BẠN ĐỌC CẢM NHẬN VỀ

 THƠ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*

Gồm 50 bài thơ:

1. HƯƠNG QUÊ

2. HƯƠNG THU

3. THU LẠNH 

4. THU SỚM

5. MƠ ĐÊM

6. EM

7. RƯỢU SAY

8. ẨM TRỜI

9. THIẾU NỮ

10. NHỚ MẸ

11. VỀ QUÊ ĐI MÀY

12. VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

13. ĐƯỜNG DÀI

14. LỠ

15. CHUNG

16. RU CON

17. CHIỀU LẠ

18. CHẤP CHỚI

19. MỘT TÔI

20. QUÊ NGHÈO

21. GÁNH HÁT

22. DẤU HỎI

23. BẠN QUAN

24. QUAN TRƯỜNG

25. LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN

28. LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU

27. NHỚ

28. NGƯỜI DƯNG

29. MƠ TRĂNG

30. SAY YÊU

31. ĐỜI NGHỆ SĨ

32. ĐỜI KHÁT

33. VIẾT CHO NGÀY VALENTINE

34. TIM ĐAU

35. MEN ĐẮNG

36. TÌNH NỞ

37. TÔI NGHE

38. CUỒNG YÊU

39. HỒN QUÊ

40. RÉT CẰN

41. CÒN YÊU

42. ĐỪNG ĐI

43. HOA NHÀI

44. VIẾT CHO KHỜ

45. TRÒ ĐỜI

46. THẾ GIAN SAY

47. TÒ HE

48. BỎ YÊU

49. Ở LẠI

50. ĐỢI XUÂN...

 

HƯƠNG QUÊ

 

Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm

Cô bé thậm thò vắt ngang dải yếm

Níu bờ sông

Ơi ời “ra ngõ mà trông”

Vi vút gió đồng...

 

Ngẩn ngơ 

giấc mơ

Níu đôi bờ bằng dải yếm

Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm

Áo tứ thân trải lá lót nằm

Gom gió lại để chiều bớt rộng...

 

Thẩn thơ

Tiếng mơ thầm thĩ

“Người ơi...

Người ơi...”

Dan díu lời thề

Ngõ quê líu quíu.

*.

Hà Nội, chiều 31.08.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “HƯƠNG QUÊ”

Thơ Đặng Xuân Xuyến thường chơi cái trò ỡm ờ. Lời ít, thấy nhiều, hiểu rộng, suy diễn sâu xa tùy người. Do đó thơ Đặng Xuân Xuyến thường gặp phải hai dòng cảm ứng khác nhau: người cho dở kẻ khen hay.

Đọc bài thơ này thấy ngắn quá, có cái gì cụt cụt, thiếu thiếu làm cho ta ấm ức trong lòng. Nhưng chính cái thiếu thiếu, cụt cụt đó làm ta cứ thòm thèm như mới ăn nửa cái bánh thì bánh có dở cũng thành ngon mà bánh ngon cũng chưa biết hết mùi vị chính xác thế nào. Cái đó thương thì nói nghệ thuật mà ghét thì nói xảo thuật. Nghệ thuật hay xảo thuật thì cũng là một thành công của sự kết cấu bài thơ, của ý đồ tác giả.

Đọc bài thơ ta thấy cái dải yếm nó lớn thật, nó vắt ngang níu bờ sông, rồi nó làm náo động cả xóm làng: Ơi ời "ra ngõ mà trông". Sự náo động đó thật ra không phải của xóm làng đâu mà là của chàng trai kia đến tuổi động yêu mà thôi. Cái "Hương cốm" cũng chưa chắc của nhà ai đâu. Cái hương đó có thể tỏa ra từ dải yếm phơi bên bờ sông thơm đến độ nhà ai cũng ngửi được mà cứ tưởng rằng của nhà bên cạnh duyềnh sang.

Cái thằng con trai cũng chết mê chết mệt. Nó ngẩn ngơ mơ giữa ban ngày thấy sông, thấy nước, thấy gió, thấy cả trời chiều nằm trong yếm, trong tóc, trong áo cô gái kia. 

Nó ở bên này sông mà cô gái phơi yếm ở bên kia sông. Vậy mà con mắt lãng mạn của nó thấy "níu đôi bờ bằng dải yếm".

Rồi thì thằng con trai yêu đến độ tâm thần đi lang thang và thì thầm trong miệng "Người ơi...Người ơi...." Nó "dan díu" thế thì chẳng khác chi Bùi Giáng dan díu với nàng Kim Cương xưa vậy.

Người chơi ngọc có khi chưa mang chiếc kính nhìn ngọc thi chưa thấy hết giá trị của nó đâu. Người đọc thơ cũng vậy, nên chịu khó nhìn thơ qua con mắt lãng mạn của mình như mang chiếc kính kia thì sẽ khám phá được thơ hay vậy./. 

*                        

CHÂU THẠCH 

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN NÍU DẢI YẾM ĐI VỀ CÕI YÊU

Tôi mới biết và còn chưa kịp quen nhà thơ có lối viết rất riêng này...

Tôi với nhà thơ cách nhau khá xa về tuổi tác, nên đọc "Cưỡng Xuân" và một số tác phẩm khác của anh, tôi cứ phải né né... nín nhịn từ xa mà vẫn chưa sao "thấu cảm" được với anh.

Rồi hôm nay tôi lục được bài này trong blog của anh. Tôi thích nó. Tôi thích cái lối tưng tửng này. Cái già dặn hơi buông tuồng, nửa "đồ nho" nửa "Tây bồi" như gói, như mở, như kín, như hở ... rất lạ, khiến người đọc vừa đỏ mặt tý, vừa tò mò tý, vừa lại như bừng bực, vừa khó chịu để rồi bị cuốn thụt lút trong mê đắm của mênh mang tâm tưởng và men nồng như say như tỉnh của một loại rượu chả cần phải nhắp môi cũng tự lâng lâng.

 Tưng tửng "hắt" thiên hạ sang một bên ngay từ câu đầu: "Hương cốm nhà bên duyềnh sang nhà hàng xóm".

Giọng điệu gì mà dửng dưng, vênh vênh, ngạo mạn một cách khó chịu của một kẻ trai tự biết mình cao giá. Cái kiểu "Các người cứ làm hàng cho các người tự ngắm đi, còn trai đây thì”... thì ba hồn bảy vía còn để ở "cái dải yếm vắt ngang" của "cô bé thậm thò..." kia. Rõ là đa tình đến độ và tinh ranh đến độ... đến độ ngoa dụ cho nàng "níu bờ sông" bằng cái dải yếm... rồi trầm trồ "Ơi ờira ngõ mà trông" ...

Trông cái gì đây? chắc không phải chỉ trông cái dải yếm, dù cái “dải yếm" đang phất phơ "vi vút gió đồng" ... Không cần giầu tưởng tượng lắm ta cũng thấy một tấm lưng thon thon nuột nà con gái của dải yếm đã buông lơi, thấy thấp thoáng cặp tuyết lê kín hở khi cái yếm bung dây bị gió đồng ren rén bồng lên phập phồng đùa giỡn…

Cái yếm thắm bung dải ngang phơ phất mặt sông, cái lưng mịn nâu màu mật, cái cổ ngấn ba, cườm tay săn nhỏ như giữ, như cởi, như thắt, như buông, như tung, như hứng theo nhịp dập dềnh phóng khoáng của gió lộng chiều quê thanh vắng nên thơ... trên bên sông xanh nước in mây, trên bãi cỏ non cạnh cánh đồng lúa ngô mướt mắt màu nõn biếc.

Một nét chấm phá cho một bức tranh. Một cuộc đòng đưa cho cuộc tình mơ nồng nàn như mâm cỗ đầy có ngọn thịnh soạn, thơm tho... hình như ai đó đã cất công và tỉ mẩn chuẩn bị, bày đặt... và ai đó cũng chỉ chờ có thế. Họ chờ, cùng chờ... "Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm, Áo tứ thân trải lá lót nằm..." Thơ chả nói đến ai, chả nhắc đến ai... mà ai cũng rõ là AI "Gom gió lại để chiều bớt rộng " ... 

Mà rồi chiều chẳng có rộng đi nữa thì họ vẫn gom gió lại. Họ cần gì rộng hay chật vì bão giông đã nổi lên cuốn tình chìm nghỉm ... chỉ còn dập dềnh dải yếm “nối đôi bờ".

Đôi bờ nào? Cần gì phải nói. Dải yếm đâu? Cần gì phải hỏi? ... Cứ thả ra mà suy, cứ nhắm mắt lại mà tưởng...

Tình bồng bềnh, gió bồng bềnh, dải yếm bồng bềnh... trong "Ngẩn ngơ giấc mơ..."...

Cái dải yếm thắt cho tình hai bờ khít lại, cái dải yếm cởi cho "tòa thiên nhiên" (chữ trong Truyện Kiều) lồ lộ, cho hương ai quyện vào gió ngát, và vị cỏ dịu ngọt, và ướt át sông nước mịn dòng quấy đạp tùy nghi...

Một cuộc tình nên thơ với những câu từ trong cuộc nghe như vô nghĩa, cứ nói để mà nói, nói không để nghe. .."Người ơi… Người ơi..." ngôn từ được tác giả gọi bằng "tiếng mơ thầm thĩ". Rõ là chả có lời yêu, rõ là chả có lời mê đắm mà chỉ có một cuộc tình như nó vốn đã là như thế, không cần lời, không cần xoa xuýt âu yếm... mà chỉ với vô nghĩa từ, câm lặng bốc ngùn ngụt như hỏa diệm sơn... mà lại vẫn có cái gì vụng trộm dấu diếm khi ta đọc đến "Dan díu lời thề / Ngõ quê líu quíu" thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê.

Cuộc tình đó chất phác như hạt lúa củ khoai. Cuộc tình đó là vô ngôn tình lại  có cái gì đó như vội vàng dấu diếm, như trao gửi vụng về, lại trong trẻo chân thành... vì từ ngữ là thừa, là tạp âm, là xáo trộn nguồn yêu.

Nhưng trong những đắm say, những “thẩn thơ” với tình yêu "tiếng mơ thầm thĩ" vẫn còn thốt ra những: "Dan díu lời thề" khiến "Ngõ quê líu quíu"... thì mới thấy tình yêu này bất chấp ước lệ của xã hội, của phong tục làng quê. Tình yêu ấy bản năng trong trẻo và mộc mạc, không tính toán, không ngoa ngôn kiểu cách, tự nhiên chân chất như con sông, như bờ cỏ.

Một bài thơ ngắn, khá ngắn với từ ngữ mộc mạc, nói về cái dải yếm, neo sông, cách tả hình không có hình, cách tả tình không có tình.

"Hương Quê" là bài thơ nói về yêu mà không dùng một chữ yêu. Một bài thơ tả tình lồ lộ mà không có một ngôn từ nào chỉ tình ấy, mà khi gặp nó, người đọc vẫn thấy ngồn ngộn cảnh, ngồn ngộn tình, ngồn ngộn bão giông mây mưa ào ạt, thấy lớp lang của sự dâng hiến, trao gửi cuộn trào. 

Đó là cái tài tình và già dặn của một cây bút, mà khi ra đời đã không còn nhìn thấy yếm áo lỏng lẻo gợi cảm của thiếu nữ nông thôn hay thành thị lững lờ sau vuông yếm mỏng manh nửa kín nửa hở... mà viết như vậy thì:

Nếu không có vốn kiến thức về xưa cũ, khó có thể viết ra điều ấy. Nếu không hòa mình trong mê đắm cuộc tình cũng không thể nào viết gợi thế được.

Với tôi, đây là bài thơ gợi tình thật đáng đọc. Đọc để thấy Đặng Xuân Xuyến đang níu dải yếm đi về cõi yêu theo kiểu độc đáo riêng mình.

*.

Hà Nội, 14 tháng 10.2017

BÙI CỬU TRƯỜNG

Địa chỉ: phố Trần Quang Diệu, phường Ô Chợ Dừa,

quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

 

NGÕ QUÊ ĐỘC ĐÁO TRONG “HƯƠNG QUÊ”

Bài thơ viết về cái ngõ quê với rất nhiều bảng lảng khói sương. Thật khó để bình luận vì tất cả thi ảnh ở đây đều ẩn chứa cái phi lí tận cùng của phi lí. Cái hư ảo tận cùng của hư ảo. Câu đầu tiên hiểu thế nào là nhà bên và hiểu thế nào là nhà hàng xóm mà hương cốm đầu mùa đã duyềnh sang nhau. Sao cứ phải ợm ờ? Cái ợm ờ như các cụ vẫn bảo trăm nhát cuốc bổ vào lòng cả trăm. Một câu thơ đã cho ta cảm nhận được mùi hương cốm ở đây vừa quấn quýt, lan tỏa và quyện hòa, vừa thân thương ràng buộc hai ngôi nhà và trong hai ngôi nhà đó có một chàng trai si tình và cô gái vắt ngang dải yếm. Dải yếm là thứ để buộc chặt và che đậy sao ở đây nó lại vắt ngang và vì sao nó lại vắt ngang thì may ra ông trời và Đặng Xuân Xuyến hiểu được mà thôi. Còn chúng ta những kẻ trần tục làm sao có thể hiểu được? Phải chăng cái dải yếm ấy vắt ngang để níu dòng sông để bắc cái cầu đón nhà thơ sang chơi. Tất nhiên khi cái dải yếm được cởi ra để vắt ngang thì chắc chắn nhà thơ đã nhìn thấy một bầu ngực căng đầy khát vọng. Vui quá nhà thơ cứ ời ợi gọi cả làng ra mà trông chúng tôi đang làm cái việc mà chỉ có sức mạnh tình yêu mới có thể làm được. Thật kì diệu cái dải yếm chỉ tày gang thôi mà sao ở đây cứ dài mãi ra đến vô cùng có thể níu đôi bờ sông xích lại gần nhau cho những lứa đôi xum họp thay cho con đò nhỏ mong manh. Để không còn tiếng gọi đó thảm khắc trong đêm.

Đến đây thì chất phồn thực đã lấp đầy từng câu thơ, từng chữ thơ rồi. Họ đã làm được cái việc phi phàm nhất: "Chuốt tóc mềm làm gối chăn êm". Bộ tóc được bao lăm mà có thể chuốt làm chăn làm gối. Ở đây qua câu thơ chở đầy khát vọng đó ta chỉ thấy được cái đầu hầm hập nóng của nhà thơ đang được gối lên và vùi lấp trong mái tóc dài sóng sả của em thôi. Cái dải yếm thì bỏ ra làm cầu còn áo tứ thân cũng được cởi nốt để trải lá lót nằm! Bạo liệt quá họ chẳng cần phải dấu diếm làm gì vì đó là đích đến cuối cùng của tình yêu và sự sinh tồn nhân loại. Thế vẫn là chưa đủ đối với hai người đang khao khát thì chiều ở đây như càng rộng thêm ra lấy gì để khỏa lấp chắn che? Đôi trai gái ấy lại làm thêm một việc phi phàm nữa, họ đã níu được cả gió để buộc cho chiều bớt rộng để đêm chóng về...và chỉ còn bóng đêm nhốt chặt hai con người đang khao khát. Có phải thế không thi nhân?

Nhưng…Vẫn luôn tồn tại một chữ nhưng oan nghiệt vì đây chỉ là: "Thẩn thơ / Tiếng mơ thầm thĩ / “Người ơi... Người ơi...” / Dan díu lời thề / Ngõ quê líu quíu.”

Chỉ là một tiếng mơ thầm thĩ, gian díu một lời thề trong cái ngõ quê líu quíu. Cái ngõ quê rất đặc trưng của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.

Trong đời chỉ có tình yêu trong mơ là đẹp. Hay nói khác đi tình yêu chỉ là tiếng gọi thầm thĩ của những giấc mơ chứ không bao giờ có thật.

Từ trong tiếng gọi mơ thầm thĩ ấy bằng ngôn ngữ thi ca Đặng Xuân Xuyến đã sáng tạo ra một ngõ quê độc đáo nhất trong đời… Tôi nghĩ thi ca luôn là như thế, luôn là sự vụt hiện lóe sáng của cảm xúc, của tài năng!

Tôi rất mến yêu và trân trọng những bài thơ đã đến được với sự tối giản của ngôn ngữ, nhưng lại chứa đựng tối đa những thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm cho chúng ta để cùng thăng hoa và suy ngẫm./.

*

Bắc Ninh, 04 tháng 11.2018

NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,

Phường Vệ An - Thành phố Bắc Ninh

 

HƯƠNG THU

 

Ô kìa chiều

Ai thả nắng vương cây

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt

Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt

Da diết bổng trầm xao xác sông xưa

 

Ta hỏi chiều

Thu đã về chưa

Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ

Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen.

 

Ta hỏi chiều

Sao rất đỗi thân quen

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời.

*.

Hà Nội, chiều 07 tháng 08 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG THU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Giữa một đô thị như Hà Nội gần như đã chật cứng xe cộ, nhà cửa, âm thanh… Trừ những người giàu có, quyền tước chiếm giữ được những khoảng không gian riêng có cây che bóng mát cho những ô cửa sổ mở ra để nhìn ngắm ánh trời… Còn cuộc sống của hầu hết mọi sinh linh chọn thành phố làm nơi cư ngụ. Âm thanh chát chúa, khói bụi cay mù, xe cộ với tốc độ luồn lách… Nhìn những dòng người, dòng xe với những chiếc mũ bảo hiểm dọc theo những con đường nắng bốc hơi ngùn ngụt người đã thấy nôn nao như mình đã lạc sang một “tiểu hành tinh” nào đấy mù xa… Không biết làm thế nào đấy mà người thơ vẫn có một buổi chiều Hà Nội, vẫn dành riêng cho mình một cõi đắm say thanh thản. Ta như nghe được tiếng reo của người đang chìa bàn tay chờ đón mùa thu bằng cảm giác mùi hương.

Tạo hóa ban phát riêng cho những người làm thơ thứ hạnh phúc không ai có thể tranh giành, không luật pháp khắc nghiệt nào có thể ngăn trở tâm hồn người ta đến với cái đẹp; người thơ như được đứng riêng một cõi:

Ô kìa chiều

Ai thả nắng vương cây

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt

Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt

Da diết bổng trầm xao xác sông xưa

 Tóc rối” của ai bay? Ai nhìn ai “mòn đuôi mắt”? Cái gì “bổng trầm”? Cái gì “xao xác” và “sông xưa” là con sông nào mà thả được dòng trôi vào cái mảnh đất nhà cửa chen chúc những khối bê tông thô ráp mệt mỏi dâng đầy giữa Hà Nội ngày càng ngột ngạt, chật hẹp để người thơ vẽ nên chiều thu thơ mộng, lãng mạn?

Đọc đoạn hai bài thơ Hương thu

Ta hỏi chiều       

Thu đã về chưa

Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ

Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen.

Đọc đến đây ta có thể khẳng định sự mơ hồ của “lá rơi” của ngọn “gió mơn man ve vuốt” của sắc trời chiều “biêng biếc”, thêm vào chút “hương sen man mát” làm cho ngây ngất, mở lòng, chứ anh cũng chưa gặp mùa thu - vì còn phải hỏi chiều “thu đã về chưa”? Nhưng nào say đắm có mất gì, khi lòng ta bỗng dưng bổi hổi, xao xuyến nhớ về một mùa thu đẹp đã đi qua để lại cho hồn ta những vẻ đẹp, những màu sắc âm thanh sáng trong, ngập ngừng, bối rối:

Ta hỏi chiều

Sao rất đỗi thân quen

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời.

Thơ hay thường là những kỷ niệm đẹp nhưng phải được cháy lên hoặc thắt quặn lòng mình.

Thêm vào một tay nghề … Hương thu có nhiều nét đẹp nhưng mới chỉ dừng lại ở những “xốn xang”, còn “thiếu vị buồn”. Bởi cái gì đẹp thăm thẳm thường pha thêm chút ánh buồn (Đẹp và buồn đi với nhau), như thế bài thơ mới chiếm được hết lòng độc giả, mới làm mê mẩn người xem./.

*.

Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2016

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.

               

“HƯƠNG THU” - ĐƠN GIẢN MÀ HỒN CỐT CÓ DUYÊN

Lâu lâu mới thấy một bài thơ không có âm tình phiêu phưởng phảng phất liêu trai của Đặng Xuân Xuyến.

Cái mạnh của tác giả nằm ở chỗ cô đọng từ ý đến ngôn từ. Vần điệu cứ tự nhiên tuôn ra một cách thoải mái trong cấu tứ:

Tóc rối ai bay

Mòn ai đuôi mắt.

 

Biêng biếc trời chiều

Man mát hương sen

 

Bồng bềnh người ơi

Mây tím lưng trời...

Cô đọng đến mức tuyệt đối mà chặt chẽ, vừa đủ để nhớ, làm bài thơ có vần điệu với tâm trạng thay đổi trước cảnh thu vàng.

Từ đầu đến cuối bài thơ, tác giả dùng đại từ nhân xưng AI, tuy cách sử dụng không mới nhưng thật hợp với tâm sự mênh mang, hỏi mà hỏi thôi, trong cái bề bộn của nỗi nhớ, của buổi chiều thu:

Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới.

Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối. 

Một sự tưởng tượng của thi nhân tức cảnh để bật thành thơ, một tư duy thơ hợp lý và được độc giả chấp nhận lại tạo ra sức sống cho thơ. 

Không có nhân vật cụ thể kiểu như: mình về mình có nhớ ta? Mặc dù chỉ là mặc định nhưng ai cũng thấy mình trong đó.

Rõ ràng bài thơ thật giản dị, không có mỹ từ, không có ý tứ sâu xa, không gồng lên bằng cách tìm kiếm nhọc nhằn từ lạ trái lại thấy gần gũi, dễ mến như đứng trước cô gái chân quê bình dị lại rất có duyên.

Ô kìa chiều! 

Một sự phát hiện đột ngột nên buột miệng: Ô kìa! Từ cái đột ngột ấy cảm xúc tuôn ra, bài thơ không có chủ đề vì nó nói lên rất nhiều vấn đề mà cứ từ từ mở ra theo tưởng tượng nhiều hơn quan sát.

Quả thật tả chiều thu nhiều người làm lắm rồi nên muôn hình muôn vẻ nhưng bài thơ Hương Thu này có một sức nặng nhất định vì có hồn cốt, nghệ thuật nằm trong chính sự đơn giản mà tác giả vô tình nắm được.

*.

Thành Nam, 03.10.2018

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

THU LẠNH 

 

Người đã đi rồi, đi quá xa

Bỏ ta ở lại với quê nhà

Hôm nay về lại thăm làng Đá 

Ngơ ngẩn chiều tà ta với ta…

 

Giếng nước còn trong, bậc đã rêu

Chênh chao chiều vọng tiếng cu gù

Tháng chín thôi mà... sao đã lạnh

Thu vàng vồi vội rải nắng hanh.

 

Ừ, trách gì đâu, chỉ nhớ thôi

Người đi thì cũng đã đi rồi

Nào ai biết được duyên mà đợi

Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi.

*

Hà Nội, chiều 20 tháng 10.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC THU PHAI VÀ THU LẠNH

(Thơ Trần Mai Ngân và Đặng Xuân Xuyến)

Hình như đọc thơ cũng có cái duyên tiền định. Kiếp trước không biết tôi có quan hệ gì với hai nhà thơ này hay không mà kiếp này đọc thơ họ, tôi luôn luôn cảm thấy có một sợi dây trong thơ của họ quấn quýt lòng tôi, buôc tôi phải nghĩ phải suy và phải viết. Như hôm nay bài thơ Thu Phai của Trần Mai Ngân và bài thơ Thu Lạnh của Đặng Xuân Xuyến khiến cho tâm hồn tôi cũng thấy tâm trạng phai và lạnh. Lạ thay, phai lạnh trong cuộc đời thì buồn nhưng phai lạnh trong cuộc tình lại thường làm cho tâm hồn phong phú thêm. Điều đó được chứng minh ở hai bài thơ này, bởi họ không có cuộc tình phai, lạnh thì làm gì có hai bài thơ làm cho ta cảm động. Điều đó cũng được chứng minh khi tôi ngồi đọc thơ họ giữa thời tiết vào đông, bên ngoài đang phai và đang lạnh thì tiếng lòng phai lạnh của họ trong thơ cũng đem đến cho tôi những cảm xúc thăng hoa.

Đọc Thu Phai của Trần Mai Ngân

THU PHAI

 

Thắp hương sùng bái nỗi đau

Gánh buồn ôm hết - ngọt ngào cho ai

Giật mình sợi tóc Thu phai

Làm sao nhuộm hết năm dài xa xưa

*

TRẦN MAI NGÂN

ta thấy thu không phai chút nào mà kỷ niệm mùa thu trong lòng tác giả cũng chẳng phai, chỉ có tóc trên đầu tác giả là phai mà thôi. Vậy thì Trần Mai Ngân dùng tóc mình để nói về tuổi vào thu cúa cuộc đời mình, một cuộc đời mà đeo đẳng một cuộc tình triền miên trong nỗi đau. Lạ thay, nỗi đau đó lại được tác giả “Thắp hương sùng bái” nghĩa là tôn sùng nó và hy sinh cho nó đến nỗi “Gánh buồn ôm hết- ngọt ngào cho ai”. Không cần bíết sâu về cuộc tình ta cũng đoán định được, đây là một cuộc tình lớn trong tâm hồn tác giả. Bài thơ cho ta thấy một thân phận trong tình yêu, thân phận đó phải đối mặt với những nghịch lý trong tình trường, chịu đắng cay với nỗi buồn ôm hết nhưng cũng bằng lòng với hạnh phúc của một thuở xa xưa nào đó, đến nỗi muốn nhuộm lại những năm dài xa xưa ấy như nhuộm cho xanh lại mái tóc mình. Thế nhưng cuộc tình khác với mái tóc, không làm sao nhuộm được.

Bài thơ ngắn nhưng ôm trọn biến cố của thời gian vào lòng, thức dậy trong lòng người đọc những tình cảm khác lạ, trong đó sự ray rứt và cảm mến, sự hờn dỗi và yêu đương, sự thiết tha và hời hợt xen lẫn cùng nhau, khiến cho đọc nó ta như thấy mùa thu tuổi đời đang phai nhưng mùa thu của ngày nào hình như còn hiện hửu mãi trong tim.

Qua “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến ta thấy lạnh ngay, lạnh nhiều, lạnh cóng vì “Người đã đi rồi, đi quá xa”. Bài thơ “Thu lạnh” của Đặng Xuân Xuyến cho ta một khung cảnh còn héo hắt hơn “dấu xưa hồn thu thảo/ nền cũ bóng tịch dương”.

Hình ảnh cái giếng năm xưa, nước vẫn còn trong nhưng bậc cấp bước lên rêu phủ, giống như yêu vẫn còn nhưng tình đã hóa xa xôi. Hình ảnh con chim cu gù và tiếng kêu của nó trong thu vàng nắng, trong mây tím lưng trời làm cho bức tranh thu vô cùng xa vắng và nỗi buồn thu bàng bạc kia phả xuống, len trong từng ngóc nghách của làng quê.

Những câu thơ buông xuôi, hờn dỗi:

“Ừ trách gì đâu, chỉ nhớ thôi

Người đi thì cũng đã đi rồi

Nào ai biết được duyên mà đợi

Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi”

nó không làm ta cảm thấy đau lòng như “Thu Phai”, nhưng nó làm cho cõi lòng ta trống vắng đến vô cùng, hiu hắt đến vô tận. Trong cái khung cảnh hiu hắt đó, con người cô đơn lại càng cảm thấy cô đơn hơn nữa, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã thở dài một câu thườn thượt làm cho thu lạnh càng kéo dài lê thê đến tận cuối chân trời: “Mây tím lưng trời, thôi, cũng thôi

Bài thơ cũng không dài lắm, không than van lắm, mà sao nó khiến xao động lòng ta đến thế. Bởi vì tác giả dựng một bức tranh quê quá thân yêu, chứa chan bao dấu tích, mà nay trở nên lặng lẽ đến vô cùng. Rồi thì nhà thơ gởi vào bức tranh đó cõi lòng tê tái, tê tái nhưng vẫn gượng ép, gượng ép chối bỏ sự tê tái của mình bằng những câu thơ bất cần, buông xuôi và vu vơ hờn trách. 

Tôi vô tình đọc hai bài thơ của hai tác giả một lần, “Thu Phai” và “Thu Lạnh” đọc trong buổi đầu đông. Những cơn gió phai và lạnh trong thơ lạ thay, làm cho tôi âm áp. Ngược lại, cơn gió thổi đầu đông ngoài kía đem cái lạnh len lỏi vào phòng. Cả hai cơn gió đều làm tôi se lòng, se lòng nhớ quá khứ tuổi thanh xuân ./.

*

CHÂU THẠCH 

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

THU SỚM

 

Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa

Có nghe se lạnh gió chuyển mùa?

Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?

Có thấy nhà bên rúc rích cười?

 

Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi

Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi

Diều ai dìu dặt chòng chành nắng

Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.

*

Làng Đá, Hưng Yên 18.09.2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

SỚM THU, THU SỚM - THU BUỒN HAY VUI?

Đã mấy năm sống ở Sài Gòn với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ, trong tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu đã thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của nhà thơ Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm tôi bật nhớ ra mùa thu đang về trên miền Bắc.

Mà cũng lạ, hai nhà thơ tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau. Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi Em thì nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về Làm Chi Nữa, nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài thơ “đều là tiếng gọi người về trong nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê hương mỗi ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú đưa lên bài Sớm Thu thì hôm nay 16/08 nhà thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm, một sáng tác được nâng niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân thật và rất đẹp của hai tâm hồn trước cảnh Thu về.

Mặc dù đang vào ngưỡng tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi,

SỚM THU

"Sớm nay trời nhẹ lên cao" - thơ Xuân Diệu
                                                -----

Sớm nay nghe hồn lành lạnh

Một trời sương trắng: ờ thu,

Cao Tầng ánh sao lấp lánh

Ban công vẳng tiếng chim Cu...

 

Chim Cu nhốt lồng gọi bạn 

Mơ về một cánh rừng xa

Nhốt lồng khác chi bị "hoạn"

Không còn được sướng mây mưa...

 

Đón thu lưng trời cao ốc

Quờ tay định tóm đám mây

Mây đen chừng đầy khí độc 

Tạt qua tối xẩm mặt mày...

 

Cúc vàng mua về cắm lọ

Nhớ nhung lá đỏ cành Phong

Thu vàng nước Nga rực rỡ

Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...

 

Xuân tới 80 rồi nhỉ?

Sớm nay qua nẻo thu sang

Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ

Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...

*

Hà Nội, ngày 15-08-2016

NGUYỄN KHÔI

ta không thấy hình ảnh lá vàng khi mùa thu tới mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đại đến cận đại, từ cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đến Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi.

Mà với Nguyễn Khôi là cảnh Sớm Thu rất hiện đại: 

Sớm nay nghe hồn lành lạnh

Một trời sương trắng: ờ thu ,

Cao Tầng ánh sao lấp lánh

Ban công vẳng tiếng chim Cu

Có lành lạnh, có sương trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà: Gió thu hiu hắt / Sương thu lạnh / Trăng thu bạch / Khói thu xây thành.

Đó là cái lạnh cái sương trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng chim Cu”. Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung được ví như tiếng nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức mà là tiếng chim Cu trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:

Chim Cu nhốt lồng gọi bạn

Mơ về một cánh rừng xa

Nhốt lồng khác chi bị "hoạn"

Không còn được sướng mây mưa...

Tiếng kêu trong bức bối khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang bị giam cầm tù hãm.

Hơn một trăm năm trước, đứng trên mặt đất làng Bùi, cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên mới thấy được:

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Nay nhà thơ Nguyễn Khôi ở lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ phàng đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:

Đón thu lưng trời cao ốc

Quờ tay định tóm đám mây

Mây đen chừng đầy khí độc

Tạt qua tối xẩm mặt mày...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em: 

Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa?

Có nghe se lạnh gió chuyển mùa 

Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?

Có thấy nhà bên rúc rích cười?

Và bây giờ mới chắc chắn mùa Thu đã đến thật:

Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi

Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi

Diều ai dìu dặt chòng chành nắng

Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.

Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em! Một Thu Sớm thật thanh bình, thật đáng yêu.

Từ tháng 8.1945, mùa Thu đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi, mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay mùa thu của “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả mùa Thu thiên nhiên vốn có: Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa

Nhà thơ Thâm Tâm từ những “Chán ngán tình gia sầu ngất ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới trong khung cảnh “Mùa Thu Mới”:

Trái hồng trĩu xuống cây rơm

Sáng nay mùa cốm dậy thơm đầy làng

Lúa vươn thân hút ánh vàng

Nguồn tươi vống nở thu sang mát lành.

Nguyễn Đình Thi thì rất vui khi so sánh hai  trạng thái cảm xúc của mình về mùa thu trước và mùa thu nay:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm,  mặc dầu đang chiến tranh, mùa thu cũng không bớt đẹp đi chút nào: Sáng mát trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Sau giải phóng Điện Biên Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:

Ngẩng đầu lên: Trong sáng tuyệt trần

Tháng Tám mùa thu xanh thẳm

Mây nhởn nhơ bay

Hôm nay ngày đẹp lắm!

Mây của ta, trời thẳm của ta

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa!

Sau khi nước nhà thống nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu Sang của Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên dáng, đẹp đến nỗi phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông sang thu không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như một con người đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương Nam tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội vã”. Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia cùng bạn. Thu Sang đúng là đẹp hơn thơ!

Đến nay, người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm Thu, Thu Sớm trong bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?

Với bài thơ rất chân thực của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi bạn / Mơ về một cánh rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây đen chừng đầy khí độc/ Tạt qua tối xẩm mặt mày...”.  Và chính vì không vui được nên nhà thơ phải “Cúc vàng mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:

Nhớ nhung lá đỏ cành Phong 

Thu vàng nước Nga rực rỡ

Buồn thay, ngồi trong Sớm Thu ở nhà mình trên Thủ đô nước mình, ngắm  Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì lại nghe thấy: Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...

Sớm Thu nay buồn nên nhà thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho  tuổi 80 của mình: Xuân tới 80 rồi nhỉ?/ Sớm nay qua nẻo thu sang. Và niềm hy vọng ấy khiến nhà thơ: Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ/ Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm, có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!

Nhưng hẳn bạn đọc còn nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê tôi nghèo lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao cái làng Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp và vui như vậy. Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?

Tôi nói chỉ là giấc mơ thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà thơ ca ngợi Thu Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ  Nam Lộc đã soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến của tuổi học trò:

Thu giăng heo may che bóng cây lạnh này

Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày…

Người mang cho em quen môi hôn ngọt mềm

 Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng…

Nắng vấn vương nhẹ gót chân

Trưng Vương vắng xa anh rồi

Mùa thu đã qua một lần

Chợt nghe bâng khuâng lá rơi đầy sân...

Và hàng trăm nhà thơ khác chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:

Sài Gòn Thu đã chớm sang

Em đi qua phố dịu dàng như mơ

Mùa Thu đẹp tựa vần thơ

Tim anh xao xuyến đến giờ còn vương

Chả là giấc mơ mùa thu cho Sài Gòn đó sao?

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp cho cái làng Đá quê hương của anh. Mà nói như nhà văn Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư”. Bởi thế, tôi trân trọng tất cả những giấc mơ đẹp, những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của bác Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân  Xuyến.

Tôi thành thực cầu chúc cho hai nhà thơ:

Nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi sẽ  luôn có những Sớm Thu với những giây phút “ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ” và sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:

Cùng với ánh quanh minh còn mãi.

 - Cho người vui cảnh quên già.

Nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến cùng làng Đá quê  anh sẽ có được đích thực những Thu Sớm đẹp với “Diều ai dìu dặt chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy trong thôn xóm.

 *

Sài Gòn, Rằm tháng Bảy (17/08) 2016

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

MƠ ĐÊM

Đêm!

Trở mình

Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm

Giật mình

Ánh mắt nửa đêm

Hun hút đại ngàn gió hú...

 

Thèm trận cuồng lũ

Dào dào ngấu ải chờ mưa...

Khát...

 

Cong đêm...

Yên ả.

*.

Hà Nội, đêm 28 tháng 12.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ MƠ ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thực ra bài thơ MƠ ĐÊM không hay bằng một số bài thơ tình khác của Đặng Xuân Xuyến. Tuy nhiên, tôi thích cách cấu tạo tứ và sự ngắn gọn súc tích của bài thơ này!

Thơ Đặng Xuân Xuyến thường cô đọng, súc tích, cảm xúc dồn nén, tứ thơ mới, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh. Bài MƠ ĐÊM là một ví dụ. Chỉ vỏn vẹn có 37 chữ mà bài thơ khái quát được tâm trạng vô thức (MƠ) giữa cái trống trải cô đơn và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt ...

Từ ĐÊM ở đầu bài thơ được tách ra đứng một mình như báo hiệu một sự cô đơn của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Đêm vừa là thời gian vừa là không gian mà ở đó con người có thể ngủ một giấc bình yên và mơ những giấc mơ đẹp. Và cũng có thể là nỗi trằn trọc không ngủ được với bao tâm trạng suy tư ... Ở đây, nhân vật trữ tình trong trạng thái vô thức đang mơ về một cuộc tình đầy mãnh liệt: "Cuống cuồng vòng tay ghì hơi ấm". "Hơi ấm" ở đây là chủ thể thứ hai, là EM. Câu thơ đi giữa hai làn gianh rất dễ rơi vào chủ nghĩa tự nhiên nhưng nhà thơ đã rất ý nhị ... Nhưng rồi giấc mơ ấy, sự vội vã, niềm cháy bỏng và mãnh liệt ấy vụt tan biến khi "giật mình" thức tỉnh. Giờ thì chỉ còn lại có đêm và gió hú. Cái "ánh mắt nửa đêm" ấy chính là ánh mắt mở to của kẻ vừa mất đi giấc mơ hạnh phúc. Giờ chỉ còn lại sự cô đơn trống trải với đêm hoang vắng nơi đại ngàn chỉ có gió ...và gió ...

Đêm ... bây giờ thì không ngủ được. Trạng thái cô đơn trống trải dường như được thay thế bằng niềm khát khao có thật ở cuộc đời. Sự mãnh liệt của tình yêu, của hạnh phúc lứa đôi được so sánh như những "trận cuồng lũ", như "ngấu ải chờ mưa", chỉ có khát và khát ...

Kết thúc bài thơ lại trở về với đêm, nhưng bây giờ là đêm yên ả. Dường như sau giấc MƠ ĐÊM quá xáo trộn với tâm trạng đầy biến động, một giấc ngủ bình yên đến với nhà thơ. Và biết đâu niềm khát khao hạnh phúc sẽ thành hiện thực?

*.

Sài Gòn, ngày 09 tháng 01.2017

ĐỒNG DUY TOẠI

Email: toaiduyhd@yahoo.com.vn

 

MƠ ĐÊM - NỖI NIỀM XÓT XA CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Không còn là giấc mơ đêm nữa mà là sự khát khao của chính tác giả về một điều hoàn toàn bình thường trong cuộc sống nhưng được Đặng Xuân Xuyến gói kín trong thi từ, thức cảnh. 

Từ một cái “trở mình” trằn trọc đơn lẻ trong đêm, một vòng tay cuống cuồng cố gắng “ghì hơi ấm” của tàng thức và tất nhiên là sự hẫng hụt, bừng tỉnh khi hiểu ra cảnh ngộ! 

Lạ lắm, lúc nửa đêm về sáng con người ta thường trở về với mình một cách mộc mạc đến trần trụi. Xót xa lắm một cái “ghì” không khí, ghì dĩ vãng, ghì kỷ niệm trong đêm. Nói ghì vậy thôi chứ, ghì cái hư vô không hình tướng thì chả bao giờ thật được. Cái “hơi ấm” của ai đây cũng vậy, cứ Liêu Trai bảng lảng, gặm nhấm một tâm thức mất lý trí trong cơn nửa mơ nửa thực. Trong trạng thái đó một: ánh mắt nửa đêm - Hun hút đại ngàn gió hú! 

Ai có trải qua trạng thái tương tự mới cảm hết được câu thơ rất thật mà cũng đắt này. Ánh mắt người thương nó vời vợi lắm, như gọi mời cũng lại vừa ngăn cản, vừa trách móc, vừa yêu thương nên: hun hút đại ngàn gió hú là câu vừa đúng vừa hay mà cũng nói lên cả sự đa đoan, cắc cớ của một khối tình mang xuống tuyền đài không tan.

Cái ánh mắt ấy thật gần mà cũng rất xa xăm. Thổn thức trong đêm, thảng thốt với trạng thái, ắt như góp gió thành bão, tức nước vỡ bờ:  Thèm trận cuồng lũ / Dào dào ngấu ải chờ mưa…

Cái ruộng muốn cải tạo đất thì người nông dân phải cày vỡ lên, cho ải (khô) đi để chờ nước chảy hay mưa về. Đất này “ngấu ải” có nghĩa đã đủ lắm rồi, thời gian chờ đợi và khát khao đến tận cùng cứ thiêu đốt nỗi niềm riêng tư, sức chịu đựng của con người .

Đất chính là người, chính là nỗi khát khao tiềm ẩn thường trực trong tác giả. Nó đeo bám khắc khoải bên trong cái vẻ bất cần đời, đằng sau cái miệng cười một nửa của Đặng Xuân Xuyến. Tất cả dù chỉ là giấc mơ đêm đã đủ sức bẻ cong tác giả, đủ sức phá nát một đêm vốn tưởng chừng yên ả! Một cái đêm tĩnh lặng bên ngoài nhưng thực ra là: hun hút đại ngàn gió hú. 

Bây giờ nhiều người làm thơ lắm nhưng để súc tích, ý nằm ngoài thơ thì ít lắm. Đa phần tả cảnh, dùng mỹ từ, điển tích, thơ dài thườn thượt.... nhưng bài này có phần khác, tác giả cứ như bình tĩnh móc thi tứ ra từ tâm thức và nhẹ nhàng sắp lên giấy một cách nhàn hạ. Chính vì vậy ai cũng giật mình tưởng tác giả lôi lòng kéo ruột mình ra cho thiên hạ tỏ tường. 

Buông bài thơ xuống nhưng lòng lại nhập vào cái bất an của tác giả và thấy mình cũng thổn thức, hồn hển theo. 

Và, cũng ngấu lắm cơn khát của đất trời.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

EM

 

Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta

Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta.

 

Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại

Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say.

 

Trời đất như cuồng say

Ngả nghiêng theo nhịp phách

Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu.

*.

Hà Nội, đêm 21 tháng 01 năm 2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

EM - MỘT TÌNH THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Người ta ví von người phụ nữ như lửa, có thể thiêu đốt cả thành trì, lâu đài, thậm chí cả một vương triều... quả thật không sai. Ở EM, ngọn lửa ấy đã thiêu đốt một thành trì TA “trinh bạch” sừng sững được “nửa đời” người rồi.

Mở đầu, “TA” rất hồn nhiên, rất tự tin vào bản lĩnh đàn ông vững chãi của mình nên đủng đỉnh “gạ” EM cạn chén. Vâng, chỉ là “gạ” thôi, chứ không mời, không ép, không nghĩ sâu xa, mưu mô gì cả. Chỉ đơn giản điều vì “TA” là đàn ông, còn EM là đàn bà, nên mới “gạ” em “cạn chén”. Nghĩa là “ta” chỉ bông đùa chút chút với “em” cho vui, cho có khí thế, chứ “ta” thừa biết, “em” sao uống được rượu với ta mà “cạn chén”. Ngạo nghễ là thế, đủng đỉnh là thế, ấy vậy mà “ta” phải sững người với hành động của em: “Thế là em cạn ta”. Ô hay. “Gạ” người ta cạn chén lại để người ta “cạn” mình thì chỉ có thi sĩ họ Đặng mới được trải nghiệm.

Ở khổ thơ đầu, thi sĩ họ Đặng đã vẽ một khung cảnh có 2 kẻ đang “vờn” nhau, chỉ để bông đùa nhau rất nhẹ nhàng, êm ái, không một tiếng động nhưng đằng sau những cử chỉ (gạ rượu) rất nhẹ nhàng ấy lại là những chuyển động thật mãnh liệt, kinh khủng và máu lửa ở sinh lý, ở tâm trạng:

“Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta

Nửa đời ta trễ hẹn

Em nồng nàn đốt ta.”

Ở khổ thơ này, tác giả viết như là rất tự nhiên, như là không hề sắp xếp, bài trí, cứ nhẹ nhàng, cứ thanh thoát giữa “ta” với “em”. Và người đọc dễ bị đánh lừa bởi khung cảnh yên ả, rồi trở chiều (có vẻ) thuận chiều ấy. Người đọc như thấy tác giả của EM từ thế chủ động thành thế bị động, từ “hung thủ” trở thành “nạn nhân” rất nhẹ nhàng, êm ái và khá ngọt:

“Ta gạ em cạn chén

Thế là em cạn ta”

Một câu thán xuôi chiều, chấp nhận tự nguyện không hề miễn cưỡng (Thế là em cạn ta), cũng rất “hồn nhiên”, tự nhiên như sự gạ (rượu) ban đầu của “chàng”. Tâm trạng ấy cứ nhẹ nhàng, đều đều dẫn người đọc đi hết khổ thơ, để bạn đọc chỉ hình dung thấy “chàng” đang bị “nàng” “ăn thịt” trở lại. Và sự trở chiều ấy lại rất ngọt, rất khoái bởi “nửa đời ta trễ hẹn” nên giờ “Em nồng nàn đốt ta” là hợp lẽ, là trên cả mong đợi.

Chỉ 4 câu thôi, “chàng” đã bộc bạch cho mọi người biết là cả “chàng” và “nàng” đều đã cảm nhau từ lâu rồi, từ “nửa đời” trước nhưng chỉ vì sự nhút nhát của chàng, sự e lệ, giấu kín của nàng mà chuyến đò tình của 2 kẻ cảm nhau, yêu nhau mới “trễ hẹn”. Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ồ thì ra việc “gạ” rượu của chàng chỉ là cái cớ, là phép “lửa đổ thêm dầu” để tình yêu của nàng dành cho chàng bấy lâu phải bùng cháy.

Vào khổ thơ thứ 2, cũng vẫn sự nhẹ nhàng, đều đều ấy nhưng mạch thơ nhanh hơn, nóng hơn, ngùn ngụt hơn:

“Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại

Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say.”

Ở khổ thơ này, tác giả rất thành công: Mỗi một câu thơ là một hình ảnh đẹp, say đắm của tình yêu đến từ hai phía. Cả “em”, cả “ta” đều say đắm đến hoang dại, đến quên tất tật để tận hưởng sự ngọt ngào của tình yêu. Rõ là viết về một cuộc làm tình, mà làm tình lại bạo liệt, ấy thế mà không hề có một tiếng động nào mới lạ?! Chẳng lẽ cuộc làm tình này cần kín đáo nên âm thanh hoan hỉ phải được điều tiết, cấm tiệt? Không phải vậy! Cái tuyệt vời chính ở chỗ không có tiếng động ấy! Đọc, ta thấy 2 kẻ yêu nhau đang rất trân trọng cái khoảnh khắc được đốt nhau ấy. Họ lặng lẽ cháy, lặng lẽ dâng hiến và lặng lẽ tận hưởng men say của ái tình. Họ đến với nhau bằng tình yêu, bằng sự dồn nén “thèm muốn” lâu ngày nên họ trân trọng thời khắc yêu ấy mà lặng lẽ cùng nhau hoan hỉ!

“Run rẩy, em ghì ta

Quấn vào ta hoang dại.”

Ở 2 câu này, người đọc hình dung “nàng” đang rất ngỡ ngàng, rất hạnh phúc bởi tiến triển tình cảm với “chàng” nên “nàng” lặng lẽ dâng hiến, lặng lẽ tận hưởng. Nàng sợ, rất sợ sẽ mất chàng, mất khoảnh khắc được yêu chàng nên nàng “run rẩy”, nàng “ghì”, nàng “quấn” chàng bằng cái tình yêu mãnh liệt mà bản năng của con người (hoang dại) nhưng rất gượng nhẹ, êm ái và trân trọng, nâng niu. Một loạt động từ mạnh được nàng sử dụng khi làm tình, ấy thế mà ta lại không nghe thấy một tiếng động nào, dù chỉ là tiếng rên, tiếng phì phò, hổn hển phải có để cuộc làm tình được gọi là thăng hoa. Cái hay, cái tuyệt của thi sĩ họ Đặng là ở đây, là ở cách tả tình nóng bỏng mà không cần đến sự phụ trợ của âm thanh.

Tiếp 2 câu cuối của khổ 2:

“Thẫn người, ta ngây dại

Uống em từng giọt say”

Ở 2 câu này, hình ảnh TA (chàng) hiện lên khá hoàn chỉnh sự hoan hỉ của chiến thắng. Từ “thẫn người” đến “ngây dại” đều chung biểu cảm trạng thái hoan hỉ của sự toại nguyện, của niềm vui chiến thắng. Hình ảnh chàng nhâm nhi “uống em từng giọt say” đã chỉ rõ chàng là gã thợ săn đích thực và nàng tưởng là kẻ đảo chiều quay lại ăn thịt chàng thì thực chất nàng chỉ là con mồi trong bữa tiệc ân ái của chàng mà thôi.

Từ thế chủ động tấn công: “Ta gạ em cạn chén”, rơi vào thế bị động, trở thành nạn nhân: “Thế là em cạn ta”. Rồi từ thế bị động: “Thẫn người, ta ngây dại” lại chuyển sang thế chủ động: “Uống em từng giọt say”... đọc qua, tưởng vậy mà lại không phải vậy vì để ý kỹ mới thấy “TA” hoàn toàn làm chủ “thế trận”, “em” chỉ là người bị “TA” giật dây, điều khiển.

Đến khổ 3, là khổ cuối của bài thơ, theo cảm nghĩ của riêng tôi thì hình như tác giả viết để kết thúc bài thơ cho phải phép nên không đầu tư câu chữ, cảm xúc, vì thế mà kém hay.

Đọc xong bài thơ, điều tôi thắc mắc vẫn cứ ở sự khó hiểu của 2 câu kết:

“Nửa đời trai trinh bạch

Em nhuộm ta ngả màu”

Tôi hỏi mà không trả lời được là sao “ta” phải giữ gìn sự trinh bạch ấy? Chẳng lẽ “ta” không ham ái tình? Và nữa, “em” là thế nào mà “nhuộm ta ngả màu”? Sự ngả màu ấy là hàm ý tiếc nuối bị mất đời trai trinh trắng hay sự hoan hỉ vì đời trai khờ khạo đã được ngả màu?

Ôi! Chàng Đặng Xuân Xuyến này, sao cứ bắt người đọc phải trăn trở về tình yêu của mình như thế? Chẳng lẽ không thể viết rõ hơn được sao, chàng Đặng?!

*.

Hà Nội, tháng 02 năm 2015

GIÁP KIỀU HƯNG

 

RƯỢU SAY

 

Ừ này thì rượu. Ừ thì say

Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày

Ta uống đêm nay cho thỏa thích

Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.

 

Nào nhấc chén lên. Cạn để say

Men tình chiu chắt ủ bấy nay

Đêm nay ta hứa say cùng bạn

Thế gian? Điên đảo được mấy ngày?

 

Thôi kệ cuộc đời. Ta cứ say

Rượu ngọt đào thơm vơi lại đầy

Ta kệ Cuội già từ cung Quế

Khẩn khoản mời ta ghé đôi ngày.

 

Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây

Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.

Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn

Đêm nay thỏa thích ta được say.

*

Hà Nội, đêm 04 tháng 10 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RƯỢU SAY”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Rượu say là cuộc độc ẩm của nhà thơ dưới trăng nên không lạnh lẽo lắm, vì vậy mà tinh thần có phần phấn khích:

Ừ này thì rượu. Ừ thì say

Ừ rượu tri âm ủ lâu ngày

Ta uống đêm nay cho thỏa thích

Cho trời cùng đất ngất ngưởng say.

Thế rồi say trong men tình chiu chắt, say trong rượu ngọt đào thơm và say trong lời hứa với bạn nào đấy, nhà thơ không cần đoái hoài tới chú Cuội từ nơi cung Quế xuống khẩn khoản mời lên chơi:

Ta chẳng ghé đâu. Ta ở đây

Sóng sánh mềm môi chén rượu đầy.

Thôi Cuội về đi ta chỉ muốn

Đêm nay thỏa thích ta được say.

Bài thơ là một tưởng tượng đẹp, phóng túng và táo bạo nhưng xét cho cùng cũng vì cô đơn quá nên tưởng tượng hão huyền thế thôi, giống như thi bá Tản Đà thế kỷ trước cũng vì buồn nơi trần thế nên ngẩng đầu tâm sự với chị Hằng vào một đêm thu rồi thể hiện rõ nguyện vọng của mình:

Cung quế đã ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

Một mộng tưởng lên cung trăng bầu bạn với chị Hằng của Tản Đà hay mộng tưởng chú Cuội trên cung Quảng xuống mời mình lên chơi của Đặng Xuân Xuyến, xét cho cùng đều là muốn thoát ly cõi trần quá buồn chán.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

ẨM TRỜI

 

Em gạ một đêm chồng vợ

Cho mùi da thịt thơm hương

Mấy ngày hôm nay mưa tợn

Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.

 

Ừ thì, một đêm thôi nhé

Mai đừng, nữa gạ một đêm

Mùa này ẩm trời dài lắm

Da đây thịt đấy đến mòn.

*.

Hà Nội, 13 tháng 03.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“ẨM TRỜI” - MỘT PHONG CÁCH TÌNH KHÁC LẠ

Có những bài thơ nói về tình yêu thiên về tinh thần nhẹ nhàng như bướm bay, lãng mạn như gió trăng và êm đềm như tiếng suối chảy. Cũng có những bài thơ nói về tình yêu thiên về nhục dục hừng hực như lửa cháy, cuồng nộ như con thiêu thân sa vào hố lửa. Giữa hai lằn ranh đó có những bài thơ nói về tình yêu như một lời bông đùa dí dỏm, nhưng nó lại hoàn toàn thể hiện sự độc đáo của một phong cách yêu. Vậy phong cách yêu là gì? Đó là cách xử sự trong tình yêu tạo nên cái riêng của một người hay một lớp người nào đó. “Ẩm Trời” của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ thể hiện một phong cách yêu riêng của tác giả. Bài thơ không chỉ nói về một đêm hẹn hò ái ân mà thật ra nó ẩn chứa tình cảm, tâm lý của một lớp người đã già dặn trong tình trường.

Mở đầu bài thơ tác giả đề cập đến một lời mời gọi:Em gạ một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương

Câu thơ đầu cho thấy tác giả được cô gái “gạ tình”. “Gạ tình” nghĩa là gì? Nghĩa là những hành vi, cử chỉ, cách cư xử hướng vào sự khác biệt giới tính để đưa tới yêu đương, ở đây là ân ái. Cô gái muốn có “một đêm chồng vợ/ Cho mùi da thịt thơm hương” nghĩa là cô ta đã biết bạn, biết ta đều đã lâu ngày không gần gũi người khác giới. Cái cớ để cô gái gạ tình cũng vô cùng mới lạ. Cô nói như một người già lắm: Mấy ngày hôm nay mưa tợn/ Ẩm trời, khó ở, thấy ghê.

Thường thì người già sẽ khó ở, thấy ghê mình mỗi khi mưa tợn, ẩm trời nên thích nằm riêng, xa rời người khác phái. Ở đây, ngược lại mưa tợn, ẩm trời làm nhục dục cô gái gia tăng nên cô mời gọi. Cô gái làm như mình gìà lắm, mượn cái cớ lão thành để bông đùa trong lời mời ân ái của mình. Cô mời gọi một cách thẳng thừng, không úp mở, giống như hai người đàn ông rủ nhau đi làm vài ly rượu.

Qua khổ thơ này ta cảm nhận được gì ở nhân cách cô gái kia? Cô không là người bán dâm, cũng không là người cho dâm dễ dàng. Với lời mời gọi vừa trắng trợn, vừa trịch thượng, lại khôn khéo lồng thời tiết vào câu chuyện của mình chứng tỏ cô là người trường trải, khôn ngoan, thẳng thắn và có khiếu hài hước. Với nhân cách này, chắc chăn cô phải gởi vàng đúng nơi mà cô chọn chứ không phải đem cho không bừa bãi. Vậy vì sao cô gạ tình tưởng như sỗ sàng?. Thật ra nếu cô gái không là tri kỷ của tác giả thì hai người cũng phải hiểu nhau và tâm đắc cùng nhau giữa cuộc đời này. Qua hai khổ thơ đối đáp, ta cảm được sự thâm giao giữa hai người. Họ có một sự đồng điệu trong đối đáp cùng nhau. Họ có một phong cách riêng âu yếm cùng nhau khác với thường tình. Họ có thể đã yêu nhau rồi nhưng bày tỏ tình yêu theo cách riêng của họ.

Bây giờ ta hãy nói đến chàng trai. Chàng trai cũng mồm mép không thua gì cô gái: Ừ thì một đêm thôi nhé/ Mai đừng, nữa gạ một đêm/ Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn

Người ta có thể tìm thấy trong ca dao hay trong thơ những câu đối đáp rất hay của những chàng trai trả lời cô gái đang gặt lúa trên đồng hay ban đêm giã gạo cùng nhau. Những câu đó chắc chắn rất trữ tình nhưng chắc chắn không bao giờ thân ái như lời thơ trong khổ thơ này. “Ừ thì một đêm thôi nhé”: chúng ta nghe như lời của anh nói với em. Chúng ta tưởng tượng lời từ của miệng chàng trai thốt ra âu yếm vô cùng, ấm áp vô cùng. Rồi thì “Mai đừng, nữa gạ một đêm”: Câu thơ không phải là lời từ chối, ngược lại đó là lời hẹn hò những đêm kế tiếp bằng một câu bông đùa tế nhị. Tác giả thật tuyệt vời khi xuống hai câu thơ chót: Mùa này ẩm trời dài lắm/ Da đây thịt đấy đến mòn.

Dựa vào thời tiết sẽ còn mưa lâu dài, tác giả hứa hẹn ngày tháng có nhau còn dài không bằng những lời thề thốt mà bằng một lời cảnh báo sẽ hao mòn thân xác nếu cứ bên nhau. Tất nhiên đây là một câu bông đùa, một lời dọa có tác dụng ngược lại, đem cho cô gái niềm vui hy vọng được kề cận với tác giả lâu dài. Câu thơ “Da đây thịt đấy đến mòn” bày tỏ sự hoà hợp thân xác giữa hai người. Đừng nghĩ đây là một câu thơ có nhiều dục tính. Ta nên hiểu rằng bài thơ chỉ mới là lời đùa cợt, tất cả đều chưa vượt qua giới hạn của sự thanh khiết. Vì vậy câu thơ bày tỏ “da” và “thịt” gắn bó với nhau đến hao mòn cũng là lời nói chơi nơi cửa miệng. Do phong cách yêu độc đáo của riêng mình mà phong cách bày tỏ cho nhau cũng khác lạ, khiến cho lời tỏ tình nghe thì thô nhưng nó đậm đà hơn tất cả những lời tỏ tình mà thơ thường hay diễn đạt. 

 Ẩm Trời” là một bài thơ ngắn gọn tưởng như nó bày tỏ một mối tình qua loa hời hợt nhưng không phải thế. Đọc thơ ta hiểu được tính cách của người trong thơ. Họ phải là những người đã lăn lộn trong cuộc đời, vấp ngã trong tình trường, dày dạn trong đối nhân xử thế, tinh tế trong lời nói. Họ có thể yêu nhau nhưng cuộc đời còn nỗi éo le ta không biết được. Ta chỉ biết họ trân trọng nhau trong lời nói bộc trực tưởng như là thô thiển.

Bài thơ hay là hay ở chỗ đó, diễn đạt cái kín đáo mà bề ngoài không mấy ai thấy được, không mấy ai trân trọng, có khi còn khinh ghét nữa. Bài thơ hay cũng là hay ở chỗ “nói tục giảng thanh”. Đọc “Ẩm Trời” ta nghe tiếng thơ như của một nhân vật bất cần đời, một cặp trai gái ngổ ngáo xem tình như cỏ rác, nhưng ngẫm kỹ, đọc đi đọc lại nhiều lần ta tìm thấy ở đó những tâm hồn đẹp mà ta yêu quý, một mối tình có thể làm cho ta se lòng và cảm mến../.

*

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

THIẾU NỮ

 

Ô kìa người ngọc giữa sớm mai

Áo xiêm trễ nải chả chịu cài

Ngực nõn phập phồng ru hồn gió

Bổng đảo in hồng trong mắt ai.

*.

Hà Nội, ngày 05/02/2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẾN VỚI “THIẾU NỮ”, BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Trong không khí mùa xuân Đinh Dậu (2017), mọi người của thế kỷ 21 này đón xuân, đón tết cổ truyền không còn thèm khát ở sự ăn mà ở sự chơi, hưởng thú vui tinh thần, không màng đến “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ”. Nhưng tìm thú vui tinh thần đâu phải dễ dàng, bởi xã hội tình người vô cảm, âu lo và bất an nhiễm vào hồn người như một căn bệnh - căn bệnh của loài người.

May mắn thay tôi đọc được bài thơ “Thiếu nữ” của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc. Ôi đã là đàn ông không biết thưởng thức vẻ đẹp của “Thiếu nữ” chẳng đáng buồn sao!

Đầu đề bài thơ là “Thiếu nữ” nghĩa là tuổi còn tơ non như hoa đương nụ, như trăng mới nhú, gái ở tuổi dậy thì. Tàng ẩn những điều kỳ diệu cho hồn tha hồ tưởng tượng, sự tưởng tượng đến bến bờ yêu say đắm và dịu ngọt trong hồn không thể cưỡng được. Đến nỗi nhà thơ phải thốt lên: “Ô kìa” - “Ô kìa người ngọc giữa sớm mai. Chữ “Ô kìa” như sự thảng thốt bất ngờ ngoài ý tưởng. Có gì khác thường, khác với thông lệ, khác với nếp nghĩ của nhà thơ. Chắc nhà thơ nghĩ rằng người đẹp sẽ phải đoan trang e lệ, “Dín gió e sương”, nhất là giữa sớm mai càng phải kín đáo hơn. Chữ sớm mai biểu thị thời gian tươi mới nõn nà của thiếu nữ. Thế mà thiếu nữ ấy: “Áo xiêm trễ nải chả chịu cài”. Một bức tranh nude cho người xem tưởng đến trường phái hội họa thời phục hưng rất gợi cảm và gợi dục. Xưa ở Việt Nam nữ sỹ Xuân Hương đã vẽ bức tranh thiếu nữ ngủ ngày rất phồn thực: “Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng/… Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm/ Một lạch đào nguyên suối chửa thông/ Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt/ Đi thì cũng dở ở không xong”.

Bức tranh thơ của Đặng Xuân Xuyến chỉ là bức tranh phồn thực mờ, đòi hỏi sức tưởng tượng, nude nhưng mờ ảo. “Chả chịu cài” có nghĩa là có phần kín có phần hở và phải có phẩn hở phần kín mới nên thơ. Gợi giác quan cảm xúc. Chất thi sỹ cũng là ở đây, nếu hở quá lộ quá sẽ không còn thơ nữa, chính vì vậy: “Ngực nõn phập phồng ru hồn gió”. Gió bị ru hồn hay thi nhân bị thôi miên, thiếu chữ “ru hồn gió” sẽ mất thiêng, gió còn bị ru hồn thì người còn bị ru hồn hơn. Nếu nói ngôn ngữ của tuổi trẻ thì còn bị “Phê” hơn.

Nếu đổi lại câu thơ “Phập phồng ngực nõn” thì sẽ bị giảm cái hay cái thực của chủ thể “Ngực nõn”. Chẳng khác gì nói: “Hồng thắm làn môi” mà phải nói “làn môi hồng thắm” mới chính xác. Thế mới biết làm thơ như đánh cờ, như sự sắp đặt cuộc đời vậy. Đánh cờ quân nào đi trước, đứng trước, quân nào đi sau, ván cờ tình yêu - cuộc sống cũng vậy, cũng phải có luật chơi và phải hiểu luật mới chơi được. Chữ “Ru hồn gió” tạo chất say của câu thơ, tài của nhà thơ là biết điều khiển câu chữ cho hợp với đạo thơ. “Bồng đảo in hồng trong mắt ai” hay ở chữ “in hồng”. Trong mắt như có lửa - lửa của đắm say, nhưng chỉ hồng thôi mà không chói, sự đam mê vừa tới, vừa đủ. Chói quá - nhìn kỹ quá sợ làm đau bồng đảo. Cách thưởng thức vẻ đẹp bằng sức cảm của tâm hồn không trần tục thì mới là thơ.

Trong mắt ai” nhà thơ nhìn thấy mà lại “trong mắt ai”. Lòng thi sỹ cảm giác vẻ đẹp ấy là của trời, không phải của mình, có chút gì đấy như sự “ghen”, ghen với đời, bâng quơ ghen với ai, sự ghen đáng yêu của tuổi 50 tự biết mình, tiếc cho mình!

Ôi. Trong mùa xuân khao khát niềm vui tinh thần hơn vật chất này, được thưởng một bài thơ “Thiếu nữ” - Nude như xem bức tranh bằng hồn thật đáng quý biết bao!

*

NGUYỄN THANH LÂM

Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: thanhlam.tho@gmail.com

 

BỨC TRANH "THIẾU NỮ" ĐẶC SẮC CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Nếu mấy năm trước, được nhiều cô gái khác yêu thương nhưng chàng trai ấy đã không dám hôn nhân lần nữa vì cảm thấy mình đã chớm già, sợ cưới nhau rồi trước là pháo hoa sau cũng ra tăm tối như cuộc hôn nhân đầu đã đổ vỡ, sợ đến nỗi có lúc đã cảm thấy chán cái vị yêu đương mới:

Ta bỗng chán vị yêu nhạt thếch

Xộc xệch tình

Lếch thếch tiếng yêu.

Thì năm nay, cái sự chán vị yêu nhạt thếch ấy dường như đã tan biến khiến trái tim chàng đã biết say mê rung động trước một vẻ đẹp thiếu nữ:

Ô kìa người ngọc giữa sớm mai

Áo xiêm trễ nải chả chịu cài

Ngực nõn phập phồng ru hồn gió

Bồng đảo in hồng trong mắt ai.

(Thiếu nữ)

Bài thơ tứ tuyệt với bức tranh một thiếu nữ đẹp giữa cảnh sớm mai của mùa Xuân đã khiến nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm phải tốn công gõ phím với cả ngàn chữ bình luận rất xác đáng: “Bài thơ cho tâm hồn thư giãn, quên hết những bất trắc âu lo trong cõi tục trần, bài thơ như bức tranh không phải để ngắm bằng mắt mà ngắm bằng hồn. Ru hồn trong từng câu chữ và từng câu chữ hiện lên bóng hình của người đẹp - người ngọc”. 

Người ngọc - Thiếu nữ đã là nguồn cảm hứng bất tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân, vì vậy thơ Đông thơ Tây đã có cả ngàn bài tuyệt tác ca ngợi vẻ xinh đẹp của thiếu nữ. Nhưng ở Á Đông, do những hủ tục bất nhân, những tập quán ti tiện, xem thường vai trò của người phụ nữ trong xã hội cũ, thơ ca có phần dè dặt khi tôn vinh vẻ đẹp đó. Ba nhà thơ Đường trứ danh của Trung Quốc như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Vương Xương Linh, trước vẻ đẹp của các cô gái hái sen đã không ai bảo ai mà cùng phóng bút viết nên mấy khúc ca diễm tình cùng chung một tên là Thái liên khúc (Khúc hát hái sen).

Đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Bạch cư Dị: Một thiếu nữ xinh tươi duyên dáng chèo chiếc thuyền nhỏ giữa một đầm sen để hái hoa và vô tình thấy chàng trai đang đắm đuối nhìn mình, người thiếu nữ thẹn thùng, muốn nói chẳng nên lời, để đến nỗi đánh rơi chiếc trâm cài đầu xuống đáy ao lúc nào chẳng hay:

Sóng đưa lá, gió rung hoa 

Đầm sen thuyền nhỏ lướt qua thấy chàng 

Cúi đầu thẹn, chẳng nói năng 

Ao sâu rơi xuống chiếc trâm cài đầu 

Thái Liên Khúc (Bạch Cư Dị-Hải Đà dịch)

Đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Lý Bạch: Một khuôn mặt đẹp như hoa, hồn nhiên, nhí nhảnh, ngây thơ bên ngòi Nhược Da, dưới bầu trời cao rộng, trời xanh nước biếc, nắng hồng, hoa trắng giao hòa tạo ra một vẻ đẹp thanh tao huyền ảo:

Có cô con gái nhà ai, 

Hái sen, chơi ở bên ngòi Nhược Da. 

Mặt hoa cười cách đoá hoa, 

Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh. 

Áo quần mặc mới sáng tinh, 

Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng. 

Thơm thơ vạt áo gió tung, 

Bay lên phấp phới trong không ngạt ngào.

Thái liên khúc (Lý Bạch-Tản Đà dịch)

Và đây là cô gái trong Khúc hát hái sen của Vương Xương Linh: Màu quần lụa của cô gái lẫn một màu giữa rừng lá sen xanh thắm chập chùng, mặt nàng tươi như hoa thắm khó mà thấy, bỗng đâu một tiếng hát khe khẽ ngân vang mới biết có bóng người:

Lá sen quần lụa một màu, 

Mặt tươi hoa thắm như nhau mặn nồng. 

Dưới ao trà trộn khôn trông, 

Nghe ca mới biết là trong có người.

Thái liên khúc (Trần Trọng Kim dịch)

Ba bức tranh thiếu nữ hái sen với những nét vẽ khác nhau đều tuyệt đẹp. Nhưng vẻ đẹp thiếu nữ đó chỉ thuần khiết là một vẻ đẹp thanh xuân trong trắng tựa hoa sen.

Ở ta, mới cách nay vài chục năm, người đọc cũng chỉ thấy trong thơ hình ảnh những thiếu nữ đẹp ngây thơ trong sáng như người thiếu nữ bên hồ Xuân trong thơ mới của Thế Lữ: Trên vừng trán ngây thơ, trong sáng/ Vẩn vơ qua một áng hương buồn/ Giây lâu cô vẫn như còn/ Lâng lâng trông gửi tâm hồn lên cao.

Mà không thể thấy được một bức tranh thiếu nữ nào với vẻ đẹp phồn thực của những áo xiêm trễ nải, ngực nõn, bồng đảo đầy quyến rũ như thiếu nữ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.

Một bài thơ Đường được coi là sexy nhất trong lịch sử văn học Trung Hoa là bài “Thanh Bình điệu” do Đường Minh Hoàng đã lệnh cho Lý Bạch làm để ca ngợi Dương quý phi. Dương qúy phi vốn là một dâm phụ, từng là vợ con trai Đường Minh Hoàng, bị vua cha cướp lấy. Dương Qúy Phi với sắc đẹp dục tính đã khiến con nuôi Đường Minh Hoàng là An Lộc Sơn muốn cướp người đàn bà dục tình này nên đã làm loạn, gây chết một phần ba dân số Trung Hoa thời đó. Nhưng dưới ngọn bút tài hoa của Lý Bạch, vẻ đẹp viên mãn và gợi dục của Dương Quý Phi sau một đêm làm tình với nhà vua cũng chỉ như một đóa nhánh hồng tươi ướt đẫm sương:

Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương,

Mây mưa Vu giúp uổng sầu thương

Và hình ảnh sexy của Dương quý phi cũng chỉ được diễn tả trong hai câu thơ trác tuyệt này: 

Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây,

Hiên sương phơ phất gió xuân bay

Không phải là vẻ đẹp kiêu sa ngồn ngộn của xác thịt như bộ ngực hay đôi vú mà chỉ là một vẻ đẹp mờ ảo như mây như sương như gió.

Vậy mà, câu “Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” được xếp vào hàng câu thơ gợi dục nhất của cả ngàn năm nay. Câu thơ này, mới hơn một năm trước đây đã khiến một vị anh hùng lao động của Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam bị ném đá tơi bời khi người anh hùng đã trăm tuổi này, Giáo sư Vũ Khiêu lấy nguyên vẹn câu thơ tả dâm phụ đó làm câu đối: "Trí như bạch tuyết tâm như ngọc - Vân tưởng y thường hoa tưởng dung” để tặng cho hoa hậu Kỳ Duyên, một cô gái chưa chồng chỉ nhỉnh hơn chắt nội gái của cụ Quốc sư có vài tuổi. 

Giờ đem đặt câu thơ Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây được coi là câu thơ sexy hết mực ấy bên cạnh những câu tả vẻ đẹp phồn thực của thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ta thấy vẻ đẹp kiêu sa của Dương Quý Phi chỉ là một vẻ đẹp của một người mây mờ áo còn vẻ đẹp của thiếu nữ lại là một vẻ đẹp rất phồn thực và rất cụ thể với áo xiêm trễ nải, bộ ngực nõn và đôi gò bồng đảo in hồng vào mắt người chiêm ngưỡng.

Tôi đồ rằng khi chụp bức tranh thiếu nữ này Đặng Xuân Xuyến đã không quên nghĩ đến bức tranh thiếu nữ trong thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:

Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm

Một lạch đào nguyên suối chửa thông

Rõ ràng, thiếu nữ trong thơ Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương đã sexy hơn, gợi dục hơn thiếu nữ trong thơ Đặng Xuân Xuyến ở câu: “Một lạch đào nguyên suối chửa thông”. Nhưng thiếu nữ của Bà chúa là thiếu nữ ngủ ngày và bị chụp bởi đôi mắt đầy dục vọng của “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt” còn thiếu nữ của Đặng Xuân Xuyến là thiếu nữ đứng trong gió xuân giữa sớm mai được chiêm ngưỡng bằng cái “Ru hồn gió” vì say mê của tác giả. Nhà thơ hiện đại học tập và kế thừa nhà thơ lớn của dân tộc như vậy là vừa đủ và thật đáng khích lệ.

- Trích từ bài viết CHÀNG TRAI ẤY BÂY GIỜ RA SAO -

*

DƯƠNG NINH NINH

Email: duongninhsg@gmail.com

 

NHỚ MẸ

 

Lòng quặn thắt

Nhớ những chiều nắng tắt

Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà

Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà

 

Cha ở phương xa

Chúng con còn bé dại

Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai

Sương buốt sớm mai

Nắng táp trưa hè nhễ nhại

Mẹ gửi đồng xa tiếng cười

Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt

Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát

 

Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt

Nước mắt ngược vào tim mặn chát

Con muốn hỏi trời cao

Con muốn cào đất rộng

Đâu là lẽ công bằng

Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay

Sao lắm cơ cực đắng cay

Lặng thầm qua đời mẹ

Tan nát lòng con trẻ

 

Con về thăm mẹ

Thơ thẩn vào ra hương khói nghẹn ngào.

*.

Làng Đá, 02 tháng 07 năm 2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “NHỚ MẸ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Nhớ Mẹ viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại / Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của người đọc.

Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.  

Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

VỀ QUÊ ĐI MÀY

- Với Nguyễn Xuân Thành -

 

Mày về quê chơi đi

Tao lại dạy mày chơi trò trận giả

Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo

Đủ trò

Mày khờ khạo

Tao ngây ngô

Nghéo tay cưới chung một vợ

Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở

To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.

 

Mày về quê chơi đi

Biền biệt thế

Bặt tin như thế

Tao nhớ mày

Rượu tao uống chẳng say

Đêm cuối cùng mày nói thật hay

Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ

Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại

Hai mấy năm trời

Nước chảy bèo trôi...

 

Mày về quê chơi đi

Về với tao. Về với thời thơ dại

Về đi mày

Đừng lời nói gió bay.

*.

Làng Đá, Ngày 11 tháng 12 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VỀ QUÊ ĐI MÀY  - TIẾNG GỌI CỦA

NHÀ THƠ HAY CỦA THỜI THƠ DẠI?

Tôi xa Hà Nội không phải “năm lên mười tám” như nỗi lòng một người đã xa Hà Nội trong một nhạc phẩm nổi tiếng từ hơn 60 năm trước, mà là năm tôi mới lên mười bẩy. Tôi xa Hà Nội cũng không được như người đó “khi vừa biết yêu” mà là tôi chưa hề biết yêu và thật lòng cũng chẳng biết có ai đó đã yêu tôi (!)?. Tôi xa Hà Nội cũng không vì một biến cố trọng đại của chung xã hội hay của riêng gia đình tôi mà chỉ là một duyên cớ rất đời thường: Thi được một suất học bổng sang Sing học tập. Do vậy, khi nhận được giấy báo phải xa Hà Nội, trong tôi đã cuộn sóng những niềm vui sướng suốt cả hai tháng trời chờ đợi. Chỉ đến khi ngồi trên máy bay, tôi mới thấy một nỗi buồn cô đơn xâm chiếm lòng mình mặc dù chuyến bay có đủ cả trăm hành khách. Tôi bắt đầu thấy thiếu vắng gia đình, thiếu vắng bè bạn rồi bất chợt nhận ra cái thiếu vắng lớn nhất là một khoảng trời rộng lớn, đó là Hà Nội quê tôi. Vâng, Hà Nội quê tôi, mặc dù nơi tôi sinh ra và lớn lên chỉ là một con ngõ nhỏ trong lòng phồn hoa của Hà Nội, nhưng bố tôi bảo hơn 10 đời nhà ta đã sống trên mảnh đất ngõ này, trong căn nhà nhỏ thân thương này đã được tạo dựng và tu đi đi sửa lại cũng đã mấy trăm năm.

Học xong, đi làm cho công ty người nước ngoài, những thiếu vắng trên càng dầy lên trong tâm hồn tôi. Những nỗi buồn vì xa gia đình, xa bè bạn may nhờ có cái máy tính, cái điện thoại nên nhiều lúc vẫn có thể vừa trò chuyện vừa nhìn thấy người trò chuyện với mình. Vẫn thấy được những khuôn mặt hiền lành như Phật của ông bà nội ngoại; vẫn thấy được nét đẹp thanh tú và giọng nói dịu hiền của mẹ cùng đôi mắt sáng vừa hiền từ vừa nghiêm khắc và những lời khuyên ân cần của bố; vẫn thấy được khuôn mặt ngây thơ nũng nịu của đứa em gái nhỏ luôn nhắc chị bao giò về thì đưa em đi ăn kem Tràng Tiền nhé và vẫn thấy được những dáng vẻ  tinh anh cùng những câu nói mày tao chí tớ thân thiết chia vui chia buồn của lũ bạn. Nhưng còn Hà Nội quê tôi trong đó có cái ngõ hẹp với ngôi nhà thân thương của tôi thì sao mà nhìn thấy và chuyện trò cùng chúng?  

Chiều cuối tuần được nghỉ việc, sau khi đọc và trả lời hết các thư điện tử của lũ bạn gửi từ Hà Nội, lòng tôi như một dòng sông ngập tràn nỗi nhớ nhung về chúng. Để đỡ buồn, tôi lên net và thật bất ngờ, khi vừa mở một trang mạng thì 4 tiếng “Về quê đi mày” bật lên trước mắt tôi rồi chúng vang lên thành một tiếng gọi vừa rất quen vừa rất lạ. Phải chăng lũ bạn tôi, tất cả chúng nó đang hòa chung giọng thiết tha gọi tôi: “Về quê đi mày”? Nhưng chỉ mấy giây sau, tôi hiểu ra mình đã bị ảo thanh bởi đó là tên một bài thơ của Đặng Xuân Xuyến mới đưa lên trang Nhà văn Lê Xuân Quang hôm đầu tuần. Bài thơ ghi rõ cả tên người bạn được gọi: Với Nguyễn Xuân Thành chứ đâu phải với tôi. Nhưng tôi vẫn chăm chú đọc nó. 

Vỏn vẹn 26 câu thơ tự do, toàn những lời tiếng bình dị đời thường không một từ trau chuốt, bài thơ được mở đầu bằng một lời nhắn gọi:

Mày về quê chơi đi

Thói thường khi nói đến mấy tiếng “về quê chơi”, người ta sẽ nghĩ ngay đến chuyện về thăm nơi chôn rau cắt rốn của mình, về cái làng ta phong cảnh hữu tình thân yêu, nơi có triền đê, lũy tre, cánh đồng, phiên chợ… và những người dân quê cần cù một nắng hai sương trong đó có những người ruột thịt họ hàng của ta. Nhưng suốt bài thơ của Đặng Xuân Xuyến, ta không hề bắt gặp một cảnh vật và một con người hữu tình nào như vậy. Thậm chí, ở cuối bài, tác giả có ghi rõ tên quê mình là Làng Đá, một làng quê  nổi danh ở huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên với tích truyện ngôi chùa Đá, nhưng trong “Về quê đi mày”, tuyệt nhiên cũng  không  thấy một câu, một hình ảnh, một dấu tích nào về ngôi chùa lịch sử cổ kính có từ thời nhà Lý ấy. Mà “Mày về quê chơi đi” là để:

Tao lại dạy mày chơi trò trận giả

Mày lại dạy tao bóng chuyền bóng đá

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo

Đủ trò

Hai tiếng “đủ trò” tưởng đã là hết nhưng chưa, bởi còn thêm cái trò này nữa:

Mày khờ khạo

Tao ngây ngô

Nghéo tay cưới chung một vợ

Bọn bạn bảo tao mày 2 thằng dở

To xác rồi đầu vẫn cứ ngu ngơ.

Đến đây thì ta đã rõ, “Mày về quê chơi đi” của Đặng Xuân Xuyến không phải là lời rủ một người bạn về quê chơi mà là tiếng nhắn gọi người bạn đó về quê để hai đứa “to xác rồi” sẽ cùng nhau chơi lại những trò ngu ngơ thời con trẻ.

Nhưng tội nghiệp, sau một chuỗi lời gọi bạn tha thiết ấy, hình như không nghe có tiếng hồi vọng khiến tâm hồn nhà thơ nghẹn lắng lại. Anh lại cất  tiếng gọi “Mày về quê chơi đi” lần thứ hai rồi thở dài buồn tủi nhắc nhớ bạn về tình cảnh ly biệt của hai đứa:

Biền biệt thế

Bặt tin như thế

Và anh kể lể nỗi lòng nhớ thương bạn của mình:

Tao nhớ mày

Rượu tao uống chẳng say

Mỗi người đều có một nỗi nhớ bạn cho riêng mình. Người bình dân trong Ca dao nói  “nhớ bạn chơi vơi”, thì ở đây Đặng Xuân Xuyến nói nhớ bạn “rượu uống chẳng say”. Phải chăng đây là rượu vừa uống vừa chờ bạn về để cùng chung chén nên không thể được phép say? 

Đúng là nhà thơ không say thât. Anh còn nhớ rất kỹ cái đêm cuối cùng trước khi bạn chia tay, giờ nói ra vừa để bạn ở xa cùng nhớ lại vừa kín đáo gửi vào đó một hờn trách nhẹ nhàng con người đã quên lời hẹn ước:

Đêm cuối cùng mày nói thật hay

Khắc trong tim bạn hiền tri kỷ

Nghéo tay tao hẹn ngày trở lại

Hai mấy năm trời

Nước chảy bèo trôi...

Vậy mà buồn thay, vẫn lại không nghe có tiếng hồi vọng. Quá tam ba bận, nhà thơ đành phải cố cất tiếng gọi lần thứ ba:  

Mày về quê chơi đi

Và lần này thì thôi, không kể lể nhắc nhớ cho thêm dài lời mà chốt lại rõ ràng dứt khoát: 

Về với tao. Về với thời thơ dại

Rồi nhấn thêm:

Về đi mày

Tiếng gọi ngắn hẳn, nghe có vẻ hụt hơi. Nhưng không, đó là chính là lời thúc giục để kèm theo câu nói cuối cùng vừa có ý dặn dò vừa có ý răn đe:

Đừng lời nói gió bay.

Như vậy qua chữ nghĩa rất bộc tuệch của 26 câu thơ, ta thấy “Về quê đi mày” là tiếng một người bạn gọi một người bạn thân biệt tăm đã lâu mau về quê để cùng nhau chơi lại đủ trò ngây ngô khờ khạo thời thơ dại. Với tên người được gọi đã được ghi cụ thể ở đầu bài thơ, liệu đây có phải là tiếng  thực của nhà thơ gọi bạn?

Xin hãy giả tưởng, người bạn của nhà thơ đọc được bài thơ này, nghe được lời nhắn gọi của bạn trong những vần thơ này và lần này anh ta không  “lời nói gió bay” như “Hai mấy năm trơi/ Nước chảy bèo trôi..,” đã qua; anh ta sẽ về quê thật, thì đôi bạn có cùng nhau sẽ sống lại “đủ trò” như tác giả đã hứa với bạn không? Tôi tin là không, hoàn toàn không thể có lại được “đủ trò” thơ dại ấy. Làm sao có thể tưởng ra cảnh hai kẻ đàn ông đang ở cái tuổi tri thiên mệnh, mắt đã phai và má đã hóp về đến quê lại có thể cùng nhau:

Lông nhông đầu làng cuối ngõ

Cướp cờ 

Đánh đáo…

và khờ khạo ngây ngô: 

Nghéo tay cưới chung một vợ?

Chính tác giả đã nói, đó là “2 thằng dở”, theo tiếng nói ở quê anh, còn dân ngõ quê tôi Hà Nội gọi là hai thằng rồ! Thế thì làm sao họ có thể diễn cảnh hai thằng dở, hai thằng rồ như vậy. Người ta có thể nhớ về thời thơ dại, ôn lại kỷ niệm của một thời vụng dại, lưu luyến đôi chút với cái quá khứ đã một đi không trở lại đó chứ sao có thể níu kéo nó lại được, nói gì đến việc sẽ lặp lại nó thêm một lần nữa trong đời khi ta đã thành người lớn.

Vì không thể có lại được những trò thơ dại ấy nên “Về quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong  tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.

Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.

Bây giờ, tôi lại mong cái giọng hòa âm “Về quê đi mày” của lũ bạn tôi từ Hà Nội vang lên một lần nữa. Nhưng cũng lại là vô vọng. Thay vì cái ảo thanh tôi mong muốn ấy chỉ là mấy tiếng bip bip của điện thoại báo có tin nhắn: Chàng nhà tao bảo, mai chủ nhật ăn bún chả nhé! Tao hỏi, đi ăn ở quán Ôbama mới ăn hồi sang Hà Nội gần đây? Chàng lắc đầu: Không, ăn ở nhà do em làm cơ. Mày về với tao đi, về  cùng tao vào bếp rồi cùng nhau ăn như hồi xưa hai chúng mình đã từng lăng xăng phụ mẹ tao mỗi lần bà làm bún chả ở bếp nhà tao để chiều mồm chúng mình ấy!”

Là tin nhắn của cái Hằng đã cùng tôi chung trường chung lớp 12 năm từ Tiểu học đến hết Trung học. Nó dịu dàng yểu điệu như một đóa hoa đẹp lại được bà mẹ giỏi nữ công gia chánh dạy cho nhiều thứ nên bọn tôi gọi nó là Hằng Thục Nữ. Chàng nhà nó hay chồng nó bây giờ là dân công sở, lớn hơn nó 6 tuổi, dắt lưng mấy cái bằng học thực, bị nó đánh sét từ khi nó mới lên lớp 10. Gã đã kiên trì ủ mầm tình yêu nó, chờ nó học xong Sư phạm Mẫu giáo là xin cưới liền tay. Giờ họ đã có một bé trai kháu khỉnh gần 2 tuổi. 

Đọc tin nó nhắn, tôi đã toan nhắn mắng lại nó: 

Con Nỡm, mày thừa biết tao đang ở xa Hà Nội cả nghìn cây số lại thêm cơm áo không đùa với kẻ làm thuê cho người nước ngoài, sao lại đưa cái món bún chả Hà Nội khoái khẩu của tao ra để nhem thèm tao thế?”. 

Nhưng nghĩ vui thế thôi chứ tôi biết, con bạn thân của tôi nó đâu có nhem thèm tôi mà chính nó đang nhớ tôi hay đúng hơn là nhớ một thoáng thơ dại của chúng tôi, những buổi tôi đến nhà nó cùng nhau lăng xăng phụ bếp bên mẹ nó làm một bữa bún chả ngon lành…

Vì vậy, tôi không vội nhắn lại cho nó một chữ mà đợi trưa mai, tôi sẽ mở hộp thư gửi cho nó bài thơ Về quê đi mày của Đặng Xuân Xuyến cùng đôi dòng tản bình của tôi để, sau khi xong bữa bún chả cho chàng nhà nó, nó sẽ đọc rồi tha hồ mà thương nhớ thời thơ dại mới qua chưa lâu của chúng tôi.

*

DƯƠNG NINH NINH

Email: duongninhsg@gmail.com

 

ĐỌC ‘VỀ QUÊ ĐI MÀY’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Ha...ha...một căn bệnh thời đại.

Có khác chi nhiều người đâu?! Tác giả thèm gặp lại bạn xưa, thèm sống lại kỷ niệm xưa, thèm gặp lại mình... của ngày xưa!

Mày về quê chơi đi”, tiếng gọi luyến tiếc, năn nỉ đến mấy lần, làm toàn bài thơ cứ đau đáu, trầm buồn nhưng lạ là không bi lụy. 

Bài thơ này không thấy tác giả gọi rông nữa vì tình cảm của “Về Quê Đi Mày” là nghiêm túc thật sự, thông qua một tình bạn ngây ngô từ thời thơ dại để làm phương tiện cho vấn đề đáng nói hơn đó là tình yêu quê hương đất nước. Có như vậy người đọc mới thấy thú.

Cám ơn tác giả Đặng Xuân Xuyến đã để đất cho người đọc thấy hứng, thấy tò mò, rồi tự mình khám phá tác giả, khám phá mình vì nương theo ý thơ lúc nào không biết.

Thế mạnh của tác giả nằm ở lối chơi chữ, nếu mê mẩn thì câu chữ cứ dễ dàng tuôn ra, cảm xúc cũng vỡ oà làm tứ thơ cô đọng, xúc tích, dễ thăng hoa cùng tác giả.

Cháu tôi vừa hỏi: - Ông ơi thơ là gì mà sao ông và mọi người cứ chúi chụi vào nó vây??.

Tôi trả lời: - Thú thật ông cũng không biết thơ là gì vì nếu biết được, định nghĩa được thì ông đã ngồi trên toà sen văn học rồi chứ không phải cái danh xưng: hội nhà văn nhạt nhẽo, đua đòi như bây giờ.

Bài thơ cứ mạch đơn giản như thế, dân dã như thế, cô đọng, xúc tích hóm hỉnh như thế kéo dài toàn bài. Hay!

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

VĂN THÙY “DỊ NHÂN”

 

Cuống quýt với thơ

Lử đử cùng thơ

Say thơ như điếu đổ.

 

Cả đời

Đánh đổi 

Được gì?

- Dăm ba bài thơ dán tem "thơ bụi'. (1)

 

Thiếu vợ

Thiếu con

Đâu phải Kép Tư Bền

Sao cứ bắt miệng cười tim héo.

 

Đời lắt léo

Phận eo sèo

Thây kệ thế gian úp mở.

 

Giả ngố

Mượn chữ bày trò

Vác thơ

Tưng tửng.

                                ................

(1): Chữ dùng của nhà thơ Nguyễn Khôi

*.

Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “VĂN THÙY DỊ NHÂN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tôi đã được đọc thơ và một số bài viết ca ngợi nhà thơ Văn Thùy in báo và đăng trên trang mạng rộng rãi, nhưng chưa một lần gặp mặt. Tình cờ một ngày đầu xuân năm nay (tháng 3/2017) tôi sang Ân Thi - Hưng Yên thăm nhà người bạn và gặp Văn Thùy cũng có mặt trong cuộc vui không hẹn này. Thì ra anh là người cùng quê với anh bạn trẻ tôi quen. Còn Văn Thùy không biết hàng ngày và ở những cuộc gặp gỡ khác anh ăn vận ra sao. Trước mặt tôi lúc này với chiếc nón nan rộng vành và tấm áo dài thâm phai màu, chưa thể nhìn được khuôn mặt, bộ râu cùng mái tóc muối tiêu tung tỏa … nom anh như nhân vật dấu mặt trong những bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung từ đâu xuất hiện. Có lẽ hình ảnh nón nan với áo trùng than này đã tạo cho người đời nhìn nhà thơ Văn Thùy thành “Dị nhân” đi kèm với tuổi tên chăng? Tôi quan sát anh khi xếp thứ “áo nón phường tuồng” đi, là một ông lão tuy đã râu tóc phai màu nhưng còn nhanh nhẹn, đôi mắt sáng, bộ comple tôn thêm vẻ ngoài đĩnh đạc của một thi nhân khi hai tay đón lấy chén trà… Tan cuộc, anh tặng tôi hai tập sách dày dặn: Tập thơ “Mảnh ghép của thơ Việt” và tập “Thư pháp” có nhiều bức vẽ chữ cho chính những câu thơ anh tâm đắc đã gửi cùng đời. Và anh khoe đã bán được hơn “BẨY CHỤC TRIỆU ĐỒNG” sau hàng tháng bán thơ, vẽ thơ ở Văn Miếu - Hà Nội…

Ngày tháng trôi đi… chiều qua tôi đọc được bài thơ của Đặng Xuân Xuyến vẽ chân dung của người thơ Văn Thùy đã gợi lại những câu thơ và nét thư pháp bâng khuâng của con người xương thịt “Văn Thùy” khi tiễn tôi ở Ân Thi ra về thêm một đoạn đường, không nón để râu tóc được tự do bay trong gió. Nhưng khi sống cùng thơ trong bức chân dung của Đặng Xuân Xuyến vẽ anh thì say thơ, mê thơ đến “cuống quýt”, “lử đử” như đã bị thơ lấy mất đi hồn vía, lấy mất đi chính cả cuộc đời đã hơn bẩy mươi năm bút mực dốc cạn mà không biết có phút nào nhận ra mình:

Cả đời

Đánh đổi

Được gì?

- Dăm ba bài thơ, dán tem “thơ bụi”

Câu thơ như thể nét cắt sắc lẻm, đau tận xương tủy cho những ai đã đi cùng thơ sắp hết đời mình với bao mơ mộng chứa chan khi cầm bút từng mong, không thi hào thi bá thì cũng để lại chút danh thơm như Nguyễn Công Trứ từng ghi “Đã sinh ra ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Giờ nhìn lại, còn lại:

“Dăm ba bài thơ dán tem “thơ bụi”

Đau hơn, cuộc sống bình thường, đời thường no đói, giàu nghèo, sang hèn gì ai cũng có một tổ ấm vợ, con xum họp mới là đời người, mới là cuộc sống… Người thơ ở đây không biết còn lý do gì ngoài sự mê đắm thi ca hay chỉ vì “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi” đã đổi cả hạnh phúc êm ấm gia đình:  

Thiếu vợ

Thiếu con.

Viết đến đây, hình ảnh Văn Thùy để đầu trần phóng xe tiễn tôi thêm một quãng qua thị trấn Ân Thi bỗng thoáng hiện về trong trí nhớ: Một người hơn bẩy mươi tuổi còn tháo vát nhanh nhẹn như vậy, anh như tự lý giải cho những câu thơ của Đặng Xuân Xuyến, lý giải cuộc đời này:

Đời lắt léo

Phận eo sèo

Thây kệ thế gian úp mở

Đã thế thì anh việc gì phải: Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng tửng như Đặng Xuân Xuyến đã khắc họa? Bởi tất cả từng trải, mất mát và bao nhiêu nỗi buồn đau của giấc mơ bệnh lý do nàng thơ ám ảnh suốt cả đời người đã làm cho con tim khô héo, có thể phẩy tay “Thây kệ thế gian…” thì con người Văn Thùy cũng đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào đời với cái nhìn khinh bạc thật sự, không cần “Giả ngố”, không cần phải “Mượn chữ bày trò” anh đã đem chính những câu thơ mình, dùng thêm “hoa tay thư pháp” vẽ thành tranh trước Văn Miếu, Quốc Tử Giám bán cho bàn dân thiên hạ. Liệu có bao người làm thơ dám đem ra bán giữa chợ đời như anh.

Qua bài thơ Văn Thùy “Dị nhân”, Đặng Xuân Xuyến đã thành công ở những nét đặc tả một dạng thi sĩ số phận lận đận trong cuộc sống cơm áo con người.

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

VĂN THÙY DỊ NHÂN HAY KỲ NHÂN

Đọc Văn Thùy “Dị Nhân” của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “Dị Nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “Dị Nhân” là bài thơ như thế.

Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”...

Này nhé:

Cuống quýt với thơ

 Lử đử cùng thơ

Say thơ như điếu đổ.

không tả trời, không tả đất, không tả người... mà hình dạng thi nhân đã ngất ngưởng bước ra. Cứ cái đà đồng đảo này thì thi nhân sẽ “kinh thiên - động địa” chẳng khác Nguyễn Công Trứ, chẳng kém Tú Xương, nhưng không, tác giả đã cho người đọc biết mình nhầm để tỉnh ngay khi đọc tiếp đến câu thơ nhẹ nhàng mà thôi thúc, ngắn gọn mà súc tích, tĩnh mà tỉnh:

Cả đời

đánh đổi

được gì?

Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó: “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”.

Rồi tiếp:

Thiếu vợ

Thiếu con

Đâu phải Kép Tư Bền

Sao cứ bắt miệng cười tim héo

Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận cái giá của sự say xưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.

Tác giả thơ lại tiếp tục điềm tĩnh, công tâm, phán nhận: “Đời lắt léo/ Phận eo sèo” rồi nhập tâm nhập thần mà nói hộ tâm trạng, bản lĩnh của Văn Thùy “dị nhân”: “Thây kệ thế gian úp mở”.

Những câu thơ: “Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng tửng được cất lên bằng giọng điệu bất cần và hài hài, đã khắc họa nổi bật lão thi sĩ với hình ảnh ngạo ngạo, ngông ngông, dị dị mà tài hoa và bản lĩnh. Thử hỏi, không tài hoa, không bản lĩnh thì làm sao lão thi sĩ có thái độ ngông ngạo, bất cần: “Thây kệ thế gian úp mở”? Không tài hoa, không bản lĩnh thì lão “dị nhân” có thể “mượn chữ bày trò” khiến thiên hạ phải mắt tròn mắt dẹt?! Hình ảnh thi sĩ “vác thơ/ tưng tửng” khiến ta liên tưởng nghĩ tới hình ảnh Đức Chúa Giê Su vác cây thánh giá đi khắp cõi truyền giảng đạo, cứu nhân độ thế. Đọc đến đây, đến câu cuối bài thơ thì cái dáng dấp hình thể, cái thần thái hồn vía của lão thi sĩ dị nhân ngất ngưởng, ngông ngạo, không phải là Văn Thùy “dị nhân” thì là của ai mà nhập hồn nhập bóng này được?! Văn Thùy xứng lắm chứ. Chân dung này thật xác thực và sống động. Nó cựa quậy đồng đảo lắm chứ. Tôi đồ rằng, tác giả vẽ chân dung này phải là người có tài quan sát và tinh tế lắm mới có thể khắc họa “hô sĩ nhập hồn” chân dung quậy sĩ dị nhân Văn Thùy thêm kỳ kỳ, ngộ ngộ.

Xin thưa, vì tôi cũng có quen biết Văn Thùy, có biết chút ít về ông: Ông là người tài hoa (chụp ảnh siêu, vẽ họa giỏi), thơ hay và chí khí tang bồng hồ thỉ nhưng phần gia cảnh thì hình như hơi thiệt thòi, công danh cũng chẳng thuận... Nên tôi đánh giá bài thơ Văn Thùy “Dị Nhân” này là bài khá, vì tác giả không kể lể kẻ vẽ mà đã khảo dựng được chân dung một con người thơ thật thơ, cho thơ tử vì đạo...

Nếu cho phép tôi được góp ý thì tác giả bài thơ vì tính cẩn thận và thực thà quá nên dễ gây cho đọc giả cảm tưởng tác giả be chắn tỉ mẩn, bày biện chữ nghĩa. Trong chữ phải chứa đủ tình - cảnh - sự cho suy tưởng hình tượng thơ sống động. Thơ càng vô lý càng tuyệt, càng chủ quan càng hay. Thơ phải là phi lý, là ảo, là mở mang khơi gợi. Những câu thực thà máy móc đã làm giảm chất say của thơ. Ví dụ như câu thứ 3: “Say thơ như điếu đổ” thì chữ “say thơ” chưa đắt vì chính 2 câu “Cuống quýt với thơ/ Lử đử cùng thơ” đã thấy cái say rồi còn nhắc tới “say thơ” làm gì? Giá như tôi, tôi sẽ sửa là “Biêng biêng điếu đổ”. Hoặc câu “Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi” thì cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều không sát với Văn Thùy. Thực thì người đời - làng thơ đã công nhận loạt bài, phong cách thơ Văn Thùy là “Thơ bụi” rồi nên chăng sửa là “Loạt bài thơ bụi”. Hay câu 15: “Giả ngố” thật quá đã tố sự nghiệp, tố chân dung “dị nhân”, làm giảm hình tượng đẹp của 2 câu kết mà chính tác giả Đặng Xuân Xuyến đã kỳ công tạo dựng: “Vác thơ/ Tưng tửng”. Đành rằng Văn Thùy biết và cảm rất rõ những mất mát của đời mình và ông phải “giả ngố” để mua vui, để tự xoa dịu nỗi đau của đời nhưng đấy là đời, là cuộc sống thực của Văn Thùy nhưng khi vào thơ sao Đặng Xuân Xuyến không cho là “Ngố ngố” hoặc “Quá ngố” để hình ảnh Văn Thùy “dị nhân” bớt đời đi để thơ hơn?!

*

Hà Nội, 28 tháng 04.2017

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn

huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Email: nguyendanghanh1234@gmail.com

 

ĐƯỜNG DÀI

- Yêu mến tặng Huyền Thương -

 

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

 

- Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Thôi thì cứ để em đi

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Nhà nghèo

duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

 

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài.

*.

Hà Nội, đêm 13 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ “ĐƯỜNG DÀI” MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP

ĐƯỜNG DÀI, bài thơ mới nhất của Đặng Xuân Xuyến không dài nhưng đọc xong có cảm giác vừa đọc một chuyện tình buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Bài thơ chỉ có 3 lời thoại nhưng đã hiện lên đầy đủ không gian, thời gian, hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không gian là một nơi trong ngôi nhà của chàng trai, không quan tâm cụ thể đó là phòng khách, vườn hoa hay ban công hoặc nơi nào trong ngôi nhà đó. Thời gian là khoảng “Trời đã buông rèm từ lâu” nghĩa là sau lúc hoàng hôn và trời đã tối rồi. Nhân vật là một chàng trai với 2 lời thoại và một cô gái duy nhất chỉ có một lời. Không biết cô gái đến nhà chàng trai vào lúc nào và họ đã chuyện trò với nhau đã bao lâu, cũng không cần biết họ đã nói với nhau những gì bởi chuyện của trai gái với nhau từ nghìn đời nay đều là những chuyện đâu đâu, từ chuyện trên trời dưới biển đến chuyện thời tiết gió mưa, từ chuyện hoa trong vườn nhà đến cây ngoài đường phố, từ chuyện nỗi lòng mình đến chuyện nỗi lòng ai đó… nhưng tất cả đều huyền diệu muôn màu muôn vẻ diễm tình. Nhà thơ chắc cũng biết thế nên cũng đã không thừa chữ để viết dông dài.

Nhưng bây giờ hiển nhiên là hoàng hôn đã tắt vì “trời đã buông rèm từ lâu” và cô gái xem chừng tỏ ý muốn ra về khiến chàng trai vội vã van xin nằn nỉ:

Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Cái hay trong câu nài nỉ này cho ta thấy, có thể cô gái đã nói, trời tối rồi, em về đây kẻo muộn. Nhưng chàng trai lại vin vào đó để bảo nàng: trời tối đã lâu rồi, em về làm gì, anh không muốn em trong “cảnh khuya thân gái dặm trường” nên anh mong “Ở lại đi em”! Và chàng đã được cô gái trả lời:

Chúng mình đến chẳng được đâu

 Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Một câu nói dấu bên trong một hơi thở nhẹ buồn báo hiệu những cảnh ngộ éo le của đôi lứa. Chúng mình không thể đến được với nhau đâu, anh bảo em ở lại cùng anh trong đêm nay có khác gì khuấy sóng bể dâu.

Và để chứng minh rằng mình nói đúng, cô gái lần lần nhắc chàng trai nhớ ra những cảnh ngộ éo le đó.

Trước hết, cô không ngần ngại tự bảo mình không còn trẻ trung gì nữa:

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Hiểu theo cách nói của dân gian, hẳn cô đang chừng ba mươi tuổi và trong vòng 15 năm nữa trong cô sẽ không còn một nét xuân thì nào nữa. Thế thì ở lại đêm nay để rồi sẽ đến với nhau làm gì khi em đã là gái đang về già.

Và để làm rõ hơn cho lý do từ chối này, cô tiếp:

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Em cảm ơn anh là người tình nghĩa, chả ngại gì miệng tiếng người đời với biết bao kẻ dở đần dở khôn nhưng em không muốn anh sẽ phải khổ vì những lời đồn đại thị phi không đẹp ấy.  

Là bạn gái của chàng trai, chắc cô gái đã biết có lần anh đã mượn thơ để nói rằng:

Sợ gì danh phận hư hao

Sợ gì thiên hạ trông vào nhỏ to

Sợ gì nhỉ? Chẳng phải lo!

Trai đơn gái lẻ … nhỏ to bằng thừa!

Và vì đã biết chàng là thế, cô phải nói ra luôn cái lý do nữa cho thêm sức nặng. Ấy là thân phận của cô: Nhà nghèo/ duyên phận mỏng manh

Và thân phận của chàng: Anh dù chẳng vợ còn con

Nên em biết anh yêu em và em cũng yêu anh. Nhưng cạp hai cảnh đó với nhau thì sao cho được. Vì vậy, em chỉ xin: Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Vâng! Em xin nợ anh chữ nghĩa chữ tình và chữ sắt son. Nhưng em chỉ có thể cắm chặt những chữ ấy vào đáy lòng, không để cho nó trôi đi còn đến với anh thì không thể được, vì: Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Chen vào cuộc sống của anh, dù nay anh không còn người vợ cũ nữa nhưng còn con anh, làm thế khác nào phá vỡ sự bình yên trong ngôi nhà này, phá vỡ hạnh phúc con anh đang có và làm thế, khác nào tự em chuốc lấy cái phận hèn vào mình.

Dứt lời, cô gái quyết định:

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

Không thấy có nước mắt nhưng câu thơ  có 8 tiếng mà xẻ ra thành 5 nhịp nghe nấc lên những tiếng nghẹn ngào khi cô gái dằn lòng mình để nói lời cuối và khi cô tự vẽ nên cái cảnh lạc lõng cô đơn buồn tủi của mình khi sẽ ra về trong cảnh “mờ đèn phố xa”.

Cách viết câu thơ 8 tiếng thành 5 dòng này có thể coi là một cách tân rất thành công của Đặng Xuân Xuyến về cách xẻ tiếng của câu thơ lục bát ra thành nhiều nhịp để diễn tả tâm trạng trữ tình của nhân vật trong thơ. Thành công này không chỉ một lần trong lời thoại của cô gái mà còn trong 2 lần lời thoại của chàng trai.

Nếu như khi nằn nì bạn gái đừng về, cả hai câu thơ chỉ bị cắt thành thành 4 nhịp:

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Thì trong lời thoại cuối, khi cô gái nhất quyết dằn lòng ra về, câu lục xẻ ra 3 nhịp và câu bát xẻ ra 4 nhịp

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

Khiến câu nói như mắc nghẹn trong cổ họng nhưng phải cố nói cho xong trong nỗi đau đành khoanh tay đón chịu duyên phận và nghĩ tới cảnh người con gái mình yêu sẽ lầm lụi ra về mà không thể làm gì hơn một việc là chỉ đưa một chiếc khăn để nàng quấn cho đỡ lạnh trên ngõ xa đường dài trong khi chính chàng đang thấy lòng mình tràn ngập hơi lạnh giá ở trong căn phòng sắp vắng bóng nàng, đúng như cảnh trong thơ Thế Lữ từ thế kỷ trước:

Ai lau nước mắt cô mình?

Dưới đây duy có một mình ta thôi.

Cầm khăn lòng những bồi hồi,

Lệ ta cũng chửa ai người lau cho.

Có thể nói, ĐƯỜNG DÀI là một bài lục bát hay nhất trong các bài lục bát của Đặng Xuân Xuyến mà tôi đã đọc. Tiếng thơ dịu êm như từng hơi gió nhẹ thổi nỗi buồn của đôi trai gái hòa tan vào trái tim người đọc.

Trong bài thơ, ta thấy cô gái rất nặng lòng với chàng trai, hẳn trong lòng cô cũng âm vang nỗi tiếc khi phài về:

Còn đêm nay nữa, anh đi,

Lượng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề

(Ca dao)

Lượng vàng không tiếc nhưng tiếc những khi ngồi kề bên anh nên em sẵn sàng cam chịu sẽ neo tình yêu của anh vào tận đáy lòng nhưng không thể sống lứa đôi cùng anh vì lo sợ đường dài sẽ còn có biết bao ngăn trở.

Chàng trai cũng rất yêu cô gái và hẳn chàng rất biết:

Còn đêm nay nữa, mai về

Lạng vàng không tiếc, tiếc kề môi son

(Ca dao)

Lạng vàng không tiếc nhưng tiếc những giây phút được kề môi son nên anh tôn trong những suy nghĩ của em mà chỉ dám ngỏ lời muốn níu kéo:

Đừng mà.  

Ở lại đi em

Nhưng rồi anh vẫn ngậm ngùi để em được tự giải thoát:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Dù anh đau xót quặn lòng biết rằng em sẽ lạnh lùng buồn tủi trên ngõ xa đường dài đêm nay.

Ôi! ĐƯỜNG DÀI! Đó đâu chỉ là lối đi về của em tối nay mà đó chính là đường đời còn thăm thẳm nhiều hệ lụy trắng đen mà anh và em, chúng ta rất dễ dàng bị đánh gục trong khoảnh khắc khi chúng ta cảm thấy bất lực không vượt qua được những trở ngại trên con đường dài đó. 

Tôi, người yêu bài thơ này không có lạng vàng nào để tiếc nhưng rất tiếc cho cô gái và rất tiếc cho cả chàng trai.

Với cô gái, ta hãy bình tâm xem lại hai lý do chính cô gái đưa ra để em về kẻo phố xa đèn mờ.

Lý do thứ nhất: Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Tiếc cho cô sao không nhớ tới cô gái “Phiếu hữu mai” (Mai rụng) trong Kinh thi, một cô gái muộn chồng, nhưng trong trái tim luôn khát khao mong sớm đạt được nguyện ước “có chàng, có thiếp, như đũa có đôi”:

Mai em đã bắt đầu rơi

Mười phần hương sắc chỉ vơi ba phần

Ai người quân tử cầu thân

Trầu cau ngày tốt Tấn Tần kề vai

Một tình cảm thật táo bạo tựa như “cọc đi tìm trâu” nhưng thật đáng quý biết bao cô gái “Mai rụng” đó. Còn cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bây giờ đang ngồi kề bên chàng trai rất yêu mình, năn nỉ cô ở lại cùng chàng nốt đêm nay nhưng sao cô cứ một mực đứng lên vì sợ đường dài

Lý do thứ hai:

Nhà nghèo 

duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn  

Ôi sao cô lại yếu lòng đến thế? Tiếc cho cô không nhớ ra cô gái trong “Bần nữ thán”. Cô ấy cũng rất nghèo và vì nghèo nên chẳng được ai ngó ngàng tới, mặc dầu cô ấy thông minh, giỏi và đẹp:

Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,

Hóa cho nên thua sắc, thua tài

Nhưng sau bao lời tâm sự buồn than, cô gái nghèo ấy đã nhận ra ngay rằng mình chỉ: Giận duyên nói bấy nhiêu lời. Rồi vững lòng tin vào phẩm giá của mình, của một cô gái nhà nghèo  trước cảnh đời:

Ngọc lành còn đợi giá cao,

Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì

Còn cô, cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, ngọc lành đâu còn phải đợi giá cao? Chàng trai ngồi kề bên cô đang năn nỉ níu kéo cô ở lại bên chàng, sao cô vẫn mặc cảm về “Nhà nghèo duyên phận mỏng manh” của mình mà dằn lòng đứng lên như thế?

Với chàng trai, chàng yêu nàng đến thế mà sao lại cố nói cho xong những lời nghẹn đắng trong lòng:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

ĐƯỜNG DÀI! Sao lại sợ đường dài đến thế mà không nhớ tới câu: Đường dài, ngựa chạy biệt tăm,/ Người thương có nghĩa, trăm năm cũng về

Để mà níu bằng được đôi chân cô gái ở lại nốt đêm nay cùng nhau thỏa nguyện: Tơ tằm đã vấn thì vương,/ Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.

Chính vì thế, bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến có thể coi như một chuyện tình nhỏ bé và đơn giản nhưng chan chứa nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất đẹp xuất phát từ hai trái tim sâu thẳm yêu nhau nhưng chưa đến được với nhau thành đôi thành lứa vì chưa bước qua được những rào cản. Một chuyện tình buồn đẹp như câu thơ của nhà thơ Hồ ZDếnh: Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở (Ngập ngừng).

Câu thơ cụ ZDếnh hay quá khiến tôi hy vọng rằng, những lời của chàng trai và cô gái trong bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến chỉ là mấy câu buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Rồi đêm nay sẽ qua, ngày mai đẹp ánh ban mai sẽ đến, họ sẽ lại ngồi kề bên nhau để cho chuyện tình buồn đẹp của hai người sẽ mất đi chữ buồn mà chỉ còn lại chữ đẹp.

*.

Sài Gòn, 15 Tháng 05.2017

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“ĐƯỜNG DÀI” - CÂU CHUYỆN TÌNH ĐƯỢC KỂ RẤT THẬT

Lâu rồi mới được đọc bài thơ thật đến vậy. Cách gieo vần thoáng khoát, lối ngắt câu hợp lý với tâm trạng phiêu phiêu, bảng lảng, trăn trở, níu kéo, giằng xé đã chạm vào nỗi riêng tư của từng người đọc. 

Vừa xem vừa lo hết và lại mong xem kết cục câu chuyện thế nào. 

Ta cũng hổn hển, gấp gáp, luống cuống theo tác giả từ mạch thơ. Hình như tác giả viết một hơi, sợ không ghi kịp ý đang dồn dập tuôn trào trong tâm thức.

Đừng mà ở lại đi em

Ngoài kia trời đã buông rèm từ lâu.

Bắt đầu từ lời cáo từ giã biệt. Tác giả cuống quýt lo cho cái buổi vui ngắn chẳng đầy gang trôi mất! Chàng vội năn nỉ, níu kéo chỉ sợ Em đi mất nên nêu một lý do chẳng thuyết phục tý nào. 

Ngược lại, trong tình yêu thì người nữ luôn tỉnh táo, thực tế hơn: 

Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Thôi thì cứ để em đi

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân 

Cô gái cũng nói vậy thôi để giải phóng tình thế dùng dằng khó dứt nhưng cũng đầy ắp tiếc nuối và muốn ở bên nhau mãi mãi. 

Con người vốn hay mâu thuẫn, tự tạo phức tạp cho mình, cho hoàn cảnh để rồi đi cũng dở, ở không xong.

Với cách gieo vần khoáng thoát, cách nhả câu hợp lý cùng tâm trạng rất tâm trạng làm cho người đọc bị cuốn theo lúc nào không biết.

Càng lúc lời cô gái càng tha thiết, phân tích càng có tình có lý: 

Anh dù vì nghĩa chả cần

Ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim sợ lắm bước dồn

Thôi em về, kẻo lời đồn khổ anh.

Khen anh đấy, vì em mà chẳng thèm để ý đến cái lũ người chả giống ai cả. Chính em cũng giống anh, vẫn thấy khó quyết định đi hay ở lại. Do đó đến lượt em nêu ra lý do cũng kém thuyết phục: sợ lời đồn! Ai đồn? Sao lại khổ anh khi anh đang vui những phút như bất tận thế này.

Và EM ở đây là ai nhỉ? Càng cố tìm hiểu càng thấy bảng lảng, liêu trai! Mình cứ thấy EM phảng phất, bồng bềnh, mờ nhân ảnh. Dù vậy, nhưng khối tình lại rất thật, thật như dao cau cật nứa, sắc lẻm, ngọt ngào làm người đọc thấy như tứa máu......

Cuộc gặp gỡ nghe ra đượm sắc liêu trai, mộng mị nhưng rất nặng tình người. Người đọc bất giác thèm được như vậy. Thương lắm, yêu lắm, gần lắm mà cũng xa lắm. Thì ra dặm trường là vậy! Từ cõi thực đến cõi hư vô có một khoảng cách cảnh giới! 

Đọc đến đây bỗng thấy thương tác giả, thương cô gái và... thương mình. 

Thế giới ta đang sống là thế giới lẫn lộn đồng cư của hư thực, yêu ghét, tốt xấu, hạnh phúc và bất hạnh. Thôi thì hãy gạn đục khơi trong, hãy tử tế, nhìn ra quy luật để mà hoàn thiện. 

Cô gái còn nói nữa, đã chào em về mà cô mãi vẫn chưa dứt nổi: 

Nhà nghèo duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Dằn lòng rồi cũng phải quen 

Thôi em về kẻo mờ đèn phố xa ...

Cảm xúc vỡ oà.

Rõ ràng âm dương cách biệt nhưng tình người chan chứa, thật đáng trân trọng. Thà gần hình bóng còn hơn vạn lần xa mặt cách lòng. 

Bất giác không còn khoảng cách âm dương nữa. Một cách sống, một nghĩa tình đã neo nhau lại bởi nghĩa, tình son sắt.

Ờ thì em trở lại nhà 

Khăn đây em quấn ngõ xa đường dài .....

Đến đây tác giả mới nói. Câu nói như nghẹn ngang cổ họng, lo lắng cho khoảng cách em đi ..

Bài thơ khép lại rồi mà tôi vẫn thổn thức, buồn vui lẫn lộn nhưng rõ ràng thấy mến tác giả vì sự thật lòng qua tiểu phẩm hay và nặng.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

LỠ

 

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông

Thầm thĩ với người từng vun mộng

Trăng kia bến cũ có thay dòng?

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

 

Và đã khi nào mỏi mòn trông

Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?

Có còn đứng đợi chờ trăng xuống

Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?

 

Tôi biết, nhưng thôi, chỉ rầu lòng

Ái tình cố níu cũng bằng không

Lòng người còn thẳm hơn sông rộng

Chỉ lỡ nhịp chèo đã qua sông.

*.
Hà Nội, chiều mưa 19.08.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

May thay tác giả bài thơ “Lỡ” được sinh ra ở thời đại những làng quê Việt Nam còn nhiều mơ mộng, còn có những bến đò gợi niềm cách trở cho kẻ ở người đi. Phương tiện để nối lại đôi bờ chỉ là những con đò tay người chèo lái… Cuộc sống chậm đến nỗi “Chỉ lỡ nhịp chèo” mà nhiều khi tình duyên lỡ dở, biệt ly, để bây giờ làng quê, thành thị nối liền nhau, qua sông đã có những cây cầu vững chãi vươn thẳng nhịp nối đôi bờ cho những dòng người, dòng xe lăn bánh bon bon, chớp mắt đã được cầm tay, đã được kề tựa bên nhau không còn phải phấp phỏng ngóng chờ mà tác giả vẫn có được những câu thơ trở về trong mộng:

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Thấy lại cả vầng trăng “say lướt khướt rớt đáy sông” vì hồn người lúc ấy đắm say “thầm thì với người từng vun mộng”. Bây giờ lấy vợ, cưới chồng tuy thủ tục rườm rà nhưng có lẽ người ta đã mơ ước khác xưa, ước muốn khác xưa. Có đôi lứa nào đến với nhau: “Thầm thĩ với người từng vun mộng”. Cái thực bây giờ đã thay cái mộng. Còn đôi lứa nào giờ yêu nhau như câu thơ Xuân Diệu từng gợi lên vẻ đẹp tình yêu sống mãi muôn đời: “Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Yêu mà không nói được vì sao tôi yêu em. Vì sao em yêu tôi, thời nay chắc không còn nữa. Khi viết câu thơ “Trăng kia bến cũ có thay dòng” hẳn tác giả là người có tình yêu bền chặt. Đời thật tất cả đã đổi thay. Sông, người ta đắp đập, chặt khúc làm thủy điện. Bây giờ còn ai ngẩn ngơ “Cầm tay đi dạo dưới trăng vàng”. Chưa kể thứ tình yêu thác loạn nơi đèn màu, nhạc Rốc nơi phố thị, vầng trăng quê đã bị bỏ rơi từ đã lâu rồi như câu thơ một nhà thơ viết thời đương đại:

Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất

Trăng còn đây chỉ là bản photo

Hàn là thi sĩ Hàn Mặc Tử, thi sĩ sống cùng trăng, sống với trăng bây giờ không còn. Vầng trăng ta thấy đây chỉ là “vầng trăng photo” giống hệt vầng trăng muôn xưa, nhưng không phải, bởi còn đâu thứ tình yêu thật sự trong lành để nuôi sống mơ mộng cho trăng…

Nhưng nghĩ lại, giữa đời sống bẩy tỷ người trên trái đất, chỉ có một vành trăng mơ mộng mà thôi, ai còn có nó, giữa bao bậm trợn, ham hố, thèm muốn ở đời, tác giả là một con người hạnh phúc, vẫn sống với vầng trăng đẹp để mơ chung thủy với người không chung thủy với mình. Hơn hết để còn những câu thơ như “kẻ tâm thần không chịu tỉnh” như thế này:

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

Bài thơ “Lỡ” sẽ đem đến cho ai chịu thiệt thòi lỡ dở, thứ hạnh phúc suốt đời vẫn có một tình yêu tươi đẹp, sáng trong.

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

CẢM NHẬN BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tác giả bài thơ “Lỡ” quê ở Hưng Yên, bên kia bờ sông Hồng đối diện với dải đất ngoại thành Hà Nội bên này. Ngày xưa khi chưa có những cây cầu hiện đại bắc qua, làng mạc dọc theo bờ sông suốt miền châu thổ Bắc bộ, đâu cũng có bến đò ngang… Bến nước, con đò là nơi nối nhịp thông thương qua lại giữa hai bờ Nam, Bắc. Bao nhiêu đôi lứa đã gặp gỡ qua ánh mắt nụ cười trên bến, dưới thuyền mà nên duyên chồng vợ, gắn bó keo sơn, đến đầu bạc răng long. Tác giả bài thơ có lẽ là một người đã được hưởng thứ hạnh phúc dân dã trong lành một thuở để có những câu thơ hoài niệm về những kỷ niệm mà cuộc sống tất cả đã đổi thay, không còn gặp ở tình yêu tuổi trẻ bây giờ:

Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng

Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông

Thầm thĩ với người từng vun mộng

Trăng kia bến cũ có thay dòng?

Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống

Môi kề môi ấy có lạ không?

Giờ không còn bến với đò, nhịp sống hối hả trên những cây cầu lồng lộng vắt ngang trời xanh dẫn về những làng quê cũng nhà tầng, cũng tường cao cửa kín, chưa kể nhiều nơi người ta đã lắp đặt những con mắt điện tử (camera) ma quái rình mò, giăng mắc ngày đêm, ta được đọc những câu thơ như giở lại những kỷ vật cũ càng: “Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng/ Lướt khướt trăng vàng rớt đáy sông” để được tiếc nuối những gì say đắm đã đi qua, chẳng thú vị sao! Có lẽ tác giả bài thơ là lứa tuổi người cuối cùng nhìn thấy “Vầng trăng say khướt rơi xuống đáy sông”. Bởi trong các nhà thơ hiện đại đã có người viết “Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất/ Trăng còn đây chỉ là bản phô tô”. Vẻ đẹp của tạo hóa lung linh huyền diệu lấp lánh trong thi ca muôn thuở, đã nhuộm thắm hồn người làm cho tình yêu trở nên bất tử mơ màng, bỗng bị thứ ánh sáng đèn màu với âm thanh thác loạn của những điệu nhạc cuồng si che phủ, mờ nhạt như một bản phô tô, một vầng trăng in giấy không hồn, bởi chính lòng người vô cảm trước những nhu cầu vật chất, của cải, tiện nghi chẳng biết sẽ còn đưa cuộc sống con người đi đến nơi nao? Người ta đã chế tạo được những “người Rô bốt” nhằm thay thế con người bằng xương thịt trong lao động tay chân, đã sản xuất được cả những máy tính có khả năng viết những bài thơ theo lập trình có sẵn… Liệu ngày nào đấy con người sẽ tìm ra thứ “tình yêu Rô bốt” mới chăng? Nói vậy để thấy vui vì hôm nay ta còn được đọc những câu thơ ngơ ngơ, ngẩn ngẩn vì tình của Đặng Xuân Xuyến viết cuối năm 2016:

Và đã khi nào mỏi mòn trông

Héo hắt than hoa lạc cuối dòng?

Có còn đứng đợi chờ trăng xuống

Mơ dạo cùng ai cõi phiêu bồng...?

Đôi lứa yêu nhau bây giờ chắc chẳng bao giờ dùng lại những câu thơ “Héo hắt than hoa lạc cuối dòng”. “Than hoa lạc…” là than thế nào? “Cõi phiêu bồng” là ở đâu? Khi những chiếc máy bay siêu tốc một giờ đã rẽ mây đi hàng nghìn cây số! Và những giấc mơ đã được dùng làm nghiệm chứng cho con số tính đề thua được, đỏ đen…Có được bài thơ gợi lại một tình yêu thủy chung, son sắt “chỉ lỡ một nhịp chèo mà thành xa cách…”, mà tháng năm cứ còn mãi bên lòng ngọn lửa không tàn phai đã là an ủi cho ai người vẫn còn khao khát thủy chung!

*.

Hà Nội, tháng 11 năm 2016

Nhà thơ HÀ NGUYÊN

Địa chỉ: 126 Nam Cao, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: kstoan12@gmail.com

 

CHUNG

- Tặng Quỳnh Hương -

 

Em có cần anh không?

Nếu cần anh hãy cùng anh chung sống

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười...

 

Đừng ngại em ời...

Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng...

 

Em sẽ là buồm căng

Anh sẽ là gió lộng

Thuyền trăng mình thơ mộng

Dập dìu giữa biển xanh

Em. Nào, về với anh!

*.

Hà Nội, trưa 25 tháng 04. 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đã lâu… tôi mới nghe được một thông điệp tình yêu - lời tỏ tình mộc mạc, giản đơn mà chân thành, vừa cổ điển vừa hiện đại. Lời tỏ tình từ tâm can, không ấp úng rụt rè vụng dại của tuổi trẻ mới vào đời, mà là lời tỏ tình của người đã trải qua những cung bậc thăng trầm trong tình ái, đã bước vào ngôi đền tình yêu thắp nén tâm hương của lòng mình và nghe được thần ái tình mách bảo lẽ hằng thường vĩnh cửu - bền vững của tình yêu. Tiếng nói của thần ái tình thường thì thầm trong lòng con người, nhưng không phải ai cũng nghe rõ. Hình như trời cho trái tim thơ của Đặng Xuân Xuyến nghe được tiếng nói tâm linh.

Trong kinh dịch quẻ Hàm là đạo vợ chồng - tiếp nối đến quẻ Hằng là đạo dài lâu. Sự dài lâu nào cũng có nguyên lý của nó như nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống con người. Như khí trời, không có khí trời thì vạn vật và con người không thể tồn tại và con người cũng cần tình yêu như khí trời vậy, “Đến sỏi đá cũng cần có nhau” thì con người sinh ra trong trời đất không có tình yêu và tình vợ chồng chẳng có lỗi với tạo hóa lắm sao!

 Em có cần anh không”, một câu hỏi tưởng giản đơn bình thường nhưng đầy nội lực, không trải qua những thao thức với tình yêu, không hiểu thấu nguồn cội của tình yêu, đặc biệt là tình yêu vợ chồng là sự hằng thường lâu dài không thể tỏ tình từ tâm can như vậy. Chữ “cần” vừa mang sức nặng của câu thơ, vừa là ngọn lửa minh bạch và chân thành thắp sáng trong ngôi đền tình yêu của mọi lứa đôi trong cõi đời này. Thiếu sự “cần” ấy mọi cuộc tình sẽ thành tẻ nhạt. Ngược lý của cần là không cần, ôi không cần nhau thì đâu còn là tình yêu nữa.

 Em có cần anh không”. Cần là một nhu cầu như nhu cầu hít thở để bảo toàn sự sống con người, và con người không có tình yêu như trái đất thiếu mặt trời là điều tất nhiên. Nhưng câu hỏi này đối tượng được hỏi phải là người nào? Mới gặp nhau, mới biết nhau mà hỏi như vậy thật là vô duyên. Đặng Xuân Xuyến tặng bài thơ này cho Quỳnh Hương có nghĩa là 2 người đã hiểu nhau, biết nhau lâu rồi. Quỳnh Hương đã là không khí trong lành trong lồng ngực nồng nàn của nhà thơ hít thơ, nàng đã là bài thơ mà Đặng Xuân Xuyến là tác giả. Cũng có trường hợp 1 bóng hồng lướt qua đã rung động cho thi nhân làm thơ tặng, nhưng tôi dám chắc rằng không có nhà thơ nào dám cả gan hỏi “Em có cần anh không” như Đặng Xuân Xuyến.

Sau câu hỏi “Em có cần anh không” thì câu thứ 2 sinh ra là lẽ tất nhiên “Nếu cần hãy cùng anh chung sống”. Lòng thành của nhà thơ cụ thể hơn, tính mục đích rõ ràng minh bạch hơn, câu thơ như ánh nắng hồi hộp thở trong hoa, ánh mắt của nhà thơ đang ngước lên thành kính đợi chờ vị thần tình ái của lòng mình. Sự chân thành như sóng đã dâng lên là hối hả vỗ bờ, và mọi sự chân thực đều ngắn gọn và rõ ràng:

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười

Lời tỏ tình đến đây tưởng như đã đủ, nhưng với tình yêu đặc biệt là tình yêu chân thành thì nói biết bao nhiêu cho vừa. Xuân Diệu:

Đã hôn rồi

Hôn lại

Hôn mãi mãi muôn đời

Anh mới thôi dào dạt

Đặng Xuân Xuyến là nhà thơ hậu sinh cái gen đa tình bay bổng của thơ đã nhiễm với gen đời. Anh vẫn tỏ tình với ngôn ngữ mộc mạc:

Đừng ngại em ời

Giường nhà anh đủ dài đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm đủ nồng

Câu thơ gọi hồn những trang cổ tích, cho người đọc trôi ngược về cội nguồn nề nếp cha ông, nhưng cũng rất hiện đại trong cuộc sống hôm nay. Chữ “đủ” là linh hồn của câu thơ, đủ có nghĩa là không thừa không thiếu, đủ mang hồn của triết học phương đông, kín đáo nói với người tình của mình và cho tất cả những lứa đôi, những cặp vợ chồng và cả chúng ta: mọi sự ở đời này hãy tự cho là đủ - thì sẽ đủ. Tôi nghe thấy tiếng Lão Tử cười thầm và tay khẽ vuốt râu - Đạo đã thành thơ.

Cái đẹp của thơ Đặng Xuân Xuyến là sự mộc mạc vì hồn cốt của anh mộc mạc. Nhưng cái mộc mạc của chàng trai quê Hưng Yên đã già nửa đời ra đi dan díu với kinh thành, nên vẻ đẹp mộc mạc mang một vẻ đẹp khác. Sau những điều cụ thể của sự “cần” có anh không, của gạo chung nồi, chăn chung, gối chung của căn nhà đủ dài đủ rộng, sự mộc mạc của thơ bay lên với tất cả nỗi lòng:

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng.

 Khêu ngọn lửa hồng ý tưởng của câu thơ mang nỗi lo xa, cẩn thận gìn giữ tình yêu, ngọn lửa tình yêu khêu lên, thắp sáng không chỉ một đêm nay, đêm mai mà sáng cả một đời. Câu quan họ không chỉ hát trong đêm nay mà “Ta nối câu quan họ” nối dài mãi ngân vang mãi trong cả đời. Chữ “khêu” và chữ “nối” đọc lướt qua sẽ không thấy nỗi lòng của nhà thơ.

Từ bệ phóng của đời sống, của lòng chân thành hồn thơ bay lên, tình yêu ảo diệu lung linh Ta bện mây với gió/ Kết thành thuyền chơi trăng. Bàn tay của ái tình thật kỳ diệu “Bện mây với gió”, chủ thể và khách thể giao hòa - anh với em là một. Anh không nhớ anh là mây hay là gió, em không nhớ em là gió hay là mây. Như Liệt Tử nói: “Ta cưỡi gió hay gió cưỡi ta”, gió và mây quện vào nhau kết thành con thuyền chơi trăng, và con thuyền chơi trăng ấy vừa có, vừa không mang sắc màu huyền bi đạo phật. Bơi trong cuộc sống vĩnh hằng. Đọc đến đây mới thấm thía chữ “cần”. Mây cần có gió, gió cần có mây để hóa con thuyền chơi trăng và vui sống trong cõi đời này.

Nếu là tôi, tôi sẽ dừng bài thơ ở đây. Nhưng nhà thơ đang yêu, đang say nên dù đã qua sự tột đỉnh thăng hoa, nhưng tình yêu hoàn nguyên cho anh sức khỏe, vẫn yêu tiếp:

Em sẽ là buồm căng

Anh sẽ là gió lộng

Thuyền trăng mình thơ mộng

Dập dìu giữa biển xanh

Em, nào, về với anh.

Buồm căng và gió lộng là ý thơ không có gì mới, không say lòng người bằng “Bện mây với gió”, “Thuyền trăng mình thơ mộng/ Dập dìu giữa biển xanh” tưởng là hình ảnh đẹp của thơ nhưng đã thiếu lửa, không cháy như sự đam mê quấn bện vào nhau như mây gió.

Thế mới biết làm thơ cực khó, thêm một chữ thì thừa, bớt một câu thì thiếu. Ngoài sự xúc động thực, vốn đời cần có tư tưởng và câu chữ bầu lên nhà thơ.

Ở bài thơ này một số chữ tôi đã phân tích ở trên đã bầu lên nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.

Câu kết: “Em, nào, về với anh”. Một câu nói thừa nhưng lòng tôi hình dung hình ảnh bàn tay nắm bàn tay, đôi tình nhân cùng nhau tung tăng bước vào ngôi nhà hạnh phúc. Tôi thầm cầu trời sự hình dung mong đợi của tôi và của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thành sự thật.

*.

NGUYỄN THANH LÂM

Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: thanhlam.tho@gmail.com

 

ĐÔI LỜI GÓP THÊM VỀ BÀI THƠ “CHUNG”

Nhân đọc bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN của nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Khôi tôi có đôi lời “góp thêm”.

Bài thơ có 2 câu HAY nhất, đó là "tứ" thơ - là rường cột của bài thơ:

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng

Một "tứ" thơ lạ, một sáng tạo độc đáo. Nó thơ mộng nhưng cũng thầm bảo: đằng sau cái thơ mộng là biển khổ cuộc đời đấy, có dám chung lưng đấu cật "Vượt biển" thì hãy về với anh?

Viết đến đây Nguyễn Khôi lại nhớ đến Trường ca "Khảm Hải" - Vượt Biển của Dân tộc Tày, Việt Bắc (thói quên nghề nghiệp của 1 đời ở và làm công tác Dân Tộc mà). Thật là sòng phẳng, nói trước cái khó khăn / có chấp nhận (chịu nổi) thì mới "Em, nào, về với anh"..., kẻo sau này lại:

Chồng gì anh 

Vợ gì tôi

Chẳng qua là cái

nợ đời của nhau...

 (Ca dao)

rồi lại chia tay như cuộc hôn nhân trước...

Chao ôi, thơ Tình là tiếng lòng, tiếng con tim thổn thức của tuổi trẻ, nhưng ở cái tuổi dở ông / dở thanh niên như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, thì đó là sự "hồi xuân" mà lửa lòng bưng bừng "khát" (thèm) một cuộc hôn nhân (già) như mộng? để có một bạn đời cùng chung một con thuyền tình để "vượt biển" qua nốt quãng đời còn lại trên thế gian này.

Nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm về cơ bản "bình" trong bài ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CHUNG” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN là đủ rồi, rất Hàn lâm...

Tuy nhiên, cái có vẻ "mộc mạc", “giản đơn” của Đặng Xuân Xuyến ở mấy câu thơ khổ đầu như dẫn dắt cô gái quê ngây thơ kia đi đến "ta bện..." thì không còn mộc mạc nữa mà là rất lãng mạn, kiểu lãng mạn của nhà thơ Xuân Diệu:

"Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

Để linh hồn ràng buộc với muôn dây 

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến..."

 (Cảm Xúc)

thì ở đây phải là một cô gái có tâm hồn đồng điệu mới kham nổi cái "tầm" yêu (khát vọng yêu của Đặng Xuân Xuyến) để thành một cặp đôi hoàn hảo khi kết thành thuyền Thơ...

HAY, HAY, HAY.

LẠ, LẠ, LẠ...

Đó là một cống hiến nhỏ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cho ngàn lẻ cái Thơ Tình xưa nay hiếm của “Chung” là thế chăng?!

Nguyễn Khôi gõ nhanh, có điêu gì bất cập xin được miễn thứ.

*.

Phố Hàn 3 giờ sáng 11-10-2016

NGUYỄN KHÔI

Địa chỉ: P12A05 nhà 17T, Hoàng Đạo Thúy, Hà Nội.

Email: khoidinhbang@gmail.com

 

HƠI THỞ NÚI RỪNG TRONG BÀI THƠ “CHUNG”

Cái chất giọng, hơi thở và cách tỏ tình của chàng trai trong bài thơ làm người đọc hình dung ra một vùng đồi núi trập trùng, hương rừng ngai ngái và chàng trai được ướp mình trong không gian đó nên lời nói cũng mộc mạc, rõ ràng như thuở bản thiện tính:

Em có cần anh không 

Nếu cần hãy cùng anh chung sống ...

Thế thôi! Đơn giản nhưng lại là lời cầu hôn đẹp nhất mà cũng “rừng rú” nhất và chắc chắn người phụ nữ kia không hề từ chối.

Gạo nấu chung nồi

Chăn trùm chung gối

Ta chia chung ánh mắt nụ cười.

Đến đây càng chắc chắn hơn: lời tỏ tình của một chàng trai thẳng thắn, bộc trực, chả màu mè nhưng tình lại vô cùng sâu đậm. 

Đừng ngại em ời...

Giường nhà anh đủ dài, đủ rộng

Chăn nhà anh đủ ấm, đủ nồng

Ta khêu ngọn lửa hồng

Ta nối câu quan họ

Ta bện mây với gió

Kết thành thuyền chơi trăng...

Cái thật thà đậm chất sơn cước nhưng cũng rất lãng mạn kiểu núi rừng của chàng trai (trong thơ) như thế, làm ta nhớ đến những câu thơ trong bài thơ Em Tắm của nhà thơ Cầm Vĩnh Ui (Bạc Văn Ùi):

 “Tay của em lấm lem

Tay của than của bụi

Tay của rừng của núi

Tay của đất của nương.

 Em tắm xong lại sạch

Vẫn ngát thơm hoa rừng

Da của em trắng ngần

Là của anh tất cả

Không phải người xa lạ

Việc gì mà trộm xem”

Cả bài thơ CHUNG là hơi thở của núi rừng, là cách thổ lộ tình cảm của chàng trai miền sơn cước: thẳng thắn, bộc trực mà sâu đậm. Đọc thơ, ta hình dung như thấy chàng trai đang mộc mạc tỏ tình với cô gái giữa đại ngàn lộng gió. Khó tìm thấy chất trai thành thị hay trai miền đồng bằng trong bài thơ này.

Thế đấy, tôi cứ bám mãi vào tâm tư đấy mà quả quyết người con trai Hà Thành Đặng Xuân Xuyến đã hoá mình thành chàng trai rừng núi, yêu cô miền núi, mới bị đồng hóa sâu đến thế . 

Toàn bài không có ý tưởng đặc biệt, cũng chẳng có từ hoa mỹ, lại càng không dùng thủ pháp nhưng khi đọc ta cũng thấy mình hổn hển theo lối nói gấp gáp, trần trụi, sơn cước để yêu hơn một con người.

Thật lạ là sao lại như vậy?

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

VÀI LỜI GÓP VUI KHI ĐỌC BÀI THƠ “CHUNG”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Anh chàng Đặng Xuân Xuyến nầy chắc là nhà thơ nên tán gái có nghệ thuật hơn anh chàng nông dân "Tát nước đầu đình" của ca dao Việt Nam.

Anh chàng nông dân tuy vào đề:

Hôm qua tát nước đầu đình

Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen

thì thật hay nhưng rồi đoạn sau chỉ hứa hẹn những sính lễ là vật chất bình thường như: "Một thúng xôi vò, một cơn lợn béo, một vò rượu tăm, đôi chiếu em nằm, đôi chăn em đắp ..." là những thứ không bày tỏ được tình yêu thắm thiết.

Anh chàng Đặng Xuân Xuyến thì khác.

Anh vào đề bằng một câu chắt cú:

Em có cần anh không?

để cô gái trợn mắt ngạc nhiên rồi Đặng Xuân Xuyến từ từ dìu cô vào một giấc mơ có đầy đủ vật chất và tinh thần.

Đầu tiên Đặng Xuân Xuyến chỉ mời "góp gạo chung nồi" thật là chơn chất như một lời đùa vui. Sau đó từng bước, từng bước Đặng Xuân Xuyến trổ tài siêu việt của nghệ thuật tỏ tình để đôi tai cô càng nghe càng đắm say trong viễn ảnh tương lai vừa đầy đủ vật chất vừa thơ mộng tâm hồn.

Lời tỏ tình của Đặng Xuân Xuyến từ chỗ bông lơn lúc ban đầu trở nên trang nghiêm dần dần, lũy tiến những lời kết ước nghiêm chỉnh, bày tỏ được tường tận cái chiều sâu của tâm hồn nghệ sĩ trong Đặng Xuân Xuyến để cô gái hiểu hoàn toàn về anh.

Những đoạn Đặng Xuân Xuyến đề cập đến quan họ, đến trăng, đến gió, đến thuyền tình là đoạn chính của lời tỏ tình, vì lúc đó Đặng Xuân Xuyến bộc lộ hết tất cả tính lảng mạn trong anh, những mơ ước mà anh ấp ủ trong tâm hồn cho một cuộc tình lớn trong đời anh. Lúc này cô gái chắc sẽ rất cảm động vì thấy được ở Đặng Xuân Xuyến một con người vẹn toàn khi lo từng chi tiết trong cuộc sống vật chất mà cũng không quên tô bồi tình yêu đó bằng những nguồn vui cao thượng.

Xin gởi vài lời góp ý cho vui vậy thôi./.

*.

Đà Nẵng, 22 tháng 10 năm 2016

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

RU CON

 

Con mỗi ngày mỗi lớn

Mình mỗi ngày mỗi già

Tóc thêm dày sợi bạc

Đêm trở mình nhiều hơn.

 

Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò

Ầu ơ... thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ.

 

Giận “người lớn” dạy hư

Khiến con thơ phải khổ

Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ

 

Con như búp non tơ

Cần đời cha bóng cả

Cha đã qua mùa hạ

Chở che con mấy mùa?

 

Ầu ơ... Ơi cái ngủ

Ngủ ngoan nào con yêu...

*.

Hà Nội, đêm 20 tháng 08 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thường thì người ta hay dùng lục bát để ầu ơ ru con, có mấy ai dám dùng thể thơ ngũ ngôn để ru con. Ấy thế mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã mang thể thơ ngũ ngôn âm dương cân đối, nhịp điệu hùng khí để ru con. Âu cũng là cái may, cái mạnh để nhà thơ diễn đạt cái tình của mình.

Bài thơ đi thẳng luôn vào vấn đề, không kể lể dài dòng, không trình bày nguyên nhân, đã dựng được một khung cảnh chân thật, cảm động:

Con mỗi ngày mỗi lớn

Mình mỗi ngày mỗi già

Tóc thêm dày sợi bạc

Đêm trở mình nhiều hơn.

Ngay ở khổ thơ đầu, đã khắc họa hình ảnh người cha với những đường nét đặc biệt: Đó là người cha độc thân, gánh cả thiên chức làm cha và làm mẹ. Đó là người cha cô đơn, đang cảm nhận sự già yếu của bản thân theo thời gian (tóc thêm dày sợi bạc) nên càng trăn trở, lo lắng cho tương lai của đứa con, khiến “Đêm trở mình nhiều hơn”.

Hình ảnh người cha “lặng nhìn con nằm ngủ” trong khung cảnh tĩnh lặng với trĩu nặng yêu thương ấy, tưởng yên bình mà lại hừng hực cái tâm biến động:

Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò

Ầu ơ... thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ.

Hành động Giấu nỗi buồn trong thơ” không phải là để trốn tránh hiện thực mà là giấu đi những nỗi buồn, để con thơ luôn được vui tươi trong sự chở che, bảo bọc của người cha.

Bài thơ đi tiếp với nhịp trầm trầm như tự sự:

Giận “người lớn” dạy hư

Khiến con thơ phải khổ

Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ

Không một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng trong thơ đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc động:  Con níu vào giấc ngủ

Kiếm nụ cười trong mơ.

Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.

Con như búp non tơ

Cần đời cha bóng cả

Cha đã qua mùa hạ

Chở che con mấy mùa?

Nhà thơ đã dùng thủ pháp so sánh đối tỉ để hiện lên khuôn mặt non tơ của con thơ bên gương mặt cương nghị và bóng dáng lồng lộng của người cha dẫu đã qua mùa hạ rực lửa vẫn vững vàng chở che cho đứa con bé bỏng của mình. Tôi hơi ngạc nhiên với dấu chấm hỏi “?” ở cuối khổ thơ này: “Chở che con mấy mùa?”. Phải chăng, vì sợ sức khỏe và tuổi già sẽ không thể che chở cho con đến khi con trưởng thành nên người cha mới nặng lòng đến thế? Theo tôi, giá cứ chấm than “!” có lẽ sẽ gợi cảm, tạo hồn thơ hơn.

Ầu ơ... Ơi cái ngủ

Ngủ ngoan nào con yêu...

Bài thơ dừng lại rất đúng lúc, đã khơi dòng mãn đạt tình cảm cha con, đã bừng sáng lên niềm tin vào tương lai tốt đẹp. Dù vậy, Ru con vẫn chưa thật sự là bài thơ hay, mới chỉ đạt ở mức khá được.

Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru con!

*

Hà Nội, ngày 17 tháng 04/2017

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn

huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Email: nguyendanghanh1234@gmail.com

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “RU CON” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Cái ru của người đàn ông khác lắm. Không ê a, khề khà, kể lể nên gọn gàng đủ ý.

Đàn ông ru con thì cứ thế mà ru, chả ai thèm để ý xem có đúng chủ trương, đường lối một cách ngớ ngẩn nữa.

Mình thích cách diễn giải của tác giả vì nó phóng khoáng, chân thật nhưng cũng rất thơ.

Khổ thật, khi đọc thơ lại phải xem quan điểm thế nào, viết có nhiều người thích không... để rồi mất mình, mất thơ, mất cái khoái thong dong khi nhắm thơ.

Đặng Xuân Xuyến đã tránh được điều đó nên rất thân thiện với người đọc và thơ cũng tự nhiên hay, chả cần thủ pháp, nguyên tắc, quan điểm gì cả.

...Lặng nhìn con nằm ngủ

Ngổn ngang mối tơ vò..

Đây là khoảnh khắc thú nhất và thật nhất của đời người. Ai không có những phút thế này thật thiệt thòi vì lúc này cảm xúc bề bộn, thiêng liêng và pha trộn nhiều lắm, tình bố con cũng lớn dần từ đây, người đọc thơ dễ bỏ qua tình tiết này nên thật phí.

Ầu ơ...thương cái ngủ

Giấu nỗi buồn trong thơ

Câu thơ này đã làm nên bài thơ mà mạch của nó tự nhiên như củ khoai hạt lúa.

Thương lắm cái ngủ, thương cả tiếng ầu ơ trầm buồn chậm rãi để giấu đi tâm trạng, lo lắng, sợ hãi khi nghĩ về tương lai của con mình.

Tình bố khác với tình mẹ, nó không ồn ào, phơi bầy vì nó quá sâu chứ không phải cơi đựng trầu... Lo lắm chứ bởi những thói hư tật xấu của cuộc đời lây lan sang con, di truyền sang con dù vô tình hay cố ý.

Người ta bảo thơ hay ở chỗ khi tác giả không định làm thơ thì mới hay được! Có lẽ đúng.

Con níu vào giấc ngủ

Cách biểu cảm thật hay. Trẻ con lớn lên trong giấc ngủ mà giấc ngủ đó rất cần:

Cần đời cha bóng cả

Chở che con mấy mùa...

Cám ơn Đặng Xuân Xuyến và cám ơn anh Nguyễn Đăng Hành đã cho mình có cơ hội tiếp xúc và cảm nhận được bài thơ.

*.

Thành Nam, 16 tháng 11/2019

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

CHIỀU LẠ

- Tặng L.L -

 

Sợ đêm về

quẩn gió

xáo xác khuya

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

Te tẻ chiều

nhớn nhác

nhón chân qua.

*.

Hà Nội, chiều 02 tháng 10.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

THẢO LUẬN BÀI THƠ “CHIỀU LẠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ có tiêu đề “Chiều lạ” nhưng qua mấy câu thơ ta không thấy buổi chiều có gì lạ. 

Bài thơ chỉ có một câu thơ đề cập đến chiều: “nắng chiều rơi trên lá”. Nắng chiều rơi trên lá là một chuyện bình thường trong mọi buổi chiều. Vậy buổi chiều lạ ở chỗ nào? Nó lạ vì chiều nay có chiếc “áo lạ”. Chiếc áo lạ làm cho buổi chiều thay đổi hẳn, hay đúng ra, chiếc áo lạ đã đánh động tâm hồn của người thơ làm cho dậy lên trong lòng thi sĩ sự băn khoăn đến độ nếu không nhìn được nó thì “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya”. 

Quẩn gió/ xáo xác khuya” chỉ là mượn cảnh để diễn tả cái tình xảy ra trong lòng, hay đúng hơn là diễn tả cái tâm trạng thao thức trong đêm của người muốn nhìn chiếc áo lạ. Chiếc áo đó dầu đẹp đến đâu cũng không khiến cho lòng người xao động đến thế. Sở dĩ lòng người xao động đến thế vì chiếc áo lạ nhưng người không lạ. Người không lạ vì người nếu không là hình bóng của kẻ mà nhà thơ say đắm thì cũng là người có sợi dây vô hình gắn bó, có tiền duyên từ một kiếp nào để đánh thức niềm đam mê, làm sống dậy khối tình đang ngủ từ trăm năm, từ ngàn năm trước chăng? 

Đọc bảy chữ đầu của bài thơ:

“Sợ đêm về

quẩn gió

xáo xác khuya”

thì ai cũng đặt trong đầu mình một dấu hỏi vì sao phải sợ như thế. Đọc đến các câu thơ kế tiếp cho ta một cảm giác thiết tha với tà áo vì tà áo trong thơ quan trọng quá, nó thoáng qua trong đôi mắt, nó mỏng manh nhưng nó đã làm cho “quẩn gió/ xáo xác khuya” là làm ảnh hưởng không gian, thời gian, thay đổi khí hậu hay đúng ra, nó dằn vặt một tâm hồn bình an để thấy vạn vật chung quanh đều chuyển đổi.

Hai câu thơ:

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

thật là khó hiểu. Tuy thế qua thơ ta cũng đoán được rằng “áo lạ” xuất hiện vào một buổi chiều tắt nắng. Trời chưa tối hẳn nhưng ánh nắng chỉ còn rơi lẻ loi trên lá, để cho tác giả phải “cố vét vớt” cái nắng chiều, tìm thêm ánh sáng mà nhìn cho rõ thêm tà áo lạ. Cái anh nắng “cố vét vớt” đó nó chênh chao. Vì sao nó chênh chao? Vì nó rơi trên lá, mà lá rung trong gió nên nó phải chênh chao. Lạ thay, thứ ánh nắng cố vét vớt đó tác giả lại cho “thể nụ cười” tức là như nụ cười, mà nụ cười ấy lại làm cho “nhòe áo lạ”. 

Ta biết thứ ánh nắng sót lại của buổi chiều nó vô cùng dịu mát, nó cũng làm cho cây cỏ được dát vàng, nghĩa là nó rất đẹp. Vậy thì trong bài thơ này nó đại diện cho nụ cười của người mặc chiếc áo. Chiếc áo lạ đã đẹp. Vậy mà nụ cười “như nắng chiều rơi trên lá chênh chao” làm nhòe chiếc áo lạ thì nụ cười ấy đẹp biết bao. Đọc thơ, người ta tưởng khoe chiếc “áo lạ” là đẹp nhất, nhưng không, chiếc áo lạ dầu đẹp cũng vô tri mà nụ cười mới mang linh hồn của người mặc áo. Nụ cười đẹp hơn chiếc áo. Té ra tác giả dùng chiếc áo lạ để tá khách nụ cười vào đó, tôn vinh nụ cười đến chỗ tuyệt mỹ khôn lường.

Và lạ lùng thay, ba câu thơ chót như bức màn nhung kéo xuống, kéo xuống để khán giả nhìn xuyên qua bức màn nhung thấy cả buổi chiều trở nên êm ái, để người đọc cảm khái cái im lìm của hoạt cảnh xảy ra:

Te tẻ chiều

nhớn nhác

nhón chân qua.

Ta hãy nhớ lại bài thơ Trăng của nhà thơ Xuân Diệu:

“Trong vườn đêm ấy trăng nhiều quá

Ánh sáng tuôn đầy cả lối đi

Tôi với người yêu qua nhè nhẹ

Im lìm, chẳng dám nói năng chi”.

Vì sao qua nhè nhẹ, vì sao im lìm? Nhà thơ Xuân Diệu nói vì: “Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang/ Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá / và làm sai lỡ nhịp trăng đang

Ở đây nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế. “Te tẻ chiều” là buổi chiều bình an quá, thơ mộng chẳng khác gì trăng trong vườn nhiều quá, trăng đầy cả lối đi. “Nhớn nhác/ nhón chân qua” vì muôn giữ sự yên tịnh của một buổi chiều, vì muốn hình bóng tuyệt vời của tà áo lạ không biến đi, vì muốn giữ nụ cười thơ mộng như giọt nắng chênh chao trên lá cho của riêng mình không tan ra bởi biến động nào, nhà thơ đành nhẹ chân trong im lìm nhón gót theo em.

Bài thơ ngắn diễn tả chỉ một hành động nhưng cho ta một chiếc áo quá đẹp, một nụ cười quá đẹp, một khung trời quá đẹp, quá bình yên, quá thơ mộng và một giấc mơ mang hình ảnh tuyệt vời của một buổi chiều rất quen mà dường như rất lạ vì cảm nhận được những điều tinh tế trong thơ./. 

*.

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

MỘT CÁI NHÓN CHÂN... THẬT LẠ

Sợ đêm về quẩn gió, xáo xác khuya! 

Cái lo thường tình của người đa cảm, thi tâm; bởi trong sự cô tịch, vắng vẻ của màn đêm người ta hay hoài niệm, mơ hồ và lòng trắc ẩn được giấu kín ban ngày thì đêm về dễ òa ra, trào dâng một cách khó kiểm soát. 

Chính bởi lẽ ấy mà tác giả chín hơn, khôn hơn, rón rén mà: “nhón chân” qua cái “te tẻ chiều”! 

Mặc dù vậy nhưng tâm nào có an, vẫn bị cái điều mơ hồ, không thể đặt tên kia làm cho tâm trạng: nhớn nhác

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá 

Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

Kiểu tâm trạng: “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”! (Xuân Diệu) Cố gắng vơ vét, nhọc nhằn những điều đáng có nhất để làm gì? Không biết! Có được rồi thì đặt vào đâu? Không biết nốt. Vì tất cả đều mơ hồ, mặc định và ước lệ như: “nụ cười nhòe” trên “áo lạ”! 

Tác giả tránh đêm nhưng lại vướng ngày, vướng cái hoàng hôn đầy trắc ẩn, trầm trầm với vài giọt nắng cuối cùng rơi trên lá... thì tâm trạng cũng “nguy hiểm” không kém mấy ban đêm. Chính vì vậy mà nhà thơ phải “nhớn nhác” để “nhón chân qua” cái chiều “te tẻ”. 

Bài thơ hay ở chỗ dùng từ, đọc lên người đọc cũng chuếnh choáng, nhớn nhác theo: xáo xác, vét vớt, chênh chao, te tẻ, nhớn nhác là những cặp từ được đặt đúng chỗ, hợp với tâm cảnh, hồn người nên cứ thấy hay.

Điều đặc biệt là bài thơ không thể chỉnh sửa, sắp xếp lại cấu trúc câu từ vì ý đủ, lời chỉnh, từ cô đọng.

Đặc biệt hơn là cả bài không có đại từ nhân xưng nên đọc lên ai cũng thấy mình trong đó và đó chính là thủ pháp "hỏa mù" chả ai “bắt đền”, “kiện cáo”, “cấu véo” được của tác giả...

Ồ! Mà lạ chưa: tâm động qua một cái nhón chân thi vị.

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

CHẤP CHỚI

 

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

 

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

 

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

*

Làng Đá, 21 tháng 04.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“CHẤP CHỚI” - MỘT BÀI THƠ LẠ VỀ CẤU TỨ

Phải nói thẳng Chấp Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình. Thế nhưng, tôi lại thích bài thơ này bởi lối viết hiện đại và cái khác lạ về cấu tứ của bài thơ.

Mới làm thơ được vài năm nhưng thơ của Đặng Xuân Xuyến đã tạo được nét riêng, thường ngắn gọn, súc tích, tiết tấu nhanh, tứ thơ mới, khẩu khí mạnh, ngôn ngữ giàu hình ảnh so sánh và dễ cảm, nhất là ở thể thơ tự do. Thế nhưng ở bài thơ này những nét đặc trưng đó hầu như đã biến mất, thay vào đó là sự khác lạ, hư hư ảo ảo, khó hiểu.

Ta thử thưởng thức Chấp Chới như cách vẫn thường cảm thơ.

Khổ thơ thứ nhất:

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

Mở đầu khổ thơ, tác giả bâng quơ kể: “Có người líu ríu theo chồng”, sang câu 2, câu 3, rồi đến câu 4, vẫn tiếp dòng tự thán, tự kể, rất bâng quơ... tuy vậy, tác giả cũng vẽ nên một bức tranh đẹp, với những hình ảnh gợi cảm và giàu nhạc điệu. Hình ảnh người con gái “líu ríu”, “buông lơi lời hát”, bỏ lại “ngày xuân ngăn ngắt” vội sớm lấy chồng được phác họa với tiết tấu nhanh, thái độ bâng quơ, và sự không rõ ràng về đại từ nhân xưng khiến người đọc tuy “cảm” được thơ nhưng không hiểu được cấu tứ thơ nên chưa thật sự “khoái”, chưa thật sự “thích”.

Sang khổ thứ 2:

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

Vẫn là những lời bâng quơ, tự thán, tự kể về mối tình trai gái, không đẩy cảm xúc thành cao trào, cứ hờ hững, trôi xuôi mà cũng chẳng mấy ăn nhập với tâm trạng ở khổ thơ đầu. Tiết tấu thơ chậm, dàn trải, không rõ đại từ nhân xưng, dẫu khiến tâm trạng người đọc bảng lảng, buồn mang mác đấy nhưng vẫn “không khoái”, “không thích” vì khó “bắt” tứ thơ.

Sang khổ 3, khổ kết của bài:

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

Nhịp thơ trầm, lắng, cảm xúc dâng trào, được đẩy lên với sự thúc giục, thảng thốt, của nghẹn ngào nước mắt, của “chấp chới cánh diều” giữa “trời mưa” nặng hạt, “gió gằn”... nhưng người đọc vẫn khó “nắm” được tứ thơ dù khổ 3 có cái kết như một triết lý sống, như một mệnh đề để kết thúc bài thơ như vẫn thường thấy. Đến đây, dù đã đọc xong bài thơ, vẫn thấy mơ hồ, vẫn chưa thể nhận rõ ra “ai” với “ai” và tác giả “gửi gắm” những gì ở bài thơ này. Vì thế, bài thơ tạo cảm giác hư hư ảo ảo, lâng lâng, khó hiểu.

Mới đọc, dễ có cảm giác Chấp Chới như được ghép thành từ 3 bài thơ, với 3 cách nhìn ở 3 tâm trạng khác nhau, không có sự liên kết hoặc sự liên kết lỏng lẻo vì khó “bắt” được tứ thơ. Người không tinh sẽ bảo bài thơ bị tản vì tứ thơ bảng lảng như sương mù, không (có) rõ, thậm chí nếu khó tính còn hạ bút phê là thơ viết vội, không có tứ, nhưng thực ra bài thơ này viết theo lối mới, hiện đại: dùng tâm trạng và nhạc điệu để vẽ lên tứ thơ (tứ kín) nên tứ tập trung vào từng khổ thơ, tứ chỉ để phục vụ cái tâm trạng của nhà thơ, của người đàn ông đang đau khổ trước sự đổ vỡ của tình yêu đôi lứa. Đây là cách viết táo bạo, hơi liều, bởi nếu viết không khéo sẽ dễ bị “cảm” là viết ẩu, viết không tới. Là cây bút mới (về thơ), không nên dại dột thử sức như thế này, cho dù như anh tâm sự trên trang facebook là “mượn thơ chỉ để giãi bày tâm sự”.

Tóm lại, Chấp Chới là bài thơ có tâm trạng, có hình tượng, có nhạc điệu, chuyển cấu tứ rất nhanh nhưng đọc Chấp Chới phải thật tĩnh tâm, nhắm mắt để thả hồn theo ý thơ, nương theo mạch thơ thì mới cảm được hồn thơ. Nếu đọc Chấp Chới theo lối truyền thống, có vào đề, đến nội dung, rồi kết thúc như xưa nay thì khó “cảm” được “hồn cốt” bài thơ này.

Vài lời cảm nhận cá nhân khi đọc bài thơ Chấp Chới, có gì bất cập mong được bạn đọc, nhất là các nhà thơ, nhà phê bình văn học chiếu cố, đại xá cho kẻ hậu sinh “múa rìu qua mắt thợ”.

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

ĐỌC “CHẤP CHỚI”, THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

Dầu tác giả Đỗ Anh Tuyến đã viết một bài bình cho bài thơ này và nhận xét “Chấp Chới chưa phải là một bài thơ hay, mà chỉ là một bài thơ khá, trên mức trung bình thì tôi vẫn đánh giá nó là một bài thơ hay vì nó đã là “một bài thơ khá, trên mức trung bình” thì phải là một bài thơ hay rồi. Tôi đã viết nhiều bài cảm nhận về thơ Đặng Xuân Xuyến nên tôi không muốn viết nữa về anh. Thế nhưng đọc “Chấp Chới” xong thì  trí óc tôi cứ ngứa ngáy như thơ anh có chất gì gây ngứa cho tôi. Ngứa thì phải gãi, không gãi thì nó cứ ngứa. Vậy nên tôi phải viết. Đây là viết cho tôi, như mình tự gãi cho đã ngứa mình, chớ không phải viết cho nhà thơ chút nào.

Khổ thơ thứ nhất vào đề cho ta liên tưởng đến hình ảnh xa xưa của cái thời hát dân ca thịnh hành ở các miền quê Bắc bộ.

Có người líu ríu theo chồng

Buông lơi lời hát

Bỏ ngày xuân ngăn ngắt

Thúc nhịp trống dồn...

Các cụm từ “líu ríu theo chồng” cho ta nghĩ đến một đám cưới ép duyên.

Rồi các câu thơ “Buông lơi câu hát/ Bỏ ngày xuân ngăn ngắt/ Thúc nhịp trống dồn” khiến ta liên nghĩ đến vô vàn hội hè, đình đám gọi là “văn hoá phi vật thể” của cái thời mà nông thôn còn nguyên bản sắc của nó. Ngày nay, các hội hè đó được lập lại một cách giả tạo mà nếu đưa vào thơ thì nó trở thành nhạt nhẽo cho thơ. Vậy nên đọc bốn câu thơ trên ta phải nghĩ về quá khứ thì mới thấy rung động bởi vàng son của một thời và bởi niềm đau của người phụ nữ trong thời lạc hậu xa xưa mà ngày nay rất ít xảy ra.

Vậy khổ thơ hay chổ nào?

Hay ở chỗ nói cụt ngủn mà lại diễn đạt tràn lan. Ta đọc thơ, hiểu được tính cách cô gái, thấy được làng quê yên bình, cảm nhận được dáng dấp cô gái bị ép theo chồng, và tất cả tâm hồn ta như đứng giữa cái khung cảnh yêu thương, gắn bó, cộng với nỗi buồn điểm xuyết, làm cho thi vị trong tâm hồn được thắm thiết thêm.

Vế thơ thứ hai diễn tả cái gì?

- Thất tình và đi tìm kỷ niệm:

Se sắt buồn

Ơi người “xe chỉ luồn kim”

Ơi người nhớn nhác đi tìm

Đầu ghềnh cuối bãi

Lời xưa có còn mê mải...

 Người “xe chỉ luồn kim” là người vợ. Câu thơ cho ta biết cô gái “líu ríu theo chồng” đã thành người “xe chỉ luồn kim” cũng buồn “se sắt”. Còn người ở lại thì lang thang “Đầu ghềnh cuối bãi” và mê mải trong tâm đi tìm kỷ niệm của quá khứ.

Khổ thơ với những vần thơ có thể gọi là “cà dựt”, “cà dựt”, nghĩa là nó ngắt khúc từng ý thơ và tứ thơ không dính dáng gì nhau, nhưng chính cái “cà dựt” đó làm cho tiếng thơ trở nên dập dồn, kích thích người đọc, làm căng thẳng cảm xúc và trọn vẹn gói vào đó niềm đau của đôi trai gái thất tình.

Qua khổ thơ thứ ba tác gỉả Đặng Xuân Xuyến dùng từ ngữ như những nhát búa đập liên tục vào điểm yếu của con tim, làm cho đau đớn, làm cho rỉ máu, làm cho nghẹn ngào, uất ức:

Tìm ai...

Kìa ai...

Lừng chừng câu hát

Gió gằn ràn rạt

Trời mưa...

Chấp chới cánh diều.

Cuối cùng, tác giả dùng câu thơ “Chấp chới cánh diều” để hình tượng cho bài thơ “Chấp Chới” của mình. Đó là một kết luận tuyệt hảo diễn đạt toàn bộ sự chao đảo, nỗi cô đơn và vẻ đẹp lung linh của mối tình như cánh diều chấp chới giữa bầu trời.

 Chấp chới” là một bài thơ vô cùng “chấp chới”. Nó đúng như là cánh diều vút lên rồi chao lượn trên nền trời. Nó làm người xem cứ ồ lên tán thán vì nhìn đã con mắt, bởi chính “Chấp chới” là một “cánh diều” vừa lạ lại vừa lả lướt tung hoành trên bầu trời, đem lại cảm giác mãn nhãn cho người xem ./.

*

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

MỘT TÔI

(tặng cháu Đặng Hải)

 

Một chai

Một chén

Một tôi thôi

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

*.

Hà Nội, 22 tháng 11.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“MỘT TÔI” - CUỘC ĐỘC ẨM  NHIỀU CẢM XÚC

Trước hết là bài “Một tôi” với lời đề tặng cháu Đặng Hải. Bài thơ chỉ có 6 câu nhưng cả 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”:

Một chai

Một chén

Một tôi thôi

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

Chai rượu chỉ có một, chén rượu cũng chỉ có môt. Chai rượu có một thì không nói làm gì vì có thể không là chai bé mà là chai vừa hay chai to đong đầy rượu để uống. Nhưng chén rượu chỉ có một thì lại khác. Bởi lẽ bộ chén uống rượu thường với 4 chiếc, 8 chiếc hay 12 chiếc hoặc nhiều hơn, nhưng đều là số chẵn vì người Á Đông vốn kỵ số lẻ, không đủ đôi đủ cặp. Câu thơ “Một chén” vì người uống rượu không có ai khác ngoài “Một tôi thôi”. Độc ẩm, uống rượu một mình. Đã cô đơn như thế, bối cảnh không gian và thời gian lại là:

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Một đêm, một làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé.

Thi nhân đã cô đơn lại thêm làn gió cũng cô đơn và cái chỗ ngồi cũng lẻ loi nên không khí bao quanh lạnh lùng là không thể khác.

Vì vậy, nhà thơ muốn tìm một ai đó để uống cùng nhưng buồn thay lại chỉ là:

Một bàn tay lạnh quờ vai lạnh       

Bàn tay của mình quờ tìm lên vai của mình bởi có ai đâu ngoài một chai, một chén, một mình tôi. Bàn tay lạnh và bờ vai cũng lạnh làm bật lên: 

Một tiếng thở dài tôi với tôi!

Tôi với tôi, không có ai chia sẻ.

Bài thơ ngắn mà giàu cảm xúc. Ngoài lối điệp liên tiếp tiếng một ở đầu câu toàn bài thơ, tác giả còn khéo dùng các câu thơ dài dần từ 2 tiếng đến 3 tiếng trong ba câu đầu diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã. Nhà thơ không nói thêm gì ngoài 6 câu thơ nhưng người đọc đều hiểu, còn hai câu nữa, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình nhưng Đặng Xuân Xuyến không viết ra bởi thi hào dân tộc Nguyễn Du đã nói hộ nàng Kiều từ 200 năm trước:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“MỘT TÔI” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Người ta thường nói những gì nghĩ ra trong lúc say, nói trong lúc say là những gì chân thật nhất. Đó cũng là lúc mà những bài thơ mà chính tác giả khi say viết hoặc khi tức cảnh sinh tình viết ra nói lên biết bao tâm trạng của kẻ say rượu hay nói đúng hơn là say tình.

Khi nói về thơ về rượu với những cảm xúc buồn của chính tác giả, chiêm nghiệm về nỗi buồn nhân thế thì đều thấm đẫm nhân tình thế thái. Người ta thường nói thưởng trà không nên quá 3 người vì sẽ không cảm nhận được cái ngon của trà, cái hay của câu chuyện người nói. Còn thưởng rượu thì cần phải từ 4 người trở lên thì cuộc vui mới dài mới lâu. Thế nhưng, có những cuộc rượu “độc ẩm” một mình của nhà thơ. Ấy thế mà say, mà đau mà buồn mà tràn đầy cảm xúc xuyến xang khó có thể “tỉnh”ngay được.

Nếu bạn đang yêu, đã yêu hoặc trải qua một cuộc tình dang dở hay đơn giản đang buồn vì “không hiểu vì sao tôi buồn” thì hãy cùng Duy Quang hòa mình trong những áng thơ của nhà văn Đặng Xuân Xuyến dưới đây nhé. Mỗi bài thơ của ông đều để lại cảm xúc chân thật nhất, đảm bảo sẽ nói lên được tâm trạng của chính bạn.

Cả bài thơ chỉ có 6 câu đều bắt đầu bằng từ “Một”. Như vậy cũng đủ để thấy cái cô đơn hiu quạnh của thi sĩ khi chỉ có chén rượu làm bạn mà thôi. Một chai rượu này có to hay nhỏ thì cũng có quan trọng gì. Quan trọng là chỉ có một chén kia. Người uống rượu thật chẳng biết tâm sự cùng ai. Nhất là nó lại trong một không gian không thể hiu quạnh hơn:

Một đêm gió quẩn chỗ tôi ngồi

Cái đêm lạnh ấy, làn gió cứ mãi chuyển quanh một điểm, một phạm vi hẹp là cái chỗ tôi ngồi nhỏ bé. Thi nhân thì cô đơn đến làn gió cũng cô đơn không kém. Tác giả thật tinh tế khi đã nhân hóa cơn gió như một con người đến làm bạn với mình vậy. Nhưng vẫn không thể nói hết được cái buồn nơi đây. Không có ai sẻ chia, chính bàn tay lạnh cóng của mình quờ lên vai của chính mình, buông một tiếng thở dài trong đêm cô đơn.

Bài thơ thật đặc biệt. Ngắn gọn và súc tích với nghệ thuật điệp lại từ “Một” ở mỗi đầu câu. Các câu thơ liên tiếp nhau từ 2 tiếng đến 3 tiếng diễn tả sự cô đơn rồi chuyển sang 3 câu 7 tiếng để kết thúc bằng một hơi thở dài buồn bã.

Khi đọc những vần thơ của Đặng Xuân Xuyến, Duy Quang bất giác lại nhớ đến tâm trạng nàng Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du hơn 200 năm trước:

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Giật mình mình lại thương mình xót xa.

Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng xót xa, bẽ bàng cho thân phận của mình mà Đặng Xuân Xuyến không nói ra?!

--------------

 (Trích từ “Chùm thơ về rượu hay nhất, cảm xúc, tâm trạng” của Nguyễn Duy Quang)

*

NGUYỄN DUY QUANG

Địa chỉ: Số 254 Nguyễn Đình Chiểu

Phường 6, Quận 3, thành phố Sài Gòn.

Email: kenhsntv.vn@gmail.com

 

QUÊ NGHÈO

 

Quê tôi nghèo lắm

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

 

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

 

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

 

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...

*.

Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Là người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:

Vẫn lác đác nhà tranh

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…

Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác.

Nhìn từ bên ngoài:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài…

Chiếc cổng làng thành:

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ!

Còn đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:

Quê tôi nghèo lắm

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù đọng ấy cũng đâu yên ổn:

Nơm nớp âu lo

Đời như chiếu bạc

Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết thế nào.

Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.

Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:

Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn mẹt ngô

Í ới mời chào…

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi

Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở.

Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú...

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” - NGHÈO ĐẾN XÓT XA CÕI LÒNG

Hơn 60 năm trước, khi trọ học ở Hà Nội, tôi thường được ông chủ nhà cho cùng ông nghe buổi phát thanh ca nhạc của Đài phát thanh Pháp Á. Vì vậy, dần dà, tôi đã thuộc được lời và âm điệu của những bài ca mà tôi yêu thích, trong đó có bài “Quê  nghèo” của Phạm Duy mà tôi có cảm giác như cái quê nghèo trong bản nhạc ấy cũng chính là quê mình, cũng “không xa kinh kỳ sáng chói”, cũng “có lũy tre còm tả tơi”…

Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vĩnh viễn không còn được nghe đài Pháp Á nữa, không phải vì không còn trọ học mà vì dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi. Những bản nhạc bấy lâu đã thuộc trôi dần vào lãng quên trước nỗi vất vả kiếm sống của một thời trai trẻ cùng sự cấm đoán hát những bản nhạc ấy. Lại thêm khắp các làng quê được khơi dậy phong trào hợp tác xã, lòng người phơi phới hát vang lời ca "Dân có ruộng dập dìu hợp tác/ Lúa mượt đồng ấm áp làng quê/ Chiêm mùa cờ đỏ ven đê...". Vì thế hai tiếng “Quê nghèo” cũng  lặn mất tăm trong tâm trí của tôi.

Ai hay, hôm nay hai tiếng “Quê nghèo” lại hiện lên rõ nét trước mắt tôi. Không phải là nhạc phẩm “Quê nghèo” một thời vang bóng của nhạc sĩ Phạm Duy mà là bài thơ “Quê nghèo” còn như mới tinh nét chữ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!

Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:

Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:

Vẫn lác đác nhà tranh    

Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt

Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi được qua năm tháng.

Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh  thì phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạ t/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát” thì không dễ gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:  

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ

Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:

Tuổi thơ tôi đói ngủ

Thương cánh cò bấu bíu lời ru.

Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay la/ bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…

Bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến hôm nay nhắc tôi nhớ lại bản nhạc Quê nghèo từ năm 1948 của Phạm Duy với những cảnh mà từng ấy năm đã qua không một ai có thể vẽ lên hình ảnh môt quê nghèo tuyệt vời đến vậy: lũy tre còm tả tơi, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy... Rồi là một tiếng kêu thống thiết:

Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai

Hiu hắt tiếng bà mẹ cười

Vui vì nồi cơm ngô đầy

Nhưng trong tiếng kêu thống thiết ấy vẫn còn có  niềm vui là nồi cơm độn đầy ngô. Người mẹ trẻ nghèo khó dẫu cũng thở dài nhưng trẻ thơ vẫn được đi vào giấc ngủ bằng sự vỗ về yêu thương của mẹ:

Có tiếng o nghèo thở dài

Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no, hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh, là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.  

Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ làng:

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi  

Mẹt sắn, mẹt ngô

Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…

Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước: Muốn cho gần chợ mà chơi / Gần sông tắm mát, gần nơi đi về

Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo ọt” với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên chợ đang tàn tạ không còn chút sự sống:

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài  lũ trẻ:

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Nhìn lũ trẻ Quê nghèo trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bỗng dưng tôi nghe văng vẳng tiếng hát trẻ trung trong câu ca dao: Gió đưa gió đẩy… về rẫy ăn còng / Về sông ăn cá, về đồng ăn cua…  

Rồi lại ùa về thêm trong tôi những lời kể của nhà văn Tô Hoài: cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế. Bắt châu chấu bán cho người chơi chim họa mi. Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt, rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến vẫn còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mỏng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc..."  (trích Chiều chiều).

Bây giờ đâu còn dễ kiếm được con còng, con cá, con cua đồng, đâu còn bắt được châu chấu, chuột đồng, rắn ráo, rắn nước rắn mòng, đâu còn hái được quả sấu quả nhót nơi quê nhà…nên lũ trẻ mới ra cái hình hài, cá mắm mốc meo đáng thương kia.

Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành mạnh mà trong họ chỉ có:

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:

con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình

Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu?

Hãy nghe nhà thơ cắt nghĩa:

Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Và giờ đây cộng thêm:

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?

Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại, đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:

Ngày nay dù ở nơi xa

Nhưng khi về đến cây đa đầu làng

Thì bao nhiêu cảnh mơ màng

Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre 

                                 (Bàng Bá Lân)

Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:

Sừng sững bê tông cốt thép

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai

Và chính vì thế, người ta đâu biết:

Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:

Nghèo cả giấc mơ         

Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ! 

Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo.

 *

Sài Gòn 17 tháng 06/2016

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

“QUÊ NGHÈO” -  XÓT XA NHỮNG TIẾNG LÒNG

Ngoài kia Ngâu đang rả rích. Trong này, tôi cũng đang lặn lội “về” với Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến! 

Mà cũng lạ, cái quê này ở đâu vậy nhỉ? Cố tìm một địa danh mà chẳng thấy. Thì ra ai đọc Quê Nghèo cũng liên tưởng đến quê mình... củ khoai hạt lúa, chân chất mộc mạc, xa thương gần lại càng thương. 

Tác giả đã nói hộ mọi người:

Quê tôi nghèo lắm

(…)

Cha cả đời lam lũ

Mẹ một đời chắt chiu ...

Đọc hai câu thơ này giống như vế đối, lặp từ ĐỜI càng làm nặng thêm cái vất vả của bậc sinh thành. Tác giả có thể thay: cha suốt ngày lam lũ ... để tránh lặp từ nhưng may quá tác giả đã không làm như vậy! Đọc đến đây làm chúng con thấy chua xót mà cũng lăn tăn về trách nhiệm của mình nhưng có ngờ đâu đó là định mệnh mà xã hội làm chưa trọn!

Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ ...

Trời ạ, khi đói chả ai ngủ được, họ nằm trằn trọc, ước ao có được củ khoai, miếng sắn để quên đi bụng réo cồn cào... một lối tư duy rất thơ mà rất thực, cái đói cứ len vào giấc ngủ mà không làm gì được vì biết chắc chắn nhà mình chẳng còn gì cả, càng cố quên đi nó càng luồn lách, len lỏi vào tận... dạ dày! Chả còn gì để mà tự an ủi nữa, đến: Cánh cò (còn phải) bấu bíu lời ru!

Câu thơ đến đây làm nghẹn lòng người đọc, thương cho cánh cò rồi lại thương cái quê nghèo, thương cái thân phận của mình.

Có người nói: muốn biết vùng ấy thế nào thì nhìn vào chợ. Thì đây: phiên chợ èo uột,

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

 

Lèo tèo dăm người bán        

Lẻ tẻ mấy người mua.

 

Ế bán

Chán mua

Lại một lần nữa cách diễn tả như vế đối, cô đọng hết cỡ, ngữ điệu dân gian... làm ta nghe phảng phất nhớ cụ Nguyễn Khuyến - Tú Xương. Thành công của bài thơ nằm ở đây. Tài thật, tôi biết đây là ngẫu hứng, tưởng tượng thôi nhưng thật tuyệt vì tác giả đã hòa hồn vào Quê Nghèo mới tinh chiết ra được như vậy.

Thương con cò con vạc

Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.

Người nông dân thua trận ngay trên quê mình, mỏi cổ chồn chân ... miết rồi vẫn vậy. 

Đặng Xuân Xuyến ơi: 

Ngoài thềm rơi cái lá đa

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”

- (Trần Đăng Khoa)

Đặng Xuân Xuyến đã làm tôi liên tưởng so sánh về sự hòa hồn với quê hương tới mức đồng thể! 

Ngạc nhiên thật. Thơ không giấu được về con người làm ra nó, có thế nào nó rải ra một cách vô tư và công bằng.

Bẵng đi... đến thời nay (mặc dù tạm quên đi chị Dậu, Giáo Thứ):

Chiếc cổng làng dựng nên thật đẹp

Ngạo nghễ tượng đài

Ngạo nghễ trần ai...

Để:    

Giam hãm đời người 

Tù túng giấc mơ!

 

Quê tôi nghèo

Nghèo (đến) cả giấc mơ! 

Đúng là hình ảnh làng văn hoá, đổi mới hiện nay rồi nhưng sao ta vẫn nếm được vị chua chát, bất mãn làm vậy. Rất may đây là cách chỉ ra gián tiếp nguyên do làm cho quê nghèo mãi nghèo! Ta đã thấy manh nhà một tư tưởng mới, cách sống không cam chịu và chẳng thèm thích nghi nữa.

Con cò: bấu víu lời ru

Con người: nghèo cả giấc mơ!

Mơ chả mất tiền, không ai đánh thuế, bắt vạ... ấy mà cũng chả dám mơ ước đổi đời.

Ngoài kia giọt mưa thu đã ngừng rơi 

Còn trong lòng mưa vẫn rơi sùi sụt!

Thương cho những quê nghèo với những xót xa tiếng lòng như trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến!

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, t/p Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

ƯU ĐIỂM VỀ MẶT THI PHÁP CỦA “QUÊ NGHÈO”

- Trích từ bài: BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP -

 

Bài này (Quê Nghèo) nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo - Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo - Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp.

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.  

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

Quê tôi nghèo lắm

Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn

Dăm ba nải chuối

Vài mớ rau tươi

Mẹt sắn, mẹt ngô

Í ới mời chào cao hơn mời cỗ

Lèo tèo dăm người bán

Lẻ tẻ mấy người mua

Ế bán

Chán mua

Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Và:

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ  chủ  đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu thơ nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.

Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo

Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước.

Hôm nay, nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 -  anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.

*

PHẠM ĐỨC NHÌ

Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.

Email: nhidpham@gmail.com

 

CHIẾC CỔNG LÀNG ĐẶC BIỆT TRONG BÀI THƠ

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.

Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức:

“Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ.”

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

VÀI Ý KIẾN QUANH VIỆC MỔ XẺ BÀI THƠ:

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:

“Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...”

Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.

Cảnh quê nghèo này nó nhang nhác các bài thơ tả cảnh đồng quê ở đâu đó cánh cò, cánh vạc, đói, rét. Từ ngày cách mạng tháng 8 thành công, dân cũng còn nhiều người đói khổ, tuy nhiên, những tá điền được xóa nợ, nhiều người nông dân đã đổi đời, con em họ được đi học, thậm chí được giữ nhiều trọng trách trong xã hội. Tuy nhiên xã hội nào cũng có mặt này mặt nọ, nên nhìn những mặt tích cực.

Với bác PHẠM ĐỨC NHÌ

Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình.”. Bác ấy rất chân tình và thẳng thắn hơn nữa đưa ra những nhận xét tích cực chứ hoàn toàn không hạ thấp người nghe.

Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đâu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.

Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.

Tuy nhiên bác vẫn thừa nhận những điểm mạnh của bài thơ: “Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng.”

Nếu không thực sự yêu mến nhà thơ thì bác ấy đã không mất công để mà ngồi bình làm gì, bác ấy góp ý như là góp ý cho một đứa con trai.

1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ chủ đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ - nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.”

Dù muốn hay không muốn bác ấy cũng đưa ra lời nhận xét rất chân tình: “Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.”

Tôi không hiểu nhiều về bóng đá, và cũng chưa có nhiều kinh nghiệm sống nhưng tôi nghĩ là bác Phạm Đức Nhì có một nhận thúc khá dày dặn về cuộc sống, khi ví thơ với bóng đá, cho dù đôi lúc vẫn còn giữ thói quen của những nề nếp cũ: “anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.”

Với CảnhThư Sg:

Người thực sự chấp nhận được sự suy nghĩ khác với mình là người thực sự tự tin và bao dung, hiểu đời, tôi không biết tác giả đã từng là một người lính, tác giả nghĩ thế nào?

Nhưng lời bình dù chỉ trích của các nhà thơ đem lại giá trị cho bài thơ rất cao? Chắc chắn nhà thơ hiểu được điều này nên không lên tiếng phản bác?

Theo như bạn viết: “có người đọc thơ cho là may rồi. Mà người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi! Nay bài thơ Quê Nghèo có tới 3 người bình, thiết tưởng thế là rất đáng mừng cho nhà thơ và cho bài thơ rồi”.

Bạn nói rất đúng, nếu không yêu thì bình làm chi? Còn việc bạn cho rằng : “Ở một cường quốc thơ như Việt Nam”, không biết bạn có chủ quan hay không?

Đành rằng bây giờ không chỉ có kẻ sỹ hay người học chuyên văn, giới văn sỹ đọc thơ: người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” tuy nhiên dù là một người ngoại đạo thì tôi nghĩ, ai cũng có thể đọc thơ, cảm nhận thơ theo cách riêng của mình. Nhưng tùy theo trình độ và chuyên môn mà người bình có thể đánh giá bài thơ đó theo cách riêng của họ. Còn theo bản thân tôi một bài thơ có ý tứ hay người nghe cảm thụ, ngoài ra còn có luật, do đó thơ Lục bát, thơ thất ngôn bát cú, thơ Đường Luật, thơ thất ngôn trường thiên phải theo đúng luật. Cái hay, cái tài tình cái thông minh của người làm thơ là ở chỗ đó? Ngoài ra qua thơ người ta có thể hiểu thấu được tâm tính và khí phách của người làm thơ. Đố ai tìm được chỗ sai nào trong bài thơ: Qua đèo ngang của bà Huyện Thanh Quan!!!

Vài ý kiến của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.

*

Ngày 05 tháng 04 năm 2018

NGUYỄN BÍCH THỦY

facebook: Nguyen Bich Thuy

 

VỀ CHIẾC CỔNG LÀNG TRONG BÀI THƠ

“QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tôi vừa hân hạnh đọc bài viết “Vài ý kiến quanh việc mổ xẻ bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến” của tác giả Nguyễn Bích Thủy ở Bỉ.

Tôi thích bài viết nầy vì lời văn điềm đạm, dễ thương. Trong bài chị Nguyễn Bích Thủy trích dẫn lại câu chữ của nhà thơ Phạm Đức Nhì thì nhiều mà ý kiến của riêng chị thì lại ít. Không sao, đó là phong cách riêng của mỗi cây bút. Tôi chỉ không thống nhất với đoạn đầu chị Nguyễn Bích Thủy đã cho Đặng Xuân Xuyến chủ quan khi cho rằng chiếc cổng làng “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ”. Chị Nguyễn Bích Thủy cho rằng “sau cách mạng tháng 8 nông dân đổi đời….”. Nguyễn Bích Thủy quên rằng nông dân đổi đời nầy thì phải nhận lại đời khác mà Đặng Xuân Xuyến là người lớn lên ngay trong làng, chứng kiến được sự đổi đời mới đó lại làm cho “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ” có khi còn hơn trước. Điều Đặng Xuân Xuyến nói cũng giống như Trần Dần nói: “Tôi bước đi/ Không thấy phố không thấy phường/ Chỉ thấy mưa sa trên lá cờ đỏ” đã làm chế độ tẩy chay ông, phải nhận chịu nhiều đau đớn suốt một đời văn.

Tôi nhất trí với cách nhìn của nhà thơ Đỗ Anh Tuyến trong bài viết “Thế thái nhân tình qua thơ Đặng Xuân Xuyến” khi cảm nhận về bài thơ Quê Nghèo:

Quê nghèo là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.”

Nhà thơ Đỗ Anh Tuyến cho rằng chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của tình trạng đất nước hiện nay. Đây là tiếng kêu thương thảm thiết về nỗi đau đã đè nặng lên cuộc sống của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Nghạo nghễ trần ai” cũng là một trong nhiều hiện tượng gây hệ lụy cho người nông dân.

Với tôi những hiện tượng đó khó mà nói hết được trong một bài thơ hay trong một vài trang giấy.

Xin nhờ Đặng Xuân Xuyến gởi đến chị Nguyễn Bích Thủy bài góp ý nầy với một phần trong bài bình luận “Đọc Thơ Đặng Xuân Xuyến” của tôi có một đoạn nói về bài thơ Quê Nghèo:

 Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ. Tôi lại mạn phép tóm gọn bài thơ dài 41 câu bằng 7 câu thơ của chính nó:

Quê tôi nghèo lắm

Nước mắt rơi từ thời chị Dậu

Âm ỉ bủa quanh

Bám đeo đặc quánh

Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

Bài thơ cho ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ “Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm” tinh thần.

Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không thấy mặt trái bao giờ.”

Đây chỉ là những lời thảo luận thân tình với nhau vì tôi thấy mến bút pháp của Nguyễn Bích Thủy chớ không phải là tranh biện.

Thân ái chúc nhà thơ Đặng Xuân Xuyến và tác giả Nguyễn Bích Thủy bình an trong đời, thăng tiến và viết mỗi ngày thêm hay./.

*.

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

TRAO ĐỔI VỀ “QUÊ NGHÈO” VỚI CÔ NGUYỄN BÍCH THỦY

Với bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã có nhã hứng ghi lại một số nhận xét về Mục thứ 5 - Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Trong Bài Thơ “Quê Nghèo” - trong bài viết Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp của tôi. Nhận xét của cô thiên về cảm tính nên dù có nhiều chỗ cô phân tích rất sâu sắc, nhiều tính thuyết phục, vẫn còn vài điểm tôi thấy cần trao đổi với cô để làm rõ vấn đề. Bài viết này chỉ nhắm vào những điểm cần thiết đó.

Nguyễn Bích Thủy:

Chưa bàn đến hay, không hay nhưng tôi thích bài thơ ở chỗ nó chân thực nhưng tôi không thích tứ thơ này:

“Chiếc cổng làng thành tai hại

Giam hãm đời người

Tù túng giấc mơ.

 

Quê tôi nghèo

Nghèo cả giấc mơ...”

Đây là chủ quan của tác giả. Tôi nghĩ hãy để cho nó tự nhiên như vốn có.

Phạm Đức Nhì:

Nếu cô Nguyễn Bích Thủy chỉ nói “nhưng tôi không thích tứ thơ này” thì chẳng ai dám có ý kiến gì. Vì thích hay không thích cái gì đó là quyền riêng tư của mỗi người. Cái sai của cô là ở câu “Đây là chủ quan của tác giả”. Nếu cái gì trong thơ cũng là “thực tế khách quan”, cũng “phải đạo”, cũng hợp với lẽ đời thì cái loại thơ ấy không đáng để ý, không phải là thứ thơ mà nhân loại đang hướng tới.  

Dĩ nhiên trong thơ cũng có những nhân tố khách quan, nhưng những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả là chính. Nhiều khi những cái khách quan được đưa vào bài thơ chỉ để làm nổi bật những ý nghĩ, cảm giác chủ quan của tác giả. Chính “chủ quan của tác giả” mới làm bài thơ có cá tính (không chỉ viết về những cái ai cũng biết rồi), mới làm nên giá trị của bài thơ, miễn là những “chủ quan của tác giả” hợp lý hợp tình và những sự kiện khách quan cũng hợp tình hợp lý.

 Câu nói của cô Nguyễn Bích Thủy có hai phần; phần đầu đúng, còn phần sau thì sai nặng.

Nguyễn Bích Thủy:

Dù cho tôi không biết bác là ai, nhưng qua lời góp ý, phê bình của bác tôi thấy bác là người thẳng thắn và khá chân tình, tất nhiên kẻ sỹ Bắc Hà không ai tránh khỏi một chút kẻ cả khi bác nói: “Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để ‘mách nước’ cho anh bứt phá chạy mau đến ‘bến bờ thi ca’”. Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương phải không bác?

Phạm Đức Nhì:

Thích bóng đá nên có một thời gian ngắn tôi được một người bạn mời đi xem những trận đấu của các đội tuyển xã tranh vô địch cấp huyện. Mục đích của anh bạn là muốn nhờ tôi “xem giò, xem cẳng” những cầu thủ trẻ. Nếu thấy em nào “đá có nét”, có triển vọng anh sẽ tìm cách rủ rê, mời gọi về làm lực lượng trừ bị cho đội tuyển của một ngành công nghiệp. Anh cho tôi biết hãy chú trọng vào cách giữ bóng, che bóng, đi bóng, lừa bóng, khả năng sút bóng xa của các em, còn những kỹ thuật khác khi tuyển về sẽ huấn luyện thêm.

 Trong thơ cũng vậy. Có thể nói ngoại trừ cảm xúc ở tầng 3 - thứ cảm xúc mà nếu lên đến đỉnh điểm khi bài thơ có cao trào sẽ thành hồn thơ - là không ai có thể dạy ai đưa nó vào bài thơ được. Còn thì - đặc biệt ở phần thi pháp, mang tính kỹ thuật - cái gì cũng có thể học hỏi được. Dĩ nhiên, học là học lý thuyết. Bước vào thực hành, mỗi người một vẻ, kẻ thất bại, người thành công, chẳng ai dám nói mạnh.

Riêng với Đặng Xuân Xuyến, tôi đã “xem giò, xem cẳng”, đọc thơ của anh khá nhiều và đã “chấm” sự đột phá trong thi pháp của anh. Trong bài Quê Nghèo, về hình thức anh đã đạp đổ truyền thống, vượt qua thơ mới, đang trụ ở thơ mới biến thể mà những sợi dây níu kéo đang đứt dần để vươn tới một thể thơ “chưa có tên” - vần vừa độ ngọt, tứ thơ thông thoáng, nhịp độ thay đổi theo cảm xúc đang chảy thành dòng ... - nếu viết trong tâm thế cực kỳ phấn khích có thể thẳng hướng “Bến Bờ Thi Ca”.

Những khuyết điểm, sai phạm về mặt câu chữ, ngay cả thế trận cũng có thể sửa chữa không mấy khó khăn, nhưng cái tay nghề vững vàng đã trở thành thói quen trong thi pháp của anh không thể một sớm một chiều mà có được. Nếu Đặng Xuân Xuyến nghe lời “mách nước” của tôi, nhận ra khả năng và thế mạnh của mình, anh sẽ tự tin hơn khi viết những bài thơ kế tiếp. Với thơ thì không nói chắc được, nhưng anh Đặng Xuân Xuyến còn trẻ, thời gian dành cho thơ còn dài, việc để lại cho đời một đôi bài thơ sáng giá không phải là điều không tưởng.

Cô Nguyễn Bích Thủy cho rằng: Điều này chả ai giúp ai được bác ạ, vì nó tự nhiên như ánh trăng, như cảm xúc lúc yêu đương” là do cô đọc thơ chỉ như người “cỡi ngựa xem hoa”, chưa đi sâu nên chưa hiểu, chưa biết. 

Nguyễn Bích Thủy:

Nếu nghe câu này chắc chắn lúc đầu tác giả không tránh khỏi bị sốc vì có người chê đứa con của mình ngay cả người đó là mẹ vợ mình đi nữa: “Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn.”.

Điều này rất thẳng thắn, tuy nhiên cũng là ý nghĩ chủ quan của bác PHẠM ĐỨC NHÌ vì thơ phú là cảm xúc của từng người, nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì.

Phạm Đức Nhì:

Bình thơ là công việc nặng tính chủ quan. Người bình đem kiến thức về thơ, cách đánh giá thơ ca của mình để thẩm định giá trị nghệ thuật của bài thơ. Dĩ nhiên, ngoài một số rất ít những tác phẩm hoàn hảo, mỗi bài thơ - “dù là cảm xúc của từng người” - đều có chỗ hay, chỗ dở, có khi có cả những chỗ sai phạm. Nhiệm vụ của người bình là chỉ ra những chỗ hay, vạch ra những chỗ dở, chỗ sai phạm để cuối cùng cân nhắc, khen, chê bài thơ cho đúng mức.

Thí dụ bài Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến, tác giả đã có mấy câu nói về “Lũ trẻ” trong làng:

Lũ trẻ gầy như con cá mắm

Và “Lũ Trai”:

Lũ trai mặt mũi mốc meo

Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó

Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc

Còn “lũ con gái” thì sao? Đặng Xuân Xuyến đã quên nên để độc giả vừa đọc vừa mỏi cổ ngóng chờ. Đây cũng là một chỗ sai phạm.

Câu thơ:  “Tù túng giấc mơ trong đoạn: Chiếc cổng làng thành tai hại/ Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ. theo tôi, thật tuyệt vời. Nhưng đã làm 2 câu: Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ. mất tính bất ngờ và nhạt hẳn đi về mặt ý nghĩa. Vụng về trong sử dụng điệp ngữ đã làm hỏng 2 câu kết. Có thể nói trong Quê Nghèo đội của Đặng Xuân Xuyến đi bóng, lừa bóng, chuyền bóng rất điệu nghệ nhưng khi đến sát cầu môn đối phương thay vì ghi bàn thắng lại đá ra ngoài.

Tôi, ở đây không bình thơ mà chỉ bàn đôi chút về thi pháp nên không đi sâu thêm nữa. Còn nói như cô Nguyễn Bích Thủy “nhất là thơ mới, không theo bất cứ một bó buộc, nguyên tắc gì” thì đúng là một phát biểu kiểu “điếc không sợ súng”. Cô chỉ cần tìm đọc kỹ vài bài thơ mới thì sẽ nhận ra là mình ngây ngô đến cỡ nào.

Nguyễn Bích Thủy:

 “người đọc thơ cũng chả ai được học và cần học Thi pháp, thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!”

Phạm Đức Nhì:

Những người đã lỡ yêu thích thơ, nếu có cơ hội, đều muốn tìm học để nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ thưởng thức thơ của mình. Trong những lúc họp mặt bạn bè, đám tiệc, nói chung là trà dư tửu hậu, có nói đến bài thơ tình này, bài thơ thế sự kia thì cũng biết đôi điều góp chuyện. Chứ cứ như cô Nguyễn Bích Thủy “thích thì đọc; đọc xong thì bảo hay, khá hay, chưa hay hoặc dở, quá dở, thế thôi!” lỡ nguời ta hỏi “Hay ở chỗ nào? Tại sao hay? Dở ở chỗ nào? Tại sao dở” lại ngớ mặt ra im lặng thì ngượng chết.

Thưởng thức thơ có nhiều trình độ. Muốn nâng cao trình độ của mình không gì bằng tìm hiểu thi pháp. Chữ thì hơi cao siêu nhưng nghĩa thì lại đơn giản - chỉ là kỹ thuật thơ hoặc hình thức, vóc dáng của bài thơ.

Tôi nhớ hình như đã viết ở đâu đó:

 Có tý hiểu biết về kỹ thuật, các tiêu chí để thẩm định giá trị thi ca, người đọc sẽ không còn ù ù cạc cạc khi đọc, khi nghe hoặc ngâm nga những vần thơ ưa thích mà sẽ tự tin hơn, sảng khoái hơn thả hồn vào dòng thơ. Đọc thơ bằng trí sẽ không thấy được hơi nóng cảm xúc, sẽ không cảm được cái hay trọn vẹn của thơ, không “bắt” được hồn thơ (nếu có). Còn nếu chỉ đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng của kiến thức thì một là, có khi gặp tuyệt tác thi ca thì lại dè bỉu, chê bai, hai là, suốt đời “tự sướng”, sướng mà không biết vì sao mình sướng, miệng ngâm nga những vần thơ “cả đẩn” mà mắt cứ sáng long lanh, mặt cứ rạng rỡ như đóa hoa xuân. Đó là cái sướng của những kẻ “ngây ngô hưởng thái bình” rất tội nghiệp, rất đáng thương.

Trong quân đội người ta thường nói “Nhìn quân phục biết tư cách”. Thi pháp quan trọng đến mức trong thơ, theo tôi, câu tương tự sẽ là: “Nhìn thi pháp biết đẳng cấp của thi sĩ

Nguyễn Bích Thủy:

 Vài ý kiến riêng của một người ngoại đạo. Ai thích thì like, ai không thích cứ việc ném đá, tôi ở xa, đá không đến tận nơi.

Phạm Đức Nhì:

Cô Nguyễn Bích Thủy đừng lo. Trong tranh luận văn chương, nếu cứ nhắm vào đối tượng tranh luận mà bàn cãi thì dù đúng hay sai cũng được độc giả hoan nghênh, vì bất cứ cuộc tranh luận văn chương lành mạnh nào cũng đem lợi ích đến cho văn chương, cho độc giả và cho cả đôi bên tranh luận. Miễn là đừng nhắm vào “chủ thể đối luận” mà phang, mà bửa - nghĩa là đừng chơi trò bỏ bóng đá người. Chơi kiểu đó thì dù ở Bỉ hay chui vào hang sâu hố thẳm nào đó ở Thái Bình Dương người ta vẫn ném đá. Và đã ném là trúng đích.

Kết Luận

Qua bài viết Vài Ý Kiến Quanh Việc Mổ Xẻ Bài Thơ “Quê Nghèo” Của Đặng Xuân Xuyến cô Nguyễn Bích Thủy đã bộc lộ khá rõ một điều. Những gì cô cảm nhận - về mặt tình - rất chính xác và sâu sắc, chứng tỏ cô có một tâm hồn nhạy bén và có nhiều trải nghiệm về mặt tình cảm trong cuộc sống. Nhưng những phát biểu của cô liên quan đến mặt lý - ở đây là sự hiểu biết về thơ - thì lại mắc nhiều sai sót. Chỉ cần có thêm chút ít nội lực ở phần này những “góp ý” của cô không những sẽ được độc giả đặc biệt hoan nghênh mà, đối với thơ, lại còn là những đóng góp rất hữu ích nữa. 

*

PHẠM ĐỨC NHÌ

Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.

Email: nhidpham@gmail.com

 

 TÔI THỰC SỰ RUNG CẢM KHI ĐỌC BÀI THƠ ‘QUÊ NGHÈO’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Ta từng biết đến cái nghèo cùng cực vô vọng của người nông dân ở những vùng quê, khoảng những năm 1936 đến 1940, thời còn thực dân Pháp đô hộ: Chị Dậu trong tác phẩm "Tắt Đèn" của Ngô Tất Tố, gia cảnh nghèo, túng quẫn, chồng đau ốm, đã phải bán cả đàn chó và núm ruột của mình là đứa con gái bé bỏng ngoan ngoãn hiếu thảo cho vợ chồng lão nghị Quế lấy hai đồng nộp sưu thuế; Lão Hạc trong truyện ngắn của Nam Cao vì mất mùa đau ốm phải bán đi người bạn thân thiết nhất của mình, chú chó có tên là VÀNG. Những hình ảnh ấy tưởng xa xưa lắm rồi vì cách đây đã gần 80 năm, nhưng chao ôi, ở thế kỷ 21 ta lại thấu cảm cái nghèo trong bài thơ QUÊ NGHÈO của Đặng Xuân Xuyến.

Cái nghèo vẫn đang hiện hữu ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, không lạ nhưng ở đây cái nghèo đánh đu, đeo bám người dân ở vùng quê cách Hà Nội có vài chục km. "Quê tôi nghèo lắm / Vẫn lác đác nhà tranh / Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt / Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát". Không còn cảnh cơ hàn như thời của chị Dậu, của Lão Hạc phải bán con bán chó nhưng cái nghèo trong QUÊ NGHÈO khiến ta day dứt đắng chát khi "Cha cả đời lam lũ / Mẹ một đời chắt chiu" mà không có nổi thóc gạo (loại lương thực truyền thống của người Việt) nấu cơm ăn, để rồi "Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ / Tuổi thơ tôi đói ngủ / Thương cánh cò bấu bíu lời ru". Hình tượng thơ đẹp và buồn khi tuổi thơ biết thương cả cánh cò "bấu bíu lời ru". Không phải là những cánh cò sải cánh trên đồng lúa xanh rờn hay là những chú cò giang cánh chụm mỏ rỉa lông, mà là cánh cò mệt mỏi buồn bã “bấu bíu lời ru”.

Ca dao từng có bài ca ngợi cuộc sống đủ đầy của người dân qua những hình ảnh của phiên chợ Thành Nam:

"Chợ tỉnh Nam vui lắm ai ơi

Quanh năm tứ thời thiên hạ mua bán

Đủ hàng thịt, gạo rau dưa

Đủ loại tôm cá, ốc cua thịt gà

Bao nhiêu vải vóc lụa là

Áo quần khăn mũ bầy ra thiếu gì

Hàng quà chẳng thiếu thứ chi

Bún thang, bún chả, kẹo bi, kẹo vừng”

Còn chợ quê trong Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến được phết phủ bộ mặt buồn thảm đìu hiu èo uột "Dăm ba nải chuối / Vài mớ rau tươi / Mẹt sắn mẹt ngô” / “ Lèo tèo dăm người bán / Lẻ tẻ mấy người mua / Ế bán / Chán mua / Phiên chợ quê xác xơ già cỗi". Cái nghèo còn tạc sự mốc meo, xấu xí, khẳng khiu vào khuôn mặt, dáng hình, len lỏi vào tâm hồn lũ trẻ và lớp trai làng: "Lũ trẻ gầy như con cá mắm / Lũ trai mặt mũi mốc meo / Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó / Nơm nớp lo đời như chiếu bạc". Vâng! Cái nghèo đeo đẳng, dai dẳng bám theo, vậy còn gì ở tương lai nhỉ? cuộc đời sẽ như canh bạc mà thôi. Thật tủi phận! "Thương con cò, con vạc / Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất quê mình”. Một hình tượng hay về người nông dân bươn trải, lam lũ cực nhọc trên đồng đất quê mình mà nghèo vẫn nghèo.

"Quê tôi nghèo lắm"! Điệp ngữ này được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần chính là tiếng than, tiếng kêu nghẹn đắng trong tim tác giả, làm ta thấy rưng rưng buốt giá. "Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp / Sừng sững bê tông cốt thép / Ngạo Nghễ tượng đài / Ngạo nghễ trần ai". Suốt độ dài bài thơ là sự nghèo khó của người dân, là phiên chợ quê xơ xác, đối lập với phần cuối là chiếc cổng làng: "Sừng sững bê tông cốt thép / Ngạo nghễ tượng đài / Ngạo nghễ trần ai". Hình ảnh rất đắt. Thật nghịch cảnh!.

Những năm gần đây các tỉnh thành đua nhau xây tượng đài tốn cả ngàn tỷ. Ngay cả tỉnh còn thiếu ăn phải xin trung ương hỗ trợ lương thực và kinh phí vẫn "hăm hở" xây tượng đài. Bởi sổ tiền khổng lồ ấy là tiền thuế của dân, sẽ có phần trăm chảy vào túi các ngài quan. Không thể không làm phép tính sơ đẳng cấp tiểu học, với đồng lương công chức, sao họ có biệt phủ, xe hơi sang trọng, con cái du học nước ngoài. Ăn chơi tiêu sài khủng. Mới đây truyền thông nước ngoài có đưa tin một sếp bự của Việt Nam là thực khách trong bữa đại tiệc bò dát vàng ở London. Một xuất như vậy có giá 850 bảng Anh khoảng 2000usd, chưa kể 15% phí phục vụ và các món ăn kèm. Nhưng đấy là chuyện nhỏ, rất nhỏ so với vụ kit test đang bùng lên trong bối cảnh dịch covid đang hoành hành trên cả nước. Công ty sản xuất kit test Việt Á này thu lợi 4000 tỷ đồng (theo báo Tuổi Trẻ). Người dân đặt câu hỏi phải chăng? một mình công ty Việt Á làm được việc động trời như vậy?. Và 4000 tỷ đồng này chẳng ai khác chính là người dân phải gánh chịu. Trong khi người dân nghèo "Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát / Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ" hàng đêm.

Bài thơ của tác giả Đặng Xuân Xuyến sáng tác vào năm 2014, cách đây gần 8 năm. Mặc dù vào thời điểm này, mức sống của người dân trong xã hội đã phần nào được nâng lên, được cải thiện, song về cơ bản, vẫn giữ được tính thời sự của nó. Dù cái nghèo có mang bộ mặt khác, hình thái khác, khi những người dân bị lấy đất với giá trị bồi thường rẻ mạt, thậm chí bị cưỡng chiếm, tiếng kêu than ngút trời. Họ bỏ quê lên thành phố đầu tắt mặt tối mưu sinh. Khi dịch covid bùng phát dữ dội mấy chục ngàn người chết. Hàng ngàn người dân ban đầu đã chạy trối chết khỏi Sài Gòn với phương tiện của mình: xe máy, xe đạp, thậm chí đi bộ vượt hàng trăm km để quay lại quê nhà với cuộc sống đắp đổi qua ngày. Rồi những trẻ em mồ côi cả cha mẹ, những người già không nơi nương tựa, về bản chất, đấy chính là cái nghèo. Tác giả Đặng Xuân Xuyến rất chuẩn xác khi nói đã nghèo: "Nghèo cả giấc mơ". Bởi khi con người phải vật lộn cơ cực với cuộc sống hàng ngày đâu còn dám ước mơ. Bài thơ thật sâu sắc!

*.

TRỊNH THỊ NHÂM

Địa chỉ: Tổ 9 khu 3, số 14/04 tòa A

chung cư Trần Hưng Đạo Plaza

thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Email: trinhnham52@gmail.com

 

GÁNH HÁT

 

Ngẩng mặt lên anh

Quệt nước mắt đi anh

Dừng thôi mấy trò “con hát”

Đời vốn đủ đắng cay mặn chát

Nếm cả đi anh để thấu hiểu lẽ đời

Đừng đắp điếm nụ cười

Đừng ép niềm tin đem tráo đổi

Chẳng phải quan tham

Chẳng cố phạm sai lầm

Hà tất ngán mặt sắt đen sì xét xử

Hà tất khiếp lòng người giận dữ

Chẳng sợ làm ma trong tù

Chẳng sợ tòa tuyên án tử

Ngẩng đầu lên để không thẹn sống hèn.

 

Thôi nín đi mấy anh mấy chị

Thương vay khóc mướn thế đủ rồi

Bữa sáng người ta ăn

Bằng cả tháng nhà đông con không

                                           cần chi tiêu tằn tiện

Chai rượu người ta uống

Hơn tháng đẫm lưng mồ hôi đám người lao động

Người ta ở nhà lầu

Người ta đi xe hơi

Con cái ngông nghênh tiêu tiền chẳng phải nghĩ

Tiền ở đâu ra

Của ông của cha

Hay thiên hạ xót nghèo đã nhón tay “lại quả”.

 

Đúng sai đã có quan tòa

Anh hãy ngẩng cao đầu

Thử một lần làm đấng trượng phu

Và đám mấy người kia

Đâu cần rủ nhau khóc mướn.

*

Hà Nội, sáng 16 tháng 01.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI NHẬN XÉT VỀ BÀI THƠ “GÁNH HÁT”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Cám ơn Đặng Xuân Xuyến đã gởi cho tôi đọc bài thơ GÁNH HÁT.

Sau đây là vài nhận xét xổi.

Những cái dở:

 1/ Tứ qua Ý không đủ dữ kiện để liên tưởng. Tôi có thể đoán Đặng Xuân Xuyến đang muốn nói đến ai. Chỉ đoán. Chưa chắc đã đúng. Nhiều người đọc khác mù tịt.

2/ Giọng điệu kẻ cả, thường không nhận được thiện cảm của người đọc.

3/ “Đúng sai đã có quan tòa”: Nói như thế không thuyết phục. Công lý của những cuộc xử án ở Việt Nam hơi bị “thiếu niềm tin”.

4/ Thế trận của bài thơ không chặt chẽ. Một đôi chỗ hở sườn.

5/ Cái tựa không hay. Đoạn kết chưa đắt, ấn tượng không sâu.

Những cái hay của bài thơ:

 1/ Hình thức thơ: Phóng khoáng tự do. Có được cái nhìn và thói quen như thế không phải dễ. Rất nhiều nhà thơ tiếng tăm vẫn bị trói buộc bởi thể thơ, vẫn chấp nhận trói tay chui vào trong cũi. Cũi xấu, cũi đẹp, cũi cũ, cũi mới cũng đều là CŨI.

 2/ Vần thoang thoảng vừa độ - không quá ngọt như các thể thơ truyền thống, không khô cứng như thơ tự do (không vần).

3/ Thơ nhất khí liền mạch, không có những bảng Stop làm khựng dòng chảy của tứ thơ.

4/ Ngôn ngữ, hình tượng là thế mạnh của Đặng Xuân Xuyến. Nó hỗ trợ rất nhiều cho việc chuyển tải tứ thơ.

5/ Cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc tươi mát nhất, cao cấp nhất có xuất hiện nhờ tác giả viết trong lúc cao hứng. Nhưng những khiếm khuyết về thế trận đã trì kéo không cho cảm xúc đó lớn mạnh hơn.

Tóm lại bài thơ chỉ ở mức trung bình nhưng tôi thấy tác giả thủ đắc một số kỹ năng rất quan trọng, đặc biệt làm thơ lúc có hứng - truyền được cảm xúc tầng 3 vào thơ. Nếu giải quyết được những khuyết điểm ở trên, chọn được tứ thơ hay thơ Đặng Xuân Xuyến có nhiều cơ hội đi tới bến.

*

League City, 17 tháng 01.2018

PHẠM ĐỨC NHÌ

Địa chỉ: League City, Hoa Kỳ.

Email: nhidpham@gmail.com

 

ĐỌC “GÁNH HÁT” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đọc “Gánh Hát” ta biết ngay nhà thơ đề cập đến một hiện tượng đã xảy ra nhiều lần ngoài đời, trong mọi thời đại, tại các nơi cầm cán cân công lý để xét xử những người có tội.

Đọc “Gánh Hát” ta biết ngay nhà thơ khuyên nhủ (nhưng thật ra là miệt thị) những kẻ phạm tội mà còn tráo trở khi đứng trước vành móng ngựa, dùng mọi hành vi giả tạo, đóng kịch để lấp liếm, hòng đánh động lòng trắc ẩn của quan tòa và dư luận quần chúng.

Những con người như thế ta thấy đầy dẫy trên các phim Bao Công xử án thuở xa xưa, nhiều nhất ở bọn quan quyền hút xương máu nhân dân. Đáng tiếc thay, chuyện ngày xưa tưởng đã lạc hậu, ngày nay vẫn còn mà lại còn sống sượng hơn nhiều.

Nhà thơ vào đề khuyên bị cáo hãy ngẩng mặt lên:

Ngẩng mặt lên anh

Quệt nước mắt đi anh

Dừng thôi mấy trò “con hát”

Đời vốn đủ đắng cay mặn chát

Nếm cả đi anh để thấu hiểu lẽ đời

Đừng đắp điếm nụ cười

Đừng ép niềm tin đem tráo đổi

Đoạn thơ cho ta thấy, bằng những lời đanh thép, có chút mỉa mai, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến kích động cái chất Người trong con người của bị cáo, để anh ta ngẩng cao đầu, đối diện với sự thật được công bố trước mắt. Nhà thơ dùng các chữ “con hát”, “đắp điếm nụ cười”, “đừng ép niềm tin” để gián tiếp cho người đọc thơ biết bị cáo là người có tội, đang đóng kịch bỉ ổi trước quan tòa.

Đoạn thơ kế tiếp, nhà thơ đã vạch mặt tên hề mang khuôn mặt giả tạo bằng những luận chứng vô cùng sắc sảo:

Chẳng phải quan tham

Chẳng cố phạm sai lầm

Hà tất ngán mặt sắt đen sì xét xử

Hà tất khiếp lòng người giận dữ

Chẳng sợ làm ma trong tù

Chẳng sợ tòa tuyên án tử

Ngẩng đầu lên để không thẹn sống hèn.

Đọc đoạn thơ nầy ai cũng thấy thú vị bởi đã làm lộ tẩy những điều tội phạm dùng dáng dấp của mình để che giấu tội ác.

Đây không phải là những lời thơ kẻ cả mà Đặng Xuân Xuyến phát ngôn trịch thượng. Đây là những lời thơ mà Đặng Xuân Xuyến thay mặt công lý kêu gọi lương tri của người phạm tội. Những lời thơ nầy có ở tất cả trong lòng bạn đọc, những người yêu sự thật, ghét dối trá sẽ thấy hả hê khi đọc nó, vì Đặng Xuân Xuyến đã nói thay lời muốn nói của họ.

Quả thật ở thời đại nào cũng thế, những tên hề đóng khéo nhiều khi làm mềm yếu trái tim xã hội, có khi là cả một phần nhân loại. Không thế thì không có một Hit-Le kéo cả một thế hệ theo ông ta, làm tan nát thế giới, đến nay đảng của hắn vẫn còn tồn tại dầu yếu và “hoạt động” trong bóng tối. Không thế thì một tên tướng cướp Ba-Ra Ba không được dân Do Thái biểu quyết tha tôi để giết Chúa Jêsus. Không thế thì Bao Công không phải xử đi xử lại nhiều lần và nhiều phen xin từ chức trước vua. Thời đại nầy cũng thế, những tên tôi phạm có đủ sự lừa lọc, dối trá để kích động tình thương của một lớp người nhẹ dạ, dễ tin để khóc cho chúng, xin tha tội chúng và nguyền rủa những người cầm cán cân công lý. Trong đoạn thơ áp chốt nầy Đặng Xuân Xuyến đẫ đối thoại với những con người ấy:

Thôi nín đi mấy anh mấy chị

Thương vay khóc mướn thế đủ rồi

Bữa sáng người ta ăn 

Bằng cả tháng nhà đông con không cần chi tiêu tằn tiện

Chai rượu người ta uống

Hơn tháng đẫm lưng mồ hôi đám người lao động

Người ta ở nhà lầu

Người ta đi xe hơi

Con cái ngông nghênh tiêu tiền chẳng phải nghĩ

Tiền ở đâu ra

Của ông của cha

Hay thiên hạ xót nghèo đã nhón tay “lại quả”.

Nhà thơ đã dùng lời thơ nhẹ nhàng để như giải thích, như phủ dụ, như tâm tình, lột cái vỏ bọc của bọn ác bá, bày cái mặt thật xấu xa của bọn tội phạm trước ánh sáng, mở mắt mù tối của những quả tim “thật thà là cha đứa dại”.

Ở khổ thơ chót, Đặng Xuân Xuyến đã kết lại một lời ngắn gọn cho cả hai hạng người, bọn tội phạm đóng kịch trước vành móng ngựa và bọn thương vay khóc mướn vỉ tiền thuê cũng có, vì áp lực cũng có và vị cái ruột ngựa dễ tin lời tuyên truyền xảo trá cũng có vậy: 

Đúng sai đã có quan tòa

Anh hãy ngẩng cao đầu

Thử một lần làm đấng trượng phu

Và đám mấy người kia

Đâu cần rủ nhau khóc mướn.

Có người cho rằng cũng khó tin vào sự đúng, sai của quan tòa. Thật ra chủ ý của bài thơ là lên án bọn tội phạm làm hề để qua mặt công lý. Vấn đề của nền tư pháp nằm ngoài bài thơ. Quan tòa dầu công minh hay không công minh cũng không bao giờ xét xử theo sự cúi đầu, quệt nước mắt, van xin tha thứ của bị can, kể cả làm thành “Gánh hát” trước vành móng ngựa. Ngoài quan tòa ngồi trên cao còn hàng vạn, hàng triệu triệu quan tòa là quân chúng nhân dân. Đây mới thật là quan tòa quan trọng.

Bài thơ có một kết cấu vô cùng chặt chẽ, sít sao từ khổ thơ trên qua khổ thơ dưới. Bài thơ có lý luận hợp lý, có lúc đanh thép, có lúc khích lệ, khuyến dụ, chuyển tải đến người đọc một hình ảnh đã có từ thời xa xưa nhưng là thời sự sống động trong hiện tại. Đọc bài thơ nhắc cho chúng ta và những ai ngồi ở chỗ chức cao trọng vọng hãy giữ lương tri của mình để làm con Người chớ không làm con ngợm khóc lóc xấu xa.

*

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

DẤU HỎI

- Tặng T.T -

 

Rau trên luống

chắc gì

rau sẽ sạch

Người thôn quê

đâu hẳn

đã chân quê

Rượu ngàn trận

chửa tin

là tình bạn

Ngủ mòn giường

chưa dám

gọi tình nhân.

*.

Hà Nội, 21 tháng 02.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “DẤU HỎI” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bây giờ khó mà tìm được cái gì đúng nghĩa lắm. Cái băn khoăn của tác giả, sự nghi ngờ cứ ăn mòn chân giá trị. Thôi thì đành gạn đục mà khơi trong vậy!

Trong muôn vàn cái giả thế nào chả có cái thật. Ngay cả bài thơ này cũng vậy, cái giả tạo, cái xấu được bầy ra còn cái chân, cái đẹp được giấu kín trong câu chữ. NÓ bắt buộc người đọc phải tìm tòi, chắt lọc để ngộ ra sự thật đáng yêu nằm trong cái bất bình thường vốn có. 

Rau sạch, chân quê, rượu ngon, tình bạn, tình nhân... từ vật chất đến tình cảm cứ tăng dần theo sự hoài nghi của tác giả đang trong tâm trạng bất mãn nhưng được diễn đạt bằng cách triết lý mà chẳng khô khan, độc giả chấp nhận ngay được, chính điều này làm bài thơ thu hút hơn và hay hơn dù tác giả chả cần dùng mỹ từ, thủ pháp gì cả:

“Rau trên luống chắc gì rau sẽ sạch

Người thôn quê đâu hẳn đã chân quê

Rượu ngàn trận chửa tin là tình bạn

Ngủ mòn giường chưa dám gọi tình nhân.”

Thơ là vậy, đỏng đảnh là vậy! Tác giả có cố gắng tìm từ hay ý lạ bao nhiêu thì người đọc lại thấy nó phồm phộp vô hồn và trơn tuột đi chả đọng lại gì.

Bài thơ này thì khác, mộc mạc như đang khề khà phê phán về cái xã hội hiện nay qua tiếng rít điếu cầy với làn khói khoái trí của một lão nông chân quê chính hạng. 

Tác giả khôn lắm, cái khôn được chắt lọc qua bao lần dại nhỡ! Chỉ vài câu đơn giản thôi đã thu lòng độc giả và đẩy cái hay, cái đẹp, cái chân thực về phía người đọc, bắt họ tự tìm tòi trong muôn vàn điều chưa đẹp để nảy ra hạt xoàn lấp lánh trong cát bụi cuộc đời.

Đầu năm đọc bài thơ có vẻ chua chát nhưng vẫn thấy bùi ngọt trong lòng. Cám ơn tác giả!

*.

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

BẠN QUAN

 

Bạn cũ lâu ngày gặp lại   

Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần

Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn    

Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền

Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi     

Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài

Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn   

 Mãi long đong chức phó dân quèn

Mày nhăn mặt chửi tao thằng đểu     

Quá nửa đời mãi chửa hết ngu...

 

Rượu tới tầm  

Mày ghé tai tao   

Nói thật nhỏ   

Căng tai mới rõ

Làm người khó   

Làm quan càng khó

Chốn quan trường chó vịt giống nhau  

Mày than đời chỉ rặt những thau

Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ

Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ

La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.

 

Tao gật gù giả bộ ngớ ngơ

Khen các quan vì dân vì nước

Nghe nửa câu mắt mày trợn ngược

Chửi tao khùng hệt “lũ dân ngu”

Mày chửi thề đặc giọng quân khu

Đời đã chó

Quan trường càng chó

Rồi nhăn nhó

Than đời mày nhọ

Mấy tháng trời bổng lộc hụt xơi...

 

Rượu mày mời

Tao uống khó trôi

Thịt mày gắp

Tao nhai khó nuốt

Trời nhiều gió

Hay lòng tao nổi gió

Rượu đầy vò

Tao ngất ngưởng vờ say.

*.

Hà Nội, trưa 18 tháng 03.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “BẠN QUAN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tôi quen Đặng Xuân Xuyến đã lâu, từ thuở anh mới dựng nghiệp, mở cửa hàng “phát hành sách”. Là một nhà thơ, làm bạn hàng gửi sách nhờ anh bán hộ thường xuyên. So với những nơi khác bao giờ cửa hàng của Xuyến cũng giúp tôi bán được số bản cao gấp bội. Nhìn dáng vẻ bên ngoài tươi tắn, đẹp trai, hoạt bát và cái phong thái “dứt khoát” mỗi khi bàn việc…, ở Xuyến tôi thầm nghĩ con đường lập nghiệp gắn với sách vở văn chương sẽ tiến xa hơn! Bẵng đi một thời gian nền văn chương với những ước vọng thanh cao bị cuốn vào vòng xoáy kinh tế thị trường không còn phân biệt được đục trong lẫn lộn. Thơ thành sản phẩm của xã hội hóa cấp thấp, không còn biết viết để làm gì, viết để vì ai. Tôi cũng nản, ngồi nhìn bút giấy và cũng đã lâu không gặp Xuyến.

Một hôm, bất ngờ tôi nhận được tin nhắn của Đặng Xuân Xuyến mời cộng tác với trang mạng của anh… và tôi được đọc bài thơ rất tâm sự “Bạn quan anh in trên trang mạng. Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy. Thơ Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....

Bài thơ như một bầu tâm sự dốc thẳng sang nhau không cần niêm luật, kỹ thuật câu chữ. Đoạn đầu còn tỉnh, lời lẽ thăm dò giao đãi:

Bạn cũ lâu ngày gặp lại

Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần

Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn

Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền?

Tình bạn xa lâu gặp lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ. Những tưởng chỉ kẻ thua thiệt mới buồn, mới đau, mượn rượu để nói ra lòng mình cho thỏa:

Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền

Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi     

Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài

Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn   

 Mãi long đong chức phó dân quèn

Nào ngờ kẻ được mũ cao áo dài cũng lại ngồi thở than phận kiếp:

Làm người khó   

Làm quan càng khó

Chốn quan trường chó vịt giống nhau  

Mày than đời chỉ rặt những thau

Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ

Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ

La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.

Những lời bộc trực, thật lòng này nghe thật tội, thì ra kẻ làm quan đứng trước bàn dân thiên hạ, qua những cầu truyền hình đi khắp thế gian, nhìn oai phong lẫm liệt, có ai ngờ nơi tận sâu con tim, khối óc họ cũng bị dày vò, có khi lại gấp bội những buồn đau túng nghèo cơm áo, cũng thấy được nhục vinh cuộc thế:

“Làm người khó   

Làm quan càng khó

Chốn quan trường chó vịt giống nhau”  

“Đời đã chó

Quan trường càng chó”

Thì ra đã là con người dù giả trá gian manh đến đâu, dù có ngập sâu vào đống bùn nhơ tội lỗi thì thẳm sâu nơi nào đấy trong linh hồn của họ vẫn nhận ra vị bùn nhơ nơi đầu lưỡi họ đã ngậm phải. Khác nhau chăng kẻ ngày tháng quen dần với những gì nhơ bẩn, còn có kẻ còn biết cố trườn ra khỏi những đám bùn nhơ để thở chút khí trời trong lành trước khi xuôi tay, nhắm mắt. Bởi quyền tước bạc vàng có thể xây được nấm mộ cao chứ không để lại trong không gian, thời gian được chút tiếng thơm. Huống chi lúc sống đã bị người đời nguyền rủa.

Cái đau của thân phận dân đen cũng là đau nhưng có thể mượn phút giây gặp gỡ, nói vung mạng, tung tán tàn cho hả hê. Còn kẻ chức tước, giàu có, gian manh thì phải đợi lúc:

Rượu tới tầm

Mày ghé tai tao

Nói thật nhỏ

Căng tai mới rõ

Bởi đã khoác vào tấm áo quan trường phải biết học phép mưu ma chước quỷ. Nhiều việc giả danh gian trá phải giấu kín cả cha mẹ vợ con, đem xuống dưới mồ mới mong hoạn lộ, an toàn… chỉ giây phút ngồi trước người bạn thuở trong sáng ngây thơ, sau biền biệt mỗi đứa một phương, thắng thua nếm đủ quay về, men rượu ngấm vào ấm ức, nói ra cùng nhau cũng chẳng phương hại nữa rồi mới dám “ghé tai”, “nói nhỏ”…

Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!

Bài thơ “BẠN QUAN” đã ghi lại sống động cuộc sống hôm nay, của người Việt Nam mình./.

*.

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

VỀ NGƯỜI "BẠN QUAN" THỨ 2 CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

“Người bạn quan thứ hai của nhà thơ trong bài "Bạn Quan" là một quan chức đang tại vị, về quê mở tiệc tẩy trần, khách mời là nhà thơ bạn cũ. Thằng bạn quan này thì khác thằng bạn quan bị ngã ngựa, bởi thế nhà thơ đã mượn rượu giả say để có cớ vạch trần bộ mặt thật của thằng bạn cũ lâu ngày gặp lại:

Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền

Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi

Mày là thằng đã bỏ tiền ra để chạy chức, xong rồi thì phải thu hồi vốn, thu hồi xong phải làm lãi bằng cách vơ vét, ăn không từ thứ gì của dân.

Thêm nữa, cái tài học và tâm địa của mày, hai ta đâu có lạ gì nhau:

Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài

Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn

Tưởng nói trắng phớ ra như thế thì mình sẽ hả dạ, bớt đi đau buồn thua thiệt trong cõi đời đen bạc. Còn nó, thằng bạn quan sẽ mất mặt vì nhục nhã. Nhưng cái hay ở bài thơ là thằng bạn lại không thấy như thế. Mà y đợi:

Rượu tới tầm

Mày ghé tai tao

Nói thật nhỏ

Căng tai mới rõ

Ơ hay, sao chỉ có hai người bạn uống rượu tẩy trần mà y lại phải “ghé tai”, “nói thật nhỏ” đến nỗi bạn phải “căng tai mới rõ”. Phải chăng quen sống ở chốn quan trường, nơi mê cung bí hiểm đã thành động hình trong y, lúc nào cũng phải giấu giấu diếm diếm những cái gọi là sự thực. Nay chỉ có y và thằng bạn mà y vẫn chửi là “Quá nửa đời mãi chửa hết ngu…” thì nỗi sợ ấy không còn nữa nên y mới có đủ dũng khí để nói ra cái sự thực ấy:

“Làm người khó

Làm quan càng khó

Chốn quan trường chó, vịt giống nhau…”

“Quan càng lớn, chữ nhân càng nhỏ…”

“La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ!”

Đúng là y nói rất thật nhưng cũng đúng y là một thằng học ngu vì y chưa đọc hết câu: “Làm người là khó, làm người xã hội chủ nghĩa còn khó hơn nhiều

Vẫn đang đà giả tỉnh giả say, nhà thơ làm ra bộ ngớ ngơ: Khen các quan vì dân vì nước. Ai ngờ thằng bạn quan cũng đang đà được nói thật nên đáp lại cũng rất thật: Đời đã chó/ Quan trường càng chó

Tuy y nói thật thế nhưng y vẫn đang làm quan. Bữa tiệc tẩy trần hôm nay là tiệc của nhà quan được mua sắm bởi những đồng tiền y đã “Ăn của dân không từ cái gì”, đã “La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ”. Vì vậy, nhà thơ cần phải nói thẳng nốt với y:

Rượu mày mời

Tao uống khó trôi

Thịt mày gắp

Tao nhai khó nuốt

Bạn Quan là một bài thơ hay, một cuộc rượu hai người đầy kịch tính, cả hai đều mượn hơi men để nói thật lòng mình, rất đúng với câu “Lời say sưa mới là câu chân tình” (Trần Huyền Trân) cho ta thấy bộ mặt thật xấu xa bỉ ổi của bọn quan trường trong xã hội hiện nay.”

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC BÀI THƠ “BẠN QUAN”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bạn thân xa nhau lâu ngày gặp lại, người ta thường ôn lại những kỷ niệm vui buồn nhưng trong sáng và đẹp đẽ về một thuở gắn bó bên nhau. Nhưng lại có một tình bạn thân giữa hai người, mà thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn nhờ có tiền mua được chức tước lên quan mà kiếm bổng lộc bạc vàng, trở thành người gọi là “quyền cao, giầu có”, thành ra cuộc gặp gỡ của họ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức trong lòng mỗi kẻ. Những tưởng chỉ kẻ thua thiệt mới buồn, mới đau, mới mượn rượu để nói ra lòng mình cho thỏa. Nào ngờ kẻ nhờ làm quan mà giầu có, nói có người phải nghe, đe có người sợ, thế mà cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, đang làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách làm người, dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của họ:

“Làm người khó

Làm quan càng khó

Chốn quan trường chó vịt giống nhau

Mày than đời chỉ rặt những thau

Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ

Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ

La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.”

Một điều hiện thực về thói đời khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt mà không biết rằng chính cái đó đã phơi bày nhân cách giả dối của chính mình. Một hiện thực nữa cũng làm ta quan tâm qua cuộc nói chuyện của họ trong cuộc rượu, đó là dù làm quan có chức quyền, giàu có hay làm dân quèn ngu ngơ, nghèo túng thì khi nhìn lại đời mình họ đều thấy nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như kiếp vịt, kiếp chó… “Đời đã chó/ Quan trường càng chó”. Kẻ "quan tham" trong bài thơ này, dù sao cũng vẫn còn chút nhân cách của một con người.

Những hiện thực xã hội đang diễn ra trước mắt ta mà không thể giả điếc, giả mù bỏ qua được đó là:

"Người hiền lành luôn thua người bặm trợn

Chân thực ngủ vùi cho xảo trá lên ngôi”

(Nguyễn Thị Thanh Yến)

Tình trạng đạo đức xã hội đã xuống cấp một cách nghiêm trọng, sự dối trá đã đến mức ngang nhiên, tràn lan trong xã hội. Kẻ “bút nô” suốt đời chỉ viết "tụng ca" thì lên ngôi, người dám nói thật cái xấu, cái ngu dốt, cái sai lầm... ra thì thường gặp rủi ro, dễ bị quy chụp. Có lẽ chưa có bao giờ tình người lại đến mức tồi tệ như bây giờ. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã phải thốt lên:

“Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở

Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa

Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi

Tôi bước đi trên đất nước nghẹn lời”

(“Bài thơ Tháng Tám” – Bùi Minh Quốc)

Bài thơ “Bạn quan” là một cuộc rượu giữa hai người bạn đãi nhau mà sao có ít vị ngọt bùi, nhiều cay đắng tình thân, tuy là của riêng họ, nhưng lại làm người đọc động tâm, nghĩ suy về những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỷ:

“Rượu mày mời

Tao uống khó trôi

Thịt mày gắp

Tao nhai khó nuốt

Trời nhiều gió

Hay lòng tao nổi gió

Rượu đầy vò

Tao ngất ngưởng vờ say.”

Thời đại ta đang sống những hiện thực là vậy! Thật cảm phục tác giả Đặng Xuân Xuyến, chắc Anh rất trăn trở cho tình người sẽ sao đây? Mà gửi tâm sự của lòng mình vào thơ cho vơi đi nỗi ấm ức…

*.

Hải Dương, 13 tháng 5-2020

ĐỖ HUY TẤN

Địa chỉ: Bến Tằm, Chí Linh, Hải Dương.

Facebook: Tấn Đỗ Huy

 

QUAN TRƯỜNG

- Tặng: Nguyễn Minh, bạn tôi -

 

Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại

Làm “quan to” ngã ngựa cũng chả hèn

Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi

Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.

 

Ừ, đời thế. Qua cầu thì hại “bạn”

Dấn quan trường sao mày chả chịu “khôn”

Đục kín dòng mày lại cố gượng trong

Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng

 

Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng

 Cứ vui đi, mặc thiên hạ vào tròng

Tiếc làm gì mấy thứ của phù du

Thiên trả Địa, đếch gì mày cay cú.

 

Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú

Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù

Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu

Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.

*

Hà Nội, chiều 03 tháng 04.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “QUAN TRƯỜNG”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thằng bạn trong Quan Trường là một quan chức to vừa “ngã ngựa” vì bị bọn đồng liêu ganh ghét không cùng dòng chảy với chúng:

Đục kín dòng mày lại cố gượng trong

Chúng nó đập bởi mày không chịu hỏng

Vì thế, nhà thơ an ủi bạn:

Nào, cứ uống, đếch gì mày phải ngại

Làm “quan to” ngã ngựa cũng chả hèn

Thiên hạ cười. Thây kệ thiên hạ soi

Mày giả xỉn để đời thôi khốn nạn.

Rồi chân tình khuyên bạn:

Ừ. Thế nhé. Lấy gia đình làm trọng

Cứ vui đi, mặc thiên hạ vào tròng

Tiếc làm gì mấy thứ của phù du

Thiên trả Địa, đếch gì mày cay cú.

Bài thơ cho ta thấy, tuy không làm quan nhưng Đặng Xuân Xuyến biết rất rõ chốn quan trường. Nơi mê cung bí hiểm ấy luôn có những đám mây đen âm mưu vần vũ, sóng gió lật đổ thanh toán nhau bất kì nổi lên gây ra không biết bao nhiêu thảm kịch. 

Ở đấy đầy dẫy những kẻ mặt dày vô sỉ, đầy quyền mưu quyền biến, đổi trắng thay đen, gian hùng, giả nhân giả nghĩa…Vì thế nhà thơ gọi chốn quan trường là nơi thiên hạ đú, thiên hạ cù và văng thẳng câu chửi vào cái thiên hạ ấy:

Nào. Uống nhé! Kệ cha thiên hạ đú

Nào. Cứ say! Mặc mẹ thiên hạ cù

Rồi mời rượu bạn để:

Tao với mày trận nữa ngoắc cần câu

Cho trôi tuột trò nhố nhăng thế sự.

Thái độ của nhà thơ là rất thẳng thắn coi khinh chốn quan trường và cảm thông sâu sắc với bạn mình, tuy làm quan nhưng vẫn còn chút thanh sạch và chưa bị tha hoá nên đã bị cả một lũ quan trường, chúng nó đập.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN

- Thân tặng nhà thơ Nguyễn Đăng Hành –

 

I.

Bạn rủ tôi về nhà nghe hát

Lôi chiếc CD cũ mèm

Chọn Những ánh sao đêm

Bật

Âm thanh phát ra cọt kẹt

Câu được câu mất

 

Bạn mơ màng

Lắc lư cùng “làn gió thơm hương...”

“Dòng sông mát xanh trải quanh phố phường” (1)

 

Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng

nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...

 

II.

Đêm.

Bạn dựng tôi dậy khoe tiền nhiều

Lôi từ gầm giường những tờ tiền đỏ như rưới máu

Tôi không hỏi tiền nhiều từ đâu

Bạn tránh nhắc từ đâu tiền nhiều

 

Cẩn thận

Vuốt vuốt những tờ tiền

Mắt lim dim

Bạn thả hồn vào khoảng không tối lịm

 

Quánh đêm

Rờn rợn

 

Khuôn mặt bạn

Vời vợi của thánh nhân

Ma lanh của ác quỷ

 

Tôi đã từng sợ ma.

………..

(01): Lời bài hát Những Ánh Sao Đêm

*.

Hà Nội, đêm 19 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “LAN MAN VÀ CHUYỆN THẰNG BẠN”

Lan man và chuyện thằng bạn viết theo trường phái siêu thực, một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong thơ Đặng Xuân Xuyến.

Khung cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”, thời gian là cả ngày và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí. Bao chùm bài thơ là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...” và “Tôi đã từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà thơ - người dân luôn sống trong tâm trạng nơm nớp âu lo hoảng loạn?

Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạn, ám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng đã đủ để vạch trần đó là những đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu, là tính mạng của những người dân lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con người mình nên tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây, chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến - Đỗ Anh Tuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU

- Thân tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh

Chủ nhiệm Website Văn Đàn Việt -

 

I.

Tôi đặt cược đời mình

Bằng nụ cười nhếch mép

Bằng vòm ngực lép kẹp

Bằng căn phòng mốc meo ướt nhép

Bằng cót két tiếng giường ọp ẹp

Bằng cả tiếng ngủ mơ chóp chép...

Tôi kỳ vọng quá nhiều!

Tôi đặt cược quá nhiều!

Hình như...

 

II.

Đàn cừu

Ngoài kia...

 

Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp

Cả đàn chết khiếp

Lẩy bẩy

Chen đẩy

Vào chuồng

Ông chủ oang oang

Bà chủ nhẹ nhàng

Đàn cừu

Im lặng

Cúi xuống

Nhai...

 

Đống rơm trước mặt oải mùi.

*.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “LAN MAN VÀ CHUYỆN ĐÀN CỪU”

Bài thơ Lan man và chuyện đàn cừu cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.

Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ “lạ” và mới.

Sang khổ 2, nhà thơ tiếp tục câu chuyện của mình nhưng “lan man” chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu/ Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp/ Cả đàn chết khiếp/ Lẩy bẩy/ Chen đẩy/ Vào chuồng/ Ông chủ oang oang/ Bà chủ nhẹ nhàng/ Đàn cừu/ Im lặng/ Cúi xuống/ Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

NHỚ

- Tặng V yêu -

 

Đêm tỉnh giấc

Khát mắt cười chiều qua lăn trên chiếu

Căng người

Run rẩy cuộc yêu.

 

Đêm dài quá

Gió trườn qua khe cửa

Mưa rỉ rả

Tiếng cười rúc rích vọng từ xa...

*.

Hà Nội, 14 tháng 04 năm 2015

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“NHỚ” - BÀI THƠ HAY CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đời người có muôn vàn nỗi nhớ... Nhưng có lẽ cồn cào nhất, mãnh liệt nhất là nỗi nhớ “Yêu”! Nỗi nhớ ấy khao khát lắm lắm: “Khát yêu uống cạn bầu trời// Tắm mênh mông biển mà lời vẫn khô!” (Ái Nhân)

Nỗi nhớ “vợ” (đúng ra là người yêu, người tình) của thi sĩ họ Đặng thì cũng cồn cào âm ỉ... và khát khao lắm: Khát mắt cười chiều qua lăn trên chiếu

Chiều qua? Có lẽ những chiều đã qua chăng?

Đặng thi sĩ nhớ những ngày hạnh phúc, những đêm thăng hoa tột đỉnh đến “căng người” “run rẩy cuộc yêu”!

Đọc câu thơ này ta thấy khoai khoái... Anh khái quát về cuộc ái ân của vợ chồng thật tinh tế... Mấy từ vẻn vẹn thôi mà ta như thấy được hai kẻ YÊU “run rẩy” mơ màng... Các giác quan như căng cứng, gồng lên dâng hiến. Ta như du miên ngây ngất!

Đột ngột tiếp sau là câu thơ: “Đêm dài quá/ Gió trườn qua khe cửa”. Làm ta chạnh lòng liên tưởng những đêm không “vợ” của anh, những đêm tê tái “gió luồn”. Những “đêm thừa năm canh” khắc khoải, cô đơn, đằng đẵng... “rỉ rả” mưa lòng!

Và câu kết: Tiếng cười rúc rich vọng từ xa.

Nghe như tiếng vọng về của một thời hạnh phúc. Như hạnh phúc xưa cứ mãi mãi xa dần. Càng làm cho nỗi nhớ như dài thêm, đằng đẵng nỗi niềm! Bài thơ chỉ bốn câu thôi mà cho ta biết bao điều suy tưởng...

Nỗi khát khao nhớ “vợ”, nhớ những “cuộc yêu” mây mưa ân ái đến “căng người”.... Những phút giây thiêng liêng “run rẩy” mãi vẫn ùa về ăm ắp trong anh, bất chấp cả mưa rơi “rỉ rả” “khe cửa” “gió luồn”... vẫn luôn hiện hữu hân hoan “rúc rích” tiếng cười của những ngày hạnh phúc!

Bài thơ như kín đáo thổ lộ một thông điệp:Người yêu ơi hãy về với anh!”, hãy về với những “cuộc yêu” “run rẩy” ngập tràn hạnh phúc và “rúc rích tiếng cười”!

Tôi như thấy như anh đang khóc. Những giọt nước mắt âm thầm “rỉ rả” chảy mãi vào thơ!

*.

Hà Nội, 20 tháng 04 năm 2015

Ái Nhân BÙI CAO THẾ

Địa chỉ: 139 ngõ 399, Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội.

Email: buicaothethisi@gmail.com

 

NGƯỜI DƯNG

 

Đã mòn con mắt lá răm

Lời yêu còn ở ngã năm chửa về

Sập sùi sũng ướt triền đê

Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng

 

Hội làng thì đã lưng chừng

Người dưng ơi hỡi...

Người dưng

Chả về.

*.

Hà Nội, ngày 09 tháng 02.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“NGƯỜI DƯNG” - NHƯNG ĐÂU PHẢI LÀ NGƯỜI XA LẠ

Trong không khí của một quần thể con người đến các lễ hội, chùa chiền, đền thờ để vụ lợi với hy vọng sẽ được buôn may, bán đắt, được thăng quan tiến chức, trở nên giàu có..., bỗng nghe trong gió đưa lại một hơi thở dài buồn trách: 

Hội làng thì đã lưng chừng

Người dưng ơi hỡi...

Người dưng

Chả về

Phải là hội làng với đúng nghĩa là sinh hoạt văn hoá dân gian của cư dân địa phương ở một quy mô nhỏ vào tháng Giêng đến hội, người dân nô nức tham dự nhưng rất đẹp chữ lễ chứ không phải là lễ hội với những cảnh chen lấn, giành giật, giẫm đạp lên nhau có cả máu người và máu các con vật như trâu bị treo cổ cho đến chết, lợn bị chém giữa sân đình…, ta mới có thể nghe được hơi thở nhẹ buồn trách đó. 

Ấy là hơi thở nhẹ của một cô gái quê trong bài thơ NGƯỜI DƯNG của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Và nghe xong tiếng thở ấy, ta như nhìn thấy cô gái đang trong đám hội nhưng không đứng trong đám đông dân làng mà đứng lẻ ra mé ngoài, ngóng mắt về phía đường xa mong đợi và mong đợi đến độ:

Đã mòn con mắt lá răm 

Một cô gái quê xinh đẹp đúng như ca dao từng ca tụng: “Đàn bà con mắt lá răm/ Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền” mà thời nay dẫu có đốt cả trăm bó đuốc soi vào cả ngàn tiệm spa làm đẹp cho phụ nữ cũng không dễ gì tìm được một người.

Đôi mắt đẹp quý hiếm ấy “đã mòn” vì sao? Chỉ là vì:  

Lời yêu còn ở ngã năm chửa về

Thật tội nghiệp! Bởi lẽ, thói thường, khi gặp ngã ba đường người ta đã phải phân vân tìm cách nên lựa chọn ngả nào? Vậy mà lời yêu con mắt lá răm ngóng đợi lại đang ở ngã năm, chỗ con đường đi ra năm ngả; có thể ngã năm ấy không còn xa hội làng lắm nhưng biết đi ngả nào cho đúng hướng đây? Chính vì thế, đâu chỉ mình cái lời yêu đó phải phân vân tìm lối mà cả cô gái quê cũng đang bồn chồn lo lắng, liệu lời yêu có chọn đúng ngã rẽ để về hay sẽ đi lạc lối để uổng phí một hội làng, phí hoài một ngày xuân tươi đẹp. Vì thế con mắt lá răm không chỉ đã mòn vì mong đợi mà còn:

Sập sùi sũng ướt triền đê

Người đời thường dùng từ hạt lệ để nói về nước mắt. Thiên tài Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì tài hoa phong phú hơn nhiều: hạt châu, giọt ngọc, giọt tương, giọt riêng, mạch tương. Và để diễn tả mức độ khóc, người đời thường ví von khóc như mưa: 

Nhớ ai em những khóc thầm

Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa

Hay ví cụ thể hơn “như mưa tháng mười”:

Anh về em chẳng dám đưa,

Hai hàng nước mắt như mưa tháng mười.

Cũng có khi nói “khóc đỏ lòm con ngươi”:

Phù sa nước đục khó dòm,

Nhớ anh em khóc đỏ lòm con ngươi

Làn thu thủy của nàng Kiều “nghiêng nước nghiêng thành” đã đẹp lại đẹp hơn lên khi khóc bởi những từ ngữ như đầm đầm châu sa, châu sa vắn dài, giọt ngọc như chan:

Lòng đâu sẵn nỗi thương tâm

Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa./

Lại cùng ủ dột nét hoa

Sầu tuôn dứt nối châu sa vắn dài".

Nàng càng giọt ngọc như chan, 

Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây"/.

Trong NGƯỜI DƯNG của Đặng Xuân Xuyến thì nước mắt của con mắt lá răm được diễn tả mộc mạc như ta đã thấy:

Sập sùi sũng ướt triền đê

Một hình ảnh rất sáng tạo của nhà thơ hiện đại nhưng vẫn giữ được chất quê mùa bình dị rất gần gũi với người dân đồng ruộng mà không kém phần sâu sắc.

Triền đê là dải đất thoai thoải của con đê ở hai bên bờ sông. Khi mưa, nước thường từ trên trời rơi xuống mặt đê rồi trôi theo triền đê xuống tràn vào bờ bãi hay chảy hòa vào nước dòng sông cùng tuôn ra biển cả. Triền đê đâu phải là chỗ trũng để nước mưa dễ bề đọng lại. Vậy mà nước mắt của cô gái ướt sũng triền đê chứng tỏ triền đê đã bị thấm nhiều quá, lâu quá bởi những dòng lệ của con mắt lá răm.

Vậy vì sao con mắt lá răm, con mắt biết nói, biết cười mà ai trót nhìn vào sẽ đắm say, quyến luyến chẳng muốn rờì ấy đã mòn vì ngóng đợi lại khóc đến ướt sũng cả triền đê? Đây là câu thơ cắt nghĩa nguyên do nông nỗi ấy:    

Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng

Chỉ là một câu thề của một người dưng nhưng cô gái đã khạo khờ nhuộm nó vào lòng và thời gian đã trôi qua nhưng không hề phai nhạt.

Người dưng hay người dưng nước lã, chỉ người không có máu mủ ruột rà thân tộc nội ngoại gì với mình mà nó tự nhiên như nước mưa, nước giếng. Nhưng sao cái người dưng kia lại nhuộm được câu thề trong lòng cô gái? Chỉ có thể nói đó là một người dưng quá đặc biệt, nếu không nói là người đã biết nhau từ kiếp trước thì ít nhất cũng là người đã biết nhau từ hội làng năm cũ. Cái người dưng quá đặc biệt ấy đã lọt vào “con mắt lá răm”, đã cho cô gái lời yêu, mách bảo trái tim cô gái một điều gì đó rất linh diệu khiến nỗi lòng cô hằng nhớ và đời sống tâm hồn tình cảm của cô đã bị xao động:   

Cơm ăn nửa chén lưng lưng

Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này?

Và vì thế, hội làng năm nay, cô mới phải hoài công ngóng đợi lời yêu và cái người dưng kia.

Qúy con mắt lá răm đáng trăm quan tiền của cô gái quê trong thơ Đặng xuân Xuyến, tôi bỗng nhớ tới cô gái trong khung cửi nổi tiếng từ hơn 80 năm trước trong thơ Nguyễn Bính. Cũng hội chèo làng Đặng ở thôn Đoài. Một cô gái nông thôn trẻ trung xinh đẹp đội mưa bụi đi hội nhưng không phải để xem mà chính là để tìm gặp người yêu: 

Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm 

Em mải tìm anh chả thiết xem …

Và cũng thật tội nghiệp cho cô, tìm anh suốt một đêm thâu để rồi: 

Chờ mãi anh sang anh chả sang 

Thế mà hôm nọ hát bên làng 

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn 

Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!

Thương con mắt lá răm đã khóc ướt sũng triền đê, tôi lại nhớ đến người thiếu phụ mòn mỏi chờ bóng tình quân bài thơ Mòn Mỏi của Thanh Tịnh ngang thời Nguyễn Bính. Bài thơ được phóng tác theo truyện "Barbe bleue" của nhà văn Pháp Charles Perrault chìm ngập nỗi buồn. Người thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên trong bức rèm, dệt vải. Còn em gái nàng thì ngồi ở gian ngoài, ngóng ra ngoài đường, chờ đợi. Ngôi nhà bé nhỏ nằm dưới thung lũng cũng cô đơn lặng lẽ như hai chị em họ. Sau bao lần tưởng như trông thấy tình quân với con ngựa hồng đang đến gần cùng với tiếng gọi của chàng trong tiếng ngựa hí, tiếng nhạc ngựa vang reo, người thiếu phụ nhờ em gái nhẹ cuốn bức rèm tơ lên xem có phải đúng thế không để rồi chỉ nhận được những câu trả lời cuả em gái: khi thì "Chị ơi em thấy một cây liễu buồn", khi thì: “Bên rừng ngọn gió rung cây”, khi  thì “Sóng chiều đùa chiếc thuyền nan” và "Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương" hay "Chị ơi con sáo gọi ngàn bên sông".

Nhưng khi bất chợt nghe em gái nói như reo lên: 

Ô kìa! Bên cõi trời đông

Ngựa ai còn ruổi dặm hồng xa xa

Thì nàng thiếu phụ bỗng lo lắng bảo em gái:

Nhẹ nhàng em sẽ buông rèm xuống,

Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.

Và rồi kết cục:

Ngựa hồng đã đến bên hiên

Chị ơi, trên ngựa chiếc yên vắng người 

Sự bất ngờ của hình ảnh chiếc yên ngựa vắng người đã khiến bao người yêu thơ muốn vỡ tim vì buồn thảm 

Tôi vô cùng yêu thích hai bài thơ diễm tình: MƯA XUÂN của Nguyễn Bính và MÒN MỎI của Thanh Tịnh, rất quý mến tấm tình của cô gái trong khung cửi tìm người yêu, rất cảm thương người thiếu phụ xinh đẹp đã mòn mỏi mong đợi tình quân từng giây từng phút để rồi tan nát cõi lòng trong tuyệt vọng. Nhưng tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Đặng Xuân Xuyến phải cam phận như hai số phận ấy. Theo kinh nghiệm người đời: Người có đôi mắt lá răm thường sắc sảo đa tình và rất thủy chung nhưng cũng luôn nhuốm chút u buồn, sâu lắng. Nhưng tôi không muốn con mắt lá răm ấy trong thơ Đặng Xuân Xuyến sẽ phải buồn tủi tê tái như cô gái trong khung cửi “Để cả mùa Xuân cũng nhỡ nhàng”, lại càng không muốn con mắt lá răm ấy phải vận vào người nỗi mòn mỏi tuyệt vọng như người thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh.

Bài thơ NGƯỜI DƯNG của Đặng Xuân Xuyến rất ngắn, hai khổ nhưng cả thảy chỉ có 6 câu mà trong đó có tới 5 câu thơ buồn. Chỉ còn lại một câu:

Hội làng thì đã lưng chừng 

Câu thơ tả thời gian, nhưng cũng diễn tả tâm trạng “sốt ruột”, đã xuất hiện sự “buồn nản” trong chờ đợi “người dưng” của “con mắt lá dăm”. Tuy không buồn như 5 câu thơ kia, nhưng câu thơ cũng gieo vào lòng người tâm trạng se buồn.

Hội làng thì đã lưng chừng, là khoảng thời gian đã đi qua những màn diễn chính của lễ hội và đang nhích dần về nửa sau, về những màn cuối, để khép lại hội làng, nghĩa là vẫn còn thì giờ để ngóng đợi “người dưng” nhưng hy vọng đã không còn nhiều, ngày một thu hẹp, rút ngắn.

Bài thơ khép lại với tiếng thở dài, tê tái:

Người dưng ơi hỡi...Người dưng chả về.

Tôi không muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Đặng Xuân Xuyến phải cam phận như vậy. Vì thế, nghĩ cho cô gái, tôi nghe như trong làn gió từ hội làng tiếng ai đó đang hát: Bèo dạt mây trôi, chốn xa xôi /Anh ơi, em vẫn đợi…

Cô gái con mắt lá răm ơi, cô có nghe thấy tiếng hát đó không? Nếu nghe được thì xin cô hãy cùng tôi tin rằng, sau tiếng hát ấy, lời yêu của cô ở ngã năm sẽ tìm ra lối rẽ đúng và kịp về với cô, người dưng chưa về sẽ kịp đến bên cô. Hãy vững tin đi, “con mắt lá răm” xinh đẹp đa tình nhưng chung thủy nhé! Bởi gọi cái người gọi là người dưng đó đâu phải là người xa lạ, nếu không nói là đã gặp nhau trong tiền kiếp thì cũng đã biết mặt nhau, đã nghe lời yêu của nhau, đã nhận câu thề với nhau và đã nhuộm câu thề đó trong trái tim từ buổi còn khạo khờ. Nhất định người dưng ấy sẽ về hội làng để “lên ngôi” thành người nghĩa, người tình của cô và sẽ cùng cô “đơm hoa kết trái” thành hạnh phúc lứa đôi!

VĨ THANH:

Khép lại bài thơ Người Dưng, không hiểu sao tôi lại có cảm giác, hơi thở dài của cô gái mắt lá răm cũng chính là hơi thở dài của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Hình như nhà thơ cũng đang trong Hội làng và cũng đang để trái tim se buồn, bâng khuâng ngóng đợi một lời yêu của một người dưng nhưng cũng không phải là một người xa lạ mà là một người đặc biệt như đã cùng nhà thơ biết nhau trong tiền kiếp. Nếu đúng vậy, tôi chúc nhà thơ sẽ mau chóng đón nhận lời yêu ấy, có thể không phải là đang ở ngã năm mà ở một ngã bẩy sẽ về.

*

Sài Gòn, ngày 18/02/2017

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

MƠ TRĂNG

- Thương tặng T.T.Q.T -

 

Em rướn mình hà hít nụ hôn anh

Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội

Môi khóa môi mà sao xa vời vợi

Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.

 

Anh vùi mình giấu vội lệ rơi

Tim rời rã giữ cõi hồn trống vắng

Câu yêu đương nửa chừng nghẹn đắng

Đêm rã rời lẩn khuất ánh trăng thanh.

 

Anh ngại ngùng khi em chợt hỏi anh

“Anh hạnh phúc hay chỉ lời chót lưỡi”

Biết nói sao để không thành giả dối

Rưng rức buồn...

Day dứt giấc mơ trăng.

*.

Hà Nội, đêm 02 tháng 09 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“MƠ TRĂNG” - BÀI THƠ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thật tình tôi rất yêu thơ Đặng Xuân Xuyến vì qua những bài thơ tôi đọc được, tôi khám phá ở anh một tâm hồn đầy ắp thơ. Người thơ không phải người sáng tác mới là thơ, lại càng không phải chỉ người sáng tác hay mới là thơ. Người thơ là người có tâm hồn nhạy bén trong cảm thụ những điều mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã viết: “Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói đến mộng là nói đến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu Người là cao cả, vô biên và vô lượng: xung quanh Người là mơn trớn với yêu đương vây phủ bởi trăm dây quyến luyến làm bằng êm dịu, làm bằng thanh bai…” Thơ Đặng Xuân Xuyến chất chứa thật và đầy sự rung động của Người đi giữa nguồn trong trẻo, cho nên có đôi lúc ý, từ “mới lạ”, gây tâm lý “phản cảm” cho một ít người nhưng chính những ý, từ đó phát tiết được những điều bí ẩn của “nguồn trong trẻo” “vô biên và vô lượng” mà một tâm hồn nhạy bén phải dùng nó như dùng một tiếng đàn phá cách để truyền đi một thứ âm thanh lạ cho đời. Ví như bài thơ “Mơ Trăng”, ta tìm thấy ở đây một cơn mơ phi lý trong giây phút ái ân.

Đọc vế thơ đầu ta thấy hụt hẫng ngay, hụt hẫng vì cái giây phút ái ân đó quá cuồng nhiệt, quá say đắm, nó lại làm cho đau tâm hồn, làm cho tê tái con tim:

Em rướn mình hà hít nụ hôn anh

Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội

Môi khóa môi mà sao xa vời vợi

Đêm cuống cuống khỏa lấp nỗi chơi vơi

Nếu người không có tâm hồn thơ thì đây là giây phút của xác thịt, của biết bao cử chỉ cuống cuồng đắm đuối. Ngược lại, người thơ dầu trong dục tình vẫn hưởng thụ nó bằng con tim, bằng sự trong trẻo, sự quyến luyến sự thanh bai, cho nên Đặng Xuân Xuyến phải đau khổ vì con tim anh rung động nghịch với những điều thể xác đang làm. Không cần biết nguyên nhân của sự nghịch lý, chỉ cần biết sự nghịch lý phơi bày hai vẻ đẹp trong vế thơ này: vẻ đẹp của đam mê dục vọng và vẻ đẹp của đau khổ tâm hồn. Hai vẻ đẹp như hai viên kim cương lóng lánh, một viên sáng u trầm và một viên sáng rực rỡ. Đọc thơ này nếu thớ thịt, đường máu trong ta không căng thẳng thì ta khó thấy vẻ đẹp của sự đam mê dục vọng. Đọc thơ này nếu con tim ta không co thắt lại thì ta cũng khó thấy sự đau thương trong tình tuyệt vọng. Người thơ là người biết nó có trong cùng giờ cùng phút.

Bước qua vế thơ thứ nhì ta thấy đang hôn nhau mà lại nhớ đến trăng và cay đắng về trăng:

Anh vùi mình giấu vội lệ rơi

Tim rời rã giữ cõi hồn trống vắng

Câu yêu đương nửa chừng nghẹn đắng

Đêm rã rời lẩn khuất ánh trăng thanh

Bây giờ có hai Đặng Xuân Xuyến, một đang vùi trong hương hoa của tình yêu và một đang vùi trong trủng trủng khắc khỏai và đắng cay. Lúc này nhà thơ đương yêu hay là không yêu? - Đâu biết được. Xem thơ tưởng rằng không yêu. Yêu là đau khổ. Nhà thơ đang đau khổ, nghĩa là nhà thơ đang yêu. Chỉ biết nhà thơ đang ôm một khối tình, khối tình nóng cháy như hỏa diệm sơn mà cũng rét cóng như băng giá miền cực bắc. “Trăng thanh” được nhắc đến trong vế thơ này, trong giờ phút mà đúng ra không có cả đất trời. Trăng là hiện thân của thơ mộng, là vị thần của những mối tình hạnh phúc. Trăng thanh nếu còn một nửa là dấu hiệu của tình chia ly, tình xa cách và trăng thanh biến mất thì tình hầu như đã chết. Hàn Mạc Tử nói: “Cả miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan để thể hiện thứ tình yêu cuồng nộ:“Bây giờ tôi dại tôi điên/ Chấp tay tôi lạy cả miền không gian” ngự trị trong tâm hồn thi sĩ. Đặng Xuân Xuyến cũng cần một thứ tình yêu đó xảy ra trong lòng mình nhưng không có. Đặng Xuân Xuyến cũng chỉ là con tằm muốn ăn ngấu nghiến lá dâu tình yêu đặc biệt để nhả ra tơ óng ánh cho đời nhưng không có. Vì vậy anh nhớ đến trăng, thứ trăng mà Hàn Mạc Tử ngậm vô số trong miệng mình. Anh đã nhớ trăng ấy trong giờ phút anh ân ái với người mà qua thơ ta biết có nhiều uẩn khúc trong tình. Biết đâu nỗi đau của Đặng Xuân Xuyến cũng có thể giống như nỗi đau của Hàn Mạc Tử với Mộng Cầm để ông hận thù Phan Thiết là nơi ông “chôn hận ngàn thu”.

Vế thơ này có “lệ rơi, rời rã, rã rời, nghẹn đắng…” là những từ của ca cổ, tuy thế tác giả buộc phải dùng nó để trút hết uẩn khúc trong lòng, nhờ đó tiếng thơ mang nỗi buồn hiện tại nhưng có cái âm hưởng đầy tính lãng mạn của những ngày đầu Thơ Mới.

Qua vế thơ thứ ba tác giả thổ lộ tâm trạng chính của mình: Day dứt giấc mơ trăng:

Anh ngại ngùng khi em chợt hỏi anh

“Anh hạnh phúc hay chĩ là chót lưỡi”

Biết nói sao để không thành giả dối

Rưng rức buồn…

Day dứt giấc mơ trăng.

Ngại ngùng, ngần ngừ hay phân vân là tính cách của người không biết nói dối. Ở đây nhà thơ chẳng phải muốn tìm lời nói dối mà chỉ muốn tìm lời diễn đạt cho đúng ý mình. Tình yêu hiện có trong lòng thi sĩ hay không có trong lòng thi sĩ ta đâu biết được. Ta chỉ biết nhà thơ hụt hẫng đang khi ân ái vì nhà thơ mơ ước một giấc mơ trăng mà trăng đã lẩn khuất để cho đêm rã rời, để cho cõi hồn trống vắng ngay cái lúc đang hôn nhau. Phải chăng nhà thơ cần một tình yêu rất lớn? Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình thường không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ luôn mơ mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc đời. Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng thơ Đặng Xuân Xuyến quả đúng như vậy. Nhà thơ có lẽ cũng ngậm đầy miệng trăng nhưng Hàn Mạc Tử thì:

“Cả miệng ta trăng là trăng 

Cả lòng ta vô số gái hồng nhan 

Ta nhả ra đây một nàng 

Cho mây lặng lờ, cho nước ngất ngây 

Cho vì sao rụng xuống mái rừng say”

nghĩa là có lúc thi sĩ ngây ngất cùng nàng trăng trong miệng mình nhả ra, còn Đặng Xuân Xuyến thì trăng chỉ nằm trong “day dứt giấc mơ”.

Mơ trăng của hàng vạn thi sĩ là một cơn mơ thú vị. Mơ trăng của Đặng Xuân Xuyến là một cơn mơ xót xa rưng rức. Chỉ thế cũng đủ chứng minh bài thơ là độc đáo. Khen nhiều cũng chẳng làm cho bài thơ hay thêm nữa./.

*.

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

SAY YÊU

- Với T.L.A -

 

Yêu thương nhé. Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian

Uống nữa đi. Đây rượu ngọt. Môi mềm

Đêm lạnh lắm đừng để ta lẻ bạn.

 

Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ

Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần           

Đây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm

E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.

 

Thì ta biết thuyền em chưa bến đậu

Giấu mơ hoang vật vã đợi phong cuồng

Ta nhốt mình đằng đẵng mấy mùa ngâu

Nén lơi lả loạn điên nơi cõi mộng.

 

Ừ thì rượu. Ừ thì thơ. Ừ mộng đẹp

Ừ thì say cho hỉ hả phong trần

Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non

Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.

 

Yêu thương nhé.

Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...

*.

Hà Nội, đêm 11 tháng 04 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“SAY YÊU” - TÌNH SAY MỘT ĐÊM CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Say Yêu là cuộc rượu của nhà thơ với người tình. Một cuộc rượu đã đến hồi rượu ngọt, môi mềm và “Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”:

Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ

Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần           

Đây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm

E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận

Và rồi mặc dù đêm lạnh lắm nhưng đã say yêu, đã trút áo xiêm rồi thì cái gì đến sẽ phài đến:

Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non

Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.

Trong thi ca Việt Nam, ta thấy nhiều bài thơ hay về cuộc rượu của nhà thơ với người đẹp như trong thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu... Nhưng hầu hết những người đẹp đó đều là gái giang hồ, gái nhảy hay kỹ nữ:

 Say đi em, say đi em

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết...

(Vũ Hoàng Chương - Say đi em)

 Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,

Tay em đây, mời khách ngả đầu say;

Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,

Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.

(Xuân Diệu - Lời  kỹ nữ)

Người đẹp trong Say Yêu của Đặng Xuân Xuyến không phải là gái giang hồ, gái nhẩy hay kỹ nữ nhưng tiếc thay cũng chỉ là người con gái chẳng cần thề non hẹn biển, nguyện ước trăm năm “như chim chắp cánh như cây liền cành” mà chỉ say yêu một đêm, một lần:

Yêu thương nhé.

Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...

Có thể nói nhờ Rượu mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã cảm khái nên chùm Thơ Về Rượu khá hay và độc đáo.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

ĐỌC BÀI THƠ “SAY YÊU” NGHĨ VỀ THƠ TÌNH CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đọc bài thơ “Say yêu” khi gặp 2 từ “gian díu” tôi nghĩ có lẽ Đặng Xuân Xuyến đã dùng từ sai hoặc anh viết sai chính tả nhưng ngẫm nghĩ kỹ và đọc lại bài thơ mới thấy anh đã có chủ ý dùng từ “gian díu” vì chỉ 2 chữ đó mới diễn tả đúng được tâm trạng yêu của bài thơ: Một tình yêu cuồng nhiệt và vụng trộm! Và chỉ 2 chữ “gian díu” mới lột tả được những khát khao yêu đương, những đau đớn khi yêu và cả những nổi loạn bất cần giáo lý đạo đức của kẻ “Say yêu”, “Cuồng yêu” như gã si tình nổi loạn Đặng Xuân Xuyến!

Tình của "Say yêu" là thứ tình "gian díu", không phải là thứ tình "díu dan" “dan díu” như thường thấy ở đời nên một kẻ "Cuồng yêu", bạo liệt khi yêu, bất chấp quy tắc định chế của xã hội như Đặng Xuân Xuyến mới thẳng thắn rằng:

"Yêu thương nhé!

Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian"!

Ngay khi sử dụng 2 chữ "gian díu" nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã có chủ ý khẳng định với bạn đọc đấy là chuyện tình trái ngang vụng trộm. Anh "huỵch toẹt" cuộc tình đó giữa thanh thiên bạch nhật, bất chấp sự soi mói đàm tiếu của người đời:

"Yêu thương nhé.

Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian.".

Vì đó là thứ tình yêu “vụng trộm” trái ngang, yêu kiểu “bất chấp” nên anh sòng phẳng, không chấp nhận ngay cả sự e ngại của người phụ nữ vì theo khẩu khí của anh thì đó chỉ là kiểu làm dáng, làm mất đi thi vị của tình yêu:

"E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.".

Thơ tình của Đặng Xuân Xuyến thường có sự song hành cùng lúc 2 tâm trạng đối nghịch ngay trong một bài thơ, đó là sự đối nghịch giữa tâm trạng ngùn ngụt đam mê dục vọng với tâm trạng dằn vặt đau khổ trong tâm hồn vì cuộc tình đã không đạt được trọn vẹn một chữ TÌNH như mong muốn.

Tác giả Châu Thạch đã rất chính xác khi ông khái quát về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:

Đọc “Cưỡng Xuân” (tập thơ tình) của Đặng Xuân Xuyến, ta có hai sự rung động cùng một lúc. Đó là sự rung động của con tim yêu chân tình, say đắm và độ lượng. Cùng lúc đó cũng bốc lên trong bầu máu nóng của ta một thứ hương tình cúa thể xác. Hai thứ hương đó quyện vào nhau cho ta sự khoái lạc lạ lùng trong nỗi đau khổ quặn thắt. Khoái lạc vì thơ Đặng Xuân Xuyến như ngùn ngụt ngọn lửa của ái ân thể xác và của âu yếm tinh thần. Đau khổ vì thơ Đặng Xuân Xuyến làm lạnh con tim, nỗi sầu được diễn tả như bông lơn nhưng làm cho người nghe quặn lòng se thắt. Thơ đó không phải là thứ thơ hư cấu. Thơ đó là thứ thơ nở ra như những bông hoa trường trải được nẩy mầm từ hạt của nó, hạt ấy đã bị vui dập trong bao nhiêu biến động của đời.”.

Những câu thơ tả dục tình cuồng nhiệt, táo bạo, nóng bỏng, nhiều chất phồn thực nhưng không hề “khiêu dâm” “dung tục” đã làm nên nét riêng của thơ tình Đặng Xuân Xuyến, ví dụ:

- “Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non

Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.”

(Say yêu)

- “Thôi, ngả vào ta, cuộn vào ta

Để đêm thánh thót rót trăng ngà

Để làn gió thoảng loang hương lạ

Để trộn vào ta, nghiến nát ta..”

(Cuồng say)

- “Ta muốn đêm này em với ta

Quyện từng hơi thở trộn thịt da”

(Ở lại)

- “Nướng thời gian với ngọn đèn hiu hắt

Mắt tìm môi thêm lơi lả ánh nhìn.”

(Chiều ta về)

- “Chẳng rình em tắm như người ta

Anh sỗ sàng dụ em buông thả

Vội vã thành đàn bà

Ngơ ngẩn làm "vợ người ta"

Em mặc miệng đời bủa vây mai mỉa

Lời yêu nuốt sâu cuống họng

Em thị phi khác thường...”

(Bến đợi)

- “Thì...

Ngủ với nhau một đêm

Ta nếm môi nhau một bận

Ta lần ngực nhau một bữa

Cho chừa cái nết sợ đêm.”

(Sợ đêm)

- “Vội vã cuống cuồng quấn chặt nhau

Chẳng vì yêu

Chẳng vì đầu mày cuối mắt

Ngấu nghiến nhau chỉ giải nghiền cơn khát

Trách móc làm gì câu nói đầu môi.”

(Tình vội)

- “Em hững hờ thả từng lọn trăng suông

Anh nén thở đè muôn ngàn con sóng

Vòng tay ôm có phần em lơi lỏng

Khẽ co người khi chạm khúc triều dâng.”

(Phía không em)

- “Em rướn mình hà hít nụ hôn anh

Tê tái lắm. Cuộc tình mình thật tội

Môi khóa môi mà sao xa vời vợi

Đêm cuống cuồng khỏa lấp nỗi chơi vơi.”

(Mơ trăng)

Những câu thơ cuống quýt yêu, bạo liệt yêu như thế xuất hiện trong thơ Đặng Xuân Xuyến khá nhiều và các chuyện tình trong thơ của anh cũng phần nhiều rơi vào những sự éo le, ngang trái. Với “Chuyện tình của "Mơ Trăng" là cuộc tình một bên cuống quýt được thỏa mãn cơn khát thèm thể xác, vội vã tận hưởng những phút giây ân ái, một bên lặng người, xót xa, tội nghiệp cho tình yêu "em" đang dâng hiến và cũng tê tái cho cuộc tình ngang trái của cả hai.” (Vài cảm nhận về 2 bài thơ tình của cậu học trò lớp 12 - Đặng Xuân Xuyến). Thì “Tình vội” lại là một chuyện tình đơn thuần chỉ là cuộc giao hoan giữa 2 thân xác, cả 2 lao vào nhau để tự giải tỏa những khát khao tình dục cho nhau còn chuyện tình của “Say yêu” thì đích thực là lời mời gọi khát tình của một kẻ cô đơn này với một kẻ cô đơn khác:

SAY YÊU

- Với T.L.A -

.

Yêu thương nhé. Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian

Uống nữa đi. Đây rượu ngọt. Môi mềm

Đêm lạnh lắm đừng để ta lẻ bạn.

.

Nào nâng chén cho sầu sầu rũ bỏ

Trút áo xiêm cho đêm bớt ngại ngần

Đây rượu nồng, men ủ đã nhiều năm

E ngại thế... Làm sao ta chẳng giận.

.

Thì ta biết thuyền em chưa bến đậu

Giấu mơ hoang vật vã đợi phong cuồng

Ta nhốt mình đằng đẵng mấy mùa ngâu

Nén lơi lả loạn điên nơi cõi mộng.

.

Ừ thì rượu. Ừ thì thơ. Ừ mộng đẹp

Ừ thì say cho hỉ hả phong trần

Đêm phập phồng, ngực nõn hứng trăng non

Môi đón lưỡi uống hương tình bất tận.

.

Yêu thương nhé.

Một lần thôi. Là đủ

Ta đâu cần gian díu giữa nhân gian...

*.

Hà Nội, đêm 11 tháng 04 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Trong thi ca Việt Nam, hầu hết những người đẹp trong các tiệc rượu của các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu... là gái giang hồ, là kỹ nữ... chỉ là khách mua vui của các thi nhân nhưng những người đẹp trong thơ rượu của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến (Say yêu, Em, Mơ đêm, Ở lại,...) lại là những người con gái khoác áo “con gái nhà lành” nhưng khát yêu, cuồng yêu vì cô đơn, vì những trắc trở của các cuộc tình... đến với thi nhân cũng chỉ để thỏa mãn những bức bách của dục tính gần như là tình một đêm, tình chớp nhoáng.

Đặng Xuân Xuyến đã bộc bạch quan niệm về thơ tình qua bài anh cảm nhận về tập thơ “Sóng ngầm” của nhà thơ Ngô Nguyễn:

Thơ Ngô Nguyễn ít có những giằng xé dữ dội của tâm trạng, của những ham muốn yêu đương xác thịt mà thường là những chuyển biến rất nhẹ nhàng, những xáo trộn tình cảm vẫn còn nằm trong sự “kiểm soát” và “giữ gìn” của lý trí, kiểu: Ừ thì,/ gió thoảng mây bay/ Ừ thì,/ chỉ cái chau mày/ nhếch môi....(Ừ thì)... của những nỗi buồn chơi vơi, của những xâm chiếm nhẹ nhàng hồn cốt: Được lời/ em đến thăm nhà/ Ngó cau/ cau mới đang hoa/ bao giờ (Mùa cau)... Tình yêu đấy “sạch” quá, “lành” quá. Ôi! Tình yêu! Phải có những lườm nguýt “ứ hự”, phải có những cắn, cấu, cong người, những “nổi loạn”, hả hê... thì mới sướng, mới khoái, mới đã, mới đích thực là tình yêu, chứ cứ lượn lờ mây trôi cá lội, í a í a thì quá chán... Vâng! Tôi quan niệm tình yêu phải vậy.”

Nhà thơ, nhà phê bình văn học Châu Thạch thì chắc nịch về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:

Phải chăng thứ tình yêu bình thường, những ân ái bình thường không đáp ứng được cho một trái tim nhạy bén, một tâm hồn thơ luôn mơ mộng sự trong trẻo, sự vô biên, dây quyến luyến vượt quá cuộc đời. Con người thật của Đặng Xuân Xuyến ra sao ta đâu biết được nhưng thơ Đặng Xuân Xuyến quả là đúng như vậy.”

Còn tôi thì chua thêm câu về thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:

Đặng Xuân Xuyến cuồng nhiệt yêu, bạo liệt yêu vì anh chưa thực sự được sống trọn vẹn với tình yêu!

*.

Hà Nội, ngày 1 tháng 12 năm 2021

VŨ THỊ HƯƠNG MAI

Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319

quận Long Biên, thành phố Hà Nội.

Email: huongmai8081@yahoo.com.vn

 

ĐỜI NGHỆ SĨ

(Tặng MC Lê Thanh Bạch)

 

Nước mắt ngược vào tim đắng chát?

Đời “con hát”

Kiếp tằm rút ruột nhả tơ

Mua vui mấy nhịp trống chèo

Ngẩn ngơ mây trôi bèo dạt...

*.

Hà Nội, 24 tháng 10. 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“ĐỜI NGHỆ SĨ” - NỖI CẢM THƯƠNG VỚI NGƯỜI NGHỆ SĨ

ĐỜI NGHỆ SỸ là bài thơ rất ngắn, của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ chỉ “vỏn vẹn” với 5 dòng thơ thôi nhưng đã khái quát được nỗi đau đời về thân phận của người nghệ sỹ:

Nước mắt ngược vào tim đắng chát

Đời “con hát”

Kiếp tằm rút ruột nhả tơ

Mua vui mấy nhịp trống chèo

Ngẩn ngơ mây trôi bèo dạt...

Đọc xong thấy buồn, giật mình thấy đời ai cũng vậy. Cái kiếp con tằm, nhả tơ làm đẹp đời cho đến tận lúc chết! Mà chết rồi cũng nào có được yên, lại phải bị đem luộc chín để lấy ra những sợi vàng óng ánh mà dệt thành gấm vóc dâng đời... 

Nước mắt ngược vào tim đắng chát”, cách diễn tả không mới nhưng cần để diễn tả nội tâm “gan ruột” của người nghệ sĩ.

CON HÁT - một cách gọi xưa cũ với người nghệ sỹ, nhưng chả khác mấy bây giờ, cho dù ánh hào quang chói lọi của sân khấu, cho dù những tràng vỗ tay ra rả, cho dù mức cat- xê khủng... nhưng người nghệ sỹ chỉ cần sơ xảy chút thôi sẽ bị khán giả quay lưng, khinh khi là con hát, là sướng ca vô loài ....

Giật mình nhận ra: ai cũng vậy! Một kiếp mưu sinh nhưng với người nghệ sỹ thì phải sắm nhiều vai lắm. Khi đèn sân khấu vụt tắt thì người nghệ sỹ không biết mình là ai nữa, sống thật với vai nào, bài hát nào?

Mua vui mấy nhịp trống chèo

Ngẩn ngơ mây trôi bèo dạt...

Thật buồn! Thật chua xót cho kiếp đời của người nghệ sĩ vô định như “mây trôi bèo dạt”... Chỉ là tiếng thở dài thôi mà sao nghe thấm lệ?

Hai câu thơ cuối đã làm nên bài thơ hay, bắt buộc người đọc phải nghĩ rộng ra: thân phận của kiếp người! 

Niềm vui quá ngắn ngủi, kiếp sống con tằm lại dài lê thê, thậm chí là vô định. Đời nghệ sỹ hay đời người đây? 

Ta chua xót nhận ra thân phận của kiếp người để hoạch định cho mình một cách sống.

*.

Thành Nam, 25 tháng 10.2016

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

ĐỜI KHÁT

- Thân tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam -

.

Này thì khát!

Uống cho đời đỡ khát

Rượu tình đời men ủ nhiều năm

Khát chất chồng

dồn nén

tháng năm

Ta đốt cạn cái đong đời cay đắng

 

Uống!

Thì uống!

Cho lì khoảng lặng

Cho lòng ta chạm được tới lòng người

Cho u buồn phiêu bạt tận biển khơi

Cho Nhật Nguyệt thẹn lòng mà hửng nắng.

 

Uống!

Thì uống!

Dốc cạn lòng cùng uống

Khát khao ơi hãy tan chảy tận cùng

Thế gian này dẫu sấp ngửa trắng đen

Ta như bạn sống một đời không thẹn.

 

Uống!

Thì uống!

Ngán chi mà không uống!

Rượu tri âm thêm vững mạnh bước đường!

*.

Hà Nội, ngày 30 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

“ĐỜI KHÁT” VÀ TÌNH NGƯỜI NGHỆ SĨ

Đời Khát với lời đề tặng nghệ sĩ Võ Hoài Nam là cuộc rượu của đôi bạn, một nhà thơ và một nghệ sĩ. Hiển nhiên rượu phải ngon và quý: Rượu tình đời men ủ nhiều năm. Họ khát gặp nhau và khát cả rượu nên cuộc đối tửu là một trận càn khôn túy lúy:

Này thì khát!

Uống cho đời đỡ khát

Rượu tình đời men ủ nhiều năm

Khát chất chồng

dồn nén

tháng năm

Ta đốt cạn cái đong đời cay đắng

Họ liên tiếp chuốc rượu mời giục nhau trong ba khổ thơ liên tiếp khổ nào cũng mở đầu bằng hai câu:

Uống!

Thì uống!...

Uống để cho hết u buồn, cho Nhật Nguyệt hửng nắng, cho lòng ta và lòng bạn không hổ thẹn giữa một thế gian “sấp ngửa trắng đen”, và để: Rượu tri âm thêm vững mạnh bước đường! Đúng là thi nhân, nghệ sĩ say thì chữ nghĩa tràn chiếu rượu

Thân phận nhà thơ Đặng Xuân Xuyến thì bạn đọc đều đã biết, chỉ xin vài nét về tài tử Võ Hoài Nam để mọi người hiểu thêm về kèo rượu của đôi bạn.

Bố mẹ Võ Hoài Nam ly hôn khi anh mới lên hai, kể từ đó, Võ Hoài Nam sống như một đứa trẻ không có gia đình. "Đầu đường, xó chợ đã dạy tôi nên người”. Đấy là lời dũng cảm anh tự nói ra. Trở thành diễn viên chính trong series phim "Cảnh sát hình sự", Võ Hoài Nam được coi là một trong những tài tử hàng đầu của điện ảnh phía Bắc. Khi đang ở đỉnh cao của sự nghiệp, anh bất ngờ rời xa màn ảnh cùng vợ mở quán ăn để có đủ cơm áo chăm lo cho đàn con 4 đứa..

Võ Hoài Nam tâm sự: "Đối với tôi, tiền không phải là tất cả, tiền không đánh đổi được tình nghĩa, hạnh phúc gia đình. Nghĩ vậy nên tôi dừng lại, không dấn thêm một bước nữa". Thật không hổ thẹn khi không ham tiền và ham sự nổi danh dưới ánh đèn sân khấu.

Đúng như câu thơ Đặng Xuân Xuyến:

Ta như bạn sống một đời không thẹn

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

VIẾT CHO NGÀY VALENTINE

 

Có lẽ xưa đường tu vụng dại

Vung vãi tình giờ nghẹn đắng chữ yêu

Ta nhìn người mà rậm rật bờ môi

Cứ da diết vòng tay tình chồng vợ.

 

Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng

Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường

Ta rụt rè ngóng gió muôn phương

Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng...

 

Tình yêu ơi sao xa xỉ thế

Đến bao giờ thoát khỏi bến mê

Đến bao giờ hết rầu rĩ tái tê

Lại hối hả dệt mộng lành ân ái...

 

Ừ, đừng nói đạo người phải trái

Tình bán mua soi kỹ làm gì

Chót nhỡ nhàng phận hẩm duyên thiu

Thì cũng cố vê tròn chữ nghĩa.

Thôi, ta mặc lời người độc địa

Cố nín câm giữ biển lặng sóng ngầm

Ta gồng mình giữ chặt vẻ trầm ngâm

Chầm chậm bước giữ nhịp đời thật chậm.

 

San niềm vui gom vội niềm cay đắng

Ta cuộn mình sống hết kiếp nhân sinh.

*.

Hà Nội, đêm, 14 tháng 02 năm 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐÔI LỜI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “VIẾT CHO NGÀY VALENTINE”

Đọc bài thơ “Viết cho ngày Valentin” của Đặng Xuân Xuyến lòng ai không khỏi ngậm ngùi, không thấy nuối tiếc cho những cuộc đời một đời lỡ dở trong tình yêu đôi lứa. Thứ tài sản quý nhất ở đời mà trời đất đã ban cho mỗi người sinh ra trên mặt đất này, ta đã được cầm trong tay nhưng vô tình để tuột rơi tan vỡ, giờ nghĩ lại chỉ còn biết đổ cho phận số:

Có lẽ xưa đường tu vụng dại

Vung vãi tình, giờ nghẹn đắng chữ yêu.

Ngày Valentin, ngoài đường nườm nượp những lứa đôi chồng chồng, vợ vợ, nhìn những bó hoa tình yêu người ta trao tặng cho nhau mới thèm khát biết bao những cử chỉ hạnh phúc, những vòng tay êm ái mà ta không biết nâng niu gìn giữ khi tuổi trẻ còn phơi phới cùng bao mơ ước ngông cuồng tiền bạc, lợi danh ta đã nhầm lẫn tưởng nó giúp ta dựng nên được những lâu đài hạnh phúc vững bền, khi nhận ra điều này thì đã muộn:

Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng

Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường

Ta dụt dè ngóng gió muôn phương

Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng…

Có lẽ, đến cả những anh hùng vĩ nhân từng dọc ngang trời đất, từng chiến thắng hết thảy mọi gian nguy khi rơi vào cảnh cô đơn này cũng trở nên bất lực.

Ta dụt dè ngóng gió muôn phương

Chỉ còn đợi giữa muôn điều may rủi nơi số phận mình đem lại. Lúc này mới tỉnh thức về lẽ sống ở đời, có thể giành giật, mua bán chiếm đoạt được mọi thứ có ở trên đời, riêng với tình yêu thì không có thể mua bán chiếm đoạt. Nó chỉ đến cùng và ở mãi cùng ta bằng những yêu thương giao cảm chân thành. Một ánh mắt gửi trao, một lời yêu an ủi có khi nặng hơn vàng cân, bạc nén. Ta hãy nghe câu hát của những kẻ áo rách vá vai mà vẫn hạnh phúc biết bao:

Chồng em áo rách em thương

Chồng người áo gấm sông hương mặc người

Nhất thời, cuộc sống nơi này, chỗ kia kẻ nọ, đang bị cuốn vào vòng xoáy mua bán đổi trao hết thảy tính bằng bạc tiền nhưng rồi cái giá để có được tình yêu sẽ làm họ tỉnh lại. Chẳng thế sao Đặng Xuân Xuyến lại thốt nên lời:

Tình yêu ơi sao xa xỉ thế!

Nó đắt lắm không tính được bằng tiền, không chinh phục được bằng tước quyền danh vọng, chỉ có thể đến được với nhau, ở mãi trong nhau khi cùng một nhịp trái tim mãi đập chân thành. Tác giả vừa thức ngộ cho mình vừa như nhắc nhủ người khác:

Đến bao giờ thoát khỏi bến mê

… Lại hối hả dệt mộng lành êm ái…

Thức ngộ được cuộc sống này, người tốt kẻ xấu, tình thắm đượm, nghĩa phôi pha đang xảy ra ở khắp mọi nơi, đếm xỉa hết thảy chẳng để làm gì:

Ừ, đừng nói đạo người phải trái

Tình bán mua soi kỹ làm gì

Chót nhỡ nhàng phận hẩm duyên thiu

Thì cũng cố vê tròn chữ nghĩa

Người tốt không phải bao giờ cũng gặp được người tốt để thủy chung gắn bó. Đau đến vậy, nhưng là người cầm bút làm thơ thường khác với người đời là không vì người phụ ta mà ta phụ lại người, tự nhận lấy không may “phận hẩm duyên thiu” để sống giữa đời này và mỗi câu thơ viết ra để mong con người sống tốt đẹp hơn, thương nhau, yêu nhau chân thật không lọc lừa giả trá. Và Đặng Xuân Xuyến rút ruột trải lòng:

Thôi ta mặc lời người độc địa

Cố nín câm giữ biển lặng sóng ngầm

Chầm chậm bước giữ nhịp đời thật chậm

Tình yêu là hoa, là hương, là trời xanh mây biếc. Có được tình yêu, có được hạnh phúc thật sự trên đời ta như chắp cánh lượn bay tới cõi trăng sao. Nhưng yêu cũng lại là niềm bất hạnh không gì sánh nổi.

Qua những dòng thơ Viết cho ngày Valentin” của Đặng Xuân Xuyến như nhắc cùng ta hãy biết trân trọng giữ gìn những gì có được trong tay đã là hạnh phúc, không gì thay thế được.

*.

Hà Nội, tháng 07 năm 2016

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

TIM ĐAU

 

Chẳng biết nữa

Con tim đã bao lần chắp vá

Thêm một lần đau nữa

Có sao đâu.

 

Hắt hiu chiều

Xao xác gió vu vơ

Lời hẹn ước ném chềnh hềnh đầu ngõ.

 

Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ

Vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy

Ta sẽ cố để không ai thấy

Héo hắt chiều

Sưng tấy trái tim yêu.

*.

Hà Nội, chiều 03 tháng 05 năm 2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM HƯỞNG “TIM ĐAU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ Tim Đau của Đặng Xuân Xuyến là một bài thơ có nỗi lòng, có tâm trạng, có ma lực ám ảnh, gây xúc cảm cụ thể mà phiêu diêu, ngôn ngữ thẳng tưng mà vẫn mênh mang ý tứ, cấu từ chữ nghĩa đời thường, không cầu kỳ trau chuốt mà thu hút...

Thú thật, thoạt lướt qua bài thơ cảm tưởng nhịp thơ tuần tự, đều đều như khúc hành ca mốt hai mốt sẽ tẻ nhạt... nhưng “bập” vào thấy khẩu khí, tốc độ chữ nghĩa kết tinh chuyển động tự nhiên, hồn vía bâng lâng, bảng lảng... Chỉ tiếc ở ngay câu đầu nhà thơ đã điềm đạm quá, tỉnh quá mà điềm tĩnh tung ngay tố từ: “Chẳng biết nữa”, làm giảm sức gợi mở và khí tiết bài thơ. Cứ đi thẳng, tạo cấu tứ ngay từ “Con tim đã bao lần chắp vá”, không có “Chẳng biết nữa” làm cánh cửa mở hờ hững, khem khép như thế thì câu thơ chân thành, trung thực, tự nhiên sẽ làm ảo ảnh rầm rầm chuyển động...

Câu tiếp sau: “Thêm một lần đau nữa/ Có sao đâu.”, tiếp ứng câu trước, khí liền mạch tạo dựng tứ thơ. Đọc đến đây chẳng ai lại cho đấy là cơn đau tim của bệnh lý, của cơn đau xác thịt mà là cơn đau của tâm sinh lý, của biểu hiện con tim hồn đang run rẩy, đau đớn trước những trắc ẩn, “chắp vá”, được mất của tình chồng vợ - lứa đôi. Tác giả thật khéo léo và thông minh khi viết Tim Đau (chứ không phải là Đau Tim), để nhấn nỗi đau tinh thần, nỗi đau tình cảm trong duyên nghĩa vợ chồng - đôi lứa. Phải kiên cường, cao đạo lắm thì mới vượt qua được những cơn đau, những lần “chắp vá của trái tim yêu, để lòng thánh thiện tự vấn tự thán: “Con tim đã bao lần chắp vá/ Thêm một lần đau nữa/ Có sao đâu”. Riêng đoạn này, khổ này có thể đã là một bài thơ. Nhưng không, nhà thơ vẫn tiếp: “Hắt hiu chiều/ Xao xác gió vu vơ”. Lại thêm hai chữ “vu vơ”, nhà thơ lại mắc vào tính cẩn thận không cần thiết. Chữ “vu vơ” đã làm giảm nhịp điệu thơ, ì ạch tốc độ và nhòe mờ tâm ảnh thơ. Theo tôi, nhà thơ nên bỏ chữ “vu vơ” cho chiều thêm “hiu hắt”, gió thêm “xao xác” mông lung, câu thơ sẽ khắc họa bóng dáng tâm khảm bâng lâng, buồn buồn mà thanh cao thi vị, để thấy “lời hẹn ước ném chềnh hềnh đầu ngõ”, thấy cái tình đời mờ tỏ thực hư: “Ta dẫu biết trăng lúc mờ lúc tỏ” mà “vẫn không quen lời yêu chóng hao gầy”, để mà đắc đạo, chịu chấp nhận âm thầm đơn độc trong cuộc tình đôi lứa, để “không ai thấy”... “Héo hắt chiều/ Sưng tấy trái tim yêu.”.

Ôi buồn quá! Cái buổi chiều bảng lảng hoàng hôn như kiếp con người cuối thu sương khói. Nhưng thật vui sướng thay, sau bao lần “chắp vá”, vẫn thấy trái tim còn nguyên vẹn. Nếu trái tim đã vỡ nát thì làm sao “sưng tấy” được “trái tim yêu”?! Hình ảnh “Trái tim yêu sưng tấy thật độc đáo, mới lạ, thật cảm động, hạnh phúc, đã thánh thót ngân lên khúc ca: Được yêu, được đau, được chắp vá để được trái tim yêu trọn vẹn!

TIM ĐAU là bài thơ ngắn gọn, súc tích, dễ đọc, dễ cảm nhưng thật khó bình. Chắc nhà thơ cũng phải trăn trở quằn quại lắm, phải trung thành và trung thực trở lại với chính mình, với chính trái tim thổn thức của mình mà đối ngẫu, đối cảm, phát tiết xúc cảm buồn mà cao sang, đau mà ngọt ngào thi vị...

*

Hà Nội, ngày 17 tháng 04.2016

NGUYỄN ĐĂNG HÀNH

Địa chỉ: Thôn Khoan Tế, xã Đa Tốn

huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.

Email: nguyendanghanh1234@gmail.com

 

MEN ĐẮNG

 

Đây men rượu hơn 15 năm trước

Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn

Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run

Thon thót sợ vô tình gặp lại.

 

Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại

Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa

Cạn ly này có quên được chuyện xưa?

Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?

 

Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo

Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ

Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ

Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.

 

Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ

Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ

Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ

Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.

 

Ừ ly nữa

Ừ thêm ly nữa

Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa

Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa

Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.

*.

Hà Nội, đêm 10 tháng 12.2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM XÚC VỚI BÀI THƠ “MEN ĐẮNG”

Vô tình đọc được bài thơ hay Men đắng của tác giả Đặng Xuân Xuyến, tôi phải đọc đi, đọc lại vài lần cho chất men ủ 15 năm nó thấu tâm can, luồn vào những ngõ ngách của quá khứ với những trắng đen của nhân tình thế thái lắng tận đáy lòng rồi bật ra những rung cảm cùng với những cảm xúc mà trong đó có một chút xót xa, một chút nuối tiếc, một chút ngậm ngùi chua chát… và những cảm xúc đó trộn lại biến thành những nỗi đau của chính mình để ta có thể thấu hiểu được nỗi đau của tác giả đã trải vào trong thơ.

Bản chất cố hữu của người đàn ông, hầu như chẳng thể nào quên được những dĩ vãng dù nó cay đắng như thế nào đi nữa, trong lòng họ luôn mang theo trong suốt cuộc đăng trình của cuộc đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay. 15 năm mới chỉ là một quãng đường để nhìn lại, một lúc nào đó ta cảm thấy trống vắng cô đơn nơi một góc nhỏ, bất chợt trong góc khuất của tâm hồn bị tác động bởi một cơn mưa, bởi một buổi chiều nắng ráng hiu hắt những tia nắng mỏng manh cuối chiều lùa trên những ngọn cỏ úa vàng hay một cơn gíó xào xạc cuốn những chiếc lá vàng rơi chao trong chiều thu hoang tịch lạnh lẽo… đánh động ký ức trỗi dậy như cuốn phim chiếu chậm, lôi mọi thứ từ trong tiềm thức ra bày biện rồi dày vò tâm trí mà cứ ngỡ sự việc mới xảy ra ngày hôm qua….

Đôi khi chỉ ta với chiếc bóng quạnh hiu bên chén rượu cay nồng, chất men đắng đậm thêm bới chất men của dòng đời 15 năm thấm vào huyết mạch đánh thức bộ nhớ để cho ta bất ngờ thấy hụt hẫng với vòng tay trống lạnh như tác giả đã khởi đầu:

Đây men rượu hơn 15 năm trước

Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn

Ngoái đầu nhìn vẫn hồn lạc chân run

Thon thót sợ vô tình gặp lại.

Muốn quên nhưng không thể quên được vì những ám ảnh của ngày xưa đã trở thành một vết hằn sâu trong tâm thức. Ta tung hoành ngang dọc, phỉ chí tang bồng, đội đá vá trời lấp biển chẳng có gì có thể cản bước nhưng lại mềm nhũn dưới cái bóng của người đàn bà, cứ ngỡ hai tâm hồn đã đồng điệu, và với đôi bàn tay mềm mại ấy sẽ xoa dịu những vết chai sần trong trái tim bởi khắc nghiệt của sóng gió bể dâu, cứ ngỡ là nơi chốn bình yên sau những phong ba dâu bể để ta đi về tìm những phút giây yên bình… nhưng ngờ đâu:

Ừ ly nữa. Cớ chi phải ngại

Ta cứ say. Mặc thiên hạ phỉnh lừa

Cạn ly này có quên được chuyện xưa?

Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?

Vết thương rồi có thể sẽ lành, nhưng vết sẹo thì theo ta mãi mãi và nó cứ khơi lại những vết đau lòng âm ỷ, có khi nó quật ngã cả một cuộc đời nếu như ta sống buông thả bất cần nghĩ đến ngày mai và những gì hiện hữu chung quanh mình:

Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo

Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ

Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ

Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.

Khi ta chấp nhận hy sinh và bỏ lại sau lưng những tráo trở của lòng người với chấp ngã sân si, chấp nhận đằng sau sự im lặng là tiếng đời gán cho ta những đốn mạt đớn hèn… Chấp nhận để buông bỏ và ta cảm thấy mình ở một tầm cao khác nhưng ta vẫn cảm thấy hụt hẫng vì những điều không thể ngờ tới:

Đau. Đau lắm. Lặn ngược dòng lệ rỏ

Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ

Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ

Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.

Rồi ta đau, vì kẻ đã cùng ta một thời nồng ấm, ta đau vì một thời đã chẳng tiếc sự hao mòn thể lực và trí tuệ để vun vén một tổ ấm, cứ ngỡ trăm năm tuế nguyệt viên mãn đi đến tận chân trời hạnh phúc nào ngờ chết lặng giữa đường đời không lời phân tỏ…

Nhưng với tác giả tôi tin rằng anh đã và sẽ tiếp tục tiến lên phía trước với tấm lòng bao dung quảng đại. Như tôi đã nói, tâm trạng tác giả chỉ là một lúc bộc phát bởi ngoại cảnh chi phối, anh có thể say mềm trong đêm nay để quá khứ vật vã, nhưng rồi mai anh sẽ lại đứng lên tiếp tục cuộc hành trình của mình…

Ừ ly nữa

Ừ thêm ly nữa

Ừ thì say! Ừ quên quãng sống thừa

Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa

Ta cạn chén đón bình minh trước cửa. …

Nghiền ngẫm bài thơ xong đã lâu mà dư âm cứ lắng đọng mãi trong lòng. Trong cuộc đời mỗi người chắc có lẽ ai cũng một lần đổ vỡ, cay đắng bởi những tráo trở của thói đời đen bạc và phản trắc, có thể là từ một cuộc tình, có thể từ những việc khác, từ những mối quan hệ khác, từ đó ta có những chiêm nghiệm cho bản thân và thấu hiểu được nỗi lòng tác giả trải vào thơ.

Bài thơ hay không phải vì cách dùng từ ngữ bay bướm hay kỹ thuật điêu luyện tung hứng con chữ. Bài thơ chỉ dùng những từ ngữ đơn giản nhưng bắt nguồn từ những cảm xúc rất thật trải đều lên con chữ theo nhịp điệu thổn thức từ những nỗi đau, sự trăn trở từ một con tim chân thành và như một lời tự sự đầy day dứt… khiến ai đọc cũng nao lòng.

Tôi không phải là người chuyên bình thơ, tôi chỉ là bạn thơ của tác giả Đặng Xuân Xuyến nên cảm nhận không đủ sức đào sâu thêm vào những ngõ ngách sâu thẳm khác, với riêng tôi bài thơ đã đạt được nghệ thuật nhân sinh hiện hữu để có một giá trị nhất định trên con đường sáng tác của Đặng Xuân Xuyến…

*.

Sài Gòn, 16 tháng 05/2017

NGUYỄN THÀNH

Địa chỉ: 158/15S, Hòa Hưng, phường 13

quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Email: rose61186nt@gmail.com

 

"MEN ĐẮNG" - BỮA RƯỢU ĐẦY CAY ĐẮNG

"Men Đắng" cũng là bữa rượu một mình không buồn nhưng lại đầy cay đắng vì một nghĩa vợ tình chồng đã tan vỡ, từ mười lăm năm trước về trong hơi men hôm nay, cũng là men rượu năm đó, cái men mà:

Chót nhấp môi ta trượt bước xuống bùn

Cho nên tay nâng chén mà trong lòng vẫn cảm thấy:

Thon thót sợ vô tình gặp lại.

Tự gật đầu với mình “Ừ ly nữa”, thêm rượu để cố quên đi nhưng:

Cạn ly này có quên được chuyện xưa?

Đau thương đấy đến ngày nào lành sẹo?

Và rồi chuyện xưa cứ hiện về rõ mồn một:

Ừ thì cứ trách ta bạc bẽo

Cứ rêu rao ta ân ái hững hờ

Nhưng đâu phải thế, mà chỉ vì:

Quá thật thà ta ra kẻ ngu ngơ

Ngớ ngẩn cược đời mình nơi kẻ chợ.

Người đã như yêu tinh, như hồ ly mà lại thêm trời cũng ăn ở bất công: Trời cao xa dung dưỡng lũ yêu hồ

Nên ta đành phải:

Cố vẫy vùng thoát xa khỏi chốn nhơ

Ta chết lặng nửa đời không phân tỏ.

Men Đắng đầy bi phẫn vì không biết phân tỏ cùng ai, tưởng như sẽ đẩy nhà thơ vào miền bế tắc. Nhưng may thay vẫn có một chút ánh sáng là khi cuối cuộc độc ẩm, nhà thơ đã nhận ra chân tướng không tốt đẹp gì của người đã đi qua đời mình nên tự gật đầu thêm cho mình ly nữa, ly nữa để quên đi cái bóng tà xưa và hướng tới một bình minh đang đợi:

Quên bóng tà lẩn khuất phía song thưa

Ta cạn chén đón bình minh trước cửa.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

TÌNH NỞ

 

Nở ơi… đận ấy… trăng hè

Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu

Ơn trời đêm ấy Chí liều

Cháo hành Thị Nở còn phiêu đến giờ.

 

Vườn trăng nhễ nhại chẳng ngờ

Hương tình Thị Nở tới giờ vẫn tươi.

*

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM NHẬN VỀ TÌNH NỞ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Chỉ mấy câu thơ ngắn gọn đã diễn đạt đến đỉnh cao của cảm xúc: cảm xúc xác thịt và cảm xúc tâm hồn. Đọc thơ, không ai không thấy máu nóng hình như cũng chảy rần rần trong da thịt mình trước cảnh ân ái dưới trăng của Thị Nở - Chí Phèo, hai con người bị dồn nén sinh lý lâu ngày. Đọc thơ ta cũng thấy yêu mến cái thứ tình chất phát trong tâm hồn của hai con người thật thà được bày tỏ qua tô cháo hành.

Ta thấy vườn trăng đêm ấy “nhễ nhại” nhưng không nhớp nhúa như những chốn lầu xanh đèn mờ, vì trong ánh trăng “nhễ nhại” đó nồng nàn một thứ “hương tình tới giờ vẫn tươi”.

Bài thơ nhắc đến Thị Nở và Chí Phèo, hai nhân vật trong truyện ngắn nổi tiếng có tên Chí Phèo của nhà văn Nam Cao xuất bản năm 1941, là một tác phẩm xuất sắc viết về tấn bi kịch của một nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội thời đó. Chuyện tình Thị Nở - Chí Phèo của nhà văn Nam Cao đã gây cảm hứng cho nhiều tác giả cảm tác về “Chí Phèo”, để cho ra đời những tác phẩm “Chí Phèo - Thị Nở” với diện mạo mới, tình tiết mới nhưng để diển tả hết cái chất nóng kích dục, cái hương tình âu yếm vọng đến trăm năm chỉ trong vài câu thơ ngắn gọn thì nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã thành công.

Chí Phèo là một tác phẩm văn học được nhà văn Nam Cao xây dựng những nhân vật chân thực, sống động, điển hình với ngôn ngữ tự nhiên, sinh động, gần với sinh hoạt của người nông dân thời phong kiến. Đây là một tác phẩm văn học đã phổ biến gần như với mọi người. Do đó nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã khôn khéo khi chỉ cần dùng những câu thơ ngắn, kích động được hồi ức của con người để hình ảnh của câu chuyện sống động lại trong lòng bạn đọc. Bài thơ không cần dài nhưng dựng được lại cả câu chuyện trong trí nhớ và cô đọng câu chuyện ấy trong chủ đề Tình Nở, tách và làm nổi bật phẩm chất ẩn chứa trong câu chuyện tình yêu độc đáo, vốn không đẹp dưới con mắt thường tình của đời.

Bằng hai câu thơ thôi, tác giả đã giới thiệu được nhân vật, thời khắc, khung cảnh, tâm lý nhân vật và toát yếu câu chuyện xảy ra:

Nở ơi… đận ấy… trăng hè

Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu

Đận ấy” là gì? Là tiếng địa phương của một vùng nào đó, chỉ về thời gian trong quá khứ, có nghĩa là lúc ấy hay thuở ấy. Khó có tác giả nào dám dùng chữ như thế, và sự “liều” dám dùng chữ “đận ấy” đã làm cho câu thơ trở nên mộc mạc, hòa hợp với câu chuyện của miền quê. “Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu”: Câu thơ hiển hiện lại đêm trăng trong trí óc ta, hiển hiện lại thân thể Thị Nở dưới trăng và làm nóng hổi trong đầu ta đoạn phim Chí Phèo cưỡng bức Thị Nở. Đọc hai câu thơ ta thấy gì? Ta thấy tình yêu diễn ra dưới trăng của hai con người dưới đáy xã hội không bần tiện chút nào. Nếu đọc chính truyện của Nạm Cao, không ai không cảm nhận trong đêm hôm đó, nhục dục của hai người trong truyện thiên về thú tính nhiều hơn. Qua thơ Đặng Xuân Xuyến, cái thú tính đó biến mất, chữ “giả ngây’ và chữ “cưỡng” không làm nặng nề bối cảnh mà cho ta hình dung được sự lý thú của hai con người tự nguyện đến với nhau.

Với hai câu thơ kế tiếp, tác giả cũng chỉ tóm tắt một phần thân bài của câu chuyện Chí Phèo nhưng gởi vào đó những từ ngữ làm nhẹ đi dục tính trong hành động của Chí Phèo và đặt vào câu chuyện một thứ tình đằm thắm, thiết tha như trở thành một kỷ niệm đẹp khắc trong lòng mỗi người:

Ơn trời đêm ấy Chí liều

Cháo hành Thị Nở còn phiêu đến giờ.

Với Chí Phèo thì không có “ơn trời” vì Chí Phèo chửi cả trời. Vậy “Ơn trời” là lời của tác giả với chủ đích như một lời trách nhẹ, trách âu yếm về cái hành động liều lĩnh của Chí. Chữ “phiêu” trong câu “Cháo hành Thị Nở còn phiêu đến giờ” cũng là lời của tác giả gởi vào lòng người đọc cái hơi nóng của tô cháo mà Chí Phèo đã thưởng thức trong đêm hôm ấy, làm cho “cháo” trở thành thú vị trong tâm tưởng ta ngày hôm nay. Hai câu thơ gây ấn tượng trong lòng ta, cho ta thấy một Chí Phèo ít thô lổ, ít cộc cằn hơn. Tình yêu của họ trở nên lý tưởng với tô cháo hành “còn phiêu đến giờ”. Từ đó, tác giả đã làm cho sự thích thú của Chí Phèo lan ra và kéo dài thời gian trong lòng người đọc thơ.

Và cuối cùng tác giả khẳng định hương thơm của tình yêu - của tính bản thiện - tỏa trong vườn trăng đêm ấy vẫn còn tươi mãi đến giờ:|

Vườn trăng nhễ nhại chẳng ngờ

Hương tình Thị Nở tới giờ vẫn tươi.

Sẽ có người không thích câu “Vườn trăng nhễ nhại” nhưng với tôi tác giả dùng chữ “nhễ nhại” vô cùng hợp lý. Nhễ nhại là ở trạng thái ướt đẫm, chảy thành dòng. Vườn trăng nhễ nhại là vườn tràn đầy ánh trăng nhưng ánh trăng không trong vắt. Đây là ánh trăng nhìn qua lăng kính của người thi sĩ. Họ nhìn ánh trăng qua tâm lý khi thấy cuộc tình đang diễn ra không phải là một cuộc tình nên thơ, có phần nhục dục. Cảnh và tình trong thơ phải hòa hợp với nhau, vì vậy tác giả phải khiến cho ánh trăng không còn trong như chính nó. Hai câu thơ cuối cho ta cảm nhận một thứ hương rất lạ, đó là thứ hương tình (bản thiện) của Thị Nở, một thứ hương tình hiếm có ở những người phụ nữ bình thường.  

Tình Nở là một bài thơ cho ta hai cảm xúc. Cảm xúc ở tâm hồn đem đến cho ta cảm nhận hương vị của một mối tình bình dân, chân chất và mộc mạc. Cái hương vị đó ta không tìm thấy khi đọc chính truyện của nhà văn Nam Cao. Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã đặt vào trong sáu câu thơ ngắn của mình những từ ngữ thích đáng như “ơn trời”, “giả ngây”, “cưỡng yêu”, “hương tình”, “vẫn tươi” để thi vị hóa cái đêm hôm đó, làm cho Tình Nở gây hình ảnh đẹp trong thơ và tạo ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc. Cái cảm xúc trong tâm hồn mà tác giả tạo ra trong thơ làm cho sự cảm xúc trong xác thịt bớt đi tính dục. Từ đó hơi nóng tình dục chảy trong người khi nhớ lại cảnh ái ân đầy bản năng dưới trăng không còn lõa lồ khó nhìn nữa, mà nó trở nên một bức tranh nghệ thuật tả chân.

Có thể nói, Tình Nở của Đặng Xuân Xuyến đã cô đọng thi đề, thi tứ, thi ý trong những câu thơ súc tích. Thơ ngắn nên sức khái quát thật cao. Sự lựa chọn để miêu tả những khoảng khắc dồn nén thật đúng lúc và tuyệt vời. Bài thơ cũng tạo một cái nhìn mới vào truyện ngắn Chí Phèo mà từ lâu, đã được giảng dạy ở học đường theo một định hướng không hoàn toàn của nó ./.

*

Đà Nẵng, ngày 13/04/2017

CHÂU THẠCH 

(Tên thật: Trương Văn Trạn)

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

Email: truongvantran@hotmail.com

 

TÔI NGHE

 

Tôi nghe...

Quan đầu tỉnh xứ Thanh

Cung phụng bồ nhí siêu xe bạc tỉ

Biệt thự rải khắp nơi

Chiếm đất vàng phố thị

Còn ủ mưu đầu cơ chính trị

Bợ gót đưa “nàng” vào cơ cấu

Quan thật giầu!

Quan tính kế thật sâu!

Quan lấy tiền từ đâu?

Từ bòn rút dân đen?

Hay tận vét bằng trò buôn quan bán chức?

 

Tôi nghe...

Quan đầu tỉnh xứ Bái khử nhau

Hệt như phim hình sự

Vì ân oán tư thù?

Vì ăn chia không đủ?

Vì lật lọng bảo kê ghế ngồi cơ cấu?

Tháng Tám mùa thu

Tám phát giang hồ

Khô khốc nổ

Niềm tin gục đổ

Náo loạn lòng người

Choáng váng tình đồng chí.

 

Tôi nghe...

Quan đầu tỉnh Hà Giang

Thiết lập vương triều nhà Triệu

Này thì vợ

Này em trai

Này thêm chồng em gái

Mật ngọt ruồi bu

Khoanh vùng chia nhau cát cứ.

 

Tôi nghe...

Đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi

Ba năm tới trường bằng mượn áo rách của anh

Bà Lò Thị Phanh

Bệnh viện trả về

Không tiền thuê xe

Xác cuốn chiếu

Gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.

 

Tôi nghe...

Những mảnh đời khốn khó

Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ

Có câu tức nước ắt vỡ bờ

Khi niềm tin rạn vỡ.

*.

Hà Nội, chiều 21 tháng 09 năm 2016

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Ở tuổi “Cổ lai hy” rồi, trái tim chẳng dễ gì xúc động, vậy mà đọc bài thơ “Tôi nghe” của Đặng Xuân Xuyến thật khó cầm lòng. Chỉ với năm khổ thơ ngắn đưa lại những thông tin, sự kiện đã và đang xảy ra ngoài xã hội, gần như ai cũng biết, nhưng khi nó được dồn nén bằng những câu chữ thành dòng dài ngắn, thành một bài thơ, những sự kiện rời rạc kia bỗng gợi nên những tương phản buồn vui của đất nước không của riêng ai những tháng năm này.

Chuyện vị quan đầu tỉnh xứ Thanh dùng bồ nhí thao túng cơ cấu chính trị tỉnh đâu còn là chuyện riêng của xứ Thanh. Cái chết một lúc ba nhân vật đứng đầu của tỉnh Yên Bái không được giải thích nguyên nhân, đâu chỉ là sự báo động của riêng Yên Bái? Chuyện tưởng không có gì ở Hà Giang:

Quan đầu tỉnh Hà Giang

Thiết lập vương triều nhà Triệu

Này thì vợ

Này em trai

Này thêm chồng em gái

Đọc xong những câu thơ, liệu có ai nghĩ chuyện này chỉ riêng ở Hà Giang!

Còn bao chuyện tha hóa biến chất của các quan chức nhà nước cấp tỉnh, cấp trung ương, có việc đã lộ ra như nguyên thanh tra chính phủ Trần Văn Truyền về hưu, mới biết ông đã can tội tham nhũng (chưa có án xét xử). Rồi gần đây là vụ ông Trịnh Xuân Thanh lãnh đạo ngành xây lắp dầu khí làm thất thoát hơn 3.000 tỷ, đơn vị vẫn được hai lần tặng thưởng huân chương, phong tước anh hùng, để điều chuyển về làm phó chủ tịch tỉnh nọ, lại đắc cử nghị viên quốc hội mới bị phát hiện. Đích danh tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ thị các cơ quan trách nhiệm phải làm rõ việc này đưa ra ánh sáng, xét xử. Dù ông Thanh đã cao chạy xa bay thì vẫn còn đó cái lệnh truy nã toàn cầu…

Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe” nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả.

Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện:

Tôi nghe...

Đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi 

Ba năm tới trường bằng mượn áo

                                                rách của anh

Bà Lò Thị Phanh 

Bệnh viện trả về

Không tiền thuê xe

Xác cuốn chiếu

Gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.

Một em bé ba năm tới trường với chiếc ao đi mượn, lại là chiếc áo rách và chiếc áo rách ấy theo em cả lúc xuống mồ. Hỏi còn gì tủi cực hơn cho một tâm hồn ngây thơ trong sáng, và một kiếp người! Bàng hoàng hơn, ở thế kỷ 21 này và ở Việt Nam mình mà có hình ảnh một người chết ở bệnh viện, không có tiền thuê xe, cuốn trong chiếc chiếu, chở xe thồ hơn trăm cây số!

Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri.

Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!

Bài thơ không cần đoạn thứ năm:

Tôi nghe...

Những mảnh đời khốn khó

Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ

Có câu tức nước ắt vỡ bờ

Khi niềm tin rạn vỡ.

Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.

*

Hà Nội, ngày 06 tháng 10.2016

CHỬ VĂN LONG

Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.    

Email: haicv08@gmail.com

 

VÀI LỜI VỀ BÀI THƠ "TôI NGHE..." CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Khi cảm nhận về bài thơ "Tôi nghe", nhà thơ Chử Văn Long viết:

Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!

Nhưng tôi không đồng thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận của ông về Tôi nghe:

“Bài thơ không cần đoạn thứ năm:

Tôi nghe…

Những mảnh đời khốn khó

Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ

Có câu tức nước ắt vỡ bờ

Khi niềm tin rạn vỡ.

Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.”

vì khổ thơ cuối không chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến đấu như thế?.

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

CUỒNG YÊU

 

Ta đầu hàng! Xin tạo hóa buông tha

Mệt mỏi lắm Kiếp cư Tài hãm địa

Nát Phu-Thê bởi chềnh hềnh Cô-Quả

Sao nỡ bồi hội Phá-Phục-Hình-Riêu?

 

Ta sợ rồi những phép thử tình yêu

Đã Tham hãm còn đặt Đào trực chiếu

Kiếp trai lơ nhiễu nhương tình dâm loạn

Hội Riêu-Đà thêm bi lụy chiếu chăn.

 

Cơ-Lương-Thìn gặp Tuần-Triệt cắt ngăn

Khiến Phu-Thê đảo chao bao trắc trở

Ngắm thiên hạ líu lo tình chồng vợ

Thêm mủi lòng cời bếp lửa trơ vơ.

 

Đêm vặn mình cạn kiệt những hoang mơ

Ngày lặng lặng gặm khối tình man dại

Xúi Tam Minh cúi đầu nghe vô lại

Ngạo nghễ cười Riêu nhập chủ dâm bôn.

 

Giữa hồng trần lẳng lặng chọn cô đơn

Sát Tý-Ngọ hội Kiếp-Riêu thành khốn

Gái dại giai rải tình trăm bến bãi

Trai trải lòng hoang hoải những bờ vai.

 

Vợ chồng mình nào khác vợ chồng ai

Cũng ái ân cũng ánh nhìn đằm đắm

Sao người ta nói cười vui vạn dặm

Còn mình thì lệ ngược chảy vào tim?

 

Có lẽ vì Mã-Lộc hội Phá-Tham?

Hay sát tinh gặp Âm Dương lạc hãm?

Ừ. Tham-Sát hội cung nên thê thảm

Gái giang hồ, trai tứ chiếng đề tên?

 

Mệt lắm rồi! Xin tạo hóa lãng quên

Buông Mã-Lương đóng ở nơi Tỵ-Hợi

Đời mỉa mai: lũ loạn dâm, làm đĩ

Gột bao giờ mới hết được tiếng nhơ?

 

Đạo vợ chồng nào đâu dám thờ ơ

Nhưng Tử-Tham ở cùng nơi Mão-Dậu

Uẩn khúc đấy, tình trường này, cố giấu

Cửa thiền môn xin dựa bóng sớm chiều!

 

Biết phận mình khoác số kẻ cuồng yêu

Tình chồng vợ như trưa chiều đổi áo

Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu trở tráo

Cũng dâm ô, đắc kép tựa Mã-Đào

 

Số phận này oan nghiệt bởi trời cao

Ta phẫn uất. Hận bàn tay tạo hóa

Trời cao hỡi! Trời cao ơi! Đểu quá!

Cho đẹp rồi lại phá bởi cuồng yêu!

*

Hà Nội, chiều 10 tháng 11.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẾN VỚI BÀI THƠ MANG HỒN CỐT TỬ VI

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thơ và tử vi hòa trong máu của Đặng Xuân Xuyến. Thơ là tiếng lòng anh. Tử vi là tự nghiên cứu và chiêm nghiệm, soi đời mình trong lá số, đặc biệt là soi sự đổ vỡ trong tình yêu của chính anh. Có lẽ vì thế, anh tung lên facebook bài thơ - CUỒNG YÊU. Cuồng yêu là bài thơ chỉ những người biết về tử vi mới hiểu, những người ngoại đạo chỉ cảm bằng thơ, nhưng hiểu sâu xa đến cội nguồn thì chỉ lơ mơ.

Bình bài thơ này tôi không bình về nghệ thuật thơ, mà chỉ chú giải các sao trong tử vi trong bài thơ để mọi người hiểu về bài thơ.

Mở đầu bài thơ nhà thơ viết:

Ta đầu hàng! Xin tạo hóa buông tha

Mệt mỏi lắm Kiếp cư Tài hãm địa

Nát Phu-Thê bởi chềnh hềnh Cô-Quả

Sao nỡ bồi hội Phá-Phục-Hình-Riêu?

''Kiếp'' là sao Địa Kiếp trong tử vi, được gọi là hung tinh, đóng ở đâu phá ở đấy, đặc biệt ở ''cung Tài - ''tiền tài'' hãm địa sẽ làm cho tiền bạc của con người gieo neo, khổ ải. Thậm chí vong gia bại sản, sự liều lĩnh của sao Địa Kiếp - Địa Không còn dẫn tới ngục tù.

Địa Kiếp đóng ở cung miếu địa lại rất tốt, đặc biệt những người sinh vào tháng tư, tháng mười lại được hưởng thế mạnh của hung tinh, chắc chắn trong đời sẽ một thời đại phát, tiền của ùa vào như sấm.

Dù miếu địa, nhưng Địa Kiếp - Địa Không độc thủ, tính chất khác hẳn khi đồng cung với các sao khác, sẽ mang đến những may, rủi khác nhau cho những người có năm sinh khác nhau.

Bàn về sao Địa Kiếp - Địa Không sẽ tràng giang đại hải, trong bài viết này tôi chỉ bàn khái quát, chủ yếu bàn Kiếp-Không đi với hai sao Đào Hoa và Hồng Loan

Về nguyên lí: Địa Kiếp- Địa Không đi với Đào-Hồng là tơ duyên trắc trở, éo le, oan trái. Nếu đi thêm với sao Thiên Hình thì oan nghiệt, thậm chí tự tử vì tình. Mức độ tàn phá của Địa Kiếp- Địa Không cho mỗi lá số khác nhau, có thể chia li chồng vợ, có thể bị cưỡng hiếp, có thể bị sát phu, hoặc sát thê, có thể phụ nữ phải làm nghề bằng vốn tự có... hoặc đi tu rồi lại vấn vương trở về cõi tục

''Nát Phu Thê bởi chềnh hềnh Cô - Quả'', Cô - Quả là hai sao Cô Thần và Quả Tú, chỉ cần một trong hai sao Cô Thần - Quả Tú đóng ở cung Phu - Thê sẽ dẫn tới cuộc sống vợ chồng luôn có một khoảng trống vắng trong tâm hồn khó hòa hợp, bởi Cô Thần và Quả Tú mang tính cô đơn, khó tính khó chiều. Nam kị Cô Thần nữ kị Quả Tú, vì hai sao Cô Thần và Quả Tú mà có những người phụ nữ xinh tươi, những người đàn ông tài giỏi lại vô duyên, do dự không thắng được lòng mình để quyết đến với tình yêu, và có người phải ở vậy đến già...

''Sao nỡ bồi Phá-Phục-Hình-Riêu''. Đời sống hôn nhân đã bị Cô Thần và Quả Tú làm lạnh lẽo rồi, lại thêm: ''Phá-Phục-Hình-Riêu'' nữa thì càng khổ hơn,

''RIÊU'' là sao Thiên Riêu, tượng là ''lông'', ý nhĩa là sao DÂM, Thiên Riêu đi cùng các sao khác sẽ mang ý nghĩa khác nhau. Cho nên có người lông tóc mượt; có ngươi lông tóc khô, cứng; có người nhiều lông; có người ít lông; có người tuổi trẻ mà đã có tóc bạc. Tính của Thiên Riêu là dâm, do vậy khả năng tình dục của mỗi người cũng khác nhau. Có người to khỏe mà khả năng tình dục kém, có người bé nhỏ khả năng tình dục lại tràn đầy như nàng Phi Yến mảnh mai.

Lông ở mắt ''lông mày'' là mái nhà của đôi mắt cũng báo hiệu khả năng tình dục của người ấy. Thiên Riêu cũng biểu hiện khả năng trực giác nhậy cảm. Cho nên có người lãnh cảm, có người thời gian ân ái lâu dài, có người chưa đi chợ đã hết tiền. Nhưng Thiên Riêu đi với sao Thiên Y- Ân Quang, Thiên Quí, lại hợp với sao Thiên Cơ- Thiên Lương lại tốt và đức độ. lá số ấy biểu hiện là thầy thuốc, lại thêm sao Hồng Loan nữa là thầy thuốc mát tay, đi với Thiên Hình là bác sĩ phẫu thuật giỏi, hoặc thầy thuốc châm cứu giỏi.

Trở lại câu thơ: ''Nát Phu Thê bởi chềnh hềnh Cô-Quả'/ sao nỡ bồi Phá-Phục-Hình-Riêu'' tác giả muốn miêu tả sự cay đắng, cô đơn, héo hon trong tình yêu đến tột đỉnh.

“Phá” là sao 'Phá Toái' - gây sự và xóa bỏ. ''Phục'' là sao Phục Binh biểu hiện âm mưu và ngầm phục chờ cơ hội để tác họa. Ôi, trong tình yêu mà âm mưu thì đầy nguy hiểm. tình yêu mà lăm le xóa bỏ sẽ dẫn đến chia tay, lại thêm Cô Thần, Quả Tú -lạnh lùng với Thiên Riêu dâm đãng, ngầm chứa con dao - ''Thiên Hình'' chia cắt thì oan nghiệt cho tình yêu biết bao. Ngôn ngữ - thuật ngữ của tử vi làm sâu sắc thêm cho thơ mà ngôn ngữ thường chưa đạt tới đỉnh:

Ta sợ rồi những phép thử tình yêu

Đã Tham hãm còn đặt Đào trực chiếu

Kiếp trai lơ nhiễu nhương tình dâm loạn

Hội Riêu-Đà thêm bi lụy chiếu chăn.

Tham là sao ''Tham Lang'' đệ nhị đào hoa tinh, ngôi sao lẳng lơ ngồi nơi ''hãm'' - trong bóng tối, nhìn Đào Hoa - ''gái đẹp'' khát thèm như người đàn ông nhìn phụ nữ bằng ánh mắt lột truồng người đẹp để thỏa mãn lòng dục ''tình dâm loạn'', ánh mắt nhìn ''trực chiếu'' như muốn nuốt chửng con mồi, và hội trong máu cả ''Phá-Riêu-Đà'' càng bi lụy, chung thân tân khổ trong việc ấy - chiếu chăn.

Phá - Đà là hai sao hung bạo, Riêu là sao dâm kết hợp với nhau là bạo dâm, đạo vợ chồng mà lại bạo dâm, mất hết tình cảm trở thành thô thiển và hoang thú, không có nhạc dạo, mà như ăn sống nuốt tươi mới buồn biết bao. Tác giả đã trải qua nỗi thống khổ ấy mới than, khóc như vậy

Cơ-Lương-Thìn gặp Tuần-Triệt cắt ngăn

Khiến Phu-Thê đảo chao bao trắc trở

Ngắm thiên hạ líu lo tình chồng vợ

Thêm mủi lòng cời bếp lửa trơ vơ.

''Cơ-Lương'' là hai sao Thiên Cơ và Thiên Lương, Thìn là cung Thìn. Cơ Lương là hai sao phúc tinh đóng ở cung Thìn rất tốt gọi là ''miếu địa'', đang ở nơi tốt lành an vui lại bị Tuần - Triệt ngăn cách. Tuần là tuần không, Triệt là triệt không, Tuần Triệt là hoàn cảnh khách quan ngăn trở

Về nguyên lí khi Tuần Triệt đóng ở cung Phu-Thê là vợ chồng phải xa nhau, có thể xa một năm hay nhiều năm. Xa nhau bằng bất cứ lý do gì. Có thể li thân, có thể vì làm ăn ở xa, đi nước ngoài, ...Có lẽ Đặng Xuân Xuyến đã có thời phải li thân - xa vợ nên mới dùng tính chất của hai sao Tuần-Triệt để thể hiện trong thơ rất đắt. Anh đau đớn nhìn cảnh những lứa đôi líu lo với nhau như chim ca hát mà tủi phận mình: ''mủi lòng cời bếp lửa trơ vơ''...

Giữa hồng trần lẳng lặng chọn cô đơn

Sát Tý-Ngọ hội Kiếp-Riêu thành khốn

Gái dại giai rải tình trăm bến bãi

Trai trải lòng hoang hoải những bờ vai.

Sát là sao Thất Sát, đóng ở cung Tí hoặc cung Ngọ là đắc địa, nhưng hội nhập với sao Kiếp và Riêu là hai sao hung tinh và sao dâm, cũng như người tử tế chơi với kẻ xấu bị ảnh hưởng, gần mực thì đen, thực tế ở đời có người chân thực - cương dũng bị kẻ xấu ''Địa Kiếp'' lôi kéo ám hãm vào sự dâm, như anh hùng khó thoát ải mĩ nhân cũng là chuyện thừờng Nhưng ở văn bản thơ: ''Gái dại giai rải tình trăm bến bãi'' như tố cáo người phụ nữ - người vợ ngoại tình, mà tình trăm bến bãi càng thấy sự mê hoặc cám dỗ kinh khủng của sao hung tinh ''Địa Kiếp'' và sự quyến rũ mê hồn gợi dục của sao Thiên Riêu. Người con trai bị đòn của Kiếp - Riêu nhẹ hơn nhưng cũng ''trải lòng hoang hoải những bờ vai''. Ông ăn chả bà ăn nem âu cũng là chuyện đời không thiếu. Nhưng ở đây ta thấy người vợ tệ hơn, bờ bụi hơn.

Thất Sát là sao mạnh - biểu hiện khí chất mạnh - cương dũng nhưng bị cuốn vào vòng xoáy của Kiếp - Riêu cũng bị sa đà, ''hoang hoải'' và có trường hợp sợ phụ nữ hoặc căm ghét phụ nữ. Bờ vai là tượng trưng cho sự mạnh mẽ của đàn ông, mà những đàn ông này lại cần những bờ vai của đàn ông khác, là sao vậy? Là vì đó là mẫu người có thể là pede, có thể là ái nam ái nữ, có thể là người vì lý do nào đó mà căm ghét phụ nữ... Phải chăng vì thế mà Đặng Xuân Xuyến đã tế nhị viết: “Trai trải lòng hoang hoải những bờ vai”.

Có lẽ vì Mã-Lộc hội Phá-Tham?

Hay sát tinh gặp Âm Dương lạc hãm?

Ừ. Tham-Sát đồng cung nên thê thảm

Gái giang hồ, trai tứ chiếng đề tên?

Mã là sao Thiên Mã, Lộc là sao Hóa Lộc, Phá là sao Phá Quân, Tham là sao Tham Lang trong tử vi.

Có lẽ Đặng Xuân Xuyến chưa thấu hết cả chiều sâu và chiều rộng của bộ sao ''Mã - Lộc hội Phá - Tham''. Đây là bộ sao mạnh trong việc kiếm tiền - ''Tham Lang gặp Lộc kiếm tiền như trở bàn tay'', lại thêm Thiên Mã - sức chạy của ngựa trời chở tiền và cả ngôn ngữ siêu việt cả Thiên Mã - ''Mã ngộ Khốc - Khách'' - ngựa có nhạc rất hay. Có lẽ một thời nhà thơ kiếm được rất nhiều tiền, nhưng đời sống vợ chồng yêu nhau và đến với nhau vì tiền thì chưa phải là tình yêu đích thực, và tôi đồ rằng: tiền là một trong những nguyên nhân làm đổ vỡ tình cảm cuộc sống vợ chồng của nhà thơ.

''Sát tinh gặp Âm - Dương lạc hãm'', sát tinh là những sao hung trong tử vi, gặp Thái Dương - ''mặt trời'' và Thái Âm - ''mặt trăng'', đặc biệt là Kình Dương và Đà La rất tối kị trong tình yêu. HÃM là ở không đúng chỗ, như mặt trăng phải ở từ cung Dậu đến cung Sửu - tức là từ 6 giờ chiều đến 3 giờ sáng, mặt trời phải đóng ở cung Dần đến cung Ngọ - tức là từ 3-4 giờ sáng đến 12 giờ trưa thì mới hợp cách.

''Ừ. Tham - Sát đồng cung nên thê thảm/ Gái giang hồ trai tứ chiếng đề tên'' THAM là sao Tham Lang, SÁT là sao Thất Sát - là hai sao mạnh, phụ nữ có một trong hai sao này ở mệnh thì khí chất mạnh bạo không kém nam nhi, không hợp trong tình yêu, ở thế kỉ 21 phụ nữ mạnh bạo hơn xưa và cũng vì vậy sự tan vỡ trong tình yêu cũng tăng so với thế kỉ trước, vợ chồng ở với nhau cùng cương dũng sẽ bất ổn dễ dẫn tới đổ vỡ phải có độ cưng nhu mới tạo thế Âm - Dương cân bằng mới an bình.

Hai sao Tham Lang và Thất Sát trong tử vi không đồng cung mà chỉ hợp chiếu thôi nhà thơ Đặng Xuân Xuyến ạ. Phải chăng vì chú trọng đến gieo vần mà nhà thơ để vậy?!

Kết thúc bài thơ, Đặng Xuân Xuyến đã tự ngộ:

Biết phận mình khoác số kẻ cuồng yêu

Tình chồng vợ như trưa chiều đổi áo

Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu trở tráo

Cũng dâm ô, đắc kép tựa Mã-Đào

“Cuồng yêu” có nguyên nhân và nguyên nhân chính là anh tự kìm nén, đã bao tháng năm kìm nén vì thương con mà không chịu tục huyền và chỉ cuồng yêu trong thơ. Soi tình yêu của đời mình qua lăng kính tử vi thấy ''Tuế-Kỵ-Cô hay Đồng-Riêu trở tráo/ Cũng dâm ô, đắc kép tựa Mã-Đào''.

Toàn những sao lạnh lùng, cô đơn, dâm đãng và tráo trở dày vò trái tim cuồng yêu, anh đau đớn như người bệnh vô phương cứu chữa. Chờ ở số phận và trách số phận: ''Số phận này oan nghiệt bởi trời cao/ Ta phẫn uất hận bàn tay tạo hóa/ Trời cao hỡi! Trời cao ơi! Đểu quá!''

Tôi đã xong việc chú giải các sao tử vi trong bài thơ CUỒNG YÊU của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, hy vọng bạn đọc hiểu thêm về bài thơ.

*

Hà Nội, ngày 22 tháng 11 năm 2017

NGUYỄN THANH LÂM

Địa chỉ: Số 4/179 Minh Khai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

Email: thanhlam.tho@gmail.com

 

HỒN QUÊ

 

Ta về gặp lại hồn quê

Mẹ ta xưa quẩy nắng về hong mưa

Một đời sướng thiếu khổ thừa

Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa nỗi đau

 

Heo may trở dạ mùa sau

Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi

Chắt chiu ủ ấm nụ cười

Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”

 

Tháng Mười, tháng Bảy, tháng Ba

Mẹ gom gió lạnh mưa sa bão dồn

Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn

Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha

 

Ta về gặp lại hồn ta

Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời...

*

Hà Nội, sáng 06 tháng 03.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

HỒN QUÊ VÀ MẸ TA XƯA

Mới qua tết Nguyên Tiêu chưa được 5 ngày, nỗi nhớ thương quê hương trong tôi, một kẻ xa quê gần trọn kiếp người, vẫn man mác một màu buồn suốt từ đêm Trừ tịch đến giờ đang còn chưa dứt thì lại đọc được bài thơ Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến khiến màu buồn nhớ đó càng thêm đậm sắc.

Nhìn tên bài thơ trong tôi bỗng bật lên một câu hỏi: Hồn quê là gì?

Người ta thường hay nói về hồn người và gần như mặc định tin rằng mỗi một người đều có một cái hồn, đó là cái tinh anh của con người mà cái chết không bao giờ hủy diệt nổi: “Thác là thể phách còn là tinh anh”. 

Thì quê hương cũng thế. Mỗi một làng quê đều có một hồn quê, đó là cái tinh anh của làng quê ấy, của xứ sở ấy, của riêng vùng đất ấy mà người dân làng ấy dù ai đi đâu ở đâu có đến cả trăm nơi ở khác, dẫu có đẹp hơn quê mình vẫn thấy nhớ thương da diết về cái hồn quê ấy. Và, cũng như tinh anh của con người, cái hồn quê ấy không gì huỷ diệt được. 

Hồn quê, ấy có thể là một cây hoa gạo bên bến sông, là một con đường làng đất đỏ, một ngôi đình làng, một mái chùa làng, một cánh cổng làng, một lễ hội làng… Nó cũng có thể là những tập tục tốt đẹp của người dân làng quê ấy, là những nét lịch sử hào hùng hay truyền thống văn hoá đặc sắc hoặc sự tích các nhân vật kỳ tài của vùng đất ấy… Hồn quê giản dị gần gũi vậy thôi nhưng nó luôn sống trong lòng người dân làng từ đời này sang đời khác.

Nhưng đọc Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến, ta lại không thấy một câu chữ nào nói về những nét tinh anh của quê nhà như thế mặc dù quê hương của nhà thơ là làng Đá, một làng quê chỉ cách Hà Nội non sáu chục cây số nhưng đến nay vẫn giữ được trong mình những nét cổ kính của một làng quê Việt Nam với những cây đa, giếng nước, sân đình, cổng làng và những ngôi nhà cổ…Và, còn hơn thế, ở làng quê của nhà thơ còn có ngôi chùa Đá nổi danh từ thời nhà Lý với sự tích truyền tụng về cô thôn nữ đẹp người đẹp nết của làng được hoàng cung tuyển chọn làm thiếp yêu cho vua. Vào ngày cô dời làng lên xa giá về cung, bỗng xuất hiện đám mây ngũ sắc, hình dáng tựa con rồng xanh, như đang ngồi che chở cho cô, theo cô về triều. Dân làng cho đó là điềm lành nên hoan hỷ lắm, liền lấy điềm đó đổi tên làng thành làng Đỗ Xá…

Mà đọc Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến, ta chỉ thấy hiện lên hình ảnh một bà mẹ quê, nói đúng ra là hình ảnh người mẹ của nhà thơ. Bài thơ có 3 khổ rưỡi, 14 câu lục bát thì 12 câu đã được dành trọn nói về bà mẹ ấy.

Hai câu thơ mở đầu :

Ta về gặp lại hồn quê

Mẹ ta xưa quẩy nắng về hong mưa

Một lời kể thật cảm động. Mẹ ta xưa là người đã không quản ngại khó khăn, góp công góp sức sức làm cho cuộc sống, cho quê hương có được phần tươi đẹp. Hai hình ảnh quẩy nắng, hong mưa giản dị và dễ hiểu mà rất sinh động, có thể nói hay không kém gì hình ảnh “múc ánh trăng vàng” trong câu ca dao đã làm say lòng người không biết bao nhiêu thế hệ 

Sau hai câu phác họa nhanh về mẹ ta xưa đầy xúc cảm ấy, nhà thơ thả hồn mình vào nỗi nhớ về một đời mà mẹ đã sống:

Một đời sướng thiếu khổ thừa 

Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa nỗi đau

Mẹ ta xưa, cũng như trăm nghìn bà mẹ quê nghèo khổ ở nông thôn Việt Nam trước đây, “một đời sướng thiếu khổ thừa” nên không dám ước mơ nhiều điều vui sướng mà chỉ mong phải khổ thế nào thì sẽ cố gắng kiếm tìm cho được vừa đủ những sợi tơ hạnh phúc để đan vá, để che đậy cho vừa vặn kín nỗi đau khổ đó. 

  Một trong những ước vọng hạnh phúc rất đơn sơ của mẹ là gia đình luôn được xum họp quây quần, vui vẻ êm đềm bên nhau dưới mái nhà tranh ở quê nhà. Nhưng cuộc đời đâu có cho mẹ được như thế. Vì cuộc sống, một số người thân yêu ruột thịt của mẹ đã phải xa quê khiến mẹ lại thêm vất vả, lại phải chắt chiu nhiều thứ để sẻ chia cho những “Người ở xa” ấy:   

Heo may trở dạ mùa sau

Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi

Chắt chiu ủ ấm nụ cười

Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”

3 hình ảnh đầy ắp trong 4 câu thơ: bàn tay mẹ se gió lạnh để nắng tươi khỏi bị nhàu úa/ Mẹ chăm chút, nâng niu từng li từng tí những gì coi là quý như một nụ cười cũng cần phải ủ ấm/ Mẹ nhen nhóm ngọn lửa để không bị tắt, nguội lạnh. Tất cả, mẹ đều để dành cho người ở xa.

Có thể nói, ba hình ảnh ấy là ba nét khắc rất tinh xảo và rất đẹp đã tạo nên một bức tranh tinh tế và chân thật về mẹ ta xưa làm bật lên hồn cốt tấm lòng giàu tình thương và đức hy sinh cao cả của mẹ.

Khổ thơ thứ ba là những màu sắc tô điểm thêm cho hoàn chỉnh bức tranh ấy về mẹ:  

Tháng Mười, tháng Bảy, tháng Ba

Mẹ gom gió lạnh mưa sa bão dồn

Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn

Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha

Bất kể thời gian nào, đầu năm, giữa năm hay cuối năm, tháng này sang tháng khác, mẹ đã không quản gió lạnh mưa sa, bão dồn nhặt nhạnh góp gom những gì có ích để nuôi nấng các con về cả thể chất lẫn tâm hồn. Những hình ảnh tráng lệ như gió lạnh mưa sa bão dôn cùng màu sắc sẫm đỏ hoàng hôn đặt liên tiếp dồn dập bên nhau kết hợp với các từ mạnh như gom, đổ vào đã diễn đạt đầy cảm xúc hình ảnh người phụ nữ một đời chịu thương chịu khó, một đời lo toan vất vả vì gia đình và con cái. Nhưng cho dù gian khổ đến mấy, lòng mẹ bao la vẫn luôn dịu hiền trong lời ru con “nặng trĩu hồn quê Cha.

Toàn cảnh bức tranh về mẹ ta xưa trong Hồn Quê của  Đặng Xuân Xuyến dễ gợi người đọc nhớ tới hình ảnh sâu đậm trong tâm trí của người dân việt Nam nhất là ở nông thôn: “Con cò lặn lội bờ sông”. Một phận người tần tảo, vất vả sớm khuya.

Hai câu kết: 

Ta về gặp lại hồn ta

Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời...

Vậy là bà mẹ của nhà thơ mất đã lâu rồi. Nhưng người đọc hiểu rằng: Thể phách của mẹ có thể đã tan biến hết còn cái tinh anh, cái hồn của mẹ được kể bằng tất cả những hình ảnh, những tích chuyện ở trên thì không hề bị hủy diệt mà vẫn luôn luôn sống trong lòng đứa con và vẫn đang sống cùng cái tinh anh, cái hồn của quê. Vì thế, mỗi lần về quê, gặp lại hồn quê thì con thấy ngay mẹ xưa hiện lên trong đó. Vâng: Trong Hồn Quê ta có cả Hồn Mẹ ta đó.

Có thể nói, đấy không chỉ là một hàm ý sâu sắc mà còn là một phát hiện tâm linh mới mẻ trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến.

Ai mà chẳng có quê, có nơi chốn mình sinh ra. Ai mà chẳng có mẹ, người mang nặng đẻ đau ra mình. Bởi vậy, cái hồn quê trong đó có cả hồn mẹ mình không có gì là thánh thần kỳ bí mà chỉ là những nét đẹp bình dị gần gũi nhưng vô cùng thiêng liêng cao cả mà bất kỳ người dân nào của quê hương, người con nào của mẹ đều hằng gìn giữ trong lòng. Mất linh hồn là mất hết.

Hồn quê là thế. Giản dị thế thôi. Nhưng thật tiếc, không thấy mấy văn chương viết về Hồn quê. Có lẽ, hai tiếng Hồn quê trong câu Kiều nức danh của cụ Nguyễn Du muôn đời vẫn sẽ là hai tiếng được nhiều người nhắc tới: Đoái trông muốn dặm tử phần/ Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa

Bài thơ Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến chưa hẳn đã là hay với nhiều bạn đọc nhưng rất đáng đọc và đáng khích lệ. Bởi vì trong Hồn Quê của Đặng Xuân Xuyến sáng lung linh hồn mẹ ta xưa của nhà thơ. 

*

Sài Gòn 07 tháng 03.2018

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

KÝ ỨC - HỒN TA - HỒN QUÊ

Khi trên đầu đã 2 thứ tóc, đã sống đủ dài, đã trải nghiệm đủ lao đao lận đận, đã biết thế nào là “lên voi xuống chó”... đáng lẽ phải cố quên, cố buông bỏ, thi tôi lại cứ nghĩ nhiều về sự sống. Chả phải là vì còn nuối tiếc điều gì, mà chỉ là vì những mảng dĩ vãng không mời mà cứ ùn ùn đến...

Chả kể là tôi đang ở đâu, tâm trạng ra sao, thích hay không thích thì nó vẫn bất chợt xuất hiện những hình ảnh con người, sự việc… không cho ta quyền lựa chọn. Nhiều thứ tưởng chừng đã chìm sâu vào dĩ vãng muốn tìm, bây giờ có bới đất lật cỏ lên cũng chả thấy. Như cầu ao, bến nước sau nhà… hay một nơi nào đó đã ôm ấp một thời, một đoạn rất là đắm đuối và cũng vô cùng xót xa muốn đào sâu chôn chặt... thì nó lại nhảy bùm vào hộp KÝ ỨC. Nó ám ảnh, níu kéo… bắt tâm tưởng ta nhớ lại…

Có những KÝ ỨC nhớ lại làm ta giật mình, trăn trở, làm cho nước mắt ta chảy, mũi ta cay, cổ ta nghẹn cứng và đôi khi cũng có cả những thứ làm ta bật cười…

Và mỗi lần như thế KÝ ỨC cho ta biết thương, biết yêu hơn, biết hiểu thấu thế nào là đau là buồn hơn, biết tha thứ và ân hận nhiều hơn… KÝ ỨC dạy dỗ ta, làm ta thức tỉnh, nuôi tâm hồn ta lớn….

KÝ ỨC của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến còn cho ta thấy được HỒN QUÊ.

HỒN QUÊ

.

Ta về gặp lại hồn quê

Mẹ ta xưa quẩy nắng về hong mưa

Một đời sướng thiếu khổ thừa

Mẹ đan hạnh phúc vặn vừa nỗi đau

.

Heo may trở dạ mùa sau

Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi

Chắt chiu ủ ấm nụ cười

Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”

.

Tháng Mười, tháng Bảy, tháng Ba

Mẹ gom gió lạnh mưa sa bão dồn

Đổ vào sẫm đỏ hoàng hôn

Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha

.

Ta về gặp lại hồn ta

Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời...

*

Hà Nội, sáng 06 tháng 03.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

-------------------

(báo Việt Luận Úc Châu - Viet’s Herald on Friday, 12 March, 2021)

Đọc bài thơ, trong đầu tôi liền hiện ra ngay một bức tranh được nhà thơ Đặng Xuân Xuyến tài tình dùng KÝ ỨC của mình để vẽ trên nền thơ lục bát một HỒN QUÊ khi tác giả: "TA VỀ GẶP LẠI HỒN QUÊ."

Vậy HỒN QUÊ mà Đặng Xuân Xuyến gặp là gì? Sao được gọi là Hồn? có hình hài, dáng vóc, tính cách ra sao?... Chả chữ nào nói đến, mà chỉ thấy HỒN QUÊ vô cùng trừu tượng được lồng cùng bóng hình của MẸ trong ký ức nhà thơ ồ ạt tràn về.

Phải chăng HỒN QUÊ đối với nhà thơ này không phải là mấy cảnh quan Cổng làng, Mái đình, Cây đa… tất cả những thứ đó sẽ thay đổi theo năm tháng. Chỉ có cảm xúc của Trời Đất cho vùng quê nghèo khó này cái nắng, cái gió, cái mưa, cái bão khó ưa, khó sống vẫn muôn đời chứng nào tật nấy… mới là HỒN QUÊ. Mẹ đã gắn bỏ, đã chịu đựng với nó … để nuôi mình khôn lớn.

MẸ, người đàn bà yếu đuối hết lòng vì chồng, vì con phải chống chỏi, vật lộn với một HỒN QUÊ không hiền lành chút nào, mưa không thuận gió không hòa, quanh năm mưa dầm, bão nổi… nên đời mẹ “SƯỚNG THIẾU, KHỔ THỪA”.

Khi HỒN QUÊ trái gió trở trời, mùa vụ thất bát “tháng mười, tháng bảy, tháng ba”…

"Mẹ se gió lạnh khỏi nhàu nắng tươi

Chắt chiu ủ ấm nụ cười

Mẹ nhen lửa giữ cho “Người ở xa”..."

Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến được "Mẹ ru ta nặng trĩu hồn quê Cha" nên dù đi đâu, ở đâu vẫn luôn muốn quay về, vì nơi đây anh có rất nhiều KÝ ỨC đã khắc sâu, hằn kỹ trong tâm khảm tác giả:

"Ta về gặp lại hồn ta

Mẹ ta thì đã đi xa cuối trời..."

Với thể thơ lục bát, chỉ vỏn vẹn có 3 khổ rưỡi mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã khắc họa nên hình ảnh, tính cách một HỒN QUÊ khắc nghiệt, một người MẸ đảm đang, chịu thương chịu khó điển hình cho những vùng quê Bắc Bộ Việt Nam.

Chắc chắn những người con đã sinh ra và lớn lên ở những vùng quê này, dù họ đang ở đâu thì KÝ ỨC về quê hương cũng đang nuôi lớn tâm hồn họ. Khi họ trở lại thăm quê thì cũng sẽ gặp HỒN QUÊ mỗi người, mỗi vẻ. Có lẽ là qua hình bóng Cha, bóng Chị, bóng Bà và cũng có thể là người thương khác...

Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên đã viết: "Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở / Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!".

Bài thơ HỒN QUÊ thật hay! Cảm ơn nhà thơ Đặng Xuân Xuyến!

Tôi xin giới thiệu đến bạn đọc.

*.

Dresden ngày 05 tháng 08/2021

TRẦN THỊ HỒNG CHÂU

Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,

Garmany (Cộng hòa Liên bang Đức).

Email: hongt4368@gmai.com

Điện thoại: 004915256432988

 

RÉT CẰN

.

Gói lời yêu vào lửa

Em chùng chình bước qua

Ngoái đầu, em thành lạ

Ríu chiều hiu hắt mưa

 

Chân trần dạo ngõ xưa

Lối về xa xăm quá

Mấy mùa cây thay lá

Rét cằn chẳng trổ hoa

*

Làng Đá, 18 tháng 11.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “RÉT CẰN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

"Gói lời yêu vào lửa" thì nó sẽ cháy bùng lên còn gì? Và sẽ cháy bùng dữ dội hơn vì trong tình yêu bao giờ cũng có lửa.

Vâng! Chỉ có nhà thơ mới làm được cái việc "điên rồ" như thế. Còn người trần mắt thịt chúng tôi thì chỉ ủ nó trong đôi bàn tay còn khó.

Ôi! Yêu quá câu thơ: “RÍU CHIỀU HIU HẮT MƯA”. Giá có bình luận một câu thơ này thì như cổ nhân đã dạy: "Thuyết thi nhất thủ thị hàn tuyền", có nghĩa: Bàn về một bài thơ hay một suối sách vẫn không đủ. Với câu thơ này thì cứ cho là một khe sách vẫn chưa đủ.

Có những lúc xuất thần chỉ cần một câu thơ như thế bài thơ sẽ bừng sáng lên. Và như có lần Hoài Thanh đã nói về một bài thơ của ai đó rằng: ”Cả đời chỉ cần một bài thơ như thế đã lưu danh”. Tôi nghĩ với câu thơ độc nhất vô nhị ấy, Đặng Xuân Xuyến cũng đã lưu danh trong đời. Bỏi vì chẳng ai có được câu thơ tài hoa như thế nữa. Câu thơ không chỉ viết về một chiều mưa buồn hiu hắt mà gửi gắm trong đó bao nỗi niềm của một người si tình khi gói lời yêu vào lửa gửi người tình mà em vẫn lạnh lùng không ngoái lại. Hỏi sao lòng không RÍU lại. Nhưng nhà thơ của chúng ta vẫn không dám nhận sự thờ ơ hờ hững của em đã làm ríu lòng anh và ríu cả cuộc đời hiu hắt của anh, Vâng! Chỉ là “ríu chiều hiu hắt mưa” thôi các bạn ạ.

Tại sao lại “Chân trần dạo ngõ xưa”. Ta lại thấy được chàng thi sĩ này muốn để đôi bàn chân trần cảm nhận cho thật đủ đầy hơi ấm còn đọng lại từ thời xa xưa khi hai con người lúc nào cũng cận kề sóng bước bên nhau trên cái ngõ nhỏ bình yên trong một xóm mạc bình yên. Nhưng đó chỉ là khát vọng và chàng thi sĩ chợt nhận ra một hiện thực phũ phàng vì cái ngõ cũ giờ đã quá xa xăm. Trên cái ngõ cũ ấy dù bốn mùa vẫn thay cành trổ lá nhưng vì cái “rét cằn” của em đã làm cho tim anh buốt giá thì không thể có một loài hoa nào có thể nở, kể cả bông hoa đẹp nhất - hoa tình yêu, thứ hoa đáng ra càng rét càng bùng nở để sưởi ấm lòng nhau.

Thỉnh thoảng được đọc những bài thơ lãng đãng khói sương mịt mờ hư ảo của chàng thi sĩ đa tình và si tình Đặng Xuân Xuyến bỗng thấy lòng mình cũng nao nao một nỗi buồn man mác, một niềm tiếc nuối vu vơ, rồi cứ thế thẫn thờ mơ mộng giá như mình trẻ lại cái tuổi của Đặng Xuân Xuyến để viết những bài thơ tình như thế...

*

Bắc Ninh, 25 tháng 12.2018

NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,

phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh

Email: nguyenxuanduong1940@gmail.com

 

CÒN YÊU

 

Ừ, còn yêu đấy, đã sao

Khó khăn chi một tiếng chào, để quên

 

Chín Hè gạn nhớ không tên

Chín Đông se giọt mưa rền ngõ quê

Ráng chiều đỏ quạch triền đê

Người đi người dụi câu thề vào mây

 

Gió gầy đan kín vòm cây

Mưa xâm xấp hạt ken ngày vào đêm

Tiếng cười lệch rớt vai mềm

Chát chao lạnh với gió đêm thậm thào.

 

Ừ, còn yêu đấy, đã sao

Khó khăn chi một tiếng chào, 

để quên.

*

Làng Đá, 02 tháng 06.2019

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐẶNG XUÂN XUYẾN...“CÒN YÊU” 

Lâu lắm rồi mới vui vì tác giả cũng yêu... khùng như mình. 

Ừ, còn yêu đấy, đã sao

Một cách nói tỉnh khô, bất chấp, mặc kệ ở cái tuổi trẻ chưa qua, già chưa tới.

Tình yêu nó là thế, nó luôn dẫn dắt người ta thêm liều lĩnh, phớt lờ hoàn cảnh ra sao.

Mình cứ thấy gã yêu đó, tay đút túi quần, miệng huýt sáo, vẻ bất cần đời để buông câu:

Khó khăn chi một tiếng chào, để quên! 

Nói thì vậy nhưng tình lại khác, tác giả tình ranh lắm, cái mùi thính sặc lên vẻ ngạo mạn để che nỗi đau khắc khoải bên trong.

“Chín Hè” rồi lại đến “Chín Đông”, nỗi đau chín mõm được gạn chắt đến giọt cuối cùng của nỗi nhớ mà nhớ không tên mới làm con người không thể hoá giải. Tâm trạng ấy trộn lẫn với tiếng mưa đêm ngõ quê vắng vẻ.

Ráng chiều đỏ quạch triền đê

Người đi người dụi câu thề vào mây 

Thỉnh thoảng tác giả hay có những câu thơ vượt trội mà hình ảnh này không bịa ra nổi.

Ai đã từng nhớ, từng yêu từng đi trong cái mầu đỏ của ráng chiều mới cảm được nỗi buồn đến tê tái, nhất lại là người mới yêu lại.

Đến đây tác giả lộ nguyên hình sự đa cảm, nặng tình. Nhưng với người kia thì tình chưa đủ sức nóng để hạ lòng, tình như một chiếc đóm mong manh, chỉ cần dụi cái là tắt ngấm, mà dụi vào mây phù vân bay mất.

Bài thơ chỉ có vài khổ nhưng chứa đựng, ngầm nói rất nhiều ẩn ngữ. Thú vị thật.

Nguy hiểm! Đặng Xuân Xuyến thật nguy hiểm.

*.

Thành Nam, 02.06.2019

BÙI ĐỒNG

Địa chỉ: 3/176 Phan Đình Phùng, Nam Định.

Email: hatbuinhangian.db@gmail.com

 

ĐỪNG ĐI

 

Ở lại đi

Một đêm thôi

Một đêm thôi, ở lại

Ta xin người ở lại, chỉ một đêm 

Ngoài kia trời lướt khướt sũng đêm

Ta tí tách trong này mơ hồ từng giọt rỏ

Ta nào khóc. Chỉ là ta quá nhớ

Những chiều Thu ai tết tóc bên thềm

Rãi trăng vàng ai ríu rít hằng đêm

Và ai nữa khiến ta từng ngộp thở.

Ta xin đấy. Ngoài kia là những gió

Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ

Người ở lại. 

Đừng đi!

Đừng đi! 

Ta sợ

Bảy năm trời thoáng chốc chỉ là mơ.

*

Làng Đá, đêm 29.09.2018

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

KHÁT YÊU TRONG BÀI THƠ “ĐỪNG ĐI”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tâm trạng, cảm xúc của con người là thế đó khi bị dồn nén đến tận cùng thì nỗi khát khao cũng lên đến đỉnh điểm của tận cùng. Trong cuộc đời chắc rất nhiều như thế. Nhưng chỉ có những thi nhân mới dám bày tỏ những khát khao đến bạo liệt như của Đặng Xuân Xuyến qua những dòng thơ vụn vỡ gãy nát vì quá khát khao.

Không do dự, không xấu hổ, Đặng Xuân Xuyến đã mời mọc đã cầu xin ta thấy anh như đang gào lên và rồi hình như biết rằng có gào thế chứ gào mãi cũng vô ích nên nhà thơ bắt đầu sụt sùi kể lể cầu mong nàng có động lòng mà ở lại cùng anh dù chỉ một đêm, dù chỉ là khoảnh khắc:

“Ở lại đi

Một đêm thôi

Một đêm thôi, ở lại

Ta xin người ở lại, chỉ một đêm

Ngoài kia trời lướt khướt sũng đêm

Ta tí tách trong này mơ hồ từng giọt rỏ”

Vâng anh không khóc có lẽ nếu tự thú điều đó thì nhà thơ cảm nhận mình kẻ thấp hèn đi trước nàng, điều mà anh biết chắc rằng nàng không bao giờ muốn anh như thế. Rồi anh viện cớ là NHỚ thôi.

Ôi nàng đẹp thế, trong khoảnh khắc thần tiên thế ai không nhớ nàng cho được:

“Ta nào khóc. Chỉ là ta quá nhớ

Những chiều Thu ai tết tóc bên thềm

Rãi trăng vàng ai ríu rít hằng đêm

Và ai nữa khiến ta từng ngộp thở”

Nàng thật đẹp! nhất là những chiều thu nàng ngồi bên thềm tết tóc với cái dáng nghiêng nghiêng trong chiều gió thoảng. Đôi tay nàng mềm mại nõn nà cứ lần vuốt những lõn tóc đen huyền thơm ngạt ngào hương bưởi hương chanh, thơm mùi bồ kết ...Rồi những đêm trăng thu nàng cứ ríu rít, ríu rít mãi thâu đêm làm cho anh ngộp thở... Vâng tất cả chỉ là nhớ nhung về những kỷ niệm xa xưa. Nỗi đau ở đây vì đó chỉ là những kỉ niệm nó không thuộc về thực tại! Vì nàng đã không ở lại...

“Ta xin đấy. Ngoài kia là những gió

Hun hút đêm, hun hút ánh đèn mờ

Người ở lại.

Đừng đi!

Đừng đi!

Ta sợ”

Một lần nữa nhà thơ đã gửi lời cầu xin. Cầu xin không được rồi hù dọa cảnh đêm khuya hun hút gió lùa, đêm thì tối, đèn thì mờ...Rồi anh lo lắng sợ hãi nếu nàng cứ quyết ra đi không ở lại liệu trong đêm tối trời trong gió mưa ấy nàng có mệnh hệ gì anh biết sao đây? Anh sẽ phải ân hận suốt cả cuộc đời.

Đọc câu kết ta mới hiểu không chỉ khoảnh khắc, không chỉ một phút, một giờ, một đêm mà bảy năm rồi nhà thơ của chúng ta đã cầu xin một tình yêu và anh chợt nhận ra rằng giờ nó đã hoàn toàn vụn vỡ chia xa. Chỉ là một giấc mộng kê vàng. Thế mới biết sự chờ đợi trong tình yêu đã đạt đến giới hạn của sự vô cùng:

“BẢY NĂM TRỜI THOÁNG CHỐC CHỈ LÀ MƠ”

Nỗi khát khao tình yêu của Đặng Xuân Xuyến là khát khao rất thực từ một con tim bạo liệt và có lẽ sẵn sàng quyên sinh vì người anh yêu dấu. Có nỗi đợi chờ nào đã suốt 7 năm. 7 năm có bao nhiêu ngày bao nhiêu giờ bao nhiêu phút bao nhiêu giây và bao nhiêu khoảnh khắc mà không đợi chờ không khao khát. Phải không các bạn. Tôi trân trọng nỗi đợi chờ này...

*

Bắc Ninh, 01 tháng 07.2019

NGUYỄN XUÂN DƯƠNG

Địa chỉ: Nhà số 7 Đường Thành Cổ,

phường Vệ An, thành phố Bắc Ninh

Email: nguyenxuanduong1940@gmail.com

 

HOA NHÀI

- Mến tặng H.H.Ph –

 

Lần đầu đến thăm tôi

Cô mang theo một đóa hoa nhài

Hoa bình dị

Tôi mỉm cười

Nhìn mây bay

Hờ hững.

 

Rồi lần sau

Cả những lần sau

Cô không mang thay đổi sắc màu

Vẫn bình dị những đóa nhài nho nhỏ

Và tôi cười

Hờ hững ngó mây trôi.

 

Rồi một chiều cô không đến thăm tôi

Một ngày đông hoa nhài không nở

Tôi ngơ ngẩn bên thiếp hồng để ngỏ

Ngó mây trời tôi đếm bâng quơ

Tôi trách cô vội bước sang đò

Không thương nhớ những cánh nhài nho nhỏ

Thấm trong tôi hương nhài nỗi nhớ

Tôi trách mình hờ hững ngó mây trôi.

*

Đại học Văn Hóa Hà Nội 1990

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

TÌNH YÊU GIẢN DỊ, TINH KHIẾT TRONG “HOA NHÀI”

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đọc bài thơ Hoa Nhài của Đặng Xuân Xuyến, tâm trí tôi chợt hiển hiển lại mồn một câu chuyện xưa… Và nó như một lối mở ban đầu giúp tôi bước vào thơ anh. Điều trùng hợp lạ kỳ đầu tiên là Đặng Xuân Xuyến cũng từng học Đại học Văn hóa như cô gái tôi đã kể! Theo năm sáng tác ghi dưới, và qua giọng thơ, tôi đoán lúc này tác giả mới ngoài 20 tuổi. Đó là cái tuổi của mơ mộng, của tình yêu theo kiểu Puskin: nếu người mà ta yêu say đắm bỏ đi lấy chồng, thì cầu cho người tình mới sẽ yêu em như tôi đã từng yêu! Nhưng điều thú vị hơn cả, là ý tứ bài thơ đã được triển khai tựa một bộ phim câm kinh điển của “Vua hài Sác-lô” - Ánh sáng thành phố (City Lights): một gã lang thang có tâm hồn cao thượng tình cờ gặp và đem lòng yêu một cô gái mù bán hoa, cứ mỗi lần có xe sang đỗ tới, gã lại bước đến mua cô gái mù, mua một bông hoa, khiến cô có ấn tượng đó là một người hào hoa và giàu có… Ở đây lại là một cô gái, đem theo một đóa hoa nhài mỗi lần tới thăm người cô quý thương. Nhưng tấm lòng chân thật, giản dị của cô, cùng đóa hoa cũng giản dị và “vô danh”, không có trong “từ điển của Tình yêu” đó đã được đáp lại bằng sự “hờ hững” của chàng trai. Chỉ tới khi, cô gái và “những đóa nhài nho nhỏ bình dị” không xuất hiện nữa, chàng trai mới chợt thấm thía sự quen thuộc đáng yêu của chúng, mới thấy tiếc đến “ngơ ngẩn”… Và khi “cô vội bước sang đò”, anh đã trách cô đã vội vã, đã “không thương nhớ những cánh nhài nho nhỏ”; nhưng thực ra là anh đã tự trách mình, giận dỗi với bản thân, để tới câu kết là một lời thở dài buồn bã, sự tiếc nuối vời vợi:

Thấm trong tôi hương nhài nỗi nhớ

Tôi trách mình hờ hững ngó mây trôi.

Cái độc đáo của bài thơ là sự khéo léo và tinh tế lồng ghép và tượng hình hóa vẻ đẹp thầm kín giản dị của tấm lòng cô gái với vẻ đẹp của hoa nhài – một vẻ đẹp mà nếu sống vội vã, xốc nổi, thực dụng sẽ không bao giờ nhận ra, không bao giờ hiểu nổi. Nhà thơ mượn hoa nhài trong hành động thầm lặng của cô gái để cảnh báo cho mọi người - trong đó có chính anh, về cách nhìn đối với những giá trị thực của tình cảm cùng cách ứng xử cần có đối với chúng. Đừng để tới khi những vẻ đẹp, những giá trị quý báu hàng ngày đến với ta nhưng vuột khỏi tay ta bởi sự vô tình vô cảm, ta mới ngẩn ngơ, giật mình tiếc nuối, than thở như chàng trai trong bài thơ!

--------------

 (Trích từ HOA NHÀI VÀ NHỮNG VUI BUỒN QUANH HOA NHÀI của nhà văn, đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn)

*.

Hà Nội, 15 tháng 07 năm 2020

Mai An NGUYỄN ANH TUẤN

Địa chỉ: Phố Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội      

Email: tranthanhban1956@gmail.com

Điện thoại: 091.217.49.47    

 

MẤY KHÁM PHÁ THÚ VỊ VỀ BÀI THƠ "HOA NHÀI"

CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Đọc bài thơ "Hoa Nhài" của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến tôi nghĩ chắc nhiều người không chú ý đến chi tiết tả hoa nhài của nhà thơ, vì thế sẽ không thấy được chủ ý của tác giả. Cũng như tôi, mấy lần trước đọc bài thơ “Hoa Nhài” đã không phát hiện ra chi tiết thú vị này.

Khổ thứ nhất bài thơ, tác giả để chàng trai rất thờ ơ khi nhắc đến đóa hoa Nhài (tượng hình tình yêu cô gái dành cho chàng trai) của cô gái:

"Cô mang theo một đóa hoa Nhài"

Sang khổ thơ thứ 2, tác giả cho chàng trai đã có những chú ý tới cô gái qua chi tiết miêu tả hình ảnh bông hoa cô cầm theo kỹ hơn: "đoá Nhài nho nhỏ", qua đó thể hiện tình cảm của chàng trai dành cho cô gái đã có phần gần gũi hơn, thân mến hơn:

"Vẫn bình dị những đóa Nhài nho nhỏ"

Nhưng sang đến khổ thơ thứ 3 thì tác giả lại để chàng trai buồn bã buông lời trách cứ cô gái:

"Không thương nhớ những cánh Nhài nho nhỏ"

Từ "một đóa Nhài", đến "đóa Nhài nho nhỏ", rồi "những cánh Nhài nho nhỏ", là tỉ lệ thuận tình cảm của chàng trai với cô gái: từ thờ ơ đến để ý, rồi chú ý, quan tâm và yêu.

Điểm đặc biệt nữa ở bài thơ "Hoa Nhài" là tác giả đã sử dụng câu thơ bậc thang để diễn tả tâm trạng, tình cảm của chàng trai với cô gái ở những câu cuối của 3 khổ thơ.

Từ thờ ơ, thậm chí có phần coi thường tình cảm của cô gái ở khổ thơ đầu:

"Tôi mỉm cười.

Nhìn mây bay

Hờ hững."

Đến sự chú ý, quan tâm, thích thú tới cô gái ở khổ thơ thứ 2.

"Và tôi cười.

Hờ hững ngó mây trôi."

Rồi tới khổ thơ thứ 3, khổ thơ kết thúc bài thơ thì không còn câu thơ bậc thang. Từ 3 bậc thang, xuống 2 bậc thang, rồi đến không còn bậc thang để diễn tả tâm trạng, tình cảm từ thờ ơ, hững hờ đến thích thú, rồi yêu của chàng trai với cô gái. Khoảng cách tình cảm của chàng trai với cô gái cứ ngắn dần, ngắn dần đến không còn khoảng câch qua từng lần giảm bậc thang trong 3 khổ thơ.

Thêm một điểm thú vị nữa là ở bài thơ "Hoa Nhài", tác giả đã cho chàng trai cười 2 lần và 2 nụ cười đó nếu không chú ý thì người đọc cũng sẽ dễ bỏ qua chi tiết thú vị này.

Lần thứ nhất: "Tôi mỉm cười." là nụ cười kiêu ngạo, có chút khinh dễ khi lần đầu chàng trai nhận ra tình cảm cô gái dành cho mình.

Lần thứ hai: "Và tôi cười." là nụ cười thẹn thùng, thích thú, có ý chờ đợi cô gái của chàng trai mặc dù chàng trai vẫn còn tạo "ra vẻ" giữ chút "xa cách" với cô gái.

Tất cả từ cách tiếp cận đóa hoa Nhài, đến nụ cười của chàng trai và cách dùng câu thơ bậc thang đều đồng nhất sự phát triển tình cảm của chàng trai với cô gái: từ thờ ơ, lạnh nhạt đến thân thiện, quan tâm, rồi yêu.

Đó là những điểm khá thú vị trong bài thơ "Hoa Nhài" của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.

*.

Hà Nội, 19 tháng 08-2020

VŨ THỊ HƯƠNG MAI

Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319

quận Long Biên, thành phố Hà Nội.    

Email: huongmai8081@yahoo.com.vn

 

TÌM TÂM Ý TRONG THƠ

(Cảm nhận khi đọc bài thơ Hoa Nhài)

Để cảm nhận được TÂM Ý mà tác giả muốn gửi gắm vào thơ thật không hề dễ chút nào! Rõ ràng mình vừa nhận ra ý bài thơ là thế này, định chia sẻ với bạn đọc. Vậy mà khi đọc được những cảm nhận của mọi người thì lại ra ý khác. Nhiều cảm nhận đâu có phải là lèng èng. Nó là của những nhà thơ, nhà văn, nhà bình luận... Cảm nhận của họ đã làm cho bài thơ được cất cánh, làm cho bạn đọc hiểu sâu thêm về mọi khía cạnh chìm, nổi trong bài thơ. Lý lẽ của họ có sức thuyết phục được rất nhiều bạn đọc và xoay chuyển được cả cảm nhận chớp nhoáng của tôi về bài thơ đang định vung ra, lại đành thu hồi, hạ bút...  

Vì điều này mà tôi không những chỉ mê đọc thơ mà còn rất rất ghiền đọc tất cả những câu COM, bài BÌNH, bàì CẢM... cho thơ. Không những để tôi hiểu sâu hơn về bài thơ, mà còn cân, đo, đong, đếm xem bản thân còn sức cảm thụ được bao nhiêu.

Bữa qua đọc được bài thơ HOA NHÀI của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ đã làm hỉ, nộ, ái, ố trong tôi nhảy ra khua khoắng, hành hạ… Tôi định viết ra như mọi khi để được trở lại trạng thái tĩnh lặng, thi lại đọc được hai bài cảm nhận thật là hay của Mai An Nguyễn Anh Tuấn và Vũ thị Hương Mai thế là lại mất tự tin, lại thấy đầu óc mình già nua cổ hủ không còn nhiều xúc cảm để thẩm thấu thơ…

Nhưng rồi Hương Mai lại khích lệ - cô muốn biết cảm nhận của tôi như thế nào?

Ừ thì cứ viết ra! Chắc anh chàng nhà thơ Đặng Xuân Xuyến này chả cưới bà già này đã đem bài thơ ra mà cấu xé đâu.

Vừa đọc xong bài thơ, trong đầu tôi đã nghĩ ngay - Úi dà dà!!! TÂM Ý của anh chàng nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là muốn nói về THÁI ĐỘ ĐÓN NHẬN TÌNH CẢM NÓI CHUNG VÀ TÌNH YÊU NÓI RIÊNG CỦA CON NGƯỜI VỚI NHAU TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY đây mà! Thế là tôi hết suy, lại diễn…

Bằng thủ pháp hoán dụ, ẩn dụ nhà thơ rất khéo léo chọn lọc 2 hình ảnh rất điển hình để dàn trải cho TÂM Ý mình, là cô gái thì MANG HOA NHÀI. Chàng trai thì NHÌN MÂY.

HOA NHÀI nhỏ bé, bình dị không hề có độc tính... Hương thơm của nó bền lâu ngay cả khi đã khô héo. Khi ta ngửi mùi thơm lại rất dễ chịu làm dịu sự căng thẳng cho trí não. Từ ngàn xưa ông cha ta đã biết được tác dụng này mà đem ướp vào trà để uống, phơi khô cho vào túi để dưới gối, đeo bên mình…

Hình ảnh hoa nhài trong bài thơ có thể là thực: Thực là thường ngày cô gái sống, cô làm quen với mọi người rất đơn sơ không hào nhoáng và ngay cả khi cô đến để trao cho chàng trai tình yêu của mình cô cũng chỉ gắn một bông hoa nhài trên tóc, trên áo thay cho đồ trang sức bằng vàng, bạc, kim cương... lấy hương nhài thoang thoảng, tinh khiết thay cho nước hoa mùi thơm sực nức mà bao cô gái khác thường dùng.

Lần đầu đến thăm tôi

Cô mang theo một đóa hoa nhài

Hoa bình dị

Hoa nhài cũng là hình ảnh hoán dụ cho hình thức, tính cách, tâm hồn cô gái…

Rồi lần sau

Cả những lần sau

Cô không mang thay đổi sắc màu

cho thái Vẫn bình dị những đóa nhài nho nhỏ

Cô gái như bông hoa nhài hiền dịu, thanh cao... Cô đem đến cho người đàn ông cô yêu hương thơm ngọt ngào, êm dịu… Cô điển hình cho những con người BÌNH DỊ

MÂY luôn ở trên cao khó với, dễ biến đổi... hình ảnh mây ở đây ẩn dụ cho tình yêu mà chàng trai luôn tìm kiếm.

Và tôi đã suy diễn theo thủ pháp sắp xếp từ ngữ mà tác giả Đặng Xuân Xuyến đã dùng để phán xét về thái độ đón nhận của chàng trai khi cô gái đem sự BÌNH DỊ đến như thế nào?

Lần đầu đến thăm tôi

Cô mang theo một đóa hoa nhài

Hoa bình dị

Tôi mỉm cười

Nhìn mây bay

Hờ hững.

Mới làm quen, thấy cô gái bình dị cái mỉm cười của chàng cũng chỉ là xã giao. Thái độ hờ hững chưa bộc lộ ngay. Chàng còn nhìn, còn theo dõi tình cảm của cô gái trao cho chàng... Khổ thơ đầu từ "hờ hững" ngắt xuống dòng sau hình ảnh "nhìn mây bay".

Rồi lần sau

Cả những lần sau

Cô không mang thay đổi sắc màu

Vẫn bình dị những đóa nhài nho nhỏ

Và tôi cười

Hờ hững ngó mây trôi.

Suy diễn đến khổ thứ 2 thực sự xúc cảm trong tôi trào dâng mạnh. Thương, quá thương! Ghét, rất ghét!

Thương cho người con gái đã trao nhầm tình cảm. Cô bền bỉ yêu, luôn đem đến những điều tốt lành cho chàng trai…

Còn chàng trai đã không nhận biết được đâu là tình cảm chân thành, tốt đẹp… còn cưới ra tiếng, cưới nhạo báng, tỏ thái độ hững hờ ngay, chối bỏ tình cảm của cô... ở khổ này từ "hững hờ " trước và dính liền với hình ảnh "ngó mây trôi"

Và rồi cái giá tất yếu phải trả độ hờ hững đó là gì? Hãy xem anh ta than thở trong sự nuối tiếc

Rồi một chiều cô không đến thăm tôi

Một ngày đông hoa nhài không nở

Tôi ngơ ngẩn bên thiếp hồng để ngỏ

Ngó mây trời tôi đếm bâng quơ

Tôi trách cô vội bước sang đò

Không thương nhớ những cánh nhài nho nhỏ

Thấm trong tôi hương nhài nỗi nhớ

Tôi trách mình hờ hững ngó mây trôi.

Vậy đó! Lỗi lầm của chúng ta trong cuộc sống thường là không nhận biết được ngay giá trị thật của tình cảm. Chỉ đến khi mất rồi mới thấy nó đẹp, nó tốt… thể nào?. Để rồi thương nhớ, tiếc nuối…

Bài thơ là một bài học có mang chút tính triết lý nhưng không cứng ngắc. Nó cũng như một bông hoa nhài nho nhỏ thơm ngát mà TÂM Ý của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến trao cho đời.

Xin giới thiệu đến bạn đọc!

*.

Đức Quốc, 02 tháng 11/2020

TRẦN THỊ HỒNG CHÂU

Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,

Garmany (Cộng hòa Liên bang Đức).

Email: hongt4368@gmai.com

 

VIẾT CHO KHỜ

 

Triền sông chiều nay cạn gió

Ai dụi câu hò

Ai dúi cánh cò líu ríu qua sông

Ai lùa gió đốt lòng

Ai bủa giăng chim trời mà đợi

Khờ hỡi...

Biết rồi

Sao còn vít vương tơ rối.

 

Ngẩn ngơ chi thì thầm lời của gió

Thương nhớ gì lộc cộc tiếng ngõ khuya

Thì kệ nắng quái trưa

Thì mặc mưa mút mùa

Thì thả nụ yêu quá thì chìm nổi

Để rồi tong tẩy cuộc người

Để rồi xéo xắt miệng đời

Để rồi nụ cười bảy chìm ba trôi chín rối...

Khờ hỡi

Biết rồi

Sao nặng lòng vít vương tơ rối...

 

Về thôi!

*.

Hà Nội, chiều 10-09-2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

KHỜ ĐẾN THẾ LÀ CÙNG - CẢM NHẬN KHI ĐỌC

‘VIẾT CHO KHỜ’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Chúng ta đang sống trong thời đại 4.0 mà người ta xem chữ TÌNH nhẹ phều.   

Người ta có thể thay người yêu như thay áo, có thể đem chuyện tình cảm ra mua bán, giao dịch, đổi chác... Bữa nay quấn quýt anh anh em em, ngày mai đã quay phắt lạnh như tiền, gọi nhau thằng này con kia... Thế nên chuyện TÌNH "Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" mà Cụ Nguyễn Du nói đến cách nay mấy trăm năm đã xưa lắm rồi, đã dần khan hiếm lắm rồi! Nếu có người vì tình còn vương, còn vấn, còn tiếc, còn nuối, sẽ bị người ta cho là ĐIÊN, là KHÙNG mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến lại có hẳn một bài thơ VIẾT CHO KHỜ về sự “điên”, “khùng” ấy với những vấn vương, tiếc nuối.

Thơ Đặng Xuân Xuyến tôi đọc cũng kha khá và đã yêu thơ của tác giả này... Nhưng vì biết khả năng mình không thể viết ra hết được tài điều khiển vần, điệu, chữ, nghĩa... và càng biết không thể diễn tả hết những tâm ý sâu xa làm con tim thổn thức, làm cảm xúc rung rinh thỏa độ ghiền, đủ độ say của mình trong những bài thơ của tác giả này, nên chỉ ngốn ngấu cầm lên, rồi hả hê đặt xuống…

Vậy mà không hiểu sao sau khi đọc VIẾT CHO KHỜ bài thơ cứ vấn vít không cho tôi làm gì, nghĩ gì, yêu thích gì... cứ như hồn vía bị bắt đi, bịt mắt lại... để chỉ được nhìn nó, thì thầm, thủ thỉ với nó mà thôi...

"Khờ" là tính từ chỉ nhân cách. Là một cách gọi ở thời đại 4.0 này cho những người có trí tuệ thông minh, nhiều hiểu biết... mà không buông bỏ được TÌNH, còn bị TÌNH làm cho long đong lận đận, luẩn quẩn loanh quanh vương vào rối rắm gỡ mãi không ra.

Nếu như “duyên trời” (gió) đã đưa thứ gì đó tới cho mỗi chúng ta: Có thể là một báu vật, có thể là một bình “rượu độc” “hương mê”… mà thế gian gọi là TÌNH để ta thương yêu, chiều chuộng, để ta đắm chìm vào đó mà mê, mà say… thì sẽ có người may mắn được cái duyên lâu bền, cái tình đằm thắm… Những người này thì khỏi nói, vì “duyên ấy”, “tình ấy” sẽ nên vợ nên chồng đến răng long tóc bạc, làm gì có ai khờ ai dại ở đây! Nhưng cũng có một số người gặp phải duyên ít, tình cạn mau để anh đi đường anh, em đi đường em... để rồi có Khờ, có thơ VIẾT CHO KHỜ

Bài thơ VIẾT CHO KHỜ là viết cho ai? hay cho chính tác giả?

Kệ! tôi không cần biết là ai! Chỉ biết khi đọc bài thơ này thì thấy, Trời ơi, khờ gì mà khờ quá mức? Khờ đau, khờ đớn, khờ hết chỗ nói, khờ hết thuốc chữa!

Phải chăng bởi tại thể loại bài thơ là thơ tự do, phong cách lại hiện đại, phóng khoáng cho tư duy bay lên, cùng với cách sử dụng những biện pháp tu từ đặc biệt như hoán dụ, lặp từ, so sánh… cùng quấn quyện với hình ảnh, âm ngữ dân gian sau lũy tre làng có con sông bến nước, có bãi mía nương dâu, như trong ca dao dân ca… đã làm tôi cứ tưởng tượng, cứ suy diễn, cứ lan man… để rồi một hình hài, một tâm hồn, một quãng đời của một con người rất là khờ hiện ra trước mắt tôi..

Cả bài thơ chả thấy tác giả dùng gì đến những chữ: chia tay, ly dị, bỏ đi… mà chỉ là "cạn gió". Gió cạn được ư? - phải chăng chỉ là giữa người với người dưới một mái nhà duyên đã tận, tình đã hết.

Bài thơ cũng chẳng kể lể dông dài những nguyên nhân "ai" phá đi niềm vui, hạnh phúc, làm xáo trộn sự bình yên, đã thiêu rụi cuộc tình, mà ta chỉ thấy câu hò bị "dụi", cánh cò bị "dúi", gió bị "lùa" và chẳng thể “bủa giăng" nhau nữa… Người ta đã buông bỏ cuộc tình này rồi, đã phủi tay, xoay mặt sạch rồi, không vớt vát nổi tí gì nữa rồi… mà sao:

Khờ hỡi

Biết rồi

Sao còn vít vương tơ rối

"Biết rồi - sao còn vít vương tơ rối" để rồi tự hành hạ, tự đày đọa cả thể xác lẫn tâm hồn. Để rồi biến mình, biến cuộc sống của mình ra thế này đây:

Ngẩn ngơ chi thì thầm lời của gió

Thương nhớ gì lộc cộc tiếng ngõ khuya

Thì kệ nắng quái trưa

Thì mặc mưa mút mùa

Thì thả nụ yêu quá thì chìm nổi

Để rồi tong tẩy cuộc người

Để rồi xéo xắt miệng đời

Để rồi nụ cười bảy chìm ba trôi chín rối...

Khờ hỡi

Biết rồi

Sao nặng lòng vít vương tơ rối…

 

Về thôi

Biết tình đã mất, biết người đã phụ bạc, biết mình đã te tua mà vẫn còn "nặng lòng vít vương tơ rối" thì gọi là KHỜ chứ còn gọi là gì?

Mà sao cái tính cách "Khờ" mà nhà thơ Đặng Xuân Xuyến vẽ bằng những biện pháp tu từ đặc biệt và những tiếng gọi "Khờ hỡi" - "Về thôi" lại làm tôi (người làm mẹ) nao lòng, lo sợ đến vậy!

Phải chăng cái thời buổi ngày nay, nhân tình thế thái đã quá tụt dốc. Giềng mối gia đình đã quá lỏng lẻo...đã đẩy những con người, dù họ có là bác sĩ, luật sư, là ông này bà nọ,... mà quá nặng lòng với TÌNH, khi mất tình thì họ sẽ thành kẻ khờ? Liệu ai biết được một mai có ai cạnh mình, hay chính con mình có trở thành kẻ khờ không cơ chứ?

"Khờ hỡi - Về thôi" là tiếng gọi diết da, là sự nhắc nhở chúng ta cố sao tôn trọng tình yêu, giữ cho trọn tình, trọn nghĩa tào khang, đừng làm cho xã hội có nhiều KHỜ nữa.

Phải chăng tác giả cũng đang gọi chính mình???

Bài thơ VIẾT CHO KHỜ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến hay quá! Xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

*.

Germary, 09 tháng 10-2020

TRẦN THỊ HỒNG CHÂU

Địa chỉ: Meissner Str 316a, 01445 Radebeul,

Garmany (Cộng hòa Liên bang Đức).

Email: hongt4368@gmai.com

 

TRÒ ĐỜI

- Kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi -

 

Thôi!

Thì thôi!

Về quê

Ráng “làm người tử tế”

Chính trị vốn lưu manh

Đếch có chữ tình

Biết thế

Nên

Đếch cần xin xỏ.

 

Mẹ nó!

Làm người giờ càng khó

Thất thế sa cơ

Đã nản

Còn sợ

“Truy cùng diệt tận”

Đến hồi mạt vận

Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN

*.

Hà Nội, sáng 08 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “TRÒ ĐỜI” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Trò Đời, sáng tác ngày 08 tháng 05 năm 2017, với dòng chua: kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.

Được viết ở thể thơ tự do, Trò Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo niêm luật mà viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái nhân tình đốn mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương chức đương quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi nghỉ hưu thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.

Mượn giọng bất cần của một ông quan đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường, nhà thơ ngông nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy cùng diệt tận” đối thủ chính trị cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”, đang cố diễn trò “Ráng “làm người tử tế””...

Câu kết bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN, không chỉ là sự trả giá của gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị “truy cùng diệt tận” mà còn là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử tế, cho ra một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.

Chữ NHÂN là nhân tâm, là phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!

--------------

 (Trích từ Thế thái nhân tình trong thơ Đặng Xuân Xuyến)

*.

ĐỖ ANH TUYẾN

Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,

Huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

Email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn

 

THẾ GIAN SAY

- Kính tặng nhà thơ Hoàng Xuân Họa -

.

Thế gian say đòi đập chén trở cờ

Thế gian cười.

                Thế gian khóc. 

                               Thế gian mơ

Ngật ngưỡng bước.

                   Khành khạch cười.

                                 Chửi cha thiên hạ dở!

Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!

*.

Hà Nội, chiều 04 tháng 10.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC “THẾ GIAN SAY” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Thế Gian Say gọi là cuộc rượu một người cũng được hay cuộc rượu hai người cũng được. Một người vì bài thơ là lời của Đặng Xuân Xuyến nói về thế gian say. Hai người vì bài thơ có đề tặng nhà thơ Hoàng Xuân Hoạ khiến ta có thể hiểu là hai thi nhân đã đối ẩm với nhau rồi phiếm đàm về thế gian say và sau cuộc rượu thì nhà thơ họ Đặng ghi lại gửi tặng nhà thơ họ Hoàng. Dù hiểu cách nào thì Thế Gian Say cũng là một phiếm đàm về cái say rượu của người đời:

Thế gian say đòi đập chén trở cờ

Thế gian cười.

Thế gian khóc. 

Thế gian mơ

Người đời say đòi “đập chén trở cờ” rồi cười, rồi khóc, rồi mơ, rồi thêm nữa:

Ngật ngưỡng bước.

Khành khạch cười.

Chửi cha thiên hạ dở!

Tôi từng nghe, cũng chính người đời đã phân ra ba loại say lớn trong thế gian: Loại thứ nhất, say như khỉ, hết "nhảy múa rồi đến ca hát hay chửi bới”, loại thứ hai, say như lợn, "nặng nề, trì trệ và muốn ngủ", loại thứ ba, say như dê, "không có đầu óc, nhưng dâm đãng".

Thế gian say trong thơ Đặng Xuân Xuyến thuộc loại thứ nhất, say rồi chửi cha thiên hạ. Thế thì có sao, thưa hai nhà thơ Đặng xuân Xuyến và Hoàng Xuân Hoạ? Chí Phèo kia, khi say hắn đã chửi tuốt luốt đấy thôi: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại... Nhưng Chí Phèo chửi cả làng Vũ Đại đã thấm gì so với Trương Tửu và bạn ông khi say:

Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả

Hình như hai nhà thơ họ Đặng và họ Hoàng rất tương đắc khi chê “Thế gian say đòi đập chén trở cờ”. Tôi tra từ điển “trở cờ” nhưng không thấy mà chỉ có “trở” được định nghĩa “Đảo ngược vị trí đầu thành đuôi, trên thành dưới, trái thành phải hoặc quay ngược lại đi hướng khác”. Dù thế nào trở cờ cũng là xấu. Cái chén nó vừa đựng rượu cho mình uống giờ say đòi đập nó, không xấu thì là gì?

Bài thơ Thế Gian Say hay nhất ở câu cuối:

Rượu ba xu. Thế gian hóa thằng rồ!

Ngày xưa, tiền chi tiêu trong dân chúng là tiền gián, với một quan là 360 đồng, dưới đồng là hào, dưới hào là xu rồi đến chinh và kẽm. Ca dao Việt Nam có nhắc đến người nội trợ đi chợ:

Một quan tiền tốt mang đi

Nàng mua những gì mà tính chẳng ra

Thoạt tiên mua ba tiền gà...

Ngày nay, đồng tiền Việt Nam được lưu hành trong dân chúng, thấp nhất là tờ giấy bạc một nghìn đồng. Nhà thơ Nguyễn Khôi có kể về vợ mình đi chợ:

Nửa triệu tiền tốt mang đi

Em mua những gì?- máy tính thẩm tra

Xem vậy, rượu ba xu thời nào cũng là thứ rượu rẻ tiền nhất. Nên cái đáng cười người đời là đã phải uống cái thứ rượu mạt hạng ấy mà không biết mình là ai lại đòi đập chén trở cờ rồi cười, rồi khóc, rồi mơ và chửi thiên hạ để chính thế gian gọi là thằng rồ.

--------------

(Trích từ: Thơ về rượu hay nỗi buồn riêng mình và nỗi buồn nhân thế của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? - Nguyễn Bàng)

*.

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: 17 đường 69, Tân Quy, Quận 7, Sài Gòn.

Email: bnguyen37@gmail.com

 

TÒ HE

- tặng 1 người em -

.

Phút trải lòng đăng ngắt

Điếng lòng người lặng nghe

Thương nửa đời nén chặt

Nhốt hồn trong xác ve.

.

Chiều cuối ngày nắng quắt

Dụ hồn nhập Tò He.

*.

Hà Nội, chiều 14 tháng 9.2021

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

ĐỌC ‘TÒ HE’ THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tò He (còn từng được gọi là con giống bột) là một loại đồ chơi dân gian của trẻ em Việt Nam, có thể ăn được. Ngày nay, nặn tò he là một nét văn hóa dân gian chẳng biết có còn hay không, vì các nơi đô thị không thấy nữa Nặn tò he xuất hiện không rõ từ lúc nào nhưng có lẽ là do các nghệ nhân miền nông thôn sáng tạo.

Ban đầu, tò he là sản phẩm làm bằng bột dùng để cúng lễ nên chúng thường có hình thù các con vật như công, gà, trâu, bò, lợn, cá... Một số vùng tại miền Bắc, người ta còn gọi là "con bánh" vì bên cạnh hình thù các con vật, người ta còn nặn bột thành nải chuối, quả cau, chân giò, đĩa xôi... tạo thành mâm cỗ để đi chùa dâng cúng.

Sản phẩm này có màu sắc tương đối giống đồ thật và có pha thêm chút đường nên có thể ăn được. Về sau, sản phẩm được gắn vào một chiếc kèn ống, ở đầu kèn có quét chút mạch nha, khi thổi phát ra âm thanh "tò te" thế nên có lẽ người ta gọi là "tò te", sau này nói trại thành "tò he".

Trước khi bàn đến bài thơ “Tò He” của Đặng Xuân Xuyến, một bài thơ nói đến thứ âm nhạc bình dân đã làm “Điếng lòng người lặng nghe”, Châu Thạch tôi xin đề cập qua về một số trường hợp thơ có đề cập đến thứ âm nhạc thượng lưu:

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nhiều lần nhắc đến việc Kiều đánh đàn. Bốn lần Kiều đánh đàn có bốn hoàn cảnh, tâm trạng khác nhau, cũng làm “Điếng lòng người lặng nghe” bởi tâm trạng yêu đương và đau khổ của nàng.

Nhà thơ Lý Bạch thời Đường cũng có bài thơ “Thính Thục Tăng Tuấn Đàn Cầm” dịch là “Nghe Sư Thục Gảy Đàn Cầm” đã biểu lộ những tình cảm biến thiên làm cảm hóa lòng người, đem sự thánh thoát khai sáng triết lý sâu xa cho trí tuệ. Bài thơ được Hải Đà phỏng dịch như sau:

Thục Tăng ôm chiếc đàn cầm

Từ phương Tây xuống đến gần Nga My

Vì ta gảy khúc trúc ty

Nghe như tùng bách thầm thì dưới khe

Nước trôi rũ sạch lòng mê

Sương rơi huyền ảo vọng về tiếng chuông

Núi xanh phủ bóng chiều buông

Mây thu lớp lớp chập chùng mênh mang

Tỳ Bà Hành” của Bạch Cư Dị, một trong những thi nhân nổi tiềng của Trung Quốc cũng sống thời nhà Đường, với trường thi dài 616 chữ đã miêu tả nghệ thuật tấu đàn cao siêu cùng cuộc đời truân chuyên của người ca kỷ. Xin trich một đoạn dịch về tiếng đàn Tỳ Bà trong thơ:

Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt

Trước Nghê Thường, sau thoắt Lục Yêu

Dây to nhường đổ mưa rào

Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng

Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy

Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu

Trong hoa oanh ríu rít nhau

Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh

Đầu thế kỷ 20, bài thơ “Tiếng Sáo Thiên Thai” của Thế Lữ, một nhà thơ trong Tự Lực Văn Đoàn cũng làm rung động con tim cả thế hệ. Thế Lữ đã tả âm thanh của tiếng sáo như sau:

Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,

Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn...

Tiên Nga tóc xoã bên nguồn.

Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;

Mây hồng ngừng lại sau đèo,

Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.

Trời cao, xanh ngắt. - Ô kìa

Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.

Bây giờ xin nói về bài thơ “Tò He” của Đặng Xuân Xuyến:

Tất Nhiên nhà thơ không mong muốn đem sánh người thổi Tò He có nghệ thuật cao như riếng sáo tiếng đàn trong thơ thưở xưa, hay âm thanh của nó du dương, réo rắt như lời thơ miêu tả trong cảo thơm. Tuy vậy Đặng Xuân Xuyến đã miêu tả đến tận cùng nội tâm của người thổi Tò He và người nghe Tò He không khác gì những nhân vật đàn và nghe trong sự tích người xưa mà cảo thơm để lại.

Câu đầu của bài thơ “Phút trải lòng đắng ngắt” cho ta hiểu người thổi Tò Hè không phải để bán, đó phải là một người có tài âm nhạc, có tâm hồn nghê sĩ và điều quan trọng là có một tâm sự sầu thương.

Âm thanh thổi ra từ tiếng kèn Tò He không bao giờ luyến láy như kèn lá, âm điệu ngắn hơn và khô hơn rất nhiều. Vậy nhưng người thổi đã đưa được nỗi đau của mình vào tâm hồn tác giả, khiến cho âm thanh đã làm “Điếng lòng người lặng nghe”.

Hai câu thơ mở đầu “Phút trải lòng đắng ngắt / Điếng lòng người lặng nghe” không chỉ để tả tài nghệ thổi Tò He của người thổi, mà còn gián tiếp cho ta hình ảnh đôi tri kỷ đàn và nghe âm nhạc, hiểu nhau không khác gì Bá Nha - Tử Kỳ thuở trước.

Hai câu thơ tiếp theo “Thương nửa đời nén chặt / Nhốt hồn trong xác ve” cũng cố thêm lập luận họ là đôi tri kỷ thanh âm. Con Tò He được nén thành hình con Ve, và tiếng kèn thổi qua xác ve đã làm “Điếng lòng người lặng nghe” bởi qua âm thanh, người lắng nghe đã hiểu những gì xảy ra trong tâm hồn người đang thổi.

Dầu người thổi và người nghe có quen nhau từ trước hay chỉ tình cờ gặp nhau, thì qua âm thanh mà hiểu lòng nhau đều là một sự kiện thẩm âm hiếm có trên đời. Chỉ những ai tâm hồn chung tầng số, đồng điệu thì việc ấy mới xảy ra.

Hai câu thơ cuối “Chiều cuối ngày nắng quắt / Dụ hồn nhập Tò He” như một tiếng than. Nhà thơ đem cảm xúc trong lòng trùm lên vạn vật, và ngược lại, cô đọng vạn vạt quanh mình nhập vào tiếng kèn Tò Hè. Có thể nói lúc nầy cảnh và hồn như một, trong trạng thái khó tả, bâng khuâng, trống trải, bơ vơ và lạc lỏng!

Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật dùng âm thanh để diễn tả. Trong đó âm thanh mang những tính chất tạo nên giai điệu, được biểu diễn bởi nhạc cụ, tạo ra những âm thanh hài hòa thể hiện cảm xúc con người. Bài thơ Tò He của Đặng Xuân Xuyến diễn đạt âm thanh phát ra từ con Tò He có xác ve, qua tài nghệ điêu luyện của người thổi, làm cho nỗi đau của mình thấm vào lòng người thưởng thức âm thanh. Bài thơ cũng chính là thứ âm thanh không có tiếng, không nhập âm thanh vào tai người, nhưng nhập âm thanh vào tâm hồn người, tạo nên những cảm xúc mà lời văn không bao giờ diễn đạt nổi.

Tôi nghĩ ai đọc bài thơ Tò He, ai biết bài thơ Tò He hay, thì người đó cũng điếng lòng trước những câu thơ ngắn gọn mà đầy âm sắc bật ra từ một tâm hồn nhốt trong xác ve! Đặng Xuân Xuyến đã thực hiện được lần hai, cho chúng ta cảm xúc cái mà người thổi Tò He đã làm cho tác giả cảm xúc./.

*.

Đà Nẵng, 13 tháng 11-2021

CHÂU THẠCH (Trương Văn Trạn) 

Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.

ĐT: 0929128967 - 05113894610

Email: truongvantran@hotmail.com

 

BỎ YÊU

- Với P.T.T -

 

Em nhắn gửi ta mấy ý yêu

Nào mây lãng đãng quắt quay chiều

Nào hanh hao nắng se se lạnh

Nào mấy bữa nay lá rụng nhiều.

 

Ta có cần đâu mấy ý yêu

Đừng than nắng nhạt với mưa nhiều

Đã quen kiêu hãnh đêm lạnh vắng

Đừng díu gian ta ánh trăng thề.

 

Ta đã quên rồi những đam mê

Tơ giăng ngáng lối nghẽn đường về

Nhịp yêu sai lỡ ta bỏ hết

Thôi đừng rủ nguyệt níu gió mây.

 

Thì cứ về đây hóng gió tây

Giỡn trăng sóng soãi vắt ngang đồi

Hồn ta từ bữa đi hoang ấy

Đã chết từ lâu tiếng yêu rồi.

*

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ‘BỎ YÊU’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Tựa đề bài thơ là "Bỏ Yêu", nhưng câu thơ đầu tiên của "Bỏ Yêu" lại là: "Em nhắn gửi ta mấy ý yêu". Có thật anh sẽ "bỏ yêu" không Đặng Xuân Xuyến? Bỏ yêu mà đọc thư, đọc lời "em nhắn gửi ta" lại để ý được những ẩn ý sâu dưới lớp ngôn từ được ngụy trang khéo léo bằng lời "em nhắn gửi" là "mấy ý yêu"? Đọc những lời "em nhắn gửi ta" chỉ thấy những hình ảnh gợi nhớ gợi thương: "mây lãng đãng" "quắt quay chiều" / "hanh hao nắng" "se se lạnh" / "lá rụng nhiều"... Những hình ảnh chi tiết, cụ thể như thế, với không gian, thời gian cũng cụ thể và chi tiết như thế thì thử hỏi gã trai với những thi phẩm như: "Say yêu", "Khát yêu", "Cuồng yêu", “Còn yêu”... có thật sự sẽ "Bỏ Yêu"? Tôi không tin và bạn đọc chắc cũng không tin vì những câu thơ của anh đã mách bảo người đọc là anh đang dối lòng, anh đang rất nhớ người yêu đấy.

Tưởng quên được tình xưa, quên được người xưa dễ lắm mà sao đọc thơ thấy đau thế Đặng Xuân Xuyến? Quên đi, bỏ đi mà nhà thơ lại nhớ những chi tiết nhỏ nhặt nhất, cứ như đốt lòng vậy thì bỏ yêu sao được?

BỎ YÊU

- Với P.T.T -

.

Em nhắn gửi ta mấy ý yêu

Nào mây lãng đãng quắt quay chiều

Nào hanh hao nắng se se lạnh

Nào mấy bữa nay lá rụng nhiều.

.

Ta có cần đâu mấy ý yêu

Đừng than nắng nhạt với mưa nhiều

Đã quen kiêu hãnh đêm lạnh vắng

Đừng díu gian ta ánh trăng thề.

.

Ta đã quên rồi những đam mê

Tơ giăng ngáng lối nghẽn đường về

Nhịp yêu sai lỡ ta bỏ hết

Thôi đừng rủ nguyệt níu gió mây.

.

Thì cứ về đây hóng gió tây

Giỡn trăng sóng soãi vắt ngang đồi

Hồn ta từ bữa đi hoang ấy

Đã chết từ lâu tiếng yêu rồi.

*

Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2013

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ rất chất riêng của Đặng Xuân Xuyến.

Ở góc độ nào cũng cảm nhận được sự độc đáo trong thơ của anh.

Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành đã từng nhận xét về thơ Đặng Xuân Xuyến trong bài “Về chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại”: “Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy trăn trở.”. Còn nhà phê bình văn học Châu Thạch trong bài “Đọc thơ Đặng Xuân Xuyến” nhận định: “Thơ của Đặng Xuân Xuyến ta thấy tính cách thơ rất ngạo nghễ, rất ngang tàng trong cuộc sống mà cũng vô cùng nồng cháy khi yêu.”. Vâng, đúng là thơ thế sự của Đặng Xuân Xuyến “giọng điệu sắc lạnh”, “tính cách thơ rất ngạo nghễ, rất ngang tàng”, “tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ”, và thơ tình của anh thì “vô cùng nồng cháy” “đầy trăn trở”, rất đặc trưng thơ tình Đặng Xuân Xuyến: Bạo liệt trần trụi, phồn thực nhưng không hề dâm tục!

Một chút ngông, một chút dối lòng, một chút hờn mát trong câu thơ: "Đã quen kiêu hãnh đêm lạnh vắng" làm người đọc bật lên câu hỏi có thật vậy không nhà thơ Đặng Xuân Xuyến? Đọc câu thơ này sao chỉ thấy nặng sự trách cứ, hờn dỗi, nhớ nhung mà không mảy may thấy sự "kiêu hãnh" đắc thắng nào của kẻ một hai kiên quyết sẽ "bỏ yêu"?!

Lại gặp từ "gian" trong "díu gian" tình của chàng trai trong thơ Đặng Xuân Xuyến ở bài thơ “Bỏ yêu” này. Có phải vì tình yêu gặp phải những trắc trở trái ngang nên nhà thơ họ Đặng mới quyết tâm "bỏ yêu" trong khi lòng vẫn còn nhiều nhung nhớ, tiếng yêu vẫn còn day dứt không chịu "buông lơi"?!

Mặc dù nhà thơ đã lên tiếng khẳng định thêm một lần nữa là anh sẽ “bỏ yêu” vì “sai lỡ” nhịp yêu của trái tim: “Nhịp yêu sai lỡ ta bỏ hết / Thôi đừng rủ nguyệt níu gió mây.” Nhưng nhà thơ lại rủ rê người tình cũ trở về chốn xưa cũ với những câu thơ mời gọi như một lời thách thức khó cưỡng:

“Thì cứ về đây hóng gió tây

Ngắm trăng sóng soãi vắt ngang đồi”

Rồi ngay sau đó nhà thơ lại buông câu than vãn: “Hồn ta từ bữa đi hoang ấy / Đã chết từ lâu tiếng yêu rồi.” để chống chế cho lời gạ gẫm, rủ rê lúc trước: “Thì cứ về đây hóng gió tây / Ngắm trăng sóng soãi vắt ngang đồi”.

Người ta nói: Tình cũ không rủ cũng tới, vậy mà anh nhắn gửi người xưa cũ đầy ngụ ý thách thức, rủ rê như thế thì sao mà “bỏ yêu” được!

*.

Hà Nội, ngày 3 tháng 12 năm 2021

VŨ THỊ HƯƠNG MAI

Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319

quận Long Biên, thành phố Hà Nội.    

Email: huongmai8081@yahoo.com.vn

 

Ở LẠI

 

Thì cứ lại đây. Ngồi xuống đây

Nhấp chén rượu thơm ủ lâu ngày

Ngoài kia mưa gió nhiều như thế

Ở lại đi em. Mai hãy về.

 

Ta biết sự đời cũng nhiêu khê

Mười hai bến nước lắm ê chề

Em về hay ở đều như thế

Ngang dọc miệng đời chẳng bớt chê.

 

Thôi ở lại đây. Nghỉ lại đây

Ngực ta làm gối thật êm dầy

Tay ta làm nệm nhung rất ấm

Em quấn thân ta tựa chăn mềm.

 

Ta muốn đêm này em với ta

Quyện từng hơi thở trộn thịt da

Ưu phiền cứ mặc trôi theo gió

Nào hãy cùng ta dạo bến mơ.

*.

Hà Nội, chiều 04.09.2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

VÀI CẢM NGHĨ KHI ĐỌC BÀI THƠ ‘Ở LẠI’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

*

Bài thơ "Ở lại" là một trong số các bài thơ tình hay của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến! Ngôn từ và hình ảnh trong bài thơ thật bạo liệt và táo bạo, đậm chất phồn thực nhưng không hề mảy may khiêu dâm, tục tĩu.

Ở LẠI

 

Thì cứ lại đây. Ngồi xuống đây

Nhấp chén rượu thơm ủ lâu ngày

Ngoài kia mưa gió nhiều như thế

Ở lại đi em. Mai hãy về.

 

Ta biết sự đời cũng nhiêu khê

Mười hai bến nước lắm ê chề

Em về hay ở đều như thế

Ngang dọc miệng đời chẳng bớt chê.

 

Thôi ở lại đây. Nghỉ lại đây

Ngực ta làm gối thật êm dầy

Tay ta làm nệm nhung rất ấm

Em quấn thân ta tựa chăn mềm.

 

Ta muốn đêm này em với ta

Quyện từng hơi thở trộn thịt da

Ưu phiền cứ mặc trôi theo gió

Nào hãy cùng ta dạo bến mơ.

*.

Hà Nội, chiều 04.09.2014

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

(In trong tập CƯỠNG XUÂN ; Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2017)

Thơ tình của Đặng Xuân Xuyến hay đề cập đến những khía cạnh rất nhạy cảm trong tình yêu, không mơn trớn mon men với trăng sao mây gió, nhớ nhung, thề non hẹn biển như đa số thơ tình của các nhà thơ khác. Thơ tình của Đặng Xuân Xuyến là những ngôn từ, những thi ảnh trần trụi với những biểu hiện cụ thể của: cắn, cấu, ghì, xiết, rên, la... trong chuỗi hành động ân ái yêu đương, nhưng cho dù ngôn ngữ có táo bạo, nóng bỏng, gợi dục tính thế nào thì câu chữ Đặng Xuân Xuyến dùng vẫn tinh tế, đẹp và nhân văn, không hề gợn chút khiêu dâm ân ái thân xác tầm thường. Đó là đặc trưng rất riêng của thơ tình Đặng Xuân Xuyến.

Lấy ví dụ ở bài thơ khác, đó là bài thơ "Tình Nở". Cũng với những ngôn từ bỏng cháy khát yêu, tưởng nhà thơ chỉ mô tả những ham muốn trần trụi về thể xác để diễn tả thoả cơn khát yêu của Thị Nở - Chí Phèo nhưng ngẫm kỹ chút thôi thì những ngôn từ ấy không hề dung tục, không hề khiêu dâm mà rất giàu tính nhân văn. Câu "Giả ngây Nở để Chí đè cưỡng yêu" là câu thơ rất sáng với 2 từ "giả ngây" giàu tính nhân văn. Nhờ 2 từ "giả ngây" mà Thị Nở không ngốc nghếch thô kệch và dở hơi như trong nguyên tác của nhà văn Nam Cao. Thị Nở trong "Tình Nở" khôn hơn, e lệ phụ nữ hơn, biết giấu đi sự khao khát ái tình khi được "Chí đè cưỡng yêu". Với 2 chữ "giả ngây" này Thị Nở được thoát xác thành một người phụ nữ tinh ranh và rất là đời.

Khi bình về bài thơ “Tình Nở”, nhà Phê bình Văn học Châu Thạch có những nhận xét rất tinh tế, công tâm:

Tình Nở là một bài thơ cho ta hai cảm xúc. Cảm xúc ở tâm hồn đem đến cho ta cảm nhận hương vị của một mối tình bình dân, chân chất và mộc mạc. Cái hương vị đó ta không tìm thấy khi đọc chính truyện của nhà văn Nam Cao. Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã đặt vào trong sáu câu thơ ngắn của mình những từ ngữ thích đáng như “ơn trời”, “giả ngây”, “cưỡng yêu”, “hương tình”, “vẫn tươi” để thi vị hóa cái đêm hôm đó, làm cho Tình Nở gây hình ảnh đẹp trong thơ và tạo ấn tượng đẹp trong lòng bạn đọc. Cái cảm xúc trong tâm hồn mà tác giả tạo ra trong thơ làm cho sự cảm xúc trong xác thịt bớt đi tính dục. Từ đó hơi nóng tình dục chảy trong người khi nhớ lại cảnh ái ân đầy bản năng dưới trăng không còn lõa lồ khó nhìn nữa, mà nó trở nên một bức tranh nghệ thuật tả chân.

Có thể nói, Tình Nở của Đặng Xuân Xuyến đã cô đọng thi đề, thi tứ, thi ý trong những câu thơ súc tích. Thơ ngắn nên sức khái quát thật cao. Sự lựa chọn để miêu tả những khoảng khắc dồn nén thật đúng lúc và tuyệt vời. Bài thơ cũng tạo một cái nhìn mới vào truyện ngắn Chí Phèo mà từ lâu, đã được giảng dạy ở học đường theo một định hướng không hoàn toàn của nó.”

Khi đọc tập thơ tình "Cưỡng Xuân" của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, nhà thơ, nhà nghiên cứu Kinh dịch Nguyễn Thanh Lâm cũng đã có những cảm nhận thú vị: "Thơ của Đặng Xuân Xuyến chưa đến bực tài hoa, mà là thơ của nỗi lòng, tình yêu và sự đớn đau trong tình yêu nâng hồn anh thành cánh chim bay đến phía sau của chân trời tình yêu và trở về với hồn quê - Đất nhãn Hưng Yên:

Về đi em! Về ngắm trăng buông

Câu mái đẩy lèn sâu ký ức

Dựa vai anh ngắm đời rất thực

Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi..

Nếu có tài họa sĩ, tôi sẽ vẽ bức tranh đồng quê, có đôi trai gái ngồi ngắm trăng buông. Cô gái tựa vào vai chàng trai, ngắm trăng trời và nghe trăng ở lòng thổn thức. Nhưng vẽ “Cổ tích trầu cau đã hết nhựa rồi” thì thật khó. Chỉ có thơ, hồn thơ quê của Đặng Xuân Xuyến mới vẽ được. Tôi nhắm câu thơ này cho rượu thơm hương".

Sáng nay, 28 tháng 2 năm 2022, nhà thơ Đặng Xuân Xuyến post bài thơ "Ở lại" lên album "Thơ đã xuất bản" trên trang facebook cá nhân, có khá nhiều lời bình luận khen ngợi bài thơ này. Bình luận của nhà thơ Thái Chung khái quát rất chính xác về bài thơ "Ở lại" và dòng thơ tình của Đặng Xuân Xuyến:

"Thơ tình của Đặng Xuân Xuyến trần trụi nhưng tinh tế, mạnh bạo nhưng đời thường, nhạy cảm nhưng không tục.

Tóm lại (bài thơ Ở Lại), tuyệt, đậm chất Đặng Xuân Xuyến.".

Hay cảm nhận nhanh của nhà thơ Trịnh Thị Nhâm:

"Tôi mê thơ tình của Đặng Xuân Xuyến. Đẹp! Không phải cái đẹp ngôn từ mỹ miều, những lời có cánh, mà cái đẹp rất thật, rất đời. Yêu với niềm đam mê hừng hực, cháy bỏng, quyết liệt. Ngay cả những câu từ tả chân về sự đụng chạm hoà quyện về thể xác vẫn đẹp đẽ, toả sáng, ta không hề thấy bợn chút dung tục. Bài thơ rất tuyệt!"

Viết về những ham muốn ân ái xác thịt với ngồn ngộn những ham muốn dục tính, những khát khao nóng bỏng của tình dục:

- "Thôi ở lại đây. Nghỉ lại đây

Ngực ta làm gối thật êm dầy

Tay ta làm nệm nhung rất ấm

Em quấn thân ta tựa chăn mềm."

- "Ta muốn đêm này em với ta

Quyện từng hơi thở trộn thịt da"

nhưng câu chữ Đặng Xuân Xuyến dùng lại hết sức thanh tao không gợi những ham muốn nhục dục thấp hèn nên đọc thơ anh người đọc thấy tâm trạng sảng khoái thanh bai.

Có lẽ "Ở lại" là một trong số ít bài thơ tình của Đặng Xuân Xuyến không cùng lúc rơi vào 2 tâm trạng đối nghịch của nhân vật trữ tình trong thơ: yêu hay không yêu? nóng bỏng khát khao yêu và tái tê băng giá vì yêu như thường thấy trong thơ tình của anh.

*.

Hà Nội, 28 tháng 2-2022

VŨ THỊ HƯƠNG MAI

Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319

quận Long Biên, thành phố Hà Nội.    

Email: huongmai8081@yahoo.com.vn

 

ĐỢI XUÂN...

 

Đợi xuân xuân chửa chịu về

Đợi tình tình lại mải mê xứ người

Nâng lên ly rượu tự mời

Uống đi cho cạn nụ cười nhếch môi?!

*.

Hà Nội, 24 tháng 04.2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

 

BÀI THƠ ‘ĐỢI XUÂN...’ CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ ĐỢI XUÂN của Đặng Xuân Xuyến là bài thơ lục bát ngắn 4 câu nhưng rất hàm súc!

ĐỢI XUÂN...

 

Đợi xuân xuân chửa chịu về

Đợi tình tình lại mải mê xứ người

Nâng lên ly rượu tự mời

Uống đi cho cạn nụ cười nhếch môi?!

*.

Hà Nội, 24 tháng 04.2020

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

"Đợi xuân xuân chửa chịu về". Mùa xuân mang lại sự tươi mới ấm áp cho vạn vật bừng nở. Rực rỡ sắc mầu hoa lá, rộn rã tiếng chim ca xua đi cái ủ dột buồn sầu của lòng người. “Đợi xuân” xuân sẽ đến chứ, bởi theo vòng quay, theo chu kỳ của thời tiết, của đất trời. Nhưng ở đây "... xuân chửa chịu về". Tôi cảm câu thơ này lồng hai ý. Thứ nhất: đây đích thị là người có tuổi rồi, cái tuổi xuân đi qua không bao giờ trở lại, đồng nghĩa với sức khoẻ hao tán, buồn lo đầy lên. Thứ hai: Mong một mùa xuân trọn vẹn đầy đủ ý nghĩa với ta, với mọi người trên toàn bờ cõi Việt Nam. Nhưng "... xuân chửa chịu về". Thôi thì đợi xuân chẳng được ta nghĩ đến tình. Tình yêu tiếp cho ta sức mạnh, cho ta say yêu cuộc đời, nhưng hỡi ôi "Đợi tình tình lại mải mê xứ người". Tình yêu, mình nhớ nhung mong đợi đâu còn thuộc về mình mà chỉ còn là vọng tưởng mà thôi.

Tôi rất thích hai câu thơ này:

“Nâng lên ly rượu tự mời

Uống đi cho cạn nụ cười nhếch môi?!”

Chỉ hai dòng ngắn ngủi mà đúc kết nên hai điều rất quý giá của con người: mùa xuân - tuổi trẻ, tình người - tình yêu! Không còn xuân, không có xuân, không có tình yêu chỉ còn lại đơn côi - ta với ta. "Nâng lên ly rượu tự mời", ta tự mời mình: nào uống đi, "Uống đi cho cạn nụ cười nhếch môi", có chút gì đó tự giễu cợt, hơi chua chát, khinh bạc cho con người, cho cuộc đời đen bạc. Uống rượu một mình, độc ẩm, độc thoại với lòng mình đâu còn là của riêng người trong thơ, mà là tâm trạng đã từng xảy ra trong cuộc đời của nhiều người. Cảm ơn tác giả đã nói hộ nỗi lòng của họ.

Bài thơ lục bát ngắn chuẩn chỉnh. Tác giả dùng từ "chửa" rất dân dã giàu sức biểu cảm chạm vào tâm can người đọc. Nếu anh dùng từ khác ví như từ “chẳng” thì câu thơ "Đợi xuân xuân chửa chịu về" thành "Đợi xuân xuân chẳng chịu về" sẽ thiếu hẳn sức gợi cảm. Hay từ "nhếch môi" trong câu "Uống đi cho cạn nụ cười nhếch môi" làm nên câu kết bài thơ rất tuyệt liền mạch, liền ý, khiến bài thơ có sự khắng khít chặt chẽ!

Tôi rất thích bài thơ này!

*.

Hạ Long, 25 tháng 4-2022

TRỊNH THỊ NHÂM

Địa chỉ: Tổ 9 khu 3, số 14/04 tòa A

chung cư Trần Hưng Đạo Plaza

thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh

Email: trinhnham52@gmail.com

.  

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài phê bình, cảm nhận thơ0

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Để sao chép trích dẫn mời Quý bạn đọc nhấp chuột vào link:

https://tienglongnguoixaque.blogspot.com/p/cam-nhan-cua-ban-oc-ve-46-bai-tho-cua.html

0 comments:

Đăng nhận xét