MỜI ĐỌC:

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2025

LẠI NÓI CHUYỆN SÁNG TÁC - Tác giả: Tất Thọ ; Nguyễn Văn Thơ giới thiệu

 


LẠI NÓI CHUYỆN SÁNG TÁC

 

Báo Hạ Long số 718 ngày 20.2.2025 mục “Diễn đàn văn nghệ” có đăng bài “Những điều cần có để viết được văn thơ hay” của Nguyễn Văn Thơ làm tôi cứ suy nghĩ mãi. Những tiêu chí mà tác giả nêu ra như “viết bằng vốn sống thực tế”, “viết bằng cảm xúc thực tế”, rồi “biết mượn cảnh tả tình” v..v…. thì sẽ có văn thơ hay. Qủa không sai, nhất là với kinh nghiệm sáng tác của Nguyễn Văn Thơ nhưng với những người khác thì chưa hẳn là như vậy. Trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, nhất là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước biết bao người con ưu tú, kể cả có nhiều nhà văn, nhà thơ đã lao vào cuộc chiến, đắm mình trong thực tế khốc liệt và oai hùng. Rất nhiều người đã ngã xuống giữa chiến trường. 50 năm đã trôi qua, vậy mà hôm nay ngoài một số bài thơ của Phạm Tiến Duật thử hỏi có còn tập thơ nào, cuốn tiểu thuyết nào xứng tầm với hai cuộc kháng chiến thần thánh đầy vinh quang hiển hách đó? Chính vì vậy mà nhà thơ Hữu Thỉnh nguyên chủ tịch hội nhà văn Việt Nam luôn trăn trở “chúng ta còn mắc nợ nhân dân về những tác phẩm xuất sắc viết về công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, về những anh hùng của nhân dân”. Ở Quảng Ninh cũng vậy. Một loạt nhà văn, nhà thơ như Võ Huy Tâm, Tô Ngọc Hiến, Nguyễn Sơn Hà, Trần Nhuận Minh, Hoàng Văn Lương, Võ Khắc Nghiêm, Lý Biên Cương… họ sống gần như hết cuộc đời gắn bó với vùng mỏ cả những năm tháng khốc liệt “vừa làm than vừa đánh giặc”. tắm mình trong cuộc sống thực tế… Vậy mà cho đến hôm nay có tập thơ nào, cuốn truyện nào thật hay, thật xứng tầm với mảnh đất anh hùng?. Vì thiếu đầu tư, có rào cản hay chưa đủ độ lùi? Không phải. Cái chính, cái cốt lõi là trong đội ngũ sáng tác văn thơ đông đảo đó vẫn thấy thiếu vắng những nhân tài. Cũng như có rừng mà không có cây cao, bóng cả. Dòng sông nào cũng có phù sa, ở thời nào cũng có người giỏi. Những người tài, thật sự tài, tài xuất chúng (ở lĩnh vực văn thơ) thì không phải ở thời nào cũng có “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” là thế. Đã là người tài thì họ viết về lĩnh vực gì cũng hay, như Ngô Thừa Ân viết Tây Du Ký toàn chuyện phật tiên, ma quái. Lấy cốt lõi ở Trung Hoa Nguyễn Du viết ra kiệt tác Truyên Kiều. Rồi Antoine de Saint- Exupéry (Pháp) viết Hoàng Tử Bé - Cuốn truyện chỉ có 101 trang (cả tranh minh họa) mà đã được bình chọn là hay nhất thế kỉ 20, được dịch và đọc nhiều nhất trên thế giới. Ở Việt Nam có 6 nhà xuất bản cùng in tác phẩm đó. Vậy không phải cứ nằm trong thực tế cuộc sống là viết được văn thơ hay. Có khi thoát ra, phải hồi tưởng, phải hư cấu… Giambatsista Vico nhà thiết kế Ý thế kỉ thứ XVIII nói đại ý: Khi nhà thơ ngồi cầm bút nên quên đi tất cả những gì đang chuyển động ngoài đời mà chỉ nắm bắt giữ lại cái tất yếu của cuộc sống mà thôi. Muốn hay phải viết cái đỉnh của niềm vui và cái đáy của nỗi buồn, viết cái mà lòng mình thấy bức xúc, thôi thúc không viết ra không được.

Cuộc sống không phải là bài toán hình học. Hàng tỷ người trên trái đất sẽ có hàng tỷ góc nhìn khác nhau. Để được cho là một tác phẩm văn thơ hay, tùy thuộc vào quan điểm, vào nhận thức, vào trình độ và vào cả cái “gu” của từng cá nhân, từng nhóm người. Ta phải lấy đông đảo đọc giả, sự yêu thích của đại chúng mà bình xét. Những tác phẩm đã vượt qua không gian, thời gian còn lại đến hôm nay đã minh chứng điều đó.

Để viết được sáng tác hay có nhiều yêu cầu. Trước hết người sáng tác phải gạt bỏ ngay căn bệnh hoang tưởng còn gọi là bệnh “vi cuồng”. Dấn thân trên con đường văn chương để đến được những đỉnh vinh quang đã có biết bao nấm mồ vô danh còn nằm đó. Nhớ lại cách đây 65 năm tôi có quen biết nhạc sĩ Lê Yên tác giả của bài hát nổi tiếng “Bộ đội về làng”. Ông có đứa con trai tên là Đông lên 7 tuổi. Ngày nào ông cũng bắt cậu bé ngồi vào ghế (kê thật cao) để học đàn Piano, rồi kèm như kèm kem, dùng roi mây để luyện cho cậu thành tài, mong sau náy trở thành nhạc sĩ nổi tiếng. Nhưng rồi bẵng đi mấy chục năm, tôi quay về Hà Nội thì cậu bé Đông kia chỉ là anh thợ điện bình thường như ngàn vạn người thợ khác. Những ai đã ở ngành văn hóa Quảng Ninh hẳn còn nhớ ông Đoàn Đức Nhã chú ruột của ông Phạm Chính, Trưởng ty văn hóa Quảng Ninh từ năm 1965-1985. Bấy giờ ông Nhã đã ngoài 50 tuổi ngày đêm chỉ chăm chú vào một nghề là viết kịch bản sân khấu. Thấy ông đã luống tuổi mà không vợ con gì, tôi làm mối ông yêu cô hiệu trưởng trường cấp 1+ 2 xã Hùng Thắng (tên là cô giáo Nghĩa hiện còn sống). Được ít ngày ông thoái lui vì… sợ lấy vợ đẻ con ra sẽ làm giảm mất niềm đam mê viết kịch của mình. Thế rồi cho đến già và khi về với cát bui ông có để lại cho các đoàn nghệ thuật Quảng Ninh một vở kịch nào đâu. Kể cả cho các đội văn nghệ không chuyên cũng không.

Vậy mới biết, viết văn, làm thơ, soạn kịch là một nghề thật nghiệt ngã. Có người sống để viết lại có người viết để sống. Thơ văn mang vẻ đẹp và thứ quyền năng riêng như một thứ rượu quý. Để viết được những tác phẩm hay đòi hỏi người cầm bút phải có tầm nhìn khách quan, nhân hậu và tuyệt nhiên không được ác. Nếu đã ác tâm thì phản ánh hiện thực cuộc sống sẽ méo mó. Chưa nói là chỉ nhìn thấy cái tối tăm, xấu xa, thấp kém và hèn hạ mà thôi.

Xin lấy cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh làm dẫn dụ. (tác giả được giải nhất hội nhà văn Việt Nam năm 1991) Trong lúc cả trái đất đang ngỡ ngàng và ngưỡng mộ Việt Nam vừa nhỏ bé, vừa nghèo nàn mà dám đánh và đánh thắng một đế quốc to là Mỹ vừa giàu có vừa hùng mạnh vào bậc nhất thế giới. Trong khi mọi người dân đất Việt đang hân hoan tự hào về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với những chiến công vang dội như Vạn Tường, Ấp Bắc, Đồng Xoài, Đường 9 Khe Sanh rồi giải phóng Tây Nguyên, nhất là cuộc đại thắng mùa xuân năm 1975 cả nước thu về một mối, mở ra một kỉ nguyên mới là kỉ nguyên độc lập tự do cho dân tộc. Tất cả đang háo hức đợi chờ, muốn xem các nhà văn, nhà thơ phản ánh cuộc kháng chiến thần thánh và oai hùng đó. Với những con người dũng cảm và những trận đánh mưu lược tài tình như thế nào thì nhà văn lại viết ra một câu chuyện như thế này:

Kiên, một nhà văn của phường, sống độc thân vừa điên điên vừa dị bợm, vừa buồn thảm như là ngọn đuốc của tà ma. Cùng ở áp mái có chị đàn bà câm. Kiên nghiện rượu và thường xuống phố uống cà phê rồi về phòng với ngọn đèn khuya nhớ lại những kí ức thời đi lính của mình, cả những chuyến đi thu thập hài cốt đồng đội. Qua chuông gọi hồn, đèo Thăng Thiên, đồi Xẻo Thịt, hồ Cá Sấu… những kỉ niệm bi thảm, chua chát, buồn ngắt hãi hùng, những hồn ma rách nát, những cảnh bắn giết rùng rợn tàn khốc lần lượt hiện ra. Một mái nhà lợp bằng thây ma, cái chết đau đớn, vật và của Quảng. Cái chết thê thảm của Cam, của Thịnh (lính đào ngũ) thật thảm khốc và rùng rợn… cả những khi nạn nghiện hồng ma và nạn đào ngũ lan rộng khắp trung đoàn (trang 22). Cuốn truyện còn kể về mối tình đầu của Kiên với Phương, cô gái sát vách nhà 17 tuổi tiễn Kiên ra trận bị bom họ lạc vào ngôi trường bỏ hoang gần thị xã Thanh Hóa. Phương bị một tốp người xấu hãm hiếp, hai người chia tay trong đau đớn và tuyệt vọng. Rồi kí ức đưa Kiên về với cô gái làm tiền, cô gái phế binh và những đồng đội đã ngã xuống thật thảm thương và chua xót…

Đành rằng ở nơi nọ, chốn kia những chuyện này là có thật vì chiến tranh là mất mát, là đau thương. Nhưng đây là chiến tranh vệ quốc. Hiện tại và muôn đời sau, con cháu vẫn luôn tự hào về hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đầy kiêu hãnh này vậy moi móc chuyện đau thương, mất mát để làm gì, nếu không phải là có cái tâm đầy ác ý.?

Văn học nghệ thuật tôn vinh vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của cuộc sống. Hiện nay cái ác vẫn tồn tại và song hành cùng cái thiện. Văn chương, góp phần lấy cái đẹp để dẹp cái xấu. Chân-thiện-mỹ là cái đích muôn đời mà các nhà văn, nhà thơ phải hướng tới. Trí tuệ minh mẫn, tầm nhìn sáng suốt, bộ lọc tinh nhậy, lao động miệt mài (như con tằm rút ruột) cùng với cái tâm trong sáng và con tim nhân ái, bao dung… là những điều tối cần thiết mà các nhà sáng tác muốn làm nên những tác phẩm văn thơ hay mong để lại cho đời.

Có ý kiến cho rằng chúng ta đừng thấy Victor Hugo, Honoré de Balzac, Lev Tolstoy, Shakespeare, Sholokhov… những nhân tài đó mà sợ. Họ làm nên những ngọn núi kì vĩ về văn chương thì ta, chúng ta cũng có thể làm nên những hòn núi thấp, mỏm đồi nhỏ, tảng đá hay hòn sỏi con cũng được. Miễn là những sáng tác đó phải đẹp và phải có ích.

 

MỜI NHẤP CHUỘT ĐỌC THÊM:

- Chuyện vụn ngày đầu năm 2024l

- Đọc Nguyễn Xuân Dương bình thơl

- Yếu tố đồng tính trong thơ Đỗ Anh Tuyếnl

- Thơ Trần Đức Tín - Vài trao đổi với Vũ Thị Hương Mail

- Thầy phong thủy Bùi Đồng và những comment bình thơl

- Chuyện về thầy xem tướng Bùi Cao Thếl

- Một chút tâm sự khi đọc thơ Nguyễn Tuyểnl

- Về phong cách bình thơ của Châu Thạchl

- Nguyễn Hoàng Đức qua mấy bài viết tôi đã đọcl

- Đọc Đỗ Hoàng “cảm” Nguyễn Bình Phươngl

- “Tưng tửng” 7 chuyện cùng Nguyễn Đăng Hànhl

 


Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ NGẠO MÌNH:

Nguyễn Văn Thơ giới thiệu

Tác giả: Tất Thọ - nguồn: baohalong

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét