PHONG, LAO, CỔ, LẠI
THỰC SỰ LÀ NHỮNG BỆNH GÌ
“Phong, lao, cổ, lại”
từ xưa được cho là “tứ chứng nan y”, hiện có nhiều cách giải thích không thống
nhất.
Cách hiểu được số đông chấp nhận là 4 bệnh khó chữa lành theo
quan niệm của y học cổ, gồm:
(1) Phong: tức là bệnh cùi, còn gọi là bệnh phung hay bệnh hủi;
(2) Lao: ho lao, bệnh lao phổi;
(3) Cổ: xơ gan cổ trướng;
(4) Lại: tức là ung thư.
Trong đó, có hai bệnh đã được y học ngày nay chữa lành là phong
và lao.
Để minh chứng cho cách giải thích trên, người ta đã đưa ra câu
nói dân gian: “Phong, lao, cổ, lại; tứ chứng nan y, thầy thuốc bỏ đi, trống kèn
kéo tới”. Có nghĩa là 4 bệnh không chữa được, thầy thuốc “bó tay”, chỉ có chết.
Nhưng LẠI được cho bệnh ung thư thì quá mới, ung thư không phải
là chứng bệnh trong y học cổ truyền.
Trang bachkhoatrithuc.vn giải thích có khác chút:
“Tứ chứng nan y (thành
ngữ): Bốn bệnh được cho là nguy hiểm nhất, rất khó chữa trị mà y học trước đây
dường như phải bó tay: Phong (hủi), lao, cổ (viêm gan cổ trướng), lị”.
Trang này chỉ nêu “lị”
mà không giải thích đó là bệnh gì.
Tra từ điển Hán Việt thì thấy: Lị 痢 (danh từ) là “bệnh lị, ruột nhiễm trùng, làm bụng quặn
đau, tháo dạ đi rửa, phân có máu nếu bệnh nặng”. Nếu thế thì bệnh lị đâu
phải là nan y!?
Từ điển cũng không có từ LẠI nào có nghĩa là bệnh ung thư như
giải thích của số đông nói trên. Đáng chú ý là có từ LẠI 癩 cũng viết là 厲 nghĩa
là BỆNH HỦI.
Sách Sử ký, ở phần Dự Nhượng truyện có câu:
“Dự Nhượng hựu tất thân vi
LẠI, thôn thán vi ách, sử hình trạng bất khả tri”
(豫讓又漆身為厲, 吞炭為啞, 使形狀不可知),
Nghĩa là:
Dự Nhượng lại bôi sơn vào mình làm như người BỆNH HỦI, nuốt than
cho mất tiếng, để khỏi ai nhận ra hình tích của mình.
Đại thi hào Nguyễn Du làm bài thơ:
豫讓橋匕首行
Dự Nhượng kiêu chủy
hành
(Bài hành về chiếc gươm ngắn cầu Dự Nhượng)
其臣豫讓身當之
Kì thần Dự Nhượng thân
đương chi
(Bề tôi là Dự Nhượng đem thân gánh vác việc ấy)
漆身爲癩剔鬚眉
Tất thân vi LẠI dịch tu
mi
(Sơn mình làm người HỦI, cạo râu mày)
Trong tứ chứng phong, lao, cổ, lại thì PHONG (theo cách giải
thích nói trên) có nghĩa là bệnh hủi rồi, giờ thêm LẠI cũng có nghĩa là bệnh
hủi nữa. Người xưa liệt kê tứ chứng mà thực tế chỉ có tam chứng thôi, bị trùng
lặp rồi !
“PHUNG” VÀ “PHONG” TRONG
CÁCH GỌI
Theo Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người Việt gọi bệnh này
là cùi, hủi, phung, phung cùi, phung hủi (xem: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895,
tome I: tr. 202, 451; và 1896, tome 2: tr. 210).
Về nguồn gốc từ điển, “phung” xuất phát từ tiếng Việt cổ, dùng
để chỉ một trong những căn bệnh truyền nhiễm có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch
sử y học và văn hóa Việt Nam. Từ “phung” phổ biến ở miền Trung, trong khi ở
miền Bắc gọi là “bệnh hủi” và miền
Nam gọi là “bệnh cùi”.
Như thế, căn cứ vào những điều dẫn trên, gọi cùi, hủi, PHUNG là
theo tiếng Việt (hay Nôm).
Trong quá trình giao tiếp với người Việt, người Hoa biến âm
PHUNG thành PHONG, họ gọi bệnh này là MA PHONG BỆNH 麻风病 /Máfēng bìng/ là bệnh “phung hủi” “phung cùi”
Trong đó:
- MA 麻 : Mất hết cảm giác, tê dại, tê liệt.
- PHONG 风 (giản thể của chữ 風):
Nghĩa là GIÓ, bệnh do gió và sự nhiễm nước gây ra.
中風 trúng phong tức là trúng gió, bệnh cảm gió;
Mặc dù “ma phong bệnh”
theo cách gọi của người Hoa là bệnh phung, bệnh cùi, bệnh hủi. Nhưng chữ PHONG 风
(giản thể) hay chữ PHONG 風 (phồn thể) vẫn có nghĩa chính là GIÓ.
Các sách mới của người Hoa ghi nghĩa của chữ “phong” này là “bệnh đầu phong” tôi tra tìm về nghĩa, không thấy có từ điển Hán
Việt nào giải thích, chỉ có trí tuệ nhân tạo AI cho biết “bệnh đầu phong” là “bệnh
phong cùi”. Như thế thì với nghĩa mới này thì đây chỉ là nghĩa phát sinh
sau này, chứ không có trong từ điển cũ.
Từ kép “phong hủi”, “phong cùi” hình thành bời hai từ đơn,
ghép Hán (phong) với Việt (hủi hoặc cùi).
Như thế, PHUNG cùi, hũi là những từ gốc tiếng Việt bỗng dưng
được “Hán hóa” thành PHONG, rồi được sử dụng phổ biến như một “tập quán ngôn ngữ” để chỉ bệnh PHUNG
cùi, hũi. Hễ nhắc đến bệnh PHONG là nói đến bệnh cùi, bệnh hũi.
Trong khi PHONG là một căn bệnh xưa mà chữ Hán ghi là bệnh ĐIÊN.
Tra từ điển về chữ PHONG và chữ LẠI, cùng các điển tích về những
chữ này:
PHONG 瘋: điên rồ
“Na tăng tắc LẠI đầu tiển
cước, na đạo tắc bả túc bồng đầu, PHONG PHONG điên điên, huy hoắc đàm tiếu nhi
chí”
那僧則癩頭跣腳, 那道則跛足蓬頭, 瘋瘋癲癲, 揮霍談笑而至
“Nhà sư đó thì đầu LỠ LÓI, đi chân
đất, vị đạo sĩ thì chân khập khiễng đầu bù, KHÙNG KHÙNG điên điên, vung vẩy cười
cười nói nói mà đến”.
(Hồng Lâu Mộng 紅樓夢)
Các từ điển định nghĩa về PHONG với nghĩa là ĐIÊN gồm:
PHONG 瘋
U+760B, tổng 14 nét, bộ nạch 疒 (+9 nét), phồn thể, hình thanh
PHONG 疯
U+75AF, tổng 9 nét, bộ nạch 疒 (+4 nét), giản thể, hình thanh
Từ điển Thiều Chửu: Ðiên rồ (bệnh thần kinh nặng).
Từ điển Trần Văn Chánh: Bệnh điên
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng: Bệnh nổi điên. Điên rồ.
Một số từ ngữ nói về PHONG với nghĩa là ĐIÊN như:
瘋狂 Phong cuồng: bệnh điên
瘋和尚 Phong Hòa Thượng: ông sư điên
瘋狂大師 Phong Cuồng Đại Sư : Nhà sư điên
Một số từ điển Hán Việt ghi về bệnh “phong” nhưng là những căn
bệnh thông thường không phải là NAN Y:
- PHONG 風 (còn đọc là phúng, danh từ) là bệnh phong:
+ Là “bệnh phong thấp”
風溼 bệnh nhức mỏi (đau khớp xương khi khí trời ẩm thấp),
+ Là “bệnh phong hàn” 風寒 “bệnh cảm lạnh, cảm mạo”
- Chứng cảm gió gọi là trúng phong 中風.
- Thống phong 痛風 còn gọi là bệnh gút ((bệnh gout).
LẠI 厲 (một âm là Lệ)
U+53B2, tổng 14 nét, bộ hán 厂 (+12 nét), phồn thể, hình thanh
Từ điển Trần Văn Chánh
Bệnh hủi (như 癩, bộ 疒).
Từ điển Nguyễn Quốc Hùng
Bệnh hủi (cùi) - Bệnh rụng tóc - Bệnh khó chữa trị (nan y).
LẠI 癞
U+765E, tổng 18 nét, bộ nạch 疒 (+13 nét), giản thể, hình thanh
Từ điển phổ thông
1. bệnh hủi
2. bị hói đầu
Từ điển Trần Văn Chánh. Như 癩
LẠI BỆNH 癩病: Bệnh hủi, bệnh cùi
* *
*
Trang web Tạp chí Sức Khỏe của y học hiện đại có bài viết của Phó
Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Bay (Nguyên Trưởng bộ môn Bệnh học, Khoa Y
học cổ truyền, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh)
TRÍCH:
“Trong dân gian có câu mọi người thường nói mỗi khi gặp ai mắc
một trong bốn chứng bệnh Phong - Lao - Cổ - Lại, là tứ chứng nan y, thuộc loại
khó trị. Quan niệm Xưa và Nay khác nhau như thế nào?
Về mặt chiết tự và ngữ
nghĩa theo xưa
Phong là gió. Khi Khí huyết suy yếu, tinh thần mệt mỏi, gió độc
trúng vào làm méo mồm, mắt xếch, cấm khẩu, tê run, bại xuội, bán thân bất toại.
Theo mô tả này thì đây là Đột quỵ hay Tai biến mạch máu não của ngày nay.
Lao là hao mòn, nhọc mệt. Vì khó nhọc quá, lao tâm lao lực quá,
hao mòn khí huyết xương thịt, làm cho mỗi ngày một cơn nóng âm, ho đàm, ho bọt,
toát mồ hôi,... Trong đó phân ra dương lao, âm lao và trùng lao.
Cổ là cái trống, bụng to như cái trống. Bởi tửu sắc quá độ, ẩm
thực không chừng mực làm cho tỳ vị hư nhược, những chất ăn vào không làm ra
dưỡng chất nuôi thân thể, tích kết lại ở trong bụng rồi biến ra nước làm bụng
to như cái trống, dần dần sưng mặt, sưng tay chân, sưng phù cả thân thể.
Lại là bệnh cùi. Bởi ngoài cảm phong độc, thấp độc, nhiệt độc,
trong ăn uống nhiều chất lạ chất độc, phòng dục ô uế hay chung chạ truyền nhiễm
mà phát. Triệu chứng: trước ngứa khắp thân thể, sau cào gãi da rộp trắng hay đỏ
tím như phát ban, lâu ngày da chết, cào không biết nhột, thịt chết cắt không
biết đau; gân chết tay chân buông thoải; xương chết rụng dần các đốt, sống mũi
mòn dần, lông mày rụng, mắt mờ, tiếng nói khan,...
Tương quan bệnh cảnh
ngày nay
Theo mô tả các triệu chứng bệnh của tứ chứng, chúng ta có thể
hình dung các bệnh cảnh của Tây Y theo trình tự trên như sau:
- PHONG: Đột quỵ hay Tai biến mạch máu não là hậu quả của nhiều yếu tố nguy cơ và bệnh lý khác nhau có liên quan đến tim mạch và chuyển hóa, như tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, tăng mỡ máu, đái tháo đường,... Đột quỵ gây ra yếu hoặc liệt nửa người, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, dù đây là loại bệnh lý được Y tế thế giới cảnh báo là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế, nhưng ngày càng được nghiên cứu sâu sắc từ điều trị, đến phục hồi vận động, cũng như bằng phối hợp với các phương tiện truyền thông, giúp cho người bệnh hiểu và quan tâm chăm sóc sức khỏe bản thân để nhận biết sớm, đề phòng và điều trị. Có thể nói ngày nay, bán thân bất toại không còn là bệnh nan y nữa.
- LAO với quan niệm xưa có thể tương quan ngày nay là bệnh Lao
do vi trực khuẩn Mycobacterium tuberculosis và cả suy nhược mạn tính. Cả hai
bệnh này dù khó, nhưng vẫn có thể được chữa khỏi. Lao có thể được chữa bằng
nhiều phác đồ phối hợp các thuốc kháng lao tùy thuộc vào mức độ khởi bệnh cũng
như cơ địa của mỗi người. Và suy nhược mạn tính, phối hợp từ các phương pháp
dùng thuốc và không dùng thuốc đồng thời với sự tuân thủ luyện tập của người
bệnh, cũng không còn là bệnh nan y.
- CỔ, tương quan là bệnh Xơ gan cổ trướng, hay xơ gan mất bù của
Tây y, đây là giai đoạn nặng của xơ gan, tế bào gan gần như xơ hóa hoàn toàn.
Cho đến nay vẫn là bệnh nan y, khoa học chỉ có thể giúp giải quyết tạm thời các
triệu chứng, hoặc hãn hữu có điều kiện ghép tạng thay gan thì bệnh nhân mới có
thể duy trì sự sống.
- LẠI tương quan với bệnh Phong. Nếu nhà thơ Hàn Mạc Tử sống ở
thời đại ngày nay thì ông đã không chết trẻ, xã hội không mất một nhà thơ tài
hoa, đời còn có thêm những tác phẩm bất tử làm phong phú đời sống tinh thần cho
các thế hệ, vì ngày nay đã có thuốc trị Phong. Người bệnh hòa nhập với xã hội
và sống cuộc sống bình thường vì được chữa trị và phòng bệnh đúng mức.
Vậy thì trong - tứ chứng nan y - chỉ còn Cổ trướng hay xơ gan
mất bù là nan trị.”
Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Bay
(Nguyên Trưởng bộ môn Bệnh học, Khoa Y học cổ truyền,
Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh)
https://suckhoeonline.net.vn/tu-chung-nan-y-quan-niem-xua-va-nay
Như vậy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thị Bay đã công
nhận “Về mặt chiết tự và ngữ nghĩa theo
xưa” ‘LẠI LÀ BỆNH CÙI’.”
Tuy nhiên khi đối chiếu với “Tương quan bệnh cảnh ngày nay”, Bác
sĩ Nguyễn Thị Bay còn sa vào “tập quán ngôn ngữ” khi diễn đạt: “LẠI tương quan với bệnh Phong. Nếu nhà thơ
Hàn Mạc Tử sống ở thời đại ngày nay thì ông đã không chết trẻ, xã hội không mất
một nhà thơ tài hoa, đời còn có thêm những tác phẩm bất tử làm phong phú đời
sống tinh thần cho các thế hệ, vì ngày nay đã có thuốc trị Phong.”
Tức là theo cách diễn đạt trên của Bác sĩ Bay thì PHONG (bệnh của
nhà thơ Hàn Mạc Tử chính là bệnh CÙI chứ không phải PHONG là “Đột quỵ hay Tai
biến mạch máu não” như chính Bác sĩ Bay đã giải thích)
Chúng tôi không đồng ý với Bác sĩ Bay khi bà cho rằng PHONG một trong “tứ chứng nan y” ngày xưa là “Phong là gió. Khi Khí huyết suy yếu, tinh thần mệt mỏi, gió độc trúng vào làm méo mồm, mắt xếch, cấm khẩu, tê run, bại xuội, bán thân bất toại” dẫn tới “Tương quan bệnh cảnh ngày nay
- PHONG
"Đột quỵ hay Tai biến mạch máu não là hậu quả của nhiều yếu tố
nguy cơ và bệnh lý khác nhau có liên quan đến tim mạch và chuyển hóa, như tăng
huyết áp, thiếu máu cơ tim, tăng mỡ máu, đái tháo đường,..” (bài viết của Bác sĩ Bay)
Theo chúng tôi, chứng cảm gió hay trúng phong 中風 chỉ là hiện tượng chứ không phải là căn bệnh và hậu quả của chứng trúng gió nếu nặng thì gây ra đột quỵ liên quan đến “tai biến mạch máu não” “nhồi máu cơ tim” những bệnh lý của y học hiện đại.
Liên hệ đến trang sử nước nhà:
“Tháng 10 năm 1210, Lý Cao
Tông băng hà. Thái tử Sảm nối ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Trong thời gian trị vì,
ông còn phải chứng kiến cuộc xung đột trong nội bộ hoàng tộc giữa một bên là mẹ
(Đàm Thái hậu) và vợ (Trần Thị Dung). Đặc biệt, vua lại mắc bệnh nặng. Ban đầu
vua mắc bệnh TRÚNG PHONG vào cuối năm Bính Tý (1216), thầy thuốc giỏi trong cả
nước được gọi đến nhưng không thể chữa khỏi cho ông.
Tháng 3 năm Đinh Sửu
(1217), Lý Huệ Tông phát ĐIÊN, nhiều lúc tự xưng là Thiên tướng giáng trần, tay
cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc và múa hát:
Ta đây là tướng nhà
trời,
Hôm nay giáng thế cho
người sợ oai.”
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lý_Huệ_Tông
Vậy, Lý Huệ Tông TRÚNG PHONG có lẽ không phải vua bị trúng gió
(tai biến mạch máu não hoặc nhồi máu cơ tim) mà vua BỊ ĐIÊN.
TRÚNG GIÓ “đột quỵ” là triệu chứng của hay hậu quả của “tai biến mạch máu não”, hay của “nhồi máu cơ tim” những căn bệnh do y học
hiện đại phát hiện ra chứ không là căn bệnh nan y trong y thư cổ xưa...
NÓI TÓM LẠI:
“Phong, lao, cổ, lại” từ xưa được cho là “tứ chứng nan y”, căn cứ chữ nghĩa trên y thư cổ hay trên từ điển
thì
PHONG 疯, LAO 痨, CỔ 臌, LẠI 厲
“PHONG” 瘋 chữ Hán có nghĩa là bệnh điên; “LẠI” 厲 mới là bệnh
phung (cùi). Theo Đông y xưa: “Phong,
lao, cổ, lại tứ chứng nan y” nghĩa là có 4 chứng nan y là điên, lao, cổ
trướng, và phung (cùi).
Theo Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người Việt gọi bệnh này
là cùi, hủi, phung, phung cùi, phung hủi (xem: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895,
tome I: tr. 202, 451; và 1896, tome 2: tr. 210).
Về nguồn gốc từ điển, “phung”
xuất phát từ tiếng Việt cổ, dùng để chỉ một trong những căn bệnh truyền nhiễm
có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử y học và văn hóa Việt Nam. Từ “phung” phổ biến ở miền Trung, trong khi
ở miền Bắc gọi là “bệnh hủi” và miền
Nam gọi là “bệnh cùi”.
Như thế, căn cứ vào những điều dẫn trên, gọi cùi, hủi, PHUNG là
theo tiếng Việt (hay Nôm).
Trong quá trình giao tiếp với người Việt, người Hoa biến âm
PHUNG thành PHONG, họ gọi bệnh này là MA PHONG BỆNH 麻风病 /Máfēng bìng/ là bệnh “phung hủi” “phung cùi”
Sở dĩ ta hay nhầm PHONG là bệnh cùi, bệnh hũi là do tập quán
ngôn ngữ, do đa số dùng quen và ăn sâu vào nếp nghĩ trở thành định kiến.
Vài dòng lạm bàn, mong anh chị em cùng góp ý...
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
chăm sóc sức khỏe0
- Các bài viết về
kiến thức cuộc sống0
- Các bài viết về
chuyện làng văn0
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Kim Yến đọc
truyện ngắn
“CÔ” VƯƠNG CƯỚI VỢ của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
LA THỤY (tên thật: Đoàn Minh Phú)
Địa chỉ: 79-1/8 Hoàng Hoa
Thám, Phước Hội,
thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận
Email: phudoan56@gmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 04.06.2025.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét