TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
TRĂM NĂM NHÌN LẠI
Sự ra đời của Tự lực Văn đoàn và Thơ Mới đã tạo nên một trường
phái, một phong trào cách tân văn học, đồng thời là một phong trào cách tân văn
hóa, cải cách xã hội, đại diện cho khuynh hướng lãng mạn, sự phát triển theo
hướng hiện đại hóa của văn học Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945.
Cùng với đó, văn đoàn này cũng sáng tạo ra hai nhân vật biếm họa
độc đáo, trăm năm qua vẫn là “siêu sao” gồm: Lý Toét và Xã Xệ.
Dấu ấn dòng tiểu thuyết
lãng mạn, luận đề
Dù chính thức ra mắt vào ngày 2/3/1934 nhưng Tự lực Văn đoàn
được Nhất Linh khởi xướng từ năm 1932. Hiện vẫn còn những tranh cãi về danh
sách các thành viên tham gia Tự lực Văn đoàn, tuy nhiên trong di cảo về Đời làm
báo, Nhất Linh xác định văn đoàn có 7 “thất tinh” (7 ngôi sao) gồm: Nhất Linh
(Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long),
Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) và
Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu).
Cơ quan ngôn luận chủ yếu của Tự lực Văn đoàn là hai tờ báo
Phong Hóa và Ngày Nay. Cùng với đó là Nhà xuất bản Đời Nay. Dù nhân lực ít
nhưng Tự lực Văn đoàn đã làm công việc của hai cơ quan xuất bản: vừa làm báo
vừa in sách của nhóm, lại cho in thuê kiếm lời.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, chưa có văn đoàn và nhóm tác giả
nào được nghiên cứu, viết bài nhiều như Tự lực Văn đoàn. Những năm qua, nhiều
nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà phê bình cả hai miền Nam Bắc đã bỏ công sức tìm
hiểu, đánh giá về phong trào văn học này trên nhiều chiều cạnh, giác độ khác
nhau. Có nhiều công trình được nghiên cứu công phu.
Ví dụ như sau hơn 50 năm nghiền ngẫm và gần 30 năm thu thập, bổ
sung tư liệu, năm 2007, Giáo sư Hà Minh Ðức mới cho ra mắt bạn đọc công trình khảo
cứu về hiện tượng văn học kỳ thú và phức tạp nhất đầu thế kỷ XX: Tự lực Văn
đoàn. Kết quả hàng trăm công trình nghiên cứu, bài viết, luận án, luận văn...
đã ra đời làm rõ thêm những đóng góp và hạn chế của văn đàn.
Tự lực Văn đoàn xuất hiện vào lúc mà văn học Việt Nam vừa trải
qua 30 năm đầu thế kỷ XX - những năm văn học mang tính chất giao thời, trong đó
nền văn học dân tộc chuyển dần từ mô hình văn học Đông Á trung đại truyền thống
sang mô hình văn học hiện đại, gần gũi với dạng thức của các nền văn học trong
thế giới hiện đại.
Hệ thống thể loại của mô hình văn học cũ lấy văn - thơ - phú -
lục làm cơ sở. Hệ thống thể loại của mô hình văn học mới dựa trên các thể: thơ,
kịch nói, văn xuôi tiểu thuyết, tiểu luận phê bình. Chính hoạt động văn học của
Tự lực Văn đoàn sẽ góp phần đẩy tới sự toàn thắng của mô hình văn học mới.
Dù có nhiều cách đánh giá khác nhau về trào lưu văn học này thì
Tự lực Văn đoàn trước sau vẫn có vị trí là bước khởi đầu, là một trong những cơ
sở quan trọng xây dựng lên lâu đài văn học Việt Nam hiện đại.
Trong Từ điển văn học (bộ mới), Giáo sư Nguyễn Huệ Chi khẳng định:
“Trong lĩnh vực văn học, đóng góp của Tự lực Văn đoàn có vai trò đáng kể. Chủ
nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam hiện đại thực sự hình thành và ghi được
những thành tựu cơ bản nhất thông qua hoạt động của văn đoàn này. Phải bắt đầu
từ đây, thơ và tiểu thuyết mới đi vào thế giới bên trong nhân vật, giúp người
đọc khám phá trực diện vẻ đẹp của cái “tôi” và tạo ra cách đọc “phản tỉnh”, tức
là nhìn sâu vào cõi lòng mình.
Về hình thức, tiểu thuyết của văn đoàn đã vượt ra khỏi phạm trù
văn học “giao thời”, có cấu trúc mới mẻ, trong đó quy luật tâm lý thay cho lối
trần thuật một giọng của người kể chuyện. Câu văn trong văn xuôi đã trở nên
trong sáng, chuẩn mực, giàu khả năng biểu cảm tuy có lúc còn đơn điệu. Cùng với
việc đào sâu tâm lý nhân vật, thiên nhiên cũng trở thành một đối tượng thẩm
mỹ...”.
Nhất Linh - vị chủ soái của Tự lực Văn đoàn được khen là có con
mắt tinh đời khi giao “nhiệm vụ” cho các thành viên của văn đoàn. Ông khuyến
khích Khái Hưng chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo: Văn học tạp chí,
Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết. Tú Mỡ được Nhất Linh
gợi ý chuyên làm thơ trào phúng.
Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự, còn Thế Lữ dưới
con mắt Nhất Linh phải là người mở đầu cho “Thơ Mới”... Sau này, mỗi thành viên
của văn đoàn nghiễm nhiên đóng vai trò “ông tổ” của cái hình thức sáng tác mà
Nhất Linh đã phó cho mình cầm trịch.
Không ai có thể tranh ngôi vị cây bút tiểu thuyết tài danh của
Khái Hưng. Nói đến giọng thơ trào phúng sau Tú Xương, người ta phải kể đến Tú
Mỡ. Thạch Lam nổi tiếng với những kiệt tác truyện ngắn trữ tình. Nhiều bạn bè,
kể cả người trong gia đình đều nói sách Thạch Lam bán ế nhất nhưng văn của ông
viết hay nhất trong Tự lực Văn đoàn. Thế Lữ được cả làng “Thơ Mới” thừa nhận là
chủ soái thi đàn và Xuân Diệu - người tiếp bước Thế Lữ đem lại sự toàn thắng
cho “Thơ Mới”.
Dù khi đó báo chí “trăm hoa đua nở” và văn giới đương thời có
nhiều nhóm phái, người ta vẫn phải thừa nhận rằng Tự lực Văn đoàn có một uy tín
nổi bật. Hầu như ít có nhà văn nào đương thời lại không một lần đưa đăng tác
phẩm mình trên các ấn phẩm của Tự lực Văn đoàn. Dù bất đồng quan điểm nhưng Vũ
Trọng Phụng đã từng in cuốn Cạm bẫy người ở Nhà xuất bản Đời Nay (1933).
Xung quanh Tự lực Văn đoàn dần dần tập hợp lại một loạt văn nghệ
sĩ, nhà hoạt động văn hóa. Đó là các nhà văn, nhà thơ Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ,
Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Huy Cận...; là các hoạ sĩ: Nhất Sách, Trần Bình Lộc,
Trần Quang Trân, Le Mur Nguyễn Cát Tường, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí...; các
kiến trúc sư Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp...
Trong tôn chỉ 10 điều của mình, ngoài mục đích tự lực, làm giàu
thêm văn sản trong nước, thì Tự lực Văn đoàn chống lại những thói tục phong
kiến lạc hậu, cổ vũ cho những tư tưởng xã hội tiến bộ, cổ vũ cho tự do cá
nhân...
“Tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn” là tên gọi xác định về một thiên
tiểu thuyết có luận đề, tức là một câu chuyện hư cấu với những nhân vật và cốt
truyện hư cấu, nhằm thể hiện một hoặc một vài tư tưởng xã hội, nhân sinh của
tác giả. So với truyện truyền kỳ, truyện Nôm, truyện chương hồi, thì đây là một
cơ cấu nghệ thuật khác, được tạo dựng theo mô hình tiểu thuyết châu Âu, cụ thể
là Pháp.
Các tiểu thuyết gia Tự lực Văn đoàn đã đem chất liệu đời sống
Việt Nam, ngôn từ Việt Nam đan dệt, dân tộc hóa nó đi để nó có thể được tiếp
nhận bởi công chúng Việt Nam và họ đã thành công trên hướng này.
Tính hiện đại của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn được thể hiện ở sự
đoạn tuyệt với những điển tích sáo ngữ, những câu văn biền ngẫu, những câu văn
với lối ngữ pháp dài dòng trước đó để mở ra một loại hình câu văn xuôi mới, gọn
gàng, giản dị, dễ hiểu và có khả năng diễn đạt những tư tưởng, tình cảm của con
người.
Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Tiêu Sơn tráng
sĩ (1934), Gia đình (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938) của Khái Hưng; Đoạn
tuyệt (1934), Lạnh lùng (1936), Đôi bạn (1937) của Nhất Linh; Con đường sáng
(1938) của Hoàng Đạo... đã gây được dư luận về các vấn đề xã hội và văn học.
Tại Hội thảo Phong trào Thơ Mới và văn xuôi Tự lực Văn đoàn - 80
năm nhìn lại, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Hữu Tá kết luận Tự lực Văn đoàn đã: “Hoàn tất quá
trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc chỉ trong hơn một thập kỷ (1930-1945),
đưa văn học nước ta từ quỹ đạo văn học trung đại hòa nhập chung dòng chảy của
văn học thế giới hiện đại”.
Tiên phong trong phong
trào Thơ Mới
Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 gồm có Thơ Mới và văn
xuôi lãng mạn. Ngày 10/3/1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc
trên báo Phụ nữ Tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên: Một lối thơ
mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở
đầu cho phong trào Thơ Mới.
Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra
vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế
của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ
vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong
trào Thơ Mới.
Khi phong trào thơ mới nổ ra từ báo chí trong Nam rồi nhanh
chóng lan ra báo chí ngoài Bắc và trở nên rầm rộ trên báo chí cả nước, Tự lực
Văn đoàn đã nhập cuộc. Tờ Phong Hóa của nhóm đăng nhiều ý kiến bênh vực thơ
mới, nhiều sáng tác thơ mới của Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú
Tứ, Huy Thông...
Từ trong các thành viên Tự lực Văn đoàn xuất hiện những tác giả
tiêu biểu của thơ mới, cũng đồng thời là những nhà thơ tiêu biểu của thơ Việt
thế kỷ XX: Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ.
Khuynh hướng chung của thời kỳ Thơ Mới những năm 1932-1945 là
khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái “tôi” của tác giả. Cảm hứng sáng
tác “gắn liền với ý thức cá nhân”. Thơ Mới là thơ của cái “tôi”, một cái “tôi”
chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái “tôi” bấy giờ không làm việc
“tải đạo” nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định sẵn.
Đến giai đoạn 1930-1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái
“tôi” cá nhân mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó phát triển
thành trào lưu rầm rộ với đầy đủ đặc trưng của nó trên các thể loại: thơ,
truyện ngắn, bút ký, tùy bút.
Trong sự tác động của Tự lực Văn đoàn đến phong trào thơ mới,
phải kể vai trò nổi bật của Thế Lữ. Dưới bút danh Lê Ta trên Phong Hóa và Ngày
Nay, Thế Lữ thường xuyên điểm bình các sáng tác thơ đương thời, khuyến khích
hoặc phê phán những tác giả, tác phẩm cụ thể.
Chính Thế Lữ đã giới thiệu, khẳng định tài năng thơ của Xuân
Diệu. Tiếp đó Xuân Diệu giới thiệu với làng thơ khuôn mặt sáng tạo của người bạn
thơ thân thiết của ông là Huy Cận. Huy Cận lại gây ảnh hưởng đến một số bạn học
ở Huế, trong số đó có Tế Hanh...
Thuở ấy, Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta
chú ý đến Thơ Mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin
cậy vào tương lai của Thơ Mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất
cao trong Thi nhân Việt Nam: “Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột
hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam”. Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng
nói của cái tôi trong Thơ Mới thời kì đầu. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ
mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi. Khi ấy, ông được Khái Hưng ca ngợi
là Lamartine của Việt Nam”.
Từ 1935 đến 1945, nhà xuất bản Đời Nay của Tự lực Văn đoàn đứng
tên cho in 8 tập thơ: Giòng nước ngược (1943) của Tú Mỡ, Mấy vần thơ của Thế Lữ
(1935), Thơ thơ (1938) của Xuân Diệu, Lửa thiêng (1940) của Huy Cận, Mấy vần
thơ (tập mới, 1941) của Thế Lữ, Bức tranh quê (1941) của Anh Thơ, Mây (1943)
của Vũ Hoàng Chương, và Hoa niên (1945) của Tế Hanh. Danh mục này cho thấy sự
tinh tường trong việc chọn in thơ của nhà Đời Nay, thường do Thế Lữ, Xuân Diệu,
Thạch Lam đảm nhiệm.
Theo Thi nhân Việt Nam, trong thời kì 1936-1939, thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới. Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca.
Biếm họa Lý Toét và Xã
Xệ
Tự lực Văn đoàn chủ trương cải cách xã hội, vận động hiện đại
hóa đời sống xứ sở, tuyên truyền cho văn minh, cho đô thị hóa, Âu hóa. Họ dùng
các loại hình nghệ thuật như văn, thơ, hí họa, ảnh thời sự, truyện cười... để
đả phá tàn dư lạc hậu trong xã hội, thúc đẩy xây dựng đời sống mới. Họ luôn
luôn tìm tòi sáng tạo nhiều nghệ thuật làm báo để hấp dẫn bạn đọc.
Trên báo Ngày Nay, các chuyên mục đã thực sự gây chú ý của bạn
đọc như: Vấn đề thuộc địa, Người và việc, Trông và tìm... Ngoài ra còn các tiểu
mục như: Xã giao, Phụ nữ, Trào phúng cười nửa miệng và Lượm lặt. Lại còn cả
Điểm sách, Điểm thơ, Tin thơ.
Dí dỏm nhất là mục Tập tranh vân đẩu. Hoàng Đạo đã các bài viết
ngắn, sắc lạnh mà hóm hỉnh, sâu cay, đả kích các nhân vật trong xã hội thượng
lưu bấy giờ như nghị viên Ngô Trọng Trí, Phạm Kim Bảng, Bùi Trọng Ngà, Nguyễn
Đình Cung, Tô Văn Lượng, cho đến ông Phủ Hàm, dân biểu Phạm Huy Lục đến các ký
giả Bùi Xuân Học, Phạm Bá Khánh... Họ vừa quan liêu, hợm hĩnh, ba hoa, nịnh hót
bề trên và thiếu nhân cách, lại lên mặt dạy đời.
Đặc biệt, Tự lực Văn đoàn đã sáng tạo ra bộ ba Bang Bạnh, Lý
Toét và Xã Xệ. 3 nhân vật biếm họa thuộc giới chức dịch nhà quê đã làm mưa làm
gió trên mặt báo hơn 10 năm trời. Những mẩu chuyện quanh họ đã biếm trích xã
hội Đông Dương, không từ bất cứ đẳng cấp nào. Sau khi kết thúc trên mặt báo,
hình tượng Lý Toét - Xã Xệ lại được tái hiện trong các loại hình sân khấu như
chèo, tuồng, cải lương, thoại kịch, thậm chí đi vào thi phú. Biếm họa Lý Toét
và Xã Xệ còn được đăng trên các trang bìa báo Pháp Indochine, George Pisier...
và được chế thành nhạc hài Lý Toét.
Về hành trạng, Lý Toét (có tên như vậy là bởi mắt toét) là một
ông lý trưởng cao gầy, búi tó củ hành, râu ria lởm chởm, mặt mày khắc khổ, mồm
rộng tới mang tai, đầu đội khăn xếp, áo dài, tay luôn cầm ô, đôi giày chuyên
cắp nách vì sợ mòn, đi đứng cứ lom khom vì tuổi tác hoặc vì ươn hèn. Toét ta
thường cố làm vẻ đạo mạo, nhưng lại là kẻ vô cùng lém lỉnh, khi lỡm quan trên,
lúc xỏ người dưới, đặc biệt rất thích chửi “ông Tây”, “thói Tây”.
Còn Xã Xệ lùn tịt, béo tròn, đầu trọc lốc như quả táo, với độc
một sợi tóc, má phính, mỏ dẩu. Y là hạng người vô học rỗi nghề, ngây ngô, kệch
cỡm nhưng thỉnh thoảng diện vest đàng hoàng, ưa làm sang như người Tây. Tuy
chức danh có vẻ ngang hàng Lý Toét nhưng lại vô thực vì chỉ là mua cho oai với
làng nước.
Bang Bạnh là nhân vật hiếm khi xuất hiện trên báo nhất, có thể
vì đặc điểm kém hoạt kê và bị độc giả ghét nhất.
Về cha đẻ của hai nhân vật Lý Toét và Xã Xệ còn những nghi vấn
tuy nhiên hình ảnh Lý Toét lúc đầu do Nhất Linh sáng tạo từ tháng 6/1931, khi
chưa có Phong Hóa. Nhất Linh chính thức đưa Lý Toét lên Phong Hóa từ số 15
(phát hành ngày 29/9/32), được các họa sĩ đặc biệt là Nguyễn Gia Trí chấm phá
thêm, trở thành một trong những nhân vật sáng chói của Tự lực Văn đoàn, biểu
hiệu tất cả phong cách hài hước và bi đát trong hý họa của Phong Hóa, Ngày Nay.
Tranh không những ngộ nghĩnh về hình, mà phần lời cũng rất “đắt”
và luôn gây nên cái cười bất ngờ cho nên ai cũng thích, xem một lần là nhớ
ngay... Đó chính là sức sống mãnh liệt của Lý Toét - Xã Xệ. Như hình ảnh châm
biếm sau, nhân dịp chính phủ Đông Dương bỏ ra 2 triệu bạc và phái ông De
Beaumont đem tiền đi dự đấu xảo San Francisco, Lý Toét lấy ô kéo chân ông Tây
lại, Xã Xệ đứng sau kéo áo Lý Toét: “Thôi! Ông đẹp giai và sang trọng thế, thì
ông đi đấu xảo một mình cũng đủ chán rồi. Còn túi tiền ông để lại cho chúng tôi
ăn gạo, chúng tôi đói lắm”.
Hay bức tranh hài hước thâm thúy, sâu xa: Ngày Tết, Lý Toét đem
quà đến biếu quan Tây và nói: “Nghe nói biểu hiệu của mẫu quốc là con gà sống,
nên chúng tôi đem đến tết cụ lớn con gà mái cho có đôi”.
Ở đây Nguyễn Gia Trí chơi chữ: Con gà sống ở xứ Gaule là một
trong những biểu hiệu thiêng liêng của dân tộc Pháp. Còn con gái mái, đối với
người Pháp có ngụ ý xấu là phụ nữ làm nghề mại dâm, gà móng đỏ. Lý Toét ngụ ý:
“Mèo mả gà đồng”, mẫu quốc là con gà Tây, gà tồ, chỉ xứng với gái điếm. Vì xỏ
xiên trực diện như thế nên báo Phong Hóa bị đóng cửa.
Hay những bức biếm họa đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự như:
Lý Toét đứng trước đội binh vàng mã sắp đốt, nói với Xã Xệ: “Bác Xã ạ, ở âm phủ
thì nước ta mạnh nhất, không nước nào bằng”.
Hoặc bức tranh Người Annam mình kinh doanh vẽ một chiếc xe khách
loại 25 chỗ ngồi nhưng hành khách bị ấn vào mọi chỗ trong, trên nóc xe, chả
khác gì hiện tượng các nhà xe nhồi khách hiện nay.
Sau có rất nhiều tờ báo khác khắp Bắc, Trung, Nam thoải mái bắt chước
vẽ cặp bài trùng này, vì đơn giản có Lý Toét và Xã Xệ trên mặt báo thì báo bán
chạy. Thậm chí, hai nhân vật biếm họa Lý Toét Xã Xệ từ mặt báo lại đi vào trào
phúng dân gian. Đến nay, chưa có nhân vật biếm họa nào qua mặt được hai “siêu
sao” này.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Thế thái nhân
tình qua thơ Đặng Xuân Xuyếnl
- “Tưng tửng” 7
chuyện cùng Nguyễn Đăng Hànhl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
- Hôn quân Lưu Tử
Nghiệp và vai diễn của Trương Dật Kiệtl
- Vài cảm nhận khi
xem phim BỐ GIÀ (web drama) của Trấn Thànhl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Lam Hạnh - Nguồn: phapluatvn
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét