoa 

Đầm sen thuyền nhỏ lướt qua thấy chàng 

Cúi đầu thẹn, chẳng nói năng 

Ao sâu rơi xuống chiếc trâm cài đầu 

Thái Liên Khúc (Bạch Cư Dị-Hải Đà dịch)

Đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Lý Bạch: Một khuôn mặt đẹp như hoa, hồn nhiên, nhí nhảnh, ngây thơ bên ngòi Nhược Da, dưới bầu trời cao rộng, trời xanh nước biếc, nắng hồng, hoa trắng giao hòa tạo ra một vẻ đẹp thanh tao huyền ảo:

Có cô con gái nhà ai, 

Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da. 

Mặt hoa cười cách đoá hoa, 

Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh. 

Áo quần mặc mới sáng tinh, 

Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng. 

Thơm thơ vạt áo gió tung, 

Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.

Thái liên khúc (Lý Bạch-Tản Đà dịch)

Và đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Vương Xương Linh: Màu quần lụa của cô gái lẫn một màu giữa rừng lá sen xanh thắm chập chùng, mặt nàng tươi như hoa thắm khó mà thấy, bỗng đâu một tiếng hát khe khẽ ngân vang mới biết có bóng người:

Lá sen quần lụa một màu, 

Mặt tươi hoa thắm như nhau mặn nồng. 

Dưới ao trà trộn khôn trông, 

Nghe ca mới biết là trong có người.

Thái liên khúc (Trần Trọng Kim dịch)

Ba bức tranh thiếu nữ hái sen với những nét vẽ khác nhau đều tuyệt đẹp. Nhưng vẻ đẹp thiếu nữ đó chỉ thuần khiết là một vẻ đẹp thanh xuân trong trắng tựa hoa sen.

Ở ta, mới cách nay vài chục năm, người đọc cũng chỉ thấy trong thơ hình ảnh những thiếu nữ đẹp ngây thơ trong sáng như người thiếu nữ bên hồ Xuân trong thơ mới của Thế Lữ: Trên vừng trán ngây thơ, trong sáng/ Vẩn vơ qua một áng hương buồn/ Giây lâu cô vẫn như còn/ Lâng lâng trông gửi tâm hồn lên cao.

Mà không thể thấy được một bức tranh thiếu nữ nào với vẻ đẹp phồn thực của những áo xiêm trễ nải, ngực nõn, bồng đảo đầy quyến rũ như thiếu nữ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.

Một bài thơ Đường được coi là sexy nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa là bài “Thanh Bình điệu” do Đường Minh Hoàng đã lệnh cho Lý Bạch làm để ca ngợi Dương quý phi. Dương qúy phi vốn là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy. Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba dân số Trung Hoa thời đó. Nhưng dưới ngọn bút tài hoa của Lý Bạch, vẻ đẹp viên mãn và gợi dục của Dương Quý Phi sau một đêm làm tình với nhà vua cũng chỉ như một đóa nhánh hồng tươi ướt đẫm sương:

Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương,

Mây mưa Vu giúp uổng sầu thương

Và hình ảnh sexy của Dương quý phi cũng chỉ được diễn tả trong hai câu thơ trác tuyệt này: 

Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây,

Hiên sương phơ phất gió xuân bay

Không phải là vẻ đẹp kiêu sa ngồn ngộn của xác thịt như bộ ngực hay đôi vú mà chỉ là một vẻ đẹp mờ ảo như mây như sương như gió.

Vậy mà, câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” được xếp vào hàng câu thơ gợi dục nhất của cả ngàn năm nay. Câu thơ này, mới hơn một năm trước đây đã khiến một vị anh hùng lao động của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bị ném đá tơi bời khi người anh hùng đã trăm tuổi này, Giáo sư Vũ Khiêu lấy nguyên vẹn câu thơ tả dâm phụ đó làm câu đối: "Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” để tặng cho hoa hậu Kỳ Duyên, một cô gái chưa chồng chỉ nhỉnh hơn chắt nội gái của cụ Quốc sư có vài tuổi. 

Giờ đem đặt câu thơ Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây được coi là câu thơ sexy hết mực ấy bên cạnh những câu tả vẻ đẹp phồn thực của thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ta thấy vẻ đẹp kiêu sa của Dương Quý Phi chỉ là một vẻ đẹp của một người mây mờ áo còn vẻ đẹp của thiếu nữ lại là một vẻ đẹp rất phồn thực và rất cụ thể với áo xiêm trễ nải, bộ ngực nõn và đôi gò bồng đảo in hồng vào mắt người chiêm ngưỡng.

Tôi đồ rằng khi chụp bức tranh thiếu nữ này Đặng Xuân Xuyến đã không quên nghĩ đến bức tranh thiếu nữ trong thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:

Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

Rõ ràng, thiếu nữ trong thơ Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã sexy hơn, gợi dục hơn thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ở câu: “Một lạch đào nguyên suối chửa thông”. Nhưng thiếu nữ của Bà chúa là thiếu nữ ngủ ngày và bị chụp bởi đôi mắt đầy dục vọng của “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt” còn thiếu nữ của Đặng Xuân Xuyến là thiếu nữ đứng trong gió xuân giữa sớm mai được chiêm ngưỡng bằng cái “Ru hồn gió” vì say mê của tác giả. Nhà thơ hiện đại học tập và kế thừa nhà thơ lớn của dân tộc như vậy là vừa đủ và thật đáng khích lệ.

- Trích từ bài viết CHÀNG TRAI ẤY BÂY GIỜ RA SAO -

*

DƯƠNG NINH NINH

Email: duongninhsg@gmail.com

 

NHỚ MẸ

 

Lòng quặn thắt

Nhớ những chiều nắng tắt

Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà

Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà

 

Cha ở phương xa

Chúng con còn bé dại

Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai

Sương buốt sớm mai

Nắng táp trưa hè nhễ nhại

Mẹ gửi đồng xa tiếng cười

Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt

Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát

 

Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt

Nước mắt ngược vào tim mặn chát

Con muốn hỏi trời cao

Con muốn cào đất rộng

Đâu là lẽ công bằng

Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay

Sao lắm cơ cực đắng cay

Lặng thầm qua đời mẹ

Tan nát lòng con trẻ

 

Con về thăm mẹ

Thơ thẩn vào ra hương khói nghẹn ngào.

*.

Làng Đá, 02 tháng 07 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “NHỚ MẸ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại / Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của người đọc.

Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.  

Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

VỀ QUÊ ĐI MÀY

- Với Nguyễn Xuân Thành -

 

Mày về quê chơi đi

Tao lại dạy mày chơi trò trận giả

Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo

Đủ trò

Mày khờ khạo

Tao ngây ngô

Nghéo tay cưới chung một vợ

Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở

To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.

 

Mày về quê chơi đi

Biền biệt thế

Bặt tin như thế

Tao nhớ mày

Rượu tao uống chẳng say

Đêm cuối cùng mày nói thật hay

Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ

Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại

Hai mấy năm trời

Nước chảy bèo trôi...

 

Mày về quê chơi đi

Về với tao. Về với thời thơ dại

Về đi mày

Đừng lời nói gió bay.

*.

Làng Đá, Ngày 11 tháng 12 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VỀ QUÊ ĐI MÀY  - TIẾNG GỌI CỦA

NHÀ THƠ HAY CỦA THỜI THƠ DẠI?

Tôi xa Hà Nội không phải “năm lên mười tám” như nỗi lòng một người đã xa Hà Nội trong một nhạc phẩm nổi tiếng từ hơn 60 năm trước, mà là năm tôi mới lên mười bẩy. Tôi xa Hà Nội cũng không được như người đó “khi vừa biết yêu” mà là tôi chưa hề biết yêu và thật lòng cũng chẳng biết có ai đó đã yêu tôi (!)?. Tôi xa Hà Nội cũng không vì một biến cố trọng đại của chung xã hội hay của riêng gia đình tôi mà chỉ là một duyên cớ rất đời thường: Thi được một suất học bổng sang Sing học tập. Do vậy, khi nhận được giấy báo phải xa Hà Nội, trong tôi đã cuộn sóng những niềm vui sướng suốt cả hai tháng trời chờ đợi. Chỉ đến khi ngồi trên máy bay, tôi mới thấy một nỗi buồn cô đơn xâm chiếm lòng mình mặc dù chuyến bay có đủ cả trăm hành khách. Tôi bắt đầu thấy thiếu vắng gia đình, thiếu vắng bè bạn rồi bất chợt nhận ra cái thiếu vắng lớn nhất là một khoảng trời rộng lớn, đó là Hà Nội quê tôi. Vâng, Hà Nội quê tôi, mặc dù nơi tôi sinh ra và lớn lên chỉ là một con ngõ nhỏ trong lòng phồn hoa của Hà Nội, nhưng bố tôi bảo hơn 10 đời nhà ta đã sống trên mảnh đất ngõ này, trong căn nhà nhỏ thân thương này đã được tạo dựng và tu đi đi sửa lại cũng đã mấy trăm năm.

Học xong, đi làm cho công ty người nước ngoài, những thiếu vắng trên càng dầy lên trong tâm hồn tôi. Những nỗi buồn vì xa gia đình, xa bè bạn may nhờ có cái máy tính, cái điện thoại nên nhiều lúc vẫn có thể vừa trò chuyện vừa nhìn thấy người trò chuyện với mình. Vẫn thấy được những khuôn mặt hiền lành như Phật của ông bà nội ngoại; vẫn thấy được nét đẹp thanh tú và giọng nói dịu hiền của mẹ cùng đôi mắt sáng vừa hiền từ vừa nghiêm khắc và những lời khuyên ân cần của bố; vẫn thấy được khuôn mặt ngây thơ nũng nịu của đứa em gái nhỏ luôn nhắc chị bao giò về thì đưa em đi ăn kem Tràng Tiền nhé và vẫn thấy được những dáng vẻ  tinh anh cùng những câu nói mày tao chí tớ thân thiết chia vui chia buồn của lũ bạn. Nhưng còn Hà Nội quê tôi trong đó có cái ngõ hẹp với ngôi nhà thân thương của tôi thì sao mà nhìn thấy và chuyện trò cùng chúng?  

Chiều cuối tuần được nghỉ việc, sau khi đọc và trả lời hết các thư điện tử của lũ bạn gửi từ Hà Nội, lòng tôi như một dòng sông ngập tràn nỗi nhớ nhung về chúng. Để đỡ buồn, tôi lên net và thật bất ngờ, khi vừa mở một trang mạng thì 4 tiếng “Về quê đi mày” bật lên trước mắt tôi rồi chúng vang lên thành một tiếng gọi vừa rất quen vừa rất lạ. Phải chăng lũ bạn tôi, tất cả chúng nó đang hòa chung giọng thiết tha gọi tôi: “Về quê đi mày”? Nhưng chỉ mấy giây sau, tôi hiểu ra mình đã bị ảo thanh bởi đó là tên một bài thơ của Đặng Xuân Xuyến mới đưa lên trang Nhà văn Lê Xuân Quang hôm đầu tuần. Bài thơ ghi rõ cả tên người bạn được gọi: Với Nguyễn Xuân Thành chứ đâu phải với tôi. Nhưng tôi vẫn chăm chú đọc nó. 

Vỏn vẹn 26 câu thơ tự do, toàn những lời tiếng bình dị đời thường không một từ trau chuốt, bài thơ được mở đầu bằng một lời nhắn gọi:

Mày về quê chơi đi

Thói thường khi nói đến mấy tiếng “về quê chơi”, người ta sẽ nghĩ ngay đến chuyện về thăm nơi chôn rau cắt rốn của mình, về cái làng ta phong cảnh hữu tình thân yêu, nơi có triền đê, lũy tre, cánh đồng, phiên chợ… và những người dân quê cần cù một nắng hai sương trong đó có những người ruột thịt họ hàng của ta. Nhưng suốt bài thơ của Đặng Xuân Xuyến, ta không hề bắt gặp một cảnh vật và một con người hữu tình nào như vậy. Thậm chí, ở cuối bài, tác giả có ghi rõ tên quê mình là Làng Đá, một làng quê  nổi danh ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên với tích truyện ngôi chùa Đá, nhưng trong “Về quê đi mày”, tuyệt nhiên cũng  không  thấy một câu, một hình ảnh, một dấu tích nào về ngôi chùa lịch sử cổ kính có từ thời nhà Lý ấy. Mà “Mày về quê chơi đi” là để:

Tao lại dạy mày chơi trò trận giả

Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo

Đủ trò

Hai tiếng “đủ trò” tưởng đã là hết nhưng chưa, bởi còn thêm cái trò này nữa:

Mày khờ khạo

Tao ngây ngô

Nghéo tay cưới chung một vợ

Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở

To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.

Đến đây thì ta đã rõ, “Mày về quê chơi đi” của Đặng Xuân Xuyến không phải là lời rủ một người bạn về quê chơi mà là tiếng nhắn gọi người bạn đó về quê để hai đứa “to xác rồi” sẽ cùng nhau chơi lại những trò ngu ngơ thời con trẻ.

Nhưng tội nghiệp, sau một chuỗi lời gọi bạn tha thiết ấy, hình như không nghe có tiếng hồi vọng khiến tâm hồn nhà thơ nghẹn lắng lại. Anh lại cất  tiếng gọi “Mày về quê chơi đi” lần thứ hai rồi thở dài buồn tủi nhắc nhớ bạn về tình cảnh ly biệt của hai đứa:

Biền biệt thế

Bặt tin như thế

Và anh kể lể nỗi lòng nhớ thương bạn của mình:

Tao nhớ mày

Rượu tao uống chẳng say

Mỗi người đều có một nỗi nhớ bạn cho riêng mình. Người bình dân trong Ca dao nói  “nhớ bạn chơi vơi”, thì ở đây Đặng Xuân Xuyến nói nhớ bạn “rượu uống chẳng say”. Phải chăng đây là rượu vừa uống vừa chờ bạn về để cùng chung chén nên không thể được phép say? 

Đúng là nhà thơ không say thât. Anh còn nhớ rất kỹ cái đêm cuối cùng trước khi bạn chia tay, giờ nói ra vừa để bạn ở xa cùng nhớ lại vừa kín đáo gửi vào đó một hờn trách nhẹ nhàng con người đã quên lời hẹn ước:

Đêm cuối cùng mày nói thật hay

Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ

Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại

Hai mấy năm trời

Nước chảy bèo trôi...

Vậy mà buồn thay, vẫn lại không nghe có tiếng hồi vọng. Quá tam ba bận, nhà thơ đành phải cố cất tiếng gọi lần thứ ba:  

Mày về quê chơi đi

Và lần này thì thôi, không kể lể nhắc nhớ cho thêm dài lời mà chốt lại rõ ràng dứt khoát: 

Về với tao. Về với thời thơ dại

Rồi nhấn thêm:

Về đi mày

Tiếng gọi ngắn hẳn, nghe có vẻ hụt hơi. Nhưng không, đó là chính là lời thúc giục để kèm theo câu nói cuối cùng vừa có ý dặn dò vừa có ý răn đe:

Đừng lời nói gió bay.

Như vậy qua chữ nghĩa rất bộc tuệch của 26 câu thơ, ta thấy “Về quê đi mày” là tiếng một người bạn gọi một người bạn thân biệt tăm đã lâu mau về quê để cùng nhau chơi lại đủ trò ngây ngô khờ khạo thời thơ dại. Với tên người được gọi đã được ghi cụ thể ở đầu bài thơ, liệu đây có phải là tiếng  thực của nhà thơ gọi bạn?

Xin hãy giả tưởng, người bạn của nhà thơ đọc được bài thơ này, nghe được lời nhắn gọi của bạn trong những vần thơ này và lần này anh ta không  “lời nói gió bay” như “Hai mấy năm trơi/ Nước chảy bèo trôi..,” đã qua; anh ta sẽ về quê thật, thì đôi bạn có cùng nhau sẽ sống lại “đủ trò” như tác giả đã hứa với bạn không? Tôi tin là không, hoàn toàn không thể có lại được “đủ trò” thơ dại ấy. Làm sao có thể tưởng ra cảnh hai kẻ đàn ông đang ở cái tuổi tri thiên mệnh, mắt đã phai và má đã hóp về đến quê lại có thể cùng nhau:

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo…

và khờ khạo ngây ngô: 

Nghéo tay cưới chung một vợ?

Chính tác giả đã nói, đó là “2 thằng dở”, theo tiếng nói ở quê anh, còn dân ngõ quê tôi Hà Nội gọi là hai thằng rồ! Thế thì làm sao họ có thể diễn cảnh hai thằng dở, hai thằng rồ như vậy. Người ta có thể nhớ về thời thơ dại, ôn lại kỷ niệm của một thời vụng dại, lưu luyến đôi chút với cái quá khứ đã một đi không trở lại đó chứ sao có thể níu kéo nó lại được, nói gì đến việc sẽ lặp lại nó thêm một lần nữa trong đời khi ta đã thành người lớn.

Vì không thể có lại được những trò thơ dại ấy nên “Về quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong  tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.

Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.

Bây giờ, tôi lại mong cái giọng hòa âm “Về quê đi mày” của lũ bạn tôi từ Hà Nội vang lên một lần nữa. Nhưng cũng lại là vô vọng. Thay vì cái ảo thanh tôi mong muốn ấy chỉ là mấy tiếng bip bip của điện thoại báo có tin nhắn: Chàng nhà tao bảo, mai chủ nhật ăn bún chả nhé! Tao hỏi, đi ăn ở quán Ôbama mới ăn hồi sang Hà Nội gần đây? Chàng lắc đầu: Không, ăn ở nhà do em làm cơ. Mày về với tao đi, về  cùng tao vào bếp rồi cùng nhau ăn như hồi xưa hai chúng mình đã từng lăng xăng phụ mẹ tao mỗi lần bà làm bún chả ở bếp nhà tao để chiều mồm chúng mình ấy!”

Là tin nhắn của cái Hằng đã cùng tôi chung trường chung lớp 12 năm từ Tiểu học đến hết Trung học. Nó dịu dàng yểu điệu như một đóa hoa đẹp lại được bà mẹ giỏi nữ công gia chánh dạy cho nhiều thứ nên bọn tôi gọi nó là Hằng Thục Nữ. Chàng nhà nó hay chồng nó bây giờ là dân công sở, lớn hơn nó 6 tuổi, dắt lưng mấy cái bằng học thực, bị nó đánh sét từ khi nó mới lên lớp 10. Gã đã kiên trì ủ mầm tình yêu nó, chờ nó học xong Sư phạm Mẫu giáo là xin cưới liền tay. Giờ họ đã có một bé trai kháu khỉnh gần 2 tuổi. 

Đọc tin nó nhắn, tôi đã toan nhắn mắng lại nó: 

Con Nỡm, mày thừa biết tao đang ở xa Hà Nội cả nghìn cây số lại thêm cơm áo không đùa với kẻ làm thuê cho người nước ngoài, sao lại đưa cái món bún chả Hà Nội khoái khẩu của tao ra để nhem thèm tao thế?”. 

Nhưng nghĩ vui thế thôi chứ tôi biết, con bạn thân của tôi nó đâu có nhem thèm tôi mà chính nó đang nhớ tôi hay đúng hơn là nhớ một thoáng thơ dại của chúng tôi, những buổi tôi đến nhà nó cùng nhau lăng xăng phụ bếp bên mẹ nó làm một bữa bún chả ngon lành…

Vì vậy, tôi không vội nhắn lại cho nó một chữ mà đợi trưa mai, tôi sẽ mở hộp thư gửi cho nó bài thơ Về quê đi mày của Đặng Xuân Xuyến cùng đôi dòng tản bình của tôi để, sau khi xong bữa bún chả cho chàng nhà nó, nó sẽ đọc rồi tha hồ mà thương nhớ thời thơ dại mới qua chưa lâu của chúng tôi.

*

DƯƠNG NINH NINH

Email: duongninhsg@gmail.com

 

ĐỌC ‘VỀ QUÊ ĐI MÀY’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Ha...ha...một căn bệnh thời đại.

Có khác chi nhiều người đâu?! Tác giả thèm gặp lại bạn xưa, thèm sống lại kỷ niệm xưa, thèm gặp lại mình... của ngày xưa!

Mày về quê chơi đi”, tiếng gọi luyến tiếc, năn nỉ đến mấy lần, làm toàn bài thơ cứ đau đáu, trầm buồn nhưng lạ là không bi lụy. 

Bài thơ này không thấy tác giả gọi rông nữa vì tình cảm của “Về Quê Đi Mày” là nghiêm túc thật sự, thông qua một tình bạn ngây ngô từ thời thơ dại để làm phương tiện cho vấn đề đáng nói hơn đó là tình yêu quê hương đất nước. Có như vậy người đọc mới thấy thú.

Cám ơn tác giả Đặng Xuân Xuyến đã để đất cho người đọc thấy hứng, thấy tò mò, rồi tự mình khám phá tác giả, khám phá mình vì nương theo ý thơ lúc nào không biết.

Thế mạnh của tác giả nằm ở lối chơi chữ, nếu mê mẩn thì câu chữ cứ dễ dàng tuôn ra, cảm xúc cũng vỡ oà làm tứ thơ cô đọng, xúc tích, dễ thăng hoa cùng tác giả.

Cháu tôi vừa hỏi: - Ông ơi thơ là gì mà sao ông và mọi người cứ chúi chụi vào nó vây??.

Tôi trả lời: - Thú thật ông cũng không biết thơ là gì vì nếu biết được, định nghĩa được thì ông đã ngồi trên toà sen văn học rồi chứ không phải cái danh xưng: hội nhà văn nhạt nhẽo, đua đòi như bây giờ.

Bài thơ cứ mạch đơn giản như thế, dân dã như thế, cô đọng, xúc tích hóm hỉnh như thế kéo dài toàn bài. Hay!

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

 

Cuống quýt với thơ

Lử đử cùng thơ

Say thơ như điếu đổ.

 

Cả đời

Đánh đổi 

Được gì?

- Dăm ba bài thơ dán tem "thơ bụi'. (1)

 

Thiếu vợ

Thiếu con

Đâu phải Kép Tư Bền

Sao cứ bắt miệng cười tim héo.

 

Đời lắt léo

Phận eo sèo

Thây kệ thế gian úp mở.

 

Giả ngố

Mượn chữ bày trò

Vác thơ

Tưng tửng.

                                ................

(1): Chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Khôi

*.

Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “VĂN THÙY DỊ NHÂN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tôi đã được đọc thơ và một số bài viết ca ngợi nhà thơ Văn Thùy in báo và đăng trên trang mạng rộng rãi, nhưng chưa một lần gặp mặt. Tình cờ một ngày đầu xuân năm nay (tháng 3/2017) tôi sang Ân Thi - Hưng Yên thăm nhà người bạn và gặp Văn Thùy cũng có mặt trong cuộc vui không hẹn này. Thì ra anh là người cùng quê với anh bạn trẻ tôi quen. Còn Văn Thùy không biết hàng ngày và ở những cuộc gặp gỡ khác anh ăn vận ra sao. Trước mặt tôi lúc này với chiếc nón nan rộng vành và tấm áo dài thâm phai màu, chưa thể nhìn được khuôn mặt, bộ râu cùng mái tóc muối tiêu tung tỏa … nom anh như nhân vật dấu mặt trong những bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung từ đâu xuất hiện. Có lẽ hình ảnh nón nan với áo trùng than này đã tạo cho người đời nhìn nhà thơ Văn Thùy thành “Dị nhân” đi kèm với tuổi tên chăng? Tôi quan sát anh khi xếp thứ “áo nón phường tuồng” đi, là một ông lão tuy đã râu tóc phai màu nhưng còn nhanh nhẹn, đôi mắt sáng, bộ comple tôn thêm vẻ ngoài đĩnh đạc của một thi nhân khi hai tay đón lấy chén trà… Tan cuộc, anh tặng tôi hai tập sách dày dặn: Tập thơ “Mảnh ghép của thơ Việt” và tập “Thư pháp” có nhiều bức vẽ chữ cho chính những câu thơ anh tâm đắc đã gửi cùng đời. Và anh khoe đã bán được hơn “BẨY CHỤC TRIỆU ĐỒNG” sau hàng tháng bán thơ, vẽ thơ ở Văn Miếu - Hà Nội…

Ngày tháng trôi đi… chiều qua tôi đọc được bài thơ của Đặng Xuân Xuyến vẽ chân dung của người thơ Văn Thùy đã gợi lại những câu thơ và nét thư pháp bâng khuâng của con người xương thịt “Văn Thùy” khi tiễn tôi ở Ân Thi ra về thêm một đoạn đường, không nón để râu tóc được tự do bay trong gió. Nhưng khi sống cùng thơ trong bức chân dung của Đặng Xuân Xuyến vẽ anh thì say thơ, mê thơ đến “cuống quýt”, “lử đử” như đã bị thơ lấy mất đi hồn vía, lấy mất đi chính cả cuộc đời đã hơn bẩy mươi năm bút mực dốc cạn mà không biết có phút nào nhận ra mình:

Cả đời

Đánh đổi

Được gì?

- Dăm ba bài thơ, dán tem “thơ bụi”

Câu thơ như thể nét cắt sắc lẻm, đau tận xương tủy cho những ai đã đi cùng thơ sắp hết đời mình với bao mơ mộng chứa chan khi cầm bút từng mong, không thi hào thi bá thì cũng để lại chút danh thơm như Nguyễn Công Trứ từng ghi “Đã sinh ra ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Giờ nhìn lại, còn lại:

“Dăm ba bài thơ dán tem “thơ bụi”

Đau hơn, cuộc sống bình thường, đời thường no đói, giàu nghèo, sang hèn gì ai cũng có một tổ ấm vợ, con xum họp mới là đời người, mới là cuộc sống… Người thơ ở đây không biết còn lý do gì ngoài sự mê đắm thi ca hay chỉ vì “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi” đã đổi cả hạnh phúc êm ấm gia đình:  

Thiếu vợ

Thiếu con.

Viết đến đây, hình ảnh Văn Thùy để đầu trần phóng xe tiễn tôi thêm một quãng qua thị trấn Ân Thi bỗng thoáng hiện về trong trí nhớ: Một người hơn bẩy mươi tuổi còn tháo vát nhanh nhẹn như vậy, anh như tự lý giải cho những câu thơ của Đặng Xuân Xuyến, lý giải cuộc đời này:

Đời lắt léo

Phận eo sèo

Thây kệ thế gian úp mở

Đã thế thì anh việc gì phải: Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng tửng như Đặng Xuân Xuyến đã khắc họa? Bởi tất cả từng trải, mất mát và bao nhiêu nỗi buồn đau của giấc mơ bệnh lý do nàng thơ ám ảnh suốt cả đời người đã làm cho con tim khô héo, có thể phẩy tay “Thây kệ thế gian…” thì con người Văn Thùy cũng đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào đời với cái nhìn khinh bạc thật sự, không cần “Giả ngố”, không cần phải “Mượn chữ bày trò” anh đã đem chính những câu thơ mình, dùng thêm “hoa tay thư pháp” vẽ thành tranh trước Văn Miếu, Quốc Tử Giám bán cho bàn dân thiên hạ. Liệu có bao người làm thơ dám đem ra bán giữa chợ đời như anh.

Qua bài thơ Văn Thùy “Dị nhân”, Đặng Xuân Xuyến đã thành công ở những nét đặc tả một dạng thi sĩ số phận lận đận trong cuộc sống cơm áo con người.

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

VĂN THÙY DỊ NHÂN HAY KỲ NHÂN

Đọc Văn Thùy “Dị Nhân” của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “Dị Nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “Dị Nhân” là bài thơ như thế.

Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”...

Này nhé:

Cuống quýt với thơ

 Lử đử cùng thơ

Say thơ như điếu đổ.

không tả trời, không tả đất, không tả người... mà hình dạng thi nhân đã ngất ngưởng bước ra. Cứ cái đà đồng đảo này thì thi nhân sẽ “kinh thiên - động địa” chẳng khác Nguyễn Công Trứ, chẳng kém Tú Xương, nhưng không, tác giả đã cho người đọc biết mình nhầm để tỉnh ngay khi đọc tiếp đến câu thơ nhẹ nhàng mà thôi thúc, ngắn gọn mà súc tích, tĩnh mà tỉnh:

Cả đời

đánh đổi

được gì?

Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó: “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”.

Rồi tiếp:

Thiếu vợ

Thiếu con

Đâu phải Kép Tư Bền

Sao cứ bắt miệng cười tim héo

Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận cái giá của sự say xưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.

Tác giả thơ lại tiếp tục điềm tĩnh, công tâm, phán nhận: “Đời lắt léo/ Phận eo sèo” rồi nhập tâm nhập thần mà nói hộ tâm trạng, bản lĩnh của Văn Thùy “dị nhân”: “Thây kệ thế gian úp mở”.

Những câu thơ: “Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng tửng được cất lên bằng giọng điệu bất cần và hài hài, đã khắc họa nổi bật lão thi sĩ với hình ảnh ngạo ngạo, ngông ngông, dị dị mà tài hoa và bản lĩnh. Thử hỏi, không tài hoa, không bản lĩnh thì làm sao lão thi sĩ có thái độ ngông ngạo, bất cần: “Thây kệ thế gian úp mở”? Không tài hoa, không bản lĩnh thì lão “dị nhân” có thể “mượn chữ bày trò” khiến thiên hạ phải mắt tròn mắt dẹt?! Hình ảnh thi sĩ “vác thơ/ tưng tửng” khiến ta liên tưởng nghĩ tới hình ảnh Đức Chúa Giê Su vác cây thánh giá đi khắp cõi truyền giảng đạo, cứu nhân độ thế. Đọc đến đây, đến câu cuối bài thơ thì cái dáng dấp hình thể, cái thần thái hồn vía của lão thi sĩ dị nhân ngất ngưởng, ngông ngạo, không phải là Văn Thùy “dị nhân” thì là của ai mà nhập hồn nhập bóng này được?! Văn Thùy xứng lắm chứ. Chân dung này thật xác thực và sống động. Nó cựa quậy đồng đảo lắm chứ. Tôi đồ rằng, tác giả vẽ chân dung này phải là người có tài quan sát và tinh tế lắm mới có thể khắc họa “hô sĩ nhập hồn” chân dung quậy sĩ dị nhân Văn Thùy thêm kỳ kỳ, ngộ ngộ.

Xin thưa, vì tôi cũng có quen biết Văn Thùy, có biết chút ít về ông: Ông là người tài hoa (chụp ảnh siêu, vẽ họa giỏi), thơ hay và chí khí tang bồng hồ thỉ nhưng phần gia cảnh thì hình như hơi thiệt thòi, công danh cũng chẳng thuận... Nên tôi đánh giá bài thơ Văn Thùy “Dị Nhân” này là bài khá, vì tác giả không kể lể kẻ vẽ mà đã khảo dựng được chân dung một con người thơ thật thơ, cho thơ tử vì đạo...

Nếu cho phép tôi được góp ý thì tác giả bài thơ vì tính cẩn thận và thực thà quá nên dễ gây cho đọc giả cảm tưởng tác giả be chắn tỉ mẩn, bày biện chữ nghĩa. Trong chữ phải chứa đủ tình - cảnh - sự cho suy tưởng hình tượng thơ sống động. Thơ càng vô lý càng tuyệt, càng chủ quan càng hay. Thơ phải là phi lý, là ảo, là mở mang khơi gợi. Những câu thực thà máy móc đã làm giảm chất say của thơ. Ví dụ như câu thứ 3: “Say thơ như điếu đổ” thì chữ “say thơ” chưa đắt vì chính 2 câu “Cuống quýt với thơ/ Lử đử cùng thơ” đã thấy cái say rồi còn nhắc tới “say thơ” làm gì? Giá như tôi, tôi sẽ sửa là “Biêng biêng điếu đổ”. Hoặc câu “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi” thì cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều không sát với Văn Thùy. Thực thì người đời - làng thơ đã công nhận loạt bài, phong cách thơ Văn Thùy là “Thơ bụi” rồi nên chăng sửa là “Loạt bài thơ bụi”. Hay câu 15: “Giả ngố” thật quá đã tố sự nghiệp, tố chân dung “dị nhân”, làm giảm hình tượng đẹp của 2 câu kết mà chính tác giả Đặng Xuân Xuyến đã kỳ công tạo dựng: “Vác thơ/ Tưng tửng”. Đành rằng Văn Thùy biết và cảm rất rõ những mất mát của đời mình và ông phải “giả ngố” để mua vui, để tự xoa dịu nỗi đau của đời nhưng đấy là đời, là cuộc sống thực của Văn Thùy nhưng khi vào thơ sao Đặng Xuân Xuyến không cho là “Ngố ngố” hoặc “Quá ngố” để hình ảnh Văn Thùy “dị nhân” bớt đời đi để thơ hơn?!

*

Hà Nội, 28 tháng 04.2017

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn

huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Email: nguyendanghanh1234@gmail.com

 

ĐƯỜNG DÀI

- Yêu mến tặng Huyền Thương -

 

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

 

- Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Thôi thì cứ để em đi

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Nhà nghèo

duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

 

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài.

*.

Hà Nội, đêm 13 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ “ĐƯỜNG DÀI” MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP

ĐƯỜNG DÀI, bài thơ mới nhất của Đặng Xuân Xuyến không dài nhưng đọc xong có cảm giác vừa đọc một chuyện tình buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Bài thơ chỉ có 3 lời thoại nhưng đã hiện lên đầy đủ không gian, thời gian, hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không gian là một nơi trong ngôi nhà của chàng trai, không quan tâm cụ thể đó là phòng khách, vườn hoa hay ban công hoặc nơi nào trong ngôi nhà đó. Thời gian là khoảng “Trời đã buông rèm từ lâu” nghĩa là sau lúc hoàng hôn và trời đã tối rồi. Nhân vật là một chàng trai với 2 lời thoại và một cô gái duy nhất chỉ có một lời. Không biết cô gái đến nhà chàng trai vào lúc nào và họ đã chuyện trò với nhau đã bao lâu, cũng không cần biết họ đã nói với nhau những gì bởi chuyện của trai gái với nhau từ nghìn đời nay đều là những chuyện đâu đâu, từ chuyện trên trời dưới biển đến chuyện thời tiết gió mưa, từ chuyện hoa trong vườn nhà đến cây ngoài đường phố, từ chuyện nỗi lòng mình đến chuyện nỗi lòng ai đó… nhưng tất cả đều huyền diệu muôn màu muôn vẻ diễm tình. Nhà thơ chắc cũng biết thế nên cũng đã không thừa chữ để viết dông dài.

Nhưng bây giờ hiển nhiên là hoàng hôn đã tắt vì “trời đã buông rèm từ lâu” và cô gái xem chừng tỏ ý muốn ra về khiến chàng trai vội vã van xin nằn nỉ:

Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Cái hay trong câu nài nỉ này cho ta thấy, có thể cô gái đã nói, trời tối rồi, em về đây kẻo muộn. Nhưng chàng trai lại vin vào đó để bảo nàng: trời tối đã lâu rồi, em về làm gì, anh không muốn em trong “cảnh khuya thân gái dặm trường” nên anh mong “Ở lại đi em”! Và chàng đã được cô gái trả lời:

Chúng mình đến chẳng được đâu

 Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Một câu nói dấu bên trong một hơi thở nhẹ buồn báo hiệu những cảnh ngộ éo le của đôi lứa. Chúng mình không thể đến được với nhau đâu, anh bảo em ở lại cùng anh trong đêm nay có khác gì khuấy sóng bể dâu.

Và để chứng minh rằng mình nói đúng, cô gái lần lần nhắc chàng trai nhớ ra những cảnh ngộ éo le đó.

Trước hết, cô không ngần ngại tự bảo mình không còn trẻ trung gì nữa:

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Hiểu theo cách nói của dân gian, hẳn cô đang chừng ba mươi tuổi và trong vòng 15 năm nữa trong cô sẽ không còn một nét xuân thì nào nữa. Thế thì ở lại đêm nay để rồi sẽ đến với nhau làm gì khi em đã là gái đang về già.

Và để làm rõ hơn cho lý do từ chối này, cô tiếp:

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Em cảm ơn anh là người tình nghĩa, chả ngại gì miệng tiếng người đời với biết bao kẻ dở đần dở khôn nhưng em không muốn anh sẽ phải khổ vì những lời đồn đại thị phi không đẹp ấy.  

Là bạn gái của chàng trai, chắc cô gái đã biết có lần anh đã mượn thơ để nói rằng:

Sợ gì danh phận hư hao

Sợ gì thiên hạ trông vào nhỏ to

Sợ gì nhỉ? Chẳng phải lo!

Trai đơn gái lẻ … nhỏ to bằng thừa!

Và vì đã biết chàng là thế, cô phải nói ra luôn cái lý do nữa cho thêm sức nặng. Ấy là thân phận của cô: Nhà nghèo/ duyên phận mỏng manh

Và thân phận của chàng: Anh dù chẳng vợ còn con

Nên em biết anh yêu em và em cũng yêu anh. Nhưng cạp hai cảnh đó với nhau thì sao cho được. Vì vậy, em chỉ xin: Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Vâng! Em xin nợ anh chữ nghĩa chữ tình và chữ sắt son. Nhưng em chỉ có thể cắm chặt những chữ ấy vào đáy lòng, không để cho nó trôi đi còn đến với anh thì không thể được, vì: Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Chen vào cuộc sống của anh, dù nay anh không còn người vợ cũ nữa nhưng còn con anh, làm thế khác nào phá vỡ sự bình yên trong ngôi nhà này, phá vỡ hạnh phúc con anh đang có và làm thế, khác nào tự em chuốc lấy cái phận hèn vào mình.

Dứt lời, cô gái quyết định:

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

Không thấy có nước mắt nhưng câu thơ  có 8 tiếng mà xẻ ra thành 5 nhịp nghe nấc lên những tiếng nghẹn ngào khi cô gái dằn lòng mình để nói lời cuối và khi cô tự vẽ nên cái cảnh lạc lõng cô đơn buồn tủi của mình khi sẽ ra về trong cảnh “mờ đèn phố xa”.

Cách viết câu thơ 8 tiếng thành 5 dòng này có thể coi là một cách tân rất thành công của Đặng Xuân Xuyến về cách xẻ tiếng của câu thơ lục bát ra thành nhiều nhịp để diễn tả tâm trạng trữ tình của nhân vật trong thơ. Thành công này không chỉ một lần trong lời thoại của cô gái mà còn trong 2 lần lời thoại của chàng trai.

Nếu như khi nằn nì bạn gái đừng về, cả hai câu thơ chỉ bị cắt thành thành 4 nhịp:

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Thì trong lời thoại cuối, khi cô gái nhất quyết dằn lòng ra về, câu lục xẻ ra 3 nhịp và câu bát xẻ ra 4 nhịp

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

Khiến câu nói như mắc nghẹn trong cổ họng nhưng phải cố nói cho xong trong nỗi đau đành khoanh tay đón chịu duyên phận và nghĩ tới cảnh người con gái mình yêu sẽ lầm lụi ra về mà không thể làm gì hơn một việc là chỉ đưa một chiếc khăn để nàng quấn cho đỡ lạnh trên ngõ xa đường dài trong khi chính chàng đang thấy lòng mình tràn ngập hơi lạnh giá ở trong căn phòng sắp vắng bóng nàng, đúng như cảnh trong thơ Thế Lữ từ thế kỷ trước:

Ai lau nước mắt cô mình?

Dưới đây duy có một mình ta thôi.

Cầm khăn lòng những bồi hồi,

Lệ ta cũng chửa ai người lau cho.

Có thể nói, ĐƯỜNG DÀI là một bài lục bát hay nhất trong các bài lục bát của Đặng Xuân Xuyến mà tôi đã đọc. Tiếng thơ dịu êm như từng hơi gió nhẹ thổi nỗi buồn của đôi trai gái hòa tan vào trái tim người đọc.

Trong bài thơ, ta thấy cô gái rất nặng lòng với chàng trai, hẳn trong lòng cô cũng âm vang nỗi tiếc khi phài về:

Còn đêm nay nữa, anh đi,

Lượng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề

(Ca dao)

Lượng vàng không tiếc nhưng tiếc những khi ngồi kề bên anh nên em sẵn sàng cam chịu sẽ neo tình yêu của anh vào tận đáy lòng nhưng không thể sống lứa đôi cùng anh vì lo sợ đường dài sẽ còn có biết bao ngăn trở.

Chàng trai cũng rất yêu cô gái và hẳn chàng rất biết:

Còn đêm nay nữa, mai về

Lạng vàng không tiếc, tiếc kề môi son

(Ca dao)

Lạng vàng không tiếc nhưng tiếc những giây phút được kề môi son nên anh tôn trong những suy nghĩ của em mà chỉ dám ngỏ lời muốn níu kéo:

Đừng mà.  

Ở lại đi em

Nhưng rồi anh vẫn ngậm ngùi để em được tự giải thoát:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Dù anh đau xót quặn lòng biết rằng em sẽ lạnh lùng buồn tủi trên ngõ xa đường dài đêm nay.

Ôi! ĐƯỜNG DÀI! Đó đâu chỉ là lối đi về của em tối nay mà đó chính là đường đời còn thăm thẳm nhiều hệ lụy trắng đen mà anh và em, chúng ta rất dễ dàng bị đánh gục trong khoảnh khắc khi chúng ta cảm thấy bất lực không vượt qua được những trở ngại trên con đường dài đó. 

Tôi, người yêu bài thơ này không có lạng vàng nào để tiếc nhưng rất tiếc cho cô gái và rất tiếc cho cả chàng trai.

Với cô gái, ta hãy bình tâm xem lại hai lý do chính cô gái đưa ra để em về kẻo phố xa đèn mờ.

Lý do thứ nhất: Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Tiếc cho cô sao không nhớ tới cô gái “Phiếu hữu mai” (Mai rụng) trong Kinh thi, một cô gái muộn chồng, nhưng trong trái tim luôn khát khao mong sớm đạt được nguyện ước “có chàng, có thiếp, như đũa có đôi”:

Mai em đã bắt đầu rơi

Mười phần hương sắc chỉ vơi ba phần

Ai người quân tử cầu thân

Trầu cau ngày tốt Tấn Tần kề vai

Một tình cảm thật táo bạo tựa như “cọc đi tìm trâu” nhưng thật đáng quý biết bao cô gái “Mai rụng” đó. Còn cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bây giờ đang ngồi kề bên chàng trai rất yêu mình, năn nỉ cô ở lại cùng chàng nốt đêm nay nhưng sao cô cứ một mực đứng lên vì sợ đường dài

Lý do thứ hai:

Nhà nghèo 

duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn  

Ôi sao cô lại yếu lòng đến thế? Tiếc cho cô không nhớ ra cô gái trong “Bần nữ thán”. Cô ấy cũng rất nghèo và vì nghèo nên chẳng được ai ngó ngàng tới, mặc dầu cô ấy thông minh, giỏi và đẹp:

Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,

Hóa cho nên thua sắc, thua tài

Nhưng sau bao lời tâm sự buồn than, cô gái nghèo ấy đã nhận ra ngay rằng mình chỉ: Giận duyên nói bấy nhiêu lời. Rồi vững lòng tin vào phẩm giá của mình, của một cô gái nhà nghèo  trước cảnh đời:

Ngọc lành còn đợi giá cao,

Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì

Còn cô, cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, ngọc lành đâu còn phải đợi giá cao? Chàng trai ngồi kề bên cô đang năn nỉ níu kéo cô ở lại bên chàng, sao cô vẫn mặc cảm về “Nhà nghèo duyên phận mỏng manh” của mình mà dằn lòng đứng lên như thế?

Với chàng trai, chàng yêu nàng đến thế mà sao lại cố nói cho xong những lời nghẹn đắng trong lòng:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

ĐƯỜNG DÀI! Sao lại sợ đường dài đến thế mà không nhớ tới câu: Đường dài, ngựa chạy biệt tăm,/ Người thương có nghĩa, trăm năm cũng về

Để mà níu bằng được đôi chân cô gái ở lại nốt đêm nay cùng nhau thỏa nguyện: Tơ tằm đã vấn thì vương,/ Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.

Chính vì thế, bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến có thể coi như một chuyện tình nhỏ bé và đơn giản nhưng chan chứa nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất đẹp xuất phát từ hai trái tim sâu thẳm yêu nhau nhưng chưa đến được với nhau thành đôi thành lứa vì chưa bước qua được những rào cản. Một chuyện tình buồn đẹp như câu thơ của nhà thơ Hồ ZDếnh: Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở (Ngập ngừng).

Câu thơ cụ ZDếnh hay quá khiến tôi hy vọng rằng, những lời của chàng trai và cô gái trong bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến chỉ là mấy câu buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Rồi đêm nay sẽ qua, ngày mai đẹp ánh ban mai sẽ đến, họ sẽ lại ngồi kề bên nhau để cho chuyện tình buồn đẹp của hai người sẽ mất đi chữ buồn mà chỉ còn lại chữ đẹp.

*.

Sài Gòn, 15 Tháng 05.2017

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“ĐƯỜNG DÀI” - CÂU CHUYỆN TÌNH ĐƯỢC KỂ RẤT THẬT

Lâu rồi mới được đọc bài thơ thật đến vậy. Cách gieo vần thoáng khoát, lối ngắt câu hợp lý với tâm trạng phiêu phiêu, bảng lảng, trăn trở, níu kéo, giằng xé đã chạm vào nỗi riêng tư của từng người đọc. 

Vừa xem vừa lo hết và lại mong xem kết cục câu chuyện thế nào. 

Ta cũng hổn hển, gấp gáp, luống cuống theo tác giả từ mạch thơ. Hình như tác giả viết một hơi, sợ không ghi kịp ý đang dồn dập tuôn trào trong tâm thức.

Đừng mà ở lại đi em

Ngoài kia trời đã buông rèm từ lâu.

Bắt đầu từ lời cáo từ giã biệt. Tác giả cuống quýt lo cho cái buổi vui ngắn chẳng đầy gang trôi mất! Chàng vội năn nỉ, níu kéo chỉ sợ Em đi mất nên nêu một lý do chẳng thuyết phục tý nào. 

Ngược lại, trong tình yêu thì người nữ luôn tỉnh táo, thực tế hơn: 

Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Thôi thì cứ để em đi

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân 

Cô gái cũng nói vậy thôi để giải phóng tình thế dùng dằng khó dứt nhưng cũng đầy ắp tiếc nuối và muốn ở bên nhau mãi mãi. 

Con người vốn hay mâu thuẫn, tự tạo phức tạp cho mình, cho hoàn cảnh để rồi đi cũng dở, ở không xong.

Với cách gieo vần khoáng thoát, cách nhả câu hợp lý cùng tâm trạng rất tâm trạng làm cho người đọc bị cuốn theo lúc nào không biết.

Càng lúc lời cô gái càng tha thiết, phân tích càng có tình có lý: 

Anh dù vì nghĩa chả cần

Ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim sợ lắm bước dồn

Thôi em về, kẻo lời đồn khổ anh.

Khen anh đấy, vì em mà chẳng thèm để ý đến cái lũ người chả giống ai cả. Chính em cũng giống anh, vẫn thấy khó quyết định đi hay ở lại. Do đó đến lượt em nêu ra lý do cũng kém thuyết phục: sợ lời đồn! Ai đồn? Sao lại khổ anh khi anh đang vui những phút như bất tận thế này.

Và EM ở đây là ai nhỉ? Càng cố tìm hiểu càng thấy bảng lảng, liêu trai! Mình cứ thấy EM phảng phất, bồng bềnh, mờ nhân ảnh. Dù vậy, nhưng khối tình lại rất thật, thật như dao cau cật nứa, sắc lẻm, ngọt ngào làm người đọc thấy như tứa máu......

Cuộc gặp gỡ nghe ra đượm sắc liêu trai, mộng mị nhưng rất nặng tình người. Người đọc bất giác thèm được như vậy. Thương lắm, yêu lắm, gần lắm mà cũng xa lắm. Thì ra dặm trường là vậy! Từ cõi thực đến cõi hư vô có một khoảng cách cảnh giới! 

Đọc đến đây bỗng thấy thương tác giả, thương cô gái và... thương mình. 

Thế giới ta đang sống là thế giới lẫn lộn đồng cư của hư thực, yêu ghét, tốt xấu, hạnh phúc và bất hạnh. Thôi thì hãy gạn đục khơi trong, hãy tử tế, nhìn ra quy luật để mà hoàn thiện. 

Cô gái còn nói nữa, đã chào em về mà cô mãi vẫn chưa dứt nổi: 

Nhà nghèo duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Dằn lòng rồi cũng phải quen 

Thôi em về kẻo mờ đèn phố xa ...

Cảm xúc vỡ oà.

Rõ ràng âm dương cách biệt nhưng tình người chan chứa, thật đáng trân trọng. Thà gần hình bóng còn hơn vạn lần xa mặt cách lòng. 

Bất giác không còn khoảng cách âm dương nữa. Một cách sống, một nghĩa tình đã neo nhau lại bởi nghĩa, tình son sắt.

Ờ thì em trở lại nhà 

Khăn đây em quấn ngõ xa đường dài .....

Đến đây tác giả mới nói. Câu nói như nghẹn ngang cổ họng, lo lắng cho khoảng cách em đi ..

Bài thơ khép lại rồi mà tôi vẫn thổn thức, buồn vui lẫn lộn nhưng rõ ràng thấy mến tác giả vì sự thật lòng qua tiểu phẩm hay và nặng.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

LỠ

 

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông

Thầm thĩ với người từng vun mộng

Trăng kia bến cũ có thay dòng?

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

 

Và đã khi nào mỏi mòn trông

Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?

Có còn đứng đợi chờ trăng xuống

Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?

 

Tôi biết, nhưng thôi, chỉ rầu lòng

Ái tình cố níu cũng bằng không

Lòng người còn thẳm hơn sông rộng

Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.

*.
Hà Nội, chiều mưa 19.08.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

May thay tác giả bài thơ “Lỡ” được sinh ra ở thời đại những làng quê Việt Nam còn nhiều mơ mộng, còn có những bến đò gợi niềm cách trở cho kẻ ở người đi. Phương tiện để nối lại đôi bờ chỉ là những con đò tay người chèo lái… Cuộc sống chậm đến nỗi “Chỉ lỡ nhịp chèo” mà nhiều khi tình duyên lỡ dở, biệt ly, để bây giờ làng quê, thành thị nối liền nhau, qua sông đã có những cây cầu vững chãi vươn thẳng nhịp nối đôi bờ cho những dòng người, dòng xe lăn bánh bon bon, chớp mắt đã được cầm tay, đã được kề tựa bên nhau không còn phải phấp phỏng ngóng chờ mà tác giả vẫn có được những câu thơ trở về trong mộng:

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Thấy lại cả vầng trăng “say lướt khướt rớt đáy sông” vì hồn người lúc ấy đắm say “thầm thì với người từng vun mộng”. Bây giờ lấy vợ, cưới chồng tuy thủ tục rườm rà nhưng có lẽ người ta đã mơ ước khác xưa, ước muốn khác xưa. Có đôi lứa nào đến với nhau: “Thầm thĩ với người từng vun mộng”. Cái thực bây giờ đã thay cái mộng. Còn đôi lứa nào giờ yêu nhau như câu thơ Xuân Diệu từng gợi lên vẻ đẹp tình yêu sống mãi muôn đời: “Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Yêu mà không nói được vì sao tôi yêu em. Vì sao em yêu tôi, thời nay chắc không còn nữa. Khi viết câu thơ “Trăng kia bến cũ có thay dòng” hẳn tác giả là người có tình yêu bền chặt. Đời thật tất cả đã đổi thay. Sông, người ta đắp đập, chặt khúc làm thủy điện. Bây giờ còn ai ngẩn ngơ “Cầm tay đi dạo dưới trăng vàng”. Chưa kể thứ tình yêu thác loạn nơi đèn màu, nhạc Rốc nơi phố thị, vầng trăng quê đã bị bỏ rơi từ đã lâu rồi như câu thơ một nhà thơ viết thời đương đại:

Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất

Trăng còn đây chỉ là bản photo

Hàn là thi sĩ Hàn Mặc Tử, thi sĩ sống cùng trăng, sống với trăng bây giờ không còn. Vầng trăng ta thấy đây chỉ là “vầng trăng photo” giống hệt vầng trăng muôn xưa, nhưng không phải, bởi còn đâu thứ tình yêu thật sự trong lành để nuôi sống mơ mộng cho trăng…

Nhưng nghĩ lại, giữa đời sống bẩy tỷ người trên trái đất, chỉ có một vành trăng mơ mộng mà thôi, ai còn có nó, giữa bao bậm trợn, ham hố, thèm muốn ở đời, tác giả là một con người hạnh phúc, vẫn sống với vầng trăng đẹp để mơ chung thủy với người không chung thủy với mình. Hơn hết để còn những câu thơ như “kẻ tâm thần không chịu tỉnh” như thế này:

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

Bài thơ “Lỡ” sẽ đem đến cho ai chịu thiệt thòi lỡ dở, thứ hạnh phúc suốt đời vẫn có một tình yêu tươi đẹp, sáng trong.

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

CẢM NHẬN BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tác giả bài thơ “Lỡ” quê ở Hưng Yên, bên kia bờ sông Hồng đối diện với dải đất ngoại thành Hà Nội bên này. Ngày xưa khi chưa có những cây cầu hiện đại bắc qua, làng mạc dọc theo bờ sông suốt miền châu thổ Bắc bộ, đâu cũng có bến đò ngang… Bến nước, con đò là nơi nối nhịp thông thương qua lại giữa hai bờ Nam, Bắc. Bao nhiêu đôi lứa đã gặp gỡ qua ánh mắt nụ cười trên bến, dưới thuyền mà nên duyên chồng vợ, gắn bó keo sơn, đến đầu bạc răng long. Tác giả bài thơ có lẽ là một người đã được hưởng thứ hạnh phúc dân dã trong lành một thuở để có những câu thơ hoài niệm về những kỷ niệm mà cuộc sống tất cả đã đổi thay, không còn gặp ở tình yêu tuổi trẻ bây giờ:

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông

Thầm thĩ với người từng vun mộng

Trăng kia bến cũ có thay dòng?

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

Giờ không còn bến với đò, nhịp sống hối hả trên những cây cầu lồng lộng vắt ngang trời xanh dẫn về những làng quê cũng nhà tầng, cũng tường cao cửa kín, chưa kể nhiều nơi người ta đã lắp đặt những con mắt điện tử (camera) ma quái rình mò, giăng mắc ngày đêm, ta được đọc những câu thơ như giở lại những kỷ vật cũ càng: “Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng/ Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông” để được tiếc nuối những gì say đắm đã đi qua, chẳng thú vị sao! Có lẽ tác giả bài thơ là lứa tuổi người cuối cùng nhìn thấy “Vầng trăng say khướt rơi xuống đáy sông”. Bởi trong các nhà thơ hiện đại đã có người viết “Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất/ Trăng còn đây chỉ là bản phô tô”. Vẻ đẹp của tạo hóa lung linh huyền diệu lấp lánh trong thi ca muôn thuở, đã nhuộm thắm hồn người làm cho tình yêu trở nên bất tử mơ màng, bỗng bị thứ ánh sáng đèn màu với âm thanh thác loạn của những điệu nhạc cuồng si che phủ, mờ nhạt như một bản phô tô, một vầng trăng in giấy không hồn, bởi chính lòng người vô cảm trước những nhu cầu vật chất, của cải, tiện nghi chẳng biết sẽ còn đưa cuộc sống con người đi đến nơi nao? Người ta đã chế tạo được những “người Rô bốt” nhằm thay thế con người bằng xương thịt trong lao động tay chân, đã sản xuất được cả những máy tính có khả năng viết những bài thơ theo lập trình có sẵn… Liệu ngày nào đấy con người sẽ tìm ra thứ “tình yêu Rô bốt” mới chăng? Nói vậy để thấy vui vì hôm nay ta còn được đọc những câu thơ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn vì tình của Đặng Xuân Xuyến viết cuối năm 2016:

Và đã khi nào mỏi mòn trông

Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?

Có còn đứng đợi chờ trăng xuống

Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?

Đôi lứa yêu nhau bây giờ chắc chẳng bao giờ dùng lại những câu thơ “Héo hắt than hoa lạc cuối dòng”. “Than hoa lạc…” là than thế nào? “Cõi phiêu bồng” là ở đâu? Khi những chiếc máy bay siêu tốc một giờ đã rẽ mây đi hàng nghìn cây số! Và những giấc mơ đã được dùng làm nghiệm chứng cho con số tính đề thua được, đỏ đen…Có được bài thơ gợi lại một tình yêu thủy chung, son sắt “chỉ lỡ một nhịp chèo mà thành xa cách…”, mà tháng năm cứ còn mãi bên lòng ngọn lửa không tàn phai đã là an ủi cho ai người vẫn còn khao khát thủy chung!

*.

Hà Nội, tháng 11 năm 2016

Nhà thơ HÀ NGUYÊN

Địa chỉ: 126 Nam Cao, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: kstoan12@gmail.com

 

CHUNG

- Tặng Quỳnh Hương -

 

Em có cần anh không?

Nếu cần anh hãy cùng anh chung sống

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười...

 

Đừng ngại em ời...

Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng...

 

Em sẽ là buồm căng

Anh sẽ là gió lộng

Thuyền trăng mình thơ mộng

Dập dìu giữa biển xanh

Em. Nào, về với anh!

*.

Hà Nội, trưa 25 tháng 04. 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đã lâu… tôi mới nghe được một thông điệp tình yêu - lời tỏ tình mộc mạc, giản đơn mà chân thành, vừa cổ điển vừa hiện đại. Lời tỏ tình từ tâm can, không ấp úng rụt rè vụng dại của tuổi trẻ mới vào đời, mà là lời tỏ tình của người đã trải qua những cung bậc thăng trầm trong tình ái, đã bước vào ngôi đền tình yêu thắp nén tâm hương của lòng mình và nghe được thần ái tình mách bảo lẽ hằng thường vĩnh cửu - bền vững của tình yêu. Tiếng nói của thần ái tình thường thì thầm trong lòng con người, nhưng không phải ai cũng nghe rõ. Hình như trời cho trái tim thơ của Đặng Xuân Xuyến nghe được tiếng nói tâm linh.

Trong kinh dịch quẻ Hàm là đạo vợ chồng - tiếp nối đến quẻ Hằng là đạo dài lâu. Sự dài lâu nào cũng có nguyên lý của nó như nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người. Như khí trời, không có khí trời thì vạn vật và con người không thể tồn tại và con người cũng cần tình yêu như khí trời vậy, “Đến sỏi đá cũng cần có nhau” thì con người sinh ra trong trời đất không có tình yêu và tình vợ chồng chẳng có lỗi với tạo hóa lắm sao!

 Em có cần anh không”, một câu hỏi tưởng giản đơn bình thường nhưng đầy nội lực, không trải qua những thao thức với tình yêu, không hiểu thấu nguồn cội của tình yêu, đặc biệt là tình yêu vợ chồng là sự hằng thường lâu dài không thể tỏ tình từ tâm can như vậy. Chữ “cần” vừa mang sức nặng của câu thơ, vừa là ngọn lửa minh bạch và chân thành thắp sáng trong ngôi đền tình yêu của mọi lứa đôi trong cõi đời này. Thiếu sự “cần” ấy mọi cuộc tình sẽ thành tẻ nhạt. Ngược lý của cần là không cần, ôi không cần nhau thì đâu còn là tình yêu nữa.

 Em có cần anh không”. Cần là một nhu cầu như nhu cầu hít thở để bảo toàn sự sống con người, và con người không có tình yêu như trái đất thiếu mặt trời là điều tất nhiên. Nhưng câu hỏi này đối tượng được hỏi phải là người nào? Mới gặp nhau, mới biết nhau mà hỏi như vậy thật là vô duyên. Đặng Xuân Xuyến tặng bài thơ này cho Quỳnh Hương có nghĩa là 2 người đã hiểu nhau, biết nhau lâu rồi. Quỳnh Hương đã là không khí trong lành trong lồng ngực nồng nàn của nhà thơ hít thơ, nàng đã là bài thơ mà Đặng Xuân Xuyến là tác giả. Cũng có trường hợp 1 bóng hồng lướt qua đã rung động cho thi nhân làm thơ tặng, nhưng tôi dám chắc rằng không có nhà thơ nào dám cả gan hỏi “Em có cần anh không” như Đặng Xuân Xuyến.

Sau câu hỏi “Em có cần anh không” thì câu thứ 2 sinh ra là lẽ tất nhiên “Nếu cần hãy cùng anh chung sống”. Lòng thành của nhà thơ cụ thể hơn, tính mục đích rõ ràng minh bạch hơn, câu thơ như ánh nắng hồi hộp thở trong hoa, ánh mắt của nhà thơ đang ngước lên thành kính đợi chờ vị thần tình ái của lòng mình. Sự chân thành như sóng đã dâng lên là hối hả vỗ bờ, và mọi sự chân thực đều ngắn gọn và rõ ràng:

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười

Lời tỏ tình đến đây tưởng như đã đủ, nhưng với tình yêu đặc biệt là tình yêu chân thành thì nói biết bao nhiêu cho vừa. Xuân Diệu:

Đã hôn rồi

Hôn lại

Hôn mãi mãi muôn đời

Anh mới thôi dào dạt

Đặng Xuân Xuyến là nhà thơ hậu sinh cái gen đa tình bay bổng của thơ đã nhiễm với gen đời. Anh vẫn tỏ tình với ngôn ngữ mộc mạc:

Đừng ngại em ời

Giường nhà anh đủ dài đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm đủ nồng

Câu thơ gọi hồn những trang cổ tích, cho người đọc trôi ngược về cội nguồn nề nếp cha ông, nhưng cũng rất hiện đại trong cuộc sống hôm nay. Chữ “đủ” là linh hồn của câu thơ, đủ có nghĩa là không thừa không thiếu, đủ mang hồn của triết học phương đông, kín đáo nói với người tình của mình và cho tất cả những lứa đôi, những cặp vợ chồng và cả chúng ta: mọi sự ở đời này hãy tự cho là đủ - thì sẽ đủ. Tôi nghe thấy tiếng Lão Tử cười thầm và tay khẽ vuốt râu - Đạo đã thành thơ.

Cái đẹp của thơ Đặng Xuân Xuyến là sự mộc mạc vì hồn cốt của anh mộc mạc. Nhưng cái mộc mạc của chàng trai quê Hưng Yên đã già nửa đời ra đi dan díu với kinh thành, nên vẻ đẹp mộc mạc mang một vẻ đẹp khác. Sau những điều cụ thể của sự “cần” có anh không, của gạo chung nồi, chăn chung, gối chung của căn nhà đủ dài đủ rộng, sự mộc mạc của thơ bay lên với tất cả nỗi lòng:

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng.

 Khêu ngọn lửa hồng ý tưởng của câu thơ mang nỗi lo xa, cẩn thận gìn giữ tình yêu, ngọn lửa tình yêu khêu lên, thắp sáng không chỉ một đêm nay, đêm mai mà sáng cả một đời. Câu quan họ không chỉ hát trong đêm nay mà “Ta nối câu quan họ” nối dài mãi ngân vang mãi trong cả đời. Chữ “khêu” và chữ “nối” đọc lướt qua sẽ không thấy nỗi lòng của nhà thơ.

Từ bệ phóng của đời sống, của lòng chân thành hồn thơ bay lên, tình yêu ảo diệu lung linh Ta bện mây với gió/ Kết thành thuyền chơi trăng. Bàn tay của ái tình thật kỳ diệu “Bện mây với gió”, chủ thể và khách thể giao hòa - anh với em là một. Anh không nhớ anh là mây hay là gió, em không nhớ em là gió hay là mây. Như Liệt Tử nói: “Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta”, gió và mây quện vào nhau kết thành con thuyền chơi trăng, và con thuyền chơi trăng ấy vừa có, vừa không mang sắc màu huyền bi đạo phật. Bơi trong cuộc sống vĩnh hằng. Đọc đến đây mới thấm thía chữ “cần”. Mây cần có gió, gió cần có mây để hóa con thuyền chơi trăng và vui sống trong cõi đời này.

Nếu là tôi, tôi sẽ dừng bài thơ ở đây. Nhưng nhà thơ đang yêu, đang say nên dù đã qua sự tột đỉnh thăng hoa, nhưng tình yêu hoàn nguyên cho anh sức khỏe, vẫn yêu tiếp:

Em sẽ là buồm căng

Anh sẽ là gió lộng

Thuyền trăng mình thơ mộng

Dập dìu giữa biển xanh

Em, nào, về với anh.

Buồm căng và gió lộng là ý thơ không có gì mới, không say lòng người bằng “Bện mây với gió”, “Thuyền trăng mình thơ mộng/ Dập dìu giữa biển xanh” tưởng là hình ảnh đẹp của thơ nhưng đã thiếu lửa, không cháy như sự đam mê quấn bện vào nhau như mây gió.

Thế mới biết làm thơ cực khó, thêm một chữ thì thừa, bớt một câu thì thiếu. Ngoài sự xúc động thực, vốn đời cần có tư tưởng và câu chữ bầu lên nhà thơ.

Ở bài thơ này một số chữ tôi đã phân tích ở trên đã bầu lên nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.

Câu kết: “Em, nào, về với anh”. Một câu nói thừa nhưng lòng tôi hình dung hình ảnh bàn tay nắm bàn tay, đôi tình nhân cùng nhau tung tăng bước vào ngôi nhà hạnh phúc. Tôi thầm cầu trời sự hình dung mong đợi của tôi và của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thành sự thật.

*.

NGUYỄN THANH LÂM

Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: thanhlam.tho@gmail.com

 

ĐÔI LỜI GÓP THÊM VỀ BÀI THƠ “CHUNG”

Nhân đọc bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Khôi tôi có đôi lời “góp thêm”.

Bài thơ có 2 câu HAY nhất, đó là "tứ" thơ - là rường cột của bài thơ:

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng

Một "tứ" thơ lạ, một sáng tạo độc đáo. Nó thơ mộng nhưng cũng thầm bảo: đằng sau cái thơ mộng là biển khổ cuộc đời đấy, có dám chung lưng đấu cật "Vượt biển" thì hãy về với anh?

Viết đến đây Nguyễn Khôi lại nhớ đến Trường ca "Khảm Hải" - Vượt Biển của Dân tộc Tày, Việt Bắc (thói quên nghề nghiệp của 1 đời ở và làm công tác Dân Tộc mà). Thật là sòng phẳng, nói trước cái khó khăn / có chấp nhận (chịu nổi) thì mới "Em, nào, về với anh"..., kẻo sau này lại:

Chồng gì anh 

Vợ gì tôi

Chẳng qua là cái

nợ đời của nhau...

 (Ca dao)

rồi lại chia tay như cuộc hôn nhân trước...

Chao ôi, thơ Tình là tiếng lòng, tiếng con tim thổn thức của tuổi trẻ, nhưng ở cái tuổi dở ông / dở thanh niên như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, thì đó là sự "hồi xuân" mà lửa lòng bưng bừng "khát" (thèm) một cuộc hôn nhân (già) như mộng? để có một bạn đời cùng chung một con thuyền tình để "vượt biển" qua nốt quãng đời còn lại trên thế gian này.

Nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm về cơ bản "bình" trong bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN là đủ rồi, rất Hàn lâm...

Tuy nhiên, cái có vẻ "mộc mạc", “giản đơn” của Đặng Xuân Xuyến ở mấy câu thơ khổ đầu như dẫn dắt cô gái quê ngây thơ kia đi đến "ta bện..." thì không còn mộc mạc nữa mà là rất lãng mạn, kiểu lãng mạn của nhà thơ Xuân Diệu:

"Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

Để linh hồn ràng buộc với muôn dây 

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến..."

 (Cảm Xúc)

thì ở đây phải là một cô gái có tâm hồn đồng điệu mới kham nổi cái "tầm" yêu (khát vọng yêu của Đặng Xuân Xuyến) để thành một cặp đôi hoàn hảo khi kết thành thuyền Thơ...

HAY, HAY, HAY.

LẠ, LẠ, LẠ...

Đó là một cống hiến nhỏ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cho ngàn lẻ cái Thơ Tình xưa nay hiếm của “Chung” là thế chăng?!

Nguyễn Khôi gõ nhanh, có điêu gì bất cập xin được miễn thứ.

*.

Phố Hàn 3 giờ sáng 11-10-2016

NGUYỄN KHÔI

Địa chỉ: P12A05 nhà 17T, Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội.

Email: khoidinhbang@gmail.com

 

HƠI THỞ NÚI RỪNG TRONG BÀI THƠ “CHUNG”

Cái chất giọng, hơi thở và cách tỏ tình của chàng trai trong bài thơ làm người đọc hình dung ra một vùng đồi núi trập trùng, hương rừng ngai ngái và chàng trai được ướp mình trong không gian đó nên lời nói cũng mộc mạc, rõ ràng như thuở bản thiện tính:

Em có cần anh không 

Nếu cần hãy cùng anh chung sống ...

Thế thôi! Đơn giản nhưng lại là lời cầu hôn đẹp nhất mà cũng “rừng rú” nhất và chắc chắn người phụ nữ kia không hề từ chối.

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười.

Đến đây càng chắc chắn hơn: lời tỏ tình của một chàng trai thẳng thắn, bộc trực, chả màu mè nhưng tình lại vô cùng sâu đậm. 

Đừng ngại em ời...

Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng...

Cái thật thà đậm chất sơn cước nhưng cũng rất lãng mạn kiểu núi rừng của chàng trai (trong thơ) như thế, làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Em Tắm của nhà thơ Cầm Vĩnh Ui (Bạc Văn Ùi):

 “Tay của em lấm lem

Tay của than của bụi

Tay của rừng của núi

Tay của đất của nương.

 Em tắm xong lại sạch

Vẫn ngát thơm hoa rừng

Da của em trắng ngần

Là của anh tất cả

Không phải người xa lạ

Việc gì mà trộm xem”

Cả bài thơ CHUNG là hơi thở của núi rừng, là cách thổ lộ tình cảm của chàng trai miền sơn cước: thẳng thắn, bộc trực mà sâu đậm. Đọc thơ, ta hình dung như thấy chàng trai đang mộc mạc tỏ tình với cô gái giữa đại ngàn lộng gió. Khó tìm thấy chất trai thành thị hay trai miền đồng bằng trong bài thơ này.

Thế đấy, tôi cứ bám mãi vào tâm tư đấy mà quả quyết người con trai Hà Thành Đặng Xuân Xuyến đã hoá mình thành chàng trai rừng núi, yêu cô miền núi, mới bị đồng hóa sâu đến thế . 

Toàn bài không có ý tưởng đặc biệt, cũng chẳng có từ hoa mỹ, lại càng không dùng thủ pháp nhưng khi đọc ta cũng thấy mình hổn hển theo lối nói gấp gáp, trần trụi, sơn cước để yêu hơn một con người.

Thật lạ là sao lại như vậy?

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

VÀI LỜI GÓP VUI KHI ĐỌC BÀI THƠ “CHUNG”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Anh chàng Đặng Xuân Xuyến nầy chắc là nhà thơ nên tán gái có nghệ thuật hơn anh chàng nông dân "Tát nước đầu đình" của ca dao Việt Nam.

Anh chàng nông dân tuy vào đề:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

thì thật hay nhưng rồi đoạn sau chỉ hứa hẹn những sính lễ là vật chất bình thường như: "Một thúng xôi vò, một cơn lợn béo, một vò rượu tăm, đôi chiếu em nằm, đôi chăn em đắp ..." là những thứ không bày tỏ được tình yêu thắm thiết.

Anh chàng Đặng Xuân Xuyến thì khác.

Anh vào đề bằng một câu chắt cú:

Em có cần anh không?

để cô gái trợn mắt ngạc nhiên rồi Đặng Xuân Xuyến từ từ dìu cô vào một giấc mơ có đầy đủ vật chất và tinh thần.

Đầu tiên Đặng Xuân Xuyến chỉ mời "góp gạo chung nồi" thật là chơn chất như một lời đùa vui. Sau đó từng bước, từng bước Đặng Xuân Xuyến trổ tài siêu việt của nghệ thuật tỏ tình để đôi tai cô càng nghe càng đắm say trong viễn ảnh tương lai vừa đầy đủ vật chất vừa thơ mộng tâm hồn.

Lời tỏ tình của Đặng Xuân Xuyến từ chỗ bông lơn lúc ban đầu trở nên trang nghiêm dần dần, lũy tiến những lời kết ước nghiêm chỉnh, bày tỏ được tường tận cái chiều sâu của tâm hồn nghệ sĩ trong Đặng Xuân Xuyến để cô gái hiểu hoàn toàn về anh.

Những đoạn Đặng Xuân Xuyến đề cập đến quan họ, đến trăng, đến gió, đến thuyền tình là đoạn chính của lời tỏ tình, vì lúc đó Đặng Xuân Xuyến bộc lộ hết tất cả tính lảng mạn trong anh, những mơ ước mà anh ấp ủ trong tâm hồn cho một cuộc tình lớn trong đời anh. Lúc này cô gái chắc sẽ rất cảm động vì thấy được ở Đặng Xuân Xuyến một con người vẹn toàn khi lo từng chi tiết trong cuộc sống vật chất mà cũng không quên tô bồi tình yêu đó bằng những nguồn vui cao thượng.

Xin gởi vài lời góp ý cho vui vậy thôi./.

*.

Đà Nẵng, 22 tháng 10 năm 2016

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

RU CON

 

Con mỗi ngày mỗi lớn

Mình mỗi ngày mỗi già

Tóc thêm dày sợi bạc

Đêm trở mình nhiều hơn.

 

Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò

Ầu ơ... thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ.

 

Giận “người lớn” dạy hư

Khiến con thơ phải khổ

Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ

 

Con như búp non tơ

Cần đời cha bóng cả

Cha đã qua mùa hạ

Chở che con mấy mùa?

 

Ầu ơ... Ơi cái ngủ

Ngủ ngoan nào con yêu...

*.

Hà Nội, đêm 20 tháng 08 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thường thì người ta hay dùng lục bát để ầu ơ ru con, có mấy ai dám dùng thể thơ ngũ ngôn để ru con. Ấy thế mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã mang thể thơ ngũ ngôn âm dương cân đối, nhịp điệu hùng khí để ru con. Âu cũng là cái may, cái mạnh để nhà thơ diễn đạt cái tình của mình.

Bài thơ đi thẳng luôn vào vấn đề, không kể lể dài dòng, không trình bày nguyên nhân, đã dựng được một khung cảnh chân thật, cảm động:

Con mỗi ngày mỗi lớn

Mình mỗi ngày mỗi già

Tóc thêm dày sợi bạc

Đêm trở mình nhiều hơn.

Ngay ở khổ thơ đầu, đã khắc họa hình ảnh người cha với những đường nét đặc biệt: Đó là người cha độc thân, gánh cả thiên chức làm cha và làm mẹ. Đó là người cha cô đơn, đang cảm nhận sự già yếu của bản thân theo thời gian (tóc thêm dày sợi bạc) nên càng trăn trở, lo lắng cho tương lai của đứa con, khiến “Đêm trở mình nhiều hơn”.

Hình ảnh người cha “lặng nhìn con nằm ngủ” trong khung cảnh tĩnh lặng với trĩu nặng yêu thương ấy, tưởng yên bình mà lại hừng hực cái tâm biến động:

Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò

Ầu ơ... thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ.

Hành động Giấu nỗi buồn trong thơ” không phải là để trốn tránh hiện thực mà là giấu đi những nỗi buồn, để con thơ luôn được vui tươi trong sự chở che, bảo bọc của người cha.

Bài thơ đi tiếp với nhịp trầm trầm như tự sự:

Giận “người lớn” dạy hư

Khiến con thơ phải khổ

Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ

Không một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng trong thơ đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc động:  Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ.

Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.

Con như búp non tơ

Cần đời cha bóng cả

Cha đã qua mùa hạ

Chở che con mấy mùa?

Nhà thơ đã dùng thủ pháp so sánh đối tỉ để hiện lên khuôn mặt non tơ của con thơ bên gương mặt cương nghị và bóng dáng lồng lộng của người cha dẫu đã qua mùa hạ rực lửa vẫn vững vàng chở che cho đứa con bé bỏng của mình. Tôi hơi ngạc nhiên với dấu chấm hỏi “?” ở cuối khổ thơ này: “Chở che con mấy mùa?”. Phải chăng, vì sợ sức khỏe và tuổi già sẽ không thể che chở cho con đến khi con trưởng thành nên người cha mới nặng lòng đến thế? Theo tôi, giá cứ chấm than “!” có lẽ sẽ gợi cảm, tạo hồn thơ hơn.

Ầu ơ... Ơi cái ngủ

Ngủ ngoan nào con yêu...

Bài thơ dừng lại rất đúng lúc, đã khơi dòng mãn đạt tình cảm cha con, đã bừng sáng lên niềm tin vào tương lai tốt đẹp. Dù vậy, Ru con vẫn chưa thật sự là bài thơ hay, mới chỉ đạt ở mức khá được.

Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru con!

*

Hà Nội, ngày 17 tháng 04/2017

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn

huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Email: nguyendanghanh1234@gmail.com

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Cái ru của người đàn ông khác lắm. Không ê a, khề khà, kể lể nên gọn gàng đủ ý.

Đàn ông ru con thì cứ thế mà ru, chả ai thèm để ý xem có đúng chủ trương, đường lối một cách ngớ ngẩn nữa.

Mình thích cách diễn giải của tác giả vì nó phóng khoáng, chân thật nhưng cũng rất thơ.

Khổ thật, khi đọc thơ lại phải xem quan điểm thế nào, viết có nhiều người thích không... để rồi mất mình, mất thơ, mất cái khoái thong dong khi nhắm thơ.

Đặng Xuân Xuyến đã tránh được điều đó nên rất thân thiện với người đọc và thơ cũng tự nhiên hay, chả cần thủ pháp, nguyên tắc, quan điểm gì cả.

...Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò..

Đây là khoảnh khắc thú nhất và thật nhất của đời người. Ai không có những phút thế này thật thiệt thòi vì lúc này cảm xúc bề bộn, thiêng liêng và pha trộn nhiều lắm, tình bố con cũng lớn dần từ đây, người đọc thơ dễ bỏ qua tình tiết này nên thật phí.

Ầu ơ...thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ

Câu thơ này đã làm nên bài thơ mà mạch của nó tự nhiên như củ khoai hạt lúa.

Thương lắm cái ngủ, thương cả tiếng ầu ơ trầm buồn chậm rãi để giấu đi tâm trạng, lo lắng, sợ hãi khi nghĩ về tương lai của con mình.

Tình bố khác với tình mẹ, nó không ồn ào, phơi bầy vì nó quá sâu chứ không phải cơi đựng trầu... Lo lắm chứ bởi những thói hư tật xấu của cuộc đời lây lan sang con, di truyền sang con dù vô tình hay cố ý.

Người ta bảo thơ hay ở chỗ khi tác giả không định làm thơ thì mới hay được! Có lẽ đúng.

Con níu vào giấc ngủ

Cách biểu cảm thật hay. Trẻ con lớn lên trong giấc ngủ mà giấc ngủ đó rất cần:

Cần đời cha bóng cả

Chở che con mấy mùa...

Cám ơn Đặng Xuân Xuyến và cám ơn anh Nguyễn Đăng Hành đã cho mình có cơ hội tiếp xúc và cảm nhận được bài thơ.

*.

Thành Nam, 16 tháng 11/2019

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

CHIỀU LẠ

- Tặng L.L -

 

Sợ đêm về

quẩn gió

xáo xác khuya

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

Te tẻ chiều

nhớn nhác

nhón chân qua.

*.

Hà Nội, chiều 02 tháng 10.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THẢO LUẬN BÀI THƠ “CHIỀU LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ có tiêu đề “Chiều lạ” nhưng qua mấy câu thơ ta không thấy buổi chiều có gì lạ. 

Bài thơ chỉ có một câu thơ đề cập đến chiều: “nắng chiều rơi trên lá”. Nắng chiều rơi trên lá là một chuyện bình thường trong mọi buổi chiều. Vậy buổi chiều lạ ở chỗ nào? Nó lạ vì chiều nay có chiếc “áo lạ”. Chiếc áo lạ làm cho buổi chiều thay đổi hẳn, hay đúng ra, chiếc áo lạ đã đánh động tâm hồn của người thơ làm cho dậy lên trong lòng thi sĩ sự băn khoăn đến độ nếu không nhìn được nó thì “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya”. 

Quẩn gió/ xáo xác khuya” chỉ là mượn cảnh để diễn tả cái tình xảy ra trong lòng, hay đúng hơn là diễn tả cái tâm trạng thao thức trong đêm của người muốn nhìn chiếc áo lạ. Chiếc áo đó dầu đẹp đến đâu cũng không khiến cho lòng người xao động đến thế. Sở dĩ lòng người xao động đến thế vì chiếc áo lạ nhưng người không lạ. Người không lạ vì người nếu không là hình bóng của kẻ mà nhà thơ say đắm thì cũng là người có sợi dây vô hình gắn bó, có tiền duyên từ một kiếp nào để đánh thức niềm đam mê, làm sống dậy khối tình đang ngủ từ trăm năm, từ ngàn năm trước chăng? 

Đọc bảy chữ đầu của bài thơ:

“Sợ đêm về

quẩn gió

xáo xác khuya”

thì ai cũng đặt trong đầu mình một dấu hỏi vì sao phải sợ như thế. Đọc đến các câu thơ kế tiếp cho ta một cảm giác thiết tha với tà áo vì tà áo trong thơ quan trọng quá, nó thoáng qua trong đôi mắt, nó mỏng manh nhưng nó đã làm cho “quẩn gió/ xáo xác khuya” là làm ảnh hưởng không gian, thời gian, thay đổi khí hậu hay đúng ra, nó dằn vặt một tâm hồn bình an để thấy vạn vật chung quanh đều chuyển đổi.

Hai câu thơ:

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

thật là khó hiểu. Tuy thế qua thơ ta cũng đoán được rằng “áo lạ” xuất hiện vào một buổi chiều tắt nắng. Trời chưa tối hẳn nhưng ánh nắng chỉ còn rơi lẻ loi trên lá, để cho tác giả phải “cố vét vớt” cái nắng chiều, tìm thêm ánh sáng mà nhìn cho rõ thêm tà áo lạ. Cái anh nắng “cố vét vớt” đó nó chênh chao. Vì sao nó chênh chao? Vì nó rơi trên lá, mà lá rung trong gió nên nó phải chênh chao. Lạ thay, thứ ánh nắng cố vét vớt đó tác giả lại cho “thể nụ cười” tức là như nụ cười, mà nụ cười ấy lại làm cho “nhòe áo lạ”. 

Ta biết thứ ánh nắng sót lại của buổi chiều nó vô cùng dịu mát, nó cũng làm cho cây cỏ được dát vàng, nghĩa là nó rất đẹp. Vậy thì trong bài thơ này nó đại diện cho nụ cười của người mặc chiếc áo. Chiếc áo lạ đã đẹp. Vậy mà nụ cười “như nắng chiều rơi trên lá chênh chao” làm nhòe chiếc áo lạ thì nụ cười ấy đẹp biết bao. Đọc thơ, người ta tưởng khoe chiếc “áo lạ” là đẹp nhất, nhưng không, chiếc áo lạ dầu đẹp cũng vô tri mà nụ cười mới mang linh hồn của người mặc áo. Nụ cười đẹp hơn chiếc áo. Té ra tác giả dùng chiếc áo lạ để tá khách nụ cười vào đó, tôn vinh nụ cười đến chỗ tuyệt mỹ khôn lường.

Và lạ lùng thay, ba câu thơ chót như bức màn nhung kéo xuống, kéo xuống để khán giả nhìn xuyên qua bức màn nhung thấy cả buổi chiều trở nên êm ái, để người đọc cảm khái cái im lìm của hoạt cảnh xảy ra:

Te tẻ chiều

nhớn nhác

nhón chân qua.

Ta hãy nhớ lại bài thơ Trăng của nhà thơ Xuân Diệu:

“Trong vườn đêm ấy trăng nhiều quá

Ánh sáng tuôn đầy cả lối đi

Tôi với người yêu qua nhè nhẹ

Im lìm, chẳng dám nói năng chi”.

Vì sao qua nhè nhẹ, vì sao im lìm? Nhà thơ Xuân Diệu nói vì: “Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá / và làm sai lỡ nhịp trăng đang

Ở đây nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế. “Te tẻ chiều” là buổi chiều bình an quá, thơ mộng chẳng khác gì trăng trong vườn nhiều quá, trăng đầy cả lối đi. “Nhớn nhác/ nhón chân qua” vì muôn giữ sự yên tịnh của một buổi chiều, vì muốn hình bóng tuyệt vời của tà áo lạ không biến đi, vì muốn giữ nụ cười thơ mộng như giọt nắng chênh chao trên lá cho của riêng mình không tan ra bởi biến động nào, nhà thơ đành nhẹ chân trong im lìm nhón gót theo em.

Bài thơ ngắn diễn tả chỉ một hành động nhưng cho ta một chiếc áo quá đẹp, một nụ cười quá đẹp, một khung trời quá đẹp, quá bình yên, quá thơ mộng và một giấc mơ mang hình ảnh tuyệt vời của một buổi chiều rất quen mà dường như rất lạ vì cảm nhận được những điều tinh tế trong thơ./. 

*.

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

MỘT CÁI NHÓN CHÂN... THẬT LẠ

Sợ đêm về quẩn gió, xáo xác khuya! 

Cái lo thường tình của người đa cảm, thi tâm; bởi trong sự cô tịch, vắng vẻ của màn đêm người ta hay hoài niệm, mơ hồ và lòng trắc ẩn được giấu kín ban ngày thì đêm về dễ òa ra, trào dâng một cách khó kiểm soát. 

Chính bởi lẽ ấy mà tác giả chín hơn, khôn hơn, rón rén mà: “nhón chân” qua cái “te tẻ chiều”! 

Mặc dù vậy nhưng tâm nào có an, vẫn bị cái điều mơ hồ, không thể đặt tên kia làm cho tâm trạng: nhớn nhác

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá 

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

Kiểu tâm trạng: “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”! (Xuân Diệu) Cố gắng vơ vét, nhọc nhằn những điều đáng có nhất để làm gì? Không biết! Có được rồi thì đặt vào đâu? Không biết nốt. Vì tất cả đều mơ hồ, mặc định và ước lệ như: “nụ cười nhòe” trên “áo lạ”! 

Tác giả tránh đêm nhưng lại vướng ngày, vướng cái hoàng hôn đầy trắc ẩn, trầm trầm với vài giọt nắng cuối cùng rơi trên lá... thì tâm trạng cũng “nguy hiểm” không kém mấy ban đêm. Chính vì vậy mà nhà thơ phải “nhớn nhác” để “nhón chân qua” cái chiều “te tẻ”. 

Bài thơ hay ở chỗ dùng từ, đọc lên người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với tâm cảnh, hồn người nên cứ thấy hay.

Điều đặc biệt là bài thơ không thể chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô đọng.

Đặc biệt hơn là cả bài không có đại từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy mình trong đó và đó chính là thủ pháp "hỏa mù" chả ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của tác giả...

Ồ! Mà lạ chưa: tâm động qua một cái nhón chân thi vị.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

CHẤP CHỚI

 

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

 

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

 

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

*

Làng Đá, 21 tháng 04.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“CHẤP CHỚI” - MỘT BÀI THƠ LẠ VỀ CẤU TỨ

Phải nói thẳng Chấp Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình. Thế nhưng, tôi lại thích bài thơ này bởi lối viết hiện đại và cái khác lạ về cấu tứ của bài thơ.

Mới làm thơ được vài năm nhưng thơ của Đặng Xuân Xuyến đã tạo được nét riêng, thường ngắn gọn, súc tích, tiết tấu nhanh, tứ thơ mới, khẩu khí mạnh, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh và dễ cảm, nhất là ở thể thơ tự do. Thế nhưng ở bài thơ này những nét đặc trưng đó hầu như đã biến mất, thay vào đó là sự khác lạ, hư hư ảo ảo, khó hiểu.

Ta thử thưởng thức Chấp Chới như cách vẫn thường cảm thơ.

Khổ thơ thứ nhất:

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

Mở đầu khổ thơ, tác giả bâng quơ kể: “Có người líu ríu theo chồng”, sang câu 2, câu 3, rồi đến câu 4, vẫn tiếp dòng tự thán, tự kể, rất bâng quơ... tuy vậy, tác giả cũng vẽ nên một bức tranh đẹp, với những hình ảnh gợi cảm và giàu nhạc điệu. Hình ảnh người con gái “líu ríu”, “buông lơi lời hát”, bỏ lại “ngày xuân ngăn ngắt” vội sớm lấy chồng được phác họa với tiết tấu nhanh, thái độ bâng quơ, và sự không rõ ràng về đại từ nhân xưng khiến người đọc tuy “cảm” được thơ nhưng không hiểu được cấu tứ thơ nên chưa thật sự “khoái”, chưa thật sự “thích”.

Sang khổ thứ 2:

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

Vẫn là những lời bâng quơ, tự thán, tự kể về mối tình trai gái, không đẩy cảm xúc thành cao trào, cứ hờ hững, trôi xuôi mà cũng chẳng mấy ăn nhập với tâm trạng ở khổ thơ đầu. Tiết tấu thơ chậm, dàn trải, không rõ đại từ nhân xưng, dẫu khiến tâm trạng người đọc bảng lảng, buồn mang mác đấy nhưng vẫn “không khoái”, “không thích” vì khó “bắt” tứ thơ.

Sang khổ 3, khổ kết của bài:

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

Nhịp thơ trầm, lắng, cảm xúc dâng trào, được đẩy lên với sự thúc giục, thảng thốt, của nghẹn ngào nước mắt, của “chấp chới cánh diều” giữa “trời mưa” nặng hạt, “gió gằn”... nhưng người đọc vẫn khó “nắm” được tứ thơ dù khổ 3 có cái kết như một triết lý sống, như một mệnh đề để kết thúc bài thơ như vẫn thường thấy. Đến đây, dù đã đọc xong bài thơ, vẫn thấy mơ hồ, vẫn chưa thể nhận rõ ra “ai” với “ai” và tác giả “gửi gắm” những gì ở bài thơ này. Vì thế, bài thơ tạo cảm giác hư hư ảo ảo, lâng lâng, khó hiểu.

Mới đọc, dễ có cảm giác Chấp Chới như được ghép thành từ 3 bài thơ, với 3 cách nhìn ở 3 tâm trạng khác nhau, không có sự liên kết hoặc sự liên kết lỏng lẻo vì khó “bắt” được tứ thơ. Người không tinh sẽ bảo bài thơ bị tản vì tứ thơ bảng lảng như sương mù, không (có) rõ, thậm chí nếu khó tính còn hạ bút phê là thơ viết vội, không có tứ, nhưng thực ra bài thơ này viết theo lối mới, hiện đại: dùng tâm trạng và nhạc điệu để vẽ lên tứ thơ (tứ kín) nên tứ tập trung vào từng khổ thơ, tứ chỉ để phục vụ cái tâm trạng của nhà thơ, của người đàn ông đang đau khổ trước sự đổ vỡ của tình yêu đôi lứa. Đây là cách viết táo bạo, hơi liều, bởi nếu viết không khéo sẽ dễ bị “cảm” là viết ẩu, viết không tới. Là cây bút mới (về thơ), không nên dại dột thử sức như thế này, cho dù như anh tâm sự trên trang facebook là “mượn thơ chỉ để giãi bày tâm sự”.

Tóm lại, Chấp Chới là bài thơ có tâm trạng, có hình tượng, có nhạc điệu, chuyển cấu tứ rất nhanh nhưng đọc Chấp Chới phải thật tĩnh tâm, nhắm mắt để thả hồn theo ý thơ, nương theo mạch thơ thì mới cảm được hồn thơ. Nếu đọc Chấp Chới theo lối truyền thống, có vào đề, đến nội dung, rồi kết thúc như xưa nay thì khó “cảm” được “hồn cốt” bài thơ này.

Vài lời cảm nhận cá nhân khi đọc bài thơ Chấp Chới, có gì bất cập mong được bạn đọc, nhất là các nhà thơ, nhà phê bình văn học chiếu cố, đại xá cho kẻ hậu sinh “múa rìu qua mắt thợ”.

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

ĐỌC “CHẤP CHỚI”, THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Dầu tác giả Đỗ Anh Tuyến đã viết một bài bình cho bài thơ này và nhận xét “Chấp Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình thì tôi vẫn đánh giá nó là một bài thơ hay vì nó đã là “một bài thơ khá, trên mức trung bình” thì phải là một bài thơ hay rồi. Tôi đã viết nhiều bài cảm nhận về thơ Đặng Xuân Xuyến nên tôi không muốn viết nữa về anh. Thế nhưng đọc “Chấp Chới” xong thì  trí óc tôi cứ ngứa ngáy như thơ anh có chất gì gây ngứa cho tôi. Ngứa thì phải gãi, không gãi thì nó cứ ngứa. Vậy nên tôi phải viết. Đây là viết cho tôi, như mình tự gãi cho đã ngứa mình, chớ không phải viết cho nhà thơ chút nào.

Khổ thơ thứ nhất vào đề cho ta liên tưởng đến hình ảnh xa xưa của cái thời hát dân ca thịnh hành ở các miền quê Bắc bộ.

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

Các cụm từ “líu ríu theo chồng” cho ta nghĩ đến một đám cưới ép duyên.

Rồi các câu thơ “Buông lơi câu hát/ Bỏ ngày xuân ngăn ngắt/ Thúc nhịp trống dồn” khiến ta liên nghĩ đến vô vàn hội hè, đình đám gọi là “văn hoá phi vật thể” của cái thời mà nông thôn còn nguyên bản sắc của nó. Ngày nay, các hội hè đó được lập lại một cách giả tạo mà nếu đưa vào thơ thì nó trở thành nhạt nhẽo cho thơ. Vậy nên đọc bốn câu thơ trên ta phải nghĩ về quá khứ thì mới thấy rung động bởi vàng son của một thời và bởi niềm đau của người phụ nữ trong thời lạc hậu xa xưa mà ngày nay rất ít xảy ra.

Vậy khổ thơ hay chổ nào?

Hay ở chỗ nói cụt ngủn mà lại diễn đạt tràn lan. Ta đọc thơ, hiểu được tính cách cô gái, thấy được làng quê yên bình, cảm nhận được dáng dấp cô gái bị ép theo chồng, và tất cả tâm hồn ta như đứng giữa cái khung cảnh yêu thương, gắn bó, cộng với nỗi buồn điểm xuyết, làm cho thi vị trong tâm hồn được thắm thiết thêm.

Vế thơ thứ hai diễn tả cái gì?

- Thất tình và đi tìm kỷ niệm:

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

 Người “xe chỉ luồn kim” là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se sắt”. Còn người ở lại thì lang thang “Đầu ghềnh cuối bãi” và mê mải trong tâm đi tìm kỷ niệm của quá khứ.

Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà dựt”, “cà dựt”, nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng gì nhau, nhưng chính cái “cà dựt” đó làm cho tiếng thơ trở nên dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm xúc và trọn vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.

Qua khổ thơ thứ ba tác gỉả Đặng Xuân Xuyến dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm cho nghẹn ngào, uất ức:

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

Cuối cùng, tác giả dùng câu thơ “Chấp chới cánh diều” để hình tượng cho bài thơ “Chấp Chới” của mình. Đó là một kết luận tuyệt hảo diễn đạt toàn bộ sự chao đảo, nỗi cô đơn và vẻ đẹp lung linh của mối tình như cánh diều chấp chới giữa bầu trời.

 Chấp chới” là một bài thơ vô cùng “chấp chới”. Nó đúng như là cánh diều vút lên rồi chao lượn trên nền trời. Nó làm người xem cứ ồ lên tán thán vì nhìn đã con mắt, bởi chính “Chấp chới” là một “cánh diều” vừa lạ lại vừa lả lướt tung hoành trên bầu trời, đem lại cảm giác mãn nhãn cho người xem ./.

*

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

MỘT TÔI

(tặng cháu Đặng Hải)

 

Một chai

Một chén

Một tôi thôi

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

*.

Hà Nội, 22 tháng 11.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“MỘT TÔI” - CUỘC ĐỘC ẨM  NHIỀU CẢM XÚC

Trước hết là bài “Một tôi” với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:

Một chai

Một chén

Một tôi thôi

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

Chai rượu chỉ có một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Đông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có ai khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối cảnh không gian và thời gian lại là:

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một đêm, một làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.

Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh lùng là không thể khác.

Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh       

Bàn tay của mình quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên: 

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.

Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“MỘT TÔI” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Người ta thường nói những gì nghĩ ra trong lúc say, nói trong lúc say là những gì chân thật nhất. Đó cũng là lúc mà những bài thơ mà chính tác giả khi say viết hoặc khi tức cảnh sinh tình viết ra nói lên biết bao tâm trạng của kẻ say rượu hay nói đúng hơn là say tình.

Khi nói về thơ về rượu với những cảm xúc buồn của chính tác giả, chiêm nghiệm về nỗi buồn nhân thế thì đều thấm đẫm nhân tình thế thái. Người ta thường nói thưởng trà không nên quá 3 người vì sẽ không cảm nhận được cái ngon của trà, cái hay của câu chuyện người nói. Còn thưởng rượu thì cần phải từ 4 người trở lên thì cuộc vui mới dài mới lâu. Thế nhưng, có những cuộc rượu “độc ẩm” một mình của nhà thơ. Ấy thế mà say, mà đau mà buồn mà tràn đầy cảm xúc xuyến xang khó có thể “tỉnh”ngay được.

Nếu bạn đang yêu, đã yêu hoặc trải qua một cuộc tình dang dở hay đơn giản đang buồn vì “không hiểu vì sao tôi buồn” thì hãy cùng Duy Quang hòa mình trong những áng thơ của nhà văn Đặng Xuân Xuyến dưới đây nhé. Mỗi bài thơ của ông đều để lại cảm xúc chân thật nhất, đảm bảo sẽ nói lên được tâm trạng của chính bạn.

Cả bài thơ chỉ có 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”. Như vậy cũng đủ để thấy cái cô đơn hiu quạnh của thi sĩ khi chỉ có chén rượu làm bạn mà thôi. Một chai rượu này có to hay nhỏ thì cũng có quan trọng gì. Quan trọng là chỉ có một chén kia. Người uống rượu thật chẳng biết tâm sự cùng ai. Nhất là nó lại trong một không gian không thể hiu quạnh hơn:

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Cái đêm lạnh ấy, làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé. Thi nhân thì cô đơn đến làn gió cũng cô đơn không kém. Tác giả thật tinh tế khi đã nhân hóa cơn gió như một con người đến làm bạn với mình vậy. Nhưng vẫn không thể nói hết được cái buồn nơi đây. Không có ai sẻ chia, chính bàn tay lạnh cóng của mình quờ lên vai của chính mình, buông một tiếng thở dài trong đêm cô đơn.

Bài thơ thật đặc biệt. Ngắn gọn và súc tích với nghệ thuật điệp lại từ “Một” ở mỗi đầu câu. Các câu thơ liên tiếp nhau từ 2 tiếng đến 3 tiếng diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã.

Khi đọc những vần thơ của Đặng Xuân Xuyến, Duy Quang bất giác lại nhớ đến tâm trạng nàng Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du hơn 200 năm trước:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng xót xa, bẽ bàng cho thân phận của mình mà Đặng Xuân Xuyến không nói ra?!

--------------

 (Trích từ “Chùm thơ về rượu hay nhất, cảm xúc, tâm trạng” của Nguyễn Duy Quang)

*

NGUYỄN DUY QUANG

Địa chỉ: Số 254 Nguyễn Đình Chiểu

Phường 6, Quận 3, thành phố Sài Gòn.

Email: kenhsntv.vn@gmail.com

 

QUÊ NGHÈO

 

Quê tôi nghèo lắm

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

 

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

 

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...

*.

Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Là người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…

Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.

Nhìn từ bên ngoài:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài…

Chiếc cổng làng thành:

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ!

Còn đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:

Nơm nớp âu lo

Đời như chiếu bạc

Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết thế nào.

Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.

Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:

Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn mẹt ngô

Í ới mời chào…

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi

Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở.

Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú...

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG

Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê  nghèo” của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình, cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre còm tả tơi”…

Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng  lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.

Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!

Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:

Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:

Vẫn lác đác nhà tranh    

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng.

Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh  thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát” thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:  

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…

Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:

Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai

Hiu hắt tiếng bà mẹ cười

Vui vì nồi cơm ngô đầy

Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có  niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:

Có tiếng o nghèo thở dài

Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.  

Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi  

Mẹt sắn, mẹt ngô

Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…

Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước: Muốn cho gần chợ mà chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về

Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn chút sự sống:

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài  lũ trẻ:

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…  

Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."  (trích Chiều chiều).

Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.

Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:

con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình

Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?

Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:

Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Và giờ đây cộng thêm:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?

Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:

Ngày nay dù ở nơi xa

Nhưng khi về đến cây đa đầu làng

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng

Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre 

                                 (Bàng Bá Lân)

Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Và chính vì thế, người ta đâu biết:

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:

Nghèo cả giấc mơ         

Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ! 

Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.

 *

Sài Gòn 17 tháng 06/2016

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” -  XÓT XA NHỮNG TIẾNG LÒNG

Ngoài kia Ngâu đang rả rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến! 

Mà cũng lạ, cái quê này ở đâu vậy nhỉ? Cố tìm một địa danh mà chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên tưởng đến quê mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương gần lại càng thương. 

Tác giả đã nói hộ mọi người:

Quê tôi nghèo lắm

(…)

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu ...

Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa trọn!

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ ...

Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh cò (còn phải) bấu bíu lời ru!

Câu thơ đến đây làm nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của mình.

Có người nói: muốn biết vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

 

Lèo tèo dăm người bán        

Lẻ tẻ mấy người mua.

 

Ế bán

Chán mua

Lại một lần nữa cách diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

Người nông dân thua trận ngay trên quê mình, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy. 

Đặng Xuân Xuyến ơi: 

Ngoài thềm rơi cái lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”

- (Trần Đăng Khoa)

Đặng Xuân Xuyến đã làm tôi liên tưởng so sánh về sự hòa hồn với quê hương tới mức đồng thể! 

Ngạc nhiên thật. Thơ không giấu được về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và công bằng.

Bẵng đi... đến thời nay (mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):

Chiếc cổng làng dựng nên thật đẹp

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai...

Để:    

Giam hãm đời người 

Tù túng giấc mơ!

 

Quê tôi nghèo

Nghèo (đến) cả giấc mơ! 

Đúng là hình ảnh làng văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi nghèo! Ta đã thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng thèm thích nghi nữa.

Con cò: bấu víu lời ru

Con người: nghèo cả giấc mơ!

Mơ chả mất tiền, không ai đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời.

Ngoài kia giọt mưa thu đã ngừng rơi 

Còn trong lòng mưa vẫn rơi sùi sụt!

Thương cho những quê nghèo với những xót xa tiếng lòng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, t/p Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”

- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -

 

Bài này (Quê Nghèo) nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.  

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Và:

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ  chủ  đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu thơ nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.

Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo

Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước.

Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 -  anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.

*

PHẠM ĐỨC NHÌ

Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.

Email: nhidpham@gmail.com

 

CHIẾC CỔNG LÀNG ĐẶC BIỆT TRONG BÀI THƠ

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.

Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức:

“Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ.”

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:

“Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...”

Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.

Cảnh quê nghèo này nó nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét. Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng còn nhiều người đói khổ, tuy nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đã đổi đời, con em họ được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xã hội. Tuy nhiên xã hội nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt tích cực.

Với bác PHẠM ĐỨC NHÌ

Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình.”. Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn nữa đưa ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.

Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.

Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.

Tuy nhiên bác vẫn thừa nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.”

Nếu không thực sự yêu mến nhà thơ thì bác ấy đã không mất công để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý như là góp ý cho một đứa con trai.

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.”

Dù muốn hay không muốn bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân tình: “Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”

Tôi không hiểu nhiều về bóng đá, và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nhì có một nhận thúc khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc vẫn còn giữ thói quen của những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”

Với CảnhThư Sg:

Người thực sự chấp nhận được sự suy nghĩ khác với mình là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời, tôi không biết tác giả đã từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?

Nhưng lời bình dù chỉ trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ hiểu được điều này nên không lên tiếng phản bác?

Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ rồi”.

Bạn nói rất đúng, nếu không yêu thì bình làm chi? Còn việc bạn cho rằng : “Ở một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay không?

Đành rằng bây giờ không chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người ngoại đạo thì tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng của mình. Nhưng tùy theo trình độ và chuyên môn mà người bình có thể đánh giá bài thơ đó theo cách riêng của họ. Còn theo bản thân tôi một bài thơ có ý tứ hay người nghe cảm thụ, ngoài ra còn có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn bát cú, thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái hay, cái tài tình cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua thơ người ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố ai tìm được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!

Vài ý kiến của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.

*

Ngày 05 tháng 04 năm 2018

NGUYỄN BÍCH THỦY

facebook: Nguyen Bich Thuy

 

VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh việc mổ xẻ bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở Bỉ.

Tôi thích bài viết nầy vì lời văn điềm đạm, dễ thương. Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm Đức Nhì thì nhiều mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao, đó là phong cách riêng của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn Bích Thủy đã cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng “sau cách mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi đời nầy thì phải nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay trong làng, chứng kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ” có khi còn hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ” đã làm chế độ tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.

Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong bài viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về bài thơ Quê Nghèo:

Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”

Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về nỗi đau đã đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ lụy cho người nông dân.

Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một bài thơ hay trong một vài trang giấy.

Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài góp ý nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến” của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:

 Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.

Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.”

Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau vì tôi thấy mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.

Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả Nguyễn Bích Thủy bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.

*.

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY

Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề. Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó.

Nguyễn Bích Thủy:

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:

“Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...”

Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.

Phạm Đức Nhì:

Nếu cô Nguyễn Bích Thủy chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại