CỦA NHÀ THƠ LÊ ĐẠT
*
Lê Đạt tên thật là Đào
Công Đạt (1929-2008) sinh ra trên mảnh đất Yên Bái, là một trong những nhân vật
trụ cột của phong trào “Nhân văn giai phẩm”. Cặm cụi và miệt mài lao động trên
cánh đồng chữ, ông mang khát vọng được cách tân thơ Việt một cách mạnh mẽ.
Tuy rằng số lượng xuất
bản không nhiều, chưa trở thành một tác giả được đưa vào chương trình sách giáo
khoa dạy học ở bậc phổ thông nhưng những con chữ đầy phiêu diêu trường nghĩa
của ông luôn thể hiện sự tài hoa của cá tính nghệ sĩ, luôn có quyền kiêu hãnh
của “cái tôi” riêng độc đáo trong tiếp nhận của người yêu thơ.
“Bóng chữ”
có lẽ không chỉ là nhan đề một bài thơ mà còn là của cả một đời thơ Lê Đạt nữa.
Chính tác giả từng khẳng định, thơ ông viết lên từ bóng chữ cũng có nghĩa khẳng
định sự nhập nhòa, mờ ảo trong thơ ông có nguồn gốc từ con chữ. Ông “dùng
bóng chữ, dùng hàm nghĩa nên chữ nọ gọi chữ kia, sinh sôi nảy nở…” cũng
giống như dùng ma lực để điều khiển những con chữ. Chữ của ông có cả một cái
hồn riêng, tự biết yêu, biết nhớ, biết khóc, biết cười. Đọc thơ ông độc giả trở
thành bị động trước những con chữ chủ động. Với bài thơ “Bóng chữ”
cũng vậy:
“Chia
xa rồi anh mới thấy em
Như một
thời thơ thiếu nhỏ
Em về
trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy
mùa
Mây mấy
độ thu
Vườn
thức một mùa hoa đi vắng
Em vẫn
đây mà em ở đâu
Chiều
Âu Lâu
Bóng
chữ đọng chân cầu”
Một thể thơ tự do,
khoáng đạt, cách ngắt nhịp tùy hứng dài ngắn không đều nhau như chính dòng cảm
xúc đang bị dồn nén, xô đẩy dồn tụ mất thăng bằng trong hoài niệm quay quắt của
tác giả. Tất cả chỉ có 49 đơn âm tiết nhưng sự mông lung, mộng mị, giàu ảo ảnh
của ngôn từ khiến người đọc như đi vào cõi mê cung chữ nghĩa.
Nhan đề thơ “Bóng
chữ” vừa lạ lùng, vừa dồi dào sự lay động. Xét về nghĩa biểu vật của
ngôn ngữ “chữ” ở đây chính là sự tồn tại của các kí tự và bóng chữ là
ảnh chiếu, là sự hất loang những nét nghĩa ra bên ngoài vỏ ngôn từ để người đọc
tự do suy thẩm theo vốn hiểu của mỗi cá nhân. Giản dị hơn, “bóng chữ”
tức là hiểu nghĩa đằng sau ngôn từ.
Tuy nhiên, nói đến Lê
Đạt – một “phu chữ” thì ý nghĩa nhan đề không chỉ có thế mà nó là bóng
dáng thương nhớ một thời đã qua nhưng chưa bao giờ lìa xa trong tâm tưởng tác
giả. “Bóng chữ” ấy là “bóng nàng” – nửa hư nửa thực; vừa như có
thể kéo lại gần, vừa như lại quá diệu vợi, xa xôi. Cho nên, nhan đề ấy thực
chất là một sự tưởng niệm về một tình yêu dở dang, một thế giới hoài niệm đẫm
màu nhớ thương trong trái tim tác giả.
“Chia
xa rồi anh mới thấy em
Như một
thời thơ thiếu nhỏ”
Tín hiệu quá vãng hiện
lên ngay ở câu mở đầu. Hai vần bằng “xa rồi” tiếp nối hai vần trắc “mới
thấy” vừa là sự đối lập của cái hiện hữu với cái đã qua, vừa rưng rưng một
niềm chua chát: khi mất đi điều quý giá, người ta mới biết mình từng có điều vô
cùng đáng để trân trọng.
Câu thơ liền kề đã xác
lập suy tưởng ấy là có cơ sở bởi “em” là của thời “thơ-thiếu-nhỏ”.
Ba từ ấy rất đa nghĩa, nhiều chiều tựa như “bóng chữ” hắt lên cho người
đọc giải mã. “Thời thơ thiếu nhỏ” vừa là thời đã qua, vừa là sự thu hẹp
dần về mức độ nhỏ, khuyết, vắng, xa… tức là độ lùi của có em ngày xưa càng xa;
độ tiến của có em, còn em, gần em cũng càng thêm xa ngái. Nhưng cái còn lại và
cũng là cái vô cùng quý giá để tạo nên chất men của thơ, chất nồng trong trái
tim đập rộn yêu thương bản năng của nhân loại, đó là:
“Em về
trắng đầy cong khung nhớ”
Thông thường “trắng”
vẫn đồng nghĩa với “không” với hư vô, với nhàm nhạt, thậm chí là “trắng
quá nhìn không ra” như Hàn Mặc Tử. Nhưng với cách dùng từ của Lê Đạt, tính
từ “trắng” đứng trước tính từ “đầy”, tính từ “nhớ” và ở
ngay sau động từ “về” thì câu thơ đã trở thành một sự kết hợp từ diệu kì
“em” choán đầy trong niềm nhớ của thi nhân.
Cái sự trắng ở đây là
trắng tràn đầy nỗi nhớ, trắng đến mức như có sức mạnh va đập vào kí ức tưởng
ngủ quên – nhưng lại không ngủ quên của tác giả. Hình ảnh em, bóng dáng em luôn
là hình ảnh động, bóng dáng động làm “cong” cả khuôn thước tưởng là đóng
khung trong hai từ “quá khứ”.
Tôi có cảm giác, cả bài
thơ là một tiếng thở. Tiếng thở đã nén lại từ trước nhưng bỗng bật ra. Từ tiếng
thở có hơi dài “chia xa rồi” cho đến lúc hơi thở có phần cong lên vẫn
chưa uốn mềm xuống được:
“Mưa
mấy mùa
Mây mấy
độ thu
Vườn
thức một mùa hoa đi vắng”
“Mây, “mưa”
vốn là các từ thường được liên kết với nhau nhưng ở đây tác giả tách ra đứng
độc lập ở 2 đầu dòng thơ riêng biệt. Thật ra, đó không chỉ là cách kết hợp từ
mới vì trước đó có nhiều thi nhân đã sử dụng. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là
2 từ biểu thị thời gian ấy chỉ sự xoay vần của thời gian. Bao mùa đã qua, bao
độ đã tới – tức là sự vần vũ của thời gian là liên tục, là tuần hoàn. Duy chỉ
có một thứ không đổi thay, không im ngủ – đó chính là “vườn thức”.
Vườn ở đây chính là một
sự ẩn dụ ngọt ngào cho anh, cho nỗi nhớ cháy bỏng mang tên tình yêu vẫn rừng
rực thức. Dù em đã xa, dù “mùa hoa đã đi vắng” nhưng chiếc kim la bàn ấy
vẫn chỉ duy nhất một hướng đó thôi – hướng “em yêu”. Đọc đến đây, tôi
cồn cào nhớ đến thơ Xuân Quỳnh với sự nồng nàn, thủy chung như nhất:
“Dẫu
xuôi về phương Bắc
Dẫu
ngược về phương Nam
Nơi nào
em cũng nghĩ
Hướng
về anh một phương”
Chỉ có khác nhau là lời
tình tự của nhân vật trữ tình, còn điểm giống nhau đó là ở sự đắm say đến tha
thiết, cảm động.
Như đã nói ở trên, khi
mất đi người ta mới ý thức được mình đã từng có. Do vậy, ở “Bóng chữ”
dư vang ấy ngân lên thật da diết, nao lòng:
“Em vẫn
đây, mà em ở đâu”
Tưởng rằng tác giả đang
muốn gào lên “em đang ở đâu?” bởi sự khát cháy của nỗi niềm thương nhớ
nhưng không – tác giả ghìm lại, sự ghìm lại bởi bản chất thâm trầm của người
đàn ông. Một tiếng thở giờ đây đã được khép lại bằng nhịp xa ngái: “vẫn đây”
“mà đâu”. Có lẽ bi kịch tình yêu chính là ở đây. Em vẫn tồn tại, vẫn
hiện hữu nhưng giờ đây lại không là sự tồn tại thuộc về mình, sự hiện hữu trong
chủ động của mình nữa. Còn gì xót xa hơn cho cái “có” nhưng không còn
có, cái “thấy” nhưng không còn thấy nữa. Tất cả là sự diệu vợi, xa xôi,
tất cả là quá vãng dù vẫn đắm say, thắm quyện, da diết nỗi nhớ.
Lê Đạt không dùng dấu
chấm câu nhưng với tôi từ đầu bài đến đây có thể coi là một dấu chấm; để rồi
sau đó, sự bâng khuâng, sự mênh mang, sự mờ ảo như chính nhan đề của nó được
đặt ở câu thứ 2 tiếp theo:
“Chiều
Âu Lâu
Bóng
chữ đọng chân cầu”
Phiêu diêu trong biển
nhớ, tác giả tựa vào bến Âu Lâu nơi mình đã sinh ra để thành thực thú nhận với
lòng mình một chữ “đọng”. Bóng nàng mãi là hình ảnh dấu yêu, như rễ cây
luôn gắn vào cội đất, như con người luôn gắn với nơi chôn nhau – bóng em mãi
được neo đậu chắc chắn trong trái tim chàng trai si tình Lê Đạt.
Có bản in là “động”;
có người bình là “động” nhưng với tôi sự rõ nghĩa và đeo nặng tình cảm
nhất chính là ở chữ “thức” ở giữa bài và chữ “đọng” ở cuối bài.
Nếu là từ khác đi, dư vị bài thơ không da diết, đắm say được đến thế.
Với “Bóng chữ”,
dung lượng thơ không lớn nhưng sức chuyển tải ý nghĩa quả không giản đơn, hời
hợt, dễ dàng. Với cảm nhận của mình một cô giáo bậc Phổ thông Trung học, ít có
điều kiện tìm hiểu về thơ Lê Đạt nên tôi chưa dám tự tin đã cắt nghĩa được đầy
đủ, thẩm thấu được sâu sắc tứ thơ tác giả. Song, có một điều thành thực, tôi đã
đọc “Bóng chữ” của ông bằng cảm xúc cũng đã có với điều quá vãng!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về Chuyện làng văn0
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l
- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm
của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc
bài thơ CẠN LÒNG:
Mời nghe Nghệ sĩ Thúy Minh diễn ngâm
bài thơ VÁY CŨ, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
Nguyễn
Toàn Thắng giới thiệu
Tác giả: Lưu Khánh Linh - nguồn: baoyenbai
Ảnh minh họa sưu tầm từ
nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét