NGUYỄN ÁNH VÀ CÂU CHUYỆN
"CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ": MỘT CÁI NHÌN
CÔNG BẰNG VÀ TOÀN DIỆN
Trong văn hóa chính trị và sử học đại chúng Việt Nam, một trong
những biểu tượng gây tranh cãi nhất chính là Gia Long - Nguyễn Ánh.
Lịch sử chính thống từng khắc họa ông như một kẻ phản quốc: “cõng rắn cắn gà nhà”, “cầu viện ngoại bang”, “hại dân hại nước”.
Nhưng đã đến lúc cần đặt lại câu chuyện này trong một bối cảnh
rộng hơn và công bằng hơn, bởi lịch sử không thể bị giản lược thành những nhãn
dán đạo đức trắng - đen một chiều.
Bài viết này không nhằm “tẩy
trắng” Nguyễn Ánh, càng không nhằm đề cao ông như một nhà yêu nước vĩ đại,
mà chỉ muốn phục dựng lại sự thật lịch sử, một cách khiêm tốn, để nhắc rằng
Nguyễn Ánh không đơn độc trong lựa chọn ngoại giao thực dụng thời bấy giờ, và
rằng câu chuyện “cõng rắn” phức tạp
hơn chúng ta vẫn nghĩ rất nhiều.
Khi “thần phục” là
thông lệ ngoại giao, không phải phản quốc:
Cần nhấn mạnh một sự thật: trong trật tự Á Đông thời phong kiến,
khái niệm “chư hầu - thiên tử” là nền
tảng chính trị quốc tế phổ biến.
Từ Nhật Bản, Triều Tiên đến Việt Nam, nhiều nước “triều cống” cho nhà Tống, Nguyên, Minh,
Thanh, không phải vì thần phục thực sự, mà để giữ hòa hiếu và quyền lực nội
trị.
Vì thế, khi Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm La (1784) và sau đó ký hiệp
ước với Pháp (1787), đó không phải là hành vi đơn độc, mà nằm trong truyền
thống “mượn sức bên ngoài để củng cố
quyền lực nội bộ”.
Cũng như việc ông thần phục nhà Thanh sau khi lên ngôi - đó là
hành động ngoại giao bắt buộc, không khác gì các triều đại trước và sau.
Điều cần nhấn mạnh là: trong bối cảnh một đất nước phân liệt,
không ai hoàn toàn vô tội với tội danh “cõng
rắn”, nếu cứ khăng khăng giữ nhãn quan đạo đức hiện đại để phán xét.
Không phải Nguyễn Ánh là người đầu tiên đưa giặc ngoại vào nội
chiến. Năm 1786, khi Bắc Hà bị quân Tây Sơn đánh chiếm, Trịnh Khải, người thừa
kế họ Trịnh, đã cử sứ sang Thanh cầu phong và xin “bảo hộ” để tiếp tục tồn tại quyền lực.
Sử liệu trong Khâm định Việt sử Thông giám cương mục
ghi: "Trịnh Khải sai người sang nhà
Thanh xin phong. Vua Thanh chuẩn phong Khải làm ‘An Nam Đô thống sứ’, ban quốc
ấn.” (Q.46, triều Lê Hiển Tông).
Tức là, trước cả Nguyễn Ánh, họ Trịnh đã sẵn sàng dâng quốc
hiệu, cầu viện quân Thanh, nếu điều đó giúp họ giữ ngai vàng.
Nguyễn Huệ cũng vậy: Chúng ta ca ngợi chiến thắng Đống Đa (1789)
như một thiên anh hùng ca - và đúng là như thế. Nhưng ít ai nhắc rằng sau chiến
thắng ấy, Nguyễn Huệ đã chủ động xin thần phục nhà Thanh để tránh chiến tranh
lâu dài.
Theo Thanh thực lục (Cao Tông thực biên, quyển 1436): "An Nam Nguyễn Huệ cầu phong, nguyện làm
thuộc quốc, thường niên cống phẩm. Trẫm phong Huệ làm An Nam quốc vương, cấp
sắc lệnh, ban ấn ngọc.”
Không những thế, Nguyễn Huệ còn sai em là Nguyễn Quang Hiển giả
làm mình đi sứ sang Thanh, thực hiện nghi lễ triều cống long trọng - điều chưa
từng xảy ra với bất kỳ quốc vương Việt Nam nào trước đó.
Nói cách khác: cả Nguyễn Huệ cũng thần phục nhà Thanh - dù với
lý do khôn ngoan và yêu nước. Vậy thì, nếu dùng “cõng rắn cắn gà nhà” để kết án Nguyễn Ánh, thì chúng ta cũng phải
nhìn nhận điều tương tự ở Quang Trung.
Nhưng lịch sử không thể
giản đơn như vậy.
Không ai phủ nhận Nguyễn Ánh đã nhờ Pháp, nhờ Xiêm, và đánh Tây
Sơn bằng sức mạnh hỗ trợ ngoại bang. Nhưng cũng cần nhìn vào lý do.
Tây Sơn sau 1786 từng đánh cả Trịnh - Lê lẫn Nguyễn. Nội chiến
lan rộng, không có thế lực nào đủ mạnh để kiến tạo hòa bình lâu dài. Nguyễn Ánh
- kẻ thất bại, mất đất, mất tông tộc, vẫn kiên trì 25 năm tái lập lực lượng.
Cái giá là phải nhờ cậy ngoại bang.
Nhưng khi lên ngôi, ông không chia đất cho Pháp, không nhượng
cảng cho Xiêm, mà gạt bỏ các hiệp ước bất lợi, thiết lập một triều đại độc lập
và vững mạnh nhất lịch sử phong kiến Việt Nam kéo dài 143 năm.
Nếu nói “cõng rắn” là
tội lỗi, vậy thì cái giá ấy đã được “trả
lại” bằng một đất nước thống nhất và ổn định – điều mà ngay cả Tây Sơn, với
tất cả hào quang của họ, cũng không làm được lâu dài.
Ai trong lịch sử không
thần phục Thiên triều?
Sự thần phục phương Bắc không chỉ là hành vi của riêng Gia Long
hay Quang Trung, mà là thông lệ phổ biến suốt hơn 1000 năm. Từ Lý, Trần, Lê đến
Nguyễn, hầu như tất cả các triều đại đều có giai đoạn cầu phong, triều cống,
hoặc gửi con làm con tin.
Ngược lại, số người dám không thần phục, không xin phong, không
triều cống - rất hiếm.
1. Hai Bà Trưng (40–43)
Sau khi khởi nghĩa, Hai Bà Trưng xưng vương mà không cầu phong
nhà Hán, lập nước riêng. Vì thế mà bị nhà Hán đàn áp quyết liệt. Đó là lựa chọn
độc lập đầy bi tráng, nhưng chỉ tồn tại được 3 năm.
2. Lý Nam Đế (544–548)
Thành lập Vạn Xuân quốc, Lý Nam Đế xưng đế hiệu, đặt niên hiệu
riêng, hoàn toàn không thần phục nhà Lương. Cuộc chiến bảo vệ Vạn Xuân kéo dài
nhiều năm, là minh chứng cho khát vọng độc lập toàn vẹn.
3. Ngô Quyền (939)
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương mà không xin
phong nhà Nam Hán, chính thức chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc. Đây là cột mốc độc
lập đầu tiên.
4. Lý Thường Kiệt (1077)
Tuy nhà Lý có quan hệ bang giao với nhà Tống, nhưng trong cuộc
kháng chiến 1075–1077, Lý Thường Kiệt đánh sâu vào đất Tống, không cầu hòa,
không xin tha, thể hiện khí phách độc lập vượt trội.
Như vậy, từ Hai Bà Trưng đến Lý Thường Kiệt, chỉ một số ít
trường hợp dám đoạn tuyệt với Bắc triều – phần lớn còn lại đều chọn “thần phục ngoại giao” để bảo vệ cục diện
bên trong.
Trong khuôn khổ ấy, hành vi của Nguyễn Ánh - dù gây tranh cãi -
không có gì đặc biệt để bị kết án như tội đồ dân tộc.
Truyền thống sử học cũ từng thần thánh hóa Quang Trung, lý tưởng
hóa Tây Sơn, và coi Nguyễn Ánh là “nghịch
thần, gian vương”. Nhưng lịch sử không phải truyện cổ tích.
Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, nhưng không thể thống nhất
đất nước lâu dài. Nguyễn Ánh là người thực dụng, quyết liệt và có cái nhìn xa
hơn về thể chế và hậu cần - dù lựa chọn của ông khiến ông trở thành đối tượng
căm ghét của lớp trí thức gắn bó với Tây Sơn.
Nhưng cuối cùng, chính Nguyễn Ánh mới là người xây dựng thể chế
chính quyền bền vững nhất, với hệ thống hành chính - giáo dục - quan lại - luật
pháp bài bản.
Trong khi đó, Tây Sơn dù đánh giặc giỏi, nhưng không có tổ chức
nhà nước đủ vững để cai trị, nội bộ chia rẽ, không thể bảo vệ thành quả.
Vậy thì, công bằng mà nói: lịch sử nên được soi rọi từ nhiều
phía, không phải từ huyền thoại của kẻ thắng hay kẻ thua.
Khái niệm “cõng rắn cắn gà
nhà” là biểu tượng chính trị của thế kỷ XX - khi lịch sử bị quy chiếu bằng
đạo đức cách mạng.
Nhưng khi bước vào thế kỷ XXI, với những tiếp cận sử học mới, đã
đến lúc chúng ta tháo gỡ nhãn dán cảm tính ấy để nhìn lịch sử bằng chiều sâu,
bằng văn hóa, bằng bối cảnh và bằng lý trí.
Nguyễn Ánh không phải là “vị
cứu tinh”, nhưng cũng không phải là “tội
đồ”.
Ông là một chính trị gia thực dụng, một người chơi cờ trong thời
đại hỗn mang, và người thắng cuộc cuối cùng của trò chơi đó.
Và như mọi người thắng trong lịch sử, ông xứng đáng được nhìn
nhận trong toàn cảnh, với những giới hạn và tài năng riêng, không chỉ qua lăng
kính đạo đức của hậu thế.
---------
Nguồn:https://www.facebook.com/photo/?fbid=9922760627844818&set=a.353391001448543
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Ông Phan Văn Khải
như tôi đã biếtl
- Văn Cao một đời tài
hoa nhưng đau đớnl
- Hoàng Văn Hoan và
những bước đi của Bắc Kinhl
- Cần hiểu đúng Nguyễn
Bỉnh Khiêm và vương triều Mạcl
- Phan Châu Trinh và
cuộc ly khai văn hóa Hán tộcl
- Pham Quỳnh nhà trí
thức dân gianl
- Phạm Quỳnh sự nghiệp
và số phậnl
- Cái chết của hùm
thiêng Yên Thếl
- Tây Sơn có phá mồ
các chúa Nguyễnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc
truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Lê Thọ Bình - nguồn: facebook
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét